BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

TRẦN T Ù NG Q U ÂN

HỢP TÁC KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM- LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU) TRONG NHUNG N ĂM GAN ĐÂY

LUẬN VĂN THẠC sĩ KHOA HỌC KINH TẾ

T H ÍÍ Vi EN T R U Ô NG OAmor:

'NGOAI T H U ÔN ti

PO PO PO

ữ l . * ,i VIÊN] ữ l . * ,i VIÊN] ữ l . * ,i VIÊN]

y ị y ị y ị

IM.oi]

HÀ NỘI - 1998

BỘ GIÁO DỤC VÀ Đ ÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Trần Tùng Quân

HỢP TÁC KINH TỂ T H Ư Ơ NG MẠI VIỆT NAM - EU TRONG NHỮNG

NĂM GẦN ĐÂY

Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế

Mã số: 5.02.12

Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế

Người hướng dẫn khoa học: Tạ Kim Ngọc, PTS Khoa học Kinh tế

Hà nội-1998

Trang

L ỜI NÓI ĐẦU

3

Chương ì: Sự hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu 7

M ỤC L ỤC

ì. Sự hình thành và phát triển l i. Mục tiêu của việc thành lập ni. Chiến lược của EU đối với châu Á trong giai đoạn mới

7 13 17

1. Những mục tiêu tổng quát và các ưu tiên 2. Quan hệ hợp tác EU với châu Á

19 21

Chương li: Thực trạng hợp tác kinh tế và thương mại 34

Việt nam-EU trong những năm gần đây

36 39 40 45 60

66

ì. Hỗ trợ phát triển. li. Hợp tác thương mại Ì. Nhập khộu của Việt nam từ EU 2. Xuất khộu của Việt nam sang EU IU. Hợp tác đầu tư. IV. Một số đánh giá về thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt nam-EU.

Chương HI: Triển vọng hợp tác kinh tế thương mại 74

Việt nam-EU

ì. Những định hướng chiến lược cho quan hệ Việt nam-EU li. Các chính sách, giải pháp của Việt nam và triển vọng

74 80

hợp tác Việt nam-EU

KẾT LUẬN 97

LỜI MỞ ĐẦU

3

Hiện nay nhân tố kinh tế có vai trò ngày càng quan trọng trong quan hệ giữa các cường quốc trên thế giới. Sự vươn lên của các nước trong k hu vực và Việt nam trong nền kinh tế thế giới đã đang tác động và làm thay đổi chiến lược, chính sách của các nước lớn trên thế giới, đặc biệt là của các nước EU. Nếu như sau chiến tranh thế giới thứ hai, một số nước lớn trong EU đã tắng m ột thời "thoát l y" châu Á, thì nay đang rầm rộ "tiến quân" vào châu Á. EU đã và đang rất cố gắng xây dựng và phát triển các m ối quan hệ kinh tế và thương m ại với châu Á trên cơ sở bình đẳng, hai bên cùng có l ợi đồng thời thông qua các cuộc đối thoại chính trị sâu rộng và toàn diện cũng như tiếp tục chính sách viện trợ cho các nước nghèo trong khu vực để góp phần củng cố hoa bình và ổn định ở châu Á, tạo nhân tố thuận l ợi cho quá trình hợp tác.

Ị. Sư cán thiết của để tài:

Việt Nam trong tiến trình mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của minh đã xác đinh EU là một trong những hướng trọng điểm cần tăng cường các quan hệ hợp tác kinh tế thương mại. Là một thành viên chính thức của ASEAN, m ột quốc gia châu Á, quan hệ Việt Nam - EU đã được tăng cường và phát triển mạnh trên nhiều lĩnh vực, trên cơ sở ý tưởng chung của V i ệt Nam và EU là hợp tác vì hoa bình và phát triển. V ới việc ký Hiệp định khung hợp tác, quan hệ V i ệt nam - EU đã bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam - EU có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ cho phép nhìn nhận một cách khách quan sự thích ứng của EU trong điều kiện m ới của tái sản xuất xã hội và trong bối cảnh k i nh tế quốc tế đang biến đổi mà còn cung cấp những căn cứ, cơ sở chủ yếu của quan hệ k i nh tế mà các nước EU đang thực hiện. Việc nghiên cứu không chỉ giúp chúng ta hình

dung đầy đủ bức tranh kinh tế, của các nước EU mà còn cung cấp những hiểu biết để làm căn cứ hoạch định chính sách kinh tế đối ngoại của V i ệt N am v ới

các nước này. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, k hi đòi hỏi mở rộng quan hệ

4

kinh tế với các nước EU đối với Việt nam đang trở nên bức xúc.

Vả lại, ở Việt nam việc nghiên cứu tìm hiểu về EU, về quan hệ Việt nam - EU, nhất là hợp tác kinh tế - thương mại m ới chỉ được đề cấp ở những giác độ nhất định qua một số công trình, bài báo trên các tạp chí kinh tế chuyên ngành. Do vậy, Việc nghiên cứu tập trung vào quan hệ hợp tác k i nh tế - thương m ại Việt nam - EU lại càng có ý nghĩa quan trọng và cụn thiết.

2. Múc đích nghiên cứu: việc nghiên cứu của luận văn nhằm những mục đích

sau

Thứ nhất là tìm hiểu, phân tích và đánh giá quá trình ra đời, phát triển của EU - chiến lược chính sách của EU và tác động của nó đến sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực châu Á nói chung và V i ệt N am nói riêng.

Thứ hai là góp phụn làm phong phú thêm vốn hiểu biết về các nước trong EU về quan hệ hợp tác giữa Việt nam với EU và với các nước thành viên EU.

Thứ ba là trên cơ sở đó góp phụn cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước nhất là chính sách của nước ta trong việc tâng cuông, đẩy mạnh hợp tác với các nước EU trên lĩnh vực kinh tế - thương mại.

3. Phương pháp nghiên cứu:

Để đạt được các mục đích trên luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử - phân tích logíc và thống kê học

để xử lý các số liệu.

4. Đối tương & phàm vi nghiên cứu: luận văn chỉ giới hạn ỏ các quan hệ thương mại, đụu tư, hỗ trợ phát triển giữa V i ệt nam và EU trong giai đoạn từ

n ăm 1990 tói nay

5

5. Đóng góp của luân văn:

-Vẽ được bức tranh tổng thể về hợp tác kinh tế giữa Việt nam và EU

trong giai đoạn từ 1990 tói nay trên cơ sở hình dung được sự phát triển của

EU từ 6 nước thành viên lên tới 15 nước như hiện nay. Luận văn cũng cho

thấy những chính sách chiến lược chủ yếu của EU đối với châu Á nói chung

và Việt nam nói riêng. Đánh giá được thực trạng, những ưu-nhược điểm của

mối quan hệ đó.

-Khẳng độnh việc tăng cường qua hệ với EU là phù hợp với tinh thần

đường lối đói ngoại mà Đại hội Đảng v in đã đề ra: đa dạng hoa, đa phương

hoa các quan hệ kinh tế với các nước trên thế giói trên cơ sở bình đẳng, tông

trọng độc lập chủ quyền của nhau.

-Đưa ra một số chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế

thương mại với EU, mục đích chung là Việt nam sớm hội nhập với khu vực

và thế giới.

-Giúp các nhà nghiên cứu, các nhà doanh nghiệp một số điểm cần chú ý khi tiến hành thâm nhập thộ trường EU.

6. Bố cúc của luân văn:

Để đạt được các mục đích trên đây, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương.

Chương ì. Sự hình thành, phát triển của EU.

Chương li. Thực trạng hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam - EUtrong

những năm gần đây.

Chương ni. Triển vọng hợp tác Kinh tế thương mại Việt Nam - EU.

6

Trong quá trình viết luận vãn này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ cần thiết cùa:

*Trung tâm Châu Á-Thái Bình Dương, Viện kinh tế thế giới.

*Thư viện trường Đại học Ngoại Thương

*Đăc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của PTS. Tạ Kim Ngọc, phó giám đốc-phó tổng biên tập tạp chí kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương.

Tôi xin chân thành cảm ơn và bày tỏ lòng biết ơn về tứt cả những sự giúp đỡ quý báu đó!

Luận văn này chắc chắn còn nhiều thiếu sót về hình thức cũng như về n ội dung. Rứt mong nhận được sự phê bình và đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn đọc.

7

Chương ĩ

Sự HÌNH T H À N H, P H ÁT TRIỂN

CỦA LIÊN MINH C H ÂU Âu

Ị. Sư hình thành và phát triển

Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, một mặt, trước yêu cầu

cấp thiết phải khôi phục và phát triển nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến

tranh, các nước Tây Âu nhận thấy cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa

các nước Tây Âu với nhau để xây dựng sự phòng ngự tập thể, chống lại sự uy

hiếp tỏ bên ngoài vào, ngăn chặn chiến tranh sau này có thể nổ ra giữa các nước

Châu Âu, đặc biệt là phải đổi m ới kinh tế lấy sự hợp tác về sản xuất để thay t hế

cho sự đối địch về kinh tế. Mặt khác quá trình khách quan xuất phát tỏ sự đòi

hỏi phát triển của lực lượng sản xuất của đời sống kinh tế quốc tế hoa ngày

càng rộng rãi trước sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công

nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và đời

sống kinh tế Tày Âu. Sự tiến triển mạnh mẽ về công nghệ, kỹ thuật trên t hế

giới, đặc biệt là của Mỹ đã làm cho các nước Tây Âu "cảm thấy tính quá chật

hẹp của những vùng lãnh thổ của mình để đạt sự tiến bộ trong nền k i nh tế của

họ".

Chính trong bối cảnh này, việc tăng cường quan hệ kinh tế giữa các nước

Tây Âu với nhau và việc thiết lập một tổ chức quyền lực siêu quốc gia có sứ

mạng điều hành phối hợp hoạt động kinh tế của tỏng quốc gia càng trở nên bức

xúc. Để thống nhất Châu Âu, có hai hướng vận động:

- Hợp tác : Các quốc gia hợp tác với nhau, nhưng mỗi quốc gia đều giữ

8

trọn chủ quyền dân tộc. Theo cách này, ta đã thấy xuất hiện 2 tổ chức : Tổ chức

hợp tác kinh tế châu Âu (OECE), tiền thân của Tổ chức Hợp tác và Phát triển

kinh tế (OECD) thành lập 1948 chủ yếu để phân chia viện trợ của Mỹ; H ội

đồng Châu Âu thành lập vào 5/5/1949.

- Hoa nhập hay "nhất thể hoa" : Các quốc gia đều chấp nhận và tuân thủ

theo một cơ quan quyền lực chung siêu quốc gia. Cuối cùng nó sẽ dẫn tới việc

hình thành một tổ chức kiểu liên bang.

Xuất phát tờ đó, ngày 9/5/1950, với tuyên bố Schuman Bộ trưởng Ngoại

giao Pháp lúc bấy giờ, chính phủ Pháp đề nghị "Đặt toàn bộ nền sản xuất than,

thép của C H LB Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung trong m ột tổ

chức "mở cửa" để các nước châu Âu khác cùng tham gia". Bản tuyên bố nêu rõ

đề nghị trên đây của Pháp nhằm đặt nền móng đầu tiên cho m ột "Liên bang

châu  u" để gìn giữ hoa bình.'71

CHLB Đức hoan nghênh sáng kiến trên đây của Pháp vì thấy đó là biểu

hiện của việc Pháp đã chủ động hoa giải và đối xử bình đẳng v ới C H LB Đức.

Chính phủ các nước Italia, Bỉ, Hà Lan cùng lên tiếng ủng hộ. Sau gần m ột n ăm

đàm phán khẩn trương, căng thẳng, ngày 18/4/1951, 6 nước Pháp, Bỉ, C H LB

Đức, Italia, Hà Lan, Lúc Xămbua đã đi tòa ký Hiệp ước thiết lập Cộng đồng

than thép Châu Âu (CECA) và ngày 13/07/1952, CECA chính thức ra đời. Mục

tiêu của CECA là đảm bảo việc sản xuất và tiêu thụ than của các nước thành

viên trong những điều kiện thống nhất, đẩy mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật

trong sản xuất, phân phối, tiêu thụ và nâng cao nâng suất lao động.

Trên cơ sở những kết quả mà CECA mang lại về mặt kinh tế cũng như

9

chính trị, chính phủ các nước thành viên thấy cần thiết tiếp tục con đường đã

chọn để sớm đạt tới một "thực thể châu Âu mới". H ội nghị Bộ trưởng ngoại giao

6 nước tại Messine (Italia) từ ngày 1-2/6/1955 đã quyết định mở rộng hơn nữa

mối liên kết kinh tế giữa 6 nước. Sau cuộc đàm phán kéo dài ngót một n ăm giữa

6 nước thành viên của cộng đồng than thép châu Âu và ngày 25/3/1957, Hiệp

ước thiết lập cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) và hiệp ước thiết lập cộng đồng

Năng lượng nguyên tử châu Âu (CEEA) được ký kết tại Roma. Cả hai Hiệp ước

đó có hiệu lực từ ngày 1/1/1958. CEEA chỉ "điều chỉnh" một lĩnh vực của công

nghiệp và kinh tế, nhiệm vụ của nó chỉ là đẩy mạnh việc sáng tạo và phát triển

công nghiệp nguyên tử và đảm bảo việc cung cấp nguyên liệu, bảo vệ môi

trường. EEC bao trùm lĩnh vực kinh tế chung, bảo đảm hoa nhập k i nh tế, tiến

tới một thị trường thống nhất, tạo ra tự do lưu thông hàng hoa và con người

trong toàn khối. N ăm 1967, CECA, CEEA, EEC chính thức hợp nhất thành m ột

tồ chức chung gọi là "Cộng đồng châu Âu (ÉC)".

Chính phủ Anh ban đầu đón nhận tuyên bố Schuman một cách lạnh nhạt,

chỉ trích việc thành lập CECA vì nó đụng chạm tới chủ quyền dân tộc. T uy

nhiên do những hạn chế của "Khu vực Tự do mậu dịch Châu  u" "rông" và

"hẹp" trong k hi Cộng đồng Châu Âu lại đạt được những thành tựu nhất định cả

về kinh tế và chính trị, cuối cùng chính phủ A nh thay đồi thái độ và ngày

9/8/1961 tuyên bố chính thức ý định gia nhập EEC. Cùng v ới Anh, 3 nước Bắc

Âu Đan Mạch, Ireland và Nauy cũng đệ đơn x in vào EEC. Sau m ột thời gian

đàm phán, các bên đã có các nhượng bộ để đi t ới ký k ết Hiệp ước ngày

22/1/1972. Kể từ ngày 1/1/1973, cộng đồng châu Âu chính thức thêm ba thành

viên mới: Anh, Ireland và Đan mạch. Riêng Nauy, mặc dù đã tham gia ký Hiệp

ước, nhưng không trở thành thành viên vì nhân dân Nauy không tán thành trong

cuộc trưng cầu dân ý ( 5 3 , 4% phiếu nghịch).

10

Sau lần "mở cửa" thứ nhất, với việc gia nhập của 3 nước Tây Bắc  u, cộng

đồng châu Âu "mở cửa" lần thứ hai đón tiếp thêm 3 nước Nam Âu: Hy Lạp, Tây

Ban Nha, Bồ Đào Nha. Cuộc đàm phán với 3 nước này cũng không kém phần

dai dẳng, bởi vì, về mặt chính trị, có thêm 3 thành viên mới, tiếng nói của Cộng

đồng mạnh hơn nhưng về mặt kinh tế, sợ yếu k ém về kinh tế của 3 nước là gánh

nặng cho Cộng đồng (trình độ phát triển của 3 nước đều thấp hơn mức trung

bình của Cộng đồng). Do vậy, với Hy Lạp xin gia nhập từ ngày 12/7/1975, sau

3 năm đàm phán (7/76 - 5/79) ngày 1/1/1981 nước này m ới trở thành thành viên

thứ 10 của EEC. Còn Bồ Đào Nha (đệ đơn ngày 28/5/1977) và Tây Ban Nha (đệ

đem gia nhập 28/7/77), hiệp ước m ới được ký kết tại hai Thủ đô Lisbon và

Madrid ngày 12/6/1985 và hai nước này bắt đầu trở thành thành viên chính thức

từ ngày 1/1/1986.

Như vậy, sau 34 năm hình thành và phát triển, kể từ khi CECA chính thức

ra đời (23/7/1952) tới khi hai nước Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trở thành thành

viên chính thức (1/1986), EEC đã tăng gấp đôi về số lượng các nước thành viên,

12 nước.

Nhờ những thành công đã đạt được về kinh tế lẫn chính trị, cộng đồng

kinh tế châu Âu đang tiếp tục mở rộng các quá trình liên kết hợp tác rộng rãi

giữa các nước và các dân tộc. Đỉnh cao những nỗ lợc của quá trình thống nhất

châu Âu được thể hiện qua cuộc họp thượng đỉnh các nước thuộc cộng đồng

kinh tế châu Âu tổ chức tại Maastricht Hà L an ngày 9 và lo tháng 12/1991. H ội

nghị đã thông qua Hiệp ước Maastricht về thống nhất EU, về việc thành lập liên

minh kinh tế và tiền tệ ( E M U) và liên minh chính trị (EPU) nhằm làm cho châu

Âu thay đổi một cách mạnh mẽ vào năm 2000 v ới một nền an ninh mới. Đây là

một dấu ẩn lịch sử đáng ghi nhớ. Cợu Tổng thống Pháp Mitterrart nói: "Đâylà

li

sự kiện quan trọng nhất của nửa cuối thế kỷ XX, là thời khắc chuẩn bị cho thế

kỷ tới. Thế kỷ XX đã chứng kiến sự sụp đổ của tất cợ các đế chế... và g iờ đây

đang chứng kiến sự ra đời của một cộng đồng 340 triệu dân..."

Vượt qua nhiều khó khăn và bất đồng chính kiến, sau gần 2 năm, các nhà

lãnh đạo Tây Âu đã vui mừng đón nhận quyết định của C H LB Đức - quốc gia

cuối cùng trong 12 nước thuộc ÉC - phê chuẩn và tham gia Hiệp ước này.

Tháng 10/1993, nước Bỉ đương k im chủ tịch cộng đồng châu Âu đã tuyên bố

triệu tập H ội nghị các nguyên thủ quốc gia 12 nước ÉC để phê chuẩn hiệu lực

của Hiệp ước. Và ngày 1/11/1993 Hiệp ước Maastricht chính thức có hiệu lực.

ÉC gồm 12 nước chuyển thành EU (Liên minh châu Âu), đặt nền móng tiến t ới

một "Hợp chủng quốc châu Âu" như ước mơ của nhiều chính khách châu Âu

hồi đầu thế kỷ. Triển vọng sáng sủa của EU đang là sự hấp dẫn không những

đối vói các nước châu Âu mà thậm chí với cợ các nước không thuộc châu Âu.

Với những kết quợ tích cực qua những cuộc trưng cầu dân ý, Áo, Phần Lan

và Thúy Điển đã chính thức x in gia nhập EU và đã được H ội đồng Châu Âu

chấp thuận là thành viên chính thức từ 1/1/1995. N hư vậy mạc dù một số nước

chưa gia nhập được EU, song tính đến nay, sau lần mở cửa thứ 3 bắt đầu từ

1/1/1995 EU bước vào thời kỳ m ới gồm 15 thành viên, trong đó 3 thành viên

mới là Áo, Phần Lan và Thúy Điển. Điều đó cho thấy rõ bước tiến quan trọng

trong tiến trình hoa nhập châu Âu và ợnh hưởng của EU không chỉ đến tình

hình kinh tế và chính trị của từng nước trong EU mà còn đến cợ châu Âu.

Hiện nay các nước Đông Âu cũng đang từng bước bước vào quá trình liên

kết châu Âu, đồng thời mở rộng thị trường chung để tạo ra những chất xúc tác

bổ sung cho sự tăng trưởng kinh tế.

12

Các nước này đã chấp nhận chiến lược do EU đề ra đối với việc mở rộng

EU sang các nước Đông Âu. Các nước EU đều bảo đảm v ới các nước Đông Ẩu

rằng họ sẽ tiến hành các cuộc trao đổi thường xuyên để giúp đỡ các nước này

nhanh chóng gia nhập EU. Mở đứu là H ội nghị cấp cao 15 nước EU và 6 nước

Đông Âu tại E-Xen (Đức) vào tháng 12/1994 đã kết thúc với việc xác định

những vấn đề ưu tiên trong giai đoạn ngắn hạn và trung hạn của EU. M ới đây,

ngày 2/10/1997, tại Amsterdam (Hà Lan), ngoại trưởng 15 nước EU đã ký

chính thức bản dự thảo Hiệp định đã được các nhà lãnh đạo cấp cao EU thông

qua tại cuộc họp lứn thứ 57 hồi tháng 6/1997. Hiệp định đã quy định việc mở

rộng thành viên EU. Uy ban châu Âu đã chọn 6 nước g ồm Hungari, Ba Lan,

Cộng hoa Séc, Estonia, Slovenia và Síp để đàm phán, kết nạp vào đạt đứu.

Có thể nói, quá trình ra đời và phát triển của EU trong hơn 40 năm qua là

cả một quá trình đấu tranh gay gắt, một quá trình tranh chấp và thoa hiệp. Song

nhìn chung, các nước thành viên đều thống nhất mục tiêu đề ra và cam kết trong

các Hiệp ước. Tất nhiên, để đạt được, điều không thể tránh k h ỏi là k hi tiến hành

thực hiện các chính sách đều đụng chạm đến l ợi ích quốc gia và chủ quyền dân

tộc của mỗi nước.

Từ khi ra đời đến nay, EU đã đạt được những bước tiến đáng kể. Từ một

cộng đồng gồm 6 nước, chỉ có hai sản phẩm than thép đến nay nó đã trở thành

một cộng đồng gồm 15 nướcchi phối nhiều lĩnh vực k i nh tế. Từ chỗ các hoạt

động thuứn tuy về kinh tế, nó đã tiến dứn t ới các mục tiêu chính trị (hợp tác

chính trị), về cơ bản, hoạt động của EU diễn ra trên một số lĩnh vực sau: Thành

lập thị trường chung, liên kết khoa học kỹ thuật, chính sách nông nghiệp chung,

chương trình năng lượng chung, liên kết tiền tệ...

13

Trên ngưỡng cửa thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, EU đang nhanh chóng

trở thành một cực đặc biệt trong nền kinh tế thế giới về sức mạnh kinh tế. V ới

hơn 373 triệu dân, tổng sản phồm xã h ội hơn 7 nghìn tỷ đô la, các nước Liên

minh châu Âu chiếm 1/3 sản phồm công nghiệp của thế giới tư bản chủ nghĩa,

gần 5 0% xuất khồu và hơn 5 0% các nguồn tư bản [9). Đặc biệt thời gian gần đây

quá trình liên kết kinh tế chính trị đang diễn ra ở Tây Âu đã giúp cho việc ổn

định tình hình phát triển kinh tế khu vực, tạo điều kiện cho EU phát triển về

chất.

ỊL Múc tiêu của việc thành láp và cơ cấu hoạt đổng:

Liên minh châu Âu gồm 15 nước (Đức, Anh, Pháp, Italia, Bỉ, Hà Lan,

Lúcxãmbua, Ireland, Đan Mạch, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, áo, Phần

Lan và Thúy Điển) cùng nhau tạo thành một tổng thể thống nhất, đóng vai trò

một quốc gia vĩ đại là giai đoạn quyết đinh thực hiện ý đinh thành lập hợp

chủng quốc châu Âu, trong đó không còn ranh giới quốc gia và các cửa khồu

ngăn chặn sự đi lại của con người, tư bản hàng hoa và dịch vụ. Thực chất của

việc nhất thể hoa châu Âu ở đây là việc thành lập một thị trường chung, là sự

thâm nhập lẫn nhau và bổ sung cho nhau cơ cấu kinh tế của các nước thành viên

EU. Đó là sự quốc tế hoa không chỉ lực lượng sản xuất mà cả quan hệ sản xuất.

Hình ảnh thị trường rộng lán không biên giới và cản trở đã cho thấy tác dụng

của nó cả trong nội bộ EU lẫn bên ngoài. "Châu Âu đang đi trên con đường tự

tìm ra và đang vượt qua sự phiêu lưu lớn nhất trong lịch sử của nó" Jacques

Delors cựu chủ tịch Uy ban ÉC, một uy ban năm 1985 đã quyết định hoàn thiện

thị trường n ội bộ thống nhất không ranh giới vào cuối n ăm 1992, đã khắc hoa

như thế.

14

Mục tiêu của việc thành lập EU được thể hiện ngay trong các hiệp ước ở

R ôm về thành lập cộng đồng kinh tế châu Âu năm 1957. Đó là tăng cường sự

liên kết về mặt kinh tế, tập hợp sức mạnh của các quốc gia, giịi quyết các vấn

đề kinh tế nịy sinh trong từng nước và cị cộng đồng trong từng giai đoạn lịch

sử nhất định. Thông qua sự liên kết ngày càng chặt chẽ trong n ội bộ cộng đổng

để thiết lập một khu vực tiền tệ ổn định ở Tây Âu nhằm cạnh tranh với đồng đô

la Mỹ, về lâu dài để hình thành một liên minh tiền tệ và kinh tế thống nhất tiến

tới tăng cường liên kết về mặt chính trị. Để đạt được các mục tiêu trên đây, EU

đã lập ra một số cơ quan siêu quốc gia nhằm hoạch định điều hành và giám sát

quá trình thực hiện liên kết của từng quốc gia. Hiện nay xếp theo vị thế, hệ

thống các tổ chức của EU bao gồm: H ội đồng châu Âu, H ội đồng Bộ trưởng,

Uy ban các cộng đồng châu Âu; Nghị viện châu Âu; Toa án châu Âu - là những

tổ chức cơ bịn, ngoài ra là các uy ban kinh tế và xã hội, uy ban tư vấn cộng

đồng than thép châu Âu, Toa thẩm kế và Ngân hàng đầu tư châu Âu. Trong đó,

H ội đồng châu Âu chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. H ội đồng châu Âu là cấp ấn

định những phương hướng trong nền chính trị của cộng đồng, giịi quyết một số

vấn đề sống còn vì sự tiến bộ của cộng đồng và tạo ra một uy lực chính trị để

chuyển sang các giai đoạn mới.

- Hỏi đổng châu Âu: Định ước thống nhất chung châu Âu đã chính thức

chỉ định H ội đồng châu Âu như một cấp quyền lực chung của cộng đồng, bao

gồm những người đứng đầu quốc gia hay chính phủ các nước thành viên và chủ

tịch ủy ban các cộng đồng châu Âu. H ội đồng tiến hành họp ít nhất hai lần

trong một năm, bao gồm những người đứng đầu chính phủ của các nước thành

viên mỗi k hi cần thúc đẩy sự tiến triển của những vấn đề quan trọng.

- Hỏi đồng Bỏ trưởng: Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan lập pháp tối hậu của

15

cộng đồng, được thành lập tháng 4-1965, bao gồm những đại diện chính phủ

của các nước thành viên. Chủ tịch H ội đồng do các thành viên của H ội đổng

đảm nhiệm trong thời gian là 6 tháng, theo thứ tự vần chữ cái tên của các nước

thành viên. Hoạt động của H ội đồng Bộ trưụng thường thông qua ủy ban các đại

diện thường trực (COREPER). Uy ban này sẽ chịu trách nhiệm chuẩn bị các

công việc của H ội đồng và thừa hành những nhiệm vụ mà H ội đổng ủy thác cho

nó.

- Uy ban Công đổng châu Ấu (Uy ban Brúcxen): Tên thường gọi là Uy ban

châu Âu; được hình thành từ tháng 4-1965 trên cơ sụ sự hoa nhập của các cơ

quan điều hành của CECA, CEEA, EEC. Số thành viên hiện nay là 20, được

gọi là "Uy viên châu Âu". H ội đồng bao gồm hai ủy ban là Uy ban kinh tế xã

hội và Uy ban tư vấn thuộc cộng đồng than thép châu Âu. H ội đồng là cơ quan

đại diện cho EEC, thay mặt cho H ội đồng Bộ trưụng trong m ọi quan hệ đối

ngoại. Uỷ ban hoạt động vì lợi ích chung của các cộng đồng, độc lập v ới chính

phủ. Uy ban chịu sự kiểm soát của Nghị viện châu Âu. Những chức năng cơ bản

là:

+ Đề nghị lên Hội đồng Bộ trưụng các thể thức áp dụng một quyết định

hay xác định một chính sách được áp dụng vào một lĩnh vực cụ thể.

+ Có trách nhiệm thi hành các hiệp ước và các quyết định của Hội đồnơ

cũng như các điều khoản bảo vệ.

+ Quản lý ngân sách của cộng đồng.

- Nghi viên châu Âu: là cơ quan cộng đồng tập hợp những đại diện củ

16

nhân dân các nước thành viên, được thành lập theo các Hiệp ước Pari và R ô ma

dưới cái tên "Assemblee" vào năm 1951, và từ ngày 20-3-1962 có tên m ới là "

Nghị viện châu Âu". Nghị viên bao gồm các nghị sĩ châu Âu do dân bầu trong

các cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu theo nguyên tắc phổ thông và trực tiếp cho

một nhiệm kỳ là 5 năm. Nghị viện được chia thành 18 ban chuyên về những

lĩnh vực chủ yếu trong nền chính trị cộng đồng, và 5 ủy ban k i nh tế (nông-ngư

nghiệp, ngân sách, kinh tế-tiền tệ & chính sách công nghiệp, năng lượng & kứ

thuật, kinh tế đối ngoại). Nghị viện thực hiện các quyền:

+ kiêm soát hoạt động của Uy ban các cộng đồng

+ tham gia vào các quá trình lập pháp và dự quyết ngân sách của cộng

đồng.

- Toa án châu Âu có hai chức năng quan trọng nhất là:

+ Phán xét các tranh chấp giữa các nước thành viên, giữa các cơ quan

cộng đồng với nhau, giữa các cộng đồng với các nước thành viên, và giữa các

cộng đồng với tư nhân.

+ Bảo đảm sự giải thích thống nhất trong các nước thành viên về luật lệ

cộng đồng, đồng thời kiểm soát tính hợp pháp của các văn kiện lập pháp do các

cơ quan cộng đồng ban hành.

- Toa thẩm kế được thành lập tháng 10-1977 nhằm kiểm soát sự cân đối và

quản lý tài chính các ngân quứ của cộng đồng.

17

- Ngân hàng đáu tư châu Âu: chức năng chủ yếu là sử dụng nguồn vốn do

các nước thành viên đóng góp và vốn vay quốc tế để cấp phát tín dụng cho các

tổ chức nhà nước, xí nghiệp của các nước thành viên hoặc của các nước đang

phát triển có vốn góp.

ni. Chiến lược của EU đỏi vói châu Ả trong giai đoan mới.

Sự sụp đổ của CNXH ữ Đông Âu và đặc biệt là sự cáo chung của Liên

bang Xô Viết, cục diện thế thơi đã hoàn toàn thay đổi, thế đối đầu hai cực Xô -

Mỹ không còn nữa, châu Âu trữ nên bất ổn đinh hơn, đồng thời vai trò cân bằng

lực lượng của Mỹ ữ châu Âu cũng bị suy yếu đi. Các nước trong k h ối EU đã

nhanh chóng nắm lấy cơ hội này để thoát k h ỏi vòng ảnh hưững của Washing

ton, đồng thời với tiềm năng sẵn có, xây dựng châu Âu thành một cực độc lập,

ổn định, một "trung tâm phát triển của thế giói".

Trong bối cảnh mới, EU đang tăng cường quan hệ với các nước trên thế

giới về các mặt kinh tế, thương mại và chính trị. Quan hệ của EU với các nưóc

đã mữ rộng từ khu vực Địa Trung Hải và châu Phi sang các nước châu Á và Mỹ

La Tinh. Đặc biệt khu vực châu Á ngày nay đã trữ thành m ột đối tác kinh tế

quan trọng của EU.

Hiện nay sự tăng trưững kinh tế ữ châu Á đã làm thay đổi cơ bản sự cân

bằng kinh tế thế giới. Theo nhận định của Ngân hàng thế giới thì từ nay đến

năm 2000, 1/2 tần số tăng trưững kinh tế thế giới sẽ thuộc về châu Á (gồm

Đông Á và Đông Nam Á). V ới tốc độ tăng trưững kinh tế này, từ nay đến n ăm

2000, sẽ có một tỷ người châu Á là những người tiêu dùng có sức mua lớn và

400 triệu trong số đó sẽ CI )*¥ủ1íế thú7 rìhạp dư thừa trung bình bằng, hoặc cao hơn

18

mức thu nhập dư thừa của người châu Âu và châu Mỹ p l. Vì vậy, Liên m i nh

châu Âu phải đặc biệt quan tâm hơn nữa đến châu Á trong thời gian tới.

Một vấn đề có tính cấp bách của EU hiện nay là phải tăng cường sự hiện

diện về kinh tế của mình ở châu Á nhằm duy trì ảnh hưởng nầi trội nhất của

mình trong nền kinh tế thế giới. Việc thiết lập được một sự hiện diện mạnh mẽ

và đầng bộ tại các khu vực ở châu Á sẽ cho phép EU bảo đảm những l ợi ích của

mình tại khu vực này vào đầu thế kỉ 21 sẽ được quan tâm đầy đủ.

Tiềm lực kinh tế ngày càng tăng của châu Á đang thúc giục châu lục này

đóng một vai trò lớn hơn trên trường quốc tế. Đồ ng thời, việc chiến tranh lạnh

kết thúc đã tạo ra một môi trường lỏng lẻo về mặt chính trị. Do đó, EU đang cố

gắng phát triển đối thoại về mặt chính trị với châu Á và tìm kiếm những phương

tiện cho phép phối hợp với châu Á ngày càng nhiều hơn trong việc giải quyết

những công việc của quốc tế, nhằm tạo ra m ột đối tác cân bằng sức mạnh có

khả năng giữ một vai trò làm ần định và xây dựng thế giới hiện nay.

Để tranh thủ những khả năng mới này, EU đang gắng góp phần tích cực

vào các cuộc đối thoại khu vực về việc giải quyết các vấn đề về an ninh và rất

chú ý theo dõi diễn biến tình hình đặc biệt trong các lĩnh vực kiểm soát vũ

trang, không phầ biến vũ khí hạt nhân, các cuộc xung đột khu vực và an ninh

trên các tuyến đường biển. Những gì có quan hệ với việc quản lí tốt những vấn

đề chính trị đặc biệt là vấn đề quyền con người cũng cần có một vai trò quan

trọng trong các m ối quan hệ giữa EU với các nước châu Á.

Để đạt được những mục tiêu của mình, EU đã thông qua những chiến lược

quyết tâm hơn, đặt trọng tâm vào việc khai thác mạnh mẽ hơn và có mục tiêu

19

chính xác hơn đối với sự hợp tác kinh tế nhằm khuyến khích buôn bán và đầu tư

của châu Âu.

Việc cải tổ các nền kinh tế trước kia vốn là kế hoạch hoa, chẳng hạn như ở

Trung Quốc, Ấn Độ và V i ệt nam, là một mặt cực kễ quan trọng của những thay

đổi cơ bản đang diễn ra ở châu Á. Việc EU tham gia vào những thay đổi đó dù

ở cấp độ nhà nước hay tư nhân cũng sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn

nhau và các m ối quan hệ kinh tế.

EU đã tiến hành một chương trình được phối hợp đồng bộ về các mối quan

hệ công khai để cải thiện hình ảnh của mình ở châu Á.

Ị - Những múc tiêu tổng quát và các ưu tiên,

Điều cốt lõi trong chính sách châu Á của EU hiện nay và về sau là ở các

vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, thành phần chủ yếu này trong chính sách của EU

phải được trình bày theo bối cảnh cân bằng lực lượng về chính trị và an ninh

trong khu vực.

ạ. Những múc tiêu tổng quát:

- Tăng cường sự hiện diện về kinh tế của EU tại châu Á nhằm duy trì vai

trò n ổi trội của mình trong nền kinh tế thế giới. Việc thiết lập được một sự hiện

diện đáng kể ở châu Á sẽ cho phép EU chăm lo sao cho những l ợi ích của mình

được tôn trọng hoàn toàn trong khu vực then chốt này vào đầu thế kỷ 21.

- Góp phần vào sự ổn định ở châu Á bằng cách khuyến khích hợp tác và

20

hiểu biết lẫn nhau ở cấp độ quốc tế; về mặt này, EU đang mở rộng và làm sâu

sắc các m ối quan hệ chính trị và kinh tế của mình với các nước châu Á.

- Khuyến khích sự phát triển kinh tế của các nước và khu vực kém thịnh

vượng nhất. Biết rằng trong tương lai gần đây vẫn là khu vực tạp trung đông dân

cư nghèo nhất thế giới, nên EU và các nước thành viên của mình sẽ còn phải

tiếp tục góp phần làm giảm bớt sự nghèo nàn và tạo ta m ột sự tăng trưởng bền

vững.

- Góp phần phát triển và củng cố nền dân chủ, nhà nước pháp quyền, cũng

như về phương diện tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản ở

châu A.

b. Những ưu tiên.

Để đạt được mục đích này, EU phải nỗ lực to lớn để định hướng lại các

chính sách hiện nay và quan tâm tới lĩnh vực mới. Tầm cỡ của nỗ lực này đòi

hỏi phải sử dụng tất cả các nguồn lực sẵn có một cách hiệu quả hơn. Điều này

cũng đòi hỏi phải có sự phối hợp nhiều hơn nữa trong nội bộ EU, và đó không

phải là việc nhỏ.

Điều này cũng đòi hỏi có một loạt các lĩnh vực hoạt động ưu tiên thấy

được rõ ràng ở khắp châu Á, những lĩnh vực mà có thể sắp xếp thực hiện m ột

cách thích hợp nhất đối với tình hình cụ thể của từng nước và từng vùng.

- Tiếp tục tăng cường các mối quan hệ song phương giữa EU với từng nước

và từng khu vực của châu Á.

21

- Cải thiện hình ảnh của EU ở châu Á.

- Ung hộ những nỗ lực của các nước châu Á trong hợp tác cả ở cấp độ khu

vực và tiểu khu vực, thí dụ như trong khuôn k hổ của Diễn đàn k hu vực A S E AN

nhằm củng cờ hoa bình và an ninh trong khu vực.

- Phời hợp với các nước châu Á trong việc giải quyết các vấn đề quờc tế và

chủ yếu bằng việc khích lệ các quờc gia này đảm nhận một vai trò tích cực hơn

trong các hoạt động đa phương nhằm duy trì hoa bình và an ninh quờc tế. Tăng

cường các m ời quan hệ với các nước châu Á trong khuôn k hổ đa phương và tiếp

tục thúc đẩy các nước này tham gia vào các tổ chức đa phương.

- Tiếp tục mọi hoạt động cần thiết bảo đảm cho việc mở cửa thị trường và

tạo ra một bầu không khí làm ăn không có sự phân biệt đời xử thuận l ợi cho sự

phát triển buôn bán và đầu tư giữa châu Âu và châu Á.

- Sát nhập các nước châu Á có nền mậu dịch quờc doanh đang dần dần tiến

tới kinh tế thị trường vào hệ thờng thương m ại quờc tế mở cửa và tuân thủ các

luật thị trường.

- Góp phần vào công cuộc phát triển bền vững và giảm đói nghèo ở các

nước nghèo nhất châu Á.

2-Quan hê hợp tác EU với châu Ả

Trong khi đưa ra những chiến lược mới đời với châu Á, EU không xuất

phát từ con sờ không, mà trong thực tế nó đã có một kinh nghiệm đán* kể ở

22

châu Á:

ạ. Các quan hê song phương.

Theo truyền thống, EU đang tiến hành sự hợp tác song phương của mình

với nhiều nước và khu vực ở châu Á, cũng như với các khu vực khác trên thế

giới, trong khuôn khổ các hiệp định buôn bán và hợp tác.

Ở cấp độ song phương, đó là trường hợp đối thoại với Nhật Bản (dựa trên

tuyên bố chung EU - Nhật Bản), với Trung Quốc (trao đổi thư tễ m ới đây giữa

hai phía), với Ấn Độ (dựa trên tuyên bố chính trị chung tháng 12 n ăm 1993).

Ở cấp độ khu vực, cuộc đối thoại chính trị diễn ra trong khuôn khổ

A S E AN (chưa có một cuộc đối thoại song phương nào với các nước thành viên

ASEAN). M ột cuộc họp hàng năm EU - A S E AN ở cấp bộ trưởng hoặc ở cấp

các quan chức cao cấp đã diễn ra; ngoài ra cũng có một cuộc họp khác hàng

năm ở cấp bộ trưởng trong khuôn khổ h ội nghị sau bộ trưởng của ASEAN,

trong đó EU là một trong những bên tham gia đối thoại cùng với Mỹ, Canada,

úc, New-Zeland, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Ớ cấp độ chung hơn, EU cũng đang tham gia vào cuộc đối thoại khu vực

chung duy nhất để giải quyết những vấn đề an ninh trong diễn đàn k hu vực

ASEAN, nơi tập trung hầu hết các nước châu Á .

Cuộc đối thoại chính trị đã diễn ra chủ yếu ở cấp bộ trưởng hoặc ở cấp các

nhà lãnh đạo chính trị.

Cách đây 15 năm mới chỉ có một phái đoàn duy nhất của Uy ban châu Âu

23

có mặt ở châu Á, tại Tokyo. Ngày nay đã có tới 10 phái đoàn EU ở châu Á.

b, Hợp tác đa phương.

EU đã bắt đầu một cuộc đối thoại rộng rãi với châu Á trong khuôn khổ của

tổ chức Liên Hợp Quốc về các vấn đề cùng quan tâm có liên quan tới hoa bình

và an ninh quốc tế. Trong những năm gần đây, EU đã tăng cường mạnh mẽ sự

hợp tác kinh tế của mình với các nước châu Á. Điều này diịn ra không chỉ trong

khuôn khổ WTO, trong đó vai trò của các quốc gia châu Á đã tăng lên đáng kể,

tương ứng với địa vị ngày càng tăng của họ trong nền mậu dịch quốc tế, mà cả

trong các cơ quan của LHQ.

c. Chính sách thương mai.

Chính sách thương mại của EU, nhìn chung cũng như đối với các nước

châu Á, luôn hướng về một sự thúc đẩy tích cực việc tự do hoa thương m ại

trong khuôn k hổ một hệ thống đa phương với sự tôn trọng m ọi nguyên tắc và

mọi cam kết có liên quan. Sự cải thiện điều kiện thâm nhập thị trường cho các

nhà xuất khẩu của EU đã đạt được trong khuôn k hổ vòng đàm phán Uruguay

và từ các hoạt động khác được tiến hành ở cấp độ đa phương EU cũng đã cố

gắng cải thiện điều kiện thâm nhập thị trường cho các công ty châu Âu thông

qua con đường của các quan hệ song phương của mình.

Trên phạm vi châu Âu, những hoạt động khuyến khích nền thương mại

châu Âu hướng sang các thị trường châu Á cũng đang được tiến hành ở m ọi cấp

độ khác nhau trong toàn khu vực. Trong k hi đó, những hoạt động chính nhằm

khuyên khích đầu tư châu Âu sang châu Á cũng được tăng cường.

24

EU có nhiều phương tiện trong chính sách thương mại: những biện pháp

chống phá giá và những biện pháp bảo hộ. Những biện pháp này phù hợp với

những ràng buộc và cam kết đa phương của EU vốn có chức năng giới hạn việc

sử dụng chúng một cách thích đáng. Đối với các sản phẩm của ngành dệt thì

mọi hạn chế hiện tồn tại sẽ được EU xem xét đúng với thoa thuận trong vòng

đàm phán Uruguay.

d. Trơ giúp phát triỹn,

Trong thời gian 1976-1991, EU đã trợ giúp hơn 32 tỉ ê-cu cho châu Á.

N hư vậy, EU là nhà tài trợ chủ chốt thứ 2 cho châu Á, sau Nhật Bản, nhưng

khối lượng trợ giúp lại lớn hơn Mỹ gấp 3 lần. Khoảng 1 1% tổng số tiền viện trợ

của EU trích ra từ ngân sách dành cho các nước châu Á và Mỹ La Tinh do Uy

ban EU quản lý. Chỉ có một phần nhỏ tài trợ được dùng vào hợp tác k i nh tế, có

phần chủ yếu được dành cho các chương trình phát triỹn nông thôn và trợ giúp

lương thực. Cho dù trong quá k hứ hiệu quả của sự trợ giúp này ra sao đi chăng

nữa, người ta vẫn thấy cần phải đánh giá lại hiệu quả đó nhằm làm cho cách tiếp

cận phù hợp được với những thay đổi của các điều kiện ở phần lớn k hu vực châu

Á.

Điều lệ năm 1992 liên quan tới các nước đang phát triỹn ở Mỹ La Tinh và

châu Á đã thỹ hiện bước khởi đầu quan trọng. Điều lệ này dự kiến hai hướng

hợp tác chủ yếu:

- Trợ giúp phát triỹn cho các nước và các tầng lớp nhân dân nghèo khó

nhất.

25

- Hợp tác kinh tế với các nước hoặc các khu vực có tiềm năng tăng trưởng

mạnh.

Những vấn đề liên quan đến môi trường hợp tác cần phải được xem xét

trong hai hình thức hợp tác này. Hợp tác kinh tế và đây là điều đổi m ới trong

điều lệ, có mục đích là cải thiện tình trạng của các xí nghiệp và khung quy chế

ở các nước đội tác, với mục đích là thúc đẩy thương m ại song phương và những

khoản đầu tư với sự tham gia trực tiếp của khu vực tư nhân là chính từ phía EU

cũng như từ phía nước đội tác.

Năm 1991, Hội đồng châu Âu và các nước thành viên của mình đã thông

qua một nghị quyết về các quyền con người về dân chủ và phát triển. Trên cơ sở

nghị quyết này, EU dành ưu tiên cho các hoạt động chuyên biệt đã được phê

chuẩn bởi một hiệp đinh chung, nhằm củng cộ nền dân chủ và thúc đẩy các

quyền con người tại một sộ nước chung, nhằm củng cộ nền dân chủ và thúc đẩy

các quyền con người tại một sộ nước châu Á. Loại hình hoạt động này ngày

càng được đa dạng hoa vì liên quan tới các lĩnh vực như sự ủng hộ các cuộc bầu

cử, các tổ chức phi chính phủ , tự do thông tin, thông t in về các quyền con

người và sự cảm nhận đội với các vấn đề này.

Mặc dầu trong nhiều năm liền, châu Á đã có nhiều nước phát triển với tỉ lệ

tăng trưởng cao, năm 1993 cũng chỉ có 1 2% viện trợ của EU cho châu Á được

tài trợ cho hợp tác kinh tế. Sộ còn lại đã được sử dụng cho các hoạt động chộng

sự nghèo k hổ (những khoản cam kết chủ yếu dành cho k hu vực Nam Á. Ở

Trung Quộc cũng như ở An Độ, trong những năm 1980 một hoạt động chính

được Cộng đồng châu Âu tiến hành đến kết quả là m ột chương trình phát triển

ngành công nghiệp sữa chủ yếu được tài trợ bằng ngàn sách viện trợ lương thực.

26

Đối với sự hợp tác trong các lĩnh vực đặc biệt: nhiều hình thức trợ giúp kĩ

thuật và hợp tác khác nhau đã được tài trợ bằng các nguồn ngân sách đặc biệt,

ví dụ, trong các lĩnh vực: năng lượng, môi trường, rừng nhiệt đới, khoa học và

công nghệ, phòng ngừa Sida và kiểm soát ma tuy.

EU đã tổ chức mỹt sự ủng hỹ rỹng rãi đối với các tổ chức phi chính phủ,

trong đó có cả mỹt số quỹ dành cho các tổ chức phi chính phủ đặc thù của mỹt

số nước (ví dụ của Căm-pu-chia hoặc của Việt Nam); viện trợ nhân đạo, trợ

giúp những người tị nạn và cứu trợ khẩn cấp cũng góp phần quan trọng trong

việc giảm bớt những đau khổ ở châu Á. EU ý thức được đầy đủ tầm quan trọng

đối với các nước đang phát triển trong việc thâm nhập vào thị trường của mình.

V ới mục đích này, các quốc gia đang phát triển đã đạt được sự đồng ý đơn

phương cho phép họ thâm nhập mỹt cách ưu đãi vào thị trường châu Âu trong

thời gian nhiều năm dưới danh nghĩa của hệ thống ưu tiên mở rỹng (SPG) của

EU. Trên thực tế, các nước châu Á là những đối tượng hưởng thụ chính hệ

thống này. Ngày 1-6-1994, Uy ban châu Âu đã thông qua tại H ỹi đồng và Nghị

viện châu Âu bản thông cáo của mình về việc sửa đổi các nguyên tắc cần tuân

thủ để xây dựng mỹt hệ thống mới áp dụng trong khoảng thời gian tò 1995 đến

2004. Tới đây Uy ban cũng sẽ đưa ra những đề nghị của mình về các phương

thức chi tiết của hệ thống hoạt đỹng được xây dựng trên khái niệm về phát triển

nhiều hơn so với trước đây.

Ngoài những đóng góp để phát triển cân bằng các nước EU, Ngân hàng

đầu tư châu Âu cũng tài trợ cho các dự án đầu tư tại các nước thứ ba. Kể từ n ăm

1992, Ngân hàng đầu tư châu Âu đã mở rỹng các hoạt đỹng cho vay thí điểm tại

các vùng thuỹc châu Á và Mỹ La Tinh. Những nước thuỹc các vùng này có ký

mỹt hiệp định hợp tác với EU đều có thể được hưởng khoản vay này. M ỹt khoản

27

tiền dành để trợ cấp là 250 triệu ê-cu m ỗi năm trong vòng 3 n ăm đã được dự

kiến cho các nước này. Trong năm đầu tiên, khoản cho vay 100 triệu ê-cu đã

được dành cho việc thực hiện các dự án ở châu Á.

Nhằm khuyến khích việc thành lập các công ty chung giữa EU với các nhà

kinh doanh địa phương tại các nước châu Á, Mỹ La Tinh và k hu vực Địa Trung

Hải, EU đã thành lập từ chức các nước đối tác đầu tư. Từ 1988 t ới cuối năm

1993, đã có 292 dự án do từ chức này tài trợ hoàn toàn với từng số khoảng 30

triệu ê-cu đã được phê chuẩn đối với châu Á.

e. Quan hê thương mai khác:

Nhân tố thúc đẩy mạnh nhất trong quan hệ giữa EU và châu Á là giao lưu

buôn bán trao đừi hàng hoa. Phần lớn các nước châu Á hiện nay đều quyết định

mở cửa thị trường, lợi dụng chính sách thương mại tự do của EU và các biện

pháp nhằm khuyến khích nhập khẩu hàng hoa từ các nước thế giói thứ ba, nhất

là hệ thống ưu đãi thuế quan chung để đưa hàng vào thị trường EU, gia tăng tỷ

trọng xuất khẩu của mình. Đây là một bước tiến có ý nghĩa quan trọng. Gia tăng

mở cửa thị trường cũng có nghĩa là gia tăng thi đua cạnh tranh; rõ ràng các nhà

xuất khẩu EU giờ đây không chỉ phải cạnh tranh mạnh hơn v ới Mỹ và Nhật Bản

ở thị trường châu Á, mà ngay cả đối với các đối thủ châu Á khác. Hiện tại buôn

bán giữa các nước trong khu vực châu Á, đặc biệt là Đông N am Á rất sôi động

và phát triển đến mức hầu như rất ít phụ thuộc vào thị trường châu Á và Bắc

Mỹ. Do thị trường châu Á đòi hỏi nhiều vốn và hàng tiêu dùng nên các hãng

châu Âu trước hết là các hãng vừa và nhỏ đang có kế hoạch mở rộng, tăng

cường hoạt động của mình ở khu vực này. Hiện nay các hãng của EU đã giành

được những vị trí vững chắc tại nhiều lĩnh vực then chốt ở châu Á, như xây

28

dựng hạ tầng cơ sở, chế tạo máy bay, viễn thông... Tại Trung Quốc, thị trường

lớn nhất châu Á, các chi nhánh và công ty con của các hãng EU hiện chiếm tỷ

lệ lớn trong sản xuất ô tô, hoa chất, nhựa và sắt thép.

Một bỉng chứng cho thấy sự tăng cường hợp tác là Hội nghị thượng đỉnh

giữa EU, A S E AN và một số nước quan trọng khác ở châu Á diễn ra h ồi đầu

tháng 3/1996 tại Bâng Cốc (Thái Lan) thảo luận về đề tài trung tâm: "Khả năng

buôn bán, trao đổi thương mại và đầu tư" giữa hai khu vực và cuộc họp cấp cao

giữa đại diện EU và A S E AN tại Brúcxen tháng 7/1996 - để nối tiếp thành công

của H ội nghị Băng Cốc. H ội nghị A S EM li cũng vừa diễn ra tại Luân Đôn,

tháng 4/98 nhỉm thúc đẩy hợp tác kinh tế và tăng cường đối thoại chính trị.

Thế mạnh của EU còn thể hiện qua số lượng các hợp đồng được ký kết tại

cuộc họp bộ trưởng kinh tế các nước A S EM tháng 10/1997 tại Nhật Bản. H ầu

hết các hợp đồng đã được ký đều tập trung cho phát triển cơ sở hạ tầng- lĩnh vực

được Ngân hàng thế giới dự báo sẽ cẩn một lượng vốn đầu tư lớn (khoảng Ì ,5 tỷ

USD từ nay tói n ăm 2004). Hiện tại GEC-Asthom và Siemens (Đức), hai "cựu

kỳ phùng địch thủ", đang sát cánh bên nhau cùng "tấn công" thị trường này ở

châu Á.Việc thiết lập những chi nhánh tại châu Á là điều kiện sống còn để đưa

luồng vốn từ các công ty mẹ ở EU vào khu vực. Theo số liệu thống kê về đầu tư

trực tiếp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), tổng vốn đầu tư

trực tiếp dài hạn của EU vào châu Á tăng từ Ì tỷ USD (năm 1990) lên khoảng 5

tỷ USD trong n ăm 1996 (thấp hơn 2 0% so với đầu tư của Mỹ và chỉ bỉng 4 0%

đầu tư của Nhật vào châu Á ). Số liệu này dường như là m ột bỉng chứng cho

thấy sự chậm trễ của EU tại châu Á. Tuy nhiên nếu cộng cả lượng vốn đầu tư

của EU vào Trung và Đông Âu, châu Mỹ Latinh và châu Á, thì EU lại là m ột

đối thủ đáng gờm. Tổng vốn đầu tư của EU vào ba khu vực này đã tăng từ 3,2 tỷ

29

USD (năm 1990) lên trên 18 tỷ USD trong năm 1996, vượt cả Mỹ (15,7 tỷ) lẫn

Nhật bản (15,2 tỷ).

Quan điểm càn đối giữa ba khu vực thị trường trên của EU xuất phát từ

tầm quan trứng của các thị trường này đối với Liên minh. EU cho rằng, châu Á

là thị trường lớn nhất, giàu tiềm năng nhất, châu Mỹ Latinh là khu vực có mức

tăng trưởng cao nhất và có m ối quan hệ thương mại truyền thống v ới EU. Còn

Trung và Đông Âu thực sự là "đất dụng võ" của EU, với thế mạnh về địa lý và

những điểm tương đồng về văn hoa, lịch sử.

Nếu số liệu về đẩu tư cho thấy sự bình đẳng giữa ba thị truồng tăng trưởng

nhất trên thế giới hiện nay, thì số liệu về thương mại lại nói lên điều ngược l ạ i.

Giữa các năm 1990 và 1995, tổng k im ngạch xuất khẩu của EU vào châu Á tăng

7 4% đã giảm dần thâm hụt thương mại triền miên của EU v ối châu Á. Cũng

cùng thời gian trên, nhập khẩu hàng hoa từ châu Á vào EU tăng 3 5 %. Rõ ràng

châu Á đang trở thành thị trường chiến lược của EU.

Chiến lược mới đối với châu Á đã được EU hoạch định ra. EU nhận thấy

rất rõ lợi ích của mình trong sự hợp tác kinh tế, thương m ại đối với châu Á, đặc

biệt trong bối cảnh hiện nay khu vực Đông Á và Đông nam Á đang trở thành

những tiêu điểm trên vũ đài kinh tế Quốc tế. Sau k hi Mỹ và Nga đã giảm bớt sự

hiện diện trực tiếp về mặt quân sự, tại đây đang hình thành những trung tâm

quyền lực m ới và bắt đầu một trật tự thế giới mới. EU đã tiến thêm một bước

quan trứng trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của mình thể hiện ở sự

cụ thể hoa trong chiến lược m ới đối với châu Á. Qua đó, EU hy vứng sẽ giành

được những vị trí vững chắc cả về kinh tế lẫn chính trở trong k hu vực quan

trứng này. EU đã sớm đón bắt được một xu thế phát triển đặc thù ở châu Á:

30

ASEAN- Hình ảnh tương lai của châu Á trong thế kỷ XXI-.ĐÓ là vị trí lý tưởng

để EU có thể phát huy ảnh hưởng chính trị của mình. M ột cơ h ội m ới đã được

tạo ra cho sự hợp tác giữa EU và A S E AN nhất là k hi Việt nam đã trở thành

thành viên chính thức của ASEAN.

EU đã coi quan hệ với Châu Á- Thái Bình Dương là quan hệ tạo thành đối

trụng với Mỹ và Nhật trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau. Trong cuộc hụp đầu

tiên của bộ trưởng ngoại giao 25 nước thành viên A S EM tổ chức tại Singapore

ngày 14 và 15-2-1997, EU và A S E AN đã tỏ rõ quyết tâm đối thoại về chính trị,

an ninh khu vực, thúc đẩy quan hệ hụp tác toàn diện giữa hai châu lục trên tất

cả m ụi lĩnh vực: kinh tế, vãn hoa, giáo dục, môi trường, khoa hục kỹ thuật, ...

Để thực hiện vấn đề này, trong bản thông cáo chung kết thúc h ội nghị, hai bên

đã kêu gụi hạ thấp hàng rào thuế quan, tăng cường các cuộc hụp của giới công

nghiệp và doanh nghiệp giữa hai khối. EU và A S E AN còn nhất trí thành lập các

nhóm làm việc tại Liên Hiệp Quốc và Tổ chức thương m ại t hế giới, nhất trí

cộng tác trong các hoạt động bài trừ ma túy, chống khủng bố .. Cuộc hụp tại

Singapore có tính chất chuẩn bị cho h ội nghị cấp cao Âu - Á lần t hứ h ai

( A S E AM l i) tại Luân Đ ôn vào tháng 4 -1998. Dư kiến cuộc hóp bô trưởng

ngoại giao EU-ASEAN lần thứ hai sẽ được tổ chức tại Đức vào n ăm 1999 để

chuẩn bị cho A S E AM IU tại H àn Quốc. A S EM lần này có thể coi là m ột đóng

góp đáng kể cho sự hợp tác giữa hai châu lục trong đó lấy sự hợp tác ASEAN-

EU làm nòng cốt, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của toàn t hế

giới. Tất cá những điều đã trình bày trên đây khẳng định sự quyết tàm tăng

cường hợp tác vì hòa bình và phồn vinh ở k hu vực châu Á của cả EU và

ASEAN.

Tóm lại: Sau 40 năm hình thành và phát triển EU đang trở thành một siêu

31

cường cả về kinh tế, chính trị, dân số, diện tích ... và sẽ trở nên mạnh hơn k hi

đồng tiền chung Euro được sử dụng - trước một trật tự thế giới m ới đang hình

thành và đang đầy biến động phỹc tạp, EU đã chuyển mình vươn lên tách k h ỏi

sự lệ thuộc với Mỹ, vươn tầm hoạt động sang Trung và Đông Âu, Châu Á, Châu

Phi và Mỹ La tinh nhằm nâng cao hơn nữa vị thế của mình trước thềm thế kỷ

X X I. Chính trong quá trình thực hiện chiến lược toàn cầu của mình nói chung

và chiến lược mới với châu Á nói riêng, EU đã tìm thấy ở Việt Nam những ưu

thế địa chính trị, địa kinh tế để lấy Việt Nam làm điểm tựa quan trọng trong

chiến lược đối ngoại của mình với Châu Á.

Việc Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa đã diễn ra trùng hợp với làn

sóng lan toa mạnh của xu hướng khu vực hoa và toàn cầu hoa trong sự phụ

thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Việt Nam đã thực sự trở thành m ột khu vực

quan trọng và là thị trường bổ sung vào cơ cấu kinh tế của những nước có trình

độ phát triển kinh tế cao hơn.

Các sự kiện diễn ra trong năm 1995: bình thường hoa quan hệ với Hoa Kỳ,

ký Hiệp định hợp tác thương mại, đầu tư với EU, gia nhập ASEAN, đã tạo nên

bước tiến quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam phá bỏ hoàn toàn

thế bao vây căm vận. Tính đến năm 1997, V i ệt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại

giao với trên 165 nước, trao đổi thương m ại với hơn 100 quốc gia và lãnh thổ

trên thế giới. Việt Nam đã trở thành một đối tác quan trọng của cả ba trụ cột

kinh tế thế giới.

Nhờ những khoản viện trợ, đầu tư và hợp tác thương mại với các nước trên

thế giới, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng k i nh tế cao, bền vững, trung bình đạt

8,2% suốt 5 n ăm (1991-1995). Tốc độ tăng trưởng kinh tế của V i ệt Nam trong

32

năm 1996 đạt mức 9,3%, năm 1997 - 9%, đó là một trong những tỷ lệ tăng

trưởng kinh tế vào loại cao nhất Châu Á năm 1996. Trong k hi đó tỷ lệ tăng

trưởng kinh tế của Đông Nam Á là 6,6% còn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thế giới

chỉ đạt 3,5%. p' 31

Hiệp định hợp tác thương mại Việt Nam - EU được ký ngày 17-7-1995, đã

mở ra một giai đoạn hợp tác toàn diện và có hiệu quả giữa hai bên. Hiệp định đã

tạo ra những yếu tố rất thuận lợi cho EU và m ặi nước thành viên EU trong quan

hộ hợp tác thương mại và đầu tư với Việt Nam. Tháng 9 n ám 1996, cuộc họp uy

ban hặn hợp Việt Nam-EU đã chính thức ký hai vãn kiện: Chiến lược hợp tác

Việt Nam-EU 1996 và chương trình hoạt động trong ba n ăm 1996-1998 m ới

quy chế mà EU dành cho Việt Nam. Đặc biệt cuộc họp ngoại trưởng  u -Á

trong hai ngày 14-15 tháng 2-1997 tại Singapore.

Kết quả rất quan trọng mà chúng ta đạt được là các nước tham dự ký Nghị

định thư về việc Việt Nam tham gia vào hiệp định hợp tác giữa hai k h ối

ASEAN-EU sau k hi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Từ

đây mở ra một triển vọng mới, trong quan hệ hợp tác mới: Hợp tác giữa V i ệt

Nam Châu Âu, Việt Nam-ASEAN và V i ệt N am với từng nước thành viên Châu

Âu. Chúng ta sẽ có điều kiện tiếp cận với m ột trung tâm mạnh về kinh tế, khoa

học, kỹ thuật công nghệ của thế giới.

Bà Carin Dung Cơ - nghị sĩ quốc hội châu Âu - chuyên gia phụ trách quan

hệ EU - A S E AN và là một trong những nhàn vật chủ chốt trong nhóm soạn thảo

Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EU đã khẳng định rõ: M ột trong những

hoạt động trọng tâm của EU là tăng cường hợp tác với các nước trong k hu vực

châu Á và chính sự hợp tác này đã và đang củng cố sự phát triển khôn" nơừnơ

33

của EU. Ớ châu Âu hiện nay, người ta nhận thức rõ ràng sự hợp tác khu vực là

tốt, là có l ợi và là xu thế của thời đại. Hiệp định hợp tác EU - A S E AN được ký

kết cách đây gần 20 năm đã thúc đẩy quan hệ hợp tác và buôn bán giữa EU và

A S E AN ngày càng tăng cường và có hiệu quả, góp phần to lớn vào việc đảm

bảo sự ển định và hoa bình thế giới.

EU đánh giá rất cao Hiệp định khung hợp tác Việt nam - EU được ký

tháng 7/1995 với 2 trọng tâm chính là hợp tác k i nh tế và hợp tác phát triển và hy

vọng Việt nam sẽ đóng một vai trò quan trọng trong hợp tác giữa châu Âu với

các nước "phía mặt trời mọc".

34

Chương li

THỰC TRẠNG HỢP TÁC KINH TẾ VÀ T H Ư Ơ NG MẠI

VIỆT NAM • EU TRONG NHỮNG N ĂM GẦN Đ ÂY

Kể từ năm 1990, với việc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Việt

nam-EU, mối quan hệ hợp tác Việt nam-EU đã bước sang một giai đoạn

mới. Các mối quan hệ song phương riêng lẻ giữa Việt nam và các nước

thành viên EU giờ nay đã phát triẻen thành mối quan hệ hợp tác giữa Việt

nam và cả EU với tư cách là một cộng đồng. Các bước phát triển của mối

quan hệ này được biểu hiện qua các cuộc viếng thăm lọn nhau giữa Việt

nam và EU, qua các thoa thuận đạt được sau những chuyến viếng thăm đó.

Những cuộc viếng thăm và những văn bản ký kết với một số nước EU

do đoàn đại biểu cấp cao của chính phủ Việt Nam thực hiện tháng 12 năm

1991 và tháng 10, li năm 1992 cho thấy quan hệ Việt Nam với EU đã

được khai thông và khả năng hội nhập của Việt Nam là có nhiều triển vọng

tốt đẹp. Đặc biệt là các cuộc đi thăm một số nước Tây Âu và EU vào cuối

tháng 6, đầu tháng 7 năm 1993 và chuyển thâm 6 nước Tây Bắc Âu (Thúy

Điển, Phần Lan, Na - Uy, Đan Mạch, Aixơlen và Lúcxămbua) của đoàn

đại biểu chính phủ Việt Nam do đồng chí Võ Văn Kiệt dọn đầu. Chuyến

thăm Pháp dự lễ kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít của đồng chí Lê Đức

Anh; chuyến thăm Bỉ và Quốc hội châu Âu của chủ tịch Quốc hội Nông

Đức Mạnh (2/1995); Chuyến thăm Hà Lan của Phó Thủ tướng Phàm Văn

Khải (1/1995); Chuyên thăm EU và ký hiệp định khung hợp tác giữa EU

và Việt Nam (7/1995) của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm.

Cũng trong những năm qua, nhiều đoàn đại biểu cấp cao Nhà nước và

chính phủ các nước EU đã tới thăm Việt Nam. Tháng 2/1993, cựu Tổng

35

thống Pháp F.Mitterand thăm Việt Nam, tuyên bố cùng Việt Nam phát

triển quan hệ toàn diện; Tháng 1/1995, Đại Công tước kế vị Lúcxămbua

thăm Việt Nam; Tổng thống Cộng hoa Áo, tiến sỹ Thomas Klestil thăm

Việt Nam (3/1995); Thủ tướng CHLB Đức Helraut Kohl thăm Việt Nam

(11/1995) ... và hàng chục đoàn cấp Bộ trưởng các nước Anh, Đức, Pháp,

Na-Uy, Bồ Đào Nha... tới thăm Việt Nam. Kết quả nhầng cuộc đàm phán,

nhầng Hiệp định hợp tác EU-Việt Nam được ký kết là biểu hiện mới sự mở

rộng quan hệ Việt Nam - EU. Nhầng cuộc tiếp xúc cấp cao giầa lãnh đạo

Việt Nam và các nước EU đã nâng quan hệ chính trị của Việt Nam với EƯ

lên một tầm cao mới cả về chất và diện rộng. Ông J.G.Wyn Morgan - Đại

sứ Liên minh Châu Âu tại Việt Nam khẳng định "Quan hệ hợp tác giầa

Việt Nam và Liên minh Châu Âu đang phát triển manh cả về bề rộng và

chiều sâu".

Quan hệ Việt Nam - EU ngày càng được tăng cường là kết quả phát

triển tất yếu của mối quan hệ sẵn có của từng nước thành viên Liên minh

châu Âu với Việt Nam, đặc biệt là quan hệ của Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan...

với Việt Nam. Từ 1/1/1995, EU có thêm 3 thành viên mới: Áo, Phần Lan,

Thúy Điển - nhầng nước vốn có quan hệ hợp tác với Việt Nam từ nhiều

năm nay sẽ góp phần tăng cường hơn nầa quan hệ Việt Nam - EU trong

thời gian tới.

Ngày 17/7/1995 tại Búcxen, Việt Nam và EU đã ký kết chính thức

Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EU với tên gọi là "Hiệp định hợp tác

giầa CHXHCN Việt Nam và Cộng đồng châu Âu", mở ra một triển vọnơ

mới cho sự hợp tác về kinh tế và thương mại giầa Việt Nam và Liên minh

châu Âu. Đến nay, sau 2 năm ký Hiệp định và sau 8 năm (kể từ khi chính

thức lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - EU, 1990), sự hợp tác Việt Nam -

36

EU vì hoa bình và phát triển đã được tâng cường và ngày càng phát triển

mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Trong phạm vi luận văn, người viết chỉ XÚI

đề cập tới các lĩnh vực chủ yếu sau: Hỗ trợ phát triển; Hợp tác thương mại

và Hợp tác đầu tư.

Ị. Hỗ trơ phát triển

Ngay từ những năm 1975-1978, EU đã có tiếp xúc chính trị với Việt

Nam, viện trợ kinh tế cho Việt Nam 109 triệu USD, trong đó viện trợ trực

tiếp là 68 triệu USD. Song, từ tháng 7 năm 1979, do vộn đề Carapuchia nên

EU đã ngừng viện trợ cho Việt Nam. Từ cuối năm 1984, EU đã bắt đầu nối

lại viện trợ nhân đạo cho Việt Nam. Điều đáng chú ý là ngày 22/10/1990,

Hội nghị ngoại trưởng của EU tại Lúcxămbua đã thoa thuận về việc kiến

lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây là sự kiện hết sức quan trọng

đánh dộu bước chuyển biến mới trong quan hệ EU - Việt Nam. Kể từ thời

điểm đó, quan hệ của EU với Việt Nam ngày càng được tăng cường: Viện

trợ của EU cho Việt Nam đã tăng từ 16,6 triệu ECU (Ì ECU = 1,23 USD)

năm 1991 lên đến 27,7 triệu ECU năm 1992 và 40 triệu ECU năm 1995.

Trước khi thiết lập quan hệ ngoại giao, từ 1985 - 1990 viện trợ của

EU cho Việt Nam là 700.000 ECU. Trong 4 năm từ 1992 đến 1995, EU đã

tài trợ khoảng 8,5 triệu USD cho các dự án y tế, giáo dục... ở Việt Nam

thông qua các tổ chức phi chính phủ và một khoản viện trợ 750.000 USD

giúp các vùng bị bão lụt ở nước ta. Eu còn dành cho Việt Nam một khoản

tài trợ 16,5 triệu ECU (khoảng 20 triệu USD) qua chương trình giúp đỡ về

kỹ thuật cho thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam

(EURO - TAPVIET) M . Chương trình được ký tháng 11 năm 1994 gồm 5

dự án chính:

37

- Dự án kế toán và kiểm toán nhằm giúp Việt Nam cải tạo hệ thống

kế toán và kiểm toán bằng việc thực hiện hệ thống tiêu chuẩn hoa quốc tế.

Đây là vấn đề quan trọng cho cải cách doanh nghiệp nhà nước và cho việc

tiến tới mỏ thị trường chứng khoán ỏ Việt nam. V ới trị giá 7,5 triệu E CU

(8,5 triệu USD), dự án đã được triển khai tủ tháng 9 năm 1995.

- Dự án bảo hiểm giúp Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm.

- Dự án B ÓT nhằm giúp Việt Nam trên các lĩnh vực xây dựng vận

hành chuyển nhượng và khuyến khích đầu tư của các nước châu Âu tại

Việt Nam.

- Dự án bảo đảm chất lượng và tiêu chuẩn giúp khu vực chế tạo của

Việt Nam tiến kịp với trình độ quốc tế và giúp các công ty V i ệt Nam thực

hiện các hệ thống chất lượng đạt tiêu chuẩn hoa quốc tế ISO9000 (được

triển khai tủ 11/1996).

- Dự án sở hữu trí tuệ sẽ đưa ra một khung m ới để bảo vệ bằng sáng

chế và ngăn chặn sự cạnh tranh không lành mạnh (được triển khai tủ

11/1996).

Trong năm 1996, EU đã thực hiện ở Việt Nam một số khoản viện trợ

nhân đạo khoảng 250.000 USD và một số đề án đào tạo, cải cách k i nh tế

trợ giúp các xí nghiệp vủa và nhỏ... với tổng số tiền khoảng 8,5 triệu USD.

Ngay sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, sự hợp tác Việt

Nam - EU không ngủng được mở rộng và có những thay đổi về chất.

Tháng 12 năm 1990, đại diện của Uy ban Châu Âu và chính phủ Việt

Nam đã ký thoa thuận về chương trình giúp đỡ người Việt Nam ra đi bất

38

hợp pháp trở về tái hoa nhập trên nguyên tắc hổi hương tự nguyện. Đây là

giai đoạn ì của chương trình "EU - Việt Nam" trong đó EU cho vay tín

dụng, đào tạo nghề và xây dựng những dự án nhỏ phục vụ cuộc sống vói số

vốn 12,5 triệu USD, Tháng 2/1992, thoa thuận về giai đoạn li của chương

trình "EU - Việt Nam" đã được ký kết, giá trị vốn cho vay là 34,5 triệu

USD.

Tiếp theo chương trình quốc tế về tái hoa nhập người hổi hương vằa

kết thúc, EU đang tiếp tục phối hợp với Việt Nam (Ngân hàng công thương

Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam) thực hiện chương trình

bắc cầu nhằm hỗ trợ Việt Nam trong việc tái hoa nhập người h ồi hương

bàng các khoản vay túi dụng. Chương trình này được thực hiện tại 21 tỉnh,

thành và kéo dài 7 tháng (bắt đầu tằ 1/1995). Chương trình đã thu h ồi các

khoản vay túi dụng còn nợ l ại theo chương trình ( EU - IP) trước đây và cho

vay các khoản mới. N ăm 1993 và 1994, tại H ội nghị các nhà tài trợ ở Paris,

EU đã nhất trí viện trợ cho Việt Nam 90 triệu USD của Ngân hàng phát

triển châu Á. Đó là chưa tính đến 5 nước trong EU đã cam kết tài trợ O DA

để giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng gồm: Pháp 102 triệu USD; Cộng

hoa Liên bang Đức 46 triệu USD và Đan Mạch 17 triệu USD.

Trong năm 1995 và 1996, chính phủ các nước EU đã cam kết viện trợ

cho Việt Nam gần 400 triệu USD. Tại H ội nghị các nhà tài trợ tại Paris

cuối tháng li, đầu tháng 12 năm 1995, các nước EU cũng đã cam kết viện

trợ cho Việt Nam trong năm 1996 v ới tổng số tiền là 502 triệu USD, trong

đó: Pháp 83,1 triệu USD (có 8,3 triệu không hoàn lại); C H LB Đức 69,2

triệu USD (20,7 triệu không hoàn lại); Đan Mạch 35,6 triệu USD (25 7

triệu không hoàn lại); Phần Lan 11,6 triệu USD không hoàn lại- Bỉ li 8

triệu USD (5 triệu không hoàn lại); Italia 20,9 triệu USD; Hà L an 21 6

39

triệu USD không hoàn lại; Na - Uy 8,8 triệu USD không hoàn lại; Tây Ban

Nha 30,4 triệu USD; Thúy Điển 32 triệu USD không hoàn lại; Anh 83,5

triệu USD (32,9 triệu không hoàn lại).

Trên lĩnh vực thương mại, Việt Nam và các nước thuộc Liên minh

châu Âu (EU) đã có mối quan hệ từ khá lâu, song chúng được phát triển và

mở rộng nhanh trong những năm gần đây. Sau khi Việt Nam và EU chính

thức thiết lập quan hệ ngoại giao tháng 12/1990 quan hệ buôn bán hai

chiều Việt Nam - EU có bước phát triển khả quan thể hiện rõ qua những

hiệp định hợp tác buôn bán đã được ký kết giữa Việt Nam với EU. Mở đầu

là Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU được ký "tằt" ngày

15/12/1992, có hiệu lực từ ngày 1/1/1993 và được điều chỉnh bổ sung bằng

thư trao đổi ký tằt ngày 1/8/1995 giữa chính phủ Việt Nam và cộng đồng

kinh tế Châu Âu, quy định những điều khoản về xuất khẩu hàng dệt may

sản xuất tại Việt Nam sang EU; Tiếp đến là Hiệp định khung hợp tác Việt

Nam - EU với tên gọi "Hiệp định hợp tác giữa CHXHCN Việt Nam và

Cộng đồng châu Âu" đã được ký kết chính thức ngày 17/7/1995 tại

Brúcxen. Kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng gia tăng. Năm 1993

EU tăng gấp 10 lần hạn ngạch nhập khẩu hàng hoa của Việt Nam so vói

năm 1992. Trị giá kim ngạch hai chiều năm 1993 đạt 860 triệu USD. N ăm

1994, giá trị kim ngạch hai chiều giữa Việt Nam - EU đã đạt Ì tỷ USD

(riêng hàng dệt may đạt 280 triệu USD). Năm 1995, con số đó là 2,4 tỷ

USD (riêng hàng dệt may đạt tới 350 triệu USD). Năm 1996 tăng 3 0% so

với năm 1995 và đạt 3,1 tỷ ƯSD (Bảng A- Phụ lục), 6 tháng đầu năm 1997

kim ngạch hai chiều giữa Việt nam và EU bằng 80,4% năm 1996 (đạt 2 5

tỷ USD) [ 2 , ).

lĩ. Hợp tác thương mai

40

Chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam, nhìn chung cũng

như các nước châu Á khác, luôn hướng về việc thúc đẩy tích cực tự do hoa

thương mại trong khuôn khổ một hệ thống đa phương, trong sự tôn trọng

m ọi nguyên tắc và m ọi cam kết có liên quan. EU đã cố gắng cải thiện điều

kiện thâm nhập thị trường Việt Nam của các công ty châu Âu thông qua

con đường của các quan hệ song phương. Những hoạt động chính nhởm

khuyến khích buôn bán đầu tư của EU sang Việt Nam cũng đổng thời được

các nước thành viên EU tiến hành một cách riêng rẽ.

Trong bối cảnh đó, nhiều nước trong EU đã chủ động, tích cực mở

rộng quan hệ hơp tác kinh tế - thương mại v ới Việt Nam. Từ năm 1992,

đến nay nhiều đoàn đại biểu chính phủ và doanh nghiệp các nước Pháp

Đức, Anh, Thúy Điển, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan và EU đã tới V i ệt Nam và

bàn các chương trình hợp tác thương mại - đầu tư với V i ệt Nam.

Ị • Nháp khẩu hàng hoá của Việt Nam từ EU.

Mối quan tâm của Việt Nam đối với EU trước hết là máy móc thiết bị

phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất trong nước cũng như sự quan tâm

của EU giành cho Việt Nam v ới tư cách là m ột thị trường tiêu thụ nhiều

hứa hẹn được thể hiện rõ nét ở k im ngạch nhập khẩu hàng hoa của V i ệt

Nam đã không ngừng tăng lên trong vài năm trở lại đây. Giá trị hàng hoa

nhập về từ mức 168,5 triệu USD năm 1990 đã lên tới 847,2 triệu USD n ăm

1996, gấp hem 5 lần, 6 tháng đầu n ăm 1997 đạt hơn 660 triệu USD bởng

8 0% cả năm 1996. Tỷ trọng nhập khẩu hàng hoa từ EU trong tổng k im

ngạch nhập khẩu của cả nước bình quân chiếm 9,5% (bảng 1). Điều đó cho

thấy EU ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.

41

Trong tổng số 15 nước thành viên EU, hiện nay, hoạt động nhập khẩu

của ta đã được mở ra với 9 nước: Pháp, Đức, Anh, Ý, Hà Lan, Áo, Bỉ, Phần

Lan, Thúy Điển. Song trên thực tế, khối lượng nhập khẩu chủ yếu tập trung

vào 4 nước Pháp, Đức, Anh, Ý. Các nước này chiếm tới 9 0% giá trọ hàng

Bảng 1. Giá trị hàng nhập khẩu từ các nước EU. (Đớn vị:triệu USD)

hoa xuất khẩu của EU sang Việt Nam năm 1995.

TT Tên nước 1996 6 tháng 1990 1991 1992 1993 1994 1995

1997

1 Pháp 123,0 147,9 159,9 267,4 239,6 276,6 116,8 257,5

-

2 Đức 20,7 101,2 40,6 72,0 149,1 175,5

3 Ý 4,5 1,2 6,0 34,8 34,2 53,6 111,3 51,5

4 Anh 0,5 9,0 3,7 11,4 19,3 50,7 88,1 53,9

5 Hà Lan 2,7 8,4 16,2 25,8 25,1 36,3 51,4 23,5

6 Thúy Điển 24,2 13,3 14,2 12,8 18,5 18,6 22,6 60,5

7 Bỉ 2,2 6,8 5,0 9,3 21,7 59,9 47,8 8,1

8 Phần Lan 0,02 10,0 5,5 5,3 3,8 11,7 17,2 22,0

9 Áo 1,6 2,5 3,9 13,6 5,4 15,3 13,3 5,1

E U:

- Giá trọ 168,5 301,2 253,6 456,9 504,4 652,3 847,2 660,4

- Tỷ trọng 6,12 12,8 9,9 11,6 8,6 7,9 7,6 11,9

(%) trong

tổng kim

ngạch NK

Nguồn: Niên giám thống kê, NXB Thống kê, Hà nội 1997.

42

ơ đây cần đặc biệt kể đến vai trò của Pháp, quốc gia đứng đầu EU

trong quan hệ thương mại với Việt Nam. Sự phát triển m ối quan hệ này

ngoài yếu tố lợi ích kinh tế giữa hai bên còn xuất phát từ yếu tố lịch sử và

m ối quan tâm của Pháp về vai trò của Việt Nam trong cờng đồng các nước

nói tiếng Pháp. K h ối lượng hàng hoa nhập từ thị trường Pháp có giá trị 123

triệu USD (1990) đã tăng hơn 2 lần và đạt 276,6 triệu USD (1995). Kết quả

này là do Pháp đã ký được nhiều hợp đồng lớn với Việt Nam như cung cấp

thiết bị cho các nhà máy thúy điện, thiết bị điện phục vụ cho xây dựng

đường dây 500 KV Bắc - Nam và cung cấp hai máy bay A TR 72 cho

Vietnam Aừline,... Hiện nay Pháp đứng thứ 7 trong số các nước tham gia

xuất khẩu vào Việt Nam. Sự chú ý của các công ty Pháp tới thị trường Việt

Nam ngày càng tăng lên. Chỉ riêng trong h ời chợ triển lãm về m áy công cụ

châu Âu tổ chức tại Hà n ời (8-13/10/1992) với gần 30 công ty Pháp tham

gia giới thiệu sản phẩm của mình cũng đã đủ minh hoa điều này.

Danh mục hàng hoa Việt Nam nhập từ EU gồm hàng trăm mặt hàng

đa dạng khác nhau theo k im ngạch từ lớn tới bé như sau; thiết bị - m áy

móc, hoa chất, nguyên liệu, sắt thép các loại và hàng lương thực thực phẩm

(Bảng la-1 ECU = 1,13 USD- Phụ lục).

Ớ đây máy móc thiết bi là nhóm hàng nhập lớn nhất của V i ệt Nam,

chiếm trên 1/3 k im ngạch nhập khẩu. Trong cơ cấu của nhóm này, 2 0% là

hàng tiêu dùng như đồ điện tử và điện gia đình, ti vi và linh kiện ti vi,... •

4% là ô tô du lịch dưới 12 chỗ ngồi và phụ tùng ôtô; còn lại trên 7 0% là

các thiết bị phục vụ sản xuất công nghiệp. Cơ cấu này cho thấy phần nhập

khẩu máy thiết bị giành cho tiêu dùng đã được các nhà nhập khẩu V i ệt

Nam hạn chế chủ yếu phục vụ cho sản xuất trong nước. Điều này phù hợp

với định hướng của nhà nước đề ra là nhập khẩu đảm bảo đổi m ới được

43

trang thiết bị và công nghệ, thông qua nhập khẩu tạo nên bộ mặt m ới của

nền sản xuất tạo ra những sản phẩm vừa đáp ứng về số lượng và chất lượng

cho tiêu dùng nội địa, vừa tạo ra một chầ đứng trên thị trường nước ngoài

bằng những sản phẩm hàng hoa có chất lượng cao. Trong thời gian qua,

nhóm hàng này đang được phần lớn các đơn vị kinh doanh nhập từ 4 nước

có trình độ công nghệ phát triển nhất EU: Pháp, Đức, A nh và Ý. A nh đã

cung cấp cho Việt Nam thiết bị, phụ tùng, tuốc bin khí, máy phát điện,

động cơ điện, thiết bị khai thác dầu khí, thiết bị nhà máy đay. Ý xuất sang

Việt Nam chủ yếu hai mặt hàng: m áy vi tính và máy chính xác. Tuy vậy,

đây là nhóm hàng có hàm lượng khoa học cao, thuộc loại công nghệ tiên

tiến trên thế giới nên giá nhập khẩu thường rất cao so với hàng công nghệ

trung gian ở châu Á.

Các sản phẩm hoa hoe đứng hàng quan trọng thứ hai trong cơ cấu

nhập khẩu, chiếm khoảng 1/4 k im ngạch. Trong nhóm này, mặt hàng nhập

nhiều nhất là tân dược (chiếm trên 3 3 % ), sau đó đến chất dẻo (gần 2 5 % ),

mỹ chính (trên 1 5 %) và cuối cùng là phân bón (gần 1 3 % ). Theo đánh giá

chung, hàng dược phẩm EU có chất lượng cao, giá tương đối thấp nên có

sức tiêu thụ lớn trong nước. Vì thế đây là mặt hàng nhập khẩu có xu hướng

tăng mạnh. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu các loại hoa chất nhập điều dễ dàng

nhận thấy là những hàng này chủ yếu nhằm phục vụ cho sức khoe, đời

sống hàng ngày của con người và một phần cho sản xuất nông nghiệp,

phần giành cho sản xuất công nghiệp chưa lớn và chưa cân xứng.

Các mặt hàng sắt thép và nguyên liêu như: thép cán, vật liệu xây

dựng, vải, sợi tổng hợp, có k h ối lượng nhập khẩu hiện nay còn hạn chế.

Điều này có những lý do riêng của nó. Hàng nguyên liệu như sợi và vải

nhập từ EU về để sử dụng trong nước một phần, một phần lớn dùng làm

44

nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu. Nhưng vì EU là thị trường cung

cấp ở xa nên chi phí vận tải cao dẫn tới việc tăng giá thành sản xuất. Do

vậy hướng nhập nhóm hàng này từ EU có phần nào giảm sút và các nhà

nhập khẩu Việt Nam chú trọng hơn vào các thị trường gần như Hồng

Kông, Singapore, v.v... Việt Nam còn nhập một k h ối lưủng nhỏ lương thực

và thực phẩm của EU: Bột mì, bơ, sữa, đồ hộp,... Đây không phải là những

mặt hàng mà hiện nay ta có nhu cầu cấp thiết do sản xuất trong nước đã

đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, nên phần nhiều đưủc nhập thông qua con

đường hàng viện trủ do Chính phủ các nước EU giành cho ta.

Nhìn chung, cơ cấu hàng nhập từ EU thòi gian qua tương đối hủp lý.

Nhập khẩu đã hướng tập trung vào hàng tư liệu sản xuất và một phần để

đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Thiết bị hiện đại do EU cung cấp đã

góp phần vào cải tạo lại cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động và

chất lưủng sản phẩm. M ột số dây chuyền thiết bị toàn bộ nhập cho ngành

may mặc, da giày và dưủc phẩm bước đầu đã phát huy hiệu quả, đẩy mạnh

năng lực sản xuất và xuất khẩu. Các loại vật tư quan trọng khác như sắt

thép, phân bón, thuốc trừ sâu, hoa chất v.v... tuy k h ối lưủng nhập còn nhỏ

bé nhưng đáp ứng đưủc một phần cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp, công

nghiệp. Bên cạnh những kết quả đạt đưủc hoạt động nhập khẩu cũng còn

bộc lộ nhiều điểm yếu kém. Ta đã tốn một số lưủng ngoại tệ không nhỏ

nhập các mặt hàng tiêu dùng cao cấp, xa xỉ như bia rưủu, mỹ phẩm, ôtô du

lịch... H ơn nữa, những mặt hàng này vưủt quá nhu cầu có khả năng cho

phép của người tiêu dùng Việt Nam trong b ối cảnh trình độ phát triển k i nh

tế còn ở mức thấp kém. Ngoài ra, do trình độ chuyên m ôn của cán bộ nhập

khẩu còn hạn chế, kém hiểu biết về kỹ thuật, thiết bị hiện đại nên nhiều

đơn vị k i nh doanh đã nhập về một số loại máy, thiết bị lạc hậu giá cao

45

không phát huy được hiệu quả trong quá trình sử dụng gây ra lãng phí

nhiều về ngoại tệ. Đây là những điểm yếu ta cần khắc phục kịp thời.

Việt Nam hiện nay đang rất cần nhiều loại hàng hoa của EU, đặc biệt

là hàng máy móc - thiết bị, nhằm hiện đại hoa cơ cấu nền kinh tế, nâng cao

năng lậc sản xuất trong nước nhưng khả năng thanh toán eo hẹp nên nhập

khẩu bị hạn chế. Do vậy, trước mắt chúng ta nên ưu tiên nhập từ EU vật tư,

thiết bị cung cấp cho các công trình trọng điểm của đất nước.

2. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU.

Thời kỳ trước năm 1989, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu

diễn ra với các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ), chỉ một phần rất nhỏ hàng

Việt Nam được xuất sang EU.

Từ sau năm 1989, khu vậc Đông Âu và Liên Xô (cũ) lâm vào khủng hoảng, k h ối " H ội đồng tương trợ kinh tế" (SEV) tan rã làm cho thị trường tiêu thụ truyền thống hàng xuất khẩu Việt Nam bị thu hẹp nghiêm trọng. Điểu này tất yếu dẫn tới việc tăng cường và mở rộng xuất khẩu sang các khu vậc thị trường mới mà EU là một trọng điểm ở châu Âu. Cùng v ới nhập khẩu, hoạt động xuất khẩu hàng loạt từ Việt Nam sang EU trong vài năm trở lại đây cưng gia tăng mạnh mẽ. Hàng Việt Nam đã từng bước x âm nhập vào thị trường EU. M ột số mặt hàng tuy k h ối lượng xuất còn nhỏ song bước đầu đã xác định được chỗ đứng của mình và được thị trường chấp nhận.

Bảng 2 cho thấy, giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu của Việt Nam đã tăng rất nhanh, từ 171,2 triệu USD/1990 lên t ới 848,4 triệu USD/1996 tăng 5 lần, 6 tháng đầu năm 1997 đạt được 703,7 triệu bằng 8 3% cả n ăm

1996 và chiếm tỷ trọng bình quân 8,2% tổng k im ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1990 - 1995.

46

Bảng 2. Giá trị hàng hoa xuất khẩu của Việt Nam sang EU.

(Đơn vị: triệu USD)

ÍT Tên nước 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 6 tháng

1997

145 107,8 1 Pháp 115,7 83,1 132,3 45,0 115,8 160,1

178,2 2 Đức 41,4 228 6,7 34,4 50,1 115,2 218,0

3 Hà Lan 123,7 6,4 16,1 20,1 28,1 60,6 79,7 147,4

4 Anh 134,1 2,4 27,5 23 55,7 74,6 125,2 1,9

5 Ý 3,4 7,2 41,9 3,8 8,1 20,4 57,1 49,8

6 Bỉ 0,2 0,1 6,4 11,8 15,1 34,6 61,3 52,0

1,2 1,2 16,4 7 Thúy Điển 3,7 2,4 1,3 4,7 31,8

8 Áo 0,9 5,9 10,7 10 7,5 9,3 5,6 6,6

EU 171,2 119,3 239,8 179,8 393,7 647,1 848,4 703,7

Tỷ trọng 7,12 9,2 5,7 6,0 9,7 11,8 11,7 16,5

(%)/Tổng

kim ngạch

XK

Nguồn: Niên giám thống kê N XB thống kê - Hà nội 1997.

Hiện tại, EU đưữc xếp vào vị trí bạn hàng lớn thứ 3 về kim ngạch tiêu

thụ hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Trong số các nước EU có quan hệ mậu dịch với Việt Nam, Pháp

Đức, Anh và Hà Lan là những bạn hàng lớn nhất. Thời gian qua, 4 nước

này luôn tiêu thụ tới gần 9 0% giá trị hàng hoa Việt Nam xuất sang EU.

47

Hiện nay, Việt Nam xuất chủ yếu sang EU là hàng công nghiệp nhẹ,

thủ công mỹ nghệ, một số mặt hàng nông sản thực phẩm như: gạo, lạc,

chè, cà phê, rau quả tươi,... (Bảng 2a- Phụ lục)

Năm 1991, Việt Nam đã được EU cấp quota xuất khẩu sắn lát trong

khuôn k hổ chế độ ưu đãi chung dành cho các nưỗc đang phát triển không

thuộc thành viên GATT. Theo quy định, m ỗi năm Việt Nam được phép

xuất miễn thuế 3 vạn tấn sắn lát sang EU. Nhưng hiện nay, do vấn đề giá

cả nên ta m ỗi chỉ xuất được khoảng 3.000 đến 4.000 tấn cho Pháp và Đức,

chưa tận dụng được hết k h ối lượng quy định trong quota. Đối vỗi các mặt

hàng khác như chè, cà phê, lượng xuất vào EU tuy có tăng qua các n ăm

nhưng về trị giá tuyệt đối còn rất khiêm tốn. Chẳng hạn năm 1992, trong

tổng số 116.177 tấn cà phê xuất khẩu của cả nưỗc, chỉ có 2.310 tấn được

tiêu thụ tại Đức, 5.700 tấn tại Pháp.

Xuất khẩu chè cũng nằm trong tình trạng tương tự, ta mỗi chỉ xuất

sang được thị trường Pháp và A nh vỗi k h ối lượng tiêu thụ ở từng thị trường

trong năm 1992 là 10 tẩn và 6 tấn. Do hiện nay ta xuất đơn thuần chè đen

và chè sơ chế nên mói đáp ứng được nhu cầu của m ột bộ phận người Hoa

kiều và Việt kiều. Ngày 28/2/1991 Vinatea đã thành lập công ty liên doanh

vỗi hai công ty chè lâu năm của A nh và k hả năng liên doanh này sẽ giúp

Việt Nam nâng k h ối lượng chè xuất qua A nh khoảng Ì .000 tấn/ năm.

Thời gian qua cũng đã ghi nhận bưỗc tiến bộ đáng khích lệ trong việc xuất

khẩu rau quả tươi và chế biến cho EU. V i ệt Nam có nhiều thế mạnh về các

loại rau quả nhiệt đỗi mà thị trường EU đang có nhu cầu tiêu thụ lỗn như :

cam, chuối, dứa quả, dứa hộp, vải khô, long nhãn, ngoài ra còn có xu hào

bắp cải, dưa chuột. Trưỗc đây EU thường phải nhập của Việt Nam thông

qua trung gian Hồng Rông, Singapore. Nhưng từ 1991 trở l ại đây V i ệt

48

Nam đã tiến hành xuất trực tiếp qua đó nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Giá

trị xuất khẩu đã đạt 6 triệu USD vào năm 1995. Song do EU là một thị

trường ở xa, đặc điểm hàng tươi sống dễ bị hư hỏng, khâu tổ chậc thu mua

hàng trong nước về bao bì, bảo quản, chuyên chở còn quá yếu k ém nên đã

hạn chế không ít năng lực xuất khẩu của ta.

Trong xuất khẩu hàng nông sản thúc phẩm, vấn đề nổi bật là chính

sách bảo hộ người tiêu dùng. Hàng hoa Việt Nam muốn vào được EU đòi

hỏi phải tuân thủ đúng các tiêu chuẩn về chất lượng, bao bì, vệ sinh. Và

EU ngày càng đòi h ỏi khắt khe về độ an toàn của thậc ăn đối với sậc khoe

người tiêu dùng. Do vậy sẽ không một nhà kinh doanh EU nào nhập hàng

k hi không đáp ậng đầy đủ những tiêu chuẩn do EU đề ra. Thời gian qua

tuy ta có khả năng lớn, thị trường EU có nhu cầu cao song ta chưa xuất

được nhiều bởi vì chưa đáp ậng được đòi h ỏi rất cao về chất lượng. Nếu ta

khắc phục được nhược điểm này thì khả năng xuất sang EU hàng n ăm từ

30 đến 40 triệu USD nông sản thực phẩm không phải là khó.

Trong cơ cấu hàng xuất của ta hiện nay chỉ có hàng thụy sản không

gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ. Các nước EU có nhu cầu rất lớn về

nhóm hàng này. Những khó khăn gần đây về việc đánh bắt ở ngư trường

ngoài khơi xa cũng như ở ven bờ đã dẫn tới sản lượng đánh bắt của EU

giảm và do đó EU phải nhập với k h ối lượng lớn thúy sản, chẳng hạn tôm

nhập vào EU năm 1992 lên tới 36 vạn tấn đậng đầu nhập khẩu thế giới.

Tuy dung lượng thị trường lớn song khả năng đánh bắt của ta bị hạn chế.

H ơn nữa EU là thị trường xa, chi phí bảo quản tươi sống và cước phí vận

tải quá cao nên ta m ới xuất được trang bình hàng năm khoảng 6000 tấn

tôm đông (chiếm 7% xuất khẩu tôm của V i ệt Nam). M ột số mạt hàng thúy

sản khác nhau mực, cá, nghêu,... cũng được xuất ngày càng nhiều vào EU.

49

Pháp và A nh hiện là 2 nước nhập khẩu chính. Hàng năm, Pháp tiêu thụ

khoảng 3000 đến 5000 tấn tôm Việt Nam. A nh cũng là một nước tiêu thụ

hải sản quan trọng. Trước đây đã có một số công ty đặt mua hàng trực tiếp,

nhưng do Việt Nam chưa có chính sách thích đáng về thương nhân và thị

trường nên số thương nhân này vẫn phải nhập hải sản của ta qua các nước

trung gian như Hỹng Rông, Singapore, Thái Lan. Hiện tại, Việt nam thuộc

nhóm nước thứ hai (cùng với Mỹ và Trung Quốc) được phép xuất khẩu hải

sản vào EU. Đây là một thuận l ợi nếu Việt Nam có chính sách đúng đắn

cung cấp hàng đều đặn, giá cả hợp lý thì chắc chắn có thể xuất được một

k h ối lượng lớn hàng hải sản sang thị trường Anh.

Các loại tinh dầu như quế, hỹi... là những mặt hàng lâm sản chế biến

được các nước EƯ rất quan tâm nhập khẩu để làm nguyên liệu cho công

nghiệp dược phẩm. Pháp có quan hệ truyền thống vói ta trong việc tiêu thụ

hàng lâm sản, đặc biệt là dầu hỹi. K hả năng ta có thể xuất sang đây các

mặt hàng cụ thể sau:

Dầu hỹi: 50 - 80 tấn/nãm.

Dầu sả: 30 - 50 tấn/ năm

Húng quế: 2-5 tấn/năm.

Hoa hỹi: 50- 100 tấn/năm.

Màng tang: 20 - 30 tấn/năm.

Thị trường Anh cũng tiêu thụ một khối lượng khá lớn tinh dầu. Vừa

qua có nhiều thương nhân vào ta ký kết hợp đỹng v ới Generalexim

Naíorimex, Vimedimex. Tuy nhiên do chất lượng kém, giao hàng chậm

50

giá cao nên ta để mất khá nhiều thương nhân. Mấy năm nay ta đã dần dần

khôi phục lại xuất sang Anh.

Một đặc điểm nổi bật về cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam trong buôn

bán với các nước EU là nhóm hàng công nghiệp nhẹ và thủ công mỹ nghệ

trong thời gian gần đây thường xuyên chiếm tả trọng lớn trong k im ngạch

xuất khẩu (trên 6 0 % ). Điều này có phần nào khác biệt so với cơ cấu hàng

hoa xuất khẩu chung của Việt Nam vì gần 7 0% giá trị tổng k im ngạch xuất

khẩu là hàng nông sản và nguyên liệu thô. Tình hình trên là do hàng thủ

công mỹ nghệ của ta có tính độc đáo về giá trị nghệ thuật dân tộc nên mặc

dù giá hơi cao và bị Trung Quốc cạnh tranh song đã được thị trường chấp

nhận. H i ện nay, EU rất quan tâm tới các mặt hàng đồ gốm, sứ, đồ gỗ, mỹ

nghệ... Những hàng hoa này phần nhiều được xuất vào Đức, Pháp, Hà L an

và Ý r ồi một phần được tái xuất sang Anh, Bỉ. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh

xuất khẩu hàng dệt - may, giầy dép sang EU đang ảnh hưởng lớn t ới k im

ngạch xuất khẩu của cả nhóm hàng. Mở rộng xuất sang EU đã giúp cho

ngành công nghiệp dẹp - may Việt Nam trở thành hàng xuất khẩu chủ lực

của Việt Nam ở giai đoạn hiện nay.

Đối với Việt Nam, đét may là ngành đang có tiềm năng sản xuất khá

lớn và đang có nhu cầu tìm k i ếm thị trường.

Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký tắt

ngày 15-12-1992 và bắt đầu có hiệu lực từ 1-1-1993. Ngày 16-7-1996

Hiệp định về trao đổi mậu dịch hàng dệt may giữa Việt Nam và EU đã ký

được ký chính thức tại Brucxen (Bỉ) sau gần 4 năm được ký tắt. về n ội

dung, các điều khoản của Hiệp định chính thức lần này không có sự thay

đổi lớn so với Hiệp định được ký tắt năm 1992. N ội dung Hiệp định chính

thức lần này gồm 20 điều, 3 phụ lục, 3 nghị định thư và 4 biên bản thoa

51

thuận. Chủ yếu các điều khoản nhằm thiết lập chế độ áp dụng cho buôn

bán hàng dệt xuất xứ từ Việt Nam. Việc xếp loại các mặt hàng được căn cứ

trên cơ sở danh biểu thuế quan chung và danh biểu thuế - thống kê của EU.

Ngoài các quy đựnh về phương thức xuất nhập khẩu các mặt hàng theo hạn

ngạch cũng như các mạt hàng không bự hạn chế bởi các hạn ngạch cụ thê

của các bên là quy đựnh về sở hữu trí tuệ, bảo hộ nhãn hiệu, kiểu dáng

hàng hoa, xếp loại hàng hoa cũng như cam kết cung cấp thông tin thống kê

chính xác về giấy phép xuất nhập khẩu của hai bên để tiện giám sát việc

thực hiện buôn bán theo Hiệp Đựnh trong khuôn k hổ hệ thống kiểm tra

hành chính hiện hành của EU cũng như Việt Nam. Ngoài ra, điều 16 còn

nêu hai bên cam kết tránh m ọi phân biệt đối xử trong việc cấp giấy phép

xuất khẩu và việc cho phép nhập khẩu đã nêu ở Nghự đựnh thư A.

Theo Hiệp đựnh (ký tắt năm 1992), Việt Nam được xuất khẩu sang

EU 151 chủng loại mặt hàng (cát) trong đó 46 loại được xuất khẩu tự do

vào EU không bự ràng buộc vào hạn ngạch. Ngoài ra, còn có 13 loại mặt

hàng thuộc hình thức gia công thuần tuy (thêu, ren...), m ỗi n ăm hàng trăm

tấn. Tổng số hạn ngạch theo Hiệp đinh là 21.298 tấn v ới k im ngạch khoảng

450 triệu USD.

Theo Hiệp đinh, được ký kết trong 5 năm (1993 - 1997), thì cứ mỗi

năm số hạn ngạch của từng mặt hàng sẽ được tăng thêm từ 1,5% - 2,5% so

với năm trước. Tháng 8 - 1995, theo đề nghự của Bộ Thương m ại Việt

Nam, EU đã chính thức chấp nhận sửa đổi Hiệp đinh dệt may v ới n ội dung:

tăng hạn ngạch ở 23 cát nóng từ 2 0% - 2 5 %, giảm số cát có hạn ngạch từ

105 xuống 54, tăng hạn ngạch gia công thuần tuy lên gấp đôi. Nâng mức

chuyển đổi linh hoạt từ 7 - 8% lên 10 - 1 5 %. Ước tính mức bổ sung này

52

tăng sản lượng hạn ngạch lèn thêm 2500 tấn, tương ứng 100 triệu USD,

nâng tổng giá trị hạn ngạch vào EU là 550 triệu USD.

Hiệp định hàng dệt may Việt Nam - Eu đã tạo cho Việt Nam nhiều

khả năng xuất khẩu sang EU hơn. Trong 5 năm qua, k im ngạch hàng dệt

may xuất vào EU đã tăng từ 130 triệu USD năm 1992 lên 249 triệu USD

năm 1993, 285 triệu USD năm 1994 và 340 triệu USD năm 1995,450 triệu

USD năm 1996, tăng 2 8% so với năm 1995. N ăm 1997 là n ăm cuối cùng

của Hiệp định, tuy không còn điều kiện để tăng cao như năm 1996, nhưng

k im ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU vẫn đạt 500 triệu

USD, tăng khoảng 1 0% so với năm 1996 và chiếm 38,5% k im ngạch xuất

khẩu của cả nước. Dỏ kiến năm 1998, k im ngạch xuất khẩu hàng dệt may

sang EU khoảng 650 triệu USD p". Những con số trên cho thấy sỏ lớn

mạnh vượt trội của ngành dệt may Việt Nam, nó càng chứng tỏ tính đúng

đắn trong việc mạnh dạn xây dỏng ngành dệt may xuất khẩu thành ngành

xuất khẩu chủ lỏc của Việt Nam. Đồ ng thời nó cũng cho thấy rõ Hiệp định

buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam - EU đã góp phần tích cỏc trong

bước phát triển ngành công nghiệp may mặc Việt Nam (tốc độ tăng trưởng

bình quân trên 23%/năm. Nó đã đưa sản phẩm may mặc của V i ệt Nam hoa

nhập vào thị trường EU. Hàng dệt may Việt Nam đã xuất vào hầu hết các

nước thuộc EU trừ Lucxemburg. Trong số các nước EU, Đức hiện đang là

bạn hàng lớn nhất trong thị trường xuất khẩu hàng dệt, may của Việt Nam.

Seidensticker, Calmel là những mác sản phẩm n ổi tiếng của Đức đang

được gia công tại những công ty may n ổi tiếng của V i ệt Nam.

Sỏ gia tăng của hàng may mặc cao cấp đã làm nảy sinh nhu cầu rất

lớn về chỉ may chất lượng cao và tập đoàn Total Thread Limited-Coats của

Anh đã liên doanh với công ty dệt Phong Phú để sản xuất chỉ may tại thị

53

trường Việt Nam. Hãng kinh doanh của nhà tạo mốt và kinh doanh người

Pháp Pierre Cardin cũng liên doanh với công ty may Việt Tiến (Thành p hố

Hồ Chí M i n h) sản xuất và bán sản phẩm nhãn hiệu p.c tại Việt Nam...

Đến nay hệ thống các công ty, xí nghiệp quốc doanh từ trung ương

đến địa phương đều đã trưởng thành đáng kể. Nhiều doanh nghiệp sau 5

năm doanh số xuất khẩu tăng gấp 3 đến 5 lần so với năm 1992. N ăm 1997

cả nước đã có gần 350 doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu hàng dệt may đi

EU trong đó có 76 doanh nghiệp đạt k im ngạch xuất khẩu trên Ì triệu USD

(năm 1993 chợ có 49 doanh nghiệp). Không những đội ngũ dệt may xuất

khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp xuất khẩu mà quy mô doanh

nghiệp, công nghệ sản xuất, chất lượng đội ngũ công nhân lành nghề cũng

đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các mật hàng áo Jacket luôn chiếm vị trí chủ yếu

trong cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may sang EU, chiếm tỷ trọng khoảng 5 0%

tổng k im ngạch xuất khẩu. N ăm 1993, Việt Nam xuất khẩu sang EU 6,8

triệu chiếc Jacket (Cát. 21). N ăm 1997, xuất khẩu sang EU gần 11,7 triệu

chiếc tăng hem gần 5 triệu chiếc (tăng 7 2 %) so với năm đầu hiệp định.

Mặc dù hạn ngạch và danh mục mặt hàng theo Hiệp định còn chưa

thật phù hợp với khả năng sản xuất tại Việt Nam thời gian đầu, nhưng theo

thời gian, việc đa dạng hoa sản phẩm được tiến hành từng bước. Hàng năm,

khả năng làm được các mặt hàng m ới đều tăng lên. N ăm 1993 V i ệt N am

m ới khai thác được 61 cát/ 151 cát của Hiệp định, năm 1994 đưa lên 66 cát

và năm 1995 đã giao được 75 cát cho các doanh nghiệp đưa vào sản xuất.

Con số khai thác các cát của Hiệp định còn thấp một phần cũng do thiết bị,

công nghệ của nhiều cơ sở may thiếu và cũ, thiếu vốn k i nh doanh, nên

thậm chí không đáp ứng nổi hợp đồng hàng xuất sang thị trường Eu (hợp

đồng đã ký). Chính phủ Việt Nam đã có chính sách đầu tư để đổi m ới các

54

thiết bị công nghệ của ngành dệt may xuất khẩu để bắt kịp trình độ may

công nghiệp tiên tiến. Tuy nhiên đầu tư còn thấp, mặt khác các cơ sở may

rất phân tán, dàn trải nên còn hạn chế nhiều, nhất là ở khâu đầu tư tái sản

xuất mở rộng. Nói chung các doanh nghiệp dệt may chưa sản xuất cho

xuất khẩu lớn theo phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm (tỷ lệ

này m ới chiếm 1 0% giá trị xuất khẩu hàng dệt may) mà vờn còn làm theo

phương thức gia công có hiệu quả kinh tế thấp. Tuy nhiên với sự đầu tư mở

rộng của ngành năng lực sản xuất đã tâng lên đáng kể, gấp 2 lần năm

1993, tạo ra trên 10 ngàn chỗ làm m ới cho các địa phương.

Mặt khác, cơ chế quản lý hàng xuất khẩu dệt may hiện nay còn khá

rườm rà. Chính phủ đã lập ra một bộ máy quản lý liên Bộ Thương mại -

Công nghiệp nghiên cứu lập quy chế và thường xuyên điều chỉnh công

khai bình đẳng, bảo đảm quyền lợi của các thành phần kinh tế. Chẳng hạn,

cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch theo Thông tư liên bộ 06 TM - CN

ngày 7-10-1994 đã phải điều chỉnh, bổ sung nhiều điều, nhiều đạt, nhiều

loại hạn ngạch.

Liên bộ Thương mại - Công nghiệp đã tính đến khả năng giao cho các

doanh nghiệp nghiên cứu ký hợp đồng xuất khẩu trực tiếp. Trên thực tế

một số doanh nghiệp đã được trực tiếp xuất khẩu hàng của mình.

Hiện nay hàng dệt may xuất đi EU vờn chịu sự quản lý kép của Liên

bộ Thương mại - công nghiệp nhẹ, nhưng ở 2 mức độ:

1. Các CÁT tiếp tục được quản lý bằng hạn ngạch, việc xuất khẩu sẽ

cần giấy phép xuất khẩu của Bộ Thương mại.

2. Các CÁT còn lại (trong phụ lục Ì của Hiệp định) không thuộc diện

quản lý bằng hạn ngạch và không cần giấy phép xuất khẩu.

55

Ngày 1-8-1995, tại Brucxen, Việt Nam và EU đã ký "trao đổi thư

điều chỉnh Hiệp định", tăng hạn ngạch thêm 2 5% cho 23 loại mặt hàng

(khoảng 2805 tấn hàng hoa) cho Việt Nam. Tuy nhiên theo các quan chức

ở Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại, số nhóm mặt hàng xuất đi EU bị

khống chế vẫn là quá nhiều so với các nước xung quanh (54 so với 20 của

Thái Lan, 8 của Singapo, 10 của Inđonêxia...)

Vừa qua Bộ thương mại đã có Nghị định thư bổ .sung nâng tậ lệ hạn

ngạch công nghiệp (cho hàng dệt may) lên 4 0% (so với 3 0% năm 1995).

Và đồng thời Việt Nam cũng mở rộng thị trường Việt Nam cho hàng dệt

may EƯ. Theo chính sách mới của Việt Nam, hàng dệt may nhập khẩu từ

các nước thành viên EU được hưởng thuế suất ưu đãi theo hướng dẫn của

Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan Việt Nam. Cụ thể, Chính phủ Việt

Nam đã quyết đinh giảm thuế cho 297 mặt hàng dệt may nhập từ EU. Việt

Nam sẽ xem xét yêu cầu của EU xin giảm dần thuế nhập khẩu hàng dệt

may EU vào Việt Nam trong thời gian 5 năm theo tậ lệ:

+ Quần áo may sẵn xuống 30% (hiện 50%)

+ Vải và các mặt hàng may sẩn khác xuống 20% (hiện 40%)

+ Chỉ sợi xuống 1 2% (hiện 25%)

+ Tơ, sợi nhân tạo xuống 7% (hiện 10%).

Như vậy, từ khi Việt Nam ký hiệp định buôn bán hàng dệt - may với

EU đã tạo cho ngành dệt may một thị trường lớn, kim ngạch xuất khẩu

hàng năm tăng khá nhanh, bình quân mức tăng 14%/nãm (bảng 3).

56

Bảng 3: Kết quả thực hiện Hiệp định dệt may EU - Việt Nam

(triệu USD)

Tổng kim ngạch

Năm

Tổng số doanh Số loại mặt Kim ngạch

xuất khẩu ra thế

xuất khẩu

nghiệp tham gia

hàng

vào EU

xuất khẩu

giới

250

500

148 (37)

1993

55

1994

66

221 (45)

275 1

550

1995

75

350

850

292 (80)

1996

74

325 (107)

450

1150

350

1997

500

1250

1998

450

650-700

1600

() Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng số các doanh nghiệp

tham gia xuất khẩu.

- Nguồn: -Tạp chí thị trường giá cả số 41/1998

- Tuần báo Quốc tế số 8/1998

Hiện nay, mặt hàng dệt may đã đứng thứ hai trong 10 mặt hàng có

giá trị xuất khẩu lớn của Việt Nam (sau dầu thô) và đạt 18,9% trong tổng

kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hiệp định này đã tữ rõ tính cần thiết của

nó đối với Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến thời điểm ký Hiệp định dệt may

Việt Nam - EU, Việt Nam chưa phải là thành viên tổ chức thương mại

quốc tế và do đó Việt Nam vẫn phải chịu những hạn ngạch thuế quan phi

ưu đãi của EU. Đây là những trở ngại lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam

vào thị trường EU từ thời điểm đó đến cuối năm 1995, sau khi Hiệp định

khung hợp tác Việt Nam - EU được ký kết. Nhằm thúc đẩy ngành dệt may

57

tiếp tục phát triển, ngày 7/11/1997, Hiệp định thương mại hàng dệt may

Việt Nam-EU trong giai đoạn 1998-2000 đã được ký (có hiệu lực từ ngày

1/1/1998) với mức tăng trưởng 4 0% so với hiệp định trước, tạo ra một cơ

hội m ới thúc đẩy ngành dệt may Việt Nam phát triển mạnh hơn trong

những năm cuối thế kỷ. So với hiệp đinh 1993-1997, hiệp định lặn này có

những bước tiến m ới quan trọng, đã giảm bớt các mặt hàng phải quản lý

bằng hạn ngạch từ 54 xuống còn 29 loại hàng; trong đó có 13 loại hàng

tăng từ 3 6% đến 116%. K h ối lượng của 29 loại hàng này lại tương đương

vói 54 loại hàng trong hiệp định trước. Tuy nhiên, điều quan trọng là các

loại hàng này có khả năng xuất khẩu tăng mạnh; đồng thời, việc đưa 25

loại hàng ra k h ỏi Danh mục quản lý bằng hạn ngạch sẽ tạo điều kiện thuận

lợi cho xuất khẩu tự do các mặt hàng này vào thị trường EU. Đối với m ỗi

loại hàng có hạn ngạch mức xuất khẩu tăng từ 3% đến 5%.

Việc phân bổ hạn ngạch năm 1998 cũng có một số điểm m ới như:

dành một tỷ lệ hạn ngạch (khoảng 5%, riêng Cát. 4 là 1 0 %) để thưởng cho

các doanh nghiệp xuất khẩu nhiều sản phẩm sang thị trường không áp

dụng hạn ngạch; dùng 5% số lượng hạn ngạch áo Jacket (Cát. 21) để hỗ trợ

cho các doanh nghiệp ở địa phương có nhiều khó khăn như miền Trung,

miền núi ...; dành khoảng dùng 5% hạn ngạch thưởng cho các doanh

nghiệp làm hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu sản xuất trong nước và các

doanh nghiệp xuất khẩu hàng theo phương thức mua nguyên liệu, bán sản

phẩm. Ngoài ra, việc phân bổ hạn ngạch sẽ được công khai hoa và không

có sự phân biệt đối xử nào đối với các doanh nghiệp làm hàng dệt may, kể

cả các doanh nghiệp có vốn đặu tư nước ngoài.

Tuy hiệp định giai đoạn 1998-2000 có mức cải thiện đáng kể, nhưng

cũng chỉ đáp ứng được trên 4 0% năng lực sản xuất của Việt Nam, nên các

58

doanh nghiệp cẩn duy trì phát triển những thị trường khác. EU đã dành cho

Việt Nam Quy chế tối huệ quốc (MEN). Đây là một thuận l ợi cho việc

tâng nhanh buôn bán hàng dệt may Việt Nam-EU. Cũng theo thoa thuận

chung, cho đến nay nhiều mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào EU được

hưởng mức thuế ưu đãi là 0% theo chế độ ưu đãi phổ cập (GSP) của EU.

Tuy vậy, gớn đây EU bắt đớu đưa ra những thay đổi trong chế độ GSP

áp dụng đối với hàng loạt nước đang xuất khẩu vào EU. Riêng đối với Việt

Nam chế độ GSP mới được thực hiện theo hai giai đoạn trong hai năm

1997 và 1998 (GSP là cơ chế chủ yếu của các nước phát triển nhằm thực

hiện miễn giảm thuế quan cho các nước đang phát triển. Trong đó quy

định rõ những sản phẩm không phải chịu thuế hoặc chịu mức thuế thấp.

Trong quá trình thực hiện hàng n ăm EU xem xét điều chỉnh lại GSP cho

phù hợp thực tế vùng theo trình độ phát triển kinh tế, năng lực xuất khẩu

sản phẩm, trình độ chuyên m ôn hoa xuất khẩu và GDP tính theo đớu người

ở các nước được hưởng ưu đãi).

Theo thông báo của EU, tổ chức này sẽ loại bỏ dớn quy đinh giới hạn

số lượng sản phẩm được hưởng ưu đãi, đồng thời huy bỏ hớu như hoàn toàn

mức thuế 0% và thay bằng mức thuế khác nhau dành cho từng nhóm hàng

có độ nhạy cảm khác nhau. Cụ thể theo bốn nhóm sau:

- Nhóm các sản phẩm không nhạy cảm (hoa chất, giày dép,.. ) vẫn

được miễn phí.

- Nhóm các sản phẩm bán nhạy cảm (sành sứ, thúy tinh,..) được

hưởng ưu đãi 6 5% thuế.

- Nhóm các sản phẩm nhạy cảm (đồ điện, điện tử,...) mức giảm thuế

3 0 %.

59

- N h óm các sản phẩm nhạy cảm cao (hàng dệt may, hợp kim,...)

mức giảm thuế 1 5 %.

Theo quy định mới, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào EU thuộc

nhóm 4 và chịu mức thuế 8 5% thuế hải quan chung của EU. Đây là một

thách thức mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam đang xuất khẩu dệt

may vào EU. Ngoài ra, từ năm 1998 trở đi EU sẽ còn áp dụng thêm những

điều khoản ưu đãi về xã hội và môi trưựng. Có nghĩa các sản phẩm xuất

khẩu vào EU sẽ được giảm thuế với một tỷ lệ nhất định nếu nước xuất khẩu

chứng tỏ được sự tôn trọng các điều khoản quốc tế như quyền tự do tổ chức

công đoàn, quyền thương lượng tập thể của công nhân về lương, không sử

dụng lao động trẻ em hoặc đưa lao động cưỡng bức vào sản xuất hàng xuất

khẩu...

Để đáp ứng đòi h ỏi của thị trưựng EU, Việt Nam đã công bố việc

giảm mức thuế suất từ Ì đến 2%/năm đối với nguyên liệu dệt may nhập

khẩu từ EU. Tuy vậy k im ngạch xuất khẩu nguyên phụ liệu từ EU vào V i ệt

Nam còn ít, khoảng 30 đến 40 triệu đô la m ỗi năm. Việc sử dụng các

nguyên phụ liệu nhập khẩu từ EU để làm hàng xuất khẩu trở lại thị trưựng

EU là một biện pháp tình thế vì rằng nếu dùng nguyên phụ liệu nhập từ các

nước châu Á đảm bảo chất lượng thì vẫn được thị trưựng EU chấp nhận mà

nghành dệt may Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn.

Tuy nhiên, dù Hiệp định mới xuất khẩu hàng dệt may sang EU tăng

khá, nhưng cần lưu ý EU không phải là cứu cánh cho ngành công nghiệp

dệt may và càng không phải l ối thoát duy nhất cho ngành công nghiệp dệt

may Việt Nam. Điều chủ yếu là các doanh nghiệp phải nhanh chóng khắc

phục m ọi yếu kém, tồn tại của mình. Đối với ngành dệt, cần xây dựng một

60

số nhà máy hiện đại để sản xuất vải cao cấp cho ngành may xuất khẩu. Đối

với ngành may, cần nắm bắt khấu chế tạo mẫu mã, thời trang, nâng dẩn

trách nhiệm và nhãn hiệu hàng hoa để sản phẩm dệt may của Việt Nam có

thể bán trực tiếp sang các thị trường có nhu cầu; đồng thời phải mử rộng

sang thị trường không hạn ngạch, bửi hiện nay trong cả nước có tới 500

doanh nghiệp với tổng số lao động trên nửa triệu người, nhưng mức xuất

khẩu m ới đạt 5 0% công suất của ngành dệt may nước ta. Ngoài ra, không

thể thiếu sự giúp đỡ của Chính phủ về cơ chế và chính sách thích hợp để

thực hiện kế hoạch n ăm 1998 và hai năm cuối của thế kỷ này, chuẩn bị

UI. Hợp tác đáu tư

hành trang bước vào thế kỷ 21.

Trong quan hệ kinh tế với Việt Nam, có thể nhận thấy rằng dòng vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của EU vào Việt Nam tương đối nhiều

hơn các nước khác trong khu vực, chiếm khoảng 1 2% tổng lượng v ốn F DI

của EU (không kể đầu tư của châu Âu thông qua các nước khác như

Singapo, Hồng Kông hay British V ứ g in Island). Phẩn đáng kể luồng vốn

vào Việt Nam được hỗ trợ thêm bửi khối lượng lớn ODA.

Cho đến nay, đã có li nước trong tổng số 15 nước thành viên của EU

đang có dự án đầu tư ử Việt Nam (trừ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hy Lạp

và Cộng hoa Ai Len). Tính đến 15/10/1997 các nước EU đã có 190 dự án

được cấp giấy phép, với tổng số đầu tư hơn 2810,78 triệu USD, chỉ chiếm

khoảng 1 1% về số dự án và 9,8% về tổng vốn đầu tư của tất cả các dự án

nước ngoài đang hoạt động ử nước ta. (Bảng 4)

61

Bảng 4: Đầu tư trực tiếp của EU vào Việt Nam

(từ 1988 đến 15/10/1997)

Tổng vốn đầu tư

Số dự án

Tên nước và lãnh

Số ÍT

(triệu USD)

thổ

Pháp

89

871,29

1

492,72

19

2

Anh

405,6

CHLB Đức

3

18

403,43

Hà Lan

4

27

Thúy Điển

379,15

5

9

103,94

Đan Mạch

2

6

4

49,06

Áo

7

Italia

7

48,02

8

Bỉ

9

32,96

9

Lúcxembua

24,51

5

10

Phần Lan

1

li

0,1

190

2810,78

Nguồn: Báo đầu tư Việt Nam ngày 23/10/1997

Trong đó, 4 nước được xếp vào số 15 quốc gia đầu tư lớn nhất vào

Việt Nam là Pháp 85 dự án với 871 triệu USD; Anh 19 dự án; 492 triệu

USD; Hà Lan 27 dự án; 403 triệu USD; CHLB Đức 18 dự án, 405 triệu

USD. So với các nước và khu vực ở châu Á như Singapor, Đài Loan, Hổng

Kông, Nh t Bản, Hàn Quốc..., đầu tư của các nước EU vào Việt Nam chưa

chiếm thứ hạng cao, chỉ đứng thứ 4 sau Singapor (chiếm 18,6% tổng vốn

đầu tư trực tiếp vào Việt Nam); Đài Loan (14,2%); Hồng Kông (12,7%);

Nh t Bản (Ì 1,2%).1 2 01

62

Khoảng cách khá xa về mặt địa lý, không hề ngăn trở bước chân của

các công ty EU tới Việt Nam. Họ có mặt khá sớm, ngay từ những năm đầu

tiên k hi Luật đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam được ban hành.

Đi tiên phong là Công ty dầu khí BP nổi tiếng của Vương quồc Anh.

Ngay từ ngày 4/5/1988, BP đã có trong tay giấy phép đầu tư sồ 7 trong một

hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí cùng với 2 công ty của Ân Độ và Na

Uy. T hế r ồi "hữu xạ tự nhiên hương", Việt Nam một thị trường m ới đang

lên đã thực sự có sức manh cuồn hút các nhà đầu tư của Châu Âu.

Các sồ liệu cho thấy, đầu tư của EU vào nước ta tuy sớm, nhưng

không ổn đinh và còn chưa xứng với tiềm lực kinh tế của các nước này.

Ngoại trừ Pháp, Hà Lan, Thúy Điển, A nh C H LB Đức là những nước có

nhiều dự án đầu tư, còn lại những nước khác m ới chỉ là những dự án "thăm

dò".

Tuy vậy, sang năm 1995, "cỗ xe" đầu tư của EU ở Việt Nam có chiều

hướng tăng tồc. V ồn đăng ký trong 6 tháng rưỡi đầu năm đã bỏ xa vồn

đăng ký của cả năm 1992 (năm có vồn đãng ký cao nhất kể từ 1994 về

trước) và gần bằng vồn đăng ký của hai n ăm 1993 và 1994 cộng lại.

Một đặc điểm quan trọng là phần lớn các dự án của EU đều đầu tư

vào các lĩnh vực sản xuất. về quy mô dự án, bình quân vồn đăng ký m ỗi

dự án của EU đang hoạt động là 14 triệu Ư S D, đứng thứ ba, vượt cả Đài

Loan (13,5) đồi tác đang chiếm vị trí thứ hai về vồn đầu tư ở Việt Nam.

Trong k hi nhiều nhà đầu tư ở châu Á có xu hướng thích chọn hình

thức 1 0 0% vồn nước ngoài thì các nhà đầu tư châu Âu vẫn thích hình thức

liên doanh hơn cả. Sồ các dự án liên doanh chiếm tới 65,5% trong tổng sồ

182 dự án; còn hình thức hợp đồng hợp tác k i nh doanh chỉ chiếm 20,2% và

xí nghiệp 1 0 0% vồn nước ngoài chiếm 14,3%.

63

Nhìn chung là vậy, nhưng m ỗi nước lại có một "nét" riêng. Chẳng

hạn, các nhà đầu tư Anh, Italia, Thúy Điển chỉ "ưa" hai hình thức liên

doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong k hi đó Đức, Bỉ, Đan Mạch,

Lucxembourg thì lại không chọn (hay nói đúng hơn là chưa chọn hình thức

hợp đồng hợp tác kinh doanh.

Mặc dù mảng đẩu tư cệa EU chưa chiếm những khoảng lớn trong bức

tranh toàn cảnh đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, nhưng người ta l ại dễ nhận

thấy ngay một điều là: những kỹ thuật tiên tiến cệa chầu Âu đang có mặt ở

Việt Nam. Lĩnh vực được các nhà đầu tư EU quan tâm đặc; biệt là dầu khí.

Cho đến nay trong tổng số 26 hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí ở Việt

Nam thì một nửa thuộc về các nhà đầu tư EU, với các "đối t h ệ" lừng danh

thế giới như tập đoàn BP (Anh), Shell (Hà Lan), Total (Pháp), Fina (Bỉ),

O MV (Áo). Hơn thế, tập đoàn Total còn trúng thầu xây dựng nhà m áy lọc

dầu đầu tiên cệa nước ta, với số vốn đầu tư ước chừng Ì tỷ USD; tập đoàn

BP và Castrol (Anh) còn liên doanh sản xuất dầu nhờn và mỡ bôi trơn cho

các loại động cơ.

Trong lĩnh vực bưu điện, các tên tuổi n ổi tiếng như Siemens (Đức),

Alcatel (Pháp), Kinnevik và Comvik (Thúy Điển) cũng đã trở nên quen

thuộc vói thị trường Việt Nam. Hợp đồng họp tác kinh doanh thông tin di

động cệa Kinnevik và Comvik với vốn đầu tư 341,5 triệu USD tại Hà n ội

trở thành dự án đầu tư có vốn lớn nhất trong ngành bưu điện hiện nay.

Ngoài ra, hãng Siemens, với 2 dự án liên doanh sản xuất cáp quang, thiết

bị viễn thông và hãng Alcatel cũng liên doanh sản xuất thiết bị viễn thông,

là những hãng mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam. Trong k hi đó nhiều hãng

viễn thông cệa các nước khác chỉ thực hiện các hợp đồng thương m ại khai

thác dịch vụ viễn thông.

64

Các nhà công nghiệp châu Âu cũng đã mang đến nước ta kỹ thuật

hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến trong ngành chế biến nông phẩm,

một lĩnh vực nước ta đang ưu tiên kêu g ọi đầu tư. Đáng kể nhất là dự án

mía đường vừa v ới tổng vữn đầu tư 95 triệu USD của công ty Sucreries de

Bourbon (Pháp) và đây cũng là dự án mía đường lớn nhất ở nước ta. Tiếp

đến là dự án sữa Foremost 29 triệu USD tại tỉnh Sông Bé của Công ty

Friesland Vietnam Holding B.v (Hà Lan); chế biến cà phê xuất khẩu tại

Đắc Lắc; chế biến hạt điều, chè xuất khẩu; chế biến thức ăn gia súc... trong

lĩnh vực đồ uững cao cấp, các hàng bia n ổi tiếng thế giới của Hà Lan, Đan

Mạch, Pháp: các hãng rượu của Pháp, Hà Lan cũng đã có mặt tại Việt

Nam.

Cũng giững như các nhà đầu tư của nhiều nước khác, các nhà đầu tư

châu Âu rất chú ý vào lĩnh vực khách sạn, du lịch. Trong đó, các nhà đầu

tư Pháp xem ra có sở trường nhất. Sớm nhất và cũng thành công nhất cho

đến nay phải kể đến dự án liên doanh khách sạn Metropole vơi Công ty

Feal International (Pháp) và Societe de Development de Metropole B.v

(Hà Lan). Công ty Feal còn tham gia một dự án lớn khác về khách sạn, đó

là khách sạn Cột Cờ Thủ N gữ 76 triệu USD. Công ty Compagnie Generale

de Batiment et de Construc với dự án khách sạn Nhà hát Hà n ội gần 54

triệu USD.

Lĩnh vực ngân hàng, kiểm toán cũng là lĩnh vực hấp dẫn các nhà đầu

tư châu Âu. Nhiều ngân hàng muữn được mở chi nhánh nhưng cho đến nay

mới có 4 chi nhánh được phép hoạt động là Banque Indosuez. Credit

Lyonnais, Banque Francaise du Commerce (đều là của Pháp) và Ì công ty

kiểm toán là K P MG Peat Manvich (Hà Lan).

Mặc dù Pháp là quữc gia đứng đầu EU trong đầu tư vào Việt Nam,

nhưng sữ vữn đầu tư vẫn còn quá khiêm tữn, chỉ chiếm khoảng 3% trong

65

tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, chưa tương xứng với tiềm năng

to lớn của nước Pháp.

Nước Đức, với tiềm lực kinh tế to lớn của mình vẫn tỏ ra chậm chạp

trong đầu tư ở Việt Nam. Theo đánh giá của nhiều nhà kinh tế thì người

Đức dường như đã "ngủ quên" hoặc "hiện diện ít ỏi đến mức đáng sợ" ở

thằ trường châu Á nói chung, trong đó có Việt Nam. Ô ng Heinrich V on

Pierer, chủ tằch Uy ban châu Á - Thái Bình Dương của giới kinh tế Đức

(đồng chủ tằch tập đoàn Siemens - Đức), cũng thừa nhận rằng, quả là có sự

chậm chạp của các nhà đầu tư Đức, nhưng ông cũng nhấn manh rằng, các

doanh nghiệp Đức không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tham gia

mạnh mẽ hơn nữa vào các thằ trường tăng trưởng ở châu Á - Thái Bình

Dương, trong đó có Việt Nam. Có thể là như vậy. V ới việc ký kết Hiệp

đằnh khung hợp tác Việt Nam - EU cùng với việc bình thường hoa quan hệ

Việt - Mỹ sẽ làm nóng lên hơn nữa sự hợp tác kinh tế Việt N am - EU,

trong đó có lĩnh vực đầu tư tực tiếp của EU vào Việt Nam.

EU đã tổ chức các cuộc hội thảo tại Paris để kêu gọi các nhà đầu tư

châu Âu bỏ vốn vào các dự án B ÓT ở Việt Nam trên nguyên tắc và Hiệp

đinh hợp tác giữa hai bên, đồng thời EU dự kiến sẽ hợp tác với Việt N am

trong tương lai là chương trình chống ma tuy, chống AIDS, chương trình

phát triển du lằch. Những chương trình này không chỉ được thực hiện thông

qua quan hệ trực tiếp giữa EU và Việt N am mà còn được triển khai thông

qua các nước ASEAN. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của

A S E AN vào tháng 7 năm 1995 lại càng tạo thêm nhiều điều kiện thuận l ợi

đối với Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư từ EU.

66

IV. M ót sỏ đánh giá về thực trang quan hẻ kinh tê thương mai Việt

nam- EU.

Thực trạng hợp tác kinh tế - thương mại Việt Nam - EU được trình

bày trên đây đã cho thấy rõ quan hệ Việt Nam - EU đang ngày càng phát

triển, mở rộng trên nhiều lĩnh vực. M ột triển vọng đầy hứa hẹn vì lợi ích

của hai bên vì hoa bình hợp tác và phát triển đang mở ra. Điều đó cũng phù

hợp với đường l ối mở cổa, đa phương hoa, đa dạng hoa trong quan hệ với

các nước của Việt Nam mà Đại hội Đảng lần thứ 8 đã đưa ra.

K h ối EU đánh giá cao những thành tựu kinh tế Việt Nam đã đạt được

trong công cuộc "đổi mới" và vai trò của Việt Nam trong k hu vực, do đó

chủ trương tiếp tục tăng cường hợp tác với Việt Nam trên cơ sở Hiệp định

khung, hợp tác ký năm 1995. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp tác kinh tế

thương mại Việt Nam - EU không phải không có những vấn đề đặt ra.

Ì. V i ện trợ ODA, trợ giúp đầu tư, cấp tín dụng vẫn thuộc quyền các

nước thành viên, nên việc hợp tác trợ giúp Việt Nam ở cấp liên minh chỉ

giới hạn ở các để án giá trị thấp, có tính chất trợ giúp cơ cấu và tổ chức l ại

hệ thống quản lý định hướng cho các đề án lớn cần tài trợ của tổ chức quốc

tế hoặc các nước thành viên EU.

2. Cũng như những năm trước đây, EU lấy thúc đẩy quan hệ mua bán

giữa hai bên làm nền tảng cho phát triển quan hệ hợp tác. Cơ sở pháp lý chi

phối hoạt động xuất, nhập khẩu hai bên là quy chế "Tối huệ quốc" theo

G A TT 1994 và điều khoản hai bên mở rộng thị trường cho hàng hoa của

nhau. Tuy nhiên, Việt Nam chưa phải là thành viên của W TO cho nên EƯ

vẫn có sự phân biệt đối xổ. Mặc dù k im ngạch buôn bán giữa V i ệt Nam và

EU còn rất nhỏ so với tổng giá trị nhập khẩu của EU; đối với Việt Nam,

EU cũng thực hiện chủ trương tăng cường bảo hộ sản xuất trong các nước

67

thành viên và chiến lược xâm nhập thị trường ngoài k h ối (trong khuôn k hổ

luật lệ của W TO và các cam kết theo các hiệp định song phương).

Hàng năm EU có tăng dần hạn ngạch cho Việt Nam theo hướng

chung của WTO, nhưng tỷ lệ còn thấp so với các nước thành viên WTO, và

EU k i ểm tra chặt chẽ xuất xứ nhóm hàng này.

3. EU chủ trương tăng xuất khộu hàng công nghệ sang Việt Nam, do

đó họ bắt đầu quan tâm nhiều đến chế độ quản lý nhập khộu của Việt Nam

và nêu lên những trở ngại đối với hàng xuất khộu của EU để ta cùng xem

xét, giải quyết. M ột số mặt hàng EU lưu ý là:

- Hàng dệt may: EU đòi h ỏi Việt Nam giảm thuế nhập khộu để bù lại

việc EU tăng hạn ngạch cho nhóm hàng này. Tháng 10 n ăm 1997, Thủ

tướng Chính phủ đã quyết đinh công bố thực hiện chương trình giảm thuế

nhập khộu với thời hạn 5 năm (từ năm 1998 đến năm 2000 cho các mặt

hàng dệt may nhập khộu từ EU).

- Các loại rượu mạnh: EU đề nghị ta xem xét l ại nguyên tắc đánh

thuế theo áp giá, vì theo EU nguyên tắc này không phù hợp v ới thông lệ

quốc tế. Đồ ng thời EU lưu ý ta cần có biện pháp chống làm hàng giả.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp EU tâng xuất khộu và đầu tư vào Việt

Nam, EU quyết định mở Trang tâm kinh doanh châu Âu (EBICS) ở thành

phố Hồ Chí M i nh và Hà Nội. Trung tâm có nhiệm vụ cung cấp thông tin

cho các nhà kinh doanh EU về cơ hội làm ăn ở Việt Nam, tìm đối tác liên

doanh, giới thiệu khả năng cung cấp và đầu tư của EU.

Buôn bán giữa Việt Nam và EU tuy phát triển mấy năm gần đây với

tốc độ cao, song tổng trị giá trao đổi còn quá nhỏ, chưa xứng với tiềm nâng

và mong muốn của hai bên. Nhìn tổng thể k im ngạch xuất khộu của V i ệt

68

Nam mấy năm gần đây tăng trưởng khá (27-28%/năm), nhưng so với mức

giá trị tuyệt đối thì k im ngạch xuất khẩu chưa tương xứng với tiềm năng

kinh tế của Việt Nam.

Trong mấy năm gần đây, các nước châu Á vẫn là thị trường buôn bán

chính vói Việt Nam, chiếm tỷ trọng 60-70%. Các nước châu Âu mà chủ

yếu là các nước EU chỉ chiếm tỷ trọng 15-20%. Do đó việc Việt Nam nhụp

siêu hàng năm chủ yếu là từ các nước châu Á. Đây là vấn đề đáng suy nghĩ

k hi V i ệt Nam bước vào thời kỳ công nghiệp hoa, hiện đại hoa đất nước, vì

có nên tiếp tục nhụp thiết bị máy m óc của các nước châu Á hay chuyển

sang nhụp thiết bị máy móc, công nghệ cao từ các nước châu Âu.

K h ối EU bao gồm 15 nước, là một trong 3 k h ối kinh tế lớn nhất thế

giới và có tiềm năng to lớn về buôn bán xuất nhụp khẩu. Nhu cầu về tiêu

thụ hàng hoa rất lớn, nhất là hàng công nghiệp nhẹ và nông lâm thúy hải

sản chế biến. Mặt khác, đây cũng là nơi ta có thể khai thác được thiết bị

nguồn (hơn hẳn các nước châu Á). M u ốn thế trong thời gian tới Việt Nam

phải tìm m ọi biện pháp tăng cường xuất khẩu sang các nước EU lên gấp

nhiều lần hiện nay, chuyển dần tỷ trọng buôn bán từ các nước châu Á sang

các nước châu Âu, trong đó chủ yếu là các nước EU lên một cách hợp lý.

Định hướng xuất khẩu của V i ệt Nam trong thời gian tới vào thị

trường EU là các mặt hàng công nghiệp nhẹ như: hàng dệt may, giầy dép,

hàng tiểu thủ công mỹ nghệ...; hàng công nghiệp nặng như than đá,

thiếc...; hàng nông lâm thúy hải sản đã chế biến như cà phê, cao su, hạt

điều, thúy sản, sắn lát khô, thực phẩm chế biến...

Định hướng nhụp khẩu của Việt Nam đối với thị trường EU là thiết bị

nguồn như điện, giao thông, cơ khí chính xác, vụt tư nguyên liệu cao cấp...

69

Tuy hiện nay quan hệ buôn bán giữa khối EU với Việt Nam vẫn bị

hạn chế, chủ yếu là do Việt Nam chưa gia nhập WTO, trong vài năm tới

vấn đề này chắc sẽ được khai thông, khi đó tốc độ tăng trưởng sẽ có bước

phát triển mói. Trên tinh thần đó, hướng cơ cấu xuất khụu sang các nước từ

nay đến năm 2010 nên định hướng như sau:

Châu Á: 40-50%

Châu Âu: 25-30%

Châu Mỹ: 20-25%

Các châu lục khác: 5%.

4. Mặc dù là một cường quốc về công nghiệp và thương mại, dòng

vốn đầu tư trực tiếp từ EU đầu tư ra nước ngoài năm 1994 chiếm 4 5% thị

phần trên thế giới, trong khi Nhật Bản chỉ chiếm 1 2% và Mỹ chiếm

26% [ 3 3 ), nhưng từ trước đến nay, châu Âu lại tương đối tách rời khỏi chính

trường thế giới. Hiện nay tiềm lực kinh tế của châu Âu lại chưa có được

một vị thế chính trị tương xứng.

Đương nhiên là đa số nguồn vốn đầu tư trực tiếp của châu Âu chảy

vào những nước thuộc Liên minh. Mặc dù EU cũng là một nhà cung cấp

ODA lớn nhất thế giới theo tỷ lệ phần trăm GDP, nhưng dòng vốn đầu tư

trực tiếp sang các nước đang phát triển ở châu Á vẫn thấp so với tỷ lệ tương

ứng của Nhật Bản và Mỹ. Việt Nam - một quốc gia châu Á, không tránh

khỏi tình trạng trên. Tại cuộc họp của Uy ban hỗn hợp Việt Nam - EU tổ

chức tại Hà Nội (27-9-1996), hai bên đều thừa nhận tuy đầu tư của EU vào

Việt Nam có tâng nhưng khối lượng còn rất khiêm tốn so với tiềm năng và

thế mạnh của EU.

70

5. Khác với đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản chủ yếu nhằm vào chi

phí lao động, phần lớn đầu tư của EU là nhằm khai thác thị trường của

nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư của EU, thị trường được coi là nhân tố

quan trọng nhất k hi quyết đinh thâm nhập vào nền kinh tế của nước khác.

D ưới con mắt của các nhà đẩu tư của EU, Việt Nam không được coi là thị

trường rộng lớn xét theo sạc mua của nó. về thị trường tiêu thụ sản phẩm

của EU, chúng ta thấy về diện thì rộng nhưng về điểm thì có hạn. V i ệt

Nam rộng mở đối với hàng của EU nhưng k ém khả năng thanh toán. Các

nước công nghiệp phát triển (ngoài EU) là thị trường rất khó giành giật

nhưng có khả năng thanh toán và trước mắt vẫn g iữ vị trí quan trọng. Trong

số đó, EU nhằm vào Mỹ và Nhật Bản, mục tiêu với hai thị trường này là

nếu không "lấn được sâu" thì ít ra cũng phải "giữ hoa" có nghĩa là giữ

được thăng bằng cán cân thương m ại và cán cân thanh toán.

Các nước EU có thế mạnh trong các ngành chế tạo máy, phương tiện

vận tải, kỹ thuật điện, ngành công nghiệp chế biến khác, song thị trường

tiêu thụ các mặt hàng này ở Việt Nam còn nhỏ. Các chuyên gia kinh tế

phương Tây cho rằng, hiện nay chưa có dấu hiệu nào về việc Việt Nam trở

thành thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị quan trọng của EU trong

những n ăm sắp tới.

Về thị trường tiêu dùng, sạc mua của V i ệt Nam cũng rất hạn chế.

Trong k hi đó, chỉ riêng mua của C H LB Đạc đã bằng với sạc mua của toàn

bộ các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (trừ Nhật Bản). Vả

lại quan hệ k i nh tế giữa EU với Việt Nam chủ yếu là quan hệ tay đôi giữa

từng nước với nhau mà chưa tiến triển nhiều ở cấp khu vực. Tình hình đó ít

nhiều đã gây ảnh hưởng tới dòng đầu tư từ EU vào V i ệt Nam.

71

6. Sự ra đời của EU đã mở đầu cho một quá trình liên kết kinh tế khu

vực chặt chẽ và toàn diện.

Tình hình đó đã làm tăng cường xu thế khu vực hoa và gây ra những

biến đổi lớn trong nền kinh tế thế giới. Việc hình thành thị trường thống

nhất châu Âu rộng lớn, không biên giới gày ảnh hưởng trực tiếp tới thương

mại thế giới, sẽ xuất hiện xu hướng co cậm làm thay đổi các luồng đầu tư.

Sự hợp tác nội bộ trong k h ối nhiều hơn và xu hướng bảo hộ mậu dịch sẽ có

thể tăng lên. EU mở rộng mậu dịch trong k h ối và như vậy một số hàng hoa

vốn nhập từ các nước ngoài k h ối (nhất là từ các nước đang phát triển) sẽ

được thay thế bởi hàng hoa nhập ngay từ các nước trong khối.

Vả lại trong số 15 nước thuộc EU, Tây Ban Nha và Bồ Đ ào Nha tuy

là 2 nước có trình độ phát triển thấp hơn và đòi hỏi có sự trợ giúp về vốn

nhưng cũng có những l ợi thế hơn hẳn so với Việt Nam như: Cơ cấu hạ tầng

rất phát triển, tình hình chính trị khá ổn đinh, và gần gũi v ới các nước

thành viên khác của EU về mặt lãnh thổ cũng như văn hoa. Chính vì vậy

Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trở thành nơi đầu tư lý tưởng đối với các công

ty của EU và có sức cạnh tranh rất lớn với Việt Nam. Trong k hi đó, cơ sở

hạ tầng ở Việt Nam còn chưa phát triển, mặc dầu những n ăm gần đây

chính phủ đã có những cải biến căn bản với chính sách mở cửa để thu hút

đầu tư nước ngoài. Từ sau k hi kết thúc chiến tranh lạnh, quan hệ kinh tế

Đông - Tây chuyển từ đối đầu sang hợp tác và tương trợ. Các nước Đông

Âu và SNG phá bỏ các quan hệ truyền thống trong khuôn k hổ H ội đồng

tương trợ kinh tế, thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với tất cả các nước trong

EU. Các nước này đang dần từng bước bước vào quá trình nhất thể hoa

kinh tế châu Âu, mờ rộng thị trường chung để thu hút đầu tư từ EU giúp

cho sự tăng trưởng kinh tế.

72

Điều đó cho thấy hiện nay EU đang quan tâm đến các nước trong nội

bộ EU và các nước SNG, Đông Âu nhiều hơn là đến Việt Nam.

7. Từ những năm 1990 trở lại đây, cuộc cạnh tranh kinh tế kỹ thuật

giữa Mỹ - Nhật Bản - Tày Âu trở nên gay gắt và ác liệt. Xu hướng liên kết

các k hu vực ngoại vi vào các trung tâm sức mạnh trở nên ráo riết do đó các

chính sách bảo hộ k h ối ra đời nhanh chóng. Trước tình thế đó các công ty

xuyên quốc gia ở các trung tâm vội vã địu tư vào nhau nhằm biến các chi

nhánh của mình thành các "con ngựa thành Tơ roa" nằm sâu trong các thị

trường kỹ thuật cao để tránh các đòn thuế quan nặng nề trước k hi các tập

đoàn Bắc Mỹ và Tây Âu khép lại. Các công ty xuyên quốc gia phương Tây

đua nhau địu tư và lập nhà máy ở những nơi này. Đó cũng là một trong

những nguyên nhân làm cho địu tư vào V i ệt Nam có chiều hướng giảm

sút, trong k hi dòng địu tư vào các nước công nghiệp phát triển tăng lên.

Nếu như ở thập kỷ 70, việc chuyển các cơ sở sản xuất ra nước ngoài

là nhằm thoát k h ỏi sự gia tăng tiền lương quá cao ở các nước công nghiệp

phát triển và khai thác các nguồn nguyên liệu ở các nước đang phát triển

thì thập kỷ 90, so với sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế và công nghiệp, chi phí

lao động thấp không còn là yếu tố quyết đinh nữa. Sự ổn đinh tương đối

của nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển, khả năng phát triển manh

các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và sự hoàn thiện các ngành công

nghiệp phụ trợ như thông tin hiện đại, mạng lưới giao thông phát triển và

lao động lành nghề ở các nước này đã trở thành những nhân tố hấp dẫn hơn

đối với địu tư nước ngoài. Trong địu tư vào các nước tương đối phát triển

hơn như Xinh-ga-po, Ma-lay-xi-a, rõ rằng có sức hút manh mẽ hơn đối với

các nhà địu tư EU.

73

8. N hư trên đã trình bày, phần lớn các dự án của EU đều đầu tư vào

các lĩnh vực sản xuất một phần đáng kể vốn đầu tư trực tiếp của EU cũng

tập trung vào ngành công nghiệp chế biến - một ngành có tầm quan trọng

chiến lược trong tương lai khi mà thị hiếu tiêu dùng thay đổi theo sự tăng

nhanh về thu nhập và nhu cầu chế biến và sẽ tạo ra sản phỷm nông nghiệp

có giá trị gia tăng ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, các nhà đầu tư EU vẫn chưa chú trọng đến lĩnh vực

hàng hoa trung gian mà lĩnh vực đó sẽ tăng mạnh quá trình công nghiệp

hoa đang được đỷy manh ở Việt Nam. Đày là lĩnh vực mà các nước châu Á

đã đầu tư một cách đáng kể vào Việt Nam. Sẽ có sự thay đổi trong cơ cấu

vốn đầu tư trực tiếp của EU vào công nghiệp hàng hoa trang gian nếu tỷ

trọng v ốn đầu tư của EU trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam ổn đinh

và có k hả năng tăng lên trong tương lai.

Các ngành công nghiệp vừa và nhỏ, một bộ phận năng động nhất của

nền k i nh tế châu Âu, vẫn chưa thể nắm bắt m ột cách hiệu quả những cơ

hội ở thị trường Việt Nam. V ới những sự chưa chắc chắn liên quan đến

khuôn k hổ pháp lý của Việt Nam, những thông lệ kinh doanh xa lạ và sự

cần thiết phải hoạt động thông qua các liên doanh, nên các công ty của EU

hầu hết đang phải đương đầu với những khó khăn đáng kể trong việc tài trợ

cho các hoạt động của mình ở Việt Nam. Có thể rút ra nhiều bài học từ khả

năng của các công ty Nhật Bản và Hàn Quốc trong việc đưa ra các trọn gói

tài chính và công nghiệp toàn diện mang tính dài hạn và trong việc hoa

nhập thị trường nội địa và sản xuất trong m ột mạng lưới thương mại quốc

tế.

Chương in

74

TRIỂN VỌNG HỢP T ÁC

KINH T Ế - T HƯ Ơ NG MẠI VIỆT NAM - EU

I.Những đỉnh hướng chiến lưac cho quan hê Việt Nam-EU:

Trong các văn kiện, nghị quyết đề cập tới đường l ối đổi mới chính

sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hoa, Đảng ta đã xác

định EU là một trong những khu vực chiến lược và truyền thống cần mở

rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Quan hệ hợp tác kinh tế thương mại

với EU là một trong những hướng trụng điểm, được nhà nước Việt nam coi

như một hướng ưu tiên phát triển, không chỉ đơn thuần vì vấn đề kinh tế,

thương m ại thông thường mà còn tạo nên đối trụng cần thiết trong quan hệ

quốc tế nói chung.

Những thành tựu nổi bật trong quá trình đổi m ới ở Việt Nam, việc

Việt Nam tiếp tục thực hiện quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển

sang cơ chế thị trường là những điều kiện thuận l ợi để tăng cường và mở

rộng hơn nữa các m ối liên hệ và quan hệ hụp tác giữa Việt Nam và EU.

"Giờ đây là lúc thế giới thừa nhận rằng Việt Nam đã có những biện pháp

tích cực nhằm bình thường hoa các quan hệ với các đối tác của mình, trên

cấp độ khu vực cũng như trên cấp độ toàn cầu."

M ục tiêu cơ bản trong quan hệ giữa V i ệt N am và EU là góp phần

đẩy mạnh quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai bên. Nhân tố của sự hợp tác

là khuyến khích vận dụng những chính sách kinh tế vĩ mô thận trụng, ổn

định và có thể dự đoán được, sử dụng vốn O DA (viện trợ phát triển chính

thức) để giảm bớt sự mất cân đối về kinh tế-xã h ội để dần dần thích ứng

với nền k i nh tế thị trường. Trên tinh thần đó, Hiệp định khung hợp tác V i ệt

Nam — EU được ký ngày 17/7/1995 giữa V i ệt Nam và EU đã và sẽ đặt

75

khuôn k hổ mới cho việc phát triển và đa dạng hoa các quan hệ kinh tế

thương mại mà cả hai bên cùng quan tâm. Đây là một Hiệp định dài hạn,

quy định khái quát những quan hệ giữa Việt Nam và EU.

Mục đích của Hiệp định là nhằm bảo đảm các điều kiện hợp tác kinh

tế, khuyến khích đẩy mạnh phát triển thương mại Việt Nam và đầu tư

thương mại hai chiều vì l ợi ích chung có tính đến hoàn cảnh kinh tế của

m ỗi bên; hỗ trợ phát triển kinh tế vững chực và cải thiện điều kiện sống

cho các tầng lớp dân cư nghèo; tăng cường sự hỗ trợ đối với Chính phủ

V i ệt Nam trong việc cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển sang nền kinh tế thị

trường; hỗ trợ về cải thiện môi trường và sử dụng lâu dài các nguồn tài

nguyên thiên nhiên.

Hiệp định gồm 21 điều khoản và 3 phụ lục. Các điều khoản chủ yếu

là về các vấn đề hợp tác thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế khoa học và

công nghệ, hợp tác phát triển, môi trường...

Vé hợp tác thương mai, trước tiên Hiệp định cho Việt Nam hưởng

quy chế t ối tuệ quốc (MEN), phù hợp với các điều khoản của tổ chức

thương m ại thế giới (WTO) đặc biệt là quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập

(GSP) thường được dành cho các nước đang phát triển. Điều này có ý

nghĩa thực tiễn lớn, vì trong k hi Việt Nam chưa phải là thành viên của

WTO, Việt Nam vẫn được hường các qui chế ưu đãi này. Sau đó, hiệp định

đưa ra một số biện pháp nhằm tạo điều kiện thuận l ợi cho buôn bán và

thương thuyết với Tổ chức Mậu dịch thế giới, trong đó cố gựng đi tới loại

bỏ m ọi trở ngại nảy sinh trong trao đổi thương mại.

Hiệp định cũng nêu rõ các bên cam kết phát triển và đa dạng hoa trao

đổi thương mại và cải thiện tiếp cận thị trường của nhau đến mức cao nhất

76

có thể được. Đồng thời sẽ thực hiện các chính sách nhằm tạo thuận l ợi cho

việc bán sản phẩm vào thị trường cua nhau. Các bên sẽ dành cho nhau điều

kiện thuận l ợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hoa và thoa thuận xem xét

cách thức và biện pháp loại bỏ hàng rào thương mại giữa các bên, đục biệt

là hàng rào phi thuế quan.

Những quy định trên đây sẽ không hạn chế quyền của mỗi bên áp

dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ những l ợi ích về an ninh thiết

yếu của mình, hoục nhằm bảo vệ sức khoe hay đạo đức chung, hoục bảo vệ

môi trường, hay đời sống sức khoe của súc vật, cây trồng. Liên quan đến

vấn đề này, những biện pháp như vậy sẽ không tạo thành những phương

tiện phân biệt đối xử độc đoán hay vô lý hoục sự hạn chế trá hình về

thương mại. Đồng thời Hiệp định còn quy định rõ: Các bên thoa thuận

khuyến khích trao đổi thông t in về những cơ hội thị trường cùng có l ợi và

tiến hành tham khảo trên tinh thần xây dựng các vấn đề về thuế quan, p hi

thuế quan, dịch vụ, sức khoe, biện pháp đối với môi trường và an toàn, yêu

cầu kỹ thuật. Các chương trình đào tạo về các lĩnh vực này sẽ được tiến

hành như là một phần của sự hợp tác k i nh tế giữa hai bên.

Các bên thoa thuận cải thiện hợp tác về các vấn đề hải quan giữa nhà

chức trách tương ứng của hai bên, đục biệt về các vấn đề liên quan tới k hả

năng đào tạo nghiệp vụ, sự đơn giản hoa và làm cho hài hoa các thủ tục hải

quan và về việc phòng ngừa, điều tra, ngăn chụn các vi phạm luật lệ hải

quan.

Các bên thoa thuận tham khảo ý kiến của nhau về bất kỳ sự tranh

chấp nào có thể nảy sinh liên quan tới thương mại hoục các vấn đề có quan

hệ tới thương mại.

77

Về hợp tác đầu tư, Hiệp định nêu rõ các bên sẽ khuyến khích tăng

cường đầu tư cùng có l ợi bằng cách thiết lập môi trường thuận lợi cho đầu

tư tư nhân, bao gồm cải thiện điều kiện để tiến hành chuyển vốn và trao

đổi thông tin về các cơ hội đầu tư. Đặc biệt các bên sẽ ủng hộ k hi thực hiện

các hiệp định khuyên khích và bảo hộ đầu tư giắa các nước thành viên của

EU và Việt Nam trên cơ sở các nguyên tắc không phân biêt đối xử và có đi

có lại.

Vé hợp tác phát triển: EU nhận thức được nhu cầu viện trợ phát triển

của V i ệt nam và sẵn sàng tăng cường quan hệ hợp tác bằng cách cung cấp

viện trợ phát triển thông qua các chương trình và dự án cụ thể phù hợp với

các qui định của mình. Nhắng dự án này nhằm giúp V i ệt nam đạt được sự

phát triển bền vắng và mang lại sự tiến bộ xã hội cho nhân dàn Việt nam.

Đối tượng của các dự án là tầng lớp dân cư nghèo bao gồm cả khu

vực tiếp nhận người hồi hương và phát triển hạ tầng kinh tế xã hội; đặc biệt

chú ý phát triển cân đối nông nghiệp với sự tham gia của các nhóm dân cư

đã được xác định. Hợp tác trong lĩnh vực này cũng bao gồm tạo công ăn

việc làm và phát huy vai trò của người phụ nắ trong quá trình phát triển.

Về cụ thể, hợp tác sẽ tập trung cho nhắng ưu tiên được hai bên thoa

thuận và sao cho các dự án phải có hiệu quả và làu bền.

Về quyền sở hắu trí tuệ: Các bên thoa thuận hướng vào cải thiện các

điều kiện nhằm bảo hộ một cách có hiệu quả và tăng cường quyền sở hắu

trí tuệ, sở hắu công nghiệp và thương mại theo tiêu chuẩn quốc tế cao nhất.

Các bên sẽ hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm đạt được nhắng mục đích này,

kể cả thông qua hỗ trợ kỹ thuật khi thích hợp. Các bên cũng thoa thuận

tránh phân biệt đối xử trong lĩnh vực quyền sở hắu trí tuệ, tiến hành tham

78

khảo ý kiến, nếu cần thiết, k hi các vấn đề nảy sinh ảnh hưởng t ới quan hệ

thương mại.

Vé hợp tác kinh tế, khoa hoe và công nghê Hiệp định đã nhấn mạnh

tới n ội dung sự hợp tác kinh tế nằm trong ba lĩnh vực hoạt động lớn:

- Cải thiện môi trường kinh tế ở Việt Nam thông qua việc tạo thuận

lợi cho V i ệt Nam tiếp cận công nghệ của EU.

- Tạo thuận lợi cho các cuộc tiếp xúc giữa các nhà kinh doanh và tiến

hành các biện pháp khác nhằm khuyến khích trao đụi buôn bán và đầu tư

trực tiếp.

- Tăng cường hiểu biết lẫn nhau về kinh tế, xã hội và văn hoa.

Hợp tác kinh tế là một phần của quan hệ hợp tác đến năm 2000, Việt

Nam và EU sẽ cùng hợp lực trong một loát các hoạt động trên cơ sở hai

bên cùng có lợi. Trao đụi công nghệ và hợp tác kinh doanh là hai n ội dung

chính để hai bên cùng bàn bạc. Những vấn đề cụ thể là:

- Thúc đẩy sự tham gia của các công ty châu Âu vào Việt Nam.

- Chương trình đầu tư châu Á và chương trình đối tác đầu tư của

EU.

- Khai thác những lợi ích của các phương tiện và các hoạt động hợp

tác trong khuôn khụ hợp tác EU-ASEAN

Hiện Liên minh châu Âu đang chuẩn bị mở một Trung tâm thông tin

thương mại của EU ở Việt Nam. Hoạt động của nó nhằm bụ sung công

việc của các Đại sứ quán các nước thành viên của EU tại V i ệt Nam và tạo

79

điều kiện thuận lợi để thực hiện tất cả công việc trong phạm vi thẩm quyền

của EU, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại.

Các tổ chức xúc tiến thương mại của các nước châu Âu đã và đang có

nhiều dự án hợp tác với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam lập

các trung tâm đào tạo nhà doanh nghiệp cho Việt Nam, tổ chức h ội chợ,

triển lãm châu Âu tại Việt Nam, tư vấn kinh doanh, thoa thuận hợp tác,

đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư.

Qua các cuộc triển lãm và hội chợ thương mại được tổ chức ố Việt

Nam của các nước EU, các nhà doanh nghiệp chú trọng nhất đến các lĩnh

vực: chế biến nông sản, phát triển du lịch và gia công hàng may mặc.

Cho đến cuối năm 1995, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt

Nam đã ký 32 thoa thuận với các tổ chức hữu quan ố nước ngoài nhằm hợp

tác, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại đầu tư, trong đó có 8 bản

thoa thuận được ký với các tổ chức của EU. Hiện tại Phòng Thương m ại và

Công nghiệp Việt Nam đang xây dựng Trung tâm thông tin dữ liệu v ới

k h ối Phrancophonie (FFA), hợp tác v ới Hiệp h ội thương mại nước ngoài

mới thành lập tại Việt Nam (Pháp, Anh, Thụy Sỹ...); củng cố và phát triển

hoạt động của các vãn phòng đại diện của Phòng Thương mại và Công

nghiệp Việt Nam ố châu Âu, tăng cường hoạt động của các Hiệp hội, H ội

đồng doanh nghiệp, Uy ban hỗn hợp v ới các nước châu Âu nhằm hỗ trợ và

thương mại đầu tư.

Ngoài hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EU, Việt Nam cũng đã ký

một loạt hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Đức, Ý, Hà Lan, Đan Mạch,

và một số hiệp định hợp tác kinh tế thương mại song biên v ới m ột số nước

80

khác. Các hiệp định tín dụng ưu đãi với C H LB Đức, Phần Lan, Thúy Điển;

Các hiệp định khung hợp tác kinh tế - thương mại với Hà Lan, Thúy Điển...

Hiện tại, hai bên Việt Nam - EU đã tổ chức phiên họp lần thứ nhất

của Uy ban hỗn hợp vào tháng 9/1996 để thảo luận và xây dắng chương

trình hợp tác dài hạn tới năm 2000 giữa Việt Nam và EU. Từ tháng 9/1995,

đại diện của Việt Nam bắt đầu tham gia hoạt động của Uy ban A S E AN ở

Brucxen trong khuôn khổ quan hệ giữa các nước A S E AN với nhau và giữa

A S E AN với EU. N hư vậy, quan hệ thương mại Việt Nam - EU còn có

thêm một điều kiện để mở rộng hơn nữa nằm trong khuôn k hổ những m ối

quan hệ hợp tác A S E AN và EU.

Các hiệp đinh được ký kết giữa Việt N am và EU, đặc biệt là Hiệp

định khung hợp tác đã tạo khung pháp lý cho hoạt động thương mại hai

chiều. Các hiệp đinh đó cũng chính là những chính sách thương mại góp

phần tích cắc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU.

l i. Các chính sách, giải pháp của Việt Nam và triển vong hợp tác Việt

Nam - EU:

H i ện nay vì các nước châu Âu thường quan tâm đến n ội bộ châu Âu

nhiều hơn, vì thế Việt Nam phải tiếp tục xúc tiến khai thông quan hệ với

EU, tìm m ọi cách để hoa nhập thị trường EU, mặc dù việc x âm nhập vào

thị trường này không phải dễ dàng nhưng đó là m ột thị trường mà Việt

Nam có thể len l ỏi vào.

Để tăng cường quan hệ với EU. Thứ nhất, V i ệt Nam cần tăng cường

quan hệ với Uy ban châu Âu, nhằm mục tiêu là mở được thị trường cho

hàng Việt Nam vào. về mặt thị trường, cần đặt trọng tâm tiêu thụ hàng

công nghiệp thành phẩm và nông sản nhiệt đới chế biến, may mặc, mỹ

nghệ ở khu vắc thị trường lớn nhất thế giới này.

81

Uy ban châu Âu tin tưởng sâu sắc rằng hướng chủ yếu để tăng cường

quan hệ kinh tế giữa EU và Việt Nam chỉ có thể từ các nhà kinh doanh của

2 khu vực. Để hiện thực và thành công hơn ở Việt Nam, các nhà đầu tư

châu Âu nên chú trọng vào thị trường hàng hoa trung gian, sử dứng các dự

án cơ sở hạ tầng như là cầu nối vào thị trường Việt Nam với quan điểm lâu

dài chứ không phải trong chốc lát.

Điều mà Uy ban châu Âu có thể làm để giúp Việt Nam cải thiện

khuôn k hổ pháp lý là tạo dựng được một cuộc đối thoại mang tính xây

dựng giữa hai bên và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho nhiều lĩnh vực khác

nhau của Việt Nam. V ới các thể chế tài chính công và tư nhân và việc sử

dứng các công cứ ngân sách thì uy ban châu Âu có thể tìm ra hướng đi m ới

trong việc hỗ trợ các nhà kinh doanh châu Âu ở Việt Nam ở những mặt

sau:

- Điều phối nguồn vốn O DA của EU để có thể đáp ứng tốt hơn yêu

cầu của Chính phủ Việt Nam.

- Kết hợp hài hoa giữa O DA và F DI của châu Âu, đặc biệt trong lĩnh

vực cơ sở hạ tầng.

- Đẩy manh việc hình thành môi trường kinh doanh thuận lợi cho các

công ty EU thông qua sự hỗ trợ của các cơ quan Chính phủ có liên quan.

- Duy trì đối thoại thường xuyên với Việt Nam về quan điểm thị

trường và các vấn đề thương mại chung.

- Hỗ trợ các công ty EU trong việc chuẩn bị tiếp cận thị trường V i ệt

Nam bằng việc cung cấp thông tin.

- Hỗ trợ trong việc xác định các m ối liên hệ trong kinh doanh và

trong sự hợp tác kinh doanh phát triển chung.

82

- Úng hộ sự hoa nhập của Việt Nam vào nền kinh tế quốc tế và vào

các tổ chức kinh tế đa phương như A F TA và WTO.

- M ột hiệp định khung giữa Ngàn hàng Đầu tư châu Âu và Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam hiện đang được thảo luận. M ột k hi hiệp định khung

này được ký kết, các dự án lớn hơn mà chủ yếu trong lĩnh vực cơ sở hạ

tầng giữa các công ty của EU và Việt Nam sẽ có khả năng lớn hơn về

phương diện tài chính.

Chương trình đầu tư của Cộng đổng châu Âu (ECIP) là một công cể

nhằm đẩy mạnh sự liên doanh giữa các công ty của EU và Việt Nam. Mểc

tiêu Chương trình là giúp cho các công ty vượt qua được những khó khăn

ban đầu trong việc nghiên cứu đối tác, nghiên cứu k hả t hi đối với việc

tham gia cổ phần và m ới đây EU đã quy đinh một thể thức m ới nhằm hỗ

trợ các dự án B Ó T.

EU cũng đẩy mạnh sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông

qua Quỹ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu hoạt động từ tháng

1/1997.

Về môi trường k i nh doanh và phương diện khuôn k hổ pháp lý, các dự

án được sự tài trợ của Chương trình Euro - Táp Viet, đặc biệt là các dự án

đầu tư trong nước, sẽ nhằm mểc đích tăng cường môi trường thể chế và nói

chung giúp đỡ Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị

trường.

M ểc tiêu của chương trình đầu tư trong nước là EU giúp đỡ Bộ Kế

hoạch và Đầu tư trở thành cơ quan quản lý đầu tư "một cửa" có hiệu quả ở

Việt Nam, để có thể tăng cường khả năng thu hút đầu tư nước ngoài.

83

Khía cạnh khác của dự án là hỗ trợ trong việc mở rộng các điều kiện

của hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao (BÓT) đối với các dự án

đầu tư vào cơ sở hạ tầng công cộng và các dự án tiện ích công cộng. Dự án

của Chương trình Euro - Táp Viet sẽ hỗ trợ trong việc hình thành các điều

kiện pháp lý, kỹ thuật và tài chính cần thiết cho việc thực hiện các dự án

BÓT.

Thứ hai, Việt Nam cần tranh thủ khai thác những mửt mạnh của EU,

đó là:

- Kỹ thuật tiên tiến trong cơ khí, chế biến nông sản, dệt, may mửc, lắp

ráp ô tô, điện tử.

- K i nh nghiệm quản lý kinh tế và sản xuất công nghiệp.

- Tranh thủ đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia. Tranh

thủ đầu tư kỹ thuật của EU cho các ngành hàng xuất khẩu của V i ệt N am

như nông, lâm, hải sản, dệt, may mửc, thủ công mỹ nghệ.

- Liên kết với các nước trong khu vực để sản xuất hàng xuất khẩu.

Ông M. Ma-rin - phó chủ tịch Uy ban châu Âu trong chuyến thăm

Việt Nam từ 19 đến 22 tháng 9 năm 1995 đã nói "... tôi muốn nhấn mạnh

rằng phía Việt Nam cần phải biết khai thác những thế mạnh của thị trường

châu Âu, đồng thời tận dụng được những thuận l ợi của hệ thống ưu đãi

thuế quan phổ cập GSP mà EU dành cho các nước đang phát triển. Điều

này rất quan trọng để hàng của Việt Nam có thể vào được thị trường EU..."

Thứ ba, EU là một trong những thị trường "khó tính" nhất trên t hế

giới. Hàng hoa các nước muốn xuất vào đây phải tuân thủ những yêu cầu

về chất lượng, mẫu mã theo những tiêu chuẩn rất ngửt nghèo. Hiện nay,

việc thống nhất các quy định trong toàn bộ EU đang được tiến hành nhưng

84

để hoàn chỉnh còn cần nhiều thời gian nữa. Do vậy vẫn tồn tại 15 loại tiêu

chuẩn của 15 nước đối với cùng một mặt hàng, gây cản trứ cho tiêu thụ

hàng Việt Nam ứ phạm vi toàn cộng đồng. Giải pháp cho các doanh nghiệp

Việt Nam là cần phải nghiên cứu, sản xuất sản phẩm theo những tiều

chuẩn cao nhất do các nước thành viên nghiêm khắc nhất đặt ra. Điều này

đòi hỏi phải có đầu tư vốn hoặc liên doanh với nước ngoài cải tiến, nâng

cấp dây chuyền công nghệ trong quá trình sản xuất, chế biến, phân loại,

bao bì và bảo quản hàng hoa. Đồ ng thời cũng cần có sự tham gia của các

cơ quan chức năng, như Tổng cục đo lường và tiêu chuẩn chất lượng,

Vinacontrol phối hợp trong việc phổ biến n ội dung các tiêu chuẩn chất

lượng của EU tới các đơn vị sản xuất - kinh doanh trong nước và giữ vai trò

thực sự trong việc tiêu chuẩn hoa, chứng nhận tiêu chuẩn cho hàng xuất

khẩu sang EU.

Cũng trong chuyến thăm Việt Nam trên, ông M. M a r in cho biết có

một điểm đáng chú ý là người tiêu dùng châu Âu rất khó tính, vì vậy muốn

xuất khẩu một mặt hàng nào đó sang thị trường này, V i ệt Nam cần đáp

ứng được những quy định về chất lượng, mẫu mã phù hợp với tiêu chuẩn

châu Âu. Phía EU sẽ trợ giúp về mặt kỹ thuật để giúp V i ệt Nam cải tiến

mẫu mã, áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến để nâng cao chất

lượng hàng hoa, giúp cho hàng hoa của Việt Nam vào được thị trường châu

Âu".

Vấn đề đối v ới Việt Nam trong quan hệ v ới EU hiện nay là phải

nhanh chóng phát huy được hai thế mạnh: Lực lượng lao động đông đảo,

có trình độ văn hoa và đào tạo tương đối chính quy; có nguồn tài nguyên

phong phú, lại nằm ứ vị trí chiến lược trong khu vực Đông Nam Á. Tuy

nhiên, để thu hút được vốn đầu tư kỹ thuật của EU, V i ệt Nam cần xây

dựng cơ sứ hạ tầng vững mạnh, đầu tư có hiệu quả vào con người và kết

85

cấu hạ tầng; tạo sự cạnh tranh và môi trường lành mạnh cho hoạt động

kinh doanh và đầu tư, mở cửa thị trường...

Thứ tư EU là một thị trường xa. M ột mặt, cước phí chuyên chở cao sẽ

đẩy giá hàng lên cao làm giảm sức cạnh tranh. M ặt khác, nếu không đảm

bảo về mặt thời gian cho quá trình chuyên chở sẽ dẫn tới việc bể lỡ cơ hội

kinh doanh và hư hểng hàng hoa mà đặc biệt là đối với hàng tươi sống.

Giải quyết vấn đề này, ta có thể học tập kinh nghiệm của Inđônêxia trong

việc xây dựng các trung tâm mậu dịch và phân phối của ta ngay tại EU.

Các trung tâm này có quan hệ chặt chẽ với cảng biển, sân bay và giữ vai

trò "cửa mở" để đưa hàng xuất khẩu của ta vào EU.

Thứ năm để hoa nhập vào thị trường EU, điều quan trọng là Việt Nam

phải xác định được "cầu n ố i" trong quan hệ với EU. ơ đây, quan hệ hợp

tác song phương Việt Nam và Pháp chính là hòn đá tảng giúp Việt Nam

tiến sâu vào EU. V ới những tiềm năng kinh tế và ảnh hưởng của Pháp trên

trường quốc tế, trong tương lai, Pháp sẽ là cầu nối V i ệt Nam với EU. Pháp

có ảnh hưởng lớn, lại nằm trong nhiều khối liên minh, vì vậy Việt Nam cần

có các m ối quan hệ với các nước thành viên trong k h ối đó để quan hệ Pháp

- Việt ngày càng có hiệu quả hơn. Tuy vậy đối với Pháp, Việt Nam cũng

phải có chính sách riêng.

Thứ sáu. Hiện nay Việt Nam vẫn còn là một thị trường rộng lớn đối

với các nhà đầu tư và kinh doanh châu Âu. Vì thế mà E U RO - T A P V I ET

giữ một vai trò quan trọng trong việc bắc cẩu cho các công ty của châu Âu

đến thị trường Việt Nam...

Để đẩy mạnh hơn nữa quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và

EU trong thời gian tới cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

86

1. Cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh theo hướng khuyến

khích các đối tác EU và nâng cao sự quản lý của Nhà nước. Đày là giải

pháp rất quan trọng và xuyên suốt m ọi lĩnh vực giúp thực hiện những giải

pháp tiếp theo.

Trọng điểm hiện nay của EU là châu Âu, các nước đang tập chung

m ọi cố gắng cho quá trình nhất thể hoa cả về kinh tế- tiền tệ và chính trị.

Những khó khăn và mâu thuẫn còn nhiều mà nỗi cộm hơn cả là vấn đề

quyền l ợi riêng của m ỗi dân tộc. Việt Nam chưa phải là diện ưu tiên trong

chính sách phát triển của EU trong k hi khả năng tài chính của họ cũng có

hạn. Do đó, mặc dù Mỹ đã bình thường hoa quan hệ với Việt Nam nhưng

không hẳn đã có ngay nhiều khả năng trong việc EU tăng vốn vay, viện trợ

một cách ồ ạt cũng như trao đỗi mậu dịch tăng đột biến. Trong k hi đó hạ

tầng cơ sở trong cả nước, nhất là từ k hu vực miền Trang trở ra, còn quá

thấp k ém gây nhiều khó khăn cản trở cho hoạt động sản xuất - kinh

doanh. Hệ thống luật pháp chưa được hoàn thiện, có nhiều lỗ hỗng lại luôn

thay đỗi, nhiều k hi còn mâu thuẫn, chồng chéo. Những điều vừa nêu trên

làm cho các nhà kinh doanh EU phải dè dặt trong việc đầu tư, liên doanh,

mua bán với ta mà chủ yếu là trông chờ vào vốn và bảo lãnh của chính

phủ họ. Để có thể thu hút được nhiều hơn nữa các nhà kinh doanh EU vào

buôn bán, đầu tư, Việt Nam cần chú ý đến những vấn đề sau:

a. Nhanh chóng cùng với Chính phủ các nước EU ký kết hiệp định

khuyến khích và đảm bảo đầu tư. Điều này tạo cơ sở pháp lý chắc

chắn, tin cậy cho các nhà đầu tư EU k hi bỏ vốn vào Việt Nam.

b. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật điều chỉnh và bỗ sung thêm

những điểm bất hợp lý, chồng chéo hoặc còn thiếu để thích ứng

hơn với tình hình thực tế.

87

c. Thể chế hoa chính sách đầu tư trực tiếp của ngành và địa phương

bằng các văn bản dưới luật để có kịp thời các tài liệu hướng dẫn

đầu tư của từng ngành, địa phương.

d. Ban hành bổ sung những quy chế cần thiết đana còn thiếu

nhưxhính sách về quản lý thuế, chính sách về quản lý đất đai, ...

e. Tăng cường kiểm soát việc thực hiện pháp luật, khốc phục tình

trạng tuy tiện, cảm tính như hiện nay.

Về hệ thống quản lý đầu tư nước ngoài. Để tăng cường tính khả t hi

của dự án và theo định hướng chung của nền kinh tế quốc dân, công tác

quản lý các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cần tập trung vào hai vấn đề

lớn: Thẩm định dự án và quản lý cá dự án được cấp giấy phép.

Công tác thẩm đinh dự án trong những năm qua nhìn chung ngày

càng có chất lượng hem. Chúng ta đã chuyển từ thẩm dinh giản đơn, thuần

tuy xem xét các hồ sơ sang việc đánh giá toàn diện với sự phối hợp của

nhiều ngành, địa phương. Ta đã cố gống đảm bảo quy trình, thời gian và

giảm dần phiền hà đối v ới m ỗi dự án trong quá trình làm thủ tục. T uy

nhiên công tác thẩm định còn gây cản trở cho quá trình đầu tư, chưa đảm

bảo đúng thời gian luật định. Sự phối hợp thẩm định dự án của một số

ngành chưa thật đầy đủ. Các thủ tục cấp giấy phép còn phiền hà (muốn x in

được giấy phép phải qua quá nhiều con dấu)...Để nâng cao chất lượng

thẩm định, giảm bớt phiền hà không chỉ đối v ới các nhà đầu tư EU nói

riêng mà còn đối với các nhà đẩu tư nước ngoài nói chung, chúng ta cần

giải quyết những vấn đề sau:

- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý và chủ

dự án đầu tư, trước hết là Bộ thương mại, Bộ khoa học-công nghệ

và môi trường, Bộ Kế hoạch đầu tư,...

88

- Xây dựng quy trình thẩm định dự án đảm bảo chất lượng và theo

thông lệ quốc tế.

- Phân cấp và quy trách nhiệm cụ thể đối v ới các ngành hữu quan,

giảm bớt các đầu m ối phê chuẩn cấp giấy phép.

- Triển khai việc hướng dẫn cách thức xây dựng các dự án đầu tư và

phát hành mẫu hồ sơ cho mờt số ngành chủ yếu.

Về công tác quản lý các dự án, việc theo dõi các chủ đầu tư có hoạt

đờng đúng quy định của giấy phép hay không là n ời dung chính của công

tác quản lý các dự án. Nhưng do thiếu theo dõi thường xuyên việc triển

khai các dự án nên trong thực tế đã không kịp thời giải quyết những khó

khăn, mắc mớ trong thực hiện dự án và đó cũng là mờt trong những

nguyên nhân gây nên sự đổ bể của mờt số dự án. Bên cạnh đó, mờt số cơ

quan cơ quan nhà nước còn thực hiện việc kiểm tra mờt cách tuy tiện,

không đúng pháp luật, cán bờ kiểm tra không thông thạo pháp luật, chưa

nắm chắc n ời dung và phương pháp kiểm tra, nhất là kiểm tra tài chính xí

nghiệp, việc xử lý các sai phạm còn chưa kịp thời, chưa hình thành được

mạng lưới quản lý đầu tư nước ngoài thống nhất trong cả nước...

Phương hướng khắc phục những hạn chế trên là:

- Tăng cường kiểm tra theo dõi quá trình triển khai các dự án theo

đúng pháp luật. Qua đó kịp thời uốn nắn, xử lý các dự án hoạt

đờng sai giấy phép.

- Đặc biệt chú ý trình đờ chuyên m ôn về pháp luật, nghiệp vụ và

ngoại ngữ của đời ngũ cán bờ.

- Cụ thể hoa các chính sách đầu tư cho từng ngành và địa phương

làm căn cứ để kiểm tra các hoạt đờng của các chủ đầu tư.

89

Về cơ sở hạ tầng, hầu hết các nhà đầu tư EU đến Việt Nam đều phàn

nàn về cơ sở hạ tầng quá kém, nhất là giao thông. Thực ra vấn đề này gần

như chưa được chuẩn bị trước k hi tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài. Chính

vì thế, Việt Nam đã chú trọng ưu tiên các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

Nhưng chúng ta chưa có chính sách khuyến khích hợp lý nên chưa được

các nhà đầu tư EU hưởng ứng, trừ một số dự án trong lĩnh vực viữn thông

và khách sạn. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần chú trọng những vấn

đề chính sau đây:

- Giảm hoặc miữn thuế trong một thời gian, đủ lực hấp dẫn các dự

án đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

- Nhà nước khuyến khích các chủ đầu tư bằng cách khuyến khích về

tài chính, cấp túi dụng ... lấy từ nguồn tài chính theo chương trình

O DA tài trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

- Nhanh chóng đầu tư nâng cấp một số công trình trọng điểm cho sự

phát triển kinh tế-xã hội chung trong cả nước như nâng cấp quốc

lộ 1A, quốc lộ số 5,...

Ngoài vấn đề môi trường đầu tư, Việt Nam tiếp nhận đầu tư nước

ngoài trong hoàn cảnh thế giới đang có sự cạnh tranh gay gắt về thị

trường đầu tư. Do vậy chúng ta cần đẩy mạnh công tác vận động đầu

tư để gây sự chú ý và quan tâm của các nhà đầu tư EU. Trong những

n ăm qua, với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế như U N I D O, U N DP

chúng ta đã chú trọng công tác xúc tiến đầu tư đối với nhiều nước EU

như Pháp, Bỉ,... Việc mở các diữn đàn đầu tư đã đem lại một số kết

quả bước đầu khả quan, tiếp thu được nhiều kinh nghiệm về công tác

vận động đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chúng ta cần đẩy mạnh hơn

nữa công tác xúc tiến đầu tư với các nước EU theo những hướng sau:

90

- Tăng cường tổ chức các diễn đàn đầu tư ở trong nước cũng như tại

các nước EU, cần chú ý đến nội dung của các diễn đàn theo tính

chất và địa điểm cụ thể. Đồ ng thời cần tranh thủ sự giúp đả của

các tổ chức quốc tế và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu quảng

cáo về môi trường đầu tư V i ệt Nam. Ở đây cần đặc biệt tranh thủ

sự giúp đả của các tổ chức "thân thiện" v ới V i ệt Nam ở Pháp, Đức,

... và coi đó là cầu n ối để mở rộng phạm vi tuyên truyền sang các

nước EU khác.

- Tiến hành thường xuyên việc cung cấp và tiếp nhận thông t in từ

các sứ quán ta tại các nước EU,CÓ kế hoạch cụ thể để các sứ quán

có thể tham gia công tác vận động đầu tư, nghiên cứu xây dựng

mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số khu vực chủ yếu.

- Thiết lập m ối quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư

của các nước EU để trao đổi thông tin và kinh nghiệm, đồng thời

đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp lý, dịch vụ đầu tư

quốc tế để thu thập thông tin và tiếp nhận sự giúp đả của họ trong

việc xây dựng pháp luật, vận động đầu tư.

Đối v ới hoạt động ngân hàng cần phát triển hình thức ngàn hàng liên

doanh, mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại V i ệt Nam và hoạt động của

các công ty cổ phần. Qua 10 năm thực hiện luật đầu tư, hầu như các nhà

kinh doanh EU không muốn đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng, trong k hi ngân

hàng là mắt xích không thể thiếu được trong hoạt động đầu tư. Thực trạng

này có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do nhận thức của chúng ta

chưa đầy đủ về vai trò của hệ thống ngân hàng đối v ới hoạt động đầu tư.

Chúng ta còn áp dụng nhiều quy định khắt khe với các nhà đầu tư nước

ngoài. M ặt khác, do ngân hàng chúng ta quen hoạt động theo cơ chế bao

91

cấp nên k hi chuyển sang cơ chế thị trường sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng

túng, thường dụt dè, do dự khi cho phép người nước ngoài kinh doanh ngân

hàng Việt Nam. Do vậy trong thời gian tới cần phải khắc phục những hạn

chế trên để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư EU vào lĩnh vực này.

Cùng với đọi mới cơ chế hoạt động của ngân hàng là sự phát triển các

hoạt động của công ty cọ phần và thị trường chứng khoán. Đây là những

giải pháp quan trọng nhằm đa dạng hoa hình thức đầu tư để tạo điều kiện

thuận l ợi cho các nhà đầu tư EU phát huy m ọi khả nâng của mình. Hình

thức này thúc đẩy quá trình lưu thông vốn thuận l ợi và huy động tốt hơn

m ọi tiềm năng về vốn cả trong và ngoài nước. Cuối cùng, yếu tố rất quan

trọng quyết định sự đầu tư của EU vào Việt Nam là yếu tố con người. Lực

lượng cán bộ Việt Nam làm việc trong các liên doanh nói chung là do các

ngành, địa phương tuyển, cử nên còn nhiều hạn chế về năng lực và kinh

nghiệm trong hoạt động đầu tư với nước ngoài. Nét nọi bật là họ ít thông

hiểu pháp luật, trình độ ngoại ngữ kém. Điều này gây ra những khó khăn

trong quá trình điều hành hoạt động của công ty giữa các bên với nhau.,

giảm tính hiệu quả của công ty. Đó là một trở ngại lớn cho hoạt động đầu

tư nước ngoài nói chung cũng như đầu tư EU nói riêng vào V i ệt Nam trong

thời gian qua. Vấn đề cán bộ trở thành một vấn đề cấp bách và cần phải

được giải quyết theo những hướng chủ yếu sau:

- Khẩn trương mở các lớp đào tạo, bọi dưỡng kiến thức về hợp tác

đầu tư nước ngoài cho cán bộ và công nhân Việt Nam, đồng thời

chú trọng đào tạo các cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư nước

ngoài cũng như số cán bộ chủ chốt tham gia hội đồng quản trị của

xí nghiệp liên doanh.

92

- Nhanh chóng hình thành các chuyên đề và m ôn học về đầu tư

nước ngoài để giảng dạy ở một số trường đại học. Trên cơ sở đó

sớm tiêu chuẩn hoa trình độ cán bộ theo các chức vụ khác nhau

trong các xí nghiệp, đặc biệt là trong xí nghiệp liên doanh.

2. Về lâu dài, EU sẽ là bạn hàng quan trọng của Việt Nam cả trong

xuẹt khẩu và nhập khẩu và có nhiều tiềm nâng mà ta cần phải tận dụng

khai thác. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU hiện nay đang có

nhiều triển vọng tốt đẹp hơn k hi Mỹ bình thường hoa quan hệ với Việt

Nam, giúp loại bỏ bớt những trở ngại lớn trong quan hệ của EU với Việt

Nam. Việc xác định EU là một trong những thị trường chính và có những

chính sách đúng đắn với thị trường này sẽ là một yếu tố quan trọng để thúc

đẩy quan hệ thương mại Việt Nam EU phát triển. Điều quan trọng trước

tiên chúng ta phải xây dựng chiến lược bạn hàng và chính sách thương mại

đúng đắn với thị trường EU. Thiết lập các quan hệ bạn hàng theo quan

điểm đa cực, trong đó chú ý xây dựng quan hệ với các bạn hàng lớn, các

công ty xuyên và đa quốc gia ở EU. Cùng lúc mở rộng quan hệ với các bạn

hàng mới, cần phải củng cố m ối quan hệ đã xây dựng được với các bạn

hàng cũ, đặc biệt là các bạn hàng lớn.

Bên cạnh đó, ta còn phải tổ chức công tác thông túi về thị trường. Đây

là một khâu hết sức quan trọng trong sản xuẹt và k i nh doanh xuẹt nhập

khẩu. Thời gian qua, hoạt động xuẹt nhập khẩu giữa các tổ chức và cá nhân

của ta với EU nhìn chung chưa được đáp ứng kịp thời và đầy đủ những

lượng thông t in cần thiết. M ột phần là do hệ thống thông tin, viễn thông

của ta chưa được hoàn chỉnh, một phần do các doanh nghiệp chưa làm tốt

công tác thu thập và sử lý thông tin. Để khắc phục nhược điểm này, Bộ

Thương mại, Phòng Công nghiệp và thương mại Việt Nam cùng phối hợp

chặt chẽ với các cơ quan chức năng tiến hành đẩy mạnh công tác nghiên

93

cứu thị trường, thiết lập và mở rộng hệ thống các cơ quan đại diện thương

mại của Việt Nam tại các nước EU. Xây dựng và phát triển các trung tâm

xúc tiến, hỗ trợ xuất nhập khẫu để các tổ chức này thực hiện việc cung cấp

thông tin, quảng cáo, tổ chức các h ội chợ triển lãm cũng như các cuộc h ội

thảo chuyên đề về thị trường EU và Việt Nam để các nhà kinh doanh có

điều kiện tiếp cận lẫn nhau.

3. Trong k hi khả năng cung cấp của EU là to lớn thì khả năng thanh

toán của ta lại quá eo hẹp dẫn tới nhu cầu không được đáp ứng. V ấn đề đặt

ra là làm sao tăng hơn nữa k h ối lượng hàng công nghệ cao nhập của EU?

Phương thức các doanh nghiệp Việt Nam nên áp dụng là hàng đổi hàng.

Hàng xuất khẫu của ta đem trao đổi trực tiếp lấy hàng công nghệ của EU

hoặc dưới hình thức nhập thiết bị sau đó trả tiền dần thông qua việc bán

sản phẫm do những thiệt bị này làm ra cho chính các nhà xuất khẫu. Thông

qua phương thức này chúng ta còn giải quyết được khâu tiêu thụ sản phẫm.

Về phía nhà nước ta cẫn đẫy nhanh tiến trình đàm phán, thương lượng,

song phương hoặc với từng nưóc thành viên, hoặc với uy ban châu Âu để

tiến t ới ký kết hiệp định bảo đảm tín dụng xuất khẫu, tạo cơ sở pháp lý

đảm bảo l ợi ích cho các nhà xuất khẫu EU k hi bán hàng cho ta theo

phương thức trả chậm, thanh toán dần.

4. Xuất khẫu hàng hoa sang EU có nhiều thuận lợi lớn đó là khả năng

thanh toán cao, thị trường có nhu cầu lớn và ổn định đối với nhiều mặt

hàng xuất khẫu của ta. Tuy nhiên thị trường EU cũng chứa đựng nhiều yếu

tố cản trỏ' mà ta cần giải quyết.

Thị trường EU được bảo hộ đặc biệt cao đối với hàng nông sản và

may mặc. Nếu không có ưu đãi, hàng xuất khẫu Việt Nam khó có thể vượt

qua hàng rào thuế quan xâm nhập vào EU. về buôn bán hàng nông sản,

94

EU đã có các hiệp định riêng với từng khu vực bạn hàng như: các nước

ACP, các nước Địa Trung Hải, các nước Trung Đông, theo đó hàng xuất

của các k hu vực này được giảm và miễn thuế. Việt Nam muốn dành được

những ưu đãi tương tự thì phải sớm gia nhập W TO vì luật EU có quy định

như vậy. Trước mắt các cơ quan thường trực Việt Nam tại EU cẩn có giải

pháp tích cực với Uy ban châu Âu, để tranh thủ có được những ưu đãi đối

với những mặt hàng nông - hải sản và may mặc mà ta có khả năng xuất

khẩu vào EU. Đồ ng thời tổ chức nghiên cứu kỹ thị trường để hiểu rõ nhu

cẩu và tận dụng triệt để những ưu đãi EU đang giành cho ta.

5. Về cơ cấu hàng xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu sang EU hàng

nguyên liệu thô và sơ chế, chuyển nhanh từ xuất khẩu gạo, cà phê hạt, hạt

điều thô, ... sang xuất hàng thực phẩm chế biến (thức ăn làm sẵn, cà phê

hoa tan, hạt điều chế biến,...) nhất là chế biến tinh, bao bì đẹp, tiện l ợi cho

sử dụng và bảo quản. M u ốn vậy trước tiên ta phải nhập thiết bị và kỹ thuật

chế biến nông sản. EU là khu vực có nhiều thế mạnh trong chế biến hàng

nông sản cao cấp. Ta có thể hợp tác vói bạn trong lĩnh vực này. Đồ ng thời

cẩn khuyên khích sản xuất và đẩy manh xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu

sang EU nhằm tạo ra chỗ đứng vững chắc cho hàng Việt Nam. Bước đẩu

cẩn chú trọng xác định được những mặt hàng như gạo, cà phê, cao su, lạc,

hạt điều, thúy sản và đặc biệt là hàng dệt - may mặc. Đối với hàng nông -

thúy sản, chúng ta nên tổ chức thành các vùng nuôi, trồng chuyên canh cho

xuất khẩu kèm theo sự ưu tiên cấp thiết về vốn, giống, phân bón, thuốc trừ

sâu, có cơ sở bảo quản, chế biến và xây dựng lên cơ chế chính sách khuyên

nông. Có vậy ta m ới nâng cao được chất lượng và giá trị hàng xuất khẩu.

6/ Riêng xuất khẩu hàng dệt-may mặc : trách nhiệm của ta là phải

đảm bảo thực hiện đủ số lượng, chất lượng, mẫu mã các mặt hàng do ta và

EU xác định hạn ngạch ghi trong hiệp định. Song do nhiều nguyên nhân

95

mà nhất là trình độ trang bị kỹ thuật còn thiếu nên các doanh nghiệp chỉ

tập trung vào đãng ký những mặt hàng dễ làm, dễ thu l ợi nhuận. Trước tình

hình này, nếu không có biện pháp sử lý sẽ khó duy trì lâu dài và đấu tranh

mở rộng hạn ngạch với EU. Đối với những loại mặt hàng được ta xuất đi,

vấn đề chất lượng cồn được đặc biệt xem trọng. Những lô hàng không đạt

chất lượng sẽ không chỉ bị khách hàng từ chối và phạt hợp đồng mà còn

làm tổn hại đến túi nhiệm của khách hàng, sẽ dẫn đến mất bạn hàng và mất

cả thị trường. Việc xuất hàng dệt may của ta hiện nay còn tồn tại một vấn

đề lớn, đa phồn hàng xuất là hàng gia công. Do đó giá trị ngoại tệ thực sự

thu về chưa cao (chiếm 15 - 1 7% giá trị xuất khẩu). Điều này dẫn tới hiệu

quả kinh tế trong xuất khẩu mặt hàng này bị giảm sút.

Để đảm bảo cho hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh và hiệu quả,

giữ được túi nhiệm của khách hàng EU v ới mặt hàng dệt -may mặc Việt

Nam thì:

* Trước hết doanh nghiệp có hàng xuất sang EU phải nhận thức đồy

đủ trách nhiệm của mình về chất lượng, số lượng và thời gian giao hàng vì

mặt hàng này có liên quan đến tính thời vụ. Cồn phê phán và xử lý thích

đáng các doanh nghiệp chỉ chạy theo l ợi nhuận và bất chấp luật lệ, thủ tục

hiệp định đã quy đinh. Các doanh nghiệp cồn tìm hiểu chi tiết n ội dung

hiệp định để thi hành sớm.

*VÌ sự phát triển lâu dài và đa dạng hàng may V i ệt Nam, các doanh

nghiệp cồn nhanh chóng nghiên cứu mẫu mã của các mặt hàng khó làm ,

đồu tư hoặc liên doanh với nước ngoài lắp đặt thêm các thiết bị m ới làm

sao có thể đáp ứng được phồn lớn các mặt hàng trong danh mục hiệp định.

Bộ Thương mại và Bộ Công nghiệp nhẹ cồn ban hành các biện pháp

96

khuyến khích đối với các doanh nghiệp làm được những mặt hàng khó làm

này như cấp tín dụng, trợ giá xuất khẩu, giúp đào tạo công nhân...

* Cần ưu tiên tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho ngành dệt (kéo sợi

và dệt vải) các sản phẩm có chất lượng cao để thoa mãn nhu cầu về nguyên

liệu cho ngành may xuất khẩu. Có chính sách tài chính ưu đãi hỗ trợ vốn

cho các doanh nghiệp dệt và may hàng xuất khẩu sừ dụng nguyên liệu

trong nước, xuất khẩu thành phẩm, qua đó nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh

tế- xã h ội của ngành.

Ngay từ k hi chưa có quan hệ chính thức với EU, Việt nam đã xây

dựng được m ối quan hệ hợp tác truyền thống tốt đẹp với từng nước thành

viên EU. V ới chính sách mở rộng đa dạng hoa và đa phương hoa quan hệ

quốc tế, Việt Nam đã coi trọng việc hợp tác song phương v ới các nưóc

châu Âu và cả cộng đồng châu Âu giờ đây, m ối quan hệ tốt đẹp giữa Việt

nam với EU sẽ là nền tảng vững chắc để Việt nam quan hệ v ới từng thành

viên và quan hệ gắn bó giữa Việt Nam với từng nước thành viên l ại thúc

đẩy quan hệ chung Việt nam - EU ngày càng phát triển. Đặc biệt với bản

Hiệp đinh khung đã ký ngày 17/7/1995, quan hệ kinh tế thương mại và hợp

tác đầu tư giữa Việt Nam và EU đã bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

97

KẾT LUẬN

Liên minh châu Âu - như đã phân tích trên đây - là tổ chức duy nhất

có mục tiêu cơ bản và lâu dài là thống nhất cả một châu lục về cả kinh tế

và chính trị, dựa trên các nguyên tắc vừa linh hoạt vừa thực dụng và mang

tính siêu quốc gia ngày càng rõ rệt. Trong hơn 40 năm qua, EU đã tồn tại

không ngừng phát triển và đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong

đợi sống quốc tế nói chung và các nước trong k h ối EU nói riêng.

Trước những thành công mà EU đã đạt được trong tiến trình đi t ới

nhất thể hoa kinh tế - tiền tệ và chính trị, Việt Nam đang ngày càng chú

trọng tới phát triển đẩy manh quan hệ hợp tác kinh tế - thương m ại với EU.

Những kết quả đạt được trong hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam - EU,

từ k hi Việt Nam - EU thiết lập quan hệ ngoại giao (1990) đặc biệt là sau

Hiệp định khung hợp tác đến nay khảng đinh rõ sự biến chuyển cả về

lượng lẫn chất của quan hệ Việt Nam - EU. Phát biểu nhân dịp ký kết Hiệp

định khung hợp tác Việt Nam - EU, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh

Cầm và Chủ tịch H ội đổng EU đều hoan nghênh sự gia tăng về các m ối

quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại kể từ k hi Việt Nam và EU bình

thượng hoa quan hệ. Giợ đây là lúc thế giói thừa nhận rằng V i ệt Nam đã có

những biện pháp tích cực nhằm bình thượng hoa các quan hệ với các đối

tác của mình, trên cấp độ khu vực cũng như trên cấp độ toàn cẩu.

Những thành tựu nổi bật trong quá trình đổi m ới của V i ệt Nam, việc

Việt Nam tiếp tục thực hiện quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển

sang kinh tế thị trượng là những điều kiện thuận lợi để tăng cượng và mợ

rộng hơn nữa các m ối liên hệ và quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU.

Đánh giá về triển vọng hợp tác, Đại sứ EU tại Việt Nam nói: "Từ k hi lập

quan hệ ngoại giao, sự hợp tác V i ệt Nam - EU đã tăng lên đáng kể, tuy

98

hiệu quả còn ở mức khiêm tốn". Hiện tại các tập đoàn và các công ty lớn

của EU đang quan tâm và mong muốn hợp tác với Việt Nam - EU sẽ tiếp

tục dành cho Việt Nam sự giúp đỡ và hợp tác trên các lĩnh vực trọng yếu

của nền kinh tế quốc dân.

Mặc dù còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong bối cảnh thế

giới và khu vực hiện nay, nhưng điều không thờ phủ nhận được là tiềm

năng kinh tế, chính trị của EU về lâu dài trong một trật tự chính trị và kinh

tế thế giới m ới đang định hình là vô cùng to lớn. Chính vì vậy, Việt Nam

cần tiếp tục tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước EU trên cơ sở củng cố

và tăng cường vị trí ở các thị trường quen thuộc và các bạn hàng truyền

thống lấy đó làm điờm tựa, cầu nối đờ thâm nhập tạo chỗ đứng ở các thị

trường mới, phát triờn các quan hệ mới. Đồ ng thời, xây dựng thị trường

hoàn chỉnh bao gồm cả sức lao động, dịch vụ, vốn và tiền tệ thông suốt -

trong cả nước và với thị trường thế giới...

V ới việc tiếp tục duy trì quan điờm phát triờn và mở rộng quan hệ hợp

tác với tất cả các quốc gia khác nhau trên thế giói vì l ợi ích chung trên cơ

sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền của m ỗi dân tộc do Đảng ta đề

ra sẽ tạo điềukiện cho sự hội nhập và phát triờn kinh tế Việt Nam. V ới

thiện chí và tiềm năng to lớn của Việt Nam và EU, chúng ta tin tưởng rằng

quan hệ hợp tác Việt Nam - EU sẽ ngày càng phát triờn tốt đẹp cả trong

quan hệ song phương Việt Nam - EU và đa phương A S E AN - EU.

PHỤ LỤC

ã • =

83 mé

Ị .3 í Ị

slbịtì!:; S o S ì; »!8Ísís Ì

; p S | Ẹ 3R

8 S s R!3|8|S|S;3|S|8iR 2|'S s S|Ì|SỊSỊ8I3I8|S!=|.ÍS^

' 3 Ị C ỈS '1= sịa

s i? s

se?SE 5

2

ĨC01

Ị p p p sị Ị=ị q Ì|8|S|8Ị8ÌBÌ8ỊCịSịãị8iãịSịSỊẽ

o I oi oi oi ci a

ẸISÌS SỊS civiioì do

o i o l o l o i c lo — IaìaÌ

Si

8|8ỊSỊSỊS!3Ị3|2!5!3|3]SỊ8|S|S|8|8JSI8|8I8 3.I8ỊSỊ o oỊaIoịnío'ìo! — ÌojnÌ oỉo ' ,Q ỊoIo L L - LÍ ...

Mi!!

8Ị "'3

a l a lo Li ỉ

SịSIS

ạ ạ 818 ộ 518 s 3K.Ì8IR 8|5ịs|8J8

Ri ! í

: 8ị3|g!8l8|sỊS|*Ị8|S s 3

8I8|5I8|8I8I8

313 8 8|ặ 8 3ỊS 8Ị3Ị8. Ó

o l o Ị o l o i o.

ru ri

oi.. (O

ojoloịclig|.-1aj^Ịo!í-.'ịa|ojoi«joỊO o

1

*o'|o

•!S ajgjsi:js

Mi

oìo r<|.

S;3|SJSỊ8Ị8.!SJ3ỈoỊSJ8p SjSỊs|sỊsje oỊaí°ịRl"i°

o I oi o I oi Ị Ó) o Ịy-l lo Ị 5 —"Ì— —— • -

ri

318)818

318

SịSISIS SỊS 818

!I8Ì8|SỊ8|:!S.:S ạ sịạ 8

ọ' ai co o|r-ỊÌo|

8 1 88 o |a lo

sịa g ã ao

3)5 8 ~ : OĨ«íịa

s|SiRj8js °'ĩs s|o|°

in § 2 ' s ị s l s l 0 ? ° "

lui

LU

812 8

~!SJBỊSỊ3|8

_!_'_ SỊgịs

g 5 8

8Ỉ Q'SJS

8 3 ạs o a Vi Ì -

sỉ SÌSI8ỊS

sịsỊsĩặlsịs o ị o ị o i ÔI - -

s j ^ |8 Sj8j=|S s J9|õj e jc 1 vía

21

SISISỊSỊS

818)818

33

3 K 818 813 8

81« 8181818(818 O i a i o l a t ©'

81818 o ã'Ịo Sjs;sjs OỊO

8J8]8J8Ì8J8I8

3 18

8IS cl oi o

SI8Ị3ỊSI8Ị2 8 8 rvioloir^Ịal — lo

& 8 ri l o'

o"|o

S!3IS

8 8

oi à

o l O ỊO I I •

818

Ẹ|8

8 Ị C Ì 8 Ị2

8 13 8Ị8ỊS — 0Ị0

8181818 oi oi oi o Xi. 8I8J?J8 cl a 1 o

818 8ĨSJ3 =>Ì = |o-Ịo-|p.

ỉ 813

ĨỊCỊS

8lĩjSJ8|8 í si

-ị 5 5

8!SJSJS

?J8

818

8 s

Ôi à'

Sj8|8 0)0'

s|8 s - do

gìS!8 oi VỊ Q

s_ ,,8

S8Ị3

818 8.

ã o

R

-LI

SỊ5;8|S

3 81 =

< z h > b H D w < Ọ u

ặịsis " 5 é

<-

ca Ũ

ĩ

10

le

sề Ị 3? cị

l i ' -Ì

i í - ậ g ls

gi Bị

'=•?!! •.li 5

3,3 3 3 ra 1 = 1-1 3 — -2 Sre tỉ !C I - Ị-o I.

'É?* = GI-i;!ìi

I ỉm

ị Ị i

li

ỉ I ì

Ị T ỉ] ỉ li I

ri ị ỉ ỉ

ÍT

. LU ỉ í 11 Lì !

8|BỊ-|ÍỈ|3|;

?.|S|S|Í

2|S 3|5ỊS|$ỊSỊ8|a!5|i«ia|8IS lồi* 2 wệff$

m

s á S o 5 rĩ Ị s ị li

88

31 o ị o

S|8|SỊ8 — í o j o |o

JJJ.J..!J.

u-í ị rĩ Ị 31 £ Ị 3 Ị '3 ì 3

..Ị í . 3Ì8ÍẼIS

0 0 ;;; ? SSKÌ ị ã ỉ sã :ÌC|0|C O l oi

5 |S| R iS j o ỊS o i c í i o ịc - -

tí Sỉ- o l o i ri

ri

r. Ọ

'=

8í8lsịs 818 - Ị --

sịa s

sỊsịs 3

8

oi o Ì o

OK

lũi.

o í o lo Ị Ó

..Di Sìịã s

ã

PỊỊ8I8 Ọ o lo

8 s

o o

ỊSịí

Ỉ|S SịSIS

SỊg s sạ ' • ọo

n 1

S I S Ị S ỊS

88

oi CO

8 s

3 o o

-Ó o

S I K ÍS

Si 3

° ? :j

5

a a

o ị ca

R ã

Ị 3 ã 3 ti '3 = 3 í 3 ế

í lĩ í ' Ì = - ị -ũ

SI 3

í Ì in

3 ạ

ÌIH — C| z le i- cj > ^ Ù= ị

ĩ |-1 3 ạ SI ị Ị 1 1 1 11 M Ị ÍT •(9 5

1 * A' Ị

ca a >

ỉ I Í !

3 3!

ÍT ] J UJ r ÍT

fflM

a á si 3 ạ 3 ạ sổ gịgh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A/ Tiếng Việt.

Ì. K i nh tế thế giới bước vào thập kỷ 90 Nhà xuất bản K H X H. HN, 1991. 2. K i nh tế thế giới 1991; 1992; 1993; 1994; 1995. Nhà xuất ban K H X H. HN, 1992; 1993; 1994; 1995; 1996.

3. K i nh tế thế giới 1996. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. HN, 1997. 4. M ột số đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nhà xuất bản Sự thật. HN, 1992. 5. Chiến lược đẩu tư của ÉC đối với các nước trong k hu vực và V i ệt

Nam. Tạp chí Nghiên cỹu châu Âu số 1/1995. 6. Cộng đồng kinh tế châu Âu và Việt nam. Bản tin nội bộ Viện K i nh tế thế giới, 1994. 7. Các khối kinh tế và thương mại trên thế giới. N XB Chính trị quốc gia Hà nội 1996. 8. Thống nhất tiền tệ của EU. N XB Chính trị quốc gia Hà n ội 1996. 9. Liên minh châu Âu. N XB Chính trị quốc gia Hà nội 1995. 10. Liên kết kinh tế châu Âu: Mô hình và chính sách khoa học kỹ thuật. Tạp chí "Những vấn đề kinh tế thế giới". Số 4/1992. 11. Liên kết kinh tế châu Âu và khả năng hợp tác kinh tế của V i ệt nam. Tạp chí "Nghiên cỹu kinh tế". NM/1993.

12. Các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới. Nhà xuất bản Thống kê. HN, 1993. 13. Liên minh tiền tệ châu Âu. Tạp chí "Những vấn đề kinh tế thế g i ớ i" N°4/1992.

14. Những xu hướng phát triển kinh tế thế giới thập kỷ 90. Tạp chí "Những vấn đề kinh tế thế giới". N°l/1993.

15. Tây Âu: Dự báo xu hướng phát triển. Tạp chí "Những vấn đề kinh tế thế giới". N°5/1993.

16. Tây Âu: Những đặc điểm chính trong phát triển kinh tế. Tạp chí "Những vấn đề kinh tế thế giới". N°l/1994.

17. Quan hệ kinh tế quốc tế.

Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1993.

18. Ngoại thương của Liên minh châu Âu và chính sách ưu đãi của cộng

đồng này. Tài liệu của Viện thông tin K H X H, TN 95-57/1995.

19. Tiến tới một chiến lược mới của EU về châu Á. Tài liệu của V i ện thông tin K H X H, TN 95-54/1995.

20. Báo đầu tư Việt nam các số năm 1996-1997.

21. Báo Thương mại các số năm 1995, 1996, 1997. B/ Tiếng Anh. 22. Biasco Salvatore

Market and institutions in Economic Development Macmillan, 1993. 23. Bishop G.

"EMU in 1995?", Economic and Market Analysis London, February 1992. 24. Boulding Kenneth E.

The structure of a modern economy Macmillan, 1993. 25. Economic and monetary union Communication of the Commission of 21 August 1990. 26. Gomes Leonard

The Intemational Ajustment Mechanism St. Martins press, 1993.

27. Grice

J.

The UK proposals for a European Monetary Fund and a Hand Ecu: Making progress Towards Economic and Monetary U n i on in Europe. London, 1990. 28. Inotai A.

The EEC át the end of the Serenties Budapest, 1979. 29. Intereconomics N° 10-11/1991.

30. Intereconomics N° 11-12/1991.

31. Intereconomics N° 4/1992.

32. Intereconomics N° 5/1992; 6/1992.

33. Intereconomics N° 6/1993; N° 3/1996; N° 2/1997.

0 13/1991.

34. InterpressN

35.

Nolling W i l h e lm Monetary Policy in Europe after Maastricht Macmillan, 1993. 36. Padoa Baer G. - Schioppa

The Werner Report Revisited Luxembourg, 1989. 37.

Report ôn Economic and Monetary Union in the European Community. Basel, 1992. 38. Reviews of international trade and Development Intereconomics, N° 7; 8/1991. 39. The Single Market and Economic and Monetary Union 1989 Annual

CEPS N° 44 Brussels, 1990. 40. Trends in W o r ld economy

Intergration programme of the European community and chances for its realisation. Budapest, 1990. 41. Japan's Image of Europe and Strategy towards Ít Budapest 1996 42. W o r ld Economic Growth ISS Press, San Francisco, 1985.