YOMEDIA
ADSENSE
Hàn Phi Tử Phần III - Chương 5
156
lượt xem 60
download
lượt xem 60
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Trong phần I, chúng tôi đã nói Pháp gia đầu tiên bàn về cái "thế " là Thận Đáo. Đại ý ông ví vua với con rồng, rồng nhờ có mây mà bay lên cao được. Hiền và trí không đủ cho đám đông phục tòng mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền. Chẳng hạn "vua Nghiêu (bậc hiền trí) hồi còn là dân thường thì không trị được ba người, mà Kiệt khi làm thiên tử thì có thể làm loạn cả thiên hạ, nghĩa là ban lệnh nào - dù lệnh xấu...
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Hàn Phi Tử Phần III - Chương 5
- Hàn Phi Tử Chương 5 THẾ Trong phần I, chúng tôi đã nói Pháp gia đầu tiên bàn về cái "thế " là Thận Đáo. Đại ý ông ví vua với con rồng, rồng nhờ có mây mà bay lên cao được. Hiền và trí không đủ cho đám đông phục tòng mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền. Chẳng hạn "vua Nghiêu (bậc hiền trí) hồi còn là dân thường thì không trị được ba người, mà Kiệt khi làm thiên tử thì có thể làm loạn cả thiên hạ, nghĩa là ban lệnh nào - dù lệnh xấu - dân chúng răm rắp theo hết. Chủ trương đó ngược với chủ trương của Nho gia mà Hàn Phi đã trình bày trong thiên Nạn thế, đoạn "Có kẻ trả lời Thân tử..." (coi phần dịch). Nho gia trọng hiền trí hơn địa vị, và cái uy thế của vua do giá trị của vua hơn là do địa vị. Con rồng mà bay được, đành rằng dựa vào cái thế của mây, nhưng
- trước hết là nhờ cái tài của nó, chứ nếu là con giun vô tài thì dù có mây cũng không cưỡi được. Vả lại cái thế - tức cái ngôi vua - tự nó không thể khiến cho người hiền dùng nó, kẻ bất tiếu không dùng nó. Người hiền dùng nó thì thiên hạ trị (như vua Nghiêu) kẻ bất tiếu dùng nó thì loạn (như vua Kiệt). Tính tình con người, hiền thì ít, bất tiếu thì nhiều. Lấy cái lợi của uy thế mà giúp kẻ bất tiếu thời loạn thì kẻ dựa thế làm loạn thiên hạ sẽ đông, người nhờ thế làm lợi cho thiên hạ sẽ rất ít (... ). Giúp cho kẻ bất tiếu có thế lực, tức là chắp cánh cho cọp. (Nạn thế). Vậy Nho cho rằng vua xấu khiến cho thời loạn. Hàn Phi bác chủ trương đó của Nho trong đoạn "Lại có kẻ trả lời câu hỏi trên..." (Nạn thế). Đoạn này có vài chỗ khó hiểu, chẳng hạn trong mươi hàng đầu Hàn phân biệt "thế tự nhiên" và "thế do người lập ra" (nhân sở thiết) mà không cho biết thế nào là thế tự nhiên, cho nên có học giả hiểu là thiên mệnh, là thời thế, có học giả lại hiểu là sự truyền ngôi. Chúng tôi đoán Hàn muốn nói rằng thời suy như thời Kiệt thì sinh ra vua xấu, ngược lại với thuyết của Nho gia: vua xấu làm cho thời loạn. Nhưng đoán vậy có sai chăng vì Hán vốn tin rằng thịnh suy do sức người, không liên quan gì với sức trời kia mà.
- Rồi những hàng sau, Hàn dẫn truyện người bán mâu và thuẫn khoe thuẫn mình chắc, không gì đâm thủng được, lát sau lại khoe "mâu mình bán không gì là đâm không thủng". Trần Khải Thiên hiểu rằng Hàn muốn bảo sự hiền minh với cái thế không dung nhau được như cái mâu và cái thuẫn; Vandermeersch lại bảo Hàn cho rằng khi lý luận mà đưa những trường hợp cực đoan ra (như Nghiêu Thuấn, Kiệt Trụ) thì lý lẽ nào vững tới mấy cũng có thể bác được vì có mâu thuẫn. Trần Khải Thiên và Vandermeersch, ai hiểu đúng Hàn Phi? Bỏ những chỗ khó hiểu đó đi, đọc kỹ cả đoạn, tôi thấy Hàn rõ ràng bênh vực thuyết của Thuận Đáo, cho rằng cái "thế" không liên quan gì với giá trị về đạo đức và tài trí của con người; và trong việc trị dân, cứ đợi có ông vua hiền thì ngàn đời mới gặp một ông, không lẽ trong chín trăm chín mươi chín đời kia, để cho dân loạn sao. Ông viết: "Nghiêu, Thuấn, Kiệt, Trụ ngàn đời mới xuất hiện một lần; số đó rất ít[1]. Mà cái thường thấy trên đời thì là hạng người trung bình, cho nên tôi nói về thế là nói về hạng trung bình. Hạng người trung bình thì trên không bằng Nghiêu, Thuấn, dưới không đến nỗi như Kiệt, Trụ. Nếu cứ giữ chặt pháp luật, dùng quyền thế thì nước trị, quay lưng lại, bỏ quyền thế thì nước loạn. Nay bỏ quyền thế, quay lưng lại pháp luật mà đợi Nghiêu, Thuấn;
- Nghiêu Thuấn tới là nước trị thì ngàn đời loạn mới có một đời trị. Giữ chặt pháp luật, dùng quyền thế mà đợi Kiệt, Trụ ; Kiệt, Trụ tới là nước loạn thì ngàn đời trị thì mới có một đời loạn (...) Vả lại (....) nói về việc trị nước, không đưa ra trường hợp Nghiêu, Thuấn thì đưa ra trường hợp Kiệt, Trụ làm loạn nước; như vậy tức nói về khẩu vị, nếu không đưa ra đường mật thì đưa ra rau đắng, rau đay; nghị luận như vậy là nói cho nhiều mà không hợp lý hợp phép vì đưa ra hai trường hợp cực đoan, làm sao có thể bắt bẻ những lời hợp đạo lý được?" ... (...) (...) (.... Trung giả, thượng bất cập Nghiêu, Thuấn, nhi hạ diệc bất vi Kiệt, Trụ; bảo pháp xử thế tắc trị, bội pháp khử thế tắc loạn. Kim phế thế bội pháp nhi đãi Nghiêu, Thuấn, Nghiêu Thuấn chí nãi trị, thị thiên thế loạn nhi nhất trị dã; bão pháp xử thế nhi đãi Kiệt, Trụ; Kiệt, Trụ chí nãi loạn, thị thiên thế
- trị nhi nhất loạn dã (...) Thả (...) trị, phi sử Nghiêu, Thuấn dã, tất tắc sử Kiệt, Trụ loạn chi; thử vị phi di mật dã, tất khổ thái, đình lịch dã, thử tắc tích biện loạn, li lí thất luật, lưỡng mạt chi nghị dã, hề khả dĩ nạn, phù đạo lý chi ngôn hồ tai! (Nạn thế). Hàn Phi đã vu oan cho Nho gia. Nho gia có bao giờ mong ông vua nào cũng được như Nghiêu, Thuấn đâu; chỉ nói rằng ở vào địa vị ông vua, có quyền thế của ông vua, mà có tài trí hiền đức, thì nước mới trị, nếu tàn bạo thì nước càng loạn thêm, Nghiêu Thuấn, Kiệt Trụ chỉ là những thí dụ vậy thôi. Mà chính pháp gia cũng nhận rằng vua cần sáng suốt, có tài năng mới áp dụng pháp thuật, họ luôn luôn nhắc đến bậc "minh chủ" biết dùng pháp thuật là vì vậy. Họ có khác gì Nho gia đâu. Nho gia cũng không khác họ ở điểm nhận rằng địa vị, uy quyền - tức cái thế - rất quan trọng, cho nên họ mới tôn quân. Chung quy họ chỉ không đồng ý với nhau ở mỗi điểm này: Nho gia đặt tài đức lên trên địa vị, phải có tài đức tới một mức nào đó thì mới xứng đáng với địa vị, mới không làm hại dân. Pháp gia đặt địa vị, quyền thế lên trên tài đức; miễn là tài đức trung
- bình mà có quyền thế là trị nước được rồi; Nho chủ trương nhân trị, Pháp chủ trương Pháp trị, nhưng dù chủ trương nhân trị thì cũng không thể bỏ pháp, mà chủ trương pháp trị thì càng không thể bỏ «nhân», nghĩa là bỏ cái yếu tố người (facteur humain ) đi. * Trọng cái « thế » tức là trọng sự cưỡng chế. Có thể nói Pháp gia hiểu ý nghĩa, mục đích của quốc gia nếu không đúng hơn thì cũng thực tế hơn Nho gia, vì từ hồi nào tới giờ, mục đích của quốc gia là « yên ổn trong nội bộ để chiến đấu với ngoại quốc » ; và chính quyền nào cũng phải áp chế - nhiều ít tùy thời - bằng cách này hay cách khác để giữ được trật tự, thực hiện một chương trình. Vì trọng sự cưỡng chế, cho nên pháp gia chủ trương : 1 – Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua ; 2 – Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để : dân không được quyền làm cách mạng, không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là không trung, điều đó chúng tôi đã xét ở chương trên; hơn nữa, dù vua có nhường ngôi cho, cũng không được nhận, vì nếu nhận thì vua sẽ thành bề
- tôi của mình mất, trái phép, bất trung. Hàn Phi nhiều lần đả đảo chính sách thiện nhượng. Trong thiên Ngũ đố, ông cho việc vua Nghiêu truyền ngôi cho ông Thuấn là không hợp thời, mà hành động đó cũng không cao quý gì vì thời đó làm vua không sướng : ở nhà tranh, ăn cơm gạo xấu với rau, mặc áo da thú hoặc vải thô ; nhường ngôi thiên tử chỉ là từ bỏ cuộc sống của người giữ cổng, của tên nô lệ, không có gì đáng khen. Trong thiên Trung hiếu[2], Hàn còn mạt sát Nghiêu Thuấn là làm loạn đạo nghĩa. Thiên hạ đều cho rằng đạo hiếu, đễ, trung, thuận là phải nhưng không ai xét kỹ bốn đạo đó để thi hành cho đúng, vì vậy mà thiên hạ loạn. « Thiên hạ đều cho đạo của Nghiêu Thuấn là phải mà theo, vì vậy mới có những vụ thí vua, không coi cha là cha. Nghiêu, Thuấn, Thang, Võ đã phản lại nghĩa vua tôi, làm loạn sự giáo hóa đời sau . ( Nghiêu làm vua mà lại làm cho bề tôi ( tức Thuấn ) thành vua của mình ; Thang, Võ mà làm vua mà lại thí chúa, chém thây chúa[3]. Vậy mà thiên hạ lại khen, cho nên thiên hạ đến nay vẫn không trị ».
- ( Thiên hạ giai dĩ hiếu đễ trung thuận chi đạo vi phụ dã, nhi mạc tri sát hiếu đễ trung thuận chi đạo nhi thẩm hành chi, thị dĩ thiên hạ loạn. Giai dĩ Nghiêu Thuấn chi đạo vi thị nhi pháp chi, thị dĩ hữu thí quân, hữu khúc phụ. Nghiêu, Thuấn, Thang. Vũ hoặc phản quân thần chi nghĩa, loạn hậu thế chi giáo giả dã. Nghiêu vi nhân quân nhi quân thần kỳ thần, Thuấn vi nhân thần nhi thần kỳ quân ; Thang, Võ vi nhân thần nhi thí kỳ chủ, hình kỳ thi, nhi thiên hạ dự chi, thử thiên hạ sở dĩ chí kim bất trị giả dã) Vậy vua dù là tàn bạo như Kiệt, Trụ, bề tôi cũng không được đánh giết, đánh giết tức là trái đạo bề tôi, là nghịch thần chứ không bảo là cứu vớt dân được ; còn Nghiêu nhận ngôi vua cũng là trái đạo bề tôi. Tôn quân đến vậy là cực điểm, trái hẳn với chủ trương của Nho gia. 3 – Sau cùng quy kết thứ ba của chủ trương trọng sự cưỡng chế ; đó là hai cái «cán », hai quyền bính ở trong tay nhà vua, của riêng nhà vua. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc. Đây cũng là một điểm trái hẳn với Nho giáo. Nho giáo dùng sức để giáo hóa dân dã, kẻ nào không thể cảm hóa bằng đức được thì mới bất đắc dĩ phải dùng đến hình phạt .
- Khổng tử bảo : « Bậc Thái thượng (tức cao nhất ) lấy đức dạy dân, mà lấy lễ tề dân (tề là sửa lại cho ngay ). Bậc thứ nhì lấy chính sự mà khiến dân và lấy hình (phạt) mà ngăn cấm : hình đặt ra nhưng không dùng đến. Chỉ có lúc hóa dân mà dân không theo để đến hại nghĩa nát tục thì bây giờ mới phải dùng hình vậy.” ( Thái thượng dĩ đức giáo dân, nhi dĩ lễ tề chi. Kỳ thứ dĩ chính sự đạo dân, dĩ hình cấm chi, hình bất hình dã. Hóa chi phất biến, dân chi phát tòng, thương nghĩa nhi bại tục, ư thị hồ dụng hình hĩ - Khổng tử gia ngữ- Ngũ hình giải)[4]. Dùng đức và lễ để cảm hóa dân, kết quả tốt hơn dùng hình phạt, nên chương Vi chính, bài 3 (Luận ngữ) ông nói thêm : « Dùng pháp chế mà bắt dẫn dân, dùng hình phạt mà sửa dân cho ngay thì dân không phạm pháp nhưng không biết xấu hổ ; dùng đức mà dắt dân, dùng lễ mà sửa cho ngay thì dân biết xấu hổ mà trở nên tốt » .
- (Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sĩ, đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách). Ông còn mong đạt được lý tưởng trong nước không còn sự tranh giành, kiện tụng nữa : “Xử kiện thì ta cũng như người, cốt sao cho không còn kiện tụng mới hay”. ( Thính tụng ngô do nhân dã, tất dã sử vô tụng hồ - Nhan Uyên – 13) Vì Pháp gia cho sự thưởng phạt là cách tốt nhất để trị dân, nên chúng tôi để riêng tiết dưới đây để xét quan niệm về thưởng phạt của Hàn Phi. Thưởng Phạt. Hàn Phi cho rằng trừ một số ít siêu nhân, còn thì hầu hết loài người có nhiều tật xấu tham lợi, tranh giành nhau, làm biếng, chỉ sợ sức mạnh – ( coi phần I ) nên không mong gì họ làm điều thiện được, chỉ cầu sao họ biết sợ mà đừng làm điều ác thôi, vậy phải dùng chính sách cưỡng chế chớ không cảm hóa được. Tính người là có ưa có ghét – ưa tư lợi, ưa được khen, ghét bị cực khổ, bị hình phạt – cho nên có thể dùng sự thưởng phạt để dắt dẫn dân, ngăn cấm họ. « Đạo trị thiên hạ chỉ có vậy thôi » ( Bát kinh ).
- Chính sách cảm hóa của đạo Nho đẹp nhất đấy nhưng Hàn chê là không thực tế ; lâu có kết quả mà phải bậc hiền minh như Nghiêu, Thuấn mới may ra thi hành được : dùng sự thưởng phạt kết quả rất mau ( chỉ trong mươi ngày, không phải đợi tới một năm ) mà ông vua tầm thường nào cũng làm được. Thiên Nạn thất, Hàn chép lại một truyền thuyết về cách cảm hóa dân của vua Thuấn : « Nông phu ở Lịch Sơn lấn ruộng nhau ; ông Thuấn lại đó cày ruộng được một năm thì bờ ruộng đều chỉnh tề cả. Dân chài ở bờ sông Hoàng Hà tranh nhau các bãi trên sông : ông Thuấn đến đó đánh cá, được một năm thì người trẻ nhường những bãi đó cho người lớn tuổi. Đồ gốm thợ Đông Di làm đều xấu, dễ vỡ ; ông Thuấn lại đó làm, đồ gốm được một năm, đồ gốm đều tốt, chắc chắn ». Khổng tử khen ông Thuấn là bậc thánh, dùng đức mà cảm hóa được dân. Hàn Phi chê : « Ông Thuấn sửa khuyết điểm (cho dân ), một năm mới sửa được một tật, ba năm được ba tật. Tuổi thọ của ông có hạn mà tật của dân thì vô cùng : lấy cái hữu hạn để trừ cái vô cùng, thì trừ được bao nhiêu đâu ? Nếu dùng sự thưởng phạt bắt dân thi hành mà ra lệnh rằng : « Hễ làm đúng phép thì được thưởng, trái phép thì bị phạt » thì sáng ban lệnh, chiều sự
- tình đã thay đổi, chiều ban lệnh thì sáng hôm sau sự tình đã thay đổi, chỉ trong mười ngày là khắp nước thay đổi cả, đâu phải đợi đến một năm ? (… ) Vả lại nếu phải đích thân chịu lao khổ rồi mới cảm hóa được dân thì ngay Nghiêu, Thuấn cũng khó làm được, còn dùng (quyền) thế mà uốn nắn thiên hạ mà lại bỏ cái cách một vị chúa tầm thường cũng dễ dàng làm, thì kẻ đó chưa có thể cho làm chính trị được ». ‘ ’ (...) ” ( Thả Thuấn cứu bại, cơ niên dĩ nhất quá, tam niên dĩ tam quá, Thuấn thọ hữu tận, thiên hạ quá vô dĩ giả, dĩ hữu tận trục vô dĩ, sở chỉ giả quả hỉ. Thưởng phạt sử thiên hạ tất hành chi, lệnh viết : « Trúng trình giả thưởng, phất trúng trình giả tru. Lệnh triêu chí mộ biến, mộ chí triêu biến, thập nhật nhi hải nội tất hĩ, hề đãi cơ niên ? ( … ). Thả phù dĩ thân vi khổ nhi hậu hóa dân giả, Nghiêu, Thuấn chi sở nan dã ; xử thế nhi kiểu hạ giả, dung chủ chi sở dị dã, Tương trị thiên hạ, thích dung chủ chi sở dị dã. Tương trị thiên hạ,
- thích dung chủ chi sở dị dã. Tương trị thiên hạ, thích dung chủ chi sở dị, đạo Nghiêu, Thuấn chi sở nan, vị khả dữ vi chính dã). Hàn Phi cho cách thưởng phạt là mầm trị hay loạn của quốc gia nên gần như thiên nào ông cũng nhắc tới, trước sau có tới trên trăm chỗ, dưới đây chúng tôi tổng hợp lại để tìm ra nguyên tắc chính. 1- Thưởng thì phải « tín », phạt thì phải « tất » (Ngũ đố) : Chữ tất chúng tôi dịch là cương quyết, nghĩa là hễ kẻ cô tội thì phải trừng trị chớ không tha : chữ « tín » khó dịch hơn, chúng tôi dịch tạm là xác thực, nghĩa là hễ có công thì phải được thưởng theo như luật định, trái lại không có tội thì dù là kẻ mình ghét cũng không được trừng phạt ; không có công mà thưởng thì là thi ân, mầm của loạn vì dân sẽ không gắng sức làm việc nước để được thưởng mà tìm cách hối lộ quan lại, quan lại sẽ thi ân cho dân để mua lòng dân, kéo họ về phe mình mà mưu tư lợi. Ngay vua cũng không được thi ân cho dân, vì như vậy là trái phép, bất công, vả lại dân sẽ trông vào sự thi ân mà biếng nhác công việc. ( Thưởng vô công tắc dân du hãnh nhi vọng ư thượng - Nạn nhị). Hai chữ « Tín », "Tất" đó còn có nghĩa là không được mâu thuẫn trong việc thưởng phạt ; chẳng hạn « ban tước cho kẻ có (quân) công mà lại khinh thị quan võ, thương kẻ gắng canh tác mà lại coi rẻ nghề nông » (Ngũ
- đố) : hoặc thưởng người chém được đầu quân địch, mà đồng thời lại đề cao hành vi nhân từ ; ( … ) trông cậy vào nông dân để cho nước giàu, trông cậy vào quân lính để cự địch mà đồng thời lại trọng kẻ sĩ chuyên về văn học » ( Ngũ đố) tức những kẻ chỉ nói suông, chê bai pháp thuật, ngăn cản việc trị nước, chứ không giúp ích được chút gì cả. Nếu khiến cho kẻ phạm điều mình cấm lại được lợi, kẻ làm lợi cho mình lại bị cấm ; hoặc khen kẻ có tội, chê kẻ đáng thưởng thì sự thưởng phạt chỉ làm cho nước thêm loạn. (Ngoại trừ thuyết tả hạ) 2- Thưởng thì phải trọng hậu, phạt thì phải nặng. Thưởng trọng hậu thì dân mới thấy lợi mà ham : phạt nặng thì dân mới sợ mà tránh. Thiên Lục phản, Hàn Phi viết : « Các học giả đều bảo : Phải giảm nhẹ hình phạt đi », đó là thuật làm cho loạn vong. Thưởng phạt mà xác định là để khuyến thiện cấm ác. Thưởng hậu thì mau được cái mình muốn, phạt nặng thì mau cấm được cái mình ghét ( … ) Cho nên rất ham bình trị thì phải thưởng cho hậu, rất ghét rối loạn thì phải phạt cho nặng ( … ) Vả lại hình phạt nặng không phải chỉ để trị tội nhân, nó còn để làm sáng pháp độ của vua ( … ) cho nên bảo : « Phạt tội một kẻ gian mà ngăn cấm được mọi sự gian tà trong nước » ( … ) kẻ bị phạt
- nặng là kẻ cướp mà kẻ sợ hãi là lương dân (… ). Còn việc thưởng hậu không phải chỉ để thưởng công, còn để khuyến khích toàn dân trong nước nữa. Người được thưởng vui vì được lợi mà người chưa được thưởng sẽ ham được thưởng (…). Nay những kẻ không biết cách trị nước đều bảo : « Hình phạt nặng làm thương tổn dân, hình phạt nhẹ có thể cấm gian được rồi, cần gì phải dùng hình phạt nặng ? » . Đó là không xét kỹ về sự trị nước. Một tội ác có thể ngăn cấm bằng hình phạt nặng thì chưa chắc đã ngăn cấm được bằng hình phạt nhẹ ; còn một tội ác ngăn cấm được bằng hình phạt nhẹ thì càng dễ ngăn cấm bằng hình phạt nặng. Cho nên đặt ra hình phạt nặng thì mọi sự gian tà sẽ chấm dứt, mọi sự gian tà sẽ chấm dứt thì thương tổn cho dân ở chỗ nào ? ( … ) ( Phù dĩ trọng chỉ giả, vị tất dĩ khinh chỉ dã : dĩ khinh chỉ giả, tất dĩ trọng chỉ hĩ. Thị dĩ thượng thiết trọng hình giả nhi gian tận chỉ ; gian tận chỉ, tắc thử hồ thương ư dân dã?) Vậy dùng hình phạt nặng thì dân mới sợ mà mau có kết quả, nước sẽ hết loạn, chỉ có lợi cho dân chứ không làm thương tổn gì cho họ cả. Hơn nữa, còn là nhân từ đối với dân nữa, vì nếu dùng hình phạt nhẹ, dân không
- sợ mà mắc tội, như vậy không khác gì bẫy dân, còn dùng hình phạt nặng là tránh cho dân sa vào bẫy (Lục phản). Đó là chủ trương của Thương Ướng : dùng hình phạt để bỏ hình phạt ( hình dĩ khử hình ) trái với chủ trương đặt ra hình phạt mà không dùng (hình bất hình) của Khổng. Nếu kẻ phạm tội mà trốn được thì phải truy nã cho tới cùng, quyết không để cho một tội nào đã phát giác mà thoát khỏi lưới pháp luật – đây cũng là một quy kết của nguyên tắc « phạt thì phải « tất ». Trong Nội trừ thuyết thượng Hàn Phi đưa Vệ Tự Công ra làm gương : « Thời Vệ Tự Công có người bị tội đồ trốn qua nước Ngụy và trị bệnh cho hoàng hậu của Ngụy Tương vương. Tự Công hay tin sai người đem năm chục ( lượng hay dật ?) vàng để mua người có tội đó ; sứ giả đi đi về về năm lần mà vua Ngụy không chịu giao : Tự Công bèn lấy ấp Tả thị để đổi ». Đem một ấp để đổi lấy một tên phạm tội về mà trừng trị, cổ kim chắc chưa có ai như ông vua nước Vệ đó. Quần thần can, ông đáp : « Muốn trị nước thì đừng coi thường những việc nhỏ, loạn không phải là toàn là do việc lớn mà phát đâu. Pháp luật không vững, hình phạt không cương quyết thì dù
- có mười ấp Tả Thị cũng vô ích, ngược lại pháp luật mà vững, hình phạt mà cương quyết thì dù mất mười ấp Tả Thị cũng không hại. ( Phù trị vô tiểu nhi loạn vô đại. Pháp bất lập nhi tru bất tất, tuy hữu thập Tả Thị, vô ích dã, pháp lập nhi tru tất, tuy thất thập Tả Thị, vô hại dã) Trước sự cương quyết đó của Vệ Tự quân, vua Ngụy đành phải trao kẻ đã trị bệnh mẹ mình, để khỏi mất tình hòa hiếu với bạn chư hầu. Câu chữ Hán chúng tôi dẫn ở trên tóm tắt được một cách mạnh mẽ sự quan trọng của pháp và hình theo Pháp gia. 3 - Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, chí công vô tư. Thiên Hữu độ, Hàn bảo : « Pháp luật nghiêm là để ngăn cấm tội lỗi, trừ bỏ riêng tư : hình phạt gắt là để lệnh được thi hành khắp và trừng trị kẻ dưới ». Nói tới thưởng phạt, nhất là phạt, Hàn thường kèm theo với pháp luật. Vì pháp luật như cái dây mực, cái thủy chuẩn, cái quy cái củ, cứ theo đó thì hành động không sai ; dù
- là người thợ khéo đến mấy cũng phải dùng những cái đó làm tiêu chuẩn, không nên theo ý mình. « Dùng pháp luật để trị nước chỉ là để khen đúng người phải, trách đúng kẻ quấy mà thôi. Pháp luật không thể a dua người sáng cũng như dây mực không thể uốn theo gỗ cong... (cho nên) Trị tội thì không chừa các quan lớn, thưởng công thì không bỏ sót dân thường ( … ). Hình phạt nặng thì người sang không dám khinh kẻ hèn; Pháp luật phân minh thì người trên được tôn trọng, không bị lấn. (...) , (...) ( Cố dĩ pháp trị quốc, cử thố nhi dĩ hĩ – Pháp bất a quí, thằng bất nao khúc ( …) Hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di thất phu ( … ). Hình trọng tắc bất cảm dĩ quí dị tiện, pháp thẩm tắc thượng tôn nhi bất xâm - Hữu độ) Thiên Chủ đạo, cũng bảo : « Nếu quả thực có công thì dù là kẻ không thân và hèn mọn, cũng thưởng, nếu quả thực có tội thì dù là kẻ thân ái cũng phạt ».
- Thiên Ngoại trừ thuyết hữu thượng, Hàn nhắc lại nữa : « Không tránh người thân và đại thần, thi hành với cả người mình yêu » và kể ra hai cố sự mà chúng tôi đã dẫn ở trên. Truyện Tấn Văn Công rơi lệ để cho viên lại chém Điền Hiệt sủng thần của ông, vì tội tới trễ trong một buổi đi săn ; và truyện thái tử nước Kinh ‘Sở’ phạm cấm, bị viên đình lý ‘coi sân chầu’ phạt, khóc lóc xin với vua cha, vua cha đã không an ủi mà còn bênh vực viên đình lý. Tóm lại thưởng phạt không được vì tư tình, không được có tư ý, không được để lộ vui buồn của mình ra nữa, mặt phải lạnh như tiền : ‘hữu thưởng phạt nhi vô hỉ nộ - Dụng nhân’ Cứ theo đúng pháp luật mà thưởng phạt, thì kẻ bị trừng phạt không oán bề trên, kẻ được thưởng cũng không mang ơn bề trên, vì không coi sự được thưởng là một ân huệ, chỉ là một sự công bằng mà thôi. Đầu thiên Ngoại trừ thuyết tả hạ, Hàn kể lại hai cố sự để dẫn chứng: Một người phạm tội, bị Tử Cao làm chức coi ngục xử tội và chặt chân. Sau Tử Cao bị truy nã vì bị nghi là liên lụy trong một vụ làm loạn, người cụt chân đó không oán, không tố cáo. Tử Cao ngạc nhiên, hỏi tại sao không oán mình, người đó đáp : « Tôi bị chặt chân vì tội tôi đáng vậy, làm sao khác được ? ».
- - Châu Mão có công du thuyết mà cứu Ngụy khỏi bị Tần và Hàn đánh, Ngụy Tương vương thưởng ông lộc năm cỗ xe, ông không mang ơn mà còn chê là thưởng ít. Theo đúng pháp luật thì hình phạt sẽ thích đáng, nhiều hay ít không thành vấn đề : nước loạn, nhiều kẻ phạm pháp thì trừng trị nhiều, tuy nhiều cũng vô hại. Đầu thiên Nạn thị, Hàn Phi chép truyện Án Anh trách khéo Tề Cảnh Công dùng nhiều hình phạt quá, Cảnh Công nghe lời, bỏ bớt đi năm hình phạt, Hàn Phi chê Án Anh không biết thuật trị nước. « Hình phạt mà thích đáng thì nhiều cũng vô hại, nếu không thích đáng thì tuy ít cũng là hại. Án Tử không giảng cho vua lẽ thích đáng mà chỉ chê là nhiều quá, đó là cái hại vô thuật. Phạt quân thua trận thì đến số ngàn, số trăm vẫn chưa ngăn được sự bại tẩu, vậy thì hình phạt để dẹp loạn chỉ sợ không xuể mà kẻ gian vẫn còn. Án tử không xét là thích đáng hay không mà chỉ cho là nhiều quá, chẳng là bậy ư ? » !
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn