
529
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ XÂY DỤNG ĐƠN VỊ ĐẠI HỌC SỐ
TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Đặng Hải Đăng1
Email: dangdh@hou.edu.vn
Tóm tắt: Đại học số, đại học ảo hay đại học trực tuyến là nhứng thuật ngữ được sử
dụng phổ biến gần đây khi đề cập tới một mô hình giáo dục đại học mà trong đó nhấn mạnh
việc sử dụng các yếu tố công nghệ thông tin và truyền thông mới vào giảng dạy và học tập,
nghiên cứu khoa học và cao hơn nữa là quản trị toàn bộ nguồn lực của cơ sở giáo dục đại học
đó. Bài báo này bên cạnh việc phân biệt các thuật ngữ mơ hồ được sử dụng khi đề cập về các
khái niệm nêu trên còn đề cập về chuyển đổi số nói chung và trong giáo dục đại học nói riêng.
Qua phân tích một số mô hình đại học số thành công trên thế giới cũng như lộ trình thực hiện
chuyển đổi số thực hiện tại Trường Đại học Mở Hà Nội, tác giả đề xuất một số khuyến nghị
về triển khai chuyển đổi số, hướng tới xây dựng đại học số trong các trường đại học.
Từ khóa: Chuyển đổi số, đại học số, đại học ảo, giáo dục đại học, đào tạo trực tuyến.
I. Chuyển dối số trong giáo dục đại học
Loài người đang bước vào kỷ nguyên số, với phần lớn các hoạt động diễn ra trên
không gian mạng, là môi trường mà các tổ chức dù lớn hay nhỏ đều tham gia một cách tích
cực, cạnh tranh và cộng tác đan xen, giao thoa một cách phức tạp. Các tổ chức muốn tồn tại
và phát triển trong một thị trường liên tục biến đổi cần phải tìm ra cách thức để chiếm lĩnh
và làm chủ không gian số bằng cách khai thác công nghệ thông tin một cách có hiệu quả. Để
có cách nhìn toàn diện về chuyển đổi số (Digital Transformation – viết tắt là Dx hoặc DT)
chúng ta hãy xem xét các khái niệm tiền thân của Dx, cách chúng hình thành và tiến hóa qua
các giai đoạn phát triển [1], [2].
Thời gian
Khái niệm
Mô tả
Thập niên 1970
Thiết kế và sản xuất có
sự trợ giúp của máy
tính
Các chương trình CAD/CAM hỗ trợ khâu
thiết kế thực hiện trên máy tính, ví dụ phác
thảo, dựng hình, mô phỏng, tạo đồ họa 3D
cũng như lắp ráp các bản vẽ hoàn chỉnh.
Thập niên 1980
Hoạch định tài nguyên
doanh nghiệp
(Enterpirse Resource
Planning - ERP)
ERP bao gồm các khái niệm, phương pháp kỹ
thuật và hướng dẫn thực hiện để tích hợp toàn
bộ hệ thống quản lý kinh doanh từ việc xem
xét quản lý hiệu quả các nguồn vật lực, nhân
lực và tài lực. Đến việc cải tiến hiệu quả hoạt
động của tổ chức
1 Trường Đại học Mở Hà Nội

530
Thập niên 1990
Quản trị quan hệ khách
hàng (Customer
Relationship
Management - CRM)
CRM là các chiến lược, công cụ, kỹ thuật giúp
các tổ chức kết nối toàn diện với khách hàng đa
kênh, chuẩn hóa quy trình và kết quả cải thiện,
duy trì mối quan hệ với khách hàng sẵn có và
tìm ra thêm được khách hàng mục tiêu mới.
Cuối 1990 đến
2005
Thương mại điện tử và
ngân hàng trực tuyến,
truyền thông xã hội
Thương mại được đưa lên trên môi trường
mạng, cho phép thanh toán trực tuyến nhanh
chóng và các chiến dịch quảng cáo, marketing
và chăm sóc khách hàng được thực hiện thông
qua truyền thông xã hội
2006 – nay
Chuyển đổi số
Tiếp cận toàn diện và tổng thể về chiến lược
áp dụng công nghệ số đối với tổ chức. Đánh
giá tiến trình tổ chức, sản phẩm, vận hành,
công nghệ để xác định các phương thức và
công nghệ phù hợp nhằm nâng cao năng lực
vận hành và đưa sản phẩm ra thị trường một
cách nhanh chóng
Bảng 1. Chuyển đổi số và các khái niệm tiền thân
Như vậy, bản thân chuyển đối số là quá trình tiến hóa, bao trùm, tích hợp và thừa
hưởng toàn bộ các tiếp cận, phương thức và công nghệ có từ trước để áp dụng công nghệ thông
tin xuyên suốt các hoạt động của tổ chức. Bên cạnh môi trường vật lý, chuyển đổi số còn đặt
dữ liệu, thông tin, quy trình nghiệp vụ, kênh tương tác với khách hàng, đối tác trên môi trường
mạng kéo theo sự thay đổi về mặt tổ chức, mô hình kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp.
Đối với giáo dục đại học cũng có những nét tương đồng kể từ thời điểm ứng dụng
máy tính cá nhân vào sử dụng trong môi trường giảng dạy và học tập, cung cấp các học liệu
điện tử trên CD-ROM rồi đến các Hệ quản trị học tập (Learning Management System - LMS)
vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước, các khóa học OER của MIT vào đầu những năm
2000. Tới những năm đầu của thập kỷ trước, các hệ thống MOOC được phát triển với hàng
triệu ngưởi theo học. Giáo dục trực tuyến, đặc biệt qua giai đoạn Covid-19, càng trở nên phổ
biến và nhận được sự quan tâm của toàn thể xã hội. Tính đến thời điểm hiện nay, những
trường đại học hàng đầu thế giới đều là các cơ sở dẫn dắt và tham gia cung cấp từ tài ngyên
khóa học mở (OER), các khóa học mở đại trà trực tuyến (MOOCs), hay thậm chí các chương
trình đào tạo cấp bằng đại học, sau đại học theo phương thức đào tạo trực tuyến.
Cùng với sự phổ biến và tiện lợi của các ứng dụng phục vụ mua sắm, giải trí, học tập
trên các thiết bị thông minh, con người ngày càng dành nhiều thời gian hơn trên điện thoại
di động, máy tính xách tay, máy tính bảng. Theo thống kê của Statista vào quý 3 năm 2023,
bình quân một người Việt trong độ tuổi 16-64 sử dụng internet đến 6 giờ 18 phút mỗi ngày.

531
Khi không gian ảo trở nên dễ dàng sử dụng, tiết kiệm thời gian, chi phí tham gia giao
thông với đa dạng các sản phẩm và dịch vụ có thể tiếp cận một cách nhanh chóng thì người
dùng sẽ chủ yếu sử dụng internet như một lựa chọn hiển nhiên vì tính tiện dụng. Do vậy,
chiểm lĩnh không gian số bằng cách đưa sản phẩm, dịch vụ và hơn nữa mô hình kinh doanh
lên trên môi trường mạng là một trong những ưu tiên hàng đầu của bất cứ tổ chức nào.
Nắm được xu hướng này, nhiều tổ chức giáo dục đại học lớn trên thế giới, bên cạnh
giáo dục truyền thống, đã cung cấp các nền tảng, khóa học, học liệu và cho phép người học từ
bất đâu trên thế giới được tiếp cận kiến thức hàn lâm và chính thống. Rào cản ngôn ngữ cũng
được xóa bỏ nhờ hệ thống phụ đề tự động dành cho một số ngôn ngữ phổ biến trên thế giới.
Đại học số, có thể hiểu một cách đơn giản là áp dụng chuyển đổi số lên mô hình giáo
dục đại học truyền thống. Quá trình này không chỉ ảnh hưởng cách vận hành, quản trị, mô
hình tổ chức mà còn tác động sâu sắc đến văn hóa tổ chức và mô hình kinh doanh.
Mặc dù các thuật ngữ đại học số, đại học ảo có thể sử dụng thay thế cho nhau trong
một số ngữ cảnh nhưng về bản chất đại học số là một mô hình giáo dục mở rộng của đại học
truyền thống, nơi các trường cung cấp thêm một kênh đào tạo trực tuyến trong khi đại học
ảo thể hiện thuần túy việc sử dụng môi trường mạng cho toàn bộ các hoạt động và không
nhất thiết phải có môi trường vật lý để triển khai.
Đối với các cơ sở giáo dục đại học, việc lựa chọn nâng cấp và mở rộng từ đại học
truyền thống lên đại học số là hướng đi thận trọng và bền vững. Trong khi đó mô hình đại
học ảo phù hợp hơn với các Edtech hoặc các tổ chức giáo dục tư nhân.
Tóm lại, chuyển đổi số trong giáo dục đại học sẽ thay đổi cách thức mà các đại học
thông thường vận hành và chuyển hóa thành các đại học số ở một mức độ nào đó.
II. Đại học số trong giáo dục đại hoc
Qua phân tích nêu trên, thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học được xúc tác
với sự phát triển mạnh mẽ của E-learning để hình thành nên các mô hình đại học số trong
các cơ sở giáo dục đại học. Để các đại học số hoạt động một cách hiệu quả, tận dụng được
sức mạnh của công nghệ thông tin thì các trường cần phải xác định và phân bổ được nguồn
lực thực hiện theo một lộ trình chặt chẽ với các bước kiểm tra, đánh giá thường xuyên có sự
tham gia của các bên liên quan.
Về bản chất, chuyển đổi số là quá trình tiếp cận một cách tổng thể về việc áp dụng
công nghệ thông tin trong tất các tác nghiệp của tổ, chức, do đó, thay đổi tận gốc rễ cách
thức các cá nhân trong hệ thống tổ chức, tương tác và sử dụng các nguồn lực. Một cách đột
nhiên và đồng thời, các hệ thống CRM, ERM, LMS, các hệ thống thanh toán, các nền tảng
truyền thông mạng xã hội và các nền tảng do bên thứ ba phát triển được kết nối và chia sẻ
dữ liệu với nhau để giải quyết các vấn đề của cơ sở giáo dục. Các tổ chức giáo dục không
chỉ làm việc trong lĩnh vực của mình mà còn phải phối hợp với các ngân hàng, tổ chức tài

532
chính, công ty tư vấn trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công ty phát triển phẩn mềm, các
nền tảng mạng xã hội và các đối tác khác. Đây là một khối lượng công việc đồ sộ đòi hỏi
không những nỗ lực của lãnh đạo, đội ngũ kỹ thuật, giảng viên, sinh viên mà còn các bên
liên quan dươi một tầm nhìn thống nhất.
Katrin Kulkowski (2022) liệt kê một số yếu tố quan trọng cần phải quan tâm khi
chuyển đổi số đối với một tổ chức đó là: (1) khả năng thay đổi (2) năng lực sáng tạo đổi mới
(3) tri thức và phương pháp luận chuyên gia (4) hợp tác, xây dựng mạng lưới đối tác (4)
chuyên gia dữ liệu [3]
Theo Tungpantong (2021) có 6 yếu tố cần thay đổi trong Tx, đó là: (1) chiến lược
(2) quy trình (3) sản phẩm / dịch vụ (4) con người (5) dữ liệu và (6) công nghệ [4].
Trong khi đó Matt (2015) cho rằng Tx có 4 yếu tố quan trọng bao gồm: (1) sử dụng công
nghệ (2) thay đổi trong việc tạo ra giá trị (3) thay đổi cấu trúc và (4) khía cạnh tài chính [5].
Đặc biệt, tác giả Tomas (2021) đưa ra mô hình hướng dữ liệu bao gồm 5 yếu tố quan
trọng đi qua 3 giai đoạn xử lý dữ liệu là số hóa dữ liệu, phân tích và vận hành. Điểm đặc biệt
của mô hình là nó được bắt đầu bằng con người (người sử dụng, khách hàng, đối tác, các
bên liên quan) nhập các bản ghi dữ liệu được số hóa lên hệ thống để sẵn sàng cho các công
đoạn xử lý kế tiếp [6].
Hình 1. 5 thành phần cơ bản của chuyển đổi số [6]
Các trường đại học có thể sử dụng mô hình hướng dữ liệu đã nêu trên trong các chiến
lược Tx của mình với một số lưu ý như sau:
Giai đoạn số hóa dữ liệu: Dữ liệu không chỉ đến từ người sử dụng, đối tác, khách hàng
mà còn đến từ các nguồn dữ liệu từ thị trường, đối thủ cạnh tranh, dữ liệu do máy tạo ra.

533
Giai đoạn phân tích: Dữ liệu đa nguồn đa định dạng cần phải có đội ngũ nhà khoa
học dữ liệu thực hiện phân tích, nghiên cứu. Điều quan trong là phải phát triển và dần hoàn
thiện hệ thống trục tích hợp dữ liệu tổng thể từ các phần mềm CRM, ERP, LMS, cổng thanh
toán, các phần mềm, nền tảng bên thứ ba để có dữ liệu sẵn sàng để phân tích.
Giai đoạn vận hành: Nếu hệ thống trục tích dữ liệu được hoàn thiện, các mô hình tính
toán khoa học dữ liệu được triển khai một cách có hiệu quả sẽ giúp các cơ sở giáo dục nhìn
nhận, xác định được tiến độ triển khai Tx. Ra quyết định dựa trên dữ liệu, thậm chí thời gian
thực giúp cơ sở giáo dục đại học có thể phản ứng nhanh với các thay đổi, do đó, tăng sức
cạnh tranh của tổ chức.
III. Một số kinh nghiệm triển khai thành công đại học số trên thế giới
Qua phân tích nêu trên, thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học được xúc tác
với sự phát triển mạnh mẽ của E-learning để hình thành nên các mô hình đại học số trong
các cơ sở giáo dục đại học. Để các đại học số hoạt động một cách hiệu quả, tận dụng được
sức mạnh của công nghệ thông tin thì các trường cần phải xác định và phân bổ được nguồn
lực thực hiện theo một lộ trình chặt chẽ với các bước kiểm tra, đánh giá thường xuyên có sự
tham gia của các bên liên quan.
Về bản chất, chuyển đổi số là quá trình áp dụng công nghệ thông tin trong tất
các tác nghiệp của tổ, chức, do đó, thay đổi tận gốc rễ cách thức các cá nhân trong hệ
thống tổ chức, tương tác và sử dụng các nguồn lực. Một cách đột nhiên và đồng thời,
các hệ thống CRM, ERM, LMS, các hệ thống thanh toán, các nền tảng truyền thông
mạng xã hội và các nền tảng do bên thứ ba phát triển được kết nối và chia sẻ dữ liệu
với nhau để giải quyết các vấn đề của cơ sở giáo dục. Các tổ chức giáo dục không chỉ
làm việc trong lĩnh vực của mình mà còn phải phối hợp với các ngân hàng, tổ chức tài
chính, công ty tư vấn trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công ty phát triển phẩn mềm,
các nền tảng mạng xã hội và các đối tác khác. Đây là một khối lượng công việc đồ sộ
đòi hỏi không những nỗ lực của lãnh đạo, đội ngũ kỹ thuật, giảng viên, sinh viên mà
còn các bên liên quan dươi một tầm nhìn thống nhất.
Đại học Concordia St. Paul là một trường đại học tư thục quy mô nhỏ chuyên về đào
tạo nghệ thuật, vào thời điểm 2009, nhà trường nhận thức được các chương trình đào tạo
trực tuyến đang bị đình trệ về tuyển sinh, trong khi số lượng sinh viên tất cả các hệ đào tạo
xoay quanh con số 3000. Thông qua thuê ngoài dịch vụ cua công ty Wiley University
Services. Thông qua xây dựng chiến lược nhận diện thương hiệu và đa dạng hóa chương
trình đào tạo, mở rộng mạng lưới đối tác đào tạo lên tới 183 trường cao đẳng cộng đồng và
45 tổ chức, lượng sinh viên trực tuyến tăng trưởng gấp đôi trong giai đoạn 2012-2018, năm
2021 số lượng tuyển sinh đạt 5567 với hơn 1800 sinh viên trực tuyến. Năm 2021 nhà trường
cũng lọt vào danh sách 20 trường đại học trực tuyến có tỉ lệ lợi nhuận ròng chia cho tổng
mức đầu tư cao nhất (ROI - Return of Investment) [7].

