ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

------------------

NGUYỄN THỊ THƯ

ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI

VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN

VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. Đặng Thị Lan

HÀ NỘI, 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

------------------

NGUYỄN THỊ THƯ

ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI

VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN

VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. Đặng Thị Lan

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi

dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đặng Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu

trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các tài

liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về

khóa luận của mình.

Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019

Tác giả

Nguyễn Thị Thư

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình đại học và viết Khóa luận tốt nghiệp này,

tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô

khoa Triết học – những người dạy dỗ, chỉ bảo và trang bị cho tôi những kiến

thức bổ ích trong suốt 4 năm học vừa qua.

Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS. Đặng Thị Lan,

người đã dành rất nhiều tâm huyết và thời gian hướng dẫn tôi hoàn thành

khóa luận này.

Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng xong khóa luận không thể tránh khỏi

những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những đóng góp quý báu của

quý thầy, cô và các bạ để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019

Sinh viên

Nguyễn Thị Thư

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

NỘI DUNG ......................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN

CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT ...................................................................................... 9

1.1. Đạo đức Phật giáo và vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng

Phật giáo. .......................................................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm đạo đức Phật giáo .............................................................. 9

1.1.2. Vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo ................ 14

1.2. Những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo ...................................... 16

1.2.1. Quan niệm về Thiện – Ác, Từ bi ...................................................... 16

1.2.2. Quan niệm về Ngũ giới ..................................................................... 20

1.2.3. Quan niệm về thuyết Nhân quả, Luân hồi, Nghiệp báo ................... 29

1.3. Đánh giá chung về đạo đức Phật giáo..................................................... 35

1.3.1. Giá trị của đạo đức Phật giáo ............................................................ 35

1.3.2. Hạn chế của đạo đức Phật giáo ......................................................... 37

CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY ........ 40

2.1. Vài nét về thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay và những

vấn đề đặt ra. .................................................................................................. 40

2.1.1. Khái niệm thanh niên và vai trò của thanh niên đối với xã hội ........ 40

2.1.2. Vài nét về thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay và

những yêu cầu đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam

hiện nay. ...................................................................................................... 43

2.2. Một số vai trò chủ yếu của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo

đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay .......................................................... 50

2.2.1. Đạo đức Phật giáo góp phần hình thành ý thức đạo đức tích cực cho

thanh niên Việt Nam. .................................................................................. 50

2.2.2. Đạo đức Phật giáo góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức cho thanh

niên Việt Nam ............................................................................................. 56

2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đạo đức Phật giáo đối

với giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay .............................. 63

2.3.1. Nâng cao hiểu biết, nhận thức của xã hội về vai trò của đạo đức

Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay. .. 63

2.3.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý và tăng cường công tác quản lý đối với

các hoạt động và tổ chức của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. . 64

2.3.3. Tăng cường vai trò của các tổ chức, chức sắc Phật giáo trong công

tác tuyên truyền những giá trị của đạo đức Phật giáo đến với thanh niên

Việt Nam hiện nay. ..................................................................................... 66

2.3.4. Khuyến khích thanh niên tự giác tìm hiểu và tiếp thu các giá trị tốt

đẹp của đạo đức Phật giáo. ......................................................................... 67

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 70

PHỤ LỤC ......................................................................................................... 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 83

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Phật giáo là một tôn giáo lớn ra đời ở Ấn Độ vào thế kỉ VI trước công

nguyên và được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên. Là một học

thuyết có tính triết học sâu sắc cùng giá trị nhân văn cao cả, Phật giáo đóng

một vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ngay

từ khi du nhập vào Việt Nam, với những tư tưởng giáo lý gần gũi, Phật giáo

đã nhanh chóng hòa hợp với tín ngưỡng bản địa, với những nguyện vọng, ước

mơ của người lao động và hội nhập với văn hóa Việt Nam. Phật giáo đã thấm

sâu vào trong dân chúng, tồn tại và phát triển qua nhiều đời, nhiều thế hệ và

được đông đảo nhân dân Việt Nam tiếp nhận với thái độ cởi mở. Trải qua gần

2000 năm gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo luôn chứng tỏ được vị

thế của mình và để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tâm linh, văn hóa, đạo

đức của con người Việt Nam.

Những triết lý nhân sinh cùng với những giá trị đạo đức cao cả của Phật

giáo đã có tác động không nhỏ đến đạo đức của người Việt, luôn hướng họ

đến cái thiện, cái tốt đẹp với tinh thần “từ, bi, hỉ, xả”, “vô ngã”, “vị tha”. Cho

đến ngày nay, Phật giáo nói chung và hệ thống đạo đức cùng với các chuẩn

mực đạo đức Phật giáo nói riêng vẫn phát huy được những giá trị tích cực,

hòa nhập với nền đạo đức, văn hóa hiện đại của dân tộc Việt Nam và được

nhiều người tin theo. Như Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “Tín ngưỡng,

tôn giáo là nhu cầu và quyền lợi tinh thần của một bộ phận nhân dân, nó còn

tồn tại lâu dài và chi phối đời sống tinh thần văn hóa của một bộ phận dân

chúng, trong đó có những giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích của toàn dân, với

công cuộc xã hội mới” [3,67].

Từ năm 1986, Việt Nam bắt tay vào công cuộc đổi mới đất nước. Dưới

những tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và xu hướng hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt được những

1

thành tựu to lớn về kinh tế, từng bước ổn định và nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận được một thực

trạng mà chúng ta đang phải đối mặt, đó là sự xuống cấp trầm trọng của nền

đạo đức xã hội: nạn tham nhũng, buôn lậu có xu hướng phát triển, xuất hiện

nhiều tệ nạn xã hội, lối sống thực dụng và các hành vi phạm đạo đức, pháp

luật ngày càng gia tăng đang dần hủy hoải những giá trị thuần phong mỹ tục

của dân tộc. Một bộ phận không nhỏ thanh niên sống không có lý tưởng, sa

ngã vào con đường ăn chơi, hưởng thụ.

Đối với nước ta, thanh niên được coi là lực lượng quan trọng, đóng vai

trò to lớn đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước. Đây là lớp người năng động, dễ tiếp thu, đón nhận cái mới trong xã

hội, họ cũng là tầng lớp chịu ảnh hưởng lớn trước những điều kiện kinh tế -

xã hội mới, của cơ chế thị trường và việc mở rộng giao lưu, quan hệ, hợp tác

quốc tế. Vì thế, vấn đề xây dựng đạo đức, lối sống cho thanh niên Việt Nam

hiện nay đã không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành giáo dục mà nhiều cấp,

nhiều ngành cũng đều hết sức quan tâm.Tại Đại hội X, Đảng đã chỉ ra việc

phải kế thừa, phát huy và phát triển giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt

Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa

trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống năng

lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam” [15, 106]. Ở

đây, những giá trị truyền thống, trong đó phải kể đến những giá trị đạo đức

dân tộc, đặc biệt là đạo đức Phật giáo sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho sự

hình thành và phát triển toàn diện con người Việt Nam, đóng vai trò quan

trọng trong việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Việt Nam. Tinh thần từ

bi, hướng thiện chính là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân văn;

tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hội nhập

cùng phát triển hiện nay của các quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, việc kế

2

thừa, phát huy và có những biện pháp cụ thể nhằm truyền tải các giá trị,

nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức Phật giáo đến với thanh niên sẽ góp phần

không nhỏ vào công cuộc xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam.

Có thể thấy, việc khai thác và phát triển các yếu tố của đạo đức Phật

giáo, đồng thời, hạn chế những tác động tiêu cực của nó để giáo dục đạo đức

cho thanh niên Việt Nam hiện nay là điều rất cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu

lý luận và thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Đạo đức Phật giáo và vai

trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay”

làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu công nguyên, trải qua gần

2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu sắc

trong đời sống tâm linh, văn hóa, đạo đức của con người Việt Nam. Chính vì

vậy, nghiên cứu Phật giáo luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả và

giới lý luận. Cho đến nay, ở nước ta đã có rất nhiều công trình nghiên cứu

Phật giáo dưới những góc độ khác nhau. Có thể tóm lược thành những hướng

nghiên cứu cơ bản sau:

2.1. Những công trình nghiên cứu, tìm hiểu Phật giáo Việt Nam nói chung.

Bộ sách: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (3 tập, 1994, Nhà xuất bản Văn

học) của Nguyễn Lang và cuốn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (3 tập, 1999,

Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh) của Lê Mạnh Thát đã khái quát một

cách toàn diện sự phát triển Phật giáo Việt Nam theo từng giai đoạn. Đây là

những tư liệu có giá trị đã khảo cứu Phật giáo Việt Nam một cách hệ thống,

trong đó có nhiều phần viết về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá

tinh thần của dân tộc.

Các cuốn sách: “Việt Nam Phật giáo sử lược” (1943, Nhà xuất bản Hội

Tăng Ni Bắc Việt) của Hoà thượng Thích Mật Thể và “Lịch sử Phật giáo Việt

Nam” (1988, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội) do tác giả Nguyễn Tài

Thư chủ biên đã hệ thống hoá lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập đến

3

thế kỷ XX. Các tác giả đã chỉ rõ Phật giáo đến Việt Nam bằng nhiều con

đường khác nhau, vào các thời điểm khác nhau từ đầu Công nguyên cho đến

thế kỷ XVI.

Cuốn “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” (1999, Nhà xuất bản Khoa học

xã hội, Hà Nội) của tác giả Nguyễn Duy Hinh có nội dung bước đầu tìm hiểu

hệ thống hóa tư liệu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam, nghiên cứu tư

tưởng Phật giáo Việt Nam qua đó làm rõ đặc điểm Phật giáo Việt Nam với tư

cách là một sản phẩm tôn giáo được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm

linh cư dân bản địa có tiếp thu tôn giáo ngoại nhập.

2.2. Những công trình nghiên cứu về đạo đức Phật giáo

Cuốn sách “Đạo đức học Phật giáo” của Giáo hội Phật giáo Việt Nam

do Hòa thượng Thích Minh Châu chủ biên, được Nhà xuất bản Viện nghiên

cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995 bao gồm các bài viết của nhiều tác

giả, hầu hết những bài viết này đều đã được phát biểu tại các hội thảo khoa

học do Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức vào năm 1993. Nội dung

cuốn sách nêu bật được những nét cơ bản về đạo đức học Phật giáo, từ đó

thấy được tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy những giá trị của đạo

đức Phật giáo trong việc giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc.

Tác giả Đặng Thị Lan với công trình “Đạo đức Phật giáo với đạo đức

con người Việt Nam”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006 đã đề

cập đến những vấn đề trọng tâm của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của đạo

đức Phật giáo trong việc xây dựng nền tảng đạo đức xã hội, đồng thời đưa ra

những giải pháp nhằm phát huy các mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu

cực của đạo đức Phật giáo, vận dụng những giá trị tốt đẹp của đạo đức Phật

giáo trong việc hoàn thiện đạo đức, nhân cách con người Việt Nam ở bối cảnh

phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.

2.3. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng đạo đức Phật giáo đến

đạo đức con người Việt Nam và thanh niên Việt Nam

4

Hướng nghiên cứu này có các tác phẩm chủ yếu sau: “Tìm về bản sắc

văn hoá Việt Nam”của Trần Ngọc Thêm, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí

Minh (1997); “Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở châu thổ Bắc

Bộ” của Nguyễn Thị Bảy, Nhà xuất bản Thông tin, Hà Nội (1997); “Phật giáo

với văn hoá Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy, Nhà xuất bản Hà Nội

(1999)...

Ngoài các công trình khoa học trên còn có rất nhiều bài viết đăng trên

tạp chí thuộc các ngành khoa học xã hội về đạo đức như: Đặng Hữu Toàn

“Hướng các giá trị truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ trong

bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường”(Tạp chí triết học, số 4

– 2001, tr.27- 32); tác giả Trần Nguyên Việt với “Giá trị đạo đức truyền thống

Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị

trường”(Tạp chí triết học, số 5 – 2002, tr.20 - 25) .

Cuốn “Phật giáo và sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện

nay” của Nguyễn Tài Thư (Tạp chí triết học số 4/1993); “Đạo đức Phật giáo

với kinh tế thị trường” của tác giả Hoàng Thơ (Tạp chí triết học số 7/ 2002).

Về ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống đạo đức xã hội cũng có nhiều

công trình luận án đã nghiên cứu. Tiêu biểu như công trình nghiên cứu của tác

giả Tạ Chí Hồng với “Ảnh hưởng của Đạo đức Phật giáo đối với đời sống đạo

đức của xã hội Việt Nam hiện nay” (Luận án Tiến sĩ triết học, năm 2003).

Luận án đã nhận định vị trí của vấn đề đạo đức trong tư tưởng Phật giáo, nội

dung, đặc điểm, nếp sống và giá trị đạo đức Phật giáo, sự dung hợp giữa đạo

đức Phật giáo với đạo lý Việt Nam, sự ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối

với đời sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay và những giải pháp chủ yếu định

hướng đối với những ảnh hưởng của Phật giáo.

Luận án Tiến sĩ “Đạo đức Phật giáo với công tác giáo dục thanh thiếu

niên tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế hiện nay” của Ngô Văn Trân bảo vệ tại

Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2012), đã đề cập khá sâu về đạo đức

Phật giáo, chỉ ra nhân sinh quan tiến bộ và độc đáo của đạo đức Phật giáo.

5

Đồng thời, luận án giới thiệu mô hình “Gia đình Phật tử” - một mô hình giáo

dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo tại Huế, các chủ thể khác tham gia giáo

dục thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo Huế và những giải pháp nhằm phát huy

đạo đức Phật giáo thông qua gia đình Phật tử trong công tác giáo dục thanh

thiếu niên Phật tử ở Huế.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã nêu trên đã mang lại một cái

nhìn khá toàn diện về lịch sử Phật giáo Việt Nam và ảnh hưởng của đạo đức

Phật giáo trong mọi mặt của đời sống, đối với xã hội nói chung và thanh niên

Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề “Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó

đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” còn ít công

trình nghiên cứu một cách hệ thống. Chính vì thế, tác giả mong muốn có một

số đóng góp nhất định trong việc phân tích, làm rõ nội dung của đạo đức Phật

giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam

hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo,

khóa luận làm rõ vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức

cho thanh niên Việt Nam hiện nay, qua đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm

phát huy vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho

thanh niên Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được các mục tiêu trên, khóa luận thưc hiện các nhiệm

vụ sau:

+ Thứ nhất: Trình bày khái niệm đạo đức Phật giáo và những nội dung

cơ bản của đạo đức Phật giáo.

+ Thứ hai: Trình bày vài nét về thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam

hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên.

6

+Thứ ba: Phân tích vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục

đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay.

+ Thứ tư: Đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy những vai trò

của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam

hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đạo đức Phật giáo và vai trò của nó

đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Khóa luận tập trung nghiên cứu những giáo lý, giới luật cơ bản của

Phật giáo thể hiện nội dung đạo đức, ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến

đạo đức thanh niên.

- Về mặt thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của đạo

đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam kể từ khi

đất nước bắt đầu quá trình đổi mới đến nay (từ 1986 đến nay).

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Khóa luận dựa trên quan điểm triết học Mác – Lênin về tôn giáo, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo

nói chung và Phật giáo nói riêng; những quan điểm đổi mới nhận thức về tôn

giáo và những chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước từ khi đất nước đổi

mới; sự cần thiết vận dụng, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo vào

trong đời sống.

5.2. Cơ sở thực tiễn

Cơ sở thực tiễn của khóa luận là quá trình tồn tại, phát triển lâu dài của

Phật giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh

thần của dân tộc nói chung cũng như đối với đạo đức con người nói riêng và

đặc biệt là thanh niên.

7

5.3. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu của Chủ nghĩa duy vật

biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phân tích, tổng hợp, diễn dịch,

quy nạp, logic - lịch sử, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận

- Khóa luận góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của đạo đức Phật

giáo và vai trò của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh

niên Việt Nam hiện nay.

- Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,

tìm hiểu và giảng dạy những vấn đề có liên quan đến Phật giáo, đạo đức Phật

giáo, góp thêm cơ sở để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cho

thanh niên Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

7. Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm 2 chương, 5 tiết.

8

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG NỘI DUNG

CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT

1.1. Đạo đức Phật giáo và vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư

tưởng Phật giáo.

1.1.1. Khái niệm đạo đức Phật giáo

1.1.1.1. Khái niệm đạo đức

Đạo đức là gì ? Có lẽ, câu hỏi này đặt ra khó có thể trả lời một cách vắn

tắt và ngắn gọn được. Bởi lẽ đạo đức xuất hiện từ rất sớm, cùng với sự hình

thành của xã hội loài người và sẽ không bao giờ biến mất nếu như con người

vẫn còn tồn tại. Chính vì thế, khái niệm đạo đức là gì, nguồn gốc của đạo đức,

các yếu tố cấu thành của đạo đức hay những biểu hiện của đạo đức như thế

nào luôn là những vấn đề được nhiều học giả quan tâm và cũng đã có rất

nhiều quan niệm khác nhau khi giải quyết các vấn đề đó.

Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm đạo đức là gì?

Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1997, “đạo đức”

được giải thích theo hai nghĩa như sau:

1. Những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy

định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội.

2. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chẩn

đạo đức mà có.

Trong chữ Hán, từ đạo đức được chú giải: “nguyên lý tự nhiên là đạo,

được vào trong lòng người là đức. Cái lượng pháp người ta nên noi theo

(morale, vertu)”. Trong tiếng La tinh, đạo đức là moralitas, có nghĩa là thái

độ, tính cách, ứng xử là sự khác biệt của ý định, quyết định, hành động giữa

những cái tốt hoặc đúng và giữa những cái xấu và cái sai.

Ở phương Đông, đạo đức là một trong những phạm trù quan trọng nhất

của triết học Trung Hoa cổ đại. Đạo được hiểu là con đường sống của con

9

người, về sau khái niệm đạo đức được vận dụng trong triết học để chỉ con

đường của tự nhiên. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và là biểu hiện

của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của

người Trung Hoa cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc

sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.

Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học nổi tiếng như

Socrate (469 -399 TCN), Epiquya (341 – 271 TCN), Aristote (384 -322 TCN)

đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Trong đó,

Socrate được coi là người đặt nền móng cho khoa học đạo đức. Theo Socrate,

đạo đức có mối liên hệ mật thiết với vấn đề ổn định xã hội, bởi vì một xã hội

ổn định, con người mới có thể nắm bắt được cái tinh hoa của luân lý. Tiếp sau

Socrate, Aristote đã viết tác phẩm “Đạo đức học” gồm 10 quyển với luận

điểm nổi tiếng đó là: chúng ta bàn về đạo đức không phải để biết đức hạnh là

gì mà là để trở thành con người có đức hạnh…

Đạo đức là một vấn đề phức tạp, có thể tiếp cận dưới góc độ của nhiều

lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực lại đem đến một cái nhìn riêng về phạm trù

đạo đức. Cụ thể:

Dưới góc độ xác định đạo đức là một thuật ngữ khoa học, Từ điển triết

học đã giải thích khái niệm đạo đức như sau: “Đạo đức là một trong những

hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh

hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không trừ lĩnh

vực nào. Đạo đức khác với những hình thức điều chỉnh hoạt động quần chúng

khác (pháp quyền, những quy chế hành chính sản xuất, những sắc lệnh nhà

nước, những truyền thống dân tộc…) ở phương thức luận chứng và thực hiện

những yêu cầu của mình. Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu,

lợi ích của xã hội hoặc các giai cấp biểu hiện dưới hình thức những quy định

và những sự đánh giá đã được mọi người thừa nhận và đã hình thành một

cách tự phát, được củng cố bằng sức mạnh của tấm gương quần chúng, của

thói quen, phong tục, dư luận xã hội. Cho nên, những yêu cầu của đạo đức

10

mang hình thức bổn phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất

cả, nhưng không chịu sự ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này là có tính chất

tương đối bền vững.” [52].

Trong khi đó, Từ điển chính trị vắn tắt lại cho rằng: “Đạo đức là toàn

bộ các chuẩn mực hành vi trong xã hội, trong gia đình. Khác với các quy

phạm pháp luật mà việc tuân thủ chúng do cơ quan nhà nước duy trì và kiểm

tra, đạo đức dựa trên cơ sở dư luận và tác động của xã hội, dựa trên những

quan điểm , truyền thống và thói quen” [51,115].

Còn dưới góc nhìn đạo đức học của chủ nghĩa Mác thì “Đạo đức là một

hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã

hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ

với nhau và quan hệ xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi

truyền thống sức mạnh của dư luận xã hội” [18,8].

Theo định nghĩa này, đạo đức được xem xét ở ba phương diện chủ yếu:

Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm

toàn bộ những quan điểm, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi và

đánh giá cách ứng xử trong quan hệ con người với con người, con người với

xã hội nhằm đảm bảo quan hệ lợi ích của cá nhân với cộng đồng.

Thứ hai, đạo đức là phương thức để điều chỉnh hành vi của con người.

Những chuẩn mực và quy tắc là những yêu cầu của xã hội nhằm điều chỉnh

hành vi của mỗi cá nhân trong mới quan hệ với nhau và với xã hội.

Thứ ba, đạo đức là một hệ thống giá trị, bao gồm các giá trị vật chất và

tinh thần, giá trị sản xuất và tiêu dùng và các giá trị chính trị - xã hội, tôn

giáo…

Đạo đức còn là một phạm trù lịch sử. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kì hay

mỗi dân tộc, giai cấp đều có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nhất định.

Trong tác phẩm “Chống Đuy – rinh”, Ăng- ghen đã phê phán sự thừa nhận

của Đuy –rinh về một thứ đạo đức vĩnh cửu cho mọi thời đại và khẳng định:

“Xét cho cùng, mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản

11

phẩm của tình hình kinh tế, của xã hội lúc bấy giờ” và do vậy, “từ dân tộc này

sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm thiện

và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”. Mỗi giai

cấp khác nhau trong những giai đoạn lịch sử nhất định của lịch sử xã hội đều

có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Những giai cấp đại diện cho xu

thế phát triển theo hướng đi lên của xã hội thì sẽ đại diện cho một nền đạo đức

tiến bộ. Ngược lại, các giai cấp phản động, đi ngược với sự phát triển của xã

hội thì sẽ đại diện cho một nền đạo đức suy thoái.

Thực tiễn xã hội cho thấy, đạo đức không chỉ là phương tiện, hơn thế

nữa, nó còn là nội dung, mục đích của cuộc sống con người vươn tới cái chân,

thiện, mỹ. Đó cũng chính là khát vọng, ước mơ của nhân loại từ ngàn xưa cho

đến tận mai sau. Một mặt, đạo đức được hình thành một cách tự phát dưới ảnh

hưởng trực tiếp của đời sống con người nhằm đáp ứng các yêu cầu khách

quan của đời sống cộng đồng. Mặt khác, ý thức đạo đức khi đạt đến trình độ

lý luận sẽ phản ánh đời sống đạo đức xã hội được hình thành và phát triển chủ

yếu bằng con người giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng.

Tóm lại, có thể thấy đạo đức ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự

tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Đạo đức được coi là

một trong những nhân tố cơ bản điều chỉnh hành vi của con người, là cội nguồn

của hạnh phúc và là động cơ, sức mạnh để chống lại cái ác, góp phần thúc đẩy

sự phát triển của nền kinh tế, sự tiến bộ của xã hội. Đạo đức đặt ra những

nguyên tắc ứng xử, những quan niệm về các mối quan hệ xã hội, như đối với

bản thân, gia đình, xã hội và với tự nhiên. Vì vậy, tính thiết yếu của đạo đức là

rất mạnh mẽ, nó tác động thuận hay nghịch vào quá trình xây dựng hạnh phúc

và phát triển xã hội, chuẩn mực của đạo đức bao giờ cũng được đặt ở vị trí cao

nhất để khích lệ con người vươn tới mức hoàn thiện bản thân mình.

1.1.1.2. Khái niệm đạo đức Phật giáo

Trong mọi thời kì lịch sử, tôn giáo luôn là một bộ phận quan trọng

trong nền văn hóa, văn minh của nhân loại. Tôn giáo không chỉ là nơi để các

12

tín đồ thể hiện niềm tin của mình mà còn là cầu nối văn hóa giữa các nước,

các khu vực, vì vậy nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con người.

Mỗi tôn giáo đều sẽ có một hệ thống giáo lý, triết lý riêng song nhìn chung thì

đều nhằm mục đích là hướng con người tới các giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Và

Phật giáo cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Phật giáo là một trong ba

tôn giáo lớn nhất thế giới. Trong suốt quá trình lịch sử, từ khi hình thành cho

đến nay, Phật giáo đã không ngừng phát triển và đã để lại cho nhân loại nhiều

tư tưởng về tôn giáo, triết học, chính trị, mỹ học, văn hóa,…trong đó nổi bật

hơn cả là nội dung tư tưởng đạo đức. Về cơ bản, Phật giáo không phải là một

học thuyết về đạo đức, tuy xuất phát điểm của nó lại là sự chỉ dạy của đức

Phật cho con người biết nguyên nhân của nỗi khổ và con đường giải thoát. Từ

những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, Phật giáo rút ra hệ quả của chúng để

xây dựng một hệ thống quan niệm đạo đức. Xuyên suốt nội dung giáo lý Phật

giáo đều đề cập đến vấn đề đạo đức với mục đích cao cả là hướng con người

tới điều thiện, sự bình đẳng và hạnh phúc. Như vậy, đạo đức là nền tảng quan

trọng trong hệ thống giáo lý của Phật giáo. Đạo đức Phật giáo với các chuẩn

mực, giá trị đạo đức mang tính phổ quát và nhân bản có giá trị không chỉ cho

những người theo đạo Phật mà có rất nhiều điểm phù hợp với đạo đức xã hội

nói chung.

Trong Luận án tiến sĩ “Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo

đức con người Việt Nam”, tác giả Đặng Thị Lan đã đưa ra khái niệm về đạo

đức Phật giáo như sau: “Đạo đức Phật giáo là toàn bộ những quan niệm, giá

trị, những quy tắc đạo đức được thể hiện trong các giáo lý Phật giáo (đặc biệt

trong các điều răn cấm) nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp

với lợi ích, hạnh phúc của mình và xã hội theo thế giới quan và nhân sinh

quan Phật giáo”. Tôi cho rằng đây là khái niệm phù hợp với cách mà tôi triển

khai khóa luận, chính vì thế, tôi sẽ kế thừa và phân tích các nội dung của đạo

đức Phật giáo dựa trên cơ sở của khái niệm này.

13

1.1.2. Vị trí của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo

Với lịch sử hơn 2500 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo đã để lại cho

nền văn mình nhân loại một hệ thống giáo lý đồ với những tư tưởng về tôn

giáo, triết học, chính trị, văn hóa, nghệ thuật,…và đặc biệt là tư tưởng đạo đức.

Cũng như các tôn giáo khác, Phật giáo chủ trương hướng con người tới

Chân,Thiện, Mỹ. Bản chất của đạo đức Phật giáo được thể hiện qua rõ nét qua

các giáo lý từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha, cứu khổ, cứu nạn… Những giáo lý

này luôn khuyến khích con người làm điều thiện, bình đẳng trước chúng sinh,

xây dựng một cái tâm trong sáng, tốt đẹp, loại trừ mọi dục vọng.

Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ này đều

có nguyên nhân của nó. Khi nhân kết hợp với duyên thì sẽ sinh ra quả (nhân –

duyên – quả), quả lại tiếp tục kết hợp với duyên để trở thành nhân khác và lại

sinh ra quả khác. Cứ như vậy, vạn vật vận động, biến đổi không ngừng, bất

tận. Thế giới là vô thường, vô ngã, bởi lẽ không có gì là bất định, vĩnh viễn,

mọi sự vật đều biến đổi, đều trôi đi như dòng sông đang chảy, kể cả linh hồn

con người cũng không thể bất tử. Xuất phát từ quan niệm về thế giới như vậy,

Phật giáo đã đi đến giải quyết vấn đề nhân sinh quan. Và đây chính là cơ sở

để Phật giáo xây dựng và thực hiện các nguyên tắc đạo đức.

Đức Phật cho rằng cuộc đời con người là bể khổ, ngay chính sự hiện

hữu của con người trên thế giới này cũng đã là khổ. Cái khổ của con người

được Phật giáo khẳng định qua “Tứ diệu đế” bao gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế

và đạo đế. Theo Phật giáo, nguyên nhân gây ra đau khổ là do con người vô

minh, không hiểu biết về sự vô thường, vô ngã. Chính vì không hiểu được bản

chất của sự vật, hiện tượng nên con người bị “vọng tưởng” và bị “dục” làm

cho mù quáng, tạo ra nghiệp báo, luôn quẩn quanh trong nhân – quả, không

thể thoát được khỏi vòng luân hồi khổ.

Từ đây, Phật giáo chỉ ra mục đích sống trong cuộc đời đó là giải thoát

con người ra khỏi khổ đau. Chính vì vậy, tư tưởng đạo đức cũng như các triết

lý của đạo Phật đều xoay quanh vấn đề làm sao cho chúng sinh thoát khỏi cái

14

khổ. Và đạo đức Phật giáo chính là sự nghiệp tu hành của chúng sinh theo đạo

Phật để tự giải thoát mình. Nguyên tắc thực hiện đạo đức Phật giáo yêu cầu

cần phải có cả 3 yếu tố Giới – Định – Tuệ đi liền với nhau. Đây được coi là

điều kiện tiên quyết để diệt dục, hết vọng tưởng, hết ngã chấp, đoạn tuyệt vô

minh và đạt giác ngộ.

Trong giáo lý Phật giáo, đạo đức giữ một vị trí vô cùng quan trọng bởi

nó là phương tiện cụ thể để những người tu hành thực sự thoát khỏi mọi ràng

buộc, thoát khỏi mọi nỗi đau khổ nơi trần thế và chứng được Niết bàn. Do đó,

có thể thấy Phật giáo không chỉ dừng lại ở những lý thuyết cao siêu mà hơn

hết nó thúc giục mọi người phải tự thực hành, tự giải thoát mình. Những quy

tắc đạo đức Phật giáo được thể hiện trong các giới luật, quy định nguyên tắc

ứng xử của các tín đồ, các cư sĩ và thế tục. Đây là những quy phạm đạo đức

giúp cho người tu hành có thể vượt qua những giá trị đạo đức thông thường

trong xã hội để đạt đến sự lìa bỏ ngã chấp. Giới luật chung cho cả cư sĩ và thế

tục là đạo đức nhân gian, tức từ, bi, hỉ, xả… nhằm đạt tới cuộc sống hòa vui,

tránh tạo nghiệp ác, tích lũy nghiệp thiện.

Có thể nói rằng, đạo đức Phật giáo là một hệ đạo đức xuất thế, luôn đề

cao tính tự chủ cá nhân trong việc thực hành các quy tắc đạo đức. Phật giáo

với những khung chuẩn giá trị đạo đức của mình đã trở thành một chiếc

gương trong sáng về giá trị nhân sinh để mỗi người soi mình vào trong đó và

tự nhận thức được các giá trị đích thực của mình trong thế giới này. Xem xét

ở góc độ “vị nhân sinh”, ở góc độ “đạo đức” theo cách hiểu của người phương

Đông thì đạo đức Phật giáo là trung tâm, chiếm vị trí số một, đóng vai trò

quyết định trong tư tưởng Phật giáo.

Tóm lại, từ nhận thức cho đến thực hành giáo lý theo tinh thần Phật

giáo, đạo đức là cái nền để con người nói riêng và chúng sinh nói chung làm

phương tiện tiến tu trên con đường giải thoát. Đạo đức cũng chính là cái nền

tảng để giữ gìn và phát triển Phật pháp. Đó là vị trí và vai trò quan trọng

không thể thiếu được của đạo đức Phật giáo trong hệ tư tưởng Phật giáo.

15

1.2. Những nội dung cơ bản của đạo đức Phật giáo

Phật giáo là một tôn giáo lớn, đã đồng hành cùng dân tộc Việt Nam

trong suốt gần 2000 năm lịch sử và thực sự đã trở thành một yếu tố không thể

thiếu, có tác động mạnh mẽ tới đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt.

Những triết lí nhân sinh, những giá trị đạo đức mà Phật giáo mang lại đã hòa

quyện với các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, được duy trì

cho đến tận ngày nay và ảnh hưởng rõ nét đến nền đạo đức của xã hội. Tồn tại

lâu dài trên đất Việt, đạo Phật nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng đã

thích ứng được với điều kiện kinh tế xã hội, với đời sống văn hóa tinh thần

của dân tộc Việt Nam và đã trở thành một cái gì đó gần gũi, thân thuộc với

người Việt. Những giáo lí, những lời răn dạy của đức Phật đã ăn sâu, bám rễ

trong tâm hồn của mỗi người Việt một cách rất tự nhiên, không hề có một sự

ép buộc nào. Những chuẩn mực đạo đức Phật giáo không hề xa lạ đối với xã

hội hiện tại, trái lại nó rất cụ thể, hữu ích. Chính vì vậy, có thể nói, chính

những giá trị, chuẩn mực của đạo đức Phật giáo đã góp phần hình thành

những chuẩn mực, giá trị, nguyên tắc đạo đức cho xã hội hiện nay.

Những vấn đề cơ bản của đạo đức Phật giáo bao gồm những quan

niệm sau:

1.2.1. Quan niệm về Thiện – Ác, Từ bi

* Quan niệm về Thiện- Ác

Thiện, Ác được coi là hai phạm trù cơ bản, xuất hiện ở hầu hết các

quan niệm về đạo đức. Thiện, ác được thể hiện trong hành vi của con người.

Hai phạm trù này luôn hiện hữu trong đời sống hàng ngày, trong xử thế.

“Thiện” là một tính từ dùng để chỉ phẩm chất, hành vi của con người

tốt, nó phù hợp với các giá trị đạo đức. Cái thiện là những cái tốt đẹp, thể hiện

sự nhân từ, lòng yêu thương của con người trong cuộc sống hàng ngày.

“Ác” là một tính từ chỉ hành vi của con người không tốt lành, gây ra

đau khổ, tai họa cho người khác.

16

Để hiểu được cái thiện, cái ác một cách toàn diện nhất thì thực sự

không hề đơn giản. Xét theo thủ pháp phủ định liên tục để hướng con người

tới chứng ngộ và hội nhập Niết bàn, cùng là một hành vi thiện ở thân, khẩu, ý

nhưng ở tầng này là thiện thì ở tầng cao hơn nó lại là ác bởi vì còn vô minh.

Trước hết, có thể khái quát cái thiện trong quan niệm của Phật giáo bằng một

số ý chính là: điều tốt lành, lẽ phải, có ích, có lợi cho mình và cho người, còn

đối lập lại với những điều đó chính là cái ác.

Cái thiện được Phật giáo bàn đến rất nhiều và được đúc kết lại trong

quan niệm về Thập thiện và Tứ vô lượng tâm. Đức Phật luôn khuyên con

người hướng thiện, sống thiện và không ngừng làm việc thiện. Trong Kinh

Pháp Cú 118 có nói:

“Nếu người làm điều thiện

Nên tiếp tục làm thêm

Hãy ước muốn điều thiện

Chứa thiện, được an lạc” [8,35]

Phật giáo cho rằng con người sinh ra đã có sẵn cái mầm thiện hay ác.

Cái mầm ấy không phải do Trời tạo ra mà là “quả” do nghiệp của kiếp trước

tạo ra và trở thành “nhân” của kiếp này. Chủ trương của Phật giáo đó là

chuyển hóa ác nghiệp thành thiện nghiệp và thanh lọc tâm cho thanh tịnh.

Một người xấu vẫn có thể chuyển hóa thành người tốt nếu như biết ăn năn,

hối lỗi, xám hối, thay đổi tính cách. Chính vì thế, đối với không chỉ việc làm,

mà ngay cả lời nói hay những ý nghĩ chớm xuất hiện trong tâm, Đức Phật đều

khuyên con người phải xem xét kĩ lưỡng là thiện hay ác. Nếu là thiện thì phải

học tập và phát huy. Còn nếu là ác thì phải cố gắng hết sức để diệt trừ, xóa bỏ.

Khi con người đã vượt qua được sự cố chấp thiện và ác thì tức là bản thân đã

thoát khỏi sự trói buộc của thiện nghiệp và ác nghiệp, từ đó mới đi đến giác

ngộ, giải thoát hoàn toàn.

Theo giáo lý Phật giáo thì con người có thể phạm phải mười điều ác do

thân, khẩu, ý gây ra. Cụ thể:

17

Ba điều ác do thân làm ra là sát sinh, trộm cắp, tà dâm.

Bốn điều ác thuộc về lời nói là nói dối, nói thêu dệt, ác khẩu, lưỡng

thiệt

Ba điều ác thuộc về ý là tham lam, sân hận, si mê

Tất cả mười điều trên đều gây hại cho con người và muôn vật nên gọi

là ác. Và khi con người làm điều ác thì chắc chắn sẽ không thể tránh được quả

là ác nghiệp. Như kinh Pháp Cú 127 có nói:

“Không trên trời, giữa biển

Không lánh vào động núi

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp” [8,37].

Trái ngược với điều ác là điều thiện. Con người nếu không làm việc ác

thì đã là thiện rồi, nếu còn làm thêm các điều khác mà đem lại lợi ích cho

muôn loài thì lại càng thiện hơn. Đối lập lại với mười điều ác trên là mười

điều thiện (Thập thiện):

Một là, không sát sinh, không sát hại sinh linh, đoạt mạng của loài

khác, người khác mà cứu mạng, giúp đỡ họ trong lúc hoạn nạn.

Hai là, không trộm cắp, không lấy những thứ không thuộc quyền sở

hữu của mình, hơn nữa phải thường xuyên bố thí cho những người khó khăn.

Ba là, không tà dâm, đối với người xuất gia phải đoạn trừ dâm tục, đối

với người tại gia thì cần giảm bớt sự dâm dục.

Bốn là, không nói dối mà nói lời thật thà.

Năm là, không nói lời thêu dệt mà nói lời đúng đắn, thẳng thắn.

Sáu là, không ác khẩu mà nói những lời nhẹ nhàng, dễ nghe, nhã nhặn.

Bảy là, không lưỡng thiệt mà nói lời hòa giải.

Tám là, không tham lam.

Chín là, không sân hận, trái lại phải từ bi, luôn điềm tĩnh, không nổi

nóng, giận hờn, biết thương xót muôn loài.

18

Mười là, không si mê, luôn giữ trí tuệ sáng suốt, biết phân biệt lành, dữ,

biết làm điều thiện, tránh điều ác.

Theo đạo Phật, con người muốn sống hạnh phúc, thanh thản thì phải

thực hiện được những điều thiện trên, tức là thực hành những chuẩn mực đạo

đức do Đức Phật răn dạy. Những người nào thực hiện được thì sẽ có thể cảm

hóa được mọi người xung quanh, luôn được mọi người yêu quý và bản thân

họ cũng sẽ tiêu diệt được sự ganh đua, hóa giải được những đố kị để tạo ra sự

bình yên trong tâm. Những người theo đạo Phật cần phải phân biệt thiện – ác

sao cho đúng đắn, sáng suốt, những việc có hại cho người thì nhất quyết

không làm, còn những việc có lợi cho người thì quyết làm bằng được.

* Quan niệm về Từ bi

Nổi bật lên trong giáo lý của Phật giáo chính là luôn khuyên con người

sống từ bi, bác ái, có tình thương với muôn loài. Tứ vô lượng bao gồm : Từ ,

Bi, Hỉ, Xả được coi là một trong những giá trị cốt lõi của Phật giáo, có ảnh

hưởng sâu sắc tới đời sống đạo đức của người Việt kể cả trong lịch sử cũng

như trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong Tứ vô lượng, đạo Phật nhấn

mạnh hai chữ Từ và Bi, nó là biểu hiện của tình thương bao la không giới hạn,

hoàn toàn vị tha, không hề có một chút vị kỷ nào đối với muôn loài, không chỉ

là con người mà còn là đối với các loài vật, cỏ cây, tồn tại trong vũ trụ này.

“Từ” được hiểu theo nghĩa là sự hiền hòa, đem lại niềm vui, hạnh phúc

cho muôn loài, là lòng khoan dung độ lượng, vị tha.

“Bi” được hiểu là lòng thương xót người hay vật khi thấy họ đau khổ

hay gặp hoạn nạn và cố cứu họ ra khỏi hoàn cảnh ấy.

Từ bi là đem lại hạnh phúc cho muôn vật chúng sinh, cứu khổ, cứu nạn

mà không đòi hỏi đến sự báo đáp. Những người tu hành đạo Phật trước hết

phải coi từ bi là chuẩn mực đạo đức trước nhất, như lời đức Phật đã dạy:

“Người tu hạnh Bồ tát phải lấy từ bi làm gốc. Cây Bồ Đề lớn mạnh nhờ bám

sâu gốc rễ trong đất, kẻ tu hành lấy từ bi, lợi lạc hữu tình làm lẽ sống”.

19

Nguồn gốc của tâm từ bi chính là xuất phát từ triết lý bình đẳng triệt để

của đạo Phật. Phật giáo cho rằng: “mọi người đều như nhau, mọi người đều

bình đẳng, phải yêu thương lẫn nhau. Hãy nhìn thế giới xung quanh bằng ánh

mắt vị tha hơn, bao dung hơn. Với tâm từ bi, với lòng yêu thương con người,

Phật giáo đã phá đi hàng rào ngăn cách vô nhân đạo giữa con người với con

người” [26,53]. Để có được tâm từ bi thì trước hết người Phật tử phải có được

cái tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, coi mọi vật là như nhau và không có

sự phân biệt đối xử. Chính từ thế giới quan này, Phật giáo đã hướng con

người đến tâm từ bi rộng mở, hướng tới tha nhân, giúp con người quên đi thói

tham lam, ích kỉ.

1.2.2. Quan niệm về Ngũ giới

“Giới” được hiểu là những điều không được vi phạm, cần tránh để bảo

vệ đạo đức và nhân phẩm của một con người. Phạm trù “giới” trong đạo Phật

là một phạm trù khá rộng, bao gồm các giới của người xuất gia, giới luật của

tỳ kheo, tỳ kheo ni, giới luật Bồ tát của Đại thừa…Nhìn chung, tất cả các giới

đó đều lấy Ngũ giới làm nền tảng , từ đó mà cụ thể hóa hoặc nâng cao lên.

Trong hệ thống giáo lý Phật giáo, Ngũ giới giữ một vị trí hết sức quan trọng,

được coi là chuẩn mực cơ bản của đạo đức Phật giáo. Theo Phật giáo, đạo đức

thể hiện rõ nhất chính là trong việc giữ giới. Giới là điều kiện không thể thiếu

được trong quá trình tu tập của người tu hành. Đồng thời, giới còn là một

phương tiện giúp cho con người vượt qua bể khổ luân hồi để vươn tới chốn

giải thoát, an lạc. Chức năng của giới luật Phật giáo đó là tạo ra hạnh phúc và

lợi ích thực sự cho đời sống của con người và của toàn xã hội từ cấp độ thấp

nhất (là con người đúng nghĩa) cho tới cấp độ cao nhất là giải thoát tối hậu

(đạt tới cõi Niết bàn).

Sở dĩ đức Phật đặt ra năm giới vì Ngài mong muốn cho người Phật tử

tại gia hưởng được quả báo tốt đẹp. Người Phật tử không thể chỉ thọ Tam

Quy mà không trì Ngũ Giới. Người đã quy y là đã bước một nấc thang đầu

tiên, nếu không giữ giới có nghĩa là dừng lại tại đó, không tiến bước tới nữa.

20

Năm giới này không những để tiến bước trên đường giải thoát, mà còn đem

lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội. Đức Phật không bắt buộc

người Phật tử phải tuân theo triệt để, cũng không hăm dọa nếu không tuân

theo thì phải bị chịu hình phạt, có giữ giới hay không là tùy thuộc mỗi người

tự liệu lấy. Đạo Phật khác với các tôn giáo khác một phần là ở điểm này. Năm

giới là năm thành trì ngăn chặn cho chúng ta đừng đi vào đường ác, là năm

hàng rào cản cho chúng ta khỏi rơi vào vực sâu tội lỗi.

Ngũ giới bao gồm: Không sát sinh; không trộm cướp; không tà dâm;

không nói dối; không uống rượu.

Xét về bản chất thì năm giới này là những điều răn dạy cơ bản về đạo

đức cho con người dù người đó có tu Phật hay không. Việc giữ gìn các giới

luật trước hết nhằm mục đích là phát huy được bản tính thiện có trong tâm

mỗi người, hơn nữa diệt trừ tam nghiệp là tham, sân, si, đem đến sự trong

sạch, thanh tịnh cho thân tâm người tu tập.

* Giới thứ nhất: Không sát sinh

Không sát sinh là không sát hại sự sống, không làm tổn hại đến các loài

vật có sinh mạng. Đây là giới đầu tiên và cơ bản của Phật giáo bởi nền tảng

đạo đức Phật giáo là sự từ bi, hướng thiện. Không sát sinh ở đây bao gồm

không giết hại từ con người đến súc vật lớn như voi, ngựa, trâu, bò…, cho

đến các loài nhỏ bé như côn trùng, sâu bọ, kiến… Không những không giết

hại mà còn không làm tổn thương, đau đớn con người và các loài. Người Phật

tử cũng không bảo người khác, bày mưu kế cho người khác làm các việc hành

hạ, giết hại chúng sinh các loài. Khi thấy người khác đánh đập, sát hại con

người và súc vật thì sinh lòng thương xót và khuyên can ngăn cản.

Sự giữ giới không sát sinh nhằm mục đích bảo vệ công bằng, mọi

chúng sinh đều muốn sống, mọi chúng sinh đều có Phật tính như nhau. Chúng

ta coi sinh mạng mình là quý, là một của báu tuyệt đối. Nếu ai có ý định mưu

hại là bản thân sẽ chống trả triệt để để bảo vệ sinh mạng. Bản thân mình đã

biết quý trọng thân mạng của mình thì không có lý gì lại muốn chà đạp lên

21

sinh mạng người? Suy rộng ra, các loài vật cũng biết quý trọng mạng của

chúng. Chẳng hạn như một con bò hay một con heo sắp bị đập đầu, thọc

huyết, chúng ta thấy sự phản kháng mãnh liệt, sự đau thương cùng cực của

chúng bằng những tiếng kêu gào, những cái giãy giụa mong thoát chết. Theo

lẽ công bằng, đìều ta không muốn ai làm cho ta, thì ta cũng đừng làm cho

người khác, hay loài khác. Phật dạy: "Ai ai cũng sợ gươm dao, ai ai cũng sợ

sự chết. Vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết! Chớ bảo giết!"

Không những thế, giữ giới sát sinh còn là nuôi dưỡng lòng từ bi. Lòng

từ bi của Đức Phật xem mọi loài như con, nên Ngài không đồng ý cho đệ

tử sát hại sinh vật, bất cứ trong trường hợp nào. Bởi vì đang tâm giết hại sinh

mạng là lòng độc ác đã cực thịnh, tâm từ bi bị bóp chết. Nhẫn tâm vô cớ giết

hại một con vật, tính bạo ác không kém giết một con người. Nhẫn tâm làm

cho kẻ khác hay vật khác phải giãy giụa, rên siết, quằn quại trước khi trút hơi

thở cuối cùng chính là hành động tự giết lòng từ bi của mình. Người làm điều

này khó có thể tu hành để thành chính quả được. Đức Khổng Tử có dạy: "Văn

kỳ thanh bất nhẫn kiến kỳ thực, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử". (Nghe

tiếng kêu la của con vật, không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống không đành thấy

nó chết). Như vậy người có tâm từ bi hay lòng nhân đều sẽ không nỡ giết hại

người hay loài vật.

Giữ giới sát sinh còn giúp tránh được nhân quả báo ứng, vì nợ máu sẽ

phải trả bằng máu không ở kiếp này thì ở kiếp sau, như vậy nghiệp oán xoay

vần không có ngày chấm dứt. Khi ta giết một người hay một con vật thì

sự oán hận của người và vật đó sẽ tràn trề khó dập tắt được. Họ vì cô thế,

vì yếu sức nên mới bị ta giết hại. Trong khi ấy, họ ôm lòng căm hận,

chờ gặp dịp báo thù, hay con cái thân nhân họ sẽ báo thù lại. Càng tạo

nghiệp sát, ta lại càng lao mình vào đau khổ. Phật dạy: "Người thường

sanh tâm sát hại, càng tăng trưởng nghiệp khổ, mãi xoay vần trong sanh tử,

không có ngày ra khỏi".

22

Đạo Phật là đạo từ bi nhằm mục đích xóa tan mọi đau khổ, đem lại sự

an vui. Giới không sát sinh là một quan niệm sống nhằm con người tránh xa

những điều ác, làm điều thiện, yêu thương sự sống. Nếu tất cả nhân

loại trên thế giới này đều giữ đúng giới thứ nhất của Phật dạy thì chiến tranh

sẽ không có, mà các nghiệp sinh tử luân hồi cũng đươc giải thoát. Một người

không sát sinh thì trong lòng không bứt rứt, hối hận, thân tâm được nhẹ

nhàng, giấc ngủ được an lành, nét mặt được hiền hòa, trong sáng.

Giới này khi đi vào cuộc sống gặp không ít khó khăn, dù vô tình hay

hữu ý thật khó tránh khỏi giới sát. Chúng ta nên cố gắng giữ lấy điều cốt yếu

của giới này: không được giết người, không giết hại sinh vật một cách vô lý.

Nói rộng ra, không gây chiến tranh hủy diệt con người và môi trường sống,

bảo vệ hòa bình và bảo vệ môi sinh… là những điều có ý nghĩa trong cuộc

sống hiện đại của chúng ta ngày nay. Ngày nay, vấn đề “cấm sát sinh” đã

được nhận thức một cách sâu sắc hơn. Con người thấy được tầm quan trọng

của việc bảo vệ sự sống của muôn loài trong đó có việc bảo vệ môi trường

sống, bảo vệ các loài động vật quý hiếm nhằm cân bằng môi trường sống, bảo

vệ cuộc sống của chính con người.

* Giới thứ hai: Không trộm cướp

Giới thứ hai, không trộm cướp là không được lấy vật gì không thuộc

quyền sở hữu của mình khi không có sự đồng ý của người khác, dù vật đó

đang tồn tại trong tự nhiên. Người Phật tử không được bày mưu kế cho người

khác trộm cướp. Khi thấy người khác làm các việc trộm cướp thì phải khuyên

bảo can gián. Cũng gọi là trộm cắp, khi lấy của tư hay của công, của công ty

hay của nhà nước, khi cưỡng ép người ta bằng vũ lực hay quyền hành, khi

dùng những thủ đoạn lừa gạt, mưu mẹo…để đoạt chiếm sở hữu, tiền bạc như

quỵt nợ, giật hụi, đầu cơ tích trữ, cân non đong thiếu,…cũng như trộm cướp

không khác. Tóm lại tất cả các việc gian tham, lấy của bất chính đều là trộm

cướp. Như Hòa thượng Thích Minh Châu đã chỉ ra: “Thuộc phạm vi giới này,

không phải chỉ là hoạt động trộm cắp lộ liễu, mà còn cả những hành vi buôn

23

lậu, tham nhũng, lừa đảo, lật lọng trong buôn bán để kiếm những món lời bất

chính, lạm dụng chiếm đoạt của công” [7,24]. “Tham” là yếu tố đứng đầu

trong “Tam độc” (Tham, Sân, Si). Chính vì vậy, ngăn ngừa lòng tham, không

để nó tự do điều khiển hành vi của mình, đó là cơ sở lý luận mà Phật giáo xây

dựng giới thứ hai.

Lợi ích của giới không trộm cướp là giữ được sự công bằng, bình đẳng

giữa con người với con người, mỗi người đều có quyền sở hữu riêng tư, xã

hội không công bằng thì khó tồn tại lâu dài được. Không trộm cướp còn thể

hiện lòng từ bi, vì một người phải cực khổ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình

và dành dụm phòng khi đau yếu hoặc tuổi già. Nếu bị mất sẽ đau khổ vô

cùng, tuyệt vọng có khi đi đến tự tử. Chúng ta nhiều khi cũng buồn khổ vì

mất của, xét người khác cũng vậỵ Chúng ta không muốn ai trộm cướp của

mình, thì cũng không nên trộm cướp của người, đó là lẽ công bằng.

Người trộm cướp, cho dù có thoát khỏi lưới pháp luật, nhưng lương

tâm lúc nào cũng lo sợ, và nhân quả nghiệp báo ở kiếp sau không thể tránh

khỏi. Trái lại, người không gian tham thì đời sống hiện tại được an ổn, không

bị đòi hỏi, giam cầm, tù tội, đi đâu cũng được người khác tin cậy, giao

phó cho mình những địa vị quan trọng. Người không gian tham thì đời

sau được hưởng phước báu giàu sang, an vui và con cháu nhiều đời cũng

nhờ thừa hưởng âm chất của ông bà, cha mẹ để lại mà được vinh hiển. Trong

xã hội, nếu không ai có tâm gian tham, trộm cướp thì nhà không cần đóng

cửa, của khỏi lo gìn giữ, vật đánh rơi không mất.

* Giới thứ ba: Không tà dâm

Không tà dâm được hiểu theo nội hàm “Duy chế tà dâm”, tức phải ngăn

ngừa, hạn chế dục vọng trong một giới hạn nhất định mà xã hội cho phép.

Hành vi được gọi là “không tà dâm” trước hết phải thể hiện tính nhân sinh,

phải đảm bảo về mặt pháp lý và phải đặt trong một quy phạm đạo đức xã hội

nhất định. Khi vợ chồng đã được cưới hỏi đàng hoàng, có sự chứng nhận của

pháp luật. Ở thực tế, không tà dâm là không dụ dỗ hay dùng thủ đoạn để cướp

24

vợ người khác, không ép buộc người khác phải thỏa mãn tình dục với mình,

không hãm hiếp đàn bà, con gái. Người Phật tử không được xui bảo, bày mưu

cho người khác làm việc tà dâm. Trong Kinh Thánh của đạo Cơ Đốc cũng

dạy: “Chớ ham muốn vợ hoặc chồng người”.

Sở dĩ đức Phật cấm tà dâm là vì những lý do sau:

- Thứ nhất, cấm tà dâm là để tôn trọng sự công bằng. Mỗi người, ai

cũng muốn gia đình của mình êm ấm, hạnh phúc, vợ, chồng hòa thuận thì cớ

sao lại phá hoại hạnh phúc gia đình người khác, làm vấy bẩn thanh danh gia

môn người, lôi kéo vợ, chồng người vào con đường dâm loạn.

- Thứ hai, không tà dâm sẽ giúp bảo vệ hạnh phúc gia đình. Sẽ không

có gì đau khổ hơn khi trong một gia đình mà vợ hoặc chồng có lòng dạ riêng

tư, quan hệ bất chính với người khác. Khi ấy, hạnh phúc sẽ không còn nữa, vợ

chồng lúc nào cũng ngờ vực nhau, không còn sự tin tưởng. Hoàn cảnh ấy

không chỉ ảnh hưởng đến vợ, chồng mà còn tác động không nhỏ đến con cái.

Sống trong gia đình ấy, con cái luôn cảm thấy xấu hổ, tự ti, bị bạn bè chê bai,

một số trường hợp xấu hơn là những đứa trẻ trở nên thô bạo, bất cần, không

nghe lời người lớn, sa vào tệ nạn xã hội. Có thể nói, lòng chung thủy là điều

kiện thiết yếu để giữ gìn hạnh phúc gia đình. Vì sự tà dâm của một trong hai

người mà gia đình thường xảy ra những vụ ghen tuông, cãi vã, đánh đập, có

khi dẫn đến cả án mạng, gây ảnh hưởng đến cả trật tự, an toàn xã hội. Cho

nên, cấm tà dâm chính là điều kiện không thể thiếu để xây dựng hạnh phúc

gia đình và mang đến sự ổn định cho xã hội.

- Thứ ba, không tà dâm còn giúp con người tránh được oán thù và quả

báo xấu, vì không có sự oán thù nào mãnh liệt cho bằng sự oán thù do lừa dối

tình hay phụ tình gây ra. Trong Kinh Tứ Thập Nhị chương, Phật dạy:"Người

ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay".

Thật vậy, những người ta có tâm xấu xa, mê đắm sắc dục, không sớm thì thì

muộn cũng sẽ bị hại.

25

Ở phương diện cá nhân, như Kinh Thập Thiện nói: "Người thế

gian không tà hạnh thì được hưởng bốn điều lợi sau:

- Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn.

- Trọn đời được người kính trọng.

- Đoạn trừ được hết cả phiền luỵ khuấy nhiễu.

- Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm."

Về phương diện toàn thể, nếu mọi người đều giữ giới không tà dâm thì

gia đình được đầm ấm, xã hội có luân thường đạo lý, không có những sự thù

hằn chết chóc vì tà dâm nữa. Những đứa con trong các gia đình hạnh phúc sẽ

có một môi trường tốt để học tập và rèn luyện bản thân. Hơn nữa, trong xã hội

hiện đại ngày này, các vấn nạn về ma túy, mại dâm đang ngày càng trở nên

phức tạp hơn. Để thỏa mãn nhu cầu sinh lý, nhiều người đã tìm đến hoạt động

mại dâm. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự lây lan của các

căn bệnh xã hội như HIV/AIDS, lậu, giang mai,…Từ thực tế này, chúng ta có

thể thấy thêm được một giá trị của giới cấm tà dâm trong xã hội hiện tại, đó là

giúp con người tránh được các bệnh tật nguy hiểm.

* Giới thứ tư: Không nói dối

Không nói dối được hiểu là không được “lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng

ngôn, ỷ ngữ”. Đây là bốn yếu tố độc do khẩu gây ra, nằm trong mười điều ảnh

hưởng nguy hại đến nhân cách của con người. Trong giao tiếp, nếu vi phạm

vào bốn nguyên tắc này thì đều bị cho là có hành vi nói dối. Trong Kinh Đại

Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật bảo Tôn Giả A Nan, Thị giả của Phật:

"Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng mà sinh ra, nên phải giữ gìn cửa

miệng hơn cả lửa mạnh, vì lửa mạnh có đốt cháy cũng chỉ đốt cháy một đời

này mà thôi, còn như nói ác sẽ đốt cháy trong vô số kiếp. Lửa chỉ đốt cháy

nhà cửa, của cải của thế gian, còn lời nói ác đốt cháy bảy thứ của cải của

Thánh nhân. Vì thế, này A Nan, chúng sanh họa từ trong miệng mà sinh ra,

miệng lưỡi thực là búa sắc tự bổ vào mình, là cái họa để tự diệt mình".

26

Phật tử cần giữ giới này vì đạo Phật là đạo của sự thật nên phải tôn

trọng sự thật, vì nuôi dưỡng lòng từ bi, người Phật tử phải tránh sự dối trá, lừa

gạt để không gây cho người khác sợ hãi, buồn phiền, đau khổ. Đây cũng là để

bảo tồn sự trung tín trong xã hội, mọi người tin cậy, đoàn kết giữ cho xã hội

được ổn định, vì nếu một xã hội không ai tin ai thì mọi công việc từ nhỏ đến

lớn đều thất bại.

Không nói dối ở đây hàm ý không nên nói dối gây hại cho người khác,

nói dối để tư lợi cá nhân. Không nói dối dù có tốt cho bản thân và người khác.

Chỉ nói lời chánh ngữ ở nơi thuận tiện, thời gian thuận tiện và mang lại kết

quả tốt đẹp cho chúng sinh.Giới này cũng nói thêm rằng, trong những trường

hợp vì lòng từ bi, để giúp đỡ người khác những điều tốt lành mà buộc lòng

phải nói dối thì không sai phạm.

Giới không nói dối Phật khuyên sống trung thực và nói năng trung

thực. Người trung thực sẽ được người khác trọng nể, tin cậy, không ai oán

hận thù hằn; đi đâu cũng được người xung quanh dành cho một địa vị thân

tín, niềm nở tiếp đón. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được nhiều

người tin tưởng và được giao phó cho nhiều trọng trách quý báu. Xã hội có

nhiều người trung thực sẽ đoàn kết, thương yêu nhau hơn và sự nghiệp chung

sẽ mau được thành tựu.

* Giới thứ năm: Không uống rượu

Giới thứ năm, không uống rượu là đòi hỏi con người phải luôn tỉnh táo

để có được trí tuệ minh mẫn. Sự sáng suốt của tâm trí là điều kiện hết sức

quan trọng để tự định hướng và điều khiển hành vi của mỗi con người. Rượu

hay bất cứ thứ gì làm người ta say, mất hết khả năng lý trí thì không được

dùng đến. Uống rượu chính là nguyên nhân gây ra bốn tội trên. Trong kinh

luật Đại thừa, Tiểu thừa đều chủ trương giới rượu, đồng thời có lưu

truyền một sự tích như sau: Vào thời Đức Phật Ca Diếp Ba, một người tu

hành luôn trì giới thanh tịnh. Một hôm, khi vừa từ bên ngoài trở về nhà, vì

quá khát nước nên ông ta đã lấy một chén rượu màu trong như nước trên bàn

27

để uống và không hề biết đó là rượu. Ông uống một hơi vào bụng, đến lúc

chất rượu phát tác khiến ông ta phạm giới một cách liên tục. Thấy gà nhà

hàng xóm, ông ta bèn bắt trộm để làm thịt ăn, vợ của người hàng xóm mất gà

sang tìm, thấy vợ người hàng xóm đẹp, ông liền cưỡng dâm. Sau đó, ông ta bị

bắt đến công đường nhưng vẫn chối cãi không nhận tội. Như vậy, chỉ vì uống

nhầm một chén rượu mà ông ta đã liên tục phạm cả năm điều giới.

Giới này cũng nói thêm rằng “không uống rượu” còn phải tuyệt đối cách

ly những nơi rượu chè, mặc dù mình không uống. Không được xúi giục người

khác uống rượu, bởi vì đó là hành vi gián tiếp vi phạm giới thứ năm. Kinh “Bồ

Tát giới” nói: “Phật tử nếu cố ý uống rượu, mà rượu thì dẫn ra vô số lỗi lầm, tự

tay mình trao rượu cho người khác uống mà năm trăm đời kiếp cánh tay không

có, huống chi chính mình tự uống. Cũng không được chỉ bảo cho mọi người

uống rượu hay luyện tập cho các sinh vật khác uống rượu, huống chi chính

mình uống lấy. Nếu bất cứ rượu gì cũng không được uống. Nếu cố ý uống hay

bảo người khác uống thì phạm tội khinh cấu” [40,107-108].

Không chỉ rượu mà bất cứ thứ gì có chứa chất gây nghiện, làm cho con

người mất tỉnh táo thì đều không được dùng đến, đặc biệt là ma túy. Sở dĩ như

vậy vì những thứ này đều là những thức làm cho con người mê muội, khi lí trí

mê muội sẽ dẫn đến những hành vi sai lầm. Theo kinh Thiện Sinh thì uống

rượu sinh ra sáu lỗi: mất của, sinh bệnh, gây gổ, tiếng xấu đồn xa, dễ sinh

nóng giận, trí tuệ mỗi ngày giảm dần. Những lỗi này, một mặt tác động tiêu

cực đến xã hội, mặt khác nó làm băng hoại nhân cách đạo đức con người. Sự

phát triển nhân cách con người luôn đòi hỏi tính hoàn thiện về cả mọi mặt,

trong đó việc phát triển về mặt tư duy nhận thức là một điều kiện hết sức quan

trọng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, khi người Phật tử bị mắc bệnh mà

bác sĩ cho điều trị bằng cách uống rượu thì sẽ được dùng cho đến khi lành

bệnh thì chấm dứt.

Người không uống rượu sẽ tránh được sự hao tốn tiền bạc, thân ít bệnh

tật, trí tuệ tăng trưởng, tuổi thọ cao, con cái khoẻ mạnh và gia đình yên vui.

28

Về phương diện toàn thể, xã hội sẽ được ổn định, tệ nạn xã hội được đẩy lùi,

đất nước hùng cường. Suy rộng ra, ở cuộc sống hiện tại, nếu muốn hoàn

thiện bản thân thì con người cần phải xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn

bằng cách thực tập chánh niệm trong ăn uống và tiêu thụ: không uống rượu,

không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản

phẩm có độc tố, trong đó có các sản phẩm tinh thần như sách báo, phim ảnh

không lành mạnh.

Phật giáo đề ra Ngũ giới với mục đích là để con người tự rèn luyện,

hoàn thiện nhân cách cá nhân, đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho cả mọi

người xung quanh. Việc thực hành Ngũ giới không chỉ giúp nuôi dưỡng lòng

từ bi, khơi dậy tinh thần nhân đạo trong mỗi con người mà còn có ý nghĩa về

mặt xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế thị

trường như hiện nay, khi mà vấn đề đạo đức đang được quan tâm thì những

giá trị của Ngũ giới nói riêng và các giáo lý Phật giáo nói chung lại càng được

phát huy hơn bao giờ hết.

1.2.3. Quan niệm về thuyết Nhân quả, Luân hồi, Nghiệp báo

Nhân quả theo tiếng Phạn ngữ là Pratitya – Samút – Panda, có nghĩa là

duyên khởi. Nhân được hiểu là nguyên nhân, là nguồn gốc sinh ra cái khác.

Quả là kết quả, là cái được tạo ra bởi một cái nhân. Duyên là chỉ những điều

kiện, hay những vật có vai trò trợ giúp, tạo điều kiện để vật này sinh ra vật

khác. Hay nói cách khác, duyên chính là tập hợp những điều kiện tương quan,

liên hệ giữa nhân và quả, quả với nhân, tạo nên sự biến hóa vô thường.

Theo đạo Phật, thuyết Nhân quả là mối liên hệ mật thiết của vạn vật.

Mọi sự vật, hiện tượng sinh ra trong vũ trụ đều chịu sự tác động của luật nhân

quả, đều có mối liên hệ với nhau, không có bất cứ sự vật nào có thể tồn tại

một cách độc lập với sự vật khác. Luật Nhân quả không bị ràng buộc bởi thời

gian, có nhân quả tạo thành trong kiếp này, có nhân quả phải đợi đến kiếp sau

mới thành quả.

29

Luật Nhân quả được giải thích một cách chặt chẽ thông qua “Thập nhị

nhân duyên”. Như đã nói ở trên, duyên chính là điều kiện cho nhân thành quả.

Thập nhị nhân duyên là mười hai điều kiện quan hệ với nhau để hình thành

một chúng sinh hữu tình. Mười hai nhân duyên bao gồm: Vô minh, Hành,

Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão tử. Trong giáo

lý Phật giáo, thuyết Thập nhị nhân duyên là một trong những thuyết quan

trọng trong việc hình thành và phát triển thế giới quan của đạo Phật. Thuyết

này giải thích tại sao con người lại cứ phải xoay chuyển trong vòng luân hồi

sinh tử. Từ đó giúp con người định hướng trong suy nghĩ và hành động để

điều khiển thân, tâm làm lành, tránh ác.

Mười hai nhân duyên của luân hồi là một dây chuyền liên tục, chuyền

từ khâu này đến khâu khác, trong một đời cũng như trong nhiều đời. Mười hai

nhân duyên đó là vô minh duyên ra hành, hành duyên ra thức, thức duyên

ra danh sắc, sắc duyên ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc, xúc duyên ra thọ,

thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, thủ duyên ra hữu, hữu duyên ra sinh,

sinh duyên ra lão tử.

Ý nghĩa của 12 nhân duyên

1. Vô minh: Vô minh là không sáng suốt, là mê lầm, không nhận

được bản tính duyên khởi chân thật. Do vô minh, nên không biết đúng và đủ

về tất cả các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ xung quanh. Vô minh là

nguồn gốc gây nên mọi tội lỗi, làm cho chúng ta đau khổ.

2. Hành: là hành động, vì có vô minh mới gây ra sự chuyển dịch thành

hành động, hành là tâm niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng, nó làm

cho chúng sinh nhận lầm có cái tâm riêng, cái ta riêng của mình, chủ trương

gây các nghiệp, rồi về sau chịu quả báo.

3. Thức: Tâm niệm sinh diệt tiếp tục ấy, theo nghiệp báo duyên ra cái thức

tâm của mỗi đời, chịu cái thân và cái cảnh của loài này hoặc loài khác.

4. Danh sắc: Các thức theo nghiệp báo duyên sinh ra danh sắc. Sắc bao

gồm những cái có hình tướng, như thân và cảnh. Danh bao gồm những cái

30

không có hình tướng, như cái sự hay biết, nói một cách khác, là thức

tâm thuộc nghiệp nào thì hiện ra thâm tâm và cảnh giới của nghiệp ấy.

5. Lục nhập: Khi sự sống được hình thành thì sáu giác quan (căn) được

hình thành, đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Mỗi

căn sẽ tương ứng với một trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thân tâm đối

với cảnh giới thì duyên khởi ra các sự lãnh nạp nơi sáu giác quan, nhãn

căn lãnh nạp sắc trần, nhĩ căn lãnh nạp thanh trần, tỷ căn lãnh nạp hương

trần, thiệt căn lãnh nạp vị trần, thân căn lãnh nạp xúc trần và ý căn lãnh

nạp pháp trần.

6. Xúc: Do những lãnh nạp như thế, mà các trần ảnh hưởng đến tâm

hay biết sinh ra quan hệ với nhau, nên gọi là xúc.

7. Thọ: Do những quan hệ giữa tâm và cảnh như thế, nên sinh ra các

thọ là khổ thọ, lạc thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả thọ.

8. Ái: Do các thọ đó mà sinh lòng ưa ghét, đối với lạc thọ, hỷ thọ thì

ưa, đối với khổ thọ, ưu thọ thì ghét và đã có ưa ghét thì tâm gắn bó với thân,

với cảnh, hơn bao giờ hết.

9. Thủ: Do tâm gắn bó với thân, với cảnh nên không thấy được sự

thật như huyễn, như hóa, mà còn kết hợp được những ảnh tượng rời rạc đã

nhận được nơi hiện tại thành những sự tướng có định, rồi từ đó chấp mọi sự

vật đều có thật, sự chấp trước như thế, gọi là thủ.

10. Hữu: Do tâm chấp trước nên những sự vật như huyễn, như

hóa lại biến thành thật có, có thân, có cảnh, có người, có ta, có gây nghiệp, có

chịu báo, có sống và có chết, cái có như thế, tức là hữu.

11. Sinh: Có sống, tức là có sinh, nói một cách khác là do không rõ đạo

lý duyên khởi như huyễn, không có tự tánh, nên nhận lầm thật có sinh sống.

12. Lão tử: Lão tử là già rồi chết. Do có sinh sống, nên có già, rồi có chết.

Trong mười hai nhân duyên thì nguyên nhân căn bản của luân hồi, tức

là vô minh và nguyên nhân của tất cả sự chuyển biến trong luân hồi. Chỉ khi

31

nào diệt trừ được vô minh, thì mới giác ngộ, chỉ khi nào diệt trừ được hành,

thì mới hết sinh diệt.

Luật Nhân quả có biểu hiện rất phức tạp. Một nguyên nhân có thể sinh

ra nhiều quả nhưng cũng có quả do nhiều nguyên nhân gây ra. Có cái được

gọi là nhân nhưng thực chất lại là duyên để tạo thành quả. Đồng thời, luật

Nhân quả không bị ràng buộc vào thời gian, có nhân tạo thành quả ngay trong

kiếp này, có nhân phải đợi đến kiếp sau, kiếp sau nữa mới thành quả. Sự

chuyển hóa nhanh, chậm từ nhân sang quả còn phụ thuộc vào duyên.

Nhà Phật có nói: “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến kết quả của nó”. Con

người chúng ta làm việc đôi khi do bản năng, tính háo thắng hoặc thiếu suy

nghĩ mà không lường trước những hậu quả của nó. Phần lớn những sự thất bại

trong công việc đều do những yếu tố chủ quan trên mà ra. Vì vậy, áp

dụng đạo lý nhân quả vào các công việc xã hội, chúng ta sẽ có được

những thành công trong lao động. Người hiểu luật Nhân quả sẽ không cho

phép mình suy nghĩ, nói năng và làm việc xấu. Nếu mọi người ai cũng

được vậy thì đất nước sẽ văn minh, xã hội có văn hoá, gia đình sẽ hạnh phúc.

Vì thế, giáo dục con người biết suy nghĩ tốt, làm việc lành là một nhiệm

vụ cao cả và thiết yếu. Những ai có niềm tin về nhân quả, thiện ác, dĩ

nhiên khi suy nghĩ, nói năng hay hành động gì đều phải có thái độ thận trọng.

Gắn liền chặt chẽ và không tách rời thuyết Nhân quả chính là thuyết

Ngiệp báo, Luân hồi. Hai thuyết này được coi là nền móng của đạo đức học

Phật giáo. Nghiệp báo chính là hệ luận của Luân hồi và ngược lại Luân hồi là

hệ luận của Nghiệp báo. Hai thuyết này luôn bổ sung và gắn bó mật thiết với

nhau. Nếu như con người thấu hiểu và thấm nhuần những giáo lý này thì họ

sẽ có một lối sống lành mạnh, luôn hướng tới điều thiện để tích công đức cho

bản thân và những người thân trong gia đình.

Nghiệp (Karma) là hành động chịu ảnh hưởng của “Luật Nhân Quả”.

Mỗi một hành động làm ra gọi là nguyên nhân, đều có một hậu quả tương ứng

và hậu quả sẽ trở thành nguyên nhân cho một hậu quả kế tiếp. Nghiệp có liên

32

hệ với luật duyên khởi. Chúng ta gây nhân nào thì gặt quả nấy, như tục ngữ có

câu: Trồng cây nào thì gặt quả nấy. Nghiệp là luật công bằng cho tất cả mọi

người, mọi loài trên đời, bản thân mình tạo ra cái gì thì sẽ hưởng lại cái đó. Ai

làm điều tốt, giúp đỡ người khác thì sẽ được hưởng phước, trái lại nếu làm

điều ác, gây tội lỗi thì sẽ phải chịu tội. Mặc dù Nghiệp báo là một định luật rất

nghiêm ngặt nhưng nó cũng biến chuyển vô cùng linh hoạt. Một người nếu

như ở kiếp trước tạo ra nhiều nghiệp ác, nhưng kiếp này lại làm được nhiều

điều thiện thì nghiệp có thể đổi chiều.

Theo đạo Phật, không phải hành động nào cũng là đều là nghiệp. Nghiệp chỉ

được tạo ra nếu có một sự chủ ý. Một hành động có chủ ý được tạo bởi thân, khẩu

và ý; hành động này sẽ gây nên một hậu quả trong tương lai. Sự chủ đó có thể là

thiện / tốt hoặc có thể là ác / xấu hoặc có thể là trung tính / không thiện và không ác.

Nghiệp không do Trời, Thượng đế hay bất cứ đấng siêu nhiên nào

(như trong Thuyết đinh mệnh đề cập đến) tạo ra mà nghiệp chính là do chính

mỗi cá nhân của một người tạo ra. Con người tự quyết định lấy chính cuộc

sống của mình. Số phận con người do chính con người định đoạt thông qua

việc cố gắng trau dồi những tư tưởng, lời nói và hành động tốt đẹp.

Nghiệp được chia thành 4 loại:

1. Nặng tội nghiệp : đây là nghiệp gây ra các tội ác nặng nề như giết

người, hãm hại người khác một cách tàn nhẫn . . .

2. Tập quán nghiệp: đây là nghiệp gây ra do các thói quen tạo thành.

3. Tích lũy nghiệp: đây là các nghiệp được tích lũy, được chứa đựng từ

các hành động trong cuộc sống hằng ngày.

4. Cận tử nghiệp: đây là nghiệp tạo ra lúc sắp chết, nghiệp ở giữa sự

sống và sự chết, nghiệp di chuyển từ đời sống này qua đời sống khác.

Nhiều người có quan niệm sai lầm khi cho rằng nghiệp là định mệnh, là

số phận đã được sắp đặt sẵn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên thì nghiệp không

phải là định mệnh, không do Thượng đế tạo ra để ban thưởng hay trừng phạt

con người. Nhìn vào thực tế cuộc sống hằng ngày, nhiều người nêu lên sự

33

nghịch lý, đó là: có những kẻ tàn ác, lười biếng mà vẫn giàu có, vẫn được sống bình an,

sung sướng; còn có nhiều người ăn ở hiền lành, luôn tu nhân tích đức thì lại phải chịu cảnh

nghèo túng, bất hạnh. Lý giải điều này, Phật giáo Đại thừa cho rằng Nghiệp hay luật nhân

quả tạo ra nghiệp nhân và nghiệp quả, có thể chia ra làm 2 hình thức:

- Thứ nhất là nhân quả đồng thời: có nghĩa là nhân sinh ra quả ngay lập

tức, hoặc có một khoảng cách thời gian ngắn mà người đời có thể thấy ngay

được: “Quả báo nhãn tiền”

- Thứ hai là nhân quả khác thời: Nhân có thể tạo nên quả cần có một

khoảng thời gian dài hơn. Hình thức này có thể chia làm 3 loại:

1. Hiện báo: tạo nghiệp nhân đời này thì lãnh quả báo ngay trong

đời này.

2. Sinh báo: tạo nghiệp nhân đời này thì đến đời sau mới lãnh nghiệp quả.

3. Hậu báo: tạo nghiệp nhân trong đời này thì đến nhiều đời sau mới

lãnh nghiệp quả.

Theo quan niệm Phật giáo, “nghiệp” là do chủ ý đạo đức nên

nghiệp trong đời sống hiện tại có thể hướng đến điều thiện tức là con người có

thể chuyển đổi nghiệp để thay đổi hoàn cảnh sống của mình. Giáo lý nhân

quả của Phật giáo dạy con người xa lánh các “nghiệp ác” và làm các “nghiệp

thiện”. Con người vừa là chủ nhân của nghiệp, lại vừa là “kẻ thừa kế” của

nghiệp do chính mình đã tạo ra. Con người không chỉ chịu trách nhiệm về

nghiệp do chính mình tạo ra cho mình mà còn chịu trách nhiệm về nghiệp mà

mình tạo ra cho người khác.

Song song với thuyết Nghiệp báo là thuyết Luân hồi. Luân nghĩa là

bánh xe, hồi là lăn tròn. Như vậy, luân hồi có nghĩa là một sự sống luôn luôn

chuyển động và nối tiếp nhau như chiếc bánh xe quay từ quá khứ đến hiện tại

và sau đó đến tương lai. Theo quan niệm Phật giáo, Luân hồi là Samsa, diễn

tả một chuỗi Nghiệp báo hay một tràng Nhân – quả chuyển động và nối tiếp

nhau. Con người khi chết đi coi như là đã trả xong nghiệp báo, người ở kiếp

34

sau sẽ không còn là người ở kiếp trước, nhưng nếu như không có người ở kiếp

trước thì sẽ không thể có người kiếp sau.

Ai hiểu được thuyết luân hồi của Đức Phật thì cuộc sống sẽ trở nên

bình thản và an nhiên, giàu có cũng không tự cao, tự đại, hay nghèo khổ cũng

không than trách hay đổ lỗi cho ai. Biết rõ lý do luân hồi tự nhiên, con người

sẽ không oán giận, thù ghét ai, luôn phấn đấu làm điều thiện để thay đổi số

phận của mình ở kiếp sống tương lai.

1.3. Đánh giá chung về đạo đức Phật giáo

1.3.1. Giá trị của đạo đức Phật giáo

Xét về tổng thể, có thể thấy đạo đức Phật giáo là một hệ thống đạo đức

xuất thế và có khuynh hướng vô thần. Thông qua hệ thống giáo lý của mình,

Phật giáo đã giáo dục con người tinh thần từ, bi, hỉ, xả, vô ngã, vị tha, khuyến

khích con người phát huy tối đa tính tự giác, tự tại của nội tâm cá nhân, tiến

tới hoàn thiện bản thân mình. Điểm mạnh của Phật giáo là ở chỗ khẳng định

con người có thể tự quyết định lấy cuộc đời của chính mình, mà không hề lệ

thuộc vào bất kì một đấng siêu nhiên nào.

Giá trị nổi bật nhất của đạo đức Phật giáo chính là tính nhân văn, nhân

bản sâu sắc. Trong giáo lý đạo Phật, con người luôn có vị trí quan trọng nhất,

đây là điểm rất tiến bộ của đạo Phật so với các tôn giáo khác. Tính nhân văn

cao cả của đạo đức Phật giáo được thể hiện ở lòng yêu thương con người và

mục đích hướng tới hạnh phúc của con người. Những tư tưởng về thế giới

quan, nhân sinh quan của Phật giáo mang một ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với

con người. Nó hướng con người tới một lối sống trong sạch, lành mạnh, vị

tha, khoan dung, khơi dậy tình đoàn kết, tương thân tương ái. Thực tế đã cho

thấy, đạo đức Phật giáo phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của con người

Việt Nam và nó đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng một nền

tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền

thống đã được đặt ra. Tính hướng thiện của đạo Phật được xem là một trong

những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời, những tư tưởng về bình

35

đẳng trong Phật giáo cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng hòa đồng liên kết

giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay.

Những chuẩn mực đạo đức cơ bản mà đạo đức Phật giáo nêu ra trong

Ngũ giới, Thập thiện đã góp phần không nhỏ trong việc duy trì nếp sống đạo

đức trong sáng, lành mạnh trong xã hội. Những chuẩn mực được đề cập đến

không chỉ có ý nghĩa nuôi dưỡng lòng từ bi, nhân đạo ở mỗi cá nhân mà còn

hướng tới việc xây dựng một xã hội đạo đức, ổn định. Một mặt, Ngũ giới có

tác dụng ngăn ngừa những mầm mống nguy hại đến tư cách đạo đức con

người, mặt khác lại khơi gợi những hành vi tốt phát triển. Có thể thấy, Ngũ

giới bao hàm đầy đủ, toàn diện ba mặt “thể dục, trí dục, đức dục” trong việc

hình thành nhân cách con người.

Luật Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi thì có tác dụng trực tiếp là lời

khuyên con người làm thiện tránh ác, vì gieo nhân nào gặp quả nấy, thiện giả

thiện báo, ác giả ác báo. Nó không chỉ có ý nghĩa nhất định trong việc cổ vũ

con người hướng thiện mà còn là sự cảnh báo về những hành vi vi phạm đạo

đức của con người. Thuyết Nhân quả của Phật giáo đã chỉ ra rằng: con người

tự chịu trách nhiệm về hạnh phúc hay khổ đau bằng hành vi của chính mình

chứ không phải do may rủi, định mệnh hay thần linh trừng phạt. Thuyết này

khẳng định con người có thể làm chủ được cuộc sống của mình và đặt con

người vào đúng vị trí, vai trò của nó trong xã hội. Nó nhấn mạnh vào trách

nhiệm của từng cá nhân đối với các hành vi đạo đức, con người vì sợ quả báo,

sợ bị đầy xuống địa ngục nên họ cố gắng làm thiện, tránh ác, tu nhân tích đức.

Điều này góp phần hoàn thiện đạo đức cho từng cá nhân cũng như có lợi cho

việc xây dựng một nền đạo đức tốt đẹp trong xã hội. Bên cạnh đó, thuyết

Luân hồi của nhà Phật còn giúp con người hiểu được rằng họ phải chịu trách

nhiệm về hành động của mình kể cả sau khi chết vì chết theo quan niệm của

đạo Phật mới chỉ là chấm dứt một kiếp sống mà thôi. Trên thực tế, quan niệm

này sẽ có tác dụng hạn chế được lối sống buông thả, ích kỷ, đề cao cá nhân,

dẫn đến tham lam, tàn bạo, bất chấp đạo lý để thỏa mãn dục vọng cá nhân.

36

1.3.2. Hạn chế của đạo đức Phật giáo

Bên cạnh những giá trị tích cực, đạo đức Phật giáo còn bộc lộ một số

mặt hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực tới ý thức đạo đức của con người. Trong đó

hạn chế lớn nhất cần phải nhắc đến đó là các quan điểm duy tâm thần bí mang

tính chất hư ảo. Đạo đức Phật giáo là một tôn giáo vô thần với tính nhân đạo

sâu sắc, song các yếu tố duy tâm thần bí vẫn còn rất nhiều. Điều này khiến

cho đạo Phật trở nên thiếu thực tế, không gắn kết chặt chẽ với đời sống thực

tại. Có thể nói, đạo đức Phật giáo là đạo đức phi hành động, phi giai cấp, phi

lịch sử. Phật giáo coi xã hội chỉ là một tập hợp những cá nhân khác nhau về

đạo đức, nhưng không loại trừ nhau về giai cấp. Phật giáo không quan niệm

con người như sự tồn tại của các thành viên của một quan hệ sản xuất, quan

hệ kinh tế hay chính trị mà chỉ đơn thuần là quan hệ đạo đức thiện - ác. Đạo

đức Phật giáo tuy phát triển nhưng đó chỉ là đạo đức cá nhân, chứ chưa đạt tới

đạo đức xã hội. Nó đã tách dục vọng của con người ra khỏi điều kiện thực tiễn

của con người xã hội. Phật giáo khuyên con người sống nhân ái, vị tha, xóa

bỏ hận thù nhằm phát triển trí tuệ. Song, tôn giáo này lại lảng tránh sự đấu

tranh, lảng tránh một thực tại là sự đối lập về điều kiện sống của những người

bị áp bức và những kẻ áp bức mà đưa ra cho con người một nơi trốn tránh về

mặt tinh thần để xoa dịu mọi cơn đau, đó là Niết bàn.

Bởi vì quá nhấn mạnh đến việc hoàn thiện đạo đức nên Phật giáo đã bỏ

quên những vai trò, giá trị của các hoạt động vật chất và những quan hệ hiện

thực của con người. Bên cạnh ý nghĩa giáo dục, hướng con người tới một

cuộc sống thanh cao, vượt qua những ham muốn vật chất tầm thường, Phật

giáo lại có phần tiêu cực ở chỗ là đã thủ tiêu sức sống và hành động của con

người, không khuyến khích con người nâng cao đời sống vật chất và phát

triển khoa học kĩ thuật lại khuyên “thiểu dục, tri túc” (bớt ham muốn, biết đủ).

Điều này lại hoàn toàn ngược với những mục tiêu mà công cuộc đổi mới của

nước ta hiện nay đang đặt ra, đó là cần những con người năng động, dám

nghĩ, dám làm, có ước mơ, hoài bão.

37

Thuyết Nhân quả, Nghiệp báo, Luân hồi trong đạo đức Phật giáo cũng

còn tồn tại những mặt tiêu cực. Nó tạo cho con người suy nghĩ là mình khổ

bởi vì mình đang phải chịu nghiệp báo từ kiếp trước. Chính suy nghĩ này

khiến con người hình thành lối sống cam chịu, nhẫn nhục. Điều này cũng đã

bị giai cấp thống trị và bọn xâm lược lợi dụng để ru ngủ và làm suy giảm ý

thức đấu tranh trong quần chúng nhân dân. Các lý thuyết về Nghiệp, Luân

hồi, Niết bàn đã lôi kéo con người ra khỏi những hoạt động thực tiễn lâu dài,

tách con người khỏi cuộc sống đời thường để thu mình vào cuộc sống tu tập.

Hệ thống tri thức và nghi lễ Phật giáo còn mang nhiều yếu tố huyền bí,

nặng về tin tưởng ở quyền năng và phép nhiệm màu siêu nhiên. Đây chính là

cơ sở dẫn con người đến chỗ mù quáng, tạo nên sự mê tín dị đoan trong xã

hội. Đa số những người đi chùa hiện nay đều không có đủ tri thức về Phật

giáo, hầu hết những người theo đạo Phật đều hi vọng và tin tưởng vào sự cứu

giúp, trợ lực của các đấng linh thiêng. Điều này là đi ngược hoàn toàn với

quan niệm vô thần của Phật giáo. Và cũng từ đây, bọn xấu sẽ có cơ hội lợi

dụng niềm tin sai lầm của các tín đồ đạo Phật mà đưa vào các sinh hoạt tín

ngưỡng thêm nhiều điều mê tín với mục đích thu lợi cá nhân. Điển hình là các

hoạt động đốt nhiều vàng mã, thỉnh vong, giải nghiệp…

38

Tiểu kết chương 1

Với những phạm trù cơ bản: Thiện – Ác, Từ bi, Ngũ giới, thuyết Nhân

quả, Nghiệp báo, Luân hồi, Phật giáo đã xây dựng nên một hệ thống đạo đức

hoàn chỉnh từ nhận thức, lý luận cho đến thực hành. Đạo đức Phật giáo có tác

dụng khuyến thiện, trừ ác, giáo dục cho con người tinh thần từ bi, hỷ xả, vô

ngã, vị tha. Đồng thời còn khuyến khích con người phát huy tối đa tính tự

giác của nội tâm cá nhân, tiến đến hoàn thiện bản thân mình. Nhờ thông suốt

các giáo lý Phật giáo, con người có thể tự quyết định cuộc đời của mình mà

không phải lệ thuộc vào bất cứ ai hay một đấng siêu nhiên nào.

Đạo đức Phật giáo mang tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với các chuẩn

đạo đức truyền thống cũng như những giá trị đạo đức hiện đại, vì thế mà nó

được đại đa số người dân tin và thực hành theo, một trong số đó là tầng lớp

thanh niên – những chủ nhân tương lai của đất nước. Với những giá trị tích

cực của mình, đạo đức Phật giáo đã tạo ra một môi trường sống lành mạnh

cho giới trẻ, giúp họ có được hành trang vững vàng không chỉ về tri thức mà

còn cả về ý thức đạo đức để phát triển nhân cách một cách toàn diện nhất.

39

CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc

tế diễn ra mạnh mẽ trên quy mô lớn. Cùng với sự phát triển như vũ bão của

cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và mạng thông tin toàn cầu,

“ngôi nhà” thế giới dường như trở nên “nhỏ bé” hơn. “Toàn cầu hoá kinh tế

tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây

khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”

[14,73]. Sự ảnh hưởng của quá trình này không chỉ về phương diện kinh tế mà

còn gây ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là đạo

đức. Bất luận dù là tham gia chủ động hay buộc phải cuốn theo một cách bị

động vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế thì văn hóa của các dân tộc đều phải

tiếp xúc, giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới, đều thôi thúc từng

dân tộc suy nghĩ xem phải ứng xử với xu thế lịch sử này như thế nào. Trước

điều kiện đó, mỗi nước, mỗi dân tộc phải biết lựa chọn, giữ gìn và phát huy

những thế mạnh của mình để hoà nhập vào xu thế chung của thời đại, để phát

triển bền vững đất nước.

Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về nhiều mặt, trước hết là chất lượng

nguồn nhân lực. Con người cần có sự phát triển toàn diện cả về thể lực, trí

lực và tâm lực, nhất là đối với thế hệ trẻ - tầng lớp chủ nhân tương lai của

đất nước.

2.1. Vài nét về thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay và

những vấn đề đặt ra.

2.1.1. Khái niệm thanh niên và vai trò của thanh niên đối với xã hội

Về khái niệm thanh niên có nhiều quan điểm khác nhau. Cuốn “Tìm

hiểu một số thuật ngữ về công tác thanh niên” đưa ra khái niệm: “Thanh niên

40

là một tầng lớp người – xã hội đặc thù, với độ tuổi nằm trong giới hạn từ 14,

15 đến trên dưới 30, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của

từng quốc gia, dân tộc. Nét đặc thù của thanh niên chính là ở những đặc điểm

tâm lý, sinh lý của lứa tuổi này. Giới hạn về độ tuổi nêu trên có tính chất quy

ước, không ổn định và có thể thay đổi.

Những đặc điểm tâm lý của thanh niên là hăng hái, nhiệt tình, có nhiều

hoài bão, ước mơ, trong sáng, vô tư, ưa cách tân, thích đổi mới, dám mạo

hiểm. Tuy nhiên do thiếu từng trải, thiếu kinh nghiệm sống nên thanh niên

cũng dễ sa vào trạng thái cực đoan: thực dụng, tự do vô chính phủ, dễ bị lôi

kéo, kích động, dễ sa vào tệ nạn xã hội…” [38].

Về mặt sinh học, thanh niên là một giai đoạn trong quá trình phát triển

của cơ thể người, là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người trưởng thành.

Còn dưới góc độ kinh tế, thanh niên được hiểu là lực lượng lao động

dồi dào của xã hội, có khả năng đóng góp cho xã hội nhờ vào sự khỏe mạnh

và nhanh nhẹn của tuổi trẻ.

Thanh niên là lứa tuổi đang phát triển, định hướng và trưởng thành về

mọi mặt: thể chất và tinh thần, về nhu cầu tình cảm và tâm lý, về khả năng và

nhân cách. Như Kalinin – một nhà giáo dục của Nga đã nhận xét và đánh giá:

“thanh niên là lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, là đơn vị tuyệt vời nhất và linh

hoạt nhất của nhân loại” vì “thanh niên vốn trung thực, thật thà , thẳng thắn

như chân lý khách quan”. Sự phát triển về tâm lý, nhu cầu tình cảm, trí tuệ và

nhân cách ở độ tuổi thanh niên rất phong phú và mạnh mẽ, đặc biệt là có sự

mâu thuẫn giữa phát triển sinh lý và tâm lý, giữa con người tự nhiên với con

người xã hội.

Vai trò của thanh niên đối với xã hội là vấn đề được rất nhiều nhà tư

tưởng quan tâm. C. Mác và Ph. Ănghen coi sự nghiệp của thanh niên gắn liền

với giai cấp vô sản và phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản. Các nhà kinh

điển đã nhận thấy được vai trò vô cùng quan trọng của những người trẻ với tư

cách là lực lượng lao động chủ yếu trong mọi lĩnh vực xã hội, mọi tầng lớp

41

giai cấp, đặc biệt là giai cấp công nhân. Chính vì thế, những người sáng lập ra

chủ nghĩa Mác – Lênin đã luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng, giáo dục thế hệ

trẻ - lực lượng sẽ kế tục sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân trong

giai đoạn tiếp theo. C. Mác chỉ rõ: “Những người công nhân tiên tiến nhất

cũng hoàn nhận thức được rằng tương lai của giai cấp họ và do đó, của cải

loài người tùy thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên”

[31,262].

Kế thừa, vận dụng và phát triển những những học thuyết của C. Mác và

Ănghen, Lênin cũng đã nhận thấy được tầm quan trọng của tầng lớp thanh

niên. Ông đã khẳng định thanh niên là lực lượng chính trong công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội và tiến lên chủ nghĩa cộng sản: “Theo một ý nghĩa nào

đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng xã hội cộng sản chính là của

thanh niên” Và “tất cả nam nữ thanh niên đều phải là người xây dựng xã hội

cộng sản chủ nghĩa” [30,366].

Tiếp thu những quan điểm của các nhà kinh điển Mác – Lênin, Chủ tịch

Hồ Chí Minh cũng bàn nhiều đến vai trò và nhiệm vụ của thanh niên. Ngay

trong thời kỳ đất nước còn chịu cảnh chiến tranh, nô lệ, Bác đã khẳng định vai

trò của lực lượng thanh niên trong cách mạng. Người nêu lên quan điểm

muốn thức tỉnh một dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên. Trong suốt

hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

nhắc nhở các cán bộ, đoàn viên phải hiểu về thế hệ mình, thế hệ đang được

Đảng chăm lo đào tạo, giáo dục, là “lớp người giương cao ngọn cờ của chủ

nghĩa anh hùng cách mạng”. Từ chỗ đánh giá khả năng cách mạng của thanh

niên, Người đã khẳng định về một tương lai tươi sáng của đất nước do thế hệ

trẻ mang lại: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái, kiên cường, Người thấy

tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang”. Bởi nhận thức được

vị trí quan trọng, không thể thiếu được của tầng lớp thanh niên đối với sự

nghiệp cách mạng, trong di chúc (ngày 10/5/1969), Bác đã viết: “Đoàn viên

và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không

42

ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách

mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng Chủ nghĩa xã

hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là

một việc rất quan trọng và cần thiết” [10,2].

Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn đánh giá đúng vị trí, vai trò

quan trọng của thanh niên và công tác thanh niên trong sự nghiệp cách mạng

của Đảng và dân tộc. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) về công tác thanh

niên trong thời kỳ đổi mới đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công

hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ

nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi

dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác thanh niên là vấn đề sống còn

của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách

mạng”. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X): “Về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác thanh niên” tiếp tục khẳng định: Thanh niên là lực

lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai,

vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhận những

công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ

tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo,

muốn tự khẳng định mình.

2.1.2. Vài nét về thực trạng đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện

nay và những yêu cầu đặt ra đối với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt

Nam hiện nay.

Ở bất kì thời kì nào, thanh niên luôn là một lực lượng giữ vị trí đặc biệt

quan trọng trong đời sống lao động, sản xuất, là những người trực tiếp góp

sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt, trong bối

cảnh toàn cầu hóa với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và xu

hướng hội nhập thì vai trò của thanh niên là càng trở nên quan trọng hơn bảo

giờ hết. Nhìn chung, thanh niên Việt Nam ngày nay vẫn giữ gìn đạo đức trong

sáng, phát huy bản sắc dân tộc và tiếp thu nhanh chóng các giá trị văn hóa tiên

43

tiến của thế giới. Đa số thanh niên vẫn phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền

thống như làm đạo hiếu với cha mẹ, tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn,

thương người như thể thương thân, biết kính trên nhường dưới…

Bên cạnh sự kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống,

những phẩm chất giá trị đạo đức mới cũng đang hình thành một cách rõ nét

trong đại bộ phận thanh niên Việt Nam. Là thế hệ trẻ năng động, tích cực,

thanh niên có nhiều lợi thế trong việc tiếp cận những yêu cầu của xã hội hiện

đại. Thanh niên Việt Nam ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự

thành công của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Đa số bộ phận thanh niên đã tự nhận thức được đúng đắn những nhiệm vụ mà

bản thân mình cần thực hiện để góp sức vào xây dựng thành công mục tiêu

“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Từ đó, thanh

niên đã xác định được nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình, xã hội.

Đảng ta đã nhận định: “Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất

nước là đã xây dựng được thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, có nhân

cách, tri thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối

truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc, nêu cao lòng yêu nước, ý thức

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; không ngại khó khăn gian khổ,

tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia đình, xã hội; có ý chí vươn

lên trong học tập, lao động, lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, quyết

tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn được tin tưởng,

được cống hiến cho đất nước, có việc làm, thu nhập ổn định, đời sống văn hóa

tinh thần lành mạnh phong phú, môi trường sống an toàn…”[2]

Để đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước đặt ra, hầu hết thanh niên đã chủ động phát huy tinh thần tự giác,

vận dụng hiệu quả năng lực và khả năng sáng tạo nhằm chiếm lĩnh những

thành quả mới. Trong những năm gần đây, nước ta liên tục xuất hiện những

tài năng trẻ, đó là những thanh niên có năng lực, năng động và khả năng sáng

tạo, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để khẳng định bản thân, góp

44

phần đưa đất nước phát triển hơn. Bên cạnh đó, các chương trình về tìm kiếm

tài năng, khởi nghiệp…được đông đảo thanh niên hưởng ứng tham gia. Đặc

biệt, trong các hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, thanh niên luôn là lực

lượng nòng cốt. Số lượng các hoạt động, phong trào ngày càng tăng, thu hút

được nhiều thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia như: phong trào “Thanh

niên tình nguyện thực hiện chương trình trọng điểm quốc gia”, “Thanh niên

thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc”, chiến dịch “Mùa hè xanh”, các hoạt động

hiến máu nhân đạo, quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai, phụng dưỡng các

bà mẹ Việt Nam anh hùng,...Thông qua những hoạt động này, thanh niên hình

thành được những chuẩn mực giá trị đạo đức cao đẹp, ý thức và thói quen

công dân, trách nhiệm cộng đồng trong xã hội văn minh hiện đại, củng cố và

xây dựng lòng nhân ái và tinh thần xung phong tình nguyện, ý thức chia sẻ,

tinh thần tương thân tương ái.

Trong xu thế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước

hội nhập với thế giới, Việt Nam chịu sự tác động không nhỏ của các luồng

văn hóa ngoại lai, trong đó có cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Những

yếu tố này có ảnh hưởng không hề nhỏ đến nền đạo đức xã hội nói chung và

đặc biệt là thế hệ thanh niên nói riêng. Bên cạnh bộ phận thanh niên chủ động,

tích cực, biết lựa chọn tiếp thu các yếu tố văn hóa tích cực từ bên ngoài thì

vẫn còn một số những thanh niên không có lập trường, đã bị chi phối bởi các

yếu tố tiêu cực, dẫn đến suy thoái về mặt đạo đức, gây tác động xấu cho chính

bản thân, gia đình và xã hội. Đề cập đến những hạn chế của thanh niên hiện

nay, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ rằng thế hệ trẻ

Việt Nam hiện nay, bên cạnh những ưu điểm đang có những biểu hiện phức

tạp và những chiều hướng phát triển đáng lo ngại.

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường có tác động hai mặt lên ý thức

đạo đức của tầng lớp thanh niên Việt Nam hiện nay. Một mặt nó thúc đẩy sự

hình thành và phát triển các phẩm chất đạo đức mới như chủ động, năng

động, sáng tạo, tự chủ, tự giác ở thanh niên. Mặt khác, nền kinh tế thị trường

45

cũng đã tạo ra những tác động tiêu cực, gây ra những quan niệm và hành vi

đạo đức lệch lạc ở một bộ phận thanh niên. Cụ thể, những nhu cầu về lợi ích

kinh tế đã làm cho thanh niên chạy theo lối sống thực dụng, coi trọng chủ

nghĩa cá nhân, chỉ quan tâm đến lợi ích về mặt vật chất mà coi nhẹ các giá trị

về mặt tinh thần, chỉ đề cao lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích của tập thể,

cộng đồng. Chỉ vì chạy theo đồng tiền mà nhiều thanh niên đã tham gia vào

các hoạt động phi pháp như buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo, sản xuất hàng giả,

hàng nhái,…Bên cạnh đó, thực trạng thanh niên sa ngã vào các tệ nạn xã hội

đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại mà cả xã hội quan tâm. Số lượng

thanh niên nghiện ma túy, nhiễm HIV hay tham gia hoạt động mại dâm đang

có chiều hướng gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của xã

hội, làm suy thoái giống nòi và gây lãng phí lực lượng lao động.

Đối lập với những thanh niên sống có đạo đức, lý tưởng cao đẹp là

không ít những thanh niên trẻ sống thiếu lí tưởng, thiếu ý thức trong việc chấp

hành pháp luật, ít quan tâm đến tình hình đất nước, sống thực dụng và xa rời

các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc. Một bộ phận thanh niên còn

mơ hồ về lý tưởng cách mạng, không có mục đích sống rõ ràng, thiếu sự chủ

động, ngại tham gia các hoạt động xã hội, ý chí phấn đấu chưa cao, thờ ơ với

cái chung của đất nước, của tập thể. Họ chưa nhận thức được vai trò và trách

nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Mặt khác,

họ cũng chưa thấy rõ được âm mưu “ diễn biến hòa bình” của các thế lực thù

địch, luôn chủ quan, không đánh giá hết được những nguy cơ tiềm ẩn. Nhiều

thanh niên có suy nghĩ không chín chắn, bồng bột, bị người khác xúi giục nên

đã có những thái độ, hành vi chống đối, đi ngược lại với các chủ trương,

đường lối của Đảng và Nhà nước.

Một số thanh niên là sinh viên còn chưa có ý thức trau dồi tri thức, có

hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy, quy chế, thiếu trung thực trong

học tập và gian lận trong thi cử. Vẫn còn một bộ phận nhỏ chỉ đòi quyền

hưởng thụ, không nghĩ đến nghĩa vụ và trách nhiệm cống hiến, chưa tích cực

46

học tập và rèn luyện, ý thức chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp chưa cao. Một

số ít sinh viên ở một số trường còn biểu hiện lối sống thiếu trung thực, đua

đòi, ăn diện, xa hoa, lãng phí.

Như vậy, thực trạng đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay tồn tại cả

những mặt tích cực và tiêu cực. Trước tình hình đó, chúng ta cần phải xây

dựng một nền đạo đức mới cho thanh niên Việt Nam. Nền đạo đức đó vừa

phải có sự kế thừa và kết tinh những giá trị đạo đức truyền thống của dân

tộc, trong đó có đạo đức Phật giáo, mặt khác phải đáp ứng được những yêu

cầu của đất nước trong bối cảnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập

quốc tế.

Theo tôi, vấn đề giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay đang

đặt ra một số yêu cầu sau đây:

Thứ nhất, cần phải thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức, lối sống

lành mạnh, xây dựng lý tưởng đạo đức cho một thế hệ thanh niên nhằm đáp

ứng yêu cầu của đổi mới.

Hiện nay, vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên vẫn chưa được chú

trọng và quan tâm thường xuyên. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất

nước hiện nay, nước ta cần có những thế hệ thanh niên có đạo đức, dám xả

thân vì nghĩa lớn, có tài năng và lối sống lành mạnh. Thanh niên chính là

người tạo ra sức mạnh của thời đại, cái tạo nên sức mạnh của thanh niên thì

không có gì khác ngoài lý tưởng của họ. Việc tăng cường giáo dục đạo đức

cho thanh niên sẽ giúp họ có thể nhận thức được những giá trị đạo đức cần

thiết như tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, đức tính cần cù, vị tha, trung

thực,…Thông qua những nhận thức đó, thanh niên sẽ hình thành những ý

thức và hành vi đạo đức tích cực, hoàn thiện nhân cách cá nhân và điều chỉnh

được các mối quan hệ xã hội.

Để có thể thực hiện và hoàn thành tốt công tác giáo dục đạo đức cho

thanh niên Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải:

47

- Đề cao các giá trị, phẩm chất đạo đức tốt đẹp của dân tộc trên cơ sở

tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại.

- Phát huy chủ nghĩa nhân đạo, lòng bao dung, thương người vốn có

trong tâm thức người Việt.

- Tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và vận động cho toàn xã

hội thấy được vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của công tác giáo dục đạo đức

thanh niên.

- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo

chí nhằm kịp thời cung cấp các thông tin chính thống về tình hình trong nước

và thế giới cho thanh niên. Chú trọng truyên truyền về các phong trào thi đua

yêu nước, gương người tốt việc tốt, đấu tranh chống diễn biến hòa bình…

- Ngăn chặn những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường như tệ nạn

xã hội, tham nhũng, cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi ích cá nhân…

- Cổ vũ thanh niên phấn đấu để xây dựng một lý tưởng sống cao đẹp,

tôn trọng những giá trị, chuẩn mực đạo đức của xã hội.

Thứ hai, cần phải tăng cường mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và

xã hội trong việc giáo dục và rèn luyện đạo đức, lối sống cho thanh niên.

Gia đình là nơi lưu giữ các giá trị truyền thống tốt đẹp của các thế hệ

ông bà, tổ tiên, là môi trường đầu tiên tác động đến việc hình thành đạo đức

của thanh niên. Trong mỗi gia đình, ông bà, cha mẹ chính là những tấm

gương về đạo đức, lối sống cho con cái noi theo. Tuy nhiên, hiện nay, vì sức

ép “ cơm áo gạo tiền” khiến cho không ít các bậc phụ huynh mải mê làm việc,

kiếm tiền, chỉ nghĩ đến làm giàu mà bỏ bê con cái, không quan tâm đến việc

giáo dục đạo đức cho con mà đẩy trách nhiệm này cho nhà trường và xã hội.

Chính điều này đã dẫn đến tình trạng nhiều bạn học sinh, sinh viên có biểu

hiện suy thoái về đạo đức, vi phạm pháp luật nhưng bố mẹ lại không hề hay

biết, hoặc không biết cách để ngăn chặn, phòng ngừa. Để thanh niên có được

một môi trường phát triển toàn diện nhất, mỗi gia đình cần phải giữ gìn đạo

đức, nề nếp gia phong, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp để con cháu

học tập theo.

48

Bên cạnh đó, vai trò của nhà trường trong việc giáo dục đạo đức thanh

niên cũng cần phải được tăng cường. Nhà trường không chỉ là nơi dạy chữ,

dạy nghề mà còn phải là nơi để rèn đạo đức cho thanh niên. Vấn đề giáo dục

lý tưởng, đạo lý làm người phải trở thành một trong những nội dung giáo dục

hàng đầu được chú trọng. Nhà trường cần luôn tích cực đổi mới phương pháp

giảng dạy và học tập các môn học về lý luận chính trị, đạo đức để giúp thanh

niên có tri thức đúng đắn, toàn diện về chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh, sống có văn hóa, có đạo đức, xây dựng được một lối sống trong

sáng, lành mạnh, có lý tưởng và niềm tin vào con đường xây dựng và phát

triển đất nước. Xây dựng trường học thực sự trở thành trung tâm văn hóa,

giáo dục, rèn luyện thanh thiếu niên; đồng thời cần kết hợp hài hòa giữa học

chính khóa và ngoại khóa, qua đó góp phần hình thành lý tưởng cách mạng,

đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ. Tạo điều kiện để các tổ chức Đoàn,

Hội trong trường học phát huy vai trò, ảnh hưởng và tích cực tham gia quá

trình giáo dục toàn diện học sinh, sinh viên.

Về mặt xã hội, ngày nay, thanh niên đang sống trong thời kì kinh tế

phát triển mạnh mẽ, thời đại thông tin bùng nổ và giao lưu quốc tế ngày càng

mở rộng. Trong môi trường đó, thanh niên đã và đang chịu tác động cả về mặt

tích cực và tiêu cực. Vì vậy, Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội cần thiết

phải tạo ra được những điều kiện thuận lợi để thanh niên tiếp thu những cái

tốt, cái đẹp và loại bỏ những cái tiêu cực, hạn chế. Cần phải biểu dương, khen

ngợi những tấm gương tốt trong lao động, rèn luyện đạo đức và phê phán

những người có hành vi lệch lạc, sai trái.

Nói tóm lại, để thanh niên nói riêng và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay nói

chung có thể phát triển nhân cách một cách toàn diện nhất thì cần phải có sự

phối hợp của cả gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Mối quan hệ này tạo

thành một sợi dây liên kết chặt chẽ, tập hợp được các yếu tố thuận lợi nhất

cho thanh niên trong quá trình học tập và rèn luyện.

49

Thứ ba, cần phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng và rèn luyện đạo

đức của thanh niên.

Thanh niên là lớp người tràn đầy sự nhiệt tình, hăng hái và luôn sẵn

sàng tiếp thu những cái mới lạ. Trước những tác động của điều kiện kinh tế -

xã hội hiện nay, thanh niên có một môi trường thuận lợi để phát huy sự chủ

động của bản thân trong quá trình hoàn thiện nhân cách.

Trước hết, mỗi thanh niên cần phải tự xác định cho mình một động cơ,

nhu cầu chính đáng để phấn đấu, rèn luyện, học hỏi và vươn lên tự khẳng định

bản thân. Gia đình, nhà trường và xã hội sẽ là những môi trường quan trọng

trong việc giúp thanh niên có được định hướng đúng đắn. Một khi đã có định

hướng, thanh niên sẽ theo đó mà phấn đấu, rèn luyện, hoàn thành tốt những

nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, bản thân thanh niên cần phải tự ý thức, tự xây

dựng lý tưởng, hoài bão vươn tới cái mới, cái tiến bộ. Trước những khó khăn,

thử thách, họ phải không ngừng cố gắng thay đổi bản thân, nỗ lực để vượt

qua, loại bỏ những yếu tố tiêu cực của xã hội, bài trừ những biểu hiện của chủ

nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, tránh được những cám dỗ xấu xa.

Tự học tập, tự rèn luyện là con đường phát triển suốt đời của mỗi

người. Việc phát huy vai trò chủ động, tự giác của thanh niên trong quá trình

hoàn thiện bản thân là một biện pháp quan trọng giúp họ nhanh chóng trưởng

thành và tiến bộ.

2.2. Một số vai trò chủ yếu của đạo đức Phật giáo đối với việc giáo

dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay

2.2.1. Đạo đức Phật giáo góp phần hình thành ý thức đạo đức tích

cực cho thanh niên Việt Nam.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Ý thức đạo đức là toàn

bộ những quan niệm về thiện và ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh

phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử

giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội” [55,590]. Ý

thức đạo đức được biểu hiện thông qua tri thức đạo đức, niềm tin đạo đức,

tình cảm đạo đức và lý tưởng đạo đức.

50

2.2.1.1.Đạo đức Phật giáo góp phần hình thành tri thức đạo đức và

niềm tin đạo đức cho thanh niên Việt Nam.

* Tri thức đạo đức

Với gần 2000 năm tồn tại ở đất nước Việt Nam, Phật giáo đã không

ngừng truyền bá các giáo lý và tư tưởng đạo đức của mình, làm phong phú

thêm các tri thức đạo đức Phật giáo. Chính nhờ sự gần gũi, thân thiện của

mình mà những tri thức Phật giáo đã nhanh chóng được người Việt tiếp nhận,

trong đó phải kể đến thế hệ trẻ.

Những lý thuyết của Phật giáo về vô thường, vô ngã, nghiệp báo, luân

hồi ,… đã hình thành nên một hệ thống tri thức đạo đức chặt chẽ, cụ thể, có

tác dụng chi phối suy nghĩ và hành động của đa số người Việt Nam, đặc biệt

là thế hệ trẻ. Có thể nói rằng, đạo đức Phật giáo đã có nhiều đóng góp trong

việc hình thành những quan niệm sống tích cực, nhân bản.

Các giới luật trong Ngũ giới được xem là những quy chuẩn đạo đức

hướng thiện cho thanh niên, định hướng cho thanh niên sống có đạo đức. Với

các nội dung cụ thể như “không sát sinh”, “không trộm cướp”, “không tà

dâm”, “không nói dối”, “không uống rượu”... đạo đức Phật giáo có ý nghĩa

toàn diện đối với việc rèn luyện và hoàn thiện nhân cách cho thanh niên.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống vật chất người dân

ngày càng được nâng cao thì những nhu cầu tinh thần cũng thay đổi theo.

Thanh niên là lớp người có tâm lý, tình cảm hết sức nhạy cảm, dễ bị chi phối,

tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài. Trước nhịp sống sôi động của nền kinh tế,

cùng những cám dỗ vật chất, thanh niên dễ bị khủng hoảng, mất niềm tin, mất

phương hướng trong cuộc sống. Để có thể vượt qua được những thử thách đó,

lớp trẻ cần phải có một chỗ dựa tinh thần vững chắc. Và không thể phủ nhận

rằng, những tri thức đạo đức Phật giáo đã góp một phần không nhỏ trong việc

cân bằng tâm lý cho thanh niên và tránh cho họ rơi vào tình trạng khủng

hoảng tiêu cực.

51

Như vậy, đạo đức Phật giáo đã cung cấp cho thanh niên những tri thức

đạo đức hết sức thiết thực, có thể áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã

hội. Những quy tắc, chuẩn mực của đạo đức Phật giáo có rất nhiều điểm

tương đồng với các quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội, vì thế cho đến nay

vẫn được nhiều người trong xã hội , trong đó có một bộ phận không nhỏ là

thanh niên tin theo và phát huy.

* Niềm tin đạo đức

Từ những tri thức đạo đức tiếp nhận được, thanh niên Việt Nam sẽ có

căn cứ để xây dựng một niềm tin đạo đức. Hầu hết các tôn giáo thường mang

lại cho tín đồ của mình những niềm tin linh thiêng về sự giải thoát, về sự tồn

tại của một đấng siêu nhiên có quyền năng sáng tạo và phán xét mọi hành vi

tốt xấu của con người. Khác với những tôn giáo này, ở Phật giáo, các tín đồ

có niềm tin vào các giới luật, tin vào luật nhân quả, nghiệp báo, tin vào vô

thường, vô ngã,…Những tư tưởng này không chỉ ảnh hưởng tới những Phật tử

mà còn có ý nghĩa đối với một bộ phận lớn quần chúng nhân dân, trong đó

đặc biệt là thanh niên. Những nguyên tắc, quy chuẩn đạo đức, những giới luật

trong Ngũ giới, Tứ ân, Thập thiện… đã phát huy tác dụng giáo dục đạo đức

cho thanh niên, tạo cho họ một niềm tin sắt đá vào thắng lợi của công cuộc

xây dựng và đổi mới đất nước.

Hiện nay, khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển, thanh niên có nhiều

điều kiện để thể hiện khả năng của mình trong lĩnh cực kinh doanh. Để có thể

đứng vững và phát triển được trên thị trường khốc liệt, họ không chỉ phải trau

dồi thêm nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực kinh doanh và còn phải rèn luyện các

giá trị đạo đức. Trong điều kiện nền đạo đức phải đối mặt với những biến đổi

của nền kinh tế thị trường, những lời dạy của Đức Phật về “nhân quả”, “vô

thường”, “ngũ giới”... đã mang đến một tác dụng không nhỏ trong việc duy trì

đạo đức xã hội, đặc biệt là đạo đức kinh doanh của tầng lớp trẻ này. Niềm tin

đó sẽ giúp họ có động lực để vượt qua khó khăn, xây dựng được chữ “tín” đối

với khách hàng, tạo được sự yêu mến, trung thành của nhân viên – những

người trực tiếp đem đến sự thành công cho doanh nghiệp.

52

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nước ta vẫn còn tồn tại nhiều

yếu tố tiêu cực như sự bất công, nạn tham những, buôn lậu, tệ nạn xã

hội,…Những điều này gây ra nhiều oan trái, đau khổ cho nhiều người, trong

đó có thanh niên- tầng lớp rường cột của đất nước, khiến cho tâm lý, tình cảm

của họ dễ bị lay động, tổn thương. Song, chính niềm tin tôn giáo, niềm tin vào

thuyết Nhân quả của Phật giáo đã giúp họ ổn định tâm lý. Thuyết Nhân quả

khẳng định người làm việc thiện sẽ được đền đáp, còn những kẻ làm điều ác

sẽ nhận báo ứng. Thông qua thuyết này, thanh niên thấy được tính quy luật

của xã hội, “gieo nhân nào gặp quả ấy”, từ đó tích cực làm việc thiện và tránh

xa điều ác.

Từ niềm tin vào việc thực hiện các giới luật đạo đức Phật giáo sẽ mang

lại sự giải thoát ở kiếp sau, những người Phật tử luôn hướng tới đức Phật với

một cõi tâm linh thành kính, với một đức tin tưởng chừng như ảo tưởng

nhưng lại có tác dụng lớn trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức của họ. Niềm

tin vào các giá trị đạo đức Phật giáo giúp cho thanh niên có được một sức

mạnh tâm linh tinh thần để họ vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong cuộc

sống và hướng họ đến một cuộc sống tốt đẹp. Những lời khuyên răn trong đạo

đức Phật giáo đã hình thành ở thanh niên ý thức đạo đức khuyến thiện, trừ ác,

làm cho họ sống một cách khiêm nhường, yêu thương nhau hơn. Niềm tin ấy

chính là yếu tố làm nên sự tự giác, tự nguyện trong thanh niên Phật tử Việt

Nam. Nó có tác dụng làm cho những hoạt động hướng thiện của thanh niên

trở nên nhiệt tình và hiệu quả hơn.

2.2.1.2. Đạo đức Phật giáo góp phần hình thành tình cảm đạo đức và

lý tưởng đạo đức cho thanh niên Việt Nam

* Tình cảm đạo đức

Tình cảm đạo đức là hình thái biểu hiện cơ bản của ý thức đạo đức ở

cấp độ cảm tính, là phương thức phản ánh độc đáo thực tiễn, trong tình cảm

đạo đức không có sự tách biệt giữa nội dung khách quan xuất phát từ bên

ngoài với trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể đạo đức. Chính vì thế, tình

53

cảm đạo đức biểu hiện ra vừa như là sự nhận thức, đánh giá về các hiện tượng

đạo đức, lại vừa là sự biểu hiện thái độ chủ quan của chủ thế đối với các hiện

tượng đó. Sự nhận thức và biểu hiện đó được thực hiện thông qua các trạng

thái cảm xúc.Ví dụ như trước cái thiện, con người ta cảm thấy phấn khởi, cảm

động, đồng tình, trước cái ác thì người ta phẫn nộ, phê phán.

Cũng giống như các giá trị đạo đức khác, đạo đức Phật giáo đã hình

thành cho thanh niên tình cảm yêu thương và sự sùng kính đối với đức Phật

và các vị Bồ Tát. Và chính những tình cảm ấy đã khuyến khích, thôi thúc họ

thực hiện một cách nghiêm túc các giới luật, các nguyên tắc, quy chuẩn đạo

đức mà Phật giáo đề ra. Phật giáo dạy con người biết yêu thương sự sống, yêu

thương muôn loài, không chỉ là con người mà còn là mọi sinh vật tồn tại trên

thế giới này. Tình thương và lòng nhân ái sẽ giúp con người từ bỏ được tính

ích kị, lòng tham, sự sân hận và si mê. Đối với thanh niên, tình yêu thương đó

được thể hiện rõ nhất trong các mối quan hệ với gia đình (ông, bà, cha, mẹ,

anh,chị, em, vợ, chồng), bạn bè, thầy cô,…Khi xây dựng được tình cảm tốt

đẹp trong tất cả các mối quan hệ, họ sẽ tránh được những xung đột, mâu thuẫn

không đáng có, thông qua đó góp phần làm cho xã hội ổn định hơn.

Đạo đức Phật giáo đề cao tinh thần từ, bi, hỉ, xả, luôn hướng con người

tới điều thiện, khuyên con người giúp đỡ người khác bằng cách thể hiện sự

hào phóng, nhân ái một cách vô tư, không có sự tính toán thiệt hơn, giúp

những người khó khăn thoát khỏi sự đau khổ, lo lắng, đồng thời giúp chính

bản thân mình giảm được sự ích kỉ.

Bên cạnh việc khơi dậy và nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp trong

mỗi con người, đặc biệt là thanh niên, Phật giáo còn đem lại cho họ khao khát

sự che chở, cứu vớt, an ủi họ trước những bất công và khó khăn còn tồn tại

trong cuộc sống hàng ngày.

Những tình cảm đạo đức do Phật giáo mang lại sẽ là động lực để thế hệ

trẻ thực hiện các hành vi đạo đức tốt đẹp. Một khi tình cảm ấy thẩm thấu vào

tình cảm dân tộc, vào những truyền thống của cộng đồng thì nó sẽ tạo nên

54

một nội lực mạnh mẽ, phát huy được tinh thần yêu nước, củng cố khối đại

đoàn kết dân tộc và trở thành một động lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc.

* Lý tưởng đạo đức

Lý tưởng đạo đức là những ước mơ về tương lai đạo đức mà con người

mong muốn đạt được với một mức độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Lý tưởng đạo đức

quyết định phương hướng, mục đích hoạt động của con người. Khi đã xác

định được lý tưởng đạo đức, con người xây dựng kế hoạch và đề ra những

biện pháp để đạt được lý tưởng đó.

Từ niềm tin vào các giáo lý đạo đức Phật giáo, thanh niên Việt Nam đã

và đang hình thành những lý tưởng hoài bão cao đẹp nhằm xây dựng một xã

hội tốt đẹp hơn, dân chủ, công bằng và văn minh hơn. Những lý tưởng đạo

đức mà Phật giáo mang lại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ý thức đạo đức và hành

vi của thanh niên, hướng thanh niên tới những hành động tốt đẹp, hướng

thanh niên tới việc xây dựng một mẫu người lý tưởng không có dục vọng hay

sự ham muốn cá nhân, luôn sống có trách nhiệm với gia đình, cộng đồng và

xã hội.

Đạo đức Phật giáo đặt ra những quy chuẩn đạo đức nhằm xây dựng một

mẫu người lý tưởng, đó là người có phong cách đạo đức từ, bi, hỉ, xả, vô ngã,

vị tha. Đó là người có thể vứt bỏ được mọi dục vọng cá nhân, để rèn luyện và

tu tập theo Giới, Định, Tuệ và nhanh chóng chứng được Niết bàn. Với chủ

trương “tìm Niết bàn trong hiện thực”, Phật giáo hướng thanh niên vào cuộc

sống thực tại, thường ngày chứ không phải vào một thế giới ảo tưởng xa xôi.

Tập 1 của Tập bộ kinh đã nhắc đến mẫu người cụ thể mà đạo Phật hướng tới,

đó là: “Họ là những người không phải hối tiếc quá khứ, không mò mẫm tìm

kiếm tương lai. Họ sống trong hiện tại, vì thế thần thái họ rạng rỡ. Người ngu

xuẩn vừa tìm kiếm tương lai, vừa hối tiếc quá khứ, cũng giống như cây sậy

xanh bị phạt đứt dưới ánh nắng chói chang, chỉ trong chốc lát là khô héo”

[26,209]. Đạo đức Phật giáo luôn khuyên thanh niên sống tốt đẹp và biết làm

55

chủ được bản thân. Trong xã hội hiện nay, khi mà nền kinh tế thị trường đang

phát triển, những tư tưởng về lợi ích cá nhân đang chi phối tới đạo đức xã hội,

nếu không làm chủ được bản thân, thanh niên sẽ dễ dàng rơi vào những cám

dỗ vật chất tầm thường, sa vào những tội ác, những tệ nạn xã hội,…

Đạo đức Phật giáo với những nội dung cụ thể, gần gũi có tác dụng to

lớn trong việc giáo dục đạo đức, nó ảnh hưởng không nhỏ tới tình cảm, lý

tưởng đạo đức của thanh niên Việt Nam ngày nay. Những giá trị mà đạo đức

Phật giáo mang lại có nhiều nét tương đồng với nền đạo đức xã hội và góp

phần không nhỏ trong việc hình thành ý thức đạo đức, hoàn thiện nhân cách

cá nhân không chỉ riêng đối với Phật tử, thanh niên Phật tử mà còn cả với

những thanh niên và những người ngoại đạo. Bên cạnh đó, những giá trị này

còn giúp duy trì ở một mức độ nhất định trật tự đạo đức xã hội và bảo vệ

những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc trong tầng lớp thanh niên, đặc

biệt là ở bối cảnh hiện tại, khi mà ảnh hưởng của những luồng văn hóa ngoại

lai đang làm cho đạo đức thanh niên có nhiều biểu hiện tiêu cực, không ít

thanh niên xuất hiện sự suy thoái đạo đức, lối sống; đánh mất đi bản sắc văn

hóa dân tộc, chạy theo lối sống và văn hóa phương Tây.

2.2.2. Đạo đức Phật giáo góp phần điều chỉnh hành vi đạo đức cho

thanh niên Việt Nam

Hành vi đạo đức là sự thể hiện đạo đức của mỗi con người trên cơ sở

niềm tin và lý tưởng đạo đức. Muốn có được hành vi đạo đức đúng đắn thì

trước hết phải có ý thức đạo đức đúng đắn.

Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động

cơ nào đó có ý nghĩa về mặt đạo đức, nó được biểu hiện trong cách ứng xử,

lối sống trong giao tiếp, trong lời ăn, tiếng nói hàng ngày của mỗi người.

2.2.2.1. Đạo đức Phật giáo góp phần hoàn thiện đạo đức, nhân cách cá

nhân của thanh niên

Những giá trị, chuẩn mực của đạo đức Phật giáo đã góp phần hình

thành những chuẩn mực, giá trị, nguyên tắc đạo đức cho thanh niên Việt Nam

56

hiện nay. Trên thực tế, những chuẩn mực đạo đức mà Phật giáo đề ra không

xa lạ với xã hội hiện đại mà thực sự rất cụ thể, hữu ích (Ngũ giới, Thập thiện,

Tứ ân). Đạo Phật luôn hướng con người tới những giá trị nhân văn sâu sắc,

lấy từ bi làm trọng tâm và quan tâm đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân.

Tinh thần từ bi trong Phật giáo không chỉ là hướng tới con người mà còn

hướng tới vạn vật, cây cỏ.

Không giống như các tôn giáo khác, Phật giáo luôn nhấn mạnh các yếu

tố làm chủ bản thân, luôn khuyên răn con người phải biết tự kiềm chế để có

một nếp sống thanh bạch, khước từ dục vọng thấp hèn và nhấn mạnh đến

thuyết Nhân quả, Luân hồi, Nghiệp báo như một lẽ công bằng và khách quan

của cuộc sống. Theo giáo lý Phật giáo, bản thân mỗi người sẽ tự tay tạo ra

cuộc đời của mình ở kiếp sau. Vì thế, những người Phật tử thấm nhuần tư

tưởng đó sẽ luôn cố gắng hướng thiện, sống nhân từ, vị tha. Tất cả những giá

trị đó đã góp phần không nhỏ đối với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên

Việt Nam hiện nay: xây dựng tâm trong, trí sáng và rèn luyện năng lực quản

lý cảm xúc, kiểm soát hành vi trước tác động của ngoại cảnh, góp phần điều

chỉnh các mối quan hệ xã hội tốt đẹp.

Trước tác động của nền kinh tế thị trường với những biểu hiện tiêu cực

về đạo đức, người thanh niên cần thiết phải xây dựng cho mình tâm trong.

Người có tâm trong là người luôn trau dồi những phẩm chất tốt đẹp, ý thức

được những đạo lý, giá trị nhân văn cao cả trong cuộc sống, luôn giữ cho tâm

mình trong sáng, hướng thiện, từ đó khởi nguồn cho những hành động có ích.

Đạo Phật luôn nhấn mạnh đến việc đào luyện tâm hồn con người trong sạch,

phê phán tham, sân, si đang trú ẩn trong mỗi người. Lòng từ bi, xót thương

trước những nỗi khổ của chúng sinh có giá trị góp phần khắc phục tình trạng

vô cảm với những vấn đề của xã hội của một số thanh niên hiện nay.

Một người thanh niên có nhân cách hoàn thiện sẽ không chỉ có một tấm

lòng trong sáng, hướng thiện mà còn phải có một trí tuệ minh mẫn, sáng suốt.

Đạo Phật đề cao việc rèn luyện trí tuệ. Trong Tam học “Giới – Định – Tuệ”

57

thì “Tuệ” đóng vai trò quan trọng nhất, đây là con đường diệt khổ.Vai trò của

trí tuệ là đưa đến sự giải thoát và giác ngộ, chính trí tuệ bằng sự thiền định để

diệt trừ ác nghiệp, nhận rõ đúng sai, biết lắng nghe, chia sẻ, hoài nghi để sống

tốt hơn. Qua những chuẩn mực đạo đức Phật giáo, thanh niên sẽ có ý thức rèn

luyện về trí tuệ để trở thành những người có tri thức, kĩ năng, sáng tạo, giỏi

chuyên môn, cầu thị.

Không chỉ có vậy, đạo đức Phật giáo còn góp phần rèn luyện lối sống

kiên trì, nhẫn nại cho thanh niên. Sự kiên nhẫn sẽ giúp họ có thể vượt qua

những cám dỗ của cuộc đời để tâm hồn luôn được trong sáng, nhanh chóng

loại trừ vô minh và hướng tới sự giải thoát. Ở cuộc sống hiện tại, khi mà

không ít người, nhất là tầng lớp thanh niên có lối sống liều lĩnh, bất chấp

tất cả, thiếu kiên nhẫn, ít khả năng chịu đựng…thì lối sống khiêm nhường,

nhẫn nại của Phật giáo càng có ý nghĩa giáo dục tính cách, lối sống cho bộ

phận này.

2.2.2.2. Đạo đức Phật giáo góp phần điều chỉnh hành vi của thanh niên

trong các mối quan hệ gia đình và xã hội.

Nền kinh tế thị trường cùng bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay đã và đang

đặt ra nhiều vấn đề về đạo đức mà xã hội cần phải quan tâm giải quyết. Nhiều

người chạy theo lợi ích cá nhân mà sẵn sàng gạt bỏ những giá trị đạo đức

truyền thống cũng như những chuẩn mực đạo đức mà xã hội hiện tại đặt ra.

Quan hệ giữa người với người bị đồng tiền chi phối, tất cả trở nên sòng

phẳng, một thứ đạo đức vô tình, dửng dưng dần hình thành, khiến con người

trở nên xa cách nhau hơn. Trong bối cảnh đó, đạo đức Phật giáo với tư tưởng

đề cao tinh thần từ bi, cứu khổ đã có tác dụng định hướng cho thanh niên

không chỉ để tự hoàn thiện mình mà còn góp phần điều chỉnh hành vi của họ

trong các mối quan hệ xã hội sao cho phù hợp và đúng đắn.

Trước hết, đạo đức Phật giáo được thanh niên vận dụng tích cực trong

mối quan hệ với các thành viên trong gia đình, mà đầu tiên là với cha mẹ, tổ

tiên. Phật giáo đề cao đạo hiếu, răn dạy con cái phải có trách nhiệm báo đáp

58

công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ :“(1) Tôi sẽ nuôi dưỡng cha mẹ,

(2) Tôi sẽ làm tròn bổn phận đối với cha mẹ, (3) Tôi sẽ giữ gìn danh dự gia

đình và truyền thống,4) Tôi sẽ bảo vệ tài sản thờ tự và (5) Tôi sẽ lo chu toàn

tang lễ của cha mẹ đúng pháp.” [9,542]. Lòng vị tha, hiếu thảo với cha mẹ, tổ

tiên của thanh niên còn được thể hiện qua Lễ Vu Lan báo hiếu hằng năm. Đây

chính là dịp để con cháu có điều kiện thực hành báo hiếu cha mẹ, ông bà. Từ

suy nghĩ, nhận thức không muốn cha mẹ phải phiền não, con cái sẽ biết sống

tốt hơn.

Tiếp đến là trong quan hệ vợ chồng, Phật giáo đề cao sự chung thủy

(không tà dâm) để giữ phẩm hạnh và hạnh phúc gia đình. Vợ chồng phải luôn

trung thành, thật tâm với nhau. Hiện nay,với thực trạng thanh niên Việt Nam

dần quên đi những giá trị của hạnh phúc gia đình, tình trạng ly hôn đang ở

con số đáng báo động thì những lời răn dặn của Đức Phật lại càng trở nên có

giá trị. Một trong những hoạt động có tác dụng giáo dục đạo đức cho tầng lớp

thanh niên trong mối quan hệ hôn nhân đó là tổ chức lễ Hằng Thuận. Nghi lễ

này dành cho các cặp vợ chồng trước khi họ tiến hành hôn lễ để giáo dục sự

thủy chung, đạo lý gia đình cho họ trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân.

Bài học về giới không tà dâm nhằm giáo dục con người, đặc biệt là tầng lớp

thanh niên một lối sống lành mạnh. Về mặt sức khỏe, bài học này rất cần thiết

và mang đầy tính thời sự đó chính là thực trạng đại dịch AIDS đang trở nên

phổ biến mà nguyên nhân chính là sự lây lan do lối sống bừa bãi trong quan

hệ tình dục.

Trong các mối quan hệ kinh tế, giáo lý Phật giáo đề cập đến “chính

mệnh”, tức là sinh sống bằng nghề nghiệp chân chính. Trong nền kinh tế thị

trường, sự cạnh tranh trở nên quyết liệt, con người có thể vì lợi nhuận mà bất

chấp luân thường đạo lý, bất chấp cả tội ác. Đức Phật khuyên mọi người kiếm

sống bằng chính sức lao động, trí tuệ của mình, chứ không buôn bán gian lận,

buôn bán các loại hàng hóa có hại cho sức khỏe của con người và xã hội. Mỗi

người phải lao động để tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân và gia đình.

59

Hơn ai hết, thanh niên –lực lượng lao động chủ yếu của xã hội sẽ dễ dàng tiếp

thu được tư tưởng này. Rất nhiều thanh niên đã tự định hướng được kế hoạch

nghề nghiệp cho bản thân và bằng chính nỗ lực của mình để phát triển sự

nghiệp.

Trong những năm gần đây, bằng những hoạt động cụ thể, đạo đức Phật

giáo đã góp phần tích cực vào việc giáo dục lối sống cho con người Việt

Nam, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Tại nhiều ngôi chùa trong cả nước,

công tác truyền tải các giá trị đạo đức Phật giáo vào trong thanh niên đang

được thực hiện rất hiệu quả thông qua những câu lạc bộ “Thanh niên Phật tử”,

hay các khóa tu mùa hè, khóa tu mùa Vu Lan,...dành cho học sinh, sinh viên.

Các khóa tu thường được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, từ khóa tu

ngắn hạn: 1 ngày, 2-3 ngày, cho đến khóa tu dài hạn kéo dài một tuần đến một

tháng. Mỗi lần như vậy lại chia thành nhiều đợt, trải dài trong năm. Hiện nay,

tại các chùa có tiến hành hình thức tu học này, hầu hết đều hướng đến việc tổ

chức ngắn hạn, diễn ra hàng tháng, để thuận tiện cho mọi người, nhất là

những người đang phải đi làm, đều có thể thu xếp tham gia. Ở Hà Nội, các

ngôi chùa như Chùa Quán Sứ, chùa Bằng A, chùa Pháp Vân, chùa Đình

Quán,…là những ngôi chùa điển hình trong việc giáo dục đạo đức hiệu quả

cho thanh niên hiện nay.

Những khóa tu, đạo tràng được tổ chức ngày càng nhiều, với quy mô

rộng rãi, từ thành thị cho đến nông thôn. Mục đích tổ chức các khóa tu cho

học sinh, sinh viên là để dạy cho thế hệ trẻ này lòng nhân ái, tính kiên nhẫn,

giúp cho lớp trẻ luôn có suy nghĩ biết ơn mọi người xung quanh, biết quý

trọng những gì mình đang có, nuôi dưỡng lý tưởng để trở thành một công dân

có ích cho xã hội. Đến với các khóa tu, các bạn học sinh, sinh viên sẽ được

nghe những bài thuyết giảng của các sư thầy về đạo lí làm người, về những

lời Phật dạy cũng như bàn luận về các vấn đề nhức nhối trong xã hội có ảnh

hưởng trực tiếp đến giới trẻ. Thông qua đó, những bạn trẻ sẽ có được sự thanh

tịnh trong tâm hồn, giải tỏa được căng thẳng và thu nhận được nhiều tri thức

60

đạo đức. Bạn Nguyễn Văn A, sinh viên năm 2 trường Đại học Công đoàn chia

sẻ về những trải nghiệm của mình trong khóa tu mùa hè năm 2018 tại chùa

Khai Nguyên (Sơn Tây, Hà Nội): “Tại khóa tu mùa hè chúng em phải sống

tách biệt hoàn toàn với những đồ vật công nghệ trong suốt một tuần, nói

không với điện thoại, không mang theo tiền bạc, trang sức. Ở đó, chúng em

phải sống tự lập từ việc ăn uống, nghỉ ngơi, học tập và rèn luyện. Có một số

bạn chưa bao giờ phải động tay đến việc giặt đồ, dọn dẹp nhà cửa, rửa bát đũa

nhưng khi vào khóa tu này thì các bạn đều phải tự mình làm tất cả như các

bạn khác”. Không chỉ rèn về nề nếp, tham gia các khóa tu tham gia khóa tu

các bạn còn được các sư thầy giảng dạy về đạo lý trong cuộc sống, học về luật

Nhân quả, lòng tôn kính Phật, tôn sư trọng đạo và những bài giảng về lịch sử

quê hương đất nước, hiếu kính cha mẹ…Ngoài ra, một số chùa còn mở các

chương trình rèn luyện kỹ năng sống. Các em sẽ được học về trách nhiệm của

người con, sống lành mạnh, cai nghiện game, học kỹ năng cứu hộ, cứu nạn,

kỹ năng sinh tồn, vượt qua khó khăn, học võ, học hát.

Với những ý nghĩa thiết thực như vậy, hiện nay, việc mở các khóa tu tại

các chùa được khá nhiều các bậc phụ huynh đồng tình ủng hộ. Bác Đỗ Văn N

(quận Hoàng Mai, Hà Nội) chia sẻ: “Tôi có một người bạn, hè năm ngoái

cũng đưa con vào chùa tu. Sau một thời gian ngắn tu tại chùa, cháu sống rất

tình cảm với mọi người, tính tình không còn nóng nảy, cáu gắt như trước. Vì

thế, hè năm này, tôi đang có ý định cho con trai tôi tham gia một khóa tu tại

chùa Bằng. Mong rằng đến với khóa tu mùa hè lần này, cháu có thể nhận thức

được chính bản thân mình, bỏ chơi game và tập trung vào việc học hành hơn”.

Ở Việt Nam, khi những môn học về tâm lý, đạo đức và các kĩ năng

mềm chưa được chú trọng thì việc các chùa, tự viện mở khóa tu vào mùa hè

như vậy là cần thiết. Nó không chỉ giúp các bạn trẻ có một cuộc sống lành

mạnh hơn mà còn hướng thiện con người ngay từ khi ở vào độ tuổi đang phát

triển cả về thể chất lẫn tâm hồn.

61

Với phương châm “Đạo pháp- Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, đạo đức

Phật giáo đã góp phần tích cực vào các phong trào phát triển xã hội, bảo vệ

môi trường.

Đạo đức Phật giáo hướng thanh niên đến những công tác từ thiện với

tinh thần cứu khổ, cứu nạn, lá lành đùm lá rách, cứu trợ cho đồng bào thiên

tai,…Những hoạt động này nhằm điều chỉnh tính cách, lối sống , góp phần

hình thành nhân cách của một con người sống có ích cho xã hội.

Không chỉ thể hiện trong quan hệ giữa con người với con người, những

giá trí đạo đức Phật giáo còn được biểu hiện trong mối quan hệ giữa con

người với tự nhiên. Đạo Phật luôn khuyên răn con người quý trọng sự sống

muôn loài, từ con người cho đến các loại động vật, côn trùng, cây cỏ. Thông

qua việc tiếp thu các tư tưởng đạo Phật, con người hình thành được lối sống

thân thiện với tự nhiên, hình thành những thói quen, phong tục trong đời sống

hàng ngày như ăn chay, phóng sinh. Tục ăn chay xuất phát từ quan niệm từ bi

của Phật giáo - vì khi đã trở về với Phật pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới

và trì giới, trong đó giới căn bản là không sát sinh mà trái lại phải thương yêu

mọi loài. Thông thường, người Việt Nam, cả phật tử lẫn người không theo

đạo Phật cũng theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày

mùng Một và ngày Rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày

01, 14, 15 và 30,…Ngày nay, một bộ phận lớn những người trẻ cũng giữ thói

quen ăn chay, vừa để thực hiện giáo lý Phật giáo, lại vừa giúp đảm bảo về sức

khỏe. Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo phật, tục lệ bố thí và phóng

sinh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày Rằm và

mùng Một, người Việt thường hay mua chim, cá, rùa…để đem về chùa chú

nguyện rồi đi phóng sinh.

Trong Ngũ giới, Phật giáo đề ra giới luật không uống rượu. Khi không

uống rượu, con người sẽ giữ được trí tuệ minh mẫn, sáng suốt. Đặc biệt, với

tầng lớp thanh niên – lực lượng nòng cốt cho sự phát triển của xã hội thì việc

tránh xa rượu bia hay các chất gây nghiện là vô cùng cần thiết. Bởi lẽ, nếu

62

như trong một xã hội, lực lượng lao động chính lại rơi vào tình trạng nghiện

ngập thì chắc chắn năng suất lao động của xã hội đó sẽ giảm và sẽ không thể

có sự sáng tạo trong sản xuất. Do đó, khi thực hiện giới luật này, thanh niên

Việt Nam sẽ góp phần không nhỏ lối sống của mình vào các mối quan hệ gia

đình và xã hội.

2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò của đạo đức Phật

giáo đối với giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay

2.3.1. Nâng cao hiểu biết, nhận thức của xã hội về vai trò của đạo đức

Phật giáo trong việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay.

Muốn khai thác một cách đầy đủ và hiệu quả nhất các giá trị đạo đức

tôn giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng thì trước hết Đảng và Nhà

nước cần phải tăng cường công tác truyền giáo nhằm nâng cao hiểu biết, nhận

thức của toàn xã hội về đạo đức tôn giáo, đạo đức Phật giáo cũng như vai trò

của đạo đức tôn giáo và đạo đức Phật giáo. Nghị quyết số 24 – NQ/TW của

Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới ngày

16/10/1990 là bước đánh dấu sự đổi mới trong công tác tôn giáo. Nghị quyết

đã khẳng định: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn

giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có

nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” [1]. Có thể nói, đạo

đức Phật giáo đã có đóng góp quan trọng trong việc hình thành ý thức đạo

đức và hành vi đạo đức của của con người.

Trong giáo dục nhà trường, kiến thức về tôn giáo đã được lồng ghép và

truyền tải qua nhiều môn học như: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng Hồ

Chí Minh, Cơ sở văn hóa Việt Nam,…Đồng thời, môn Tôn giáo học đã được

giảng dạy trong một số trường đại học, cao đẳng thuộc khối xã hội. Từ những

thực tế kể trên, chúng ta có thể thấy, vai trò của tôn giáo ngày càng được

khẳng định trong xã hội.

Việc tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục quan điểm

của Đảng và Nhà nước về tôn giáo sẽ góp phần quan trọng vào việc làm

63

chuyển biến nhận thức của xã hội, và đặc biệt là tầng lớp thanh niên về các

giá trị văn hóa, đạo đức Phật giáo. Một khi đã có những nhận thức đúng đắn

thì chúng ta sẽ có thể đề ra những biện pháp tích cực để truyền tải các giá trị

đạo đức Phật giáo vào việc giáo dục đạo đức thanh niên.

2.3.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý và tăng cường công tác quản lý đối

với các hoạt động và tổ chức của tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.

Bên cạnh những giá trị tích cực mà Phật giáo đem lại thì hiện nay vẫn

còn tồn tại nhiều yếu tố tiêu cực, làm ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi của

người dân. Trước hết phải kể đến là thực trạng mê tín dị đoan ngày càng gia

tăng tại các cơ sở Phật giáo. Một bộ phận không nhỏ người dân mê muội, tin

vào những lời phán vô căn cứ của các ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ,

tin cúng sao giải hạn,…Từ đây, các hoạt động cầu cúng, lễ bái được thực hiện

vô tội vạ, tiêu tốn nhiều tiền của, hiện tượng đốt nhiều vàng mã không những

không mang lại giá trị gì mà còn làm ô nhiễm môi trường. Những kẻ truyền

bá mê tín dựa vào sự sợ hãi của tín chủ để trục lợi cá nhân một cách bất chính.

Từ đó, tình trạng tiền mất tật mang, tâm lý khủng hoảng xuất hiện ngày càng

nhiều. Trong một số chùa chiền có nhiều vị trụ trì chưa thật sự là một tấm

gương đạo đức. Họ lợi dụng lòng tin của Phật tử và những người có nhu cầu

lễ bái để lôi kéo họ vào việc làm sai trái, đi ngược với đạo đức Phật giáo cũng

như các giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam nhằm mục đích chuộc lợi cá

nhân. Trong thời gian gần đây, câu chuyện thỉnh vong chữa bệnh cùng với

những từ mà nhân dân gọi là “oan gia trái chủ” diễn ra ở chùa Ba Vàng (Uông

Bí, Quảng Ninh) đang trở thành vấn đề “nóng”, thu hút được sự quan tâm của

rất nhiều người. Lợi dụng niềm tin mù quáng của người dân, các vị chức sắc

tại chùa Ba Vàng đã tổ chức ra hoạt động thỉnh vong, giải oan để thu lợi lên

đến hàng chục tỷ đồng. Theo như luận điệu của chùa Ba Vàng thì tất cả mọi

người ai cũng có thể bị “vong theo”. Một khi “vong” đã theo thì vật chủ sẽ

luôn bị quấy phá, những người nào nhẹ thì gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống,

còn nặng thì thường xuyên phải chịu ốm đâu, tật bệnh. Để hóa giải những

64

điều này, nhà chùa khuyên những người này phải “trả nợ cho vong”. Tùy theo

nghiệp nặng hay nhẹ mà người bị vong theo phải bỏ ra một số tiền nhất định

để trả nợ dưới hình thức là công đức cho nhà chùa. Như vậy, qua câu chuyện

tại chùa Ba Vàng, chúng ta có thể thấy những hoạt động tiêu cực, đi ngược lại

với tinh thần Phật pháp đang diễn ra ngày càng phổ biến. Những hoạt động

này đã làm suy giảm các giá trị đạo đức tốt đẹp vốn có của Phật giáo, ảnh

hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xã hội.

Ngoài ra, việc tổ chức các sinh hoạt Phật giáo, các lễ hội Phật giáo, việc

in ấn, xuất bản kinh sách, việc sử dụng đất đai ở các chùa, việc xây dựng, sửa

chữa nơi thờ tự, đúc chuông , tạc tượng,…ở nhiều địa phương vẫn còn tùy

tiện. Các sinh hoạt Phật giáo như lễ hội, hành hương, lễ bái…nhìn bề ngoài

vẫn khá nhộn nhịp. Tuy nhiên khi đi vào thực chất thì lại bộc lộ nhiều vấn đề

bất cập, chủ yếu là do trình độ yếu kém về giáo lý, quá coi trọng những nghi

tức rườm rà hay sự sa sút về mặt đạo đức của một số vị chức sắc Phật giáo.

Không chỉ có vậy, trong sinh hoạt Phật giáo còn nảy sinh nhiều hiện tượng

tiêu cực khác làm thương mại hóa Phật giáo như việc đặt quá nhiều hòm công

đức tại các chùa, việc tổ chức các lễ hội mang tính khoa trương, lãng phí, tổ

chức các buổi dâng sao giải hạn và thu tiền của người dân,…

Từ thực tế nói trên , yêu cầu đặt ra là cần phải hoàn thiện hệ thống pháp

luật về tôn giáo, có cơ chế để phát huy đúng và hiệu quả những giá trị văn hóa

tốt đẹp của Phật giáo nhằm phục vụ đời sống tinh thần cho người dân.

Đầu tiên, cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ về

vấn đề tôn giáo. Cần phải nghiên cứu, xây dựng và bổ sung luật về tín ngưỡng

tôn giáo, hoàn thiện các quy định về in ấn, xuất bản, việc tổ chức các lễ

hội…Đặc biệt, cần phải có những quy định riêng về trách nhiệm và nghĩa vụ

của các vị chức sắc Phật giáo. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cần phải

khuyến khích, đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến các giá trị văn hóa, đạo

đức Phật giáo cho đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh

niên thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, phim

65

ảnh,…Một điều cần lưu ý đó là các giá trị được tuyên truyền phải phù hợp

với những giá trị văn hóa, đạo đức mới, gắn với tinh thần yêu nước và lòng

tự hào dân tộc.

Để có thể phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực

trong Phật giáo và đạo đức Phật giáo, chúng ta cần phải thực hiện tốt những

nhiệm vụ sau đây:

- Thứ nhất, cần phải tôn trọng những hoạt động thuần túy mang tính tôn

giáo, làm sao để giữ sự trong sáng, loại bỏ các nghi thức rườm rà.

- Thứ hai, cần khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động

hướng tới thế tục mà Phật giáo đang thực hiện như hoạt động xã hội, giáo

dục, từ thiện, y tế,…đồng thời, các hoạt động này nên được tổ chức theo sự

hướng dẫn của các ban ngành có liên quan.

- Thứ ba, cần phải xử lý nghiêm minh những hoạt động có tính lợi dụng

Phật giáo, dùng Phật giáo làm công cụ để mưu cầu lợi ích cá nhân, mưu đồ

chính trị phản động.

- Thứ tư, cần phải có những chính sách cụ thể đối với các vị chức sắc

Phật giáo bởi vì họ đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện “tốt đời,

đẹp đạo”. Các vị chức sắc có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ học vấn và trình

độ giáo lý cần thiết sẽ có thể giúp cho tín đồ trở thành những người công dân

tốt, phát huy được các giá trị đạo đức tích cực của Phật giáo.

2.3.3. Tăng cường vai trò của các tổ chức, chức sắc Phật giáo trong

công tác tuyên truyền những giá trị của đạo đức Phật giáo đến với thanh

niên Việt Nam hiện nay.

Với tư cách là những cơ quan, tổ chức quản lý và phát triển các hoạt

động Phật giáo, các Ban ngành, Viện chuyên môn của Giáo hội Phật giáo Việt

Nam như Giáo dục, Hoằng pháp, Hướng dẫn Phật tử,… cần phải phát huy

được vai trò của mình trong công tác tuyên truyền những giá trị của đạo đức

Phật giáo đến với quần chúng, trong đó đặc biệt là thế hệ trẻ. Trước hết, các tổ

chức này cần đề ra những kế hoạch tổ chức đào tạo theo hướng mới, tiếp cận

66

những tri thức về sự phát triển của xã hội hiện đại cũng như tìm hiểu tâm lý

của thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay. Một khi đã hiểu được những yếu tố

mà thanh niên cần và những yêu cầu đạo đức mà xã hội mới đang hướng tới

thì các tổ chức Phật giáo mới có thể có những biện pháp hữu hiệu nhất để đưa

những chuẩn mực, quy tắc của đạo đức Phật giáo đi sâu vào cuộc sống hàng

ngày của thế hệ trẻ.

Bên cạnh các tổ chức Phật giáo, những vị chức sắc Phật giáo cũng đóng

một vai trò hết sức quan trọng đối với việc truyền tải giá trị đạo đức Phật giáo

đến tầng lớp thanh niên. Là những người trực tiếp giảng dạy và tuyên truyền

tri thức Phật giáo, các vị chức sắc cần phải được trang bị một lượng kiến thức

vững chãi về Phật học để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tu học của mọi

giới. Bên cạnh đó, họ còn phải không ngừng tu dưỡng về đạo đức bởi họ

chính là những tấm gương cho quần chúng noi theo. Trong những khóa tu do

các chùa tổ chức, thanh thiếu niên, Phật tử tham gia có điều kiện tiếp cận với

môi trường đạo đức dưới sự dẫn dắt của các vị trụ trì. Chính về thế, những vị

trụ trì có đạo đức tốt, thông hiểu giáo lý Phật giáo sẽ là những tấm gương

sáng để các bạn thanh niên học tập và rèn luyện.

Hơn thế nữa, các nhà chùa cần phải bài trừ và loại bỏ những hoạt động

mang tính thương mại hóa Phật giáo hay các hoạt động đi ngược lại với tinh

thần Phật giáo, đề cao vai trò của việc giảng dạy giáo lý, tư tưởng Phật giáo,

đặc biệt cần tổ chức thêm nhiều các khóa tu ngắn ngày cho thanh niên, thu hút

tầng lớp trẻ đến tham gia. Điều này sẽ giúp cho các giá trị đạo đức Phật giáo

sẽ nhanh chóng được lan tỏa đến nhiều người hơn trong xã hội, tạo điều kiện

cho thanh niên rèn luyện và hoàn thiện nhân cách, đạo đức cá nhân sao cho

phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội.

2.3.4. Khuyến khích thanh niên tự giác tìm hiểu và tiếp thu các giá

trị tốt đẹp của đạo đức Phật giáo.

Thanh niên là tầng lớp trẻ, rất năng động và nhiệt tình. Họ luôn muốn

tự khẳng định bản thân mình, chủ động tiếp thu những thành tựu và giá trị văn

67

hóa thời đại. Đạo đức Phật giáo cũng là một bộ phận quan trọng, có tác động

không nhỏ đến việc hình thành nền đạo đức xã hội hiện nay. Chính vì vậy,

thanh niên cần phải chủ động học hỏi và tiếp nhận các giá trị mà tôn giáo này

mang lại.

Thực tế ngày nay, trong số những người đi chùa, rất nhiều người không

có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một cách tự

giác, tích cực trong xã hội và gia đình. Hầu hết mọi người lên chùa thường

quan tâm đến lễ vật và các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục

đầy đủ, đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã chạy đua theo

thị hiếu của mọi người. Họ đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin Phật, Bồ

Tát phù hộ độ trì cho họ đạt được mong muốn của mình như chuyện học

hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình

thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn

mặc, đi đứng, nói năng. Như vậy, mục đích đến chùa của một bộ phận thanh

niên đã đi ngược lại với điều mà giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta

vào. Để có thể thay đổi được thực trạng này, trước hết cần phải dựa vào ý

thức của chính bộ phận thanh niên này. Bản thân thanh niên cần phải chủ

động tìm hiểu về Phật giáo để hiểu được đúng bản chất và mục đích mà tôn

giáo này hướng đến là gì, sau đó sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho

phù hợp nhất.

Thanh niên cần phải tự giác tìm hiểu để nhận thức được các giá trị đạo

đức Phật giáo và chủ động tìm cách tiếp thu. Một trong những cách hiệu quả

nhất đó là thanh niên tự đăng kí tham gia các khóa tu tại các chùa. Những

khóa tu không chỉ tạo ra môi trường lành mạnh để thanh niên giải quyết được

những áp lực trong công việc, học tập mà còn là nơi giúp họ tiếp nhận những

tri thức về đạo đức Phật giáo để từ đó có sự thay đổi trong suy nghĩ, hành

động sao cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội.

68

Tiểu kết chương 2

Trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa,

đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đời sống của nhân dân ngày

càng được nâng cao. Tuy nhiên, một mặt trái của nó vẫn còn tồn tại đó là sự

suy thoái đạo đức trầm trọng của một bộ phận không nhỏ thanh niên, gây ảnh

hưởng trực tiếp đến sự phát triển của xã hội. Sự tiếp thu văn hóa một cách bừa

bãi, không chọn lọc của thế hệ trẻ đã làm sai lệch, hủy hoại các giá trị đạo đức

truyền thống, tạo ra một hồi chuông báo động cho toàn xã hội.

Để khắc phục tình trạng trên nhằm khôi phục lại các giá trị đạo đức

truyền thống và xây dựng những giá trị đạo đức phù hợp với văn hóa hiện đại,

rất nhiều biện pháp đã được đưa ra, đặc biệt phải kể đến đó là việc phát huy

những vai trò tích cực của đạo đức Phật giáo trong giáo dục đạo đức thanh

niên. Với tư cách là một tôn giáo gần gũi, đồng hành lâu dài cùng dân tộc Việt

Nam, Phật giáo có thể dễ dàng đi sâu vào tầng lớp thanh niên. Những giáo lý

đạo đức của Phật giáo có đặc điểm là gắn với niềm tin tôn giáo nên thanh niên

sẽ thực hiện những chuẩn mực đó một cách tự nguyện, tự giác.

Đạo đức Phật giáo góp phần hình thành niềm tin, lý tưởng đạo đức cho

thanh niên, giúp thanh niên hoàn thiện đạo đức cá nhân, điều chỉnh hành vi

của mình trong gia đình và trong các mối quan hệ xã hội theo hướng tích cực.

Phật giáo hướng thế hệ trẻ tới lối sống lành mạnh, biết cảm thông, chia sẻ,

biết sống vì người khác, làm nhiều điều tốt cho xã hội. Đây chính là động lực

to lớn thúc đẩy việc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp với bối cảnh đất

nước hiện tại.

69

KẾT LUẬN

Trải qua gần 2000 năm từ khi du nhập đến nay, Phật giáo đã trở thành

một bộ phận văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong suốt quá trình tồn tại và

phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã xây dựng nên một hệ thống đạo đức với

những quy tắc, chuẩn mực phù hợp với truyền thống văn hóa cũng như những

đòi hỏi của một nền đạo đức trong thời đại mới – thời đại kinh tế thị trường và

hội nhập quốc tế. Đạo đức Phật giáo thực hiện thông qua tình cảm, tín

ngưỡng, niềm tin vào giáo lý của con người Việt Nam. Nhờ tuân thủ những

điều răn dạy về đạo đức của Phật giáo, người Việt đã sống và ứng xử đúng

đạo lý, góp phần làm cho xã hội ổn định và ngày càng trở nên tốt đẹp hơn.

Thông qua những giáo luật, giáo lý và các giá trị, chuẩn mực, đạo đức

Phật giáo đã đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam một cách dễ dàng. Sự

ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đời sống của người Việt không chỉ là

giáo lý qua kinh kệ, sách vở mà còn đi sâu vào đời sống thực tiễn, trở thành

phong tục, thói quem của dân tộc, của mọi gia đình. Người Việt Nam truyền

thống vốn có tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, phụng dưỡng

cha mẹ, tri ân những người có công với cộng đồng, làm điều thiện…Những

điều này lại hoàn toàn tương đồng với luân lý đạo đức cụ thể mà Phật giáo đã

truyền dạy. Chính vì vây, có thể nói, đạo đức Phật giáo đã thực sự đi vào cuộc

sống, đi vào tâm linh mỗi con người. Trong suốt chiều dài của lịch sử, đạo

đức Phật giáo đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc hình thành nên các

quan niệm chuẩn mực, hệ giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam truyền thống

và hiện đại.

Ngày này, khi đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, phát triển nền kinh tế thị trường, các giá trị đạo đức của xã hội cũng có

nhiều biến đổi cùng với sự thay đổi của nền kinh tế. Bên cạnh những ảnh

hưởng tích cực thì nền kinh tế thị trường cũng gây ra nhiều mặt trái, tác động

tiêu cực đến các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống và hiện đại. Lối

70

sống coi trọng đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân đã làm cho một bộ phận cư dân

trong xã hội có sự suy thoái về mặt đạo đức, đặc biệt tình trạng này lại diễn ra

chủ yếu trong tầng lớp thanh niên – tầng lớp chủ nhân tương lai của đất nước,

thế hệ góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì

vậy, hơn lúc nào hết, việc giáo dục đạo đức thanh niên đang trở thành một vấn

đề cấp thiết, được toàn xã hội quan tâm.

Việc xây dựng nên những giá trị đạo đức cho thanh niên cần phải dựa

trên những giá trị đạo đức truyền thống và hiện đại, đặc biệt phải kể đến đó là

đạo đức Phật giáo. Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng

thiện, đạo đức Phật giáo dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hình thành ý

thức đạo đức, hoàn thiện nhân cách đạo đức, điều chỉnh các hành vi đạo đức

của con người và hướng họ đến lối sống vị tha, bình đẳng, bác ái. Nhìn vào

thực tế, chúng ta có thể dễ dàng thấy được sự phù hợp của đạo đức Phật giáo

với đạo đức lẽ sống của con người Việt Nam và nó đã có những đóng góp tích

cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế

thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.

Những giá trị tích cực đó của đạo đức Phật giáo càng được nhân lên với

những hành động cụ thể như giữ tròn đạo hiếu, quyên góp, ủng hộ, giúp đỡ

người nghèo, người gặp khó khăn hay những người ở vùng gặp thiên tai; làm

từ thiện, bảo vệ môi trường,…Những hành động này có tác dụng giáo hóa con

người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước cám dỗ của cuộc đời, khích lệ họ

quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân

bản, coi trọng thiên nhiên…Bên cạnh đó, lối sống Phật giáo nêu cao tinh thần

“cư trần lạc đạo” tin vào “nghiệp báo, luân hồi” đã góp phần xây dựng lối sống

có trách nhiệm với một ý thức không tham quyền , không chạy theo những lợi

ích vật chất, sống thanh cao tự tại. Lối sống này giúp họ có được một cuộc

sống thanh thản, không bị chi phối bởi lòng tham và sự si mê. Như vậy, đạo

đức Phật giáo đã đóng góp những giá trị văn hóa tích cực vào việc xây dựng

đạo đức lối sống cho con người, nhất là cho tầng lớp trẻ hiện nay.

71

Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tích cực thì đạo đức Phật giáo vẫn

còn tồn tại một số mặt trái như tình trạng mê tín dị đoan, thương mại hóa Phật

giáo,…Trong bối cảnh đó, muốn phát huy được những giá trị tích cực và hạn

chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo trong việc xây dựng và hoàn

thiện đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay thì cần thiết phải có một hệ

thống cơ chế pháp lý cùng những giải pháp đồng bộ từ Đảng và Nhà nước.

Đặc biệt, để các giá trị tốt đẹp được lan tỏa sâu rộng trong tầng lớp thanh niên

thì trước hết cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền về những giá trị của

Phật giáo và đạo đức Phật giáo.

72

PHỤ LỤC

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 1

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Người thực hiện

Nguyễn Thị Thư

Khóa K60 Triết Học – Chuyên ngành Tôn giáo

Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn

2. Người được phỏng vấn

Nguyễn Văn A (sinh viên năm 2 trường Đại học Công đoàn)

3. Địa điểm phỏng vấn

Số 262 Nguyễn Trãi, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân,

Thành phố Hà Nội

4. Thời gian phỏng vấn

Ngày 7 tháng 3 năm 2019

5. Chủ đề phỏng vấn

“Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức

cho thanh niên Việt Nam hiện nay”

II. NỘI DUNG

Hỏi: Bạn đã từng tham gia một khóa tu nào ở chùa chưa ?

Trả lời: Em đã từng tham gia một khóa tu mùa hè tại chùa Khai

Nguyên ở Sơn Tây, Hà Nội vào khoảng giữa tháng 6 năm 2018. Đó cũng là

lần đầu tiên em tham gia một khóa tu và đợt đó thì em đi cùng với một số

người bạn đại học.

Hỏi: Bạn biết đến khóa tu này từ phương tiện nào và tại sao bạn lại

quyết định tham gia?

Trả lời: Trước đây thì em cũng đã nghe qua và biết được về các khóa

tu mùa hè ở các chùa thông qua Facebook, ti vi những cũng chưa thử tham

gia lần nào. Đến đợt hè năm ngoái thì trong nhóm bạn của em có một bạn

73

quê ở Sơn Tây, bạn ấy có rủ chúng em về tham gia khóa tu ở chùa Khai

Nguyên. Em thấy nó khá thú vị và cũng mong trải nghiệm một lần nên đã

đồng ý tham gia.

Hỏi: Bạn có thể chia sẻ cho mình về những trải nghiệm mà bạn đã trải

qua trong thời gian tham gia khóa tu không?

Trả lời: Tại khóa tu mùa hè, chúng em phải sống tách biệt hoàn toàn

với những đồ vật công nghệ trong suốt một tuần, nói không với điện thoại,

không mang theo tiền bạc, trang sức. Ở đó, chúng em phải sống tự lập từ việc

ăn uống, nghỉ ngơi, học tập và rèn luyện. Có một số bạn chưa bao giờ phải

động tay đến việc giặt đồ, dọn dẹp nhà cửa, rửa bát đũa nhưng khi vào khóa tu

này thì các bạn đều phải tự mình làm tất cả như các bạn khác

Hỏi: Thông qua khóa tu, bạn đã tiếp thu được những gì?

Trả lời: Thông qua khóa tu thì em và các bạn đã hiểu được một số tri

thức và giáo lý của đạo Phật thông qua các bài giảng của sư trụ trì. Bên cạnh

đó, chúng em cũng được trao đổi về một số vấn đề “nóng” trong xã hội. Đây

là cơ hội tốt để chúng em tiếp thu được những bài học tốt và từ đó áp dụng

vào cuộc sống hàng ngày. Hơn nữa, tham gia khóa tu, em còn có thể có thêm

nhiều người bạn mới nữa. Em nghĩ là vào đợt nghỉ hè tới đây, em sẽ đăng kí

tham gia một khóa tu nữa.

74

PHỤ LỤC

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 2

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Người thực hiện

Nguyễn Thị Thư

Khóa K60 Triết Học – Chuyên ngành Tôn giáo

Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn

2. Người được phỏng vấn

Đỗ Văn N (45 tuổi, nghề nghiệp: kĩ sư xây dựng)

3. Địa điểm phỏng vấn

Ngõ 123 Bằng Liệt, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Thành phố

Hà Nội .

4. Thời gian phỏng vấn

Ngày 7 tháng 3 năm 2019

5. Chủ đề phỏng vấn

“Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức

cho thanh niên Việt Nam hiện nay”

II. NỘI DUNG

Hỏi: Bác đã bao giờ nghe hay biết đến các khóa tu mùa hè cho học

sinh, sinh viên chưa?

Trả lời: Có chứ, tôi biết. Tôi có một người bạn, hè năm ngoái cũng

đưa con vào chùa tu. Sau một thời gian ngắn tu tại chùa, cháu sống rất tình

cảm với mọi người, tính tình không còn nóng nảy, cáu gắt như trước. Vì thế,

hè năm này, tôi cũng đang có ý định cho con trai tôi tham gia một khóa tu tại

chùa Bằng. Mong rằng đến với khóa tu mùa hè lần này, cháu có thể nhận thức

được chính bản thân mình, bỏ chơi game và tập trung vào việc học hành hơn.

Hỏi: Theo bác thì các khóa tu này có ý nghĩa gì đối với việc giáo dục

đạo đức cho học sinh, sinh viên?

75

Trả lời: Theo tôi thì các khóa tu này là rất hữu ích. Thông qua các

khóa tu, các con sẽ hiểu được những giá trị đạo đức xã hội, từ đó biết điều

chỉnh hành vi và cách ứng xử của mình trong cuộc sống hàng ngày. Không

chỉ thế, các con được học giáo lý nhà Phật thì sẽ có được tư duy hướng thiện

và hình thành được lối sống tích cực, lành mạnh hơn.

76

PHỤ LỤC

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 3

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Người thực hiện

Nguyễn Thị Thư

Khóa K60 Triết Học – Chuyên ngành Tôn giáo

Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn

2. Người được phỏng vấn

Nguyễn Thanh H (40 tuổi, nghề nghiệp: công nhân may)

3. Địa điểm phỏng vấn

Số 40 Chính Kinh, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Thành phố

Hà Nội

4. Thời gian phỏng vấn

Ngày 7 tháng 3 năm 2019

5. Chủ đề phỏng vấn

“Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức

cho thanh niên Việt Nam hiện nay”

II. NỘI DUNG

Hỏi: Cô đã từng nghe hay biết về các khóa tu cho học sinh, sinh viên,

thanh niên ở chùa chưa?

Trả lời: Cô có nghe đến các khóa tu rồi. Ở chỗ làm của cô có mấy cháu

thanh niên cũng hay tham gia khóa tu ở chùa.

Hỏi: Theo cô thì các khóa tu này có ý nghĩa gì đối với việc giáo dục

đạo đức cho thanh niên?

Trả lời: Vì cô chưa tham gia bao giờ nên cô cũng không biết chắc chắn

là các khóa tu đó có gì. Nhưng qua lời kể của mấy cháu ở chỗ làm thì cô thấy

tham gia các khóa tu này rất tốt. Các cháu vào đấy vừa được học giáo lý nhà

77

Phật, lại vừa được tham gia các hoạt động kĩ năng sống nên có điều kiện tốt

để rèn luyện đạo đức và lối sống.

Hỏi: Cô có ý định cho con mình tham dự các khóa tu ở chùa không?

Trả lời: Hiện tại thì con cô nó vẫn đang học cấp 3 ở dưới quê. Đợi vài

năm nữa, nó lên đây học Đại học, nếu có thời gian và cơ hội thì cô cũng sẽ

cho nó tham gia các khóa tu để vừa coi như là có trải nghiệm mới, lại vừa học

hỏi được nhiều kiến thức hơn và rèn luyện được đạo đức.

78

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU SỐ 4

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Người thực hiện

Nguyễn Thị Thư

Khóa K60 Triết Học – Chuyên ngành Tôn giáo

Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn

2. Người được phỏng vấn

Nguyễn Văn H (65 tuổi, nghề nghiệp: cán bộ đã về hưu)

3. Địa điểm phỏng vấn

Số 20 Nguyễn Lương Bằng, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội

4. Thời gian phỏng vấn

Ngày 7 tháng 3 năm 2019

5. Chủ đề phỏng vấn

“Đạo đức Phật giáo và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức

cho thanh niên Việt Nam hiện nay”

II. NỘI DUNG

Hỏi: Ông đã từng biết đến các khóa tu cho thanh niên được tổ chức tại

các chùa chưa ạ?

Trả lời: Có chứ. Mấy đứa cháu ông tham gia mấy cái khóa tu ấy suốt

mà. Đợt đầu năm vừa rồi, chúng nó cũng mới đi cái khóa tu ở chùa Bằng.

Ông thấy mấy đứa thanh niên hay đi khóa tu vào dịp hè với cả ngày lễ Vu

Lan.

Hỏi: Ông đánh giá như thế nào về các giá trị mà các khóa tu đem lại

cho thanh niên?

Trả lời: Theo ông thấy thì các khóa tu này rất bổ ích. Mấy đứa cháu

ông về hay kể ở đấy chúng nó phải làm gì, được học những gì. Bình thường ở

nhà đấy, cứ mỗi đứa một cái điện thoại, một cái máy tính, chẳng thấy chúng

nó nói chuyện với nhau mấy, thế mà đến các khóa tu thì phải bỏ hết, không

79

được dùng mấy đồ đó. Chính vì thế mà bọn trẻ lại có cơ hội kết bạn nhiều

hơn, trao đổi về học tập với nhau nữa. Không chỉ học giáo lý nhà Phật, các

cháu còn được học các kĩ năng giao tiếp hằng ngày nên sẽ có thể hình thành

nhận thức đạo đức và lối sống lành mạnh hơn. Ông nghĩ là các cháu nên

thường xuyên tham gia mấy khóa tu như vậy.

80

PHỤ LỤC

Khóa tu mùa hè năm 2018 cho học sinh, sinh viên tại chùa Bằng (Hoàng Mai,

Hà Nội) mang tên “Nguyện theo Phật hạnh” đã thu hút 500 khóa sinh tham gia

300 khóa sinh tham dự khóa tu đón mừng năm mới Kỉ Hợi (2019)

tại chùa Bằng

81

Một số cặp đôi trẻ tổ chức lễ Hằng Thuận tại các chùa

Các bạn trẻ thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ trong ngày lễ Vu Lan

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 24

– NQ/TW của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình

hình mới ngày 16/10/1990.

2. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 25-

NQ/TW ngày 25-7-2008: Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa.

3. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (1998), Tài liệu nghiên cứu Nghị

quyết Trung ương 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia.

4. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở

châu thổ Bắc Bộ, Nhà xuất bản Thông tin, Hà Nội.

5. Thích Minh Châu (1995), Đạo đức học Phật giáo, Nhà xuất bản Viện

nghiên cứu Phật học Việt Nam.

6. Thích Minh Châu (2002), Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người,

Nhà xuất bản Tôn giáo Hà Nội.

7. Thích Minh Châu (1993), Năm giới, một nếp sống lành mạnh, an lạc,

hạnh phúc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thiền viện Vạn Hạnh xuất bản

8. Thích Minh Châu (dịch), Kinh Pháp cú, Thiền viện Vạn Hạnh ấn hành

9. Thích Minh Châu dịch (1991), Trường Bộ Kinh II, Nhà xuất bản Viện

nghiên cứu Phật học Việt Nam.

10. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh ( 1969)

11. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nhà xuất

bản Hà Nội.

12. Dương Văn Duyên (2013), Giáo trình Đạo đức học đại cương, Nhà xuất

bản Đại học quốc gia Hà Nội.

13. Dương Tự Đam, Từ điển Thanh niên Việt Nam giản yếu, Nhà xuất bản

Giáo dục Việt Nam.

83

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc

lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc

lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội

16. Nguyễn Thị Điệp (2010), Quan niệm về Nghiệp của Phật giáo và ý

nghĩa của nó trong việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam hiện nay,

Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

17. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1992), Phật học phổ thông, Nhà xuất bản

Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Giáo trình Đạo đức học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 8

19. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nhà xuất

bản Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản

Khoa học xã hội, Hà Nội.

21. Phạm Duy Hinh (2006), Triết học Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản

Văn hóa thông tin Hà Nội.

22. Thích Thiện Hoa (1994), Bổn phận của Phật tử tại gia, Thành hội Phật

giáo Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Tạ Chí Hồng (2003), Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đời

sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học,

Học việc chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

24. Nguyễn Phương Hồng (1997), Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia.

25. Kalinin (1980), Về con người phát triển toàn diện, Nhà xuất bản Thanh

niên, Hà Nội.

26. Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt

Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội

84

27. Đặng Thị Lan (2002), Đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống Việt

Nam, Tạp chí khoa học (Khoa học Xã hội và Nhân văn), Đại học Quốc

gia Hà Nội,T.XVIII, số 2.

28. Đặng Thị Lan (2002), Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến việc giáo

dục đạo đức con người Việt Nam hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận,

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – Phân viện Hà Nội, số 11.

29. Nguyễn Lang (1994) (3 tập), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nhà xuất bản

Văn học.

30. V.I. Lênin (1979) toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội.

31. Thích Duy Lực, Kinh Lăng già, Nhà xuất bản Tôn giáo

32. C. Mác – Ph. Ănghen (1994), Toàn tập, Tập 20. Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia Hà Nội

33. C. Mác – Ph. Ănghen (1982), Bàn về thanh niên, Nhà xuất bản Thanh niên.

34. Hồ Chí Minh (1980), Về giáo dục thanh niên, Nhà xuất bản thanh niên.

35. Hồ Chí Minh (1998), Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Nhà xuất bản

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

36. Hoàng Văn Nam (2010), Ảnh hưởng của giới luật Phật giáo trong giáo

dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

37. Nguyễn Thị Nga (2001), Góp phần tìm hiểu quan hệ giữa tôn giáo và

đạo đức, Nghiên cứu tôn giáo (4), tr. 26- 30.

38. Phạm Đình Nghiệp (1999), Tìm hiểu một số thuật ngữ về công tác thanh

niên, Nhà xuất bản Thanh niên.

39. Trương Văn Phước (2003), Đạo đức sinh viên trong quá trình chuyển

sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam –

thực trạng, vấn đề và giải pháp: Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt,

Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Trí Quang (dịch) (1998), Kinh Bồ tát giới, Nhà xuất bản Thành phố Hồ

Chí Minh

85

41. Thích Minh Thành (1993), Giáo trình luật học cơ bản, Nhà xuất bản

Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh.

42. Lê Mạnh Thát (1999), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Thành

phố Hồ Chí Minh.

43. Lê Sỹ Thắng (1997) (2 tập), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nhà xuất bản

Khoa học Xã hội.

44. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất

bản Thành phố Hồ Chí Minh.

45. Thích Mật Thể (2001), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nhà xuất bản Tôn

giáo Hà Nội.

46. Nguyễn Tài Thư (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

47. Trần Thị Hoài Thương (2016), Giáo dục Phật giáo và ý nghĩa của nó

đối với giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ

triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

48. Ngô Văn Trân (2012), Đạo đức Phật giáo với công tác giáo dục thanh

thiếu niên tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế hiện nay, Luận án tiến sĩ,

Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.

49. Lê Hữu Tuấn (1999), Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đối với đạo đức

truyền thống Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 4.

50. Thích Minh Tuệ (1992), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật

giáo Thành phố Hồ Chí Minh.

51. Từ điển chính trị vắn tắt, Nxb. Tiến bộ, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,

1988, tr.115

52. Từ điển triết học, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Maxcơva, 1986.

53. Viện nghiên cứu tôn giáo (1994), Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nhà

xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội.

54. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Giáo dục Phật giáo trong thời

hiện đại, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.

55. Nguyễn Hữu Vui (1995), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nhà xuất

bản Chính trị Quốc gia Hà Nội.

86