
636
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SỐ CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC: TRƯỜNG HỢP
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU
Nguyễn Thị Phương1, Nguyễn Thị Hằng Nga1
Email: nguyenphuong@blu.edu.vn
Tóm tắt: Nghiên cứu này mô tả năng lực số của sinh viên tại trường Đại học Bạc
Liêu dựa trên Khung năng lực số của Châu Âu (Digcomp). Nghiên cứu sử dụng dữ liệu mẫu
khảo sát từ 334 sinh viên tại trường Đại học Bạc Liêu. Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên
có cảm nhận tích cực về các nhóm năng lực thông tin và dữ liệu, an toàn, giao tiếp nhưng
không tự tin ở các nhóm năng lực khó hơn như tạo lập nội dung số, giải quyết vấn đề.
Từ khoá: Năng lực số; sinh viên; Digcomp.
I. Đặt vấn đề
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên của chuyển đổi số - quá trình thay đổi gắn liền
với việc ứng dụng công nghệ số vào mọi mặt đời sống xã hội của con người [Henriette, Feki,
& Boughzala, 2015]. Việt Nam đang từng bước có những chính sách cụ thể để thúc đẩy
chuyển đổi số một cách toàn diện, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án chuyển đổi số
quốc gia đến năm 2030[phủ, 2020]. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia nhằm mục tiêu
kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp
công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Trong nền giáo dục hiện nay, khả năng
làm chủ các phương tiện công nghệ thông tin để từ đó hình thành nên năng lực công nghệ số
của sinh viên (SV) đóng vai trò vô cùng quan trọng [Tấn & Marquet, 2019]. Năng lực số
(NLS) của sinh viên là yếu tố quan trọng trong mô hình học tập mới và cũng là sự chuẩn bị
cho cuộc sống học tập và sự nghiệp sau này. Sinh viên có năng lực số cao hơn có khả năng
tham gia học tập tốt hơn và say mê học tập hơn [Bergdahl, Nouri, & Fors, 2020]. Sở hữu
NLS tốt giúp SV có khả năng diễn giải và hiểu biết về học tập trực tuyến cao hơn [Mosa,
Mahrin, & Ibrrahim, 2016], giúp họ tiến bộ trong học tập, trong cuộc sống cá nhân và nghề
nghiệp, xử lý tốt các tình huống phối hợp làm việc trong môi trường ảo[Gunawardena et al.,
2001] và thực hành tốt hơn trong giáo dục trực tuyến [López-Meneses, Sirignano, Vázquez-
Cano, & Ramírez-Hurtado, 2020]. Không chỉ vậy, NLS được xem là điều kiện tiên quyết để
có thể học tập và làm việc trong môi trường giáo dục mở và toàn cầu hiện nay [ACODE,
2014]. NLS cũng được thừa nhận là một trong các năng lực cốt lõi quan trọng để học tập
suốt đời [Ala-Mutka, 2011; Ferrari, 2013] [Collective Council, 2018].
Xuất phát từ yêu cầu cần thiết và cấp thiết của NLS trong không gian giáo dục đại
1 Khoa Kinh tế, Trường Đại học Bạc Liêu

637
học đề tài nghiên cứu “Pháp triển năng lực số cho sinh viên đại học: Trường hợp sinh viên
trường Đại học Bạc Liêu” được lựa chọn làm nghiên cứu.
II. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Khái niệm năng lực số
Khái niệm NLS được Gilster đề cập lần đầu tiên năm 1997 là khả năng hiểu và sử
dụng thông tin dưới nhiều định dạng khác nhau từ nhiều nguồn khác nhau, được hiển thị qua
máy tính [Gilster & Glister, 1997]. Sau đó, khái niệm này được rất nhiều tác giả quan tâm
và đưa ra các định nghĩa khác nhau tùy thuộc phương pháp tiếp cận.
Trong số các định nghĩa về NLS, định nghĩa NLS của tác giả Ferrari (2012)
được Ủy ban châu Âu lựa chọn để xây dựng khung NLS cho công dân châu Âu, được xem
là định nghĩa đầy đủ nhất. Theo đó, “NLS là tập hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, chiến lược
và nhận thức cần có khi sử dụng các phương tiện kỹ thuật số và CNTT để thực hiện nhiệm
vụ, giải quyết vấn đề, giao tiếp, quản lý thông tin, cộng tác, tạo lập, chia sẻ nội dung và hình
thành kiến thức một cách hiệu quả, có chọn lọc, đầy đủ, linh hoạt, sáng tạo, có đạo đức và
hợp lý để học tập, làm việc, giải trí, và tham gia vào xã hội” [Ferrari, 2012].
Các tác giả [Gourlay et al., 2013] định nghĩa NLS là kỹ năng dành cho một phương
tiện mới, liên quan đến việc ứng dụng chức năng công nghệ và khả năng thích ứng.
Trong lĩnh vực giáo dục, năng lực số được xem là một khả năng cần có, cùng với
việc có nền tảng lý thuyết vững chắc, khả năng nghiên cứu và thử nghiệm để áp dụng kiến
thức, thái độ và kỹ năng cần thiết vào việc lập kế hoạch, thực hiện, đánh giá và xem xét liên
tục các quy trình dạy và học được hỗ trợ bởi CNTT – TT [From, 2017]. Cộng đồng sư phạm
đã nhận ra tầm quan trọng của năng lực số đối với việc giảng dạy và học tập, và coi nó là
cần thiết để giải quyết nhiều vấn đề trong quá trình này [Urdín & Perurena, 2017]. Trung
tâm nghiên cứu chung (JRC) đã phát triển một khung năng lực số dành cho các tổ chức giáo
dục (DigcompOrg), giúp các tổ chức này tích hợp học tập số một cách có hệ thống từ góc độ
giảng dạy, công nghệ và tổ chức [Kampylis, Punie, & Devine, 2015]. Đối với giáo viên,
năng lực số có nghĩa là sử dụng CNTT - TT với phương pháp giảng dạy tốt, hiểu biết về
CNTT - TT và nhận thức được tầm quan trọng của việc này đối với chiến lược học tập và
hình thành giáo dục của học sinh [Almås & Krumsvik, 2007]. Năm 2017, khung năng lực số
dành cho giáo viên (DigcompEdu) đã được xuất bản, chỉ ra sáu lĩnh vực năng lực mà giáo
viên cần phát triển để đáp ứng yêu cầu [Redecker, 2017].
Tại Việt Nam, nhóm tác giả [Tấn & Marquet, 2018] dựa trên khái niệm NLS của Ủy
ban châu Âu, mô tả NLS là khả năng sử dụng vững vàng và có ý thức các công cụ của xã
hội thông tin trong công việc, giải trí và giao tiếp. Điều kiện tiên quyết là khả năng làm chủ
các phương tiện CNTT và truyền thông: sử dụng máy tính để tìm thấy, đánh giá, lưu trữ, tạo

638
lập, giới thiệu và trao đổi thông tin, cũng như để giao tiếp và tham gia các mạng lưới hợp tác
thông qua Internet. Trong khi đó, nhóm tác giả [Hòa & Hùng, 2021], sử dụng khái niệm NLS
của UNESCO, định nghĩa NLS là khả năng truy cập, quản trị, thấu hiểu, kết hợp, giao tiếp,
đánh giá và sáng tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp thông qua công nghệ số để phục
vụ cho thị trường lao động phổ thông, các công việc cao cấp và khởi nghiệp kinh doanh.
Định nghĩa này được phát triển dựa trên định nghĩa NLS của Ủy ban châu Âu khi UNESCO
đề xuất xây dựng khung NLS toàn cầu DLGF.
2.1.2. Phát triển năng lực số cho sinh viên đại học
Theo từ điển Tiếng Việt, phát triển là “biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều,
từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp” [Thản, Thuỵ, & Dương, 2005].
[Marx, 1980] “phát triển là một phạm trù của triết học, là quá trình vận động tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một sự
vật. Quá trình vận động đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt để đưa tới sự ra đời của cái
mới thay thế cái cũ. Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất, quá trình diễn ra theo đường xoắn ốc và hết mỗi chu kỳ, sự vật lặp lại dường
như sự vật ban đầu nhưng ở mức độ cao hơn”.
Hầu hết các định nghĩa về phát triển năng lực đều liên quan đến việc hỗ trợ hoặc cải
thiện hiệu suất làm việc của con người [Čiarnienė, Kumpikaitė & Vienažindienė, 2010].
Phát triển năng lực được De Vos và các cộng sự định nghĩa trong bài viết về “Phát triển
năng lực và thành công trong sự nghiệp” là một loạt các hoạt động do công ty tổ chức nhằm
nâng cao năng lực cho nhân viên của mình [De Vos, De Hauw & Van der Heijden, 2011].
[Glasser và Hirsh, 2016] định nghĩa phát triển năng lực là một tập hợp các khả năng,
thái độ, kiến thức, năng lực hiểu biết và thói quen của tâm trí được liên kết lại để hỗ trợ cho
việc đặt vấn vấn đề, giải quyết vấn đề, và gợi lên hành vi có mục đích hướng tới các mục
tiêu cụ thể sau cùng.
Khung nguyên tắc phát triển năng lực tại đại học Aarhus định nghĩa sự phát triển
năng lực bao gồm tất cả các hoạt động thử thách, phát triển, đào tạo, mang lại sự cập nhật và
duy trì kiến thức, năng lực, trình độ cho SV và đội ngũ để đáp ứng các thách thức hiện tại và
tương lai của công việc. Điều này có nghĩa là phát triển năng lực đòi hỏi nhiều khóa học và
chương trình đào tạo [Aarhus University, 2016].
Như vậy, có thể thấy phát triển năng lực là quá trình thu nhận, củng cố và phát triển
kiến thức, kỹ năng, thái độ để đáp ứng các thách thức hiện tại và tương lai trong quá trình
học tập và làm việc của SV tại đại học.
Phát triển NLS là một chuỗi liên tục từ các sự kiện đào tạo tập trung vào hướng dẫn
chuyên biệt đến chiến lược và quy trình học tập hiệu quả lâu dài hơn, được hỗ trợ bởi các
phương tiện kỹ thuật số. Phát triển NLS là xác định các phương pháp thực hành sư phạm

639
phù hợp để hỗ trợ SV cải thiện NLS nhằm đưa họ vào các lộ trình học tập vững chắc
[Pöntinen & Räty-Záborszky, 2020].
2.1.3. Khung năng lực số - Khung năng lực số DigComp của Châu Âu (European Digital
Competence Framework for Citizens – DigComp)
Được công bố lần đầu vào năm 2013, DigComp đã trở thành tham chiếu cho sự phát
triển và lập kế hoạch chiến lược các sáng kiến năng lực số cả ở mức Châu Âu và quốc gia
thành viên [Ferrari & Punie, 2013]. Tháng 6/2016, phiên bản 2.0 được công bố, trong bản
này nó cập nhật các thuật ngữ và mô hình khái niệm, cũng như trình bày các ví dụ triển khai
của nó ở mức Châu Âu, quốc gia và khu vực . Phiên bản DigComp 2.0 có 21 năng lực được
tổ chức theo 5 lĩnh vực gồm:
1) Năng lực về thông tin và dữ liệu (information and data literacy)
2) Giao tiếp và cộng tác (communication and collaboration)
3) Sáng tạo nội dung số (digital content creation)
4) An toàn (Safety)
5) Giải quyết vấn đề (problem solving)
Bảng 1: Cấu trúc NLS của khung DigComp
Lĩnh vực
năng lực
Mô tả khái quát
Năng lực thành phần
1. Năng lực
thông tin và dữ
liệu
Khả năng xác định rõ nhu cầu thông tin,
tìm kiếm thông tin và tài nguyên trong
môi trường số; tổ chức, xử lý, phân tích,
diễn giải thông tin; so sánh, đánh giá
một cách nghiêm túc về độ tin cậy và
nguồn gốc của thông
tin.
1.1 Lướt, tìm kiếm và lọc dữ
liệu, thông tin và các nội dung
số
1.2 Đánh giá dữ liệu, thông tin
và các nội dung số
1.3. Quản lý dữ liệu, thông tin
và các nội dung số
2. Giao tiếp và
cộng tác
Khả năng sử dụng các công nghệ số một
cách hiệu quả và có trách nhiệm để giao
tiếp, kết nối, cộng tác trong môi trường
học thuật và trong cuộc sống; thể hiện
bản thân thông qua các phương tiện số.
2.1
Tương tác thông qua các
công nghệ số
2.2
Chia sẻ thông qua các
công nghệ số
2.3
Tham gia vào quyền công
dân thông qua các công nghệ số
2.4
Cộng tác trong công việc
thông qua các công nghệ số
2.5
Quy tắc ứng xử qua mạng
2.6
Quản lý danh tính số

640
3. Sáng tạo nội
dung số
Khả năng sửa đổi, tạo nội dung số
với các định dạng khác nhau; biết cách
tra cứu về bản quyền và giấy phép đối
với các nội dung số; và khả
năng lập trình.
3.1
Phát triển nội dung số
3.2
Tích hợp và tái tạo nội
dung số
3.3
Bản quyền và giấy phép
3.4
Lập trình
4. An toàn
Khả năng hiểu các rủi ro và mối đe dọa
đến sức khỏe thể chất và tinh thần trong
môi trường số; các biện pháp an toàn và
bảo mật để bảo vệ dữ liệu cá nhân và
quyền riêng tư; hiểu cách sử dụng và
chia sẻ thông tin đảm bảo sự an toàn cho
cá nhân và người khác; nhận thức về tác
động của công nghệ số đến môi trường,
và cách sử dụng công nghệ số an toàn và
có trách nhiệm.
4.1
Bảo vệ các thiết bị
4.2
Bảo vệ dữ liệu cá nhân và
quyền riêng tư
4.3
Bảo vệ sức khỏe và hạnh
phúc
4.4
Bảo vệ môi trường
5. Giải quyết
vấn đề
Khả năng xác định các vấn đề kỹ thuật
và cách giải quyết khi vận hành thiết bị
và sử dụng môi trường số; có thể xác
định, đánh giá, lựa chọn sử dụng các
công nghệ số để giải quyết một nhiệm
vụ hoặc vấn đề nhất định theo cách sáng
tạo để tạo ra tri thức; biết cách cập nhật
năng lực của bản
thân và người khác.
5.1
Giải quyết các vấn đề kỹ
thuật
5.2
Nhận diện nhu cầu và đáp
ứng công nghệ
5.3
Sử dụng các công nghệ số
một cách sáng tạo
5.4
Nhận diện khoảng trống
NLS
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng khung năng lực số châu Âu vào bối cảnh
hệ thống giáo dục Việt Nam và dựa trên Digcomp 2.0 để khám phá năng lực số của sinh viên
tại trường Đại học Bạc Liêu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Công cụ khảo sát
Dựa trên 05 khía cạnh năng lực và 21 năng lực cụ thể của khung Digcomp 2.0, chúng
tôi đã thiết kế bảng hỏi bao gồm tất cả các mục được xem là cần thiết để đáp ứng các mục
tiêu của nghiên cứu. Các đặc điểm và tính hợp lệ của bảng câu hỏi đã được kiểm tra thông
qua các cuộc thảo luận với các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu. Sau đó, bảng câu hỏi
được xem xét lại theo các khuyến nghị của các chuyên gia.
Các câu hỏi được đặt dưới dạng câu hỏi đóng hoặc trắc nghiệm nhiều lựa chọn. Thang
đo Likert 5 mức độ được sử dụng để sinh viên đánh giá, cảm nhận về các khía cạnh năng lực số.

