Jean Jacques Rousseau

Jean-Jacques Rousseau, phiên âm tiếng Việt là Giăng Giắc Rút-xô (1712 – 1778),

sinh tại Geneva, là một nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn tới

Cách mạng Pháp 1789, sự phát triển của lý thuyết xã hội, và sự phát triển của chủ

nghĩa dân tộc. Rousseau cũng có nhiều đóng góp cho âm nhạc cả trên phương diện

lý luận và sáng tác. Ông cũng là người sáng tạo nên cách viết tiểu sử kiểu hiện đại

với trọng tâm được đặt vào tính chủ thể. Ông cũng viết tiểu thuyết và đóng góp

quan trọng cho trào lưu lãng mạn trong văn học.

Rouseau rời Geneva năm 1728 sau nhiều năm học việc nghề thư ký và tới thủ đô

Paris năm 1742. Là thư ký cho Đại sứ Pháp tại Venezia từ 1743-1744. Sau đó ông

về Pháp và có năm con với Thérèse Levasseur nhưng ông đều bỏ cho trại trẻ mồ

côi nuôi. Trong thời gian này ông làm bạn với Diderot và có đóng góp cho tập

Bách khoa thư với các bài về âm nhạc và quan trọng nhất là bài về kinh tế chính trị

viết năm 1755.

Năm 1754, Rousseau quay về Geneva và bắt đầu cho ra đời tác phẩm Đối thoại về

Nguồn gốc và Cơ sở của Sự Bất bình đẳng của Con người năm 1755. Do viết

nhiều tiểu thuyết đả kích tôn giáo, ông buộc phải rời sang Bern và Môtiers (Thụy

Sĩ), nơi ông viết Đề án Hiến Pháp cho đảo Corse và tiếp tục phải tị nạn với nhà

triết học David Hume tại Anh Quốc. Ông về Pháp năm 1767 và cưới Thérèse năm

1768, đến 1770 ông trở về thủ đô Paris. Ông tiếp tục viết nhưng các tác phẩm chỉ

được xuất bản sau khi ông qua đời vì xuất huyết não vào ngày 2 tháng 7 năm

1778.

Rousseau nhận thấy có sự phân chia về bản chất giữa xã hội và bản chất tự nhiên

của con người. Ông cho rằng loài người là tốt về bản chất nếu sống ở trạng thái tự

nhiên và rằng con người bị tha hóa bởi chính xã hội. Ông cho xã hội là nhân tạo và

sự phát triển phụ thuộc lẫn nhau trong xã hội là cản trở đối với chất lượng cuộc

sống của loài người.

Trong "Đối thoại giữa Khoa học và Nghệ thuật", Rousseau tranh luận rằng cả khoa

học và nghệ thuật đều không bổ ích cho con người. Tiếp theo, trong Bàn về Bất

bình đẳng, ông tiếp tục theo vết tiến trình tha hóa của loài người từ trạng thái tự

nhiên nguyên thủy lên xã hội hiện đại. Khi loài người buộc phải gắn kết với nhau

chặt chẽ hơn, cũng là khi loài người trải qua quá trình ngày càng phụ thuộc lẫn

nhau do phân chia lao động và dẫn đến bất bình đẳng, và do vậy cần phải có khế

ước xã hội.

Rousseau có ảnh hưởng lớn đến cuộc Cách mạng Pháp, mặc dù ý tưởng chủ quyền

thuộc về toàn thể nhân dân được thực hiện qua hình thức đại diện thay vì trực tiếp.

Ông cũng là một trong những tác giả đầu tiên phê phán thể chế tư hữu và được

xem là bậc tiền bối của chủ nghĩa xã hội hiện đại và chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Ông cũng là người sớm đặt câu hỏi liệu ý chí nguyện vọng của đa số liệu có phải

lúc nào cũng đúng và mục tiêu của chính quyền theo ông là phải đảm bảo tự do,

bình đẳng và công bằng cho tất cả cho dù có phải là ý chí của đa số hay không. So

với các nhà khai sáng đương thời như Voltaire và Montesquieu, tư tưởng chính trị

của Rousseau cấp tiến hơn.

Ông cũng cho rằng nguyên tắc cơ bản của triết học chính trị là chính trị và đạo đức

không được tách rời. Khi nhà nước không thực hiện đúng theo giá trị đạo đức thì

cũng không thể thực hiện đúng các chức năng của mình và cũng không thể có

quyền lực đối với một cá nhân được nữa. Nguyên tắc quan trọng thứ hai là tự do

mà nhà nước được lập ra để gìn giữ.

Quan niệm về giáo dục của Rousseau mà trong đó đối tượng của giáo dục chính là

những đứa trẻ mạnh khỏe cả về thể chất và tinh thần, cũng như việc ông không

xem trọng sự cần thiết của giáo dục qua sách vở, cũng như việc ông nhấn mạnh sự

cần thiết phải giáo dục cảm xúc cho trẻ em trước khi giáo dục lý tính đã là tiền đề

cho lý thuyết giáo dục hiện đại đặt trẻ em làm trung tâm.

Các tác phẩm của Rousseau đều thể hiện rằng thiên nhiên giúp con người hình

thành nên bản chất của mình, giúp con người thống nhất để vượt qua sự tù đày và

giam cầm của xã hội. Chính vì vậy, ông khẳng định sự cần thiết của việc con

người về với tự nhiên, sự cần thiết đặt con người ở nơi nằm ngoài những ràng

buộc của xã hội và những định kiến của văn minh. Và như vậy, ý tưởng của ông

chính là Chủ nghĩa Lãng mạn, mặc dầu chính bản thân ông xem mình là người của

phong trào Khai sáng.