
150
GIÁO DỤC MỞ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Vũ Gia Hiền1
Email: vugiahien@yahoo.com
Tóm tắt: Giáo dục mở có sự đối lập là giáo dục khép kín (giáo dục đóng). Giáo dục
khép kín ra đời từ nền giáo dục thống trị (giáo dục ngu dân) trong xã hội phong kiến và xã
hội tư sản. Cuộc cách mạng giáo dục mở đã phá tan nền giáo dục khép kin đưa giáo dục đến
với người lao động, đặc biệt là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, song khi xã hội còn có giai
cấp thì việc giáo dục mở còn phải tiếp tục đấu tranh với giáo dục tư sản, tư bản, vì thế giáo
dục mở ngày nay là một cuộc cách mạng đem đến cho mọi người có quyền học tập không
phân biệt giai cấp, đối tượng học tập. Đây là vấn đề mà các trường đại học mở gặp khó
khăn trong thực tiễn của sự cạnh tranh với hệ thống giáo dục khép kín.
Từ khóa: Giáo dục mở, Giáo dục khép kín, Cách mạng giáo dục.
Giáo dục mở là vấn đề đang được xã hội quan tâm, đây là vấn đề mới còn nhiều khía
cạnh cần làm sáng tỏ. Về khái niệm giáo dục mở cũng là vấn đề còn tranh luận về thuật ngữ
mô tả “Thế nào là giáo dục mở?”, “Hệ thống giáo dục mở được thiết kế thế nào?”, “Bản chất
giáo dục mở là gì?”…. Đặc biệt là vấn đề nguồn học liệu giáo dục mở trong thời kỳ tôn trong
Luật bản quyền trong môi trường học tập còn mang tính cạnh tranh với nhiều hình thức khác
nhau,….. Đây là những vấn đề cần được làm sáng tỏ.
I. Bản chất và lịch sử giáo dục mở
Giáo dục mở có bản chất đối lập với giáo dục cho một nhóm người, có thể gọi là giáo
“đóng”. Giáo dục “đóng” xuất phát từ việc giáo dục khép kín nhằm dạy cho một số ít người
thuộc tầng lớp thống trị (vua, chúa) trong xã hội phong kiến và con cháu tư sản trong xã hội
tư bản, họ giữ kiến thức (tri thức) dành cho giới quyền lực thống trị, nhóm tinh hoa và người
có tiền. Thời kỳ này những người có học đều giữ quyền lực thống trị và sử dụng kiến thức
(tri thức) nhằm cai quản xã hội hoặc nắm giữ khoa học kỹ thuật trong chế độ thống trị đi
suốt lịch sử nhân loại, cho đến nay vẫn còn là cuộc đấu tranh về “tri thức dành cho ai?”. Để
phá vỡ giáo dục giới hạn, giáo dục phục vụ xã hội thống trị là cả quá trình phát triển nhân
loại. Như vậy về bản chất giáo dục mở là giáo dục cách mạng phá vỡ “quyền lực giáo dục”
của xã hội thống trị sử dụng giáo dục làm công cụ “ngu dân” đối với nhân dân lao động và
là giáo dục “tinh hoa” cho những người thuộc tầng lớp giàu có, thống trị xã hội, chia xã hội
thành hai nhóm người, đó là “dân đen” và “tầng lớp tinh hoa” đối lập nhau kéo dài suốt trong
lịch sử nhân loại đã hình thành sự đối lập giữa phổ biến kiến thức do yêu cầu phát triển xã
hội và phục vụ sự thống trị đã dẫn đến cuộc cách mạng mà thành giáo dục mở nhằm mở rộng
1 Trường Cao Đẳng Khoa Học-Công Nghệ TP.HCM

151
tri trức trong cộng đồng, kiến thức lao động phổ biến, tuy nhiên nó gặp trở ngại do một bộ
phận kiến thức nào đó thuộc bản quyền hoặc nhằm phục vụ tầng lớp thống trị nên rất giới
hạn, không dạy ra bên ngoài (giáo dục đóng) vẫn chi phối phần lớn giáo dục ở bậc cao trên
thế giới vì thế cuộc cách mạng giáo dục mở vẫn đang tiếp tục.
Cuộc cách mạng giáo dục mở bắt đầu từ Trung Quốc mà người khởi xướng là Khổng
Tử. Trước Khổng Tử giáo dục chỉ dạy cho con cháu các quan lại để nhóm này sử dụng trí
thức nhằm mục đích thống trị xã hội lâu dài. Khổng Tử con nhà nghèo không được vào lớp
học, qua cửa sổ lớp học ông học “lóm” bằng việc viết trên đất ướt và cát, bài nào thuộc ông
xóa đi và cứ thế ông đã tiếp thu được kiến thức của “giáo dục đóng”. Sau khi có kiến thức
đầy đủ ông mở trường tư tại nhà mình để dạy cho những con em nhà nghèo, từ đó xuất hiện
tầng lớp trí thức mới nhờ tự học và tự mở trường học, ta gọi là giáo dục mở cổ đại.
Cuộc cách mạng giáo dục mở ở tầm toàn cầu là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do
Các Mác, Ph. Ăng-ghen và Lê-nin khởi xướng trên nền tảng thế giới quan duy vật biện chứng
và nhân sinh quan của giai cấp công nhân đã giải phóng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa tư
bản đưa con người vào vị trí cao nhất của thế giới tự nhiên, chịu trách nhiệm với hành vi của
mình thay cho “ý muốn của Chúa”, “ý muốn của Thần…”, mở ra nền giáo dục của con
người, do con người chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, cuộc cách mạng giáo dục mở của chủ
nghĩa Mác – Lê-nin quá lớn và quá mới nên không phải ai cũng hiểu, vì thế nó còn phải tiếp
tục đem tri thức mở về thế giới quan duy vật và cuộc đấu tranh giai cấp đến với giáo dục mở
hiện đại là nhiệm vụ của chúng ta.
Ở Việt Nam do ngôn ngữ chỉ có tiếng nói , không có chữ viết, muốn có chữ viết Lê
Tư Thành tức vua Lê Thánh Tông phải sáng tạo chữ viết cho dân tộc, ông lập ra Tao Đàn
tức là nơi bàn luận lập ra chữ Nôm. Lê Tư Thành đưa ra phương pháp nếu một người đưa ra
vế đối bằng chữ Hán thì người khác phải đáp lại bằng chữ Nôm và ngược lại, cứ như thế Hội
Tao Đàn đã sáng tạo ra chữ Nôm có gốc từ chữ Hán, hình thành được Bộ Từ Điển chữ Nôm
cho đến nay, song chữ Nôm cũng đầy thăng trầm. Nguyễn Ánh lên vua đã bỏ chữ Nôm quay
về chữ Hán. Pháp vào xâm lược đã xóa cả chữ Nôm và chữ Hán, sử dụng tiếng Pháp để cai
trị và phát triển hệ chữ La Tinh thành chữ Việt, hình thành Quốc ngữ ngày nay. Đáng tiếc
lịch sử sáng tạo chữ Nôm không được chế độ nhà Nguyễn ghi lại, vì thế cuộc cách mạng
giáo dục mở nhằm thoát ra khỏi hệ thống Nho giáo không còn được nhắc tới.
Năm 1941, khi Hồ Chí Minh thành lập Mặt trận Việt Minh, Người đã đưa ra chủ
trương Bình dân học vụ phổ biến về chủ nghĩa xã hội, sử dụng chữ Tây để đánh Tây, đây
chính là cuộc cách mạng giáo dục mở ở Việt Nam lần thứ hai. Những người nông dân vốn
không biết chữ , qua Bình dân học vụ đã biết đọc biết viết và phổ biến kiến thức cách mạng,
nhờ đó tinh thần yêu nước được nhân ra rộng rãi chỉ trong thời gian rất ngắn.
Giáo dục mở khẳng định con người vượt lên chính mình và xã hội là do giáo dục chứ
không phải “ý Chúa”, “ý Trời”… xác định các vấn đề phổ biến quan trọng phải học, thu

152
nhận kiến thức qua kinh nghiệm giáo dục giúp rút ngắn thời gian trải qua kinh nghiệm cá
nhân bằng học tập mở so với thuần túy sách vở, và người học tự chịu trách nhiệm về các
quyết định giáo dục cho họ; hiểu mối quan hệ giáo dục với cộng đồng và tự lựa chọn những
vấn đề cần tập trung khi học ở lớp và xã hội. Nói tóm lại Giáo dục mở là giáo dục hướng
đến quần chúng nhân dân, đến số đông mang bản chất cộng đồng trên nền tảng xóa mù chữ,
xóa mù nghề và xóa bỏ giai cấp đã được chủ nghĩa Mác – Lê-nin khẳng định.
II. Sự phát triển của giáo duc mở trong giai đoạn hiện nay
Giáo dục mở mặc dù đã có từ hơn hai ngàn năm trước và chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã
thực hiện trong thực tiễn, nhưng thuật ngữ “Giáo dục mở” mới có gần đây và người ta cho
rằng: Giáo dục mở là hệ thống giáo dục được thiết kế để mở rộng sự tiếp cận việc học tập so
với giáo dục chính quy (truyền thống, thông thường) bằng nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh sự phát triển nguồn học liệu giáo dục mở (trên nền tảng công nghệ hiện đại) trong
mọi môi trường học tập với nhiều hình thức khác nhau và thông tin cho rằng cội nguồn xuất
phát từ Vương quốc Anh đã thành lập Đại học mở dựa trên bốn nguyên tắc cốt lõi: “mở cho
người học, mở về địa điểm, mở về phương pháp và mở về ý tưởng” (open to people, open to
places, open to methods, open to ideas). Tính chất mở nói trên nhấn mạnh sự linh hoạt của
hệ thống, giảm thiểu những rào cản với người học gây nên bởi tuổi tác, địa điểm, thời gian
và tình trạng kinh tế. Với sự phát triển của giáo dục mở , một số đại học mở bổ sung thêm
nguyên tắc “mở về chương trình học” (open curriculum) tức là cho phép người học tự thiết
kế chương trình học dẫn đến “văn bằng mong muốn”, những quan niệm này chưa nêu lên
được bản chất giáo dục mở, tuy nhiên nó đã khơi dậy cho chúng ta đi tìm bản chất giáo dục
mở đã nói ở trên.
Giáo dục mở được thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội do một bên là người học và một bên
là người phổ biến: người học có yêu cầu và nhu cầu kiến thức để phát triển bản thân, còn
người dạy có yêu cầu và nhu cầu phổ biến các chương trình có bằng cấp và sự tồn tại của
trường. Nói tóm lại, yêu cầu và nhu cầu giáo dục trong thực tiễn và các công cụ giáo dục
đáp ứng được việc phổ biến chương trình từ người dạy đến người học và từ người học đến
người dạy không nhất thiết khép kín trong lớp học tạo ra “Hệ thống mở” giữa dạy và học.
Cơ sở nhận thức này đã từng được nhà cải cách giáo dục John Dewey (1859 – 1952) và nhà
tâm lý học phát triển Jean Piaget (1896 – 1980). Dewey tin ở hiệu quả của quá trình học
thông qua tư duy giải quyết quá trình thực tiễn và quan niệm nhà trường phải là xã hội thu
nhỏ, gắn chặt với cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Còn theo Piaget, người học chính
là kiến trúc sư của sự tăng trưởng tri thức của mình. Như vậy chẳng những giáo dục phải mở
để nhiều người có thể tiếp cận, mở để người học có thể chủ động tham gia quá trình giáo dục
và còn phải mở để giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Khi dự báo phát triển của giáo dục thế kỷ XXI, Hội đồng quốc tế và Giáo dục của
UNESCO do Jacques Delors chủ trì đã khẳng định: “Học tập suốt đời nổi lên như là một

153
trong các chìa khóa mở cửa đi vào thế kỷ XXI”. Hội đồng cũng đã nêu một ý tưởng quan
trọng khác : “Cần phải tiến tới một xã hội học tập” . Với ý tưởng về học tập suốt đời và xã
hội học tập, tính phổ quát của ý tưởng giáo dục mở đã được nâng lên, làm cho khái niệm đó
có phần tiếp cận với bản chất giáo dục mở đã nói ở trên tác động đến hệ thống giáo dục hiện
nay phải vươn tới. Các khái niệm về học tập suốt đời, giáo dục cho mọi người và xã hội học
tập đã nhấn mạnh vai trò học tập của con người trong sự tiến bộ của bản thân và xã hội là do
giáo dục quyết định, song sự giới hạn của xã hội trong xã hội còn có giai cấp, có sự cạnh
tranh đang cản trở sự phát triển của giáo dục mở.
Nói đến giáo dục mở không thể không nhắc đến sự kết nối giữa tư tưởng của giáo
dục mở và phương pháp luận của học tập từ xa (distance learning) thành một hệ thống giáo
dục hết sức mềm dẻo và có hiệu quả cao : Giáo dục mở và từ xa (open and distance learning)
(ODL – GDM & TX). Ngày nay chúng ta càng thấy rõ khi hệ thống điện tử, kỹ thuật số phát
triển trên toàn cầu càng chứng minh giáo dục từ xa là một bước phát triển mới đó là lớp học
không cùng lúc mở ra nền giáo dục mở toàn diện trong tương lai của nhân loại.
Sự phát triển giáo dục không cùng lúc được thực hiện bởi giáo dục sử dụng dữ liệu
“đám mây”, “kỹ thuật số”… được tiêu chuẩn hóa. Theo công nghệ viễn thông được chuẩn
bị từ trước chỉ chờ người học có mã số là tiếp cận được. Công nghệ kỹ thuật số, công nghệ
đám mây tạo cơ hội tăng khả năng tiếp cận giáo dục, vừa thỏa mãn nhu cầu lên lớp học bất
cứ lúc nào người học sắp xếp được thời gian và bất cứ bậc học nào, đặc biệt là chương trình
không dẫn đến văn bằng tạo ra cơ hội cho cuộc cách mạng giáo dục mở như đã nói ở trên.
III. Tương lai giáo dục mở
Chúng ta biết xã hội khi còn giai cấp, còn cạnh tranh thì giáo dục mở sẽ bị giới hạn
trong sự tồn tại của xã hội đó. Thuật ngữ Giáo dục mở mới xuất hiện từ đầu thế kỷ XX và
phát triển mạnh mẽ vào thập niên 70. Vào thời điểm này nhiều nhà giáo dục cảm thấy sự hạn
chế của giáo dục truyền thống (giáo dục khép kín), muốn thay đổi, để mọi người dễ tiếp cận
với giáo dục. Trên nền tảng quan điểm này , trường đại học mở đầu tiên trên thế giới đã ra
đời vào năm 1969 tại Anh (UK OU). Đại học này hoạt động dựa trên 4 nguyên tắc cốt lõi :
mở cho người học, mở về địa điểm, mở về phương pháp và mở về ý tưởng. Từ mô hình UK
OU đến nay trên thế giới có hơn 50 trường đại học mở lớn nhất, đặc biệt ở khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương như :Đại học mở Trung Quốc thành lập năm 1979, hiện có 3,59 triệu
sinh viên (trong đó gồm có 200 nghìn nông dân, 100 nghìn quân nhân và nhân viên quốc
phòng, 600 người khuyết tật); Đại học mở Indira Gandhi (Ấn Độ) thanh lập năm 1985 với
khoảng 3,5 triệu sinh viên, và nhiều trường nữa. Mô hình này hiện nay không chỉ phát triển
ở bậc đại học mà đã mở rộng ra các bậc học khác. Ở nước ta trường Đại học mở Hà Nội
được thành lập vào ngày 03/11/1993 đã mang lại cơ hội học tập đến với nhiều người dân
trên mọi miền Tổ quốc, từ đồng bằng đến miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa thuộc mọi
thành phần kinh tế, đặc biệt cho những người có hoàn cảnh khó khăn, những người khuyết

154
tật, đóng góp lớn vào cuộc cách mạng giáo dục mở xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh xã hội còn có giai cấp, con người còn cạnh tranh khốc liệt như hiện
nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, đòi hỏi nền giáo dục
phải đổi mới nhanh và mạnh mẽ trong đó có giáo dục mở. Giáo dục mở được hiểu là mở
rộng tính phổ biến đưa kiến thức đến số đông, cho mọi người so với giáo dục chính quy (giáo
dục cạnh tranh, giáo dục thông trị) thông qua nhiều phương thức đào tạo, bằng nhiều nguồn
tư liệu mở và “tư liệu đóng” (tư liệu riêng của trường đại học mở) sao cho người học có năng
lực khác biệt so với người học trong hệ thống giáo dục khác là những yêu cầu cụ thể mà các
trường đại học mở phải tích cực phát huy sáng tạo và đổi mới. Chúng ta biết giáo dục mở có
tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của xã hội nhưng số lượng còn rất khiêm tốn cả
về số trường và số người học so với giáo dục truyền thống, buộc giáo dục mở phải tìm ra
hướng đi riêng cho mình trong giai đoạn hiện nay để cạnh tranh với hệ thống giáo dục khác
là vấn đề cần sự nỗ lực của từng thành viên trong các trường đại học mở cần có trình độ
giảng dạy và cung cấp công nghệ trong Hệ thống giáo dục mở của mình mới đáp ứng được
yêu cầu của cuộc cách mạng giáo dục mở đã được chủ nghĩa Mác – Lê-nin khởi xướng.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Lê Văn Siêu, Việt Nam Văn Minh Sử, Nxb Văn học 2006
[2]. Nguyễn Đức Dân, Logic và Tiếng Việt, Nxb Giáo dục 1999
[3]. Đỗ Hữu Châu – Bùi Minh Toàn . Đại cương ngôn ngữ học. Tập 1, Nxb Giáo dục 2001
[4]. Vũ Minh Giang. Giáo dục Việt Nam trước đòi hỏi mới căn bản và toàn diện, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội 2018
[5]. Mai Đan. Hệ thống giáo dục mở phải gắn với tự chủ. Thời báo Tài chính Việt Nam 2018
[6]. Hệ thống giáo dục mở. Nguyễn Hồng Sơn, Vụ GDTX sưu tầm và biên soạn
Moet.gov.vn/giaoducquocdan/giaoducthuongxuyen

