BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

Đề tài

"Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương,

huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế"

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................3

1. Mục đích, ý nghĩa đề tài ............................................................................3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................4

4. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................5

5. Cấu trúc của đề tài ....................................................................................5

NỘI DUNG ........................................................................................................6

Chương 1............................................................................................................6

MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ XÃ THỦY DƯƠNG VÀ HIỆN TRẠNG

VĂN KHẮC Ở XÃ ............................................................................................6

1.1. Một vài nét khái quát về xã Thủy Dương ..............................................6

1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thủy Dương ................................................6

1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội của xã Thuỷ Dương ............... 10

1.2. Hiện trạng văn khắc chữ Hán ở xã Thuỷ Dương ................................ 10

Chương 2.......................................................................................................... 14

SƯU TẦM VÀ PHIÊN DỊCH VĂN KHẮC HÁN NÔM TẠI XÃ ................. 14

THUỶ DƯƠNG ............................................................................................... 14

2.1. Văn khắc Hán Nôm ở đình làng ........................................................... 14

2.1.1. Đình Thanh Thuỷ Thượng ............................................................ 14

2.2. Văn khắc Hán Nôm ở chùa .................................................................. 18

2

2.2.1. Chùa Diệu Viên ............................................................................. 18

MỞ ĐẦU

1. Mục đích, ý nghĩa đề tài

Chữ Hán là thứ chữ viết gắn liền với dân tộc Việt Nam ta từ buổi đầu của

nền độc lập. Với ý thức tự cường xây dựng một nhà nước vững mạnh và chống

lại mọi âm mưu đồng hoá của các triều đại phong kiến phương bắc, ông cha ta đã

sử dụng chữ Hán và đưa nó trở thành hệ thống chữ viết chính thức của mình

trong suốt cả ngàn năm lịch sử. Ngày nay, với tinh thần xây dựng một nền văn

hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta không còn dùng đến chữ Hán nữa.

Nhưng một nền văn hoá mới không có nghĩa là bỏ qua mọi giá trị tốt đẹp mà ông

cha đã tạo dựng từ cả ngàn năm về trước mà phải giữ gìn và kế thừa những vốn

quý đó. Chính vì vậy, bảo tồn và phát huy di sản Hán Nôm là một việc làm rất

cần thiết.

Kho tàng tư liệu Hán Nôm trên đất nước ta hiện nay rất đa dạng và phong

phú, từ những pho tư liệu khoa học-hành chính của các triều đại phong kiến cho

đến những văn bản được ghi chép trên giấy tồn tại trong dân gian. Đặc biệt nhất

phải kể đến mảng văn khắc được thể hiện trên các công trình kiến trúc văn hoá

truyền thống. Bởi vốn tư liệu ở đây thể hiện rõ nét nhất về nguồn cội, về quê

hương đất nước, về phong tục tập quán và đời sống văn hoá của con người. Vì

vậy muốn hiểu rõ về những cái đó ta phải nắm được những giá trị nội dung mà

người xưa đã gửi gắm. Những câu đối hay những bức hoành phi trên những đền

chùa, miếu mạo không chỉ là những tâm tư tình cảm và tấm lòng của con người

mà nó còn chứa đựng những giá trị thẩm mỹ, mang đậm dấu ấn bản sắc văn hoá

dân tộc. Trải qua thời gian cùng sự bào mòn của những yếu tố ngoại cảnh và cả

sự thiếu quan tâm của con người thì vốn tư liệu này ngày càng bị mai một. Bởi

vậy bên cạnh xây dựng một nền văn hoá mới phải có sự quan tâm bảo tồn và phát

huy vốn di sản văn hoá của dân tộc mà cha ông đã dày công tạo dựng. Đằng sau

những câu chữ đó là cả tiếng lòng của tổ tiên từ ngàn xưa vọng tới, nhắc nhở

chúng ta về cội nguồn xa xưa của dân tộc và là nền tảng vững chắc để tiến tới

3

tương lai. Vì vậy việc giữ gìn và phát huy vốn di sản Hán Nôm là một trách

nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mọi người. Đề tài "Khảo sát văn khắc Hán Nôm tại

xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế" không chỉ hoàn

thành một khoá luận của sinh viên trong những năm đại học mà còn mong muốn

góp phần giữ gìn vốn di sản văn hoá của dân tộc, đóng góp một chút công sức

của mình vào sự phát triển chung của xã hội và đất nước.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Hiện nay, hầu như ở địa phương nào trên phạm vi cả nước cũng có một

lượng tư liệu Hán Nôm rất lớn cả về các văn bản chép tay cũng như mảng văn

khắc. Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương có kho tàng di sản Hán

Nôm phong phú và đa dạng bậc nhất. Ngoài các sách vở, tàng thư của triều đình

phong kiến còn có mảng văn khắc được thể hiện trên các công trình đền đài, cung

điện, lăng tẩm... và cả mảng văn khắc trên các công trình kiến trúc văn hoá trong

dân gian. Trong những năm gần đây đã có nhiều nhà nghiên cứu tiến hành khảo

sát, sưu tầm và tuyển dịch nhưng do lượng nhiều người ít nên mới chỉ thực hiện

được một phần nào đó ở những địa bàn lân cận. Xã Thuỷ Dương huyện Hương

Thuỷ là một vùng đất có bề dày về lịch sử và văn hoá, nơi đây tồn tại một lượng

văn khắc Hán Nôm dân gian rất lớn và đa dạng về chủng loại nhưng chưa được

sưu tầm có hệ thống trên toàn bộ địa bàn xã, mà mới chỉ có những cuộc sưu tầm

và tuyển dịch riêng về văn bia. Tấm văn bia "Lê Trọng, Văn, Đắc, Bá, Thúc, Quý

tộc thủy tổ mộ bi kí" ở nhà thờ họ Lê Thúc, Bá, Trọng, Quý, đã được nhà nghiên

cứu Trần Đại Vinh sưu tầm và tuyển dịch trong cuốn văn bia và văn chuông Hán

Nôm dân gian Thừa Thiên Huế do nhà xuất bản Thuận Hoá ấn hành năm 2006.

Còn mảng văn khắc phong phú còn lại chưa được ai thực hiện. Vì vậy với đề tài

này chúng tôi đã khảo sát một cách hệ thống, cụ thể mảng văn khắc Hán Nôm

trên toàn bộ địa bàn xã Thuỷ Dương và tìm hiểu những giá trị nội dung nghệ

thuật chứa đựng trong đó.

4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi đó

là văn khắc Hán Nôm tức là các chữ Hán-Nôm được khắc, nề trên các chất liệu

cứng như vữa xây, gỗ, đá, kim loại... Còn phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn

bộ khu vực xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đây là đề tài phải trải qua điền dã thực tế mới có thể trực tiếp tiếp cận với

nguồn tư liệu và tiến hành khảo sát, sưu tầm, phiên dịch. Sau khi thu thập toàn bộ

nguồn tư liệu mới có thể tiến hành sắp xếp, phân loại, đồng thời tham khảo các

cách làm của những người đi trước để có thể thực hiện đề tài một cách có hệ

thống, cuối cùng là phiên âm và dịch nghĩa toàn bộ nguồn tư liệu. Để dễ dàng

hơn trong cách hình dung hệ thống văn khắc trên tất cả các di tích, phần hoành

phi, đại tự được đóng khung (kể cả lạc khoản); phần phiên âm được in nghiêng

và phần dịch nghĩa được in thường. Phần câu đối chữ Nôm chúng tôi chỉ ghi lại

phần phiên âm ra quốc ngữ. Tất cả đều được sắp xếp giống như thực tế, các

hoành phi câu đối được xếp từ ngoài vào trong theo đúng như hệ thống kiến trúc.

Những phần chữ bị hư và mất nét chúng tôi vẫn đưa vào và để thành dấu chấm

hỏi.

5. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài có ba chương nội dung

chính:

Chương 1. Một vài nét khái quát về xã Thuỷ Dương và hiện trạng văn khắc ở

1.1. Một vài nét khái quát về xã Thuỷ Dương

1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thuỷ Dương

1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội xã Thuỷ Dương

1.2. Hiện trạng văn khắc tại xã Thuỷ Dương

Chương 2. Sưu tầm và tuyển dịch văn khắc chữ Hán tại xã Thuỷ Dương

5

2.1. Văn khắc ở đình

2.2. Văn khắc ở chùa

2.3. Văn khắc ở miếu, lăng

2.4. Văn khắc ở nhà thờ

Chương 3. Giá trị nội dung và nghệ thuật văn khắc Hán Nôm tại xã Thuỷ Dương

3.1. Giá trị nội dung

3.2. Giá trị nghệ thuật

NỘI DUNG

Chương 1

MỘT VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ XÃ THỦY DƯƠNG VÀ HIỆN TRẠNG

VĂN KHẮC Ở XÃ

1.1. Một vài nét khái quát về xã Thủy Dương

1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử xã Thủy Dương

Thủy Dương là một xã nằm ở phía nam thành phố Huế, phía đông giáp xã

Thuỷ Phương; phía tây giáp xã Thuỷ Bằng của huyện Hương Thuỷ và các

phường: An Đông, An Tây của thành phố Huế; phía nam giáp xã Thuỷ Bằng;

phía bắc giáp xã Thuỷ Thanh. Xã Thủy Dương cách trung tâm thành phố Huế

4km, có đường quốc lộ và đường sắt bắc nam đi qua và là vùng kinh tế trọng

điểm của địa bàn huyện Hương Thủy. Toàn xã có diện tích 1.249,8 ha, xã chia

làm 5 thôn trong đó có một thôn ở vùng gò đồi, gồm 2.310 hộ và 11.640 nhân

khẩu.

Cũng như bao địa phương khác ở xứ Thuận Hoá xưa, xã Thuỷ Dương cũng

được hình thành từ những cuộc nam tiến của người Việt mà cụ thể ở đây là cuộc

nam chinh thảo phạt Chiêm Thành diễn ra dưới thời Lê Thánh Tông năm 1470,

mặc dù mảnh đất Thuận Hoá đã sát nhập vào bản đồ Đại Việt từ rất lâu trước đó.

Ta biết rằng sau cuộc kháng chiến thần thánh đánh đuổi quân Mông Nguyên xâm

lược thì uy tín và danh tiếng của Đại Việt ngày một lẫy lừng, các nước láng giềng

6

đều mong muốn được kết thân hoà hiếu. Vua Trần Nhân Tông sau giai đoạn lãnh

đạo kháng chiến giành thắng lợi đã nhường ngôi cho thái tử Thuyên lui về làm

Thái thượng hoàng và bắt đầu cuộc đời tu hành truyền đạo. Tháng 3 năm Tân

Sửu (1301), trong một lần dạo chơi sang Chiêm, thấy tướng mạo và cốt cách đĩnh

đạc của vua Chiêm Thành (chính là thái tử Harijit, người chỉ huy quân Chiêm

đánh bại quân Mông Nguyên xâm lược), Thượng hoàng đã hứa gả con gái út của

mình là công chúa Huyền Trân cho Chế Mân (Jaya Simhavar man). Bởi vậy, năm

Bính Ngọ (1306), sau khi nhận nhiều thứ lễ vật gồm hương quý và vàng bạc cầu

hôn, vua Anh Tông gả Huyền Trân cho Chế Mân. Chế Mân liền đem hai châu Ô

và Rí làm sính lễ và phong Huyền Trân làm hoàng hậu. Khi công chúa đã về

Chiêm thì người dân hai châu Hoan Ái (Thanh Nghệ) nối nhau vào tiếp nhận

vùng đất mới. Các vùng đất này được Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và

Hoá Châu, (Nay thuộc vùng từ nam Quảng Trị đến bắc Quảng Nam) lãnh thổ Đại

Việt ở phía nam đã vươn tới sông Thu Bồn. Tuy nhiên nhân dân các thôn La

Thuỷ, Tác Hồng và Đà Bồng không theo, triều đình liền cử Đoàn Nhữ Hài vào

phủ dụ dân chúng, chọn số trong số người Chăm ở địa phương ra làm quản lý,

cấp ruộng đất và tha thuế trong ba năm để thu phục lòng dân ở vùng đất mới.

Nhưng mới về Chiêm chưa được bao lâu và cũng mới vừa sinh hạ thái tử thì vua

Chiêm đột ngột qua đời, theo tục lệ bản quốc khi vua chết thì hoàng hậu cũng

phải lên giàn hoả thiêu để chết theo. Nhận được tin, do thương em gái nên vua

Anh Tông đã sai Đỗ Khắc Chung là quan Nhập nội hành khiển Thượng thư tả

bộc xạ và An phủ sứ Đặng Văn sang Chiêm tìm cách cứu công chúa và đưa thái

tử Chiêm về nước. Sau khi cứu được công chúa, người Chiêm vô cùng tức giận

vì vậy vua Chiêm mới là Chế Chí không phục nhà Trần, có ý đòi lại đất đã dâng,

liên tiếp đem quân quấy rối và đòi lại hai châu Ô, Rý. Năm 1311, vua Anh Tông

thân chinh thảo phạt Chiêm Thành. Vua Chiêm là Chế Chí lượng sức mình

không thắng nổi bèn quy hàng. Anh Tông lập làm vương nhưng lại giam lỏng ở

trong nước mình, lại phong cho em trai Chế Chí tước hầu để trông coi nước

Chiêm. Hai năm sau, Chế Chí chết trên đất Đại Việt. Từ đó quan hệ Việt Chiêm

căng thẳng đưa tới những cuộc chiến tranh Việt Chiêm quy mô lớn (13 cuộc) mà

7

nổi bật nhất là dưới thời vua Chiêm Chế Bồng Nga. Đến thời Hồ, vẫn có những

cuộc chiến tranh quy mô giữa hai nước. Thuận Hoá là vùng biên giới tiếp giáp

với nước Chiêm và mỗi lần Đại Việt nam chinh đều đóng quân trên vùng đất này

nên nơi đây trở thành chiến trường giao tranh ác liệt, nhân dân bị ảnh hưởng bởi

chiến tranh tàn phá rồi phu phen tạp dịch nên cuộc sống rất khổ sở. Do đó, điều

lưu ý ở đây theo tiến sỹ Song Jung Nam là "Ngoài chuyện gả Huyền Trân công

chúa cho vua Champa để nhận hai châu Ô- Rý, sau đó, thời nhà Trần "không

nhận được một tấc đất nào từ Champa", mà còn "vài lần phải lâm vào thế tự vệ".

Đến thời Hồ khi quân Minh sang xâm lược nước ta, đặt ách thống trị lên toàn

bộ đất nước. Tướng Minh lúc ấy là Trương Phụ lấy được cả Thuận Hóa và Tân

Bình liền làm sổ ghi chép số dân đinh ở hai châu này, đặt quan cai trị và để quân

binh ở lại phòng giữ chỗ giáp giới nước Chiêm Thành. Khi Lê Lợi dựng cờ khởi

nghĩa, nhận thấy Thuận Hoá là nơi trọng yếu nên rất chú ý xây dựng nơi đây

thành một vùng chiến lược quan trọng. Tháng 7 mùa thu năm Ất Tị (1425), Bình

Định Vương sai tư đồ Trần Hãn và thượng tướng Lê Nỗ đem hơn ngàn quân đi

tuần các xứ Tân Bình và Thuận Hoá rồi hội quân với Lê Ngân gồm 70 chiến

thuyền từ Nghệ An vào, các đạo quân tề tựu đông đủ, thuỷ bộ phối hợp với nhau

tấn công thành. Đại quân đi đến đâu liền được nhân dân một lòng hưởng ứng và

quy thuận. Trong cuộc kháng chiến trường kì chống quân Minh giành lại nền độc

lập dân tộc, nhân dân Thuận Hoá đóng góp rất nhiều công sức.

Sang thời Lê, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành tương đối giao

hảo. Nhưng đến năm 1470 mối quan hệ này lại bắt đầu căng thẳng, vua Chiêm là

Trà Toàn (Pau Kubah, em trai của Trà Duyệt), Trà Duyệt chết thì ngôi thuộc về

Trà Toàn. Trà Toàn là người hung hãn, hoang dâm, không được lòng người và

rất tự phụ. Trà Toàn do đó không có ý thần phục Đại Việt, cho quân lính gây hấn

cướp phá Hoá Châu và vượt biển sang cầu viện Trung Quốc. Lúc này, Đại Việt

đang trong giai đoạn hùng mạnh bậc nhất trong lịch sử dưới sự trị vì anh minh

của vua Lê Thánh Tông. Là một người văn võ song toàn, sáng suốt và quyết

đoán, Lê Thánh Tông quyết định chinh phạt Chiêm Thành. Một mặt sai sứ sang

Tàu trình bày rõ ràng việc làm của Trà Toàn với Minh Hiến Tông (Chu Kiến

8

Thâm) một mặt tự thống lĩnh đại quân gồm 20 vạn vào đánh Chiêm Thành. Khi

đại quân đã tiến đến Thuận Hoá vua cho tập dượt ngày đêm để chắc phần chiến

thắng, bèn xuống chiếu cho vệ quân ở Thuận Hoá ra biển thi thuỷ chiến; lại hạ

lệnh cho Nguyễn Vũ là người ở địa phương vẽ nộp đồ bản về những nơi hiểm

yếu. Vua còn soạn "sách lược bình Chiêm" ban phát cho tướng sĩ các doanh. Về

phía Chiêm, Trà Toàn sai em đưa sáu tướng cùng quân lính bí mật kéo đến sát

doanh trại vua. Vua biết được bèn sai Lê Hy Cát đem thuyền vượt biển lẻn vào

cửa Sa Kỳ lập đồn luỹ để chặn đường về của quân Chiêm, còn vua dẫn thuỷ quân

ra biển kéo cờ và đánh trống để tăng cường thanh thế, lại sai Nguyễn Đức Trung

dẫn quân bộ đi sát chân núi. Quân Chiêm trông thấy thanh thế quân Đại Việt sợ

hãi mà bỏ chạy toán loạn về thành Chà Bàn. Quân của Lê Hy Cát có nhiệm vụ

chặn đường về của giặc đã tung ra ngăn đánh. Nhà vua đóng ở cửa biển Thái

Cần, đốc quân sĩ dốc đánh, chém hơn 300 tên và bắt sống hơn 60 tên, Trà Toàn

sợ hãi dâng biểu xin đầu hàng. Nhà vua lại dẫn quân vào đánh thành Thi Nại,

chiếm xong lại tiến đến đánh thành Đồ Bàn. Nhằm ngày 1 tháng 3 năm 1471,

quân Đại Việt phá vỡ thành, Trà Toàn bị vệ quân Thuận Hoá bắt sống và dẫn đến

trước mặt vua, vua Lê Thánh Tông không giết mà còn phủ dụ, lại cho ở ngoài ty

trấn điện. Có một bại tướng Chiêm là Bô Trì Trì sợ vua còn đánh tiếp nên đã xin

thần phục và triều cống. Vua Thánh Tông một mặt sát nhập miền bắc nước

Chiêm từ đèo Hải Vân đến tận bắc Phú Yên vào bản đồ Đại Việt, một mặt không

muốn tiến đánh thêm nữa bèn nghĩ kế làm cho nước Chiêm tự suy yếu bằng cách

chia nước Chiêm thành ba nước nhỏ do ba vua đứng đầu. Như vậy, qua cuộc nam

chinh của vua Lê Thánh Tông năm 1470 đã đem về cho Đại Việt thêm nhiều

mảnh đất mới, biên giới phía nam Đại Việt đã tới tận núi Đá Bia thuộc Phú Yên.

Vua có cho khắc bia ma nhai trên đỉnh núi để kỉ niệm chiến thắng và phân định

ranh giới. Do đó Thuận Hoá không còn là vùng biên cương phía nam của đất

nước nữa, từ đây mảnh đất này đi vào thời kỳ xây dựng và phát triển. Nhân dân

ổn định cuộc sống và bắt đầu khai canh lập ấp để định cư lâu dài. Điều đặc biệt ở

đây đó chính là 12 vị tổ khai canh tại xã Thuỷ Dương, huyện Hương Thuỷ đều là

những võ quan nhỏ gốc người miền bắc, từng giữ chức đội trưởng dưới thời Lê

9

Thánh Tông. Khi chiến tranh kết thúc, họ ở lại Thuận Hoá để chiêu vời những

lưu dân xiêu dạt về khai khẩn những vùng đất hoang, lập nên làng mới trong đó

có làng Thanh Thuỷ, tiền thân của xã Thuỷ Dương.

1.1.2. Vài nét về kinh tế, văn hoá xã hội của xã Thuỷ Dương

Từ bến xe phía nam thành phố Huế đi xuống khoảng hai cây số, qua cây cầu

vượt Thuỷ Dương ta đã chính thức đi vào địa phận xã Thuỷ Dương thuộc huyện

Hương Thuỷ. Từ hai bên con đường quốc lộ chạy thẳng về nam chính là địa bàn

dân cư của xã. Đây là một địa bàn có nhiều đơn vị kinh tế và một trong những

trung tâm của huyện Hương Thuỷ nên đã tạo cho xã Thuỷ Dương một bộ mặt

mới mẻ. Bên cạnh những ngành nghề kinh tế đang hoạt động, cư dân trong xã

không chỉ đơn thuần làm nông nghiệp mà xen lẫn vào đó là các hoạt động dịch

vụ khác cụ thể là: lao động nông nghiệp chiếm 19,1%, CN-TTCN-XD 26,7%, lao

động dịch vụ chiếm 29,6%, CB-CNV và lao động khác chiếm 24,6%. Mạng lưới

giao thông đi lại giữa các vùng miền và giữa các xã rất thuận lợi, có nhiều đơn vị

kinh tế lớn đóng trên địa bàn. Trên địa bàn hiện có 1 HTX nông nghiệp, 1 quỹ tín

dụng nhân dân, 2 trường tiểu học, 1 trường THCS, 1 trường mầm non. Trong

những năm qua đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Thủy Dương đã phấn đấu

xây dựng, tập trung đầu tư, chuyển đổi ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, đẩy

nhanh tốc độ đô thị hóa với nhiều công trình có giá trị lớn, cơ sở hạ tầng kĩ thuật

hiện đại, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, đời sống vật chất tinh thần của

người dân được nâng lên, quốc phòng an ninh được giữ vững. Từ ngày 9 tháng 2

năm 2010, xã Thuỷ Dương đã chính thức trở thành phường Thuỷ Dương theo

Nghị quyết số 08/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam về việc thành lập thị xã

Hương Thủy và thành lập các phường thuộc thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên

Huế.

1.2. Hiện trạng văn khắc chữ Hán ở xã Thuỷ Dương

Chữ Hán là phương tiện chuyển tải thông tin rất hữu hiệu và mang đầy đủ nét

văn hoá đặc sắc ở các dân tộc trong vòng văn hoá chữ Hán nói chung và Việt

10

Nam nói riêng. Đây là một trong những hệ thống chữ viết được dùng lâu đời trên

thế giới. Xưa kia chưa có giấy, bút và mực, người Trung Hoa cổ đại khắc chữ

trên mai rùa, xương thú vật hay vỏ cây… vì thế được gọi là giáp cốt văn, đây

chính là một hình thức của văn khắc và nó được ra đời từ rất sớm. Đến thời kỳ

sau này khi người Trung Hoa phát minh ra giấy, bút lông và mực nên đã tạo nên

sự vượt trội cũng như tiện lợi hơn về cách ghi chép và truyền tải thông tin của

chữ Hán, hình thức văn viết ghi chép trên giấy đã ra đời. Nhờ có giấy mà chữ

Hán trở nên đắc dụng và phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều so với chữ khắc trên

mai rùa và xương thú nên đã tồn tại cho đến tận ngày nay. Không gian ảnh hưởng

của nó không chỉ bó hẹp trong đất nước Trung Quốc mà còn lan ra cả những

nước xung quanh như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Nhưng nói như vậy

không phải là văn khắc không còn tồn tại và phát triển mà ngược lại, văn khắc

vẫn phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Văn khắc vẫn tồn tại song song với văn viết

ghi chép trên giấy, có điều là chất liệu khắc đã được thay đổi. Trước kia văn khắc

chỉ xuất hiện trên mai rùa và xương thú thì nay được khắc bằng dao, đục, dũa

hay nề trên các chất liệu mới có độ bền và mang tính thẩm mỹ cao như vữa xây,

đá, kim loại, gỗ hay gốm... Từ đây văn khắc không chỉ chuyển tải nội dung thông

tin mà còn là một hình thức nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hoá bởi tuyệt đại đa

số nó được thể hiện trên các bức hoành phi, đại tự, câu đối, văn bia và văn

chuông… Tất cả đều được gắn với những công trình kiến trúc văn hoá, tôn giáo

và tín ngưỡng ở cả cung đình lẫn trong dân gian, mang trong mình sự thiêng

liêng và trân trọng của mọi tầng lớp. Đặc biệt, do văn khắc được thực hiện trên

các chất liệu bền chắc nên nó vượt trội hơn ở việc bảo lưu nguyên bản nội dung

thông tin tốt hơn rất nhiều so với văn viết chép trên giấy. Và có thể khẳng định

rằng nếu như không có văn khắc thì không có chữ Hán trên những công trình

kiến trúc văn hoá truyền thống, mà không có chữ Hán ở những công trình đó thì

tất cả dường như không có hồn và nét độc đáo trong văn hoá nữa.

Xã Thuỷ Dương cũng là một vùng trọng điểm văn hoá ở Hương Thuỷ nói

riêng và Thừa Thiên Huế nói chung. Văn khắc Hán Nôm dân gian Huế cũng bao

gồm các văn bản Hán Nôm nhưng nó không phải thuộc loại cung đình và sơn

11

môn, đó là các thể tài: hoành phi, đại tự, câu đối, văn bia, văn chuông... Mảng

văn khắc này trên địa bàn xã rất phong phú và bao gồm nhiều chủng loại, nhiều

nhất phải kể đến câu đối và hoành phi, đại tự. Một điều đặc biệt là những công

trình kiến trúc trên địa bàn xã từ nhà thờ họ cho đến đền chùa hay miếu mạo hầu

hết mới được đại trùng tu lại trong thời gian gần đây, vì vậy mảng văn khắc đều

đầy đủ, đa dạng và rõ ràng, ít bị thời gian và điều kiện ngoại cảnh làm hư hỏng,

mờ nhạt. Nhưng cũng lý do này mà việc sưu tầm lại trở nên khó khăn hơn bởi ở

những công trình mới, những người quản lý không cho tiếp xúc với nội điện vì lý

do "Sợ mất cắp đồ thờ có giá trị và ảnh hưởng đến sự linh thiêng của tổ tiên dòng

họ" (phải kể đến ở đây là nhà thờ họ Lê Thúc, Bá, Trọng, Quý và chùa Hoa

Nghiêm)

Phần văn khắc trên đá, trên địa bàn xã chỉ có một tấm bia duy nhất là tấm văn

bia "Lê Trọng, Văn, Đắc, Bá, Thúc, Quý tộc thủy tổ mộ bi kí" ở quần thể nhà thờ

và lăng mộ họ Lê, Thúc, Bá, Trọng, Quý. Tấm bia này khắc năm 2000, có nhà

bia bảo vệ, bia nhỏ, gồm 432 chữ. Chữ Hán được khắc theo lối chữ chân phương,

rõ ràng, sắc nét, ngôn ngữ gần với ngôn ngữ hiện đại. Cả hai mặt của bia đều

được khắc chữ: mặt dương khắc chữ Hán và mặt âm khắc bản dịch bằng chữ

quốc ngữ. Nội dung chủ yếu giới thiệu và ca ngợi về ngài thuỷ tổ của dòng họ.

Vì bia dựng vào thời hiện đại nên không có phần hoa văn cũng như các trang trí

theo kiểu truyền thống. Bia cũng không được đặt trên lưng rùa mà chỉ dựng trên

đế bia hình khối chữ nhật đúc bằng xi măng, đây cũng là một đặc điểm của văn

bia dân gian Huế. Tấm văn bia này đã được nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh tuyển

dịch trong cuốn "Văn bia và văn chuông Hán Nôm dân gian Thừa Thiên Huế" do

nhà xuất bản Thuận Hoá ấn hành năm 2006, trang 307.

Phần văn khắc trên chất liệu kim loại chỉ có trên chuông đồng, không có văn

khắc trên khánh và thạp. Chuông là một pháp khí rất quan trọng, là thứ đứng đầu

bát âm và có thể nói là không thể thiếu được trong văn hoá tín ngưỡng Á đông,

đặc biệt là ở chùa. Khi dựng chùa xong thì phải có chuông, đã có chuông ắt phải

có bài văn khắc lên để kỉ niệm. Thông thường là ghi tên các thiện nam tín nữ đã

có công đức xây dựng nên chùa hay ghi bài minh chuông để nguyện cầu. Trên

12

địa bàn xã hiện nay có năm cái ở ba ngôi chùa: một chiếc ở chùa Nam Sơn, hai

chiếc ở chùa Diệu Viên, một chiếc ở chùa Hoa Nghiêm và một chiếc ở chùa

Đông Hải. Về nội dung thì cả năm chuông đều có nội dung câu chữ hầu hết giống

nhau, đó là đều khắc bài minh chung và văn chung, chỉ khác tên chùa và ngày

đúc. Riêng chuông chùa Đông Hải ghi những thông tin về chuông như năm đúc,

làng xã đúc và trọng lượng của chuông.

Phần câu đối, hoành phi, đại tự chiếm số lượng lớn nhất, có giá trị nhiều mặt

cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Mảng văn khắc này hầu hết được khắc trên

gỗ và nề trên vữa, văn khắc trên gỗ chủ yếu ở nội điện và văn khắc (nề) trên vữa

chủ yếu ở ngoài trời. Nó xuất hiện hầu hết trong những công trình kiến trúc văn

hoá và được bảo lưu khá nguyên vẹn. Những hoành phi câu đối là phần không

thể thiếu được bởi nó không chỉ chứa đựng những nội dung tốt đẹp mà còn là cả

một nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao, cả hai kết hợp tạo nên nét cổ kính, trang

nghiêm và tĩnh lặng. Như đã trình bày ở trên do những công trình kiến trúc trên

địa bàn xã hầu hết mới được sửa sang lại trong thời gian gần đây, vì vậy mảng

văn khắc đều đầy đủ, đa dạng và rõ ràng. Còn lại một số công trình khác do điều

kiện thời tiết và thời gian tác động làm cho những chữ đều mờ nhạt, mất nét

không còn đọc rõ được. Chùa Đông Hải là nơi chịu ảnh hưởng mạnh nhất: chữ

viết nề trên trụ biểu và ở cả miếu chùa qua sự bào mòn của mưa nắng đã bị rêu

phong bám mọc và vảy lóc, mất hẳn hết chữ không còn đọc được. Một khó khăn

nữa trong việc sưu tầm và ghi chép là do chữ Hán được khắc trên các công trình

trong dân gian do đó tự dạng một số chữ được viết theo kiểu cách khác biệt

không thể đoán ra được kể cả dựa vào mạch câu văn. Những chữ này lại không

hề có trong từ điển hay phần mềm vi tính chữ Hán. Một số chữ có tự dạng giống

nhau bị viết nhầm chữ này thành chữ kia (như chữ mao và chữ thủ). Hay như một

số chữ bị viết sai nét do những người thợ nề không biết chữ Hán mà chỉ đồ theo

khuôn mẫu có sẵn, trải qua thời gian và qua nhiều người nên chữ đó bị biến dạng,

không còn đúng nét của chữ Hán nữa.

Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã khảo sát tại một ngôi đình,

13

năm ngôi chùa, chín ngôi miếu lăng và mười một nhà thờ họ với tổng số: văn bia

1 đơn vị, văn chuông 5 đơn vị, hoành phi và đại tự có 244 đơn vị và câu đối 267

đôi, trong đó có 6 đôi bằng chữ Nôm.

Chương 2

SƯU TẦM VÀ PHIÊN DỊCH VĂN KHẮC HÁN NÔM TẠI XÃ

THUỶ DƯƠNG

2.1. Văn khắc Hán Nôm ở đình làng

2.1.1. Đình Thanh Thuỷ Thượng

Trụ biểu, mặt ngoài

清也若水靈也若仙鶴表琴亭玄光自在

水之有源木之有本祖功尊德終古長留

Thanh dã nhược thủy, linh dã nhược sơn, hạc biểu cầm đình huyền quang tự tại

Thủy chi hữu nguyên, mộc chi hữu bản, tổ công tôn đức chung cổ trường lưu.

Trong như nước, thiêng như núi, trụ biểu mái đình sáng tươi tự tại;

Cây có cội, nước có nguồn, công đức tổ tông lưu mãi muôn năm.

精靈得造化高清濯濯洋洋萬古猶流正氣

英秀對岑山香水煌煌赫赫千秋共拜神庥

Tinh linh đắc tạo hóa, cao thanh trạc trạc dương dương, vạn cổ do lưu chính khí;

Anh tú đối Sầm sơn, Hương Thủy hoàng hoàng hách hách, thiên thu cộng bái

thần hưu.

Thiêng liêng nhờ tạo hoá, thanh cao rực rỡ mênh mông, muôn thuở lưu truyền

chính khí;

Anh tú đối diện với đụn Sầm, Hương Thuỷ sáng trong mát mẻ, ngàn năm cùng

đội ơn che chở của Thần.

14

Mặt trong

清氣為天高彌來後箕尾托

水泉在地翰公南海榜碑靈

Thanh khí vi thiên, cao di lai hậu Cơ Vĩ thác;

Thủy tuyền tại địa, Hàn công nam hải bảng bi linh.

Khí lành là của trời, về sau lại càng cao như sao Cơ, sao Vĩ;

Suối nước tại đất, tiên Hàn Tương Tử ở biển nam linh thiêng ở bảng bia đây.

得一以靈滾滾清泉一脈

有三不朽巍巍岑嶺三峰

Đắc nhất dĩ linh, cổn cổn thanh tuyền nhất mạch;

Hữu tam bất hủ, nguy nguy sầm lĩnh tam phong.

Được một đã linh, cuồn cuộn một mạch suối trong lành;

Có ba bất hủ, nguy nga ba ngọn núi Sầm.

Bình phong, mặt trước

屏立清亭迎瑞氣

風來水面送奇香

Bình lập thanh đình nghênh thụy khí;

Phong lai thủy diện tống kì hương.

Bình phong đứng ở trước đình sáng đón mời khí lành;

Gió thổi tới mặt nước toả ra mùi hương lạ.

Bình phong, mặt sau

文武常班列

江山足護持

Văn võ thường ban liệt;

Giang sơn túc hộ trì.

15

Văn võ thường xếp bày;

Non sông đủ hộ trì.

Tiền đường

清水上亭

丁酉年秋吉日造

Thanh Thủy Thượng đình

Đinh Dậu niên thu cát nhật tạo

Đình Thanh Thủy Thượng

Xây dựng ngày tốt mùa thu năm Đinh Dậu

物阜民康

清泉勝蹟

風淳俗美

Vật phụ dân khang Thanh tuyền thắng tích Phong thuần tục mỹ Dân giàu

vật tốt tươi Cảnh đẹp suối trong xanh Phong tục thuần hậu

tốt đẹp

Nội điện

德流光

享克誠

功則祀

Đức lưu quang Hưởng khắc thành Công tắc tự

Đức sáng lưu truyền mãi Hưởng sự thành kính Có công thì thờ phụng

護國庇民澤同香水潤

調元贊化功等象山高

Hộ quốc tí dân, trạch đồng Hương thủy nhuận;

Điều nguyên tán hóa, công đẳng Tượng sơn cao.

Bảo vệ nước che chở dân, ơn trạch thấm đẫm như sông Hương;

16

Điều nguyên chuyển hóa, công lao cao lớn sánh với núi Voi.

德其盛

Đức kỳ thịnh

Công đức thịnh

為德其盛矣

有功則祀之

Vi đức kỳ thịnh hỹ;

Hữu công tắc tự chi.

Việc làm công đức thật là thịnh;

Có công thì thờ phụng.

Nhà truyền thống

萬世師

Vạn thế sư

Người thầy của muôn đời

聖道千秋留越地

師傳萬世照南天

Thánh đạo thiên thu lưu Việt địa;

Sư truyền vạn thế chiếu Nam thiên.

17

Đạo của thánh nhân ngàn năm lưu ở đất Việt;

Bậc thầy của muôn đời sáng mãi ở trời Nam.

岑嶺巍巍山錦鏽

清泉滾滾水文章

Sầm lĩnh nguy nguy sơn cẩm tú;

Thanh tuyền cổn cổn thủy văn chương.

Núi Sầm vời vợi ấy là núi tươi đẹp;

Suối trong xanh cuồn cuộn ấy là nước văn chương.

2.2. Văn khắc Hán Nôm ở chùa

2.2.1. Chùa Diệu Viên

Đỉnh đồng

妙圓寺鼎

Diệu Viên tự đỉnh

Vạc chùa Diệu Viên

Nóc điện

大光明臧

phía trên

Đại Quang Minh tạng

18

Tạng Đại Quang Minh

Nóc điện

大覺世尊

phía dưới

Đại giác thế tôn

Đại giác thế tôn

Bốn bài kệ trên tường mái

諸有聽徒來至此

或在地上或居空

常於人世起慈心

盡夜自身依法住

願諸世界常安隱

無邊福智蓋群生

南無罪業並銷除

迷離眾苦歸圓寂

天阿修羅餓鬼等

來聽法者應至心

使常存名各動行

世尊教

恆用戒看塗荃体

常持定服以資身

19

菩提妙法遍莊嚴

隨兩往生處常安樂

Chư hữu thính đồ lai chí thử,

Hoặc tại địa thượng hoặc cư không.

Thường ư nhân thế khởi từ tâm,

Tận dạ tự thân y pháp trụ.

Nguyện chư thế giới thường an lạc,

Vô biên phúc trí cái quần sinh.

Nam mô tội nghiệp tịnh tiêu trừ,

Mê ly chúng khổ quy viên tịch.

Thiên A tu la ngạ quỷ đẳng,

Lai thính pháp giả ứng chí tâm.

Sử thường tồn danh các động hành

Thế tôn giáo.

Hằng dụng giới khan đồ thuyên thể,

Thường trì định phục dĩ tư thân.

Bồ Đề diệu pháp biến trang nghiêm,

Tùy lưỡng vãng sinh xứ thường an lạc.

Có những con người tới nơi đây để nghe pháp,

Có kẻ ngồi ở trên đất, có kẻ ngồi ở trên cao.

Thường ở nơi nhân thế sẽ nổi lên lòng từ bi,

Chấm dứt bóng đêm tự thân dựa vào pháp mà an trú.

Mong cho các thế giới đều yên vui,

20

Phúc và trí vô biên phủ khắp muôn loài.

Nam mô nghiệp tội đều tiêu trừ,

Các thứ khổ ải mê muội đều về với viên tịch.

Các loài thiên, A tu la và ngạ quỷ,

Người nào tới nghe giảng pháp thì nên có “chí tâm”.

Khiến cho bảo tồn danh, mỗi người đều làm theo giáo pháp của Thế tôn.

Thường dùng để răn xem thể cây Thuyên,

Thường giữ định phục để làm béo tốt mình mẩy.

Diệu pháp bồ đề đều trang nghiêm,

Tùy vào hai chốn vãng sinh thì thường yên vui.

佛歷二千五百四十四年

妙圓寺

Diệu Viên tự

Phật lịch nhị thiên ngũ bách tứ thập tứ niên

Tuế thứ Canh Thìn quý xuân đại trùng tu

Chùa Diệu Viên

Đại trùng tu cuối xuân Canh Thìn, Phật lịch năm 2544 (2000)

Nội điện

依正金章

大雄寶殿

如是莊嚴

Y chính kim chương Đại hùng bảo điện Như thị trang nghiêm

21

Dựa vào kim chương Điện báu của bậc Đại Hùng Trang nghiêm như thế

Gian ngoài

拜手灼玄香三千世結祥雲奉獻如來蓮座上

信心持佛號百八聲成正念即生淨土寶花中

佛歷二五四四年辛巳仲春吉日大重修落成之禮

妙圓尼寺眾法侄同奉供

Bái thủ chước huyền hương, tam thiên thế kết tường vân, phụng hiến Như Lai

liên tòa thượng;

Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chính niệm, tức sinh tịnh thổ bảo hoa

trung.

(Phật lịch nhị ngũ tứ tứ niên Tân Tị trọng xuân cát nhật, đại trùng tu lạc thành

chi lễ. Diệu Viên ni tự chúng pháp điệt đồng phụng cúng)

Lạy đốt hương thơm, Ba ngàn thế giới kết thành đám mây lành, phụng dâng lên

đức Phật trên tòa sen;

Tâm tin giữ hiệu của Phật, một trăm lẻ tám tiếng chuông thành chính niệm, lập

tức sinh vào cõi tịnh thổ trong cõi hoa báu.

(Lễ khánh thành đại trùng tu ngày tốt giữa xuân năm Tân tị, Phật lịch năm 2545.

Các Phật tử chùa ni Diệu Viên cùng phụng cúng)

妙義如來廣含藏行深了悟能體了

圓修正玄戒定慧即凡心化作聖心

佛子黃文蓮黃公明明奉供

順化京春妙圓寺大重修落成之禮

Diệu nghĩa Như Lai quảng hàm tàng, hành thâm liễu ngộ năng thể liễu;

Viên tu chính huyền giới định tuệ, tức phàm tâm hóa tác thánh tâm.

22

(Phật tử Hoàng Văn Liên Hoàng Công Minh phụng cúng.

Thuận Hóa kinh xuân Diệu Viên tự đại trùng tu lạc thành chi lễ)

Làm mầu nhiệm đạo nghĩa Như Lai thấm nhuần rộng lớn, thực hiện sâu sắc việc

giác ngộ mới có thể giác ngộ được;

Tu một cách tròn đầy giới định trí tuệ chân chính huyền diệu, lập tức tâm phàm

tục biến thành tâm của bậc thánh nhân.

(Phật tử Hoàng Văn Liên và Hoàng Công Minh phụng cúng.

Lễ khánh thành đại trùng tu chùa Diệu Viên ở kinh đô Phú Xuân)

Gian giữa

五峰山境人緣已定會聚修學佛

當吉地名祖道住錫初興逢玄場

佛子武天玉奉供

順化京春妙圓寺大重修落成之禮

Ngũ phong sơn cảnh, nhân duyên dĩ định, hội tụ tu học Phật;

Đương cát địa danh, tổ đạo trú tích, sơ hưng phùng huyền tràng.

(Phật tử Vũ Thiên Ngọc phụng cúng.

Thuận Hóa kinh xuân Diệu Viên tự đại trùng tu lạc thành chi lễ)

Cõi núi Ngũ phong, nhân duyên đã định, hội họp mà tu học Phật;

Địa danh tốt lành, đạo tổ dựng thiền trượng, khi mới hưng gặp cõi nhiệm màu.

(Phật tử Vũ Thiên Ngọc phụng cúng. Lễ khánh thành đại trùng tu chùa Diệu Viên

ở kinh đô Phú Xuân)

Gian trong cùng

振錫提攜

振錫提攜

Chấn tích đề huề Chấn tích đề huề

Cùng nhau dựng tích trượng

23

將此深心奉塵剎

是則名為報佛恩

Tương thử thâm tâm phụng trần sát;

Thị tắc danh vi báo Phật ân.

Đem cái thâm tâm này phụng ngôi chùa trần thế;

Ấy là danh để báo ơn Phật.

人依法法依人頓妙隨机聞妙現

佛即心心即佛古今不異合真宗

Nhân y pháp, pháp y nhân, đốn diệu tùy cơ văn diệu hiện;

Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất dị hợp chân tông.

Người nương pháp, pháp dựa người, nhanh chóng tuỳ cơ nghe mà hiện ra mầu

nhiệm; Phật là tâm, tâm là Phật, xưa nay chẳng khác hợp với chân tông.

掌上明珠光攝大千之界

手中金錫振開地獄之門

Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại thiên chi giới;

Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn.

Quả minh châu nắm trên tay, soi sáng cả trăm ngàn cõi;

Gậy tầm xích vàng giữ trong tay, nâng mở cửa địa ngục.

Hậu điện

五峰金地叢林孤同光含空即色

當吉山頭寶剎群巒翠鎖古猶今

Ngũ phong kim địa tùng lâm, cô đồng quang hàm không tức sắc;

Đương cát sơn đầu bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim.

Rừng rậm nơi đất vàng ở núi Ngũ Phong, lẻ loi ánh sáng ngậm không tức là sắc;

24

Chùa báu đầu non là nơi tốt đẹp, những ngọn núi biếc vây quanh từ xưa đến nay.

Chuông

Chuông to

妙圓銅鐘

Diệu Viên đồng chung

Chuông đồng chùa Diệu Viên

願此鐘聲超法界

鐵圍幽暗悉皆聞

聞塵清淨證圓通

一切眾生成正覺

聞鐘聲煩惱輕

智慧長菩提生

離地獄出火坑

願成佛度眾生

唵伽羅帝耶沙訶

Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới,

Thiết vi u ám tất giai văn.

Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,

Nhất thiết chúng sinh thành chính giác.

Văn chung thanh phiền não khinh,

25

Trí tuệ trưởng bồ đề sinh.

Ly địa ngục độ chúng sinh,

Nguyện thành Phật độ chúng sinh.

Úm gia la đế da sa ha.

Chuông nhỏ

鐘偈銘云

願此鐘聲超法界

鐵圍幽暗悉皆聞

聞塵清淨證圓通

一切眾生成正覺

聞鐘聲煩惱輕

智慧長菩提生

離地獄出火坑

願成佛度眾生

唵伽羅帝耶沙訶

Chung kệ minh vân

Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới,

Thiết vi u ám tất giai văn.

Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,

Nhất thiết chúng sinh thành chính giác.

Văn chung thanh phiền não khinh,

Trí tuệ trưởng bồ đề sinh.

26

Ly địa ngục độ chúng sinh,

Nguyện thành Phật độ chúng sinh.

Úm gia la đế da sa ha.

(Nội dung đã dịch rõ ở chuông chùa Hoa Nghiêm, xin lược)

Miếu

恭請本境山神土地列位

五行列位仙娘

外境外乾英靈

Cung thỉnh bản cảnh sơn thần thổ địa liệt vị:

Ngũ hành liệt vị tiên nương;

Ngoại cảnh ngoại càn anh linh.

Cung kính thỉnh các vị thần núi và thần đất ở nơi đây :

Các vị tiên nương ngũ hành;

Anh linh ngoại cảnh ngoại càn .

Các lăng tháp

Lăng hội chủ Hoàng Công Viết

安養神

An dưỡng thần

Thần an dưỡng

佛護持名標淨域

神祲覺地赴蓮城

Phật hộ trì danh tiêu tịnh vực;

Thần tẩm giác địa phó liên thành.

Phật hộ trì danh hiệu, nêu cao cõi tịnh thổ;

27

Thần tẩm giúp đỡ đất giác ngộ, đi đến thành hoa sen.

承佛慈力

Thừa Phật từ lực

Kế thừa sức từ bi của Phật

Bia

顯考受菩提戒慈嚴寺會主黃公曰咨名心明之墓

辛亥年立春寂于辛亥年八月十六日

長子黃公由仝親眷內外寺奉立

Hiển khảo thụ bồ đề giới Từ Nghiêm tự hội chủ Hoàng Công Viết tư danh Tâm

Minh chi mộ.

(Tân Hợi niên lập xuân. Tịch vu Tân Hợi niên bát nguyệt thập lục nhật.

Trưởng tử Hoàng Công Do đồng thân quyến nội ngoại tự phụng lập)

Mộ hiển khảo, nhận bồ đề giới chùa Từ Nghiêm hội chủ Hoàng Công Viết, tên tự

là Tâm Minh.

(Lập xuân năm Tân Hợi. Tịch vào ngày 16 tháng tám năm Tân Hợi.

Con cả Hoàng Công Do cùng thân quyến trong và ngoài chùa phụng lập)

Tháp Trang Nghiêm

莊嚴塔

Trang Nghiêm tháp

Tháp Trang Nghiêm

28

寺旁另開新塔景

山頭依在舊風光

Tự bàng lánh khai tân tháp cảnh;

Sơn đầu y tại cựu phong quang.

Bên chùa mở riêng cảnh tháp mới;

Đầu non dựa vào phong quang cũ.

Bia

臨濟法派受毘丘尼戒重建妙圓尼寺住持諱心玄字真通之塔

妙圓尼眾並孝徒世眷仝奉立

Lâm Tế pháp phái thụ tì kheo ni giới, trùng kiến Diệu Viên ni tự trụ trì, húy Tâm

Huyền, tự Chân Thông chi tháp.

(Diệu Viên ni chúng tịnh hiếu đồ thế quyến đồng phụng lập)

Tháp của trụ trì trùng kiến chùa Diệu Viên, pháp phái Lâm Tế nhận tì kheo ni

giới, húy Tâm Huyền, tự Chân Thông.

(Các sư nữ chùa Diệu Viên và các học trò hiếu cùng thân quyến phụng lập)

Lăng Diệu Nhẫn

敬如在

Kính như tại

Kính như đang ở trước mặt

昊天罔極劬勞苦

蒼海難窮養育恩

Hạo thiên võng cực cù lao khổ;

Thương hải nan cùng dưỡng dục ân.

29

Cù lao khổ cực lớn như trời xanh lồng lộng;

Bể cả khó sánh cùng ơn nuôi dưỡng.

常樂我淨

Thường lạc ngã tịnh

Thanh tịnh thường lạc

Lăng ngài khai sơn chùa

Thích Nữ Hướng Đạo

雲開碧岫山粧面

月印寒泉水畫眉

Vân khai bích tụ sơn trang diện;

Nguyệt ấn hàn tuyền thủy họa mi.

Mây mở ra màu biếc nơi góc núi, núi trang điểm cho nét mặt;

Trăng in suối lạnh, nước vẽ mi.

風梳翠竹和煙裊

露滴喬松帶月圓

Phong sơ thúy trúc hòa yên niểu;

Lộ trích kiều tùng đới nguyệt viên.

Gió chải tre xanh cùng khói xoáy;

Sương đẫm trên cây thông cao như treo cả trăng tròn.

Tháp Kim Diệu

金妙塔

Kim Diệu tháp

30

Tháp Kim Diệu

Bia

妙圓尼寺住持毘丘尼號金妙之塔

佛歷二千五百十七年甲寅三月初一日寂

孝徒奉立

Diệu Viên ni tự trụ trì tì kheo ni hiệu Kim Diệu chi tháp.

(Phật lịch nhị thiên ngũ bách thập thất niên Giáp Dần tam nguyệt sơ nhất nhật

tịch. Hiếu đồ phụng lập)

Tháp của sư trụ trì tì kheo ni chùa Diệu Viên, hiệu là Kim Diệu.

(Viên tịch ngày mồng một tháng ba năm Giáp Dần, Phật lịch năm 2517.

Các đệ tử hiếu phụng lập)

Bài thơ khắc ở tường sau

龍女獻珍珠

仰伏威神

速成正果

喬曇尊敬法

依憑妙力

早澄真乘

Long nữ hiến trân châu,

Ngưỡng phục uy thần.

Tốc thành chính quả,

Kiều đàm tôn kính pháp.

Y bằng diệu lực,

Tảo trừng chân thừa.

31

Long nữ dâng hạt ngọc trân châu,

Nép trông uy nghiêm của thần.

Mau nên chính quả,

Phép tôn kính Cù Đàm.

Dựa vào sức tinh diệu,

Sớm gạn lọc chân thừa.

Lăng bà Nguyễn Thị Cúc

常樂

Thường lạc

Thường vui

旦墓神鐘風迷響

高低松嶺月常臨

Đán mộ thần chung phong mê hưởng;

Cao đê tùng lĩnh nguyệt thường lâm.

Chuông thần sớm tối, gió mê đều thổi tới;

Thông trên đỉnh núi thấp cao, trăng thường soi đến.

Bài vị 奉為順寂沙彌尼法名心直字如滿阮氏菊真靈

寂于丁未年六月初三日

本師釋女真通奉立

Phụng vi: Thuận tịch sa di ni pháp danh Tâm Trực tự Như Mãn Nguyễn Thị Cúc

chân linh.

Tịch vu Đinh Mùi niên lục nguyệt sơ tam nhật.

32

(Bản sư Thích Nữ Chân Thông phụng lập)

Phụng vi: chân linh Thuận tịch sa di ni, pháp danh Tâm Trực, tự Chân Mãn

Nguyễn Thị Cúc. Tịch vào ngày mồng 3 tháng 6 năm Đinh Mùi.

(Bản sư Thích Nữ Chân Thông phụng lập)

Mộ hội chủ Hồ Thị

觀自在

Quán tự tại

Tự tại mà xét thấu

藏百年生死

歸一路涅槃

Tàng bách niên sinh tử;

Quy nhất lộ niết bàn.

Giấu sự sống chết trong trăm năm;

Về một đường tới niết bàn.

妙圓寺會主胡氏法名紅秀字金鐘一品夫人之墓

丙子年五月五日生

壬午年五月九日死

Diệu Viên tự hội chủ Hồ thị, pháp danh Hồng Tú, tự Kim Chung nhất phẩm phu

nhân chi mộ.

(Bính Tý niên ngũ nguyệt ngũ nhật sinh.

Nhâm ngọ niên ngũ nguyệt cửu nhật tử)

Mộ của hội chủ chùa Diệu Viên Hồ thị, pháp danh Hồng Tú, tự Kim Chung nhất

33

phẩm phu nhân.

(Sinh ngày 5 tháng 5 năm Bính Tý.

Mất ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Ngọ)

Tháp Chân Bảo

真寶塔

Chân Bảo tháp

Tháp Chân bảo

種田即果結

修業善道成

Chủng điền tức quả kết;

Tu nghiệp thiện đạo thành.

Trồng ruộng thì kết được quả;

Tu nghiệp thì đạo tốt thành.

Bia

陪濟源流毘丘尼菩薩戒法名心愛字真寶號金珠李氏之墓

丙子年仲秋造. 釋女如花同亶信等奉立

Bồi tế nguyên lưu tì kheo ni Bồ Tát giới, pháp danh Tâm Ái, tự Chân Bảo, hiệu

Kim Châu Lý thị chi mộ.

(Bính Tý niên trọng thu tạo.

Thích Nữ Như Hoa đồng thiện tín đẳng phụng lập)

Mộ của bồi tế nguyên lưu tì kheo ni bồ tát Lý thị, pháp danh Tâm Ái, tự Chân

Bảo, hiệu Kim Châu.

(Tạo dựng giữa thu năm Bính Tý.

Thích Nữ Như Hoa cùng các thiện nam tín nữ phụng lập)

Tháp Phúc Tuệ

福慧塔

34

Phúc Tuệ tháp

Tháp Phúc Tuệ

幻理沒伽藍地

真性逍寂滅城

Huyễn lý một Già Lam địa;

Chân tính tiêu tịch diệt thành.

Lý lẽ ảo làm mất đi đất Phật;

Chân tính tiêu dao nơi thành tịch diệt.

Bia

臨濟四十世受毘邱尼菩薩戒諱上心下福字真祿尼師之塔

Lâm Tế tứ thập thế thụ tì khâu ni Bồ Tát giới, húy Thượng Tâm Hạ Phúc, tự

Chân Lộc ni sư chi mộ.

Mộ của ni sư pháp phái Lâm Tế đời thứ 40 nhận tì kheo ni bồ tát giới, húy là

Thượng Tâm Hạ Phúc, tự là Chân Lộc.

Tháp Nhật Trí

日智塔

Nhật Trí tháp

Tháp Nhật Trí

淨心存正念

英氣轉凡性

Tịnh tâm tồn chính niệm;

35

Anh khí chuyển phàm tính.

Tâm tịnh luôn tồn tại suy nghĩ ngay thẳng;

Khí tinh anh sẽ lay chuyển được cái tính phàm tục.

Bia

妙圓法派喜尼寺毘丘尼日智字淨英吳氏之塔

丙戌年十一月二十二日

妙喜尼寺尼眾仝奉立

Diệu Viên pháp phái hỉ ni tự tì kheo ni Nhật Trí tự Tịnh Anh ngô thị chi tháp.

(Bính Tuất niên thập nhất nguyệt nhị thập nhị nhật.

Diệu Hỷ ni tự ni chúng đồng phụng lập)

Tháp của Nhật Trí tự Tịnh Anh Ngô thị tì kheo ni chùa Hỉ Ni pháp phái Diệu

Viên .

(Ngày 22 tháng 11 năm Bính Tý.

Các sư nữ chùa Diệu Hỷ cùng phụng lập)

Cổng thành

青竹峒

Thanh trúc động

Động Thanh Trúc

紫竹林中是踏紅蓮千葉色

青蓮座上手持翠柳一枝春

Tử trúc lâm trung, thị đạp hồng liên thiên diệp sắc;

Thanh liên tòa thượng, thủ trì thúy liễu nhất chi xuân.

Trong rừng tre tím, áp lên sen hồng ngàn lá sắc;

Trên tòa sen xanh, tay cầm một cành liễu biếc tươi.

觀自在

36

Quán tự tại

Tự tại mà xét thấu

佛躡金蓮從鷲嶺

法關寶藏離龍宮

Phật nhiếp kim liên tòng Thứu lĩnh;

Pháp quan bảo tạng ly long cung.

Phật theo sen vàng lên núi Linh Thứu;

Cổng pháp tàng báu xa lìa long cung.

2.2.2. Chùa Đông Hải

Tam quan

建法一智即俗即真歸覺道

德同法寒空談空有轉迷心

Kiến pháp nhất trí, tức tục tức chân quy giác đạo;

Đức đồng pháp hàn, không đàm không hữu chuyển mê tâm.

Dựng nên đạo pháp bằng trí tuệ, dù là tục hay là chân đều về nơi giác đạo;

Đức cùng pháp, luống nói, luống có đều xoay chuyển được lòng mê.

法雨洗除門外穢

慈風以去路邊塵

37

Pháp vũ tẩy trừ môn ngoại uế;

Từ phong dĩ khử lộ biên trần.

Mưa pháp tẩy trừ ô uế ngoài cửa;

Gió lành thổi sạch bụi bên đường.

Mặt trong tam quan

東海寺

己丑年

Đông Hải tự

Kỷ Sửu niên mạnh xuân tạo

Chùa Đông Hải

Xây dựng đầu xuân Kỷ Sửu

Trụ biểu

Mặt trước

車土 ? 慧日方升領開里野

? ? ? 慈雲普照 共濟沈淪

Xa thổ ? tuệ nhật phương thăng lĩnh khai lý dã;

? ? ? từ vân phổ chiếu cộng tế trầm luân.

??? Mặt trời trí tuệ lên cao mở ra rộng sáng;

???Mây từ phủ khắp cùng tế độ trầm luân.

一透真空清水波…

永專安樂岑山草重自青青

Nhất thấu chân không Thanh Thủy ba;

Vĩnh chuyên an lạc Sầm sơn thảo trọng tự thanh thanh.

Một thấu chân không, sóng Thanh Thủy …?;

Mãi mãi an lạc, núi Sầm cỏ rậm tự xanh tươi.

38

Mặt sau

保大二年三月重修寺宇

清水上甲第四共仰併息

Bảo Đại nhị niên tam nguyệt trùng tu tự vũ;

Thanh Thủy Thượng giáp đệ tứ cộng ngưỡng tịnh tức.

Tháng ba niên hiệu Bảo Đại thứ hai trùng tu ngôi chùa này;

Giáp thứ tư làng Thanh Thủy Thượng cũng ngẩng trông .

少門由童示自丁李陳黎而來

………………………………

Sa môn do đồng thị tự Đinh Lý Trần Lê nhi lai

………………………………………………………

Tì kheo từ các đời Đinh Lý Trần Lê đến giờ

………………………………………………….

Điện

東土遍莊嚴日放重新景色

海覺常燦爛雲開顯現祥光

Đông thổ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc;

Hải giác thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang.

Mảnh đất phía đông đều nghiêm trang, mặt trời lên cao cảnh sắc mới;

Biển biết đều sáng rạng, mây mở hiển hiện điềm lành.

開方便

遍莊嚴

大師三界

Khai phương tiện Đại sư tam giới Biến trang nghiêm

39

Mở ra phương tiện Đại sư ba giới Tất cả đều trang nghiêm

東海會蓮臺鷲嶺遍聞獅吼雨

西天開寶殿祇園超感雉鳴風

沐息會主馮有志和南上供

Đông hải hội liên đài, Thứu lĩnh biến văn sư hống vũ;

Tây thiên khai bảo điện, Kỳ viên siêu cảm trĩ minh phong.

(Mộc tức hội chủ Phùng Hữu Chí hòa nam thượng cúng)

Bể đông hội đài sen, khắp núi Thứu đều nghe tiếng sư tử rống trong mưa;

Trời tây mở điện báu, vườn Kỳ siêu cảm tiếng chim trĩ hót trong gió.

(Mộc tức hội chủ Phùng Hữu Chí hòa nam thượng dâng cúng)

道法麟往大會君臣仝一德

義扶漢鼎并收吳魏貫三分

Đạo pháp lân vãng, đại hội quân thần đồng nhất đức;

Nghĩa phù Hán đỉnh, tịnh thu Ngô Ngụy quán tam phân.

Đạo pháp xung quanh đều tới, vua tôi đại hồi đều cùng một đức;

Lấy nghĩa khuông phù vạc nhà Hán, gộp thu Ngô Ngụy bình dẹp sự chia ba.

東海寺

成泰丁未年造

Đông Hải tự

(Thành Thái Đinh Mùi niên tạo

Bản ấp quan ấp phụng cúng)

40

Chùa Đông Hải

(Xây dựng năm Đinh Mùi đời Thành Thái.

Quan bản ấp phụng cúng)

海會遍聞兜率有天成樂土

玄關大覺菩提隨地蔭慈雲

Hải hội biến văn, Đâu suất hữu thiên thành lạc thổ;

Huyền quan đại giác, Bồ đề tùy địa ấm từ vân.

Hội biển đều nghe, Đâu suất theo trời thành đất lạc;

Cửa huyền vi mở ra giác ngộ, Bồ đề theo đất phủ mây lành.

Hậu điện

洗劫塵心清水光回慧日

栽成福果岑山高捧慈雲

領兵阮改詳奉供

Tẩy kiếp trần tâm, thanh thủy quang hồi tuệ nhật;

Tài thành phúc quả, Sầm sơn cao bổng từ vân.

(Lãnh binh Nguyễn Cải Tường phụng cúng).

Rửa sạch lòng trần, nước trong quay lại với vẻ sáng của mặt trời trí tuệ;

Gây trồng nên quả phúc, đụn Sầm cao ôm mây lành.

(Lãnh binh Nguyễn Cải Tường phụng cúng).

德業信為天下法

尊親長是 世 人心

本隊正隊長率隊阮致祥奉供

Đức nghiệp tín vi thiên hạ pháp;

Tôn thân trường thị thế nhân tâm.

41

(Bản đội chính đội trưởng suất đội Nguyễn Cải Tường phụng cúng)

Nghiệp đức tin rằng đây là pháp của thiên hạ;

Tôn thân thích mãi là lòng người trong thế gian.

(Suất đội chính đội trưởng bản đội Nguyễn Cải Tường phụng cúng)

Chữ khắc trên đèn thờ

(phải-trái)

法界蒙勳

吉祥如意

Pháp giới mông huân Cát tường như ý

Cõi pháp chịu công Tốt lành như ý

Chuông

Bản ấp quan lại khưu ni đồng chú

本邑官吏

Quan lại ở bản ấp cùng tăng và ni góp đúc

Thanh Thủy xã thượng giáp đệ tứ ấp

清水社上

Ấp thứ tư giáp trên xã Thanh Thủy

甲第四邑

Duy Tân Nhâm Tý mạnh thu hạ hoán

維新壬子

Hạ tuần đầu mùa thu năm Nhâm Tý đời vua

Duy Tân

Bình trọng đồng nhất bách thất thập cân

平重銅臺

Chuông bằng đồng nặng 171 cân

2.2.3. Chùa Hoa Nghiêm

Tam quan

解脫

花嚴寺

清淨

42

Giải thoát Hoa Nghiêm tự Thanh tịnh

Giải thoát Chùa Hoa Nghiêm Thanh tịnh

慧日照長空草木山河成秀麗

慈風吹淨地士農工賈共清涼

Tuệ nhật chiếu trường không, thảo mộc sơn hà thành tú lệ;

Từ phong xuy tịnh địa, sĩ nông công cổ cộng thanh lương.

Mặt trời trí tuệ chiếu khắp không gian, cây cỏ nước non nên đẹp đẽ;

Gió lành thổi đất tịnh, sĩ nông công thương đều mát lành.

花發曼陀流水高山吟長短

嚴成寶剎白雲紅日空去來

Hoa phát mạn đà, lưu thủy cao sơn ngâm trường đoản;

Nghiêm thành bảo sát, bạch vân hồng nhật không khứ lai.

Hoa nở tốt tươi, non cao nước chảy ngâm khúc nhạc dài ngắn;

Uy nghiêm chùa ngọc, mây trắng mặt trời hồng luống lại qua.

Xung quanh chùa

花嚴妮寺

Hoa Nghiêm ni tự

Chùa ni Hoa Nghiêm

香花莊嚴

Hương hoa trang nghiêm

43

Hương hoa trang nghiêm