TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== ======

ĐÀO THỊ KIM HUẾ

GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG MINH QUYÊN THI TẬP CỦA NGUYỄN HÀNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2018

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

ĐÀO THỊ KIM HUẾ

GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT

TRONG MINH QUYÊN THI TẬP

CỦA NGUYỄN HÀNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. AN THỊ THÚY

HÀ NỘI, 2018

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới cô

giáo An Thị Thúy – ngƣời thầy tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn và chỉ bảo cho tôi

trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.

Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Ngữ văn,

các thầy cô trong Tổ Văn học Việt Nam của trƣờng ĐHSP Hà Nội 2 đã tận

tình truyền đạt kiến thức trong những năm tôi học tập và nghiên cứu.

Nhân đây, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ,

động viên tôi hoàn thành khóa luận.

Hà Nội, tháng 5 năm 2018

Sinh viên thực hiện

Đào Thị Kim Huế

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan : Khoá luận tốt nghiệp với đề tài Giá trị nội dung và

giá trị nghệ thuật trong Minh Quyên thi tập của Nguyễn Hành là công trình

nghiên cứu của cá nhân tôi. Kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề

tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Những thông tin

tham khảo trong khóa luận đều đƣợc trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng.

Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình!

Hà Nội, tháng 5 năm 2018

Sinh viên thực hiện

Đào Thị Kim Huế

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..... ................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 3

4. Đối tƣợng nghiên cứu .......................................................................................... 3

5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 3

6. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 3

7. Đóng góp của khóa luận ....................................................................................... 4

8. Cấu trúc của khóa luận ......................................................................................... 4

NỘI DUNG ..................................................................................................................... 5

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................... 5

1.1.Tác giả Nguyễn hành ......................................................................................... 5

1.1.1.Thời đại .......................................................................................................... 5

1.1.2. Cuộc đời và con người ................................................................................... 8

1.2. Sự nghiệp sáng tác .......................................................................................... 13

Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................. 14

2.1. Nỗi niềm đau xót trƣớc cuộc sống khốn cùng của nhân dân .............................. 16

2.2. Cuộc sống nghèo khổ, cô đơn của nhà Nho nơi đất khách quê ngƣời ................. 23

2.3. Phẩm chất tốt đẹp của nhà Nho ........................................................................ 35

2.4. Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nƣớc .......................................................... 38

Tiểu kết chƣơng 2. ....................................................................................................... 45

Chƣơng 3. MINH QUYÊN THI TẬP NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ... 46

Chƣơng 2. MINH QUYÊN THI TẬP NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ....... 15

3.1. Hình tƣợng thơ ............................................................................................. 46

3.2. Ngôn ngữ thơ ................................................................................................ 49

3.3.Thể thơ ......................................................................................................... 53

3.4. Giọng điệu ................................................................................................... 54

Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................................ 56

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 57

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1.Lí do chọn đề tài

Nguyễn Hành (1771 - 1824) là ngƣời hiểu biết rộng, thông minh, có tài

văn chƣơng, ông đƣợc ngƣời đời tôn vinh là một trong “An Nam ngũ tuyệt”.

Sự nghiệp của ông để lại bao gồm hai tập thơ chữ Hán là Quan Đông hải

(Trông bể Đông) và Minh quyên thi tập (Tiếng kêu của chim quyên). Trong

đó tập thơ Minh quyên thi tập là tập thơ chứa nhiều nội dung tƣ tƣởng và nghệ

thuật đặc sắc hơn. Nguyễn Hành sống vào nửa sau thế kỉ XVIII đến đầu thế

kỷ XIX, đây là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động. Đó là tan hoang, sụp đổ

liên tiếp của hai triều đại, nội chiến xảy ra triền miên, và bùng lên mạnh mẽ

hơn bao giờ hết. Hàng loạt các Nho sĩ – trí thức hoặc mỗi ngƣời thờ một chúa,

hoặc băn khoăn trƣớc thời cuộc, nhân dân lâm vào khốn cùng, cảnh lƣu lạc,

chia ly... Có thể nói, Nguyễn Hành là nhà thơ suốt đời sống cuộc sống đói

nghèo ở quê nhà, hoặc lƣu lạc ở Thăng Long; cho nên ta thấy những bài thơ

hay nhất, có giá trị nhất là những bài ông nói tới hiện thực xã hội. Hiện thực

xã hội qua cái nhìn của nhà thơ hiện lên rất chân thực, đó là cuộc sống nghèo

khổ, đói kém, bệnh dịch tràn lan, vì thế mà dân chúng phải ly tán, phiêu bạt

khắp nơi. Thơ ông thể hiện sự phê phán, tố cáo hiện thực đƣơng thời một cách

sắc nét, chân thực.

Do nhiều yếu tố khách quan nên sự nghiệp văn thơ của ông vẫn chƣa đƣợc

quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống. Tuy không đƣợc giảng dạy trong

chƣơng trình phổ thông, nhƣng Nguyễn Hành cũng là một trong những tác giả

đƣợc nhắc đến rất nhiều ở giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.

Vì vậy, tìm hiểu Giá trị nội dung và nghệ thuật của Minh quyên thi tập sẽ

giúp chúng ta hiểu rõ hơn gƣơng mặt của một trong những Ngũ tuyệt xứ An

Nam. Đồng thời tập thơ còn cho ta những hiểu biết chân thực về tâm sự, về

cuộc đời của Nguyễn Hành và cả về thời đại ông sống.

1

2. Lịch sử vấn đề

Năm 1984, nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc, trong bộ “Từ điển văn học” (nhà

xuất bản Khoa học Xã hội), đề cập đến Nguyễn Hành với những chi tiết khá

đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp và tƣ tƣởng của ông.

Cuốn “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”, in lần thứ tƣ (1997), Nguyễn

Thắng, Nguyễn Bá Thế, NXB Văn hóa (Hà Nội), (tr.553), đề cập một cách

giản lƣợc nhất về thân thế, cuộc đời của Nguyễn Hành.

Năm 1999, “Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ thứ XVIII, nửa đầu thế kỷ

XIX”, Đặng Lê Thanh, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận, có điểm qua vài nét về

Nguyễn Hành và thơ văn của ông.

Năm 2009, cuốn “Từ điển nhân vật xứ Nghệ”, nhà xuất bản Tổng hợp

TP.HCM, Ninh Viết Giao giới thiệu về Nguyễn Hành và các tác phẩm.

Tác giả Phạm Nhật Khang (2012), Tìm hiểu Minh quyên thi tập của

Nguyễn Hành – một trong “An Nam ngũ tuyệt”, Khóa luận tốt nghiệp,

Trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.

Cuốn tuyển Thơ Nguyễn Hành do tác giả Mai Quốc Liên chủ biên (2015),

nhận xét về lời Tựa của Minh quyên thi tập tác giả có viết: “Kêu thương ai

oán đó trong thơ Nguyễn Hành, bây giờ ta đã hiểu nguyên do. Một là, do

“thời buổi suy loạn, dân đen ly tán oán hận...”, hai là, ông đau đớn nhớ tiếc

triều Lê cũ, triều mà ông cha ông vô cùng gắn bó và hiển quý. Chuyện “đời

suy loạn”, “dân đen ly tán oán hận” là chuyện của chính cuộc đời Nguyễn

Hành. Xuất thân từ hào môn vọng tộc triểu Lê – Trịnh, Lê – Trịnh đổ xuống

làm “bách tính”, ăn nhờ, ở đậu, sống tha phương. Con đông không kế sinh

nhai “thuở trước là công tử giàu sang, hôm nay là gã học trò già nua”[9,tr8].

Có thể nói, tác giả bài viết đã khái quát những nội dung chính Minh quyên thi

tập. Đó là thời đại đầy biến động, loạn lạc, dân đen ly tán tha phƣơng lánh

nạn; và còn là sự đau đớn nhớ tiếc triều Lê cũ của Nguyễn Hành.

2

Ngoài ra, còn có bài viết của tác giả Nguyễn Thị Huấn (2017), Cảm hứng

thế sự trong thơ Nguyễn Hành, Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà

Nội.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đã mang đến

những nhận định khái quát về Nguyễn Hành – một nhà Nho yêu nƣớc, thƣơng

dân, có nhân cách cao đẹp, bản lĩnh hơn ngƣời, luôn khao khát đƣợc giúp

nhân dân, lo đƣợc cho nhân dân qua cơn đói nghèo, khốn khổ, bệnh tật.

Trên tinh thần tiếp thu và kế thừa những công trình nghiên cứu của các nhà

nghiên cứu đi trƣớc, đồng thời dựa vào nền văn hóa tƣ tƣởng đƣơng thời;

chúng tôi mong muốn đƣa ra những phát hiện thuyết phục và góp phần nghiên

cứu Minh quyên thi tập đầy đủ và sâu sắc hơn.

3.Mục đích nghiên cứu

- Làm sáng tỏ vị trí văn học sử và những đóng góp của thơ ca Nguyễn Hành.

- Dựng lại chân dung tinh thần, cũng nhƣ con đƣờng đời của Nguyễn

Hành, cùng những vấn đề nhân sinh trong thời đại ông sống.

4. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu chính của khóa luận là tuyển Thơ Nguyễn

Hành.gồm 222 bài thơ, do Mai Quốc Liên chủ biên dịch, Nguyễn Thị Hằng

biên khảo, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học ấn hành năm 2015.

5. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Minh quyên thi tập của

Nguyễn Hành, chúng tôi chỉ khảo sát nội dung tiêu biểu và nghệ thuật đặc sắc

trong Minh quyên thi tập của Nguyễn Hành..

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã thực hiện các phƣơng pháp sau:

- Phƣơng pháp phân tích

- Phƣơng pháp lịch sử - xã hội.

3

- Phƣơng pháp tiểu sử học sử .

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phƣơng pháp, kỹ năng khác để

hỗ trợ cho quá trình thực hiện đề tài khóa luận: Phƣơng pháp so sánh, đối

chiếu, giải thích, kỹ năng đọc – hiểu – cảm nhận... Chúng tôi vận dụng phối

hợp tất cả các phƣơng pháp để đạt hiểu quả cao nhất trong khóa luận.

7. Đóng góp của khóa luận

- Trên cơ sở nghiên cứu khuynh hƣớng thơ hiện thực, khóa luận làm

sáng tỏ những đặc điểm nổi bật về giá trị nội dung và nghệ thuật trong Minh

quyên thi tập của Nguyễn Hành.

- Qua so sánh đối chiếu với một số sáng tác cùng thời, khóa luận góp

phần dựng lại diện mạo độc đáo, riêng biệt của Nguyễn Hành và khẳng định

vị trí văn học sử quan trọng của tác giả.

- Cuối cùng, khóa luận góp thêm một góc nhìn để hiểu sâu hơn về thơ

trung đại Việt Nam nói chung, tập thơ Minh quyên thi tập nói riêng trong thơ trung đại.

8. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung

chính của luận văn gồm 3 chƣơng:

- Chƣơng 1: Những vấn đề chung

- Chƣơng 2: Minh quyên thi tập nhìn từ phƣơng diện nội dung

- Chƣơng 3: Minh quyên thi tập nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật

4

NỘI DUNG

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1.Tác giả Nguyễn Hành

1.1.1.Thời đại

Về mặt lý luận văn học cho thấy, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của

một tác giả luôn có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. Có thể nói,

cuộc đời chính là nền tảng cho sự nghiệp sáng tác. Không chỉ vậy, ta thấy lịch

sử khoa học không những nghiên cứu ngôn ngữ trong từng giai đoạn, mà còn

cung cấp cho ngƣời đọc những đóng góp quan trọng về phƣơng diện cuộc đời

cũng nhƣ sự nghiệp sáng tác của một tác gia trong thời đại. Đi cùng lịc sử, tác

phẩm văn chƣơng luôn chịu sự chọn lọc, thử thách khắc nghiệt của thời gian;

vì thế nhiều tác phẩm rơi vào quên lãng. Dƣờng nhƣ ngƣợc với quy luật ấy,

đã có những tác giả và tác phẩm lại không ngừng đƣợc bàn luận qua các thời

kì lịch sử. Chính bởi cuộc đời, tác phẩm của họ mang nhiều tâm tƣ sâu sắc,

đồng thời quy tụ đƣợc nhiều vấn đề xã hội. Có thể khẳng định rằng, tác giả

Nguyễn Hành cùng các tác phẩm của ông là một minh chứng điển hình cho

việc tái hiện chân thực bức tranh hiện thực xã hội đƣơng thời.

Thời đại theo nghĩa rộng, thời đại là một khái niệm chính trị – kinh tế

– xã hội khái quát tiến trình phát triển của lịch sử loài ngƣời, là thời gian rất

dài để chỉ sự phân kỳ lịch sử xã hội và để phân biệt những nấc thang phát

triển của hình thái kinh tế xã hội mà theo đó nấc thang cao hơn, tiến bộ hơn sẽ

phủ định nấc thang cũ, lạc hậu để mở đƣờng cho sự phát triển một thời đại

mới. Theo nghĩa hẹp thì thời đại đƣợc hiểu là khái niệm về thời gian để chỉ xu

thế và nội dung phát triển trên các phƣơng diện kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ

thuật, công nghệ… Có thể nói, thời đại chính là cơ sở, là nền tảng bồi đắp nên

những tâm hồn lớn, những nhà văn, nhà thơ lớn. Mặt khác, nhà văn, nhà thơ

phải biết đời sống xã hội của thời đại, phải cảm nhận đƣợc những nỗi đau đớn

5

của con ngƣời trong thời đại, phải sống, thấu hiểu nhân tình thế thái, hiểu

những thăng trầm lịch sử, những cuộc bể dâu…để thấu cảm và biến nó thành

nguồn cảm hứng trong những đứa con tinh thần của mình.

Nguyễn Hành sinh năm 1771, mất năm 1824. Ông sống vào khoảng

những năm cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là một giai đoạn đầy

những sự biến động đến kinh thiên động địa, có thể nói là bi thƣơng nhất thời

trung đại. Trong cuộc đời mình, Nguyễn Hành lần lƣợt chứng kiến sự khủng

hoảng, sụp đổ và thay thế nhau của ba triều đại: nhà Lê, Tây Sơn, Nguyễn, và

cùng với đó là sự đấu tranh, phân hóa phức tạp của nhiều phe phái, nhiều xu

thế chính trị khác nhau. Có thể nói, thời đại của Nguyễn Hành là thời đại chế

độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thống trị tranh giành quyền

lực gây ra chiến tranh triền miên, kinh tế đình đốn, đời sống nhân dân vô cùng

cực khổ…

Không chỉ vậy, thời đại của Nguyễn Hành còn là thời đại các cuộc khởi

nghĩa của nông dân nở rộ mạnh mẽ nhất. Trƣớc năm 1771, có các cuộc khởi

nghĩa của Nguyễn Danh Phƣơng, Nguyễn Tuyển, Lê Duy Mật, Nguyễn Hữu

Cầu, Nguyễn Cừ, Hoàng Công Chất. Nhƣng đỉnh cao của phong trào khởi

nghĩa của nông dân là phong trào Tây Sơn. Đến năm 1771, Nguyễn Nhạc

khởi binh ở đất Quy Nhơn, Bình Định, sau đó mở rộng thế lực ra các tỉnh

Quảng Ngãi. Một năm sau, năm 1776, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đánh chiếm

Gia Định, chúa Nguyễn phải bỏ chạy. Sau đó năm 1786, Nguyễn Huệ kéo

quân ra Thăng Long, phù Lê, diệt Trịnh. Năm 1787, nhà Tây Sơn lại cho quân

ra Bắc Hà, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền. Năm 1788, Nguyễn Huệ

lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, đồng thời thống lĩnh đại

binh đánh tan quân Thanh. Năm 1792, Nguyễn Huệ mất, phong trào Tây Sơn

cũng từ đấy tan rã…

6

Thời đại của Nguyễn Hành còn là thời đại mà ngƣời dân bị rơi vào

cảnh khốn khổ đến cùng cực bị dồn vào đƣờng cùng, những gia đình ly tán,

phiêu bạt khắp trốn, hạn hán mất mùa, bệnh dịch tràn lan, nạn đói, ngƣời chết

khắp nơi. Những biến động vừa phức tạp ấy là chất liệu quý giá cho những

sáng tác hiện thực của Nguyễn Hành sau này. Những biến cố thời đại đã gây

cho ông sự khủng hoảng và đổ vỡ lớn lao. Nói chung, Nguyễn Hành là nhân

chứng của cuộc biến thiên lịch sử, cho nên ông đã phơi bày tất cả hiện trạng

ấy rất phong phú, với muôn mặt của nó. Đọc thơ Nguyễn Hành chúng ta sẽ

thấy ông ghi lại chân thực cảnh đời biến loạn thời bấy giờ.

Hơn nữa, ở thời bấy giờ, bên cạnh tình hình xã hội rối ren còn có sự

đan xen nhiều luồng tƣ tƣởng lớn, nó đã có ảnh hƣởng không nhỏ tới thế giới

quan cũng nhƣ tƣ tƣởng của nhà thơ. Đạo Nho lúc ấy đã khủng hoảng nghiêm

trọng, bộc lộ những mặt hạn chế trƣớc lịch sử. Cùng với đó, đạo Phật và đạo

Lão hồi sinh, hòa đồng cùng đạo Nho trong một màu sắc mới, cũng phần nào

tìm đƣợc tiếng nói xoa dịu nỗi đau trong lòng con ngƣời. Đây cũng chính là lý

do nhiều bài thơ của Nguyễn Hành có nhắc đến các điển tích, hình ảnh đặc

trƣng của Đạo giáo, Phật giáo. Đó là sự trỗi dậy mạnh mẽ của tƣ tƣởng nhân

văn, nhân đạo chủ nghĩa, mà gắn liền với nó là thể hiện sự quan tâm đến thân

phận con ngƣời; đặc biệt là ngƣời phụ nữ, với yêu cầu khẳng định quyền đƣợc

sống, quyền đƣợc hạnh phúc thật chính đáng. Bấy nhiêu luồng tƣ tƣởng ảnh

hƣởng, chuyển hóa lẫn nhau và tạo nên những xáo trộn, cùng những biểu hiện

vừa tích cực, vừa tiêu cực đối với thế giới quan cũng nhƣ cảm hứng chủ đạo

trong sáng tác của Nguyễn Hành.

Cũng bởi sống trong thời đại đầy biến loạn nhƣ thế đã ảnh hƣởng rất

lớn đến sáng tác của Nguyễn Hành. Điều này đƣợc thể hiện qua những bài thơ

hiện thực đầy ám ảnh của ông. Đồng thời đây cũng là điều kiện để Nguyễn

7

Hành hiểu, thấm thía đời sống của những ngƣời dân cùng khổ khác, mà hơn

nữa bản thân ông cũng là một trong những ngƣời dân cùng đƣờng, khốn khổ ấy.

1.1.2. Cuộc đời và con người

1.1.2.1. Cuộc đời

Nguyễn Hành (1771 - 1824) vốn tên là Viêm, Đạm, tự Tử Kính, hiệu

Nam Thúc, biệt hiệu Ngọ Nam, Nam Song và Tâm Trai. Ông là ngƣời làng

Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay là tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn

Hành thuộc dòng dõi quý tộc phong kiến. Ông là con vợ thứ của Điền Nhạc

hầu Nguyễn Điều (1745-1824), là cháu nội Xuân quận công Nguyễn Nghiễm,

gọi Nguyễn Du là chú ruột. Nguyễn Nghiễm (1708-1776) thuộc đời thứ 6

trong dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền, đời thứ 15 của họ Nguyễn; là con thứ hai

của Lãnh Nam công Nguyễn Quỳnh - đỗ Hoàng giáp, làm Thị lang bộ Hình,

Tham tụng rồi Thƣợng thƣ bộ Công, Thƣợng thƣ bộ Hộ. Các đời trƣớc

Nguyễn Nghiễm, trong họ Nguyễn đều có rất nhiều ngƣời giỏi văn chƣơng,

đỗ đạt cao và làm quan to dƣới triều Lê Trung Hƣng và trong phủ Chúa Trịnh.

Thân phụ Nguyễn Hành cũng đỗ tam trƣờng, làm Thị nội văn chức rồi Trấn

thủ Hƣng Hóa, Trấn thủ Tuyên Quang, Trấn thủ Sơn Tây. Mẹ của Nguyễn

Hành là vợ kế của Nguyễn Điều, họ Nguyễn, con thứ tƣ của Thiếu Bảo Đạt

Vũ Hầu, quê ở xứ Kinh Bắc. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền trong mục ghi về

Nguyễn Nghiễm có viết, Nguyễn Hành “được tập ấm chức Hiển cung đại

phu, Phó Trung úy, tước Hành nhặc bá. Ông là người thông minh, nhớ lâu,

hiểu rộng, đọc nhiều sách. Ông được xếp thứ hai cùng với chú là Thanh Hiên

công trong An Nam ngũ tuyệt…” [10,tr79]. Cũng trong Gia phả họ Nguyễn

Tiên Điền, khi nói về Nguyễn Du, có đoạn viết: “Nguyễn Du là người học

rộng, nhớ lâu, có tài làm thơ. Trong năm nhà thơ giỏi nhất An Nam “An Nam

ngũ tuyệt” thì ông và người cháu ruột là Nam Thúc (tức Nguyễn Hành) chiếm

hai tên.” [10,tr96].

8

Năm 1780, Nguyễn Khản - con trai trƣởng của Nguyễn Nghiễm bị

buộc tội liên quan đến “vụ án Canh Tý”. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền còn

ghi lại, Tuyên phi Đặng Thị Huệ và A Bảo Huy quận công kết bè lập con của

Đặng Thị Huệ là Trịnh Cán làm thế tử. Cũng trong năm đó, Nguyễn Nghiễm

bị vu tham gia lập mƣu phế Trịnh Cán, giúp Trịnh Khải (Trịnh Tông) làm thế

tử, Trịnh Vƣơng xuống chỉ cho gọi Nguyễn Khản về kinh đô, bắt giam.

Những ngƣời phạm vào âm mƣu này đều bị xử tội chết, riêng Nguyễn Khản

do niệm tình có công giảng dạy mình nên Trịnh Vƣơng cho đƣợc miễn tội

chết, và ông chỉ bị cách chức. Nguyễn Điều (thân phụ của Nguyễn Hành), là

con thứ hai của Nguyễn Nghiễm. Trong “vụ án Canh Tý”, Nguyễn Điều bị

giáng chức làm Thắng trung trong đội thuyền.

Đến năm 1784, Nguyễn Điều làm Trấn Thủ Sơn Tây, gặp loạn kiêu

binh đốt phá dinh thự quan lại Bộ Thƣợng thƣ Nguyễn Khản. Nguyễn Khản

trốn lên Sơn Tây toan cùng em hợp binh các trấn về giết kiêu binh, nhƣng

kiêu binh giữ chặt chúa Trịnh nên không làm gì đƣợc, kiêu binh làm áp lực

bãi chức Thƣợng thƣ bộ Lại Nguyễn Khản, Nguyễn Điều bị giáng chức về

huyện Thanh Chƣơng, Hà Tĩnh. Ông sống cùng con cháu tại đây. Năm 1786,

nhà Trịnh sụp đổ Nguyễn Điều ôm chí uất ức mà mất, lúc đó Nguyễn Hành

chỉ mới 15 tuổi.

Thuở nhỏ, Nguyễn Hành học ở Thăng Long, là ngƣời thông minh, hiểu

biết rộng, có tài thơ văn hay. Nguyễn Hành có tham vọng nối dõi truyền

thống thế gia nhƣng khi đến tuổi trƣởng thành, do nhiều biến thiên dữ dội của

thời Lê mạt - Nguyễn sơ nên ông không có dịp thi thố sở học và tài năng của

mình. Hơn nữa, họ Nguyễn Tiên Điền đến thời thân phụ ông bắt đầu sa sút,

thất thế, và bị phân tán trƣớc cơn lốc của lịch sử. Nhà nho tài hoa Nguyễn

Hành cũng từng bị dèm pha nguy hiểm đến tính mạng, phải rời vợ con, nhà

cửa, lƣu lạc nơi đất khách, sống cuộc đời cực khổ...

9

Viết lời dẫn cho bài Hỉ nhị nữ lai tự Vĩnh Lại, Nguyễn Hành tâm sự:

“tôi gặp chuyện bóng gió, hoảng sợ phải bỏ trốn để tìm đường sống, từ nhà

người em ở đồn Ngãi Am dắt díu nhau vào thành, gửi lại hai con gái ở đó,

tình cảnh thật không thể dung thân, sau nhờ ông bà ở am sau thương xót mà

chăm sóc chúng”.

Cuộc đời Nguyễn Hành phiêu bạt nay đây mai đó, không thi cử, và

cũng không cộng tác với nhà Tây Sơn lẫn nhà Nguyễn. Thời gian từ năm

1794 đến năm 1796, Nguyễn Du ở Tiên Điền để xây dựng lại từ đƣờng, đình

chùa cùng Nguyễn Ức, thì Nguyễn Hành đã có mặt ở Tiên Điền và làm thơ tả

việc chú đi săn. Chính Nguyễn Hành là ngƣời tự tay đề các câu đối trong đền

thờ Điền Nhạc Hầu Nguyễn Điều. Năm 1804, khi vợ Nguyễn Du mất Nguyễn

Hành cũng có ở Tiên Điền. Một năm sau, ông đƣợc phong chức Đông Các

Học Sĩ triệu vào kinh đô Phú Xuân. Với chức vụ Đông Các Học Sĩ, ông luôn

bên cạnh vua Gia Long, và hàng ngày dâng sách cho vua đọc, giảng cho vua nghe.

Đến năm 1820, khi nghe tin chú Nguyễn Du mất tại Phú Xuân,

Nguyễn Hành đã làm thơ bày tỏ niềm tiếc thƣơng ngƣời chú đã khuất. Bốn

năm sau khi Nguyễn Du qua đời. Năm 1824, Nguyễn Hành ở Thăng Long

trong nghèo khó. Nguyễn Hành luôn tuân theo quan điểm chính thống đó là

“Trung hiếu chi gia ninh sự nhị?” (Dòng dõi trung hiếu sao lại thờ hai

vua?).Nguyễn Hành gọi Nguyễn Hữu Chỉnh, quân Tây Sơn là giặc, gọi nhà

Lê là “quân ta”. Hơn nữa, ông không chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng của hai ông

chú ruột của mình là Nguyễn Nễ hay Nguyễn Du. Khi Tây Sơn thống nhất

Nam Bắc, và thiết lập triều đại, ông lẩn tránh, không ứng chiếu cầu hiền. Sau

đó, Nguyễn Gia Long lên ngôi, xuống chiếu lục dụng, ông cũng không hƣởng

ứng. Ông sống lƣu lạc ở Thăng Long cam chịu cảnh cơ cực, bần hàn. Nguyễn

Hành không an bần lạc đạo, mặc dù thơ ông thƣờng nhắc đến mẫu hình Trang

10

Tử. Dù trải qua đói nghèo, tủi nhục, thiếu thốn đủ đƣờng, nhƣng lòng ông

luôn hoài tƣởng về triều Lê…

Nguyễn Hành đã trải qua biết bao nhiêu sóng gió của cuộc đời. Đó là

cái nghèo, cái đói, bệnh tật tràn lan, sự ly tán, tha hƣơng cầu thực khắp nơi.

Cuộc sống của Nguyễn Hành gian nan, khốn khổ; cho nên ông có điều kiện

đƣợc sống, đƣợc tiếp xúc, đƣợc trải nghiệm nhiều việc đời. Đồng thời, ông

cũng đƣợc tận mắt chứng kiến nhiều cảnh đời, cảnh sống cơ cực, sống ly tán,

phiêu bạt của nhân dân, và chịu ơn giúp đỡ của nhiều ngƣời dân... Cho nên,

Nguyễn Hành có đƣợc những bài thơ thế sự xúc động đến thế.

1.1.2.2. Con người

Viết về con ngƣời Nguyễn Hành, Nguyễn Ngọc Nhuận trong “Nguyễn

Hành và tập Quan Đông hải”:

“Ông sống trong giai đoạn xã hội đầy ta loạn, cảnh đời đầy sự trớ trêu,

Nguyễn Hành muốn đi tới cũng không được, muốn ở ẩn cũng không xong. Bởi

thế ông đã gửi gắm tâm sự vào những trang thơ, văn và hằng mong người đời

phần nào hiểu, thông cảm với mình. Từ trong tâm thức, Nguyễn Hành khát

khao làm được điều gì có ích cho đời, như ông từng viết câu kết của bài Kê

minh phú(Phú gà gáy): “Phượng hoàng cao bay, hạc đỗ nơi xa thắm, đàn sắt

đàn cầm, tiếng chuông tiếng trống, vui mà không dâm. Thức tỉnh người đời,

răn đe thói tục, trọng ở tiếng vang dài. Ta nghĩ người xưa, thực thấy thoải

mái trong lòng”. Đó cũng là khát vọng của kẻ sĩ xưa nay.” [14,tr54 ]

Cũng đã hơn một lần chính Nguyễn Hành cũng từng tâm sự rằng:

“(...) suốt ngày cặm cụi, nửa đêm chưa đi nằm, bụng nghĩ mắt nhìn,

miệng đọc tay chép, nhặt những câu văn vẻ rườm rà, nhai những vị thừa cặn

bã, momg những bắt chước cái hay của người xưa mà để tiếng thơm tho hậu

thế, thật là khó quá. Tính theo với số, học chẳng hợp thời, thui thủi lạnh lùng,

11

rốt cuộc không đi đến đâu cả, đói chẳng buồn ăn, rét chẳng sắm áo, ngồi đó

mà chịu khó khăn, hơi một tý là phỉ báng(...).” [ 15,tr423-431]

Nguyễn Hành tự nhận mình là một kẻ sĩ không hợp thời, nhƣng chính

bản thân ông cũng chƣa bao giờ xao lãng một phút giây nào vì cái “không

hợp thời” ấy.

“Thiếu tráng năng kỉ hà,

Tha đà niên ngũ thập.

Đa gian cải phát mao,

Hữu cảm tồn thi tập.

Bất ƣu thân dĩ lão,

Đản khủng danh nan lập.

Nhất thử bất giải tâm,

Hành hành do khả cập.”

.(Ngũ thập tuế nguyên nhật thƣ hoài – kỳ nhị)

(Tuổi trẻ được bao ngày,

Lần lữa ngày qua, tuổi đã năm mươi.

Nhiều gian nan nên mái tóc đã đổi màu,

Có niềm cảm xúc nhờ tập thơ lưu lại.

Chẳng lo thân đã già,

Chỉ e danh khó lập.

Vậy mà lòng chẳng biếng nhác,

Hãy cứ làm chắc vẫn còn kịp”

(Ngày đầu năm năm mươi tuổi

viết hai bài thơ tả nỗi lòng – Bài 2)

Nguyễn Hành cho rằng “ngốc nghếch” là vì ngay cả chính bản thân họ

cũng thừa hiểu sự “lỗi thời” và đƣơng nhiên là “vô ích” của những cố gắng,

12

nỗ lực của bản thân, nhƣng “chỉ nói nghĩa thôi! Việc chi phải nói tới lợi?”.

Đó là ngốc nghếch một cách đáng ngƣỡng mộ.

Tất cả những điều mà chúng ta biết ở Nguyễn Hành, đó là một Nho sĩ

khảng khái, cƣơng trực, và chắc chắn không bao giờ quên đƣợc những ám

ảnh, những đắng cay của cuộc biến động lịch sử đến kinh thiên động địa ấy.

Đó còn là sự đối lập mạnh mẽ giữa cuộc sống quá khứ và hiện tại cộng với

những ẩn ức về sự suy tàn dòng họ: đó là những Nguyễn Nghiễm, Nguyễn

Khản, Nguyễn Điều. Tất cả những con ngƣời ấy đều có vai trò là rƣờng cột

của đất nƣớc, nhƣng thay vì đƣợc kế thừa bởi một rƣờng cột khác, thì lại trở

thành một khách lữ thứ “cầm áo đổi gạo”.

1.2. Sự nghiệp sáng tác

Nguyễn Hành đƣợc đƣơng thời tôn vinh là một trong “An Nam ngũ

tuyệt”. Theo các tài liệu ghi chép lại sự nghiệp văn thơ của Nguyễn Hành bao

gồm ba tập thơ chữ Hán là Quan Đông hải (Trông bể Đông), Minh quyên thi

tập (Tiếng kêu của chim quyên); và Thiên địa nhân vật sự ký (thuộc thế loại

văn, triết). Trong đó, tập thơ Thiên địa nhân vật sự ký hiện đang thất lạc.

Cuốn Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền có ghi sự nghiệp của Nguyễn Hành nhƣ sau:

tác phẩm “có Quan hải tập, Minh quyên tập, Thiên địa nhân vật thư” [10,tr79].

Nội dung của tập thơ Minh quyên thi tập rất phong phú, đa dạng. Trƣớc

hết đó là tƣ tƣởng hoài Lê, buồn đau về thời thế suy vi. Giới nghiên cứu văn

học bấy lâu nay đánh giá tƣ tƣởng chính trị của Nguyễn Hành là bảo thủ. Nói

vậy cũng vì ông chọn chỗ đứng của mình là chống Tây Sơn. Đây chính là hạn

chế của Nguyễn Hành. Có thể nói, nội dung bao trùm, và lớn nhất của tập thơ

của Nguyễn Hành là những tâm sự về cuộc sống bần hàn nơi đất khách,

những suy ngẫm về đời suy loạn, dân đen ly tán, chịu nhiều khổ cực (bệnh

dịch lan tràn, đói rét…). Hình ảnh nổi bật trong Minh quyên thi tập là một nhà

thơ sống trong dân, gần dân, thƣơng dân, đƣợc ngƣời dân thƣơng quý, sẵn

13

sàng giúp đỡ. Ngôn ngữ tập thơ tự nhiên, mộc mạc , giản dị; thi cảm đôn hậu,

chân thành và giọng thơ chủ đạo là đau đớn, xót thƣơng. Trong lời Tựa của

tập thơ, Nguyễn Hành viết: “tiếng kêu nghe đau thương thảm thiết không gì

bằng tiếng kêu của chim đỗ quyên. Đỗ quyên là loài chim phương Nam, kêu

về mùa hạ, ngày đêm không ngừng… Tiếng thơ trong tập thơ này, ngẫu nhiên

mà giống thế, nên nhân đó đặt tên.” [9, tr7]

Quan Đông hải cũng là một tập thơ giá trị, bên cạnh thơ còn có những

bài tựa nhƣ: Lạc sinh tâm đắc tập tự, Vô ẩn lục tự... Những bài ký nhƣ: Nam

song ký, Đồng xuân ngẫu ký... Những bài bạt nhƣ: Nghệ An phong thổ ký bạt

,Đẩu số thư bạt... hay những bài phú nhƣ: Đạo ngộ Bái công phú, Loạn thế

độc thư cao phú... Nội dung chính của Quan Đông hải là ca ngợi những tấm

gƣơng trung hiếu nghĩa liệt, bộc lộ nỗi niềm thƣơng nhớ quê hƣơng, gia đình

và cảnh ngộ cô đơn, lẻ loi của ngƣời lữ khách; đồng thời khẳng định giữ vững

chí khí, hoài bão trong mọi hoàn cảnh, và thể hiện sự chiêm nghiệm về quy

luật của cuộc sống (sự vận động không ngừng của muôn vật; mối quan hệ

giữa dân và nƣớc). Ngoài ra, tập thơ còn “thức tỉnh ngƣời đời, răn đe thói

tục”… Nhìn chung tƣ tƣởng của Quan Đông hải khá nhất quán với Minh

quyên thi tập.

Tiểu kết chƣơng 1

Nguyễn Hành là một đại diện tiêu biểu của thơ trung đại cuối thế kỉ

XVIII đầu thế kỉ XIX. Thơ ca Nguyễn Hành phản ánh những biến cố lớn về

xã hội, văn hóa của thời đại; là cuộc đời lƣu lạc khốn khó của nhà thơ, đặc

biệt là sự phát triển nội tại của văn học từ tƣ duy nghệ thuật, bút pháp, ngôn ngữ đến

thể loại và truyền thống văn chƣơng gắn bó với cái hàng ngày, cái đời thƣờng…

14

Chƣơng 2.

MINH QUYÊN THI TẬP NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG

Nguyễn Hành là tác giả có quan niệm sáng tác tiến bộ. Ông chủ trƣơng

thơ là tiếng kêu thƣơng cất lên trong thời buổi suy loạn, dân đen ly tán và

trong thời bình thơ là tiếng nói ngợi ca, êm đềm.

Trong Lời Tựa tập thơ Minh quyên thi tập, Nguyễn Hành khẳng định:

“Tiếng kêu nghe đau thương thảm thiết không gì bằng tiếng của chim đỗ

quyên… tiếng thơ trong tập này, ngẫu nhiên mà giống thế, nên nhân đó mà

đặt tên… Tiếng kêu của chim vốn cũng có nguyên do. Triều chính hợp Đạo,

các bậc hiền tài quy tụ hòa hợp, chim phượng hoàng cất tiếng hót êm đềm;

thời buổi suy loạn, dân đen ly tán oán hận, chim hồng chim nhạn kêu thương,

nghe bi thảm thiết tha” [9,tr7]. Có thể nói, với Nguyễn Hành, thơ đƣợc nảy

sinh từ chính cuộc sống, và phản ánh cuộc sống, thời thế. Vì vậy, thời thế nào

thì văn chƣơng ấy, tiếng thơ cũng chính là tiếng của loài chim, và nó còn phụ thuộc

cảm nhận, cũng nhƣ nhận thức về thời thế. Không chỉ vậy, thơ cũng chính là thái độ

của nhà thơ, là sự suy ngẫm của ngƣời viết trƣớc thời thế, cuộc sống.

Nguyễn Hành luôn quan niệm dùng thơ để ghi lại hành trạng và cảnh

ngộ của ngƣời viết, và còn là một điểm tựa quan trọng trong cuộc đời. Quan

niệm này đƣợc thể hiện trong rất nhiều bài thơ của ông nhƣ Đông Kiều dạ tứ,

Bắc Thành trừ tịch, Ngâm thi sự… Từ đó, Nguyễn Hành cho ta thấy, ông

dùng thơ, và viết thơ để giải tỏa tâm sự, để “an ủi nỗi cô liêu”; đồng thời

cũng là để quên đi cái nghèo, cái đói, bệnh tật đang bủa vây. Không những

thế, ngƣời sáng tác không đợi đến khi đủ đầy mới sáng tác; do đó thơ đƣợc

viết ra một cách tự nhiên ngay trong những hoàn cảnh buồn thảm nhất, bi đát

nhất của cuộc sống. Không phải nhà thơ trốn tránh thực tại, mà là ông đang ở

giữa thực tại cuộc đời để nghe, để nhìn, để thấu cảm, hơn nữa là để làm thơ.

Vì vậy, thơ cũng chính là hơi thở của cuộc sống.

15

2.1. Nỗi niềm đau xót trước cuộc sống khốn cùng của nhân dân

Khi ngụ ở Đồng Xuân, Bắc Thành, Nguyễn Hành đã viết Lời dẫn của

tập thơ Minh quyên (Minh quyên phả dẫn). Nội dung của Lời dẫn đƣợc cắt

nghĩa về ý nghĩa cũng nhƣ nguyên do của nó bắt nguồn từ tiếng kêu của chim

đỗ quyên. Lời dẫn đã bày tỏ tƣ tƣởng cũng nhƣ chủ đề của tập thơ, và đồng

thời đã cắt nghĩa về nguồn gốc của tiếng thơ ấy. Có thể coi Lời dẫn tập thơ

Minh quyên là tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Hành.

Nguyễn Hành cho rằng: “tiếng kêu nghe đau thương thảm thiết không

gì bằng tiếng kêu của chim đỗ quyên”, đỗ quyên kêu về mùa hạ, ngày đêm

không ngừng, khi kêu tất hƣớng về phƣơng Bắc, “tiếng thơ trong tập thơ này

[Minh quyên thi tập] ngẫu nhiên mà giống như thế nên nhân đó mà đặt tên.”

[9, tr7] Tiếng kêu bi thản của chim đỗ quyên có thể nói nguyên nhân chính là

do thời cuộc biến loạn, dân đen ly tán, oán hận cùng cực. Bởi vậy, thơ

Nguyễn Hành cũng chính là tiếng thơ đau thƣơng, ai oán nhƣ tiếng kêu ai

oán, đau thƣơng đến cùng cực của chim đỗ quyên. Tiếng kêu của chim đỗ

quyên thì vƣơng vấn lơ lửng giữ mây trời, cây cành, còn tiếng kêu thƣơng ai

oán của Nguyễn Hành thấm đẫm trong từng câu, từng chữ.

Tiếng kêu thƣơng ai oán trong thơ Nguyễn Hành thì trƣớc hết đó là

tiếng kêu bi thảm của nhân dân khốn khổ, đói nghèo,và còn là tiếng kêu

thƣơng đau của nhà thơ về cuộc sống khốn cùng, ly tán, phiêu bạt khắp

trốn… của nhândân giữa “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”. Bởi vậy, nguồn cảm

hứng lớn nhất trong thơ Nguyễn Hành chính là hiện thực đời sống, đời

thƣờng, những gì dung dị nhất.

Có thể nói, thơ Nguyễn Hành đầy ắp những hình ảnh về cuộc sống

khốn khổ, cùng cực của dân chúng đƣơng thời. Nỗi khổ về cảnh chịu túng

thiếu, đói kém phải đi xin ăn trong bài Túy thái bình ám ảnh nhà thơ biết bao

“đêm đêm vẫn nghe tiếng trẻ ăn xin”. Đây là tiếng thơ tả thực đến tê tái lòng

16

ngƣời. Lịch sử ta còn chép lại, Nguyễn Hành lớn lên trong thời kỳ dân chúng

loạn lạc, không đƣợc yên ổn, “trộm cướp nổi lên khắp nơi… thóc lúa dành

dụm trong xóm làng đều hết sạch… Dân lưu vong bồng bế, dắt díu nhau đi

kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, 100 đồng tiền không đổi được một bữa

ăn. Dân phần nhiều sống bằng rau cỏ, đến nỗi ăn cả chuột, rắn. Người chết

đói ngổn ngang, người sống sót không còn được một phần mười. Làng nào có

tiếng là trù mật cũng chỉ còn dăm ba hộ thôi.” [7,tr33]

Cuốn Tang thương ngẫu lục của Nguyễn Án, Phạm Đình Hổ.

Đây là hai tác giả sống cùng thời với Nguyễn Hành và còn ghi lại nhiều sự

kiện tai nghe, mắt thấy lúc bấy giờ ở trong phủ chúa thì “thức gì cũng có,

chồng chất như núi”. Vua Chúa ăn chơi xa hoa, trụy lạc, trong khi đó con dân

rất nghèo khổ, khốn cùng phải đi ăn xin từng bữa, và còn có rất nhiều ngƣời

dân không biết bấu víu vào đâu để sống, để tồn tại.

Thơ Nguyễn Hành đƣợc ví nhƣ một thứ thơ về lịch sử đƣơng thời ngập

tràn chất liệu đời sống hiện thực. Hơn nữa, ngƣời làm thơ ở đây cũng chính là

ngƣời ghi chép lịch sử, ghi lại khách quan và trung thực về hiện thực tàn khốc

lúc bấy giờ. Trong một số bài thơ, Nguyễn Hành đã hé lộ cho hậu thế biết một

sự thật đầy ám ảnh thời ấ/y cuộc sống điêu tàn, chết chóc bao trùm khắp nơi;

do đó dân chúng đói khổ phải đi tha phƣơng cầu thực khắp trốn. Hiện thực ấy

đầu tiên và phần nhiều là do quan lại quý tộc thời bấy giờ không thi hành

chính sự dựa vào đức nhân (Túy thái bình), cộng thêm vì thiên tai mất mùa,

dịch bệnh tràn lan (Dịch tái tác, Dịch tác). Thơ Nguyễn Hành giọng điệu đa

dạng, có giọng khát vọng, ấm ức, và cũng có giọng oán trách, … Chính

Nguyễn Hành từng nhận thơ ông là tiếng kêu “đau thương ai oán cùng cực”.

Các bài nhƣ Túy thái bình, Dịch tái tác, Dịch tác, Đại dịch… là những ví dụ

tiêu biểu cho tiếng kêu đau thƣơng ấy.

17

Thơ Nguyễn Hành nói nhiều về dịch bệnh, và dịch bệnh đã len lỏi vào

cuộc sống của từng nhà, từng gia đình, và chúng đã nhẫn tâm cƣớp đi sinh

mệnh của biết bao ngƣời dân lƣơng thiện, khốn cùng.

Bài Đại dịch thuật lại chân thực sự kiện: “Năm Minh Mệnh thứ nhất,

mùa thu năm Canh Thìn (1820), có nạn dịch lớn. Khởi đầu từ Xiêm La qua

Gia Định rồi lan ra các trấn ở Bắc Thành. Từ quan cho đến dân, người chết

hàng mấy chục vạn. Khắp thành thị nông thôn đều kinh hoàng, tế lễ cầu đảo.

Quả thực là sự biến chưa từng có”.

“Lẫm nhƣợc đại quân hành

Tao nhiên vạn lý kinh

Cổ lai vô thử dịch Tiêm,

Lạp chí Long Thành…’’

(Đại dịch)

(Ầm ầm như đoàn quân kéo đi,

Náo động muôn dặm đều sợ hãi.

Xưa nay không có dịch bệnh ấy,

Từ Xiêm La lan ra Long Thành...)

(Nạn dịch lớn)

Nạn dịch lớn đƣợc tái hiện một cách đầy ám ảnh. Đó là cảnh ngƣời

chết khắp thành thị lẫn nông thôn, nạn dịch bùng phát lan rộng khắp nƣớc,

không trừ một giai tầng nào. Để khắc họa sức hủy diệt nhanh chóng, và mạnh

mẽ của nạn dịch, Nguyễn Hành ví đại dịch nhƣ đoàn quân ầm ầm di chuyển,

đi đến đâu gây ra cảnh khiếp sợ, và chết chóc kinh hoàng đến đó. Ta thấy

không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Hành ví đại dịch với “đại quân hành”.

Điều này cho thấy rằng trong tiềm thức nhà thơ đó hẳn là một ám ảnh khủng

khiếp. Bằng cách so sánh đầy sức gợi hình độc đáo nhƣ vậy, nhà thơ đã diễn tả

đƣợc những khổ cực và cảnh vô số tai họa liên tục mà nhân dân phải hứng chịu.

18

Nguyễn Hành luôn dằn vặt, luôn tự trách bản thân không có cách nào

cứu giúp đƣợc cho nhân dân. Bài thơ có dƣ vang không phải ở chỗ chủ thể trữ

tình trông mong một tấm lòng hƣ vô, vời vợi cao xa, mà ở chỗ anh ta đi đến

chỗ tự vấn, tự hận. Kết bài thơ toát lên cái tình thế “lực bất tòng tâm” và

cũng là tâm sự đau xót trƣớc thời thế của Nguyễn Hành. Cũng chính từ đây

chúng ta thấy một tâm hồn đẹp đẽ, vƣợt lên giới hạn nhân sinh quan giai cấp,

suốt đời lo cho dân cho nƣớc.

“…Mục thảm nhân dân tử ,

Tâm hoài thiên địa sinh .

Hận vô điều nhiếp thuật,

Nhất vị hiến công khanh.”

(Đại dịch)

(…Trông thảm hại nhân dân chết chóc,

Lòng cầu mong trời đất hiếu sinh.

Hận rằng mình không có thuật gì cứu chữa,

Để đem dâng lên bậc công khanh.)

(Nạn dịch lớn)

Điều đó còn ta lại bắt gặp trong bài Dịch tái tác (Dịch bệnh tái phát); đó còn

là khao khát mãnh liệt đƣợc đem thân này hứng chịu “tai họa” cho nhân dân:

“Lãnh khí lƣu hành đông hựu xuân,

Hoàng thiên hồ nhẫn thử tƣ dân.

Mệnh trung nhƣợc hữu suy di lý,

Bất tích thân đƣơng thiên bách thân.’’

(Dịch tái tác)

(Khí lạnh tràn lan qua đông lại qua xuân,

Ông trời sao nỡ [để tai họa] giáng xuống con dân,

Nếu trong số mệnh có cái lẽ “thay thế”,

19

Thì ta chẳng tiếc đem thân này [chịu nạn thay cho] muôn vạn thân.)

(Dịch bệnh tái phát)

Đó là một con ngƣời luôn vì mọi ngƣời, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để

mong nhân dân thoát khỏi tai họa. Qua đó ta thấy đƣợc nỗi đau xót cùng cực

của ông khi mình không thể giúp gì, không thể làm gì đƣợc cho dân.

Khác với cấu tứ của bài Đại dịch, Dịch tái tác, bài Dịch tác đem lại cho

ngƣời đọc một cảm nhận khác:

“Thiên ý nguyên niên chuyển thái hòa,

Cố giao dịch lệ nhất hồi qua.

Ngô đồng bất dụng nhƣơng trừ thuật,

Nhàn tụng Văn Sơn Chính khí ca.’’

(Dịch tác)

(Đầu năm, ý trời muốn chuyển thái hòa,

Cho nên khiến cho dịch bệnh nổi lên một trận.

Bọn ta chẳng cần phải dùng phép trừ dịch,

Nhàn đọc bài Chính khí ca của Văn Sơn.)

(Dịch bệnh hoành hành)

Thoáng đọc bài thơ nhƣ thể hiện cái tâm thế lạc quan của Nguyễn

Hành, nhƣng thực tế không phải vậy. Đằng sau cái giọng cứng cỏi, bản lĩnh

ấy, ta thấy một cảnh đời thật chua xót. Có đƣợc những trải nghiệm nhƣ vậy,

chắc hẳn Nguyễn Hành đã từng chứng kiến và sống qua nhiều trận dịch hoành

hành. Hơn nữa ông phải là ngƣời hiểu sâu sắc chuyện ngƣời, chuyện đời mới

có thể có bản lĩnh cứng cỏi nhƣ vậy. Không chỉ vậy, Nguyễn Hành còn phải

là ngƣời luôn thƣơng nhân dân, hiểu nhân dân thì mới có những vần thơ chứa

chan khát vọng nhân dân vƣợt qua đƣợc đại dịch, đƣa đƣợc nhân dân thoát

khỏi đại dịch, và đƣợc sống một cuộc sống thái hòa.

Đến bài Trung thu, ta có thể thấy rõ mối quan tâm chính của nhà thơ:

20

“ Đại La thành đầu thu nguyệt minh,

Đại La thành thƣợng khán nhân hành.

Trung kinh dịch hậu hữu nhƣ thử,

Bất ái minh nguyệt ái dân sinh.’’

(Trung thu)

(Phía trên thành Đại La, trăng thu sáng,

Đứng trên thành Đại La, nhìn người qua lại.

Qua mấy phen dịch bệnh lại được như thế này,

Chẳng phải là thích ngắm trăng sáng, mà là mến yêu

cuộc sống của dân lành.)

(Trung thu)

Nhƣ vậy, ta thấy Nguyễn Hành luôn quan tâm đến cuộc sống của dân

chúng; ông thƣờng xuyên quan sát cuộc đời thƣờng nhật của dân, gần gũi để

hiểu dân, mến yêu và thƣơng nhân dân vô cùng. Ta không còn băn khoăn hay

nghi ngờ gì nữa, có thể khẳng định Nguyễn Hành là một trong những nhà thơ

góp phần không nhỏ vào việc cách tân thơ trữ tình, và thơ ngôn chí trung đại.

Ông đã có sự đổi mới về đề tài, thể loại, đồng thời lấy cuộc sống đời thƣờng

làm đối tƣợng để miêu tả, để phản ánh, và nhằm để cuộc sống đời thƣờng của

dân chúng theo chân tác giả vào thơ trong thơ. Giờ đây, ngƣời dân đã trở

thành trung tâm trong bức tranh hiện thực của Nguyễn Hành. Hơn nữa, cảm

hứng chủ đạo của thơ Nguyễn Hành không hƣớng về cảnh đẹp mà luôn gửi

gắm nơi cuộc sống đời thƣờng. Đó là những gì dung dị nhất, bình thƣờng

nhất, gần gũi với nhân dân nhất. Có thể thấy, bài Trung thu là bài thơ xác định

chỗ đứng phát ngôn của nhà thơ Nguyễn Hành rất tinh tế.

Dịch bệnh hoành hành khắp nơi khiến cho dân chúng rơi vào cảnh

tƣợng bi đát, khốn khổ. Nhân dân chƣa hết cái khổ này lại đến cái khổ khác,

21

thời tiết khắc nghiệt cũng làm cho nhân dân điêu đứng: Khổ nhiệt (Khổ vì

nắng nóng), Trùng khổ nhiệt (Lại khổ vì nắng nóng).

Nguyễn Hành luôn nghĩ đến cuộc sống nhân sinh trong bất cứ hoàn

cảnh nào. Ông tâm sự rằng:

“Minh nguyệt hữu doanh khuyết

Ngã tâm vô sở tuyệt.’’

(Minh nguyệt ca- Kỳ nhất)

(Trăng kia có lúc đầy vơi

Lòng ta không lúc nào ngơi.)

(Bài ca mặt trăng sáng – Bài 1)

Thời cuộc loạn lạc, rối bời cùng với đó là những cảnh tang thƣơng,

thƣơng tâm đầy đau xót. Nhân dân loạn lạc, đói khổ phải chạy vạy, phải đi xin

lấy từng bữa ăn, hết đói khổ lại đến bệnh dịch hoành hành liên miên không có

cách nào cứu chữa. Qua cái nhìn tinh tế của nhà Nho, hiện thực xã hội đƣợc

phản ánh vô cùng rõ nét. Nguyễn Hành không hề né tránh hiện thực đầy đau

xót mà luôn có nhìn thẳng vào hiện thực mà tái hiện nó.

Nguyễn Hành mang nỗi lõng trĩu nặng, làm sao cho dân bớt khổ, và

làm thế nào để có thể cứu bệnh cho nhân dân:

“Khởi duy liệu kỷ bệnh,

Diệc dụy suy chƣ dân.”

(Đâu có phải chỉ cốt chữa bệnh cho mình,

Mà còn muốn đem ra dùng cho dân.)

(Bệnh tụng - Bài tụng về bệnh)

Trong bài Phú đắc hà nhật thị thanh minh, nhà Nho day dứt, tự hỏi

mình trong lúc nhân dân đang đói khổ, cùng cực, bệnh dịch hoành hành khắp

nơi không có cách nào cứu chữa, dân chúng ly tán phiêu bạt nhƣ vậy, không

biết ngày nào mới là ngày thanh minh:

22

“Khả ái dƣ xuân cảnh,

Vô nhƣ quyện khách tình.

Tƣ dân do khốn ách,

Hà nhật thị thanh minh.”

(Phú đắc hà nhật thị thanh minh)

(Cảnh cuối xuân thật đáng yêu,

Không giống như tình khách mỏi mệt.

Dân này còn khốn khổ,

Ngày nào là thanh minh.)

(Phú đắc “Ngày nào là thanh minh”)

Không có gì mênh mông nhƣ thi ca viết về mùa xuân. Mùa xuân cũng

mênh mông với tất cả sự lộng lẫy, vẻ đẹp rực rỡ nhƣ thiên thần, tràn đầy, xao

động và sức sống trào dâng của nó, nó đã quyến rũ và làm đắm say biết bao

tâm hồn trái tim thi nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, mùa của

những gì tinh khôi nhất, thuần khiết nhất và còn là mùa của sự sinh sôi, nảy

nở của vạn vật. Đó là mùa của sự sống, sự vui tƣơi, hạnh phúc. Nhƣng đối với

các nhà Nho nhƣ Nguyễn Hành thì mùa xuân ấy đã nhuốm màu thế sự.

Qua bức tranh hiện thực sắc nét ấy, ta thấy khát vọng lớn nhất của

Nguyễn Hành là thời cuộc trở lại yên bình, thanh bình, nhân dân không còn

phải khổ cực, đƣợc ấm no, hạnh phúc. Đó là khát vọng cao cả.

2.2. Cuộc sống nghèo khổ, cô đơn của nhà Nho nơi đất khách quê người

Cuộc đời của Nguyễn Hành lƣu lạc ở Thăng Long, và sống một mình

nơi đất khách quê ngƣời với sự cô đơn trống trải, nỗi buồn cô liêu bủa vây…

Điều này đã đƣợc ông gửi gắm rất nhiều vào thơ ca.

Cảnh tƣợng lƣu lạc nơi đất khách quê ngƣời đƣợc Nguyễn Hành khắc

họa rõ nét trong bài Lưu lạc:

“Noãn y bão thực cƣ hƣơng lý,

Để sự tƣ hƣơng khƣớc thị nan.

23

Dã hữu danh vi thiên hạ sĩ,

Chí khí lƣu lạc thụ cơ hàn.”

(Lƣu lạc)

(Áo ấm cơm no ở trong xóm làng,

Mỗi việc nhớ về quê là thật khó khăn.

Cũng mang danh là kẻ sĩ trong thiên hạ,

Mà đến nay còn lưu lạc, chịu nhiều đói rét.)

(Lưu lạc)

Cuộc sống tha hƣơng lánh nạn đầy thiếu thốn, khổ cực, đói rét. Lòng kẻ

sĩ mong nhớ về quê mà sao khó khăn quá.

Bài Khách trung trung thu (Tiết trung thu ở đất khách), khi ngắm nhìn

trăng sáng giữa một khung trời lạnh, Nguyễn Hành hoài nhớ nhớ vợ con, quê

hƣơng. Bài thơ có tám câu tả cảnh ngắm trăng hiện tại, nhớ vợ con nơi quê

nhà, nhớ cảnh vƣờn xƣa. Nhƣng không có câu nào nhà thơ trực tiếp nói đến

cảnh ngộ cô đơn. Tuy nhiên khi đọc lên ta vẫy thấy một con ngƣời lặng lẽ, cô

đơn lạc lõng trên đất khách quê ngƣời giữa đêm khuya lạnh lẽo. Cảnh trời

xanh, trăng sáng, không gian lạnh lẽo đƣợc tái hiện rõ nét ở hai câu thơ đầu.

“Nhất bích thiên nhƣ tẩy,

Tam canh nguyệt chính hàn.’’

(Cả trời xanh như được gội rửa,

Canh ba trăng sáng giữa trời lạnh.)

Bốn câu tiếp theo tả tình, thứ đọng lại ở đây thì không phải là cái tình

trƣớc cảnh trăng sáng, và cảnh đẹp xƣa cũng nhƣ nay, mà là ở cái tình thê nhi

đang bồn chồn trong lòng ngƣời khách lữu thứ.

“Khả liên kim tịch hảo,

Bất đắc cố viên khan.

Ky lữ hồn vô định,

Thê nhi thả cộng hoan.’’

24

(Mừng thay, đêm nay thật đẹp,

Nhưng không được ngắm cảnh vườn xưa.

Khách trọ luôn không yên,

Vợ con chắc đang vui vầy.)

Hình tƣợng con ngƣời lạc lõng, cô đơn ở trong Minh quyên thi tập

thƣờng đƣợc tái hiện vào không gian cƣ ngụ xa lạ và thời gian đêm khuya.

Đêm chính là lúc con ngƣời phải đối diện với chính mình, là lúc con ngƣời

lắng lại để suy ngẫm về cuộc đời, cảm thấu rõ nhất cảnh ngộ của mình trƣớc

bóng đêm thăm thẳm.

Nỗi nhớ vợ con, nhớ quê hƣơng của Nguyễn Hành còn đƣợc thể hiện ở

một số bài thơ khác nhƣ Tư hương (Nhớ quê), Kim tuế trung thu nguyệt

(Trung thu năm nay), Khách trung ngọa (Nằm bệnh ở đất khách), Thành thị

lạc (Thành thị vui), Tặng nội (Tặng vợ), Nhân niệm tại gia nhị nữ (Nhân nhớ

đến hai con gái ở nhà)...

Cũng nhƣ bài Khách trung trung thu, bài Đông Kiều dạ tứ tái hiện rõ

nỗi niềm lữ khách phiêu bạt ở Nguyễn Hành:

“Đông Kiều nhân địch hậu,

Độc tọa tự vô liêu.

Khách tâm đƣơng thử dạ,

Thế sự hựu lai triêu.

Bấy dụng văn kê vũ,

Đề thi ủy tịch liêu.”

(Đông Kiều dạ tứ)

(Ở Cầu Đông, sau khi mọi người đã nghỉ,

Ngồi một mình, cảm thấy buồn chán.

25

Lòng khách cũng như đêm này,

Chuyện đời lại như sáng mai.

Chẳng cần tiếng gà gáy trở dậy,

Đề thơ để an ủi nỗi cô liêu.)

(Nỗi niềm đêm ở Cầu Đông)

Ngay từ mở đầu bài thơ ta thấy rõ nỗi buồn, sự cô đơn của chủ thể trữ

tình. Sau đó, kết thúc bài thơ cũng vẫn là cảnh ngộ cô liêu, cô đơn của ông.

Không chỉ vậy, một trong những nội dung lớn bao trùm thơ ca Nguyễn

Hành đó là hoàn cảnh khốn khổ, cùng cực, tha hƣơng cầu thực của nhà thơ.

Trong nhiều bài, nhà thơ thể hiện ý thức sâu sắc của mình về thân (từ thân

xuất hiện rất nhiều trong thơ ông), Nguyễn Hành thƣờng tự nhận mình là hàn

nho, hàn sĩ, là kẻ áo vải...

“- Nam quốc công thần hoàn cục quy,

Vô đoan hàn sĩ lệ triêm y.’’

(Vãn Hiệp trấn Thọ Nhƣ hầu)

(Trọn đạo của một công thần nước,

Nam thì trở về nào ngờ khiến kẻ hàn sĩ này lệ rơi thấm áo.)

(Khóc thương Hiệp trấn Thọ Như hầu)

“- Chỉ nhân tri kỉ ân thiên lạm,

Chuyển sử hàn nho lụy cánh thâm.”

(Bởi vì ơn tri kỉ quá dày,

Khiến cho mối lụy của kẻ hàn nho thêm sâu.)

(Quá tiền Hình bộ tham tri Huỳnh công thành

trung cựu trạch kiến liễu thụ nhi tác, tịnh dẫn)

Nguyễn Hành thƣờng xuyên nói về cảnh nghèo khổ, vất vả, gian nan

của mình. Đây không hẳn là một lời ca thán, than thở, mà trƣớc hết bộc lộ sự day

dứt, dằn vặt của ông về trách nhiệm, và bổn phận của mình đối với gia đình.

26

Trong tuyển Thơ Nguyễn Hành có nhiều bài thơ thể hiện tâm sự của tác

giả về cái nghèo khổ đeo bám, bủa vây cuộc sống nhà thơ… Thơ hiện thực

của Nguyễn Hành luôn viết về con ngƣời bình thƣờng, về cuộc sống đời

thƣờng, việc đời trần tục. Đời thƣờng nhất, không phải cái gì khác, mà chính

là cái ăn, cái đói, và những tấm áo mặc thƣờng ngày... Điều này đƣợc Nguyễn

Hành nhắc lại khá nhiều trong thơ ông về miếng ăn, cái đói. Thơ viết về cái

đói, cái lạnh thƣờng luôn đau buồn, xót xa nhƣng ở Nguyễn Hành khi nói về

cái đói, cái khó khăn mà ông không hề có chút bi lụy, đau xót và không hề

mất đi cái chí khí, hoài bão lớn lao. Đó là cái chí lớn lao của kẻ sĩ.

Những nhà Nho xƣa, họ có thể chết đói, nhƣng vẫn luôn tỏ ra phong

lƣu, khoáng đạt lắm. Có thể do họ vốn phong lƣu, khoáng đạt và đùa cợt thật,

nhƣ Nguyễn Công Trứ:

“Ngày ba bữa vỗ bụng rau bịch bịch,

người quân tử ăn chẳng cầu no,

Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho,

đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.”

(Hàn nho phong vị phú)

Đem cái nghèo ra mà đùa bỡn nhƣ Nguyễn Công Trứ ở đời hiếm thôi. Thực

tế thì không có nhiều ngƣời có tài hài hƣớc nhƣ vậy. Nho sĩ không phải không thích

nói tới cái nghèo, mà là không thích bi lụy. Có một Nguyễn Khuyến:

“Chẳng khôn cũng biết một hai điều,

Chẳng tội gì hơn cái tội nghèo.

Danh giá dường này không nhẽ bán

Nhân duyên đến thế hãy còn theo.

Tấm lòng nhi nữ không là mấy,

Bực chí anh hùng lúc túng tiêu.

Có lẽ phong trần đâu thế mãi,

27

Chốn này tình phụ, chốn kia yêu.”

(Than nghèo)

Nguyễn Hành lại khác, ông viết về cái nghèo khổ, thậm chí là cái đói,

không một chút hài hƣớc, cũng không hề bi lụy, và cũng không trách mắng gì.

Cũng bởi ông vốn là ngƣời hiền lành, cứ luôn luôn đem cái tâm tĩnh của mình

ra mà phô bày hiện thực phũ phàng. Ta nghe ông nói về cái sự nghèo, thực là

khác hẳn:

“Bần lũ nãi nhƣ thử,

Hồ vi bất khẳng thành.

Cung thừa cữu cố thị,

Trọng niệm chủ nhân tình.

Mỗi bả y vi thực,

Nan tƣơng bút tác canh.

Yêm lƣu hà sở đãi,

Xuân thảo dĩ tƣ sinh.”

(Bần lũ)

(Nghèo hèn đến như thế,

Làm sao lại không đi.

Đã được ông cậu chiếu cố,

Lại quyến luyến tình chủ nhân.

Thường cố áo mua thức ăn,

Khó đem bút làm lưỡi cày.

Dùng dằng mãi không đợi được,

Kìa cỏ xuân đã tốt tươi.)

(Nghèo kiết)

Thơ Nguyễn Hành nói chung đều nhƣ vậy; đôi khi nghe qua hết sức

bình thƣờng, không chút lãng mạn, không chút khoa trƣơng, rất đơn giản

nhƣng lại gần gũi vô cùng.

28

Nguyễn Hành còn cho ta cái nhìn sâu rộng về thực tế phũ phàng :

“Hữu cữu quan tƣ thổ,

Thời lai thả tạm y.

Bán gian liêu hữu thác,

Sổ khẩu khả vô ky (cơ).

Trú tĩnh thƣ thƣờng chẩm,

Xuân hàn hỏa tác y.

Ly hƣơng thù vị phú,

Nghĩa khách tự tƣ quy.”

(Nam Sách lữ hoài)

(Có cậu làm quan đất này,

Bèn sang tạm nương náu.

Nửa gian nhà cũng đủ ở,

Vài miệng ăn có thể không bị đói.

Ngày lặng, lấy sách làm gối,

Xuân lạnh, lấy lửa làm áo.

Ly hương còn chưa kể,

Khách ở lâu đã muốn về.)

(Hoài cảm khi ở trọ Nam Sách)

Không phải cứ than vãn, thở dài rằng ta khổ quá, ta khổ quá mới thực

sự là khổ! Nguyễn Hành không một lần nào than vãn, và ngay cả khi miêu tả

những lúc khổ cực nhất cũng không có một lời than vãn nào. Ông luôn toan

tính, tính toán làm sao để cho có nơi ở, để cho “tám miệng ăn khỏi đói”.

Đôi khi ông lại cũng nhƣ ai, đùa bỡn với cái nghèo, nghe ra không nhịn

đƣợc mà phì cƣời:

“Tân niên bát cửu nhập,

Khí tƣợng hà hùng tai!

29

Chỉ hữu cao bằng tại,

Cánh vô trái gia lai.”

(Tân niên hí đề)

“Trong thời gian tám chín ngày năm mới,

Khí tượng sao mà hào hùng ghê!

Chỗ ngồi rặt những khách phong nhã,

Tuyệt nhiên không có khách nợ đoái hoài.’’

(Năm mới làm thơ đùa vui)

Nhƣng thƣờng thì, ông đều đối mặt với nó một cách tƣơng đối bình

thản, bình thản nhƣ nƣớc. Vì ngƣời quân tử đều thích nƣớc:

“Thân nhƣợc ba tiêu thụ,

Đình đình tự thành tâm.

Kỷ trùng y bác tận,

Trực kiến bản lai tâm.”

(Điển y kệ)

(Thân như là cây chuối,

Sừng sững có bóng âm.

Mấy lần áo bóc hết,

Cái ruột liền phơi ra.)

(Bài kệ chiếc áo lễ)

Sự thật buồn cƣời luôn dễ nói và dễ nghe hơn những điều ẩn giấu bên

trong. Đó còn là cái khí cốt của kẻ sĩ. Chính cái tinh thần ấy, mà dù nói khổ

sở hơn vạn lần nữa, ông vẫn cứ không bao giờ là ngƣời bi lụy, thơ ông mãi

mãi không bi lụy.

Trong bài Mễ tận, Nguyễn Hành cho thấy trong cái khó khăn, nghèo

khổ thì con ngƣời vẫn giữ đƣợc đạo, vẫn toát lên vẻ đẹp tâm hồn thanh cao. Ở

đó, ta thấy có một Nguyễn Hành hoàn toàn khác. Đó là một Nguyễn Hành

30

vƣợt lên trên cảnh nghèo, và tự thuật về cái nghèo túng bằng một tâm thế lạc

quan, bình thản.

“Mễ tận quân hƣu muộn,

Thi thành ngã tự ngâm.’’

(Mễ tận)

(Gạo hết, người đừng buồn bã

Thơ xong, ta tự ngâm nga.)

(Gạo hết)

Có thể nói, Mễ tận là một bài thơ hay về triết lý sống, và còn là một tuyên

ngôn rõ ràng về cách sống đẹp đẽ của Nguyễn Hành. Tác giả gọi cảnh nghèo kiết là

cái lộc trời cho “Thiên dữ trường bần lộc’’ (Trời cho cái lộc nghèo kiết).

Khác với cái nghèo đói của Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khuyến, đó

đều là cái nghèo của nhà Nho sống tại quê nhà, còn cái đói khổ của Nguyễn

Hành là cái đói khổ của cuộc sống biến loạn, lƣu lạc, không chỗ nƣơng sinh.

Lƣu lạc rồi lại sinh khổ nhọc, nghèo túng, và khổ nhọc nghèo túng lại đẩy đi

lƣu lạc... Đó là sự lẩn quẩn không có lối thoát.

“Lữ trung vô kế khả sung cơ,

Điển tận thoa hoàn, điển tận y.

Thặng hữu thử thân vô xứ điển,

Trƣờng niên cục tích vi tri quy.’’

(Điển)

(Tha hương hết cách qua cơn đói,

Cầm hết trâm, vòng, cầm hết áo.

Chỉ còn lại thân này là không cầm đi đâu được,

Năm dài cứ luẩn quẩn mãi không biết làm sao mà về.)

(Cầm cố)

31

Kẻ sĩ ẩn dật, sống lang bạt, nay đây mai đó và không màng danh lợi.

Đây là một hình ảnh lãng mạn nhƣng khi ta ứng vào ông chỉ càng thêm chua

chát. Nguyễn Hành từng nói về chim Đỗ quyên: “Đỗ quyên là loài chim

phương Nam, đến mùa hạ thì kêu mãi không dừng suốt từ sáng đến tối, khi

kêu thì hướng về phương Bắc, nghe như “chẳng bằng về đi ”.”[9,tr19]. Thơ

Nguyễn Hành cũng ứng ở chỗ này thật! Nó chƣa kịp mang đến cho ông một

giây phứt khoái lạc nào nhƣ cổ nhân từng trải, mà đã khiến cho lòng ông

không ngừng thôi thúc khát vọng quay về.

“Ngã diệc hà vi giả,

Tịch liêu lai thử thành.

Nhãn trung vô cố vật,

Tâm thƣợng hữu dƣ tình.

Quế ngọc quan hoài trọng,

Văn chƣơng sách giá khinh.

Tích thời quý công tử,

Kim giả lão thƣ sinh.”

(Bắc thành lữ hoài)

(Cuộc đời rối bời biết lúc nào định,

Đằng trước mắt đều là cảnh thương tâm.

Bỗng đâu lại đến chốn thành thị này,

Chẳng có để bụng gì vào danh lợi, ấy thế mà cũng trần ai.

Nơi cố quốc một phen từ biệt, mà xuân đã tới hai lần,

Cây tùng cây trúc vẫn còn y nguyên.

Người hỏi sao chậm quay về,

Có lẽ vì gạo đắt như ngọc,

củi đắt như quế mà phải lưu luyến chốn này,

Làm sao mà về được.)

32

(Cảm hoài khi ngụ cư ở Bắc Thành)

Song điều càng đáng đau xót hơn đối với một Nho sĩ nhƣ ông với cảnh

đói rét lƣu lạc là phải giƣơng mắt nhìn chí lập thân của mình ngày càng chìm,

và khuất bóng theo thời gian. Có thể nói, con ngƣời ta sống trên đời, không có

gì đáng đau khổ hơn là nguyện vọng, hoài bão của bản thân suốt đời không

thể thực hiện đƣợc:

“Công tử vƣơng tôn,

Trùng phỏng hoàng châu xuân sắc.

Hồi thủ xứ lâu đài thành thị, dĩ phi trù tích.

Vãng sự y y hồn nhƣợc mộng,

Tần sầu lũ lũ trƣờng nhƣ ty.

Tối thị vô đoan phiêu bạc,

Khả liên thân kinh niên khách,

Trần ai lý, thùy tƣơng thức.

Triêu tƣơng quá liễu hoàn mƣu tịch,

Bả bả nhất xuân lạc sự, đẳng nhàn vong khƣớc.

Bất tích yên hoa linh lạc tận,

Chỉ sầu phao hƣ trịch trƣớng.

Bình sinh hoài bão vị tằng khai,

Đầu không bạch.”

(Bắc thành tống xuân)

(Vương tôn công tử,

Lại về thăm cảnh sắc ngày xuân chốn đế đô.

Ngoảnh nhìn lại lâu đài thành thị, đến chẳng còn như xưa.

Chuyện cũ vẫn vương như trong mộng,

Sần mới nối nhau dài như tơ.

Lưu lạc mãi không thôi,

33

Thương thay tấm thân quanh năm nơi đất khách quê người.

Trong chốn trần ai, ai hay biết.

Sang vừa qua đã để lại lo chiều,

Một chút vui xuân, dễ dàng quên hết.

Vẻ đẹp tan tác rụng rời chẳng tiếc,

Chỉ buồn phao phí uổng công,

Xót xa một nỗi hoài bão bình sinh chưa thực hiện,

Mà đầu luống đã bạc.)

(Tiễn xuân ở Bắc Thành)

Nỗi niềm ấy còn đƣợc Nguyễn Hành thể hiện trong các bài nhƣ Phú

quý (Giàu sang) – nỗi đau xót vì mình không đƣợc đắc chí, phải chăng do trời

chêu ngƣời. Trong bài Ngũ thập tuế nguyên nhật thư hoài (Ngày đầu năm

năm mƣơi tuổi viết hai bài thơ tả nỗi lòng), đó là tâm sự xót xa, đau đớn của

một ngƣời đã đi đƣợc nửa chặng đƣờng đời mà vẫn “chỉ e danh khó lập”.

Bởi vậy mới nói: “Chỉ có bậc trị thiên hạ là có thể vừa cai trị, vừa cày

ruộng được hay sao? Có phần việc của bậc đại nhân, có phần việc của bậc

tiểu nhân. Nếu như một người mà tự làm lấy trăm công nghìn việc để lo cho

mình, thì thiên hạ liền nháo nhào cả lên ngay’’[12]. Vì thế, kẻ sĩ thƣờng đƣợc

miễn thuế để tránh làm họ bị những dằn vặt cơm áo gạo tiền bủa vây mà

không thể làm đƣợc việc lớn. Tuy nhiên đang lúc lƣu lạc, phiêu bạt khắp nơi

nhƣ thế thì chỉ không thuế há có thể khiến cho ông thôi lo lắng cơm áo gạo

tiền? Ngƣời thƣờng làm sao có thể cảm thấu đƣợc những đau đớn ấy?

Cuộc sống lƣu lạc, phiêu bạt nơi đất khách quê ngƣời khiến cho

Nguyễn Hành có cái nhìn đa chiều về cuộc sống nhân sinh. Đó cũng là một

khía cạnh nội dung đặc sắc trong sáng tác thơ ca Nguyễn Hành.

34

2.3. Phẩm chất tốt đẹp của nhà Nho

Nguyễn Hành là một Nho sĩ có chí khí cũng nhƣ hoài bão lớn lao, và

luôn ý thức về tài năng của bản thân.

Bài Tư hương tác, nhà thơ đã khẳng định mình luôn giữ trong lòng mối

tiên ƣu nhƣ danh sĩ Phạm Trọng Yêm, luôn có hoài bão đƣợc tự do, đƣợc thỏa

sức làm những việc lớn nhƣ cánh chim bay về Nam. Đồng thời, Nguyễn Hành

còn mong muốn có thể thực hiện ƣớc mơ giúp dân chúng, giúp thiên hạ:

“-An đắc đồ Nam dực,

Thừa phong nhất phấn phi.’’

(Tƣ hƣơng tác)

(Mong được như cánh chim bằng bay về Nam,

Cưỡi ngọn gió bay tung lên trời.)

(Bài thơ nhớ làng cũ)

Sách của Mạnh Tử từng viết: “Cùng tắc độc thiện kì thân, đạt tắc kiêm

thiện thiên hạ’’; nghĩa là gặp thời thì đem đạo ra giúp thiên hạ, còn khi không

gặp thời thì tự rèn luyện cho bản thân mình. Nguyễn Hành tự nhận mình

không hợp thời, vì thế ông luôn một mực chối bỏ đƣờng hoạn lộ, chỉ tự mình

tu tâm dƣỡng tính. Đó là một con ngƣời không phải bị hoạn lộ mà từ bỏ, mà

là tự muốn bỏ hoạn lộ: Nam Phong viết: “Ông trước khi chết đã quyết định

không ra làm quan, sống cuộc đời khổ cực, độc thiện lánh đời.” [13, tr 15].

Ông đã chọn cách sống nhƣ vậy. Sống ở nơi đất khách quê ngƣời, trong

cảnh nghèo khổ, đói rét, bệnh dịch nhƣ vậy nhƣng ông luôn tự nhủ mình giữ

tiết tháo và “chớ để phụ chí khí một đời”. Nhà thơ đều tự nhủ với bản thân

nhƣ vậy, ta thấy rõ điều này ở kết thúc bài thơ Thư hoài, Sầu:

“- Thƣờng tồn vãn tiết giới,

Vật sử phụ bình sinh.”

(Thƣ hoài)

35

(Vẫn thường giữ tiết tháo của tuổi già,

Chớ để phụ chí khí một đời.)

(Viết nỗi lòng)

“- Bất nhƣ quy khứ hảo,

Vật sử phụ bình sinh.”

(Sầu)

(Chẳng bằng về quê còn hơn,

Chớ để phụ chí khí một đời.)

(Buồn)

Ngoài ra, điều này ta còn thấy rõ trong bài Đông Kiều dạ tứ:

“Đông Kiều nhân định hậu,

Độc tọa tự vô liêu.

Đạm nguyệt tà phƣơng chiếu,

Sơ chung đoạn phục phiêu.

Khách tâm đƣơng thử dạ,

Thế sự hựu lai triêu.

Bất dụng văn kê vũ,

Đề thi ủy tịch liêu.’’

(Đông Kiều dạ tứ)

(Ở cầu Đông, sau khi mọi người đã nghỉ,

Ngồi một mình, cảm thấy buồn chán.

Bóng trăng nhạt nghiêng soi,

Tiếng chuông thưa đứt lại nối.

Lòng khách cũng như đêm này,

Chuyện đời lại như sáng mai.

Chẳng cần nghe tiếng gà gáy trở dậy,

Đề thơ để an ủi nỗi cô liêu.)

36

(Nỗi niềm đêm ở Cầu Đông)

Lẽ xuất xử của Nho gia xƣa nay đều vậy. Ông cứ thế mà làm, nhƣng

cũng nhƣ bao con ngƣời ƣu thời mẫn thế khác, ông vẫn không thôi ray rứt:

“Lạnh lùng mấy chốc nóng chen ngang,

Nhan sắc muôn năm lại mở toang.

Thân tớ bao phen không hiển tích,

Đống lương tài thẹn với gió lành.’’ [8,tr85]

(Tân ác phiến tử ngẫu đề - kỳ nhất)

Cuối cùng, tác giả cũng chỉ còn cách tự an ủi lòng mình:

“Tung quạt do chi trút gió lành,

Cơ duyên uyến áo chẳng tường minh.

Nhân gian khắp cả đều mang mệnh,

Đông – hạ, xuân – thu cứ vận hành.”[8,tr85]

(Tân ác phiến tử ngẫu đề - kỳ nhị)

Trong bài Dục dữ nhân vi hữu, Nguyễn Hành tiếp tục thể hiện ý chí

“luôn lo việc nghĩa”, vì thế ông chấp nhận sống và làm bạn với khổ cực, khó

khăn. Không chỉ vậy, Nguyễn Hành ý thức đƣợc rằng thói đời vẫn luôn ca

tụng và thèm muốn giàu sang, nhƣng nếu giàu mà không đúng đạo, không

hợp đạo, không giữ đƣợc chí khí thì không còn đáng quý nữa (Phú quý).

Bên cạnh đó, Nguyễn Hành còn đề cao những ngƣời có tấm lòng cƣơng

trực, ngay thẳng, trong sáng và trong sạch nhƣ chiếc gƣơng sáng (Điển y kệ).

Còn ở bài thơ An ủi kẻ sĩ (Úy mỗ sĩ), ông bày tỏ quan quan niệm khác, đó là

nếu kẻ sĩ có hảo tâm thì không phải lo sợ đƣờng cùng. Từ đó, Nguyễn Hành

tự nhận mình là kẻ sĩ đƣợc trời phú, và có tài thì ắt sẽ có chỗ dùng. Ngoài ra,

Nguyễn Hành còn mƣợn điển tích Hàn Tín thuở hàn vi ở dƣới thành thiếu

cơm ăn và điển Khổng Minh khi chƣa ra phù giúp Lƣu Bị vẫn ở trong lều cỏ

để an ủi bản thân. Đồng thời ông cũng cho rằng đó là mẫu hình trƣợng phu, kẻ

37

sĩ. Trong bài Trường ngôn hành, nhà thơ khẳng định: mình là ngƣời có “tâm chí”,

“nòi trung hiếu”, không ham danh lợi.

Nguyễn Hành là nhà thơ hội tụ đầy đủ tất cả phẩm chất tốt đẹp đáng có của

Nho sĩ – cƣơng trực, ngay thẳng, cứng cỏi, trong sạch, thanh cao.

2.4. Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước

Tìm hiểu kho tàng thơ ca của Nguyễn Hành để lại cho hậu thế, chúng ta

không thể bỏ qua nét đặc sắc trong những bài thơ của ông về thiên nhiên.

Nho sĩ thời xƣa đều thích nhìn ngắm thiên nhiên, đều thích miêu tả thiên

nhiên, nhờ thiên nhiên mà bày tỏ nỗi lòng của mình. Với Nguyễn Du, thiên nhiên

thực tế trong Tái du Tam Điệp sơn chỉ bao hàm ở câu thứ nhất – “Vân tế Tam Điệp

sơm”, còn lại từ “chiếc thuyền lẻ loi ngoài biển”, và “núi với vịnh gầy héo”, cho

đến “thảo mộc đẫm sắc thu”, đó đều là những hình ảnh ám chỉ đến chính nội tâm

con ngƣời lữ thứ kia:

“Hải ngoại kiến ngƣ chu.

Chƣớng tĩnh phong loan sấu,

Thiên hàn thảo mộc thu.

Hành nhân hồi khán xứ,

Vô ná cố hƣơng sầu.’’

(Đèo Ba Dội nghẽn mây,

Khách tận chân trời qua.

Mắt bé thu đời rộng,

Biển xanh thuyền đậu xa.

Khí tan vót vịnh gầy,

Trời lạnh u ám thu.

Ngoảnh mặt đời phiêu bạt,

Cố hương xa khuất xa.)

(Tái Du Tam Điệp sơn – Nguyễn Du)

38

Thiên nhiên trong Minh quyên thi tập lại khác. Thiên nhiên trong thơ

Nguyễn Hành không lung linh, không ngập tràn sắc màu, nhƣng “thuần và

giản dị”vô cùng. Nó gần gũi, mộc mạc hơn thơ ca của một ngƣời đi trƣớc, đã

trải qua bao nhiêu biến động cuộc đời, già dặn, tâm tình cũng đã bình thản và

hoàn thiện hơn:

“Tống sơn nhất lộ thông Tam Điệp,

Sơn thế ta nga khả thăng nhiếp.

Trực thƣớng cao diên vọng đại hoang,

Sơn quang hải khí dao tƣơng tiếp.’’

(Tam Điệp sơn)

(Một con đường từ huyện Tống Sơn thông sang núi Tam Điệp,

Thế núi cheo leo có thể trèo lên.

Lên thẳng ngọn cao trông ra quãng trời bao la,

Ánh sáng núi, khí nước bể xa xa cùng liên tiếp.)

(Núi Tam Điệp)

Ghé thăm đèo Ba Dội có nhiều, và làm thơ về đèo Ba Dội cũng nhiều,

trong số đó có cả những tác gia danh tiếng lẫy lừng nhƣ Nguyễn Du, Hồ Xuân

Hƣơng, Nguyễn Khuyến.... Tuy nhiên, mỗi ngƣời đều có cái nhìn, cách cảm

riêng, nhƣng có thể nói bài thơ Tam Điệp sơn của Nguyễn Hành mang những

nét độc đáo riêng biệt.

Nguyễn Hành luôn hƣớng tới tái hiện thiên nhiên với những gì gần gũi

nhất, giản dị nhất trong cuộc sống đời thƣờng. Đó là trăng, là núi:

“Đàm trung hữu minh nguyệt,

Nguyệt trung hữu thanh đàm.

Thƣợng hạ kính giao chiếu,

Đàm nguyệt câu thành tam.

Cao cao bất khả ấp,

Thâm thâm bất khả tham (thám).

39

Du thiên ngộ chân cơ,

Dục biện dĩ vong đàm.’’

(Đàm nguyệt)

(Trong đầm có trăng sáng,

Trong ánh trăng sáng có đầm nước trong.

Tấm gương trên và dưới chiếu giao nhau,

Cùng với đầm nước và mặt trăng thành bộ ba.

Trăng cao vòi vọi không thể với tới được,

Đêm sâu thăm thẳm không thể thăm dò đượ,.

Lâng lâng giác ngộ mầu chân lý,

Vừa muốn phân biệt thì đã quên mà không biết nói gì nữa.)

(Trăng đầm nước)

Bài Đàm sơn có viết:

“Vị quan đàm ngoại sơn,

Tiên kiến đàm trung ảnh.

Liên phong đảo nhập thiên,

Nhất bích không ƣ kính.

Ngƣ hòa điểu cộng xuất,

Thủy dữ vân câu tĩnh.

Do lai đắc ý xứ,

Hà tu nhận chân cảnh.’’

(Đàm sơn)

(Chưa trông thấy núi ở bên kia đầm,

Đã thấy bóng núi ở trong đầm.

Mấy mỏm núi nối tiếp in ngược bóng vào nền trời,

Một màu biếc trong hơn mặt gương.

40

Cá và chim cùng hiện ra,

Nước và mây đều tĩnh lặng.

Mới biết rằng nơi mà mình thích thú,

Không nhất thiết phải là cảnh thực.)

(Núi trong đầm)

Viết về ánh trăng hay ngọn núi thơ ca Nguyễn Hành còn có một số bài

khác nhƣ Thu nguyệt từ, Minh nguyệt thiên (Bài thơ về trăng sáng), Minh

nguyệt ca (Bài ca mặt trăng), Tản Viên sơn (Núi Tản Viên)...

Thiên nhiên mang đến cho thi nhân nhiều cảm xúc thú vị, đặc biệt là

các loài hoa. Hoa cúc là loài hoa tiêu biểu.

“Y y ngô tử, thiên đức túy lƣơng.

Thanh đạm vô dục, hữu dĩ dị phù chúng phƣơng.

Thời tai vị ngộ, nhƣợc Y, Chu chi thoái tàng.

Bột nhiên nhi hƣng, nhƣ Sào, Do chi quan miện hồ miếu lang.

Tính chất trung uẩn, anh hoa ngoại dƣơng,

Thực vô cầu nhi tự hoạch, đạo ảm nhiên nhi nhật chƣơng.

Lệ nghiêm sƣơng chi tiết tháo, sán minh nguyệt chi huy quang.

Khƣơng ý vị kỳ ngu nhân, phong tự viễn nhi văn hƣơng.

Nguyện dữ quân tử hề kết trƣờng hữu,

Tuế tịnh tạ hề, vô tƣơng vƣơng.’’

(Cúc tụng)

(Tốt tươi thay hoa cúc,trời phú cho đức thuần túy và lương thiện.

Thanh đạm không ham muốn gì,thực chẳng giống như các thứ hoa

thơm khác.

Chưa gặp thời vận thì lui về ở ẩn như ông Y, ông Chu,

41

Bổng nhiên bừng, áo mũ đường hoàng nơi lang miếu như ông Sào,

ông Do vậy.

Tinh chất chứa bên trong, anh hoa phát ra ngoài.

Thực không cầu mà tự được, đạo vẫn âm thầm mà ngày càng sáng

thêm.

Nghiêm lệ như hạt sương trong, huy hoàng như mặt trăng sáng.

Về ý đủ làm vui lòng người, gió thoảng xa mà hương thơm

đã ngát.

Nguyện cùng người quân tử kết bạn lâu dài, dì năm hết hoa tàn cũng

không quên nhau.)

(Bài ca tụng hoa cúc)

Trong khi các loài hoa khác nở vào mùa xuân thì hoa cúc nở vào mùa

thu. Nguyễn Hành viết bài phú ca tụng hoa cúc: Tốt tƣơi thay hoa cúc trời phú

cho đức thuần túy và lƣơng thiện. Thanh đạm không ham muốn gì, thực

chẳng giống nhƣ các thứ hoa thơm khác. Chƣa gặp thời vận thì lui về ở ẩn

nhƣ ông Y Doãn, tƣớng nhà Thƣơng. Nhƣ Chu Công Đán tƣớng nhà Chu

giúp vua Vũ Vƣơng. Bỗng nhiên bừng lên áo mũ đƣờng hoàng nhƣ Sào Phủ

và Hứa Do hai cao sĩ thời Đƣờng Nghiêu, hai ông không màng danh lợi, cùng

vào ẩn trong núi, vua Nghiêu đem thiên hạ nhƣờng cho cũng không nhận.

Ngoài ra, còn có một số bài thơ khác Nguyễn Hành viết về các loài hoa

nhƣ Quỳ hoa (Hoa quỳ), Đào hoa vịnh (Vịnh hoa đào), Vịnh cúc (tam thủ)

(Vịnh hoa cúc – 3 bài), Tứ quý hoa (Hoa bốn mùa)...

Bài Tây Hồ là những cảm nhận rất tinh tế của “ngƣ ông”:

“Dâm đàm nhất thủy bích dung dung,

Tây Việt phân minh cổ cảnh trung.

Dạ khí mỗi sinh thƣờng hữu nguyệt,

42

Chân cơ trƣờng động bất tri phong.

Y hy cổ thụ mê hành điện,

Thiều đệ hoa kinh huởng Phạm cung.

Bản thị điếu ngao ba thủy khách,

Khả lai hồ thƣợng tác ngƣ ông.’’

(Tây Hồ)

(Cả hồ nước Dâm Đàm xanh rờn rờn,

Rõ ràng đây là cõi đất xưa của xứ Tây Việt.

Khí đêm sinh ra, mỗi khi có trăng sáng,

Cơ mầu nhiệm vẫn động, nên không biết là có gió.

Lờ mờ rặng cây cổ thụ che khuất hành điện,

Văng vẳng tiếng chày kình, từ ngôi chùa vọng ra.

Vốn là khách câu cá ngao trên mặt sóng.

Có thể đến làm ngư ông trên hồ này.)

(Tây hồ)

Bài Nhất Trụ Tự tái hiện khung cảnh hùng vĩ,tuyệt đẹp của chùa

Một Cột:

“Nhất Trụ hà thời tự,

Đình đình tại thử gian.

Uyển nhƣ hƣơng hải thủy,

Dũng xuất Tu Di sơn.

Sảng lộ phần ai biệt,

Chƣ thiên cảnh giới khoan.

Ngã lai cầu cổ tích,

Nhân đắc khấu thiền quang.”

(Nhất Trụ Tự)

(Chùa Một Cột thời nào,

43

Sừng sững ở nơi đây.

Giống như dòng nước hương hải,

Vọt lên như núi Tu Di.

Phân biệt đường sáng với bụi mù,

Quang cảnh giới hạn các tầng trời [bao la].

Ta đến thăm cổ tích,

Nên được gõ cửa thiền.)

(Chùa Một Cột)

Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Hành không có những cảnh tráng lệ, đầy

màu sắc, không cao lớn, không lãng mạn hay triết lý sâu xa... Nhƣng chỉ có

cái “thuần mà giản dị” đến kỳ lạ nhƣ vậy mới có thể khiến cho thơ thiên

nhiên trong Minh quyên thi tập trở nên nhẹ nhàng, điềm đạm và vƣợt xa lẽ

thƣờng. Nói khác đi, đó là điều khác thƣờng của những thứ bình thƣờng.

44

Tiểu kết chƣơng 2

Thơ Nguyễn Hành toát lên một quan niệm tiến bộ văn học gắn bó với

thời cuộc, với hiện thực cuộc sống.

Khác với các tác gia văn học khác, thơ ca của Nguyễn Hành chủ yếu

hƣớng đến hiện thực về một nhà Nho ẩn sĩ trong cuộc sống lƣu lạc đầy khốn

khó bệnh tật, đói rét, phải chia ly ngƣời thân, quê hƣơng , và thƣờng xuyên

phải lo toan cuộc mƣu sinh cơm áo gạo tiền đầy gian nan. Minh quyên thi tập

đã kéo ta trở về với hiện thực tàn khốc, Nguyễn Hành tái hiện hiện thực

không hề né tránh, không hề trào lộng, không cƣời nhạo nhƣng nó cũng

không hề bi lụy.

Qua cái nhìn về nhân sinh, ta thấy Nguyễn Hành thể hiện thái độ rõ rệt

của ông trƣớc thời cuộc. Đó là một cái nhìn đầy lạc quan và đa chiều về nhân

sinh.

Vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ Nguyễn Hành rất giản đị, gần gũi với đời

sống thƣờng nhật. Tất cả những điều đó đều là những cảm xúc bình thƣờng

của con ngƣời, nhƣng có lẽ chính sự bình thƣờng đó đã làm nên một hồn thơ

phi thƣờng. Có thể nói, thơ Nguyễn Hành chính là bản tự thuật về cuộc sống

của nhà Nho.

45

Chƣơng 3.

MINH QUYÊN THI TẬP NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Nghệ thuật trong Minh quyên thi tập đƣợc thể hiện qua một số phƣơng

diện tiêu biểu nhƣ hình tƣợng thơ, ngôn ngữ thơ, thể thơ, giọng điệu.

3.1. Hình tượng thơ

Thơ trữ tình bao giờ cũng luôn hƣớng tới thể hiện diện mạo của chủ

thể trữ tình. Có thể nói, đây là vấn đề trung tâm. Chủ thể trữ tình là trung tâm

của một tác phẩm trữ tình, có thể đƣợc thể hiện trực tiếp qua các bài thơ tự

thuật, hay tự họa viết về bản thân, nhƣng nó cũng có thể đƣợc thể hiện gián

tiếp qua các hình tƣợng khách thể. Ví nhƣ hình tƣợng các nhân vật mà nhà

thơ lựa chọn hoặc hình tƣợng thiên nhiên…

Hình tƣợng khách thể trong thơ ca của Nguyễn Hành khá đa dạng: đó

là vợ, con gái (Chí phụ thủ tán…); Nguyễn Du (Thướng thúc phụ Đông các

học sĩ); ngƣời cho khoai, hàng xóm (Hữu huệ cam thự giả); các nhân vật lịch

sử trong quá khứ (Đạo ngộ Bái công phú); hay những ngƣời cùng thời (Ai

Phan Khoan Trọng, Lữ Cầm trượng nhân tán…)…

Trong đó, hình tƣợng nổi bật nhất vẫn là ngƣời dân quê. Đó là cuộc

sống đời thƣờng của nhân dân, hình ảnh đó đã đi vào thơ Nguyễn Hành rất

đặc biệt. Ta thấy không hề có một hình ảnh nào miêu tả cảnh no ấm, thanh

bình nhƣ cái nhìn lý tƣởng vốn có trong văn chƣơng của các nhà Nho trƣớc

thời Lê trung hƣng. Sáng tác của Nguyễn Hành chủ yếu là cuộc sống đói

nghèo, khốn khổ, bệnh tật, ly tán và chết chóc. Ngoài ra còn là tình ngƣời ấm

áp, cởi mở. Trong bài Nạn dịch lớn, Nguyễn Hành tái hiện cảnh tƣợng do

chính ông mắt thấy, tai nghe, đó là nhân dân bị dịch bệnh bủa vây, sợ hãi, và

ngƣời chết la liệt khắp nơi: “mục thảm nhân dân tử”.

46

Ngoài Nạn dịch lớn, Nguyễn Hành còn có bài Dịch bệnh lại tái phát

(Dịch tái tác), vô cùng xúc động:

“Lãnh khí lƣu hành đông hựu xuân ,

Hoàng thiên hồ nhẫn thử tƣ dân.

Mệnh trung nhƣợc hữu suy di lý,

Bất tích thân đƣơng thiên bách thân.”

(Dịch tái tác)

(Khí lạnh tràn qua đông lại sang xuân,

Ông trời sao nỡ [để tai họa] giáng xuống con dân.

Nếu trong số mệnh có cái lẽ “thay thế”,

Thì ta chẳng tiếc đem thân này [chịu nạn thay cho] muôn dân.)

(Dịch bệnh tái phát)

Thơ Nguyễn Hành là tiếng thơ thƣơng dân, thƣơng đời, và luôn day dứt

trƣớc vận mệnh đất nƣớc nƣớc. Nguyễn Hành sống cuộc sống của một ngƣời

dân thƣờng, hơn ai hết, ông nếm đủ những cay đắng của một kiếp ngƣời

nghèo khổ, lẻ loi, cô đơn nơi đất khách quê ngƣời.

Trong bài Phú đắc, ông luôn băn khoăn, tự hỏi ngày nào là thanh minh. Đó

vừa là tiếng kêu đau thƣơng trƣớc tình cảnh nhân dân đói khổ triền miên, không có

lối thoát vừa là lời thở than, buồn chán cho cảnh ngộ của chính tác giả:

“ Tƣ dân do khốn ách,

Hà nhật thị thanh minh.’’

(Dân này còn khốn khổ,

Ngày nào là thanh minh.)

Không chỉ vậy, Nguyễn Hành bày tỏ tâm sự trăn trở, day dứt của mình

trong bài Cung kính trước tượng thần Quan Công, ông viết: “Quốc sỉ sơn hà

phá/ Dân thƣơng dịch lệ tần” (Đối với nước hổ thẹn khi non sông bị tàn

phá/Đối với dân, đau đới thấy bệnh dịch hoành hành).

47

Đề cập đến “muôn dân”, “con dân”, “bách thân”, nhà thơ không chỉ

miêu tả cảnh sống vật chất đói nghèo, mà ông còn miêu tả cuộc sống tinh thần

đẹp đẽ của ngƣời dân. Qua những vần thơ chân thực nhƣ Có người cho khoai;

Lưu lạc, Có người đem gạo cho…, ta thấy hiện lên hình ảnh ngƣời dân luôn

ân cần, cởi mở, hào hiệp, sẵn lòng đùm bọc, san sẻ giúp đỡ ngƣời cùng cảnh

ngộ. Viết về ngƣời cho gạo, Nguyễn Hành không dừng lại ở một ngƣời vô

danh mà ông chú thích rõ dƣới bài thơ tên ngƣời, nơi chốn: “người ở Tứ Kỳ là

Nguyễn Siêu Phủ mang gạo cho”[6,tr80]

Thơ Nguyễn Hành viết về cái đói, cái nghèo, vế này dƣờng nhƣ luôn đƣợc

đặt liền với một vế bên kia là sự nhớ ơn giúp đỡ của ngƣời đời, của tình làng nghĩa

xóm trong cảnh cùng quẫn. Day dứt về cảnh vợ con đói nghèo đã đành, ở Nguyễn

Hành còn day dứt vì chịu ơn ngƣời mà chƣa có điều kiện báo đáp trả ơn.

Ngoài ra, Nguyễn Hành cũng dành nhiều vần thơ viết về tình bằng hữu

đẹp đẽ. Hình tƣợng bằng hữu trong thơ ông thƣờng là những con ngƣời cụ

thể, xác thực. Vẻ đẹp của tâm hồn là điểm nổi bật ở họ. Nhà thơ thƣờng viết

về bằng hữu với tâm thế của ngƣời biết ơn hoặc ngƣỡng mộ. Nguyễn Hành ca

ngợi tình bạn gắn bó với nhau, tri ân, tri kỉ không kể tới giàu sang danh phận

thể hiện ở bài Kính dâng ông Chánh đường phủ Nam Sách họ Bùi; cho dù

danh phận không giống nhau, cho dù cách nhau ngàn dặm thế nhƣng tình cảm

nhƣ chung một nhà. Bằng hữu trong thơ Nguyễn Hành không chỉ là ngƣời

quên danh phận, quên sự thành bại trong đời mà giao du với nhau (Ghi lại

một cuộc gặp gỡ) mà còn là những ngƣời hiểu cốt cách của nhau, quý trọng

lẫn nhau (Đáp lại Phan Kim Thành).

Qua những vần thơ này, ta thấy hiện lên sự nhẹ nhõm, thoải mái, và

một khoảnh khắc hào sảng, ngắn ngủi hiếm có ở Nguyễn Hành. Cho dù ở

trong cảnh khốn khó đủ đƣờng mà vẫn có nhiều bè bạn gắn bó và đối đãi thực

lòng thì quả là điều đáng quý!

48

Bên cạnh đó, ta thấy một trải nghiệm khác của Nguyễn Hành về tình bạn bị

đứt gãy trong cơn tao loạn. Ví nhƣ bài Tình thi, Nguyễn Hành cảm nhận đƣợc

những ngƣời bằng hữu hoặc không dám giao du với ông, hoặc thay lòng đổi dạ:

“Nhĩ lai văn hữu mệnh

Bất khẳng dữ giao du…

Thủy lƣu chung đáo hải

Nhân tự hữu hối đầu”

(Tình thi)

(Gần đây nghe có mệnh trời

Người không dám giao du cùng ta…

Nước chảy xuôi cuối cùng đổ ra bể

Người ta ắt cũng có lúc quay đầu.)

(Thơ tình)

Ta có thể khẳng định rằng, các hình tƣợng khách thể trong thơ Nguyễn

Hành đều là hiện thân cụ thể, sinh động của nhân tình thế thái ở mỗi tình

huống nhân sinh nào đó. Có hình tƣợng đƣợc xây dựng nhằm thể hiện ngợi

ca, tri ân tình làng nồng ấm mà cởi mở; có hình tƣợng khẳng định chí khí,

hoài bão lớn lao; cũng có hình tƣợng đƣợc ngòi bút tác giả tô đậm nhằm đề

cao tình bằng hữu đẹp đẽ trong hoàn cảnh khó khăn; có hình tƣợng đƣợc khắc

họa nhằm nêu cao tấm gƣơng trung hiếu nghĩa liệt; và lại có hình tƣợng biểu

hiện tình nghĩa thủy chung, anh em sâu đậm. Tất cả các hình tƣợng khách thể

đó đều đƣợc nhà thơ khắc họa bằng bút pháp hiện thực, và đƣợc miêu tả từ

những gì mắt thấy tai nghe trong cuộc sống thƣờng nhật.

3.2. Ngôn ngữ thơ

Ngôn ngữ Nguyễn Hành giản dị, đó không phải thứ văn chƣơng dày

công gọt dũa mà thành. Điều này khiến cho rất nhiều độc giả thích thú và ủng

hộ loại thi ca thuần hậu, tự nhiên này:

49

“Cơ lai do bất cố,

Ngột tỏa thả nhần ngâm.

Hành hữu thử vi sự,

Khả vô tha dụng tâm.

Bất tƣ chân đắc cú,

Nhất khí tự thành âm.

Tảo ngữ thi đan quyết,

Tu chi dĩ chí kim.’’

(Ngâm thi sự)

(Đói nhưng chẳng buồn chú ý,

Vẫn điềm nhiên ngồi nhàn nhã ngâm thơ.

May mà có cái việc đó,

Nên các việc khác chẳng bận tâm phải lo.

Không cần chọn lựa câu đích đáng,

Cứ liền một hơi là thành thơ.

Đã nói từ lâu làm thơ như bí quyết luyện đan,

Và đến nay vẫn cứ thế mà làm.)

(Việc ngâm thơ)

Nhìn vào Minh quyên thi tập nói riêng, thơ ca Nguyễn Hành nói chung,

quả thực đúng là nhƣ vậy.

Nguyễn Hành luôn biết cách làm cho thơ văn của mình giản dị đi một

cách tinh tế:

“Chƣởng ác chi trung thiện hóa công,

Phiên nhiên hoán xuất vạn hoa tùng.

Thỉnh quân trƣớc nhãn hƣu kinh động,

Hán uyển Đƣờng viên tại thử trung.’’

(Vạn hoa kính đồng)

50

(Trong nắm tay mà có được tài của hóa công,

Chỉ cần xoay chuyển là hàng vạn khóm hoa thay nhau xuất hiện.

Xin anh cứ nhìn mà chớ nên kinh ngạc,

Vườn hoa của kinh đô nhà Hán, nhà Đường đều ở trong đó cả.)

(Ống kính vạn hoa)

Ông không thích những lời nói không rõ ràng, cũng nhƣ ông không bao

giờ né tránh bất cứ khó khăn, đau khổ nào trong cuộc đời mình.

Thơ văn Nguyễn Hành thay vì sắc sảo, tƣơi đẹp, đắn đo hay bỡn cợt...

lại luôn tĩnh mịch, bình lặng đến lạ. Điều này có thể xuất phát từ lý do sáng

tác của ông. Nguyễn Hành làm thơ chỉ muốn nó đơn giản, nhằm thổ lộ cái

buồn, cái nhớ thƣơng da diết trong những ngày tha hƣơng cầu thực mà thôi:

“Bất dụng văn kê vũ,

Đề thi ủy tịch liêu.’’

(Đông Kiều dạ tứ)

(Chẳng cần nghe tiếng gà gáy trở dậy,

Đề thơ an ủi nỗi cô liêu.)

(Nỗi niềm ở Cầu Đông)

Bên cạnh đó, Nguyễn Hành cũng dùng từ láy trong bài (Tây hồ - kỳ nhị):

“Ngạn tự chung thanh thù diểu diểu,

Ngự tân thảo sắc cố thiên thiên.”

(Tiếng chuông chùa bên bờ hồ vang văng vẳng

Màu cỏ bên đê chắc vẫn xanh rờn rờn)

(Tây Hồ - bài 2)

Ngoài ra, Nguyễn Hành còn sử dụng các điển tích, điển cố. Thơ

văn Nguyễn Hành giản dị, vì vậy ông không ham thích những ám dụ

màu mè:

“Bần tiện đô duyên ngã tự cầu,

Bình sinh hà oán diệc hà vƣu.

51

Cổ nhân tối ái tao khang nghĩa,

An đắc tao khao đáo bạch đầu”

(Tăng nội)

(Nghèo và không có địa vị, đó đều là do ta tự chuốc lấy,

Cả đời chẳng oán trời cũng chẳng giận người.

Cổ nhân rất quý trọng nghĩa tao khang,

Mong sao giữ được tình nghĩa ấy cho đến lúc bạc đầu.)

(Tặng vợ)

Điển cố đƣợc nhà thơ sử dụng rất quen thuộc. “Nghĩa tao khang” là điển

tích đƣợc dùng rất nhiều trong các tác phẩm từ xƣa đến nay của cả Việt Nam và

Trung Quốc. “Tao khang” là bã rƣợu và cám, thức ăn của những ngƣời nghèo khổ,

cùng cực. Theo sách Hậu Hán thư, Hán Võ Đế muốn đem chị là Hồ Dƣơng công

chúa gả cho Tống Hoằng, khuyên Hoằng nên bỏ ngƣời vợ đã lấy từ trƣớc. Tống

Hoằng không chịu nghe theo, nói rằng: “Bạn bè kết giao lúc nghèo khổ không thể

quên nhau, ngƣời vợ thuở hàn vi từng lấy cám bã nuôi nhau cũng không thể từ bỏ.”

(Bần tiện chi giao bất khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đƣờng.)

Là một ngƣời thuần hậu, giản dị, cho nên có bao nhiêu điều ông không

ngại ngần mà bày tỏ ra hết:

“Lệnh tiết thông thông quá,

Tha hƣơng lạc lạc bần.

Tằng vô hạ tửu vật,

Bất thị độc tinh (tỉnh) nhân.’’

(Sách Giang đoan ngọ)

(Đón tiết lành qua loa,

Ở quê người nghèo xác xơ.

Chưa bao giờ có nổi thứ rượu cặn,

Mà chẳng phải mình là người “riêng ta tỉnh”.)

(Tiết đoan ngọ ở Sách Giang)

52

Ngƣời “riêng ta tỉnh” là chỉ Khuất Nguyên. Lấy điển Khuất Nguyên bị

dèm pha, vua Sở đày xuống nơi hẻo lánh ở phía Nam. Có lần ông xõa tóc đi

lang thang nơi bờ sông, gặp một ngƣời đánh cá, hỏi rằng: “Ông có phải quan

tam lƣ đại phu đó chăng? Sao đến nơi này?” Khuất Nguyên đáp: “Cả thế gian

ai cũng ô trọc, chỉ có ta là ngƣời trong sạch; ngƣời đời ai cũng say chỉ riêng ta

tỉnh”. Ở đây Nguyễn Hành có ý trào lộng tình cảnh nghèo khó của mình.

Ngôn ngữ thơ Nguyễn Hành giản dị, tự nhiên, không dày công trau

chuốt, cũng không mỹ miều. Ấy cũng chính là cốt cách con ngƣời Nguyễn

Hành – hòa nhã, thuần hậu, và vô cùng giản dị.

3.3.Thể thơ

Minh quyên thi tập là một tập thơ có sự đa dạng về thể thơ. Các tác

phẩm trong tập thơ này chủ yếu đƣợc Nguyễn Hành sáng tác bằng thể thơ ngũ

ngôn (ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú), và thể thơ thất ngôn (thất ngôn

Đƣờng luật, thất ngôn bát cú Đƣờng luật). Đây là các thể loại đặc trƣng trong

sáng tác bằng chữ Hán.

Về thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, tiêu biểu là Hữu tặng, Đa thọ, Sách Đoan

ngọ, Hỷ nhị nữ lai tự Vĩnh lại, Dục dữ nhân vi hữu, Khách y đơn...; thể thất

ngôn tứ tuyệt nhƣ Điển, Tăng nội, Cầu y, Tĩnh dạ môn tâm ngữ... Tất cả

những bài thơ nằm trong thể thơ này thƣờng đề cập nhiều đến những triết lí

nhân sinh hoặc là những cảm ngộ sâu sắc của nhà thơ với thời cuộc.

Về thể thơ ngũ ngôn bát cú, ta có thể kể đến Mễ tận, Nam Sách lữ hoài,

Khách trung trung thu, Hữu huệ cam thư giải..., thể thất ngôn bát cú có

Huyền Vân động, Đinh sửu khách trung trung thu đối nguyệt tăng nội, Quan

cạnh độ, Vãn Hiệp Trấn Thọ Như Hầu...Các tác phẩm đều có dung lƣợng khá

lớn, do đó nội dung cũng trở nên phong phú hơn đi từ phản ánh hiện thực và

miêu tả hiện thực, sau đó đến thể hiện tƣ tƣởng.

53

Ngoài ra, Minh quyên thi tập còn có một số bài thơ Nguyễn Hành sáng

tác theo thể ngũ ngôn trƣờng thiên có Hồng sơn, Quan thủy, Quán viên... Một

số bài viết bằng thể ký tiêu biểu Đồng Xuân ngụ ký, Huỳnh thị gia miếu tiền

sơn thủy thụ mộc ký, Đồng Xuân phường tiền Thái bảo Ngọc Quận Công

tòng tự bổn đình bi ký. Không những vậy, tập thơ còn có những bài làm theo

thể ca, hành nhƣ: Thiết trùy ca, Trường ca hành...Thể phú có thể kể đến Đạo

ngộ Bái công phú, Loạn thế độc thư cao..; thể vịnh nhƣ: Vịnh cổ, Tân thành

vịnh...

Sự đa dạng, phong phú trong thể thơ giúp cho Nguyễn Hành có thể

biểu đạt đƣợc sự đa dạng của cuộc sống, và soi chiếu các nhân vật lịch sử từ

điểm nhìn gần, đời thƣờng nhất. Đồng thời, nó giúp cho nhà thơ phô diễn

đƣợc tất cả các cung bậc cảm xúc và diễn tả có hiệu quả nhất.

3.4. Giọng điệu

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu biểu đạt “thái độ, tình

cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của người nghệ sĩ đối với hiện tượng được

miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc

điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi

ca hay châm biếm… Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm

và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong

cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [4,tr91]. Vì vậy, ta có

thể thấy giọng điệu là một hiện tƣợng đặc sắc và cũng là một phạm trù thẩm

mỹ quan trọng trong văn học.

Giọng điệu trong Minh quyên thi tập khá đa dạng. Tiêu biểu là ở phần

thơ vịnh sử, Nguyễn Hành thể hiện rõ lập trƣơng tƣ tƣởng, cũng nhƣ đạo đức

xã hội rõ rệt. Ở phần thơ này, ông đều thể hiện giọng khẳng định, ngợi ca, và kính

phục các nhân vật lịch sử mà theo ông đó là những tấm gƣơng trung hiếu, hào hiệp,

54

anh hùng nghĩa liệt nhƣ Thúy Ái phu nhân, Tổng vịnh Tây Sơn khởi nghĩa ca, Chiêu

Thống phi Nguyễn thị, Đan Nhiễm ngự sử công, Điếu quốc vong tướng sĩ...

Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, khẳng định còn có giọng điệu phê phán,

trào lộng. Nguyễn Hành nói về “đạo thành thị”, khi tất cả con ngƣời chạy

theo danh lợi và cũng khi ông nói về phú quý, về những hạng ngƣời bất nghĩa,

và về cuộc sống thái bình giả tạo ở đô thành nhƣ Kim ngữ; Túy thái bình; Thế

đạo; Mãnh hổ hành nhất thủ, tịnh dẫn ... Ngoài ra, còn có giọng tự hào, hóm

hỉnh khi ông tự thuật về cái nghèo của mình nhƣ Vịnh xỉ lạc, Mễ tận, Dục dữ

nhân vi hữu, Xuân nhật hí đề đông lân tường...

Với những bài thơ về tri ân tri kỉ, biểu đạt lòng biết ơn bạn bè giúp đỡ,

biết ơn làng xóm và những câu thơ thƣơng xót dân, lo cho dân, câu thơ tỏ chí,

ta thấy giọng điệu chủ yếu trong thơ ông vẫn là giọng đớn đau, thƣơng xót

tiêu biểu trong các bài Dịch tác, Dịch tái tác, Đại dịch, Phú đắc hà nhật thị

thanh minh, Hỉ Hoàng gia phụ giai phu nhi lai...

Có thể nói, giọng điệu trong Minh quyên thi tập đa dạng, phong phú; thể hiện

tƣ tƣởng, tình cảm và thái độ của Nguyễn Hành với cuộc sống nhân sinh.

55

Tiểu kết chƣơng 3

Có thể nói, nghệ thuật trong Minh quyên thi tập rất đặc sắc, tinh tế.

Về phƣơng diện hình tƣợng thơ, ta có thể thấy hình tƣợng trung tâm

trong thơ Nguyễn Hành là dân thƣờng. Thơ Nguyễn Hành vừa là bản tổng kết

chân thực, chi tiết về cuộc đời và con ngƣời ông, vừa là bức tranh về cuộc

sống của những nạn dân thời bấy giờ.

Về phƣơng diện ngôn ngữ thơ, thơ ông “thuần và giản dị”. Điều này xuất

phát từ hai lý do: Đầu tiên là do cá tính sáng tác của Nguyễn Hành, thơ văn cũng

nhƣ chính con ngƣời ông, luôn điềm đạm mà giản dị, bình lặng mà gần gũi. Sau đó

là do mục đích sáng tác, ông luôn chủ đích sáng tác để “yên ủi cảnh tịch liêu”.

Về phƣơng diện thể loại, Minh quyên thi tập là một tập thơ có sự đa dạng về

thể loại: từ thể thơ ngũ ngôn, thể thất ngôn cho đến một số thể phú, hành, vịnh... Có

thể thấy, Nguyễn Hành là một tác gia có khả năng sử dụng nhuần nhuyễn nhiều thể

loại văn học khác nhau. Đồng thời, sự đa dạng trong các thể loại giúp cho ông có

thể biểu đạt rõ nét sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của cuộc sống.

Về phƣơng diện giọng điệu, có thể nói, giọng điệu chủ đạo trong thơ

Nguyễn Hành là đau xót, cảm thƣơng trƣớc thế cuộc loạn lạc, dân đen phải

sống cuộc đời phiêu bạt nay đây mai đó, trăm bề khốn khổ.

56

KẾT LUẬN

Trong đề tài này, chúng tôi đã trình bày những vấn đề cơ bản về thời

đại, cuộc đời, con ngƣời cũng nhƣ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Hành và

những giá trị nội dung – nghệ thuật trong Minh quyên thi tập.

1. Nguyễn Hành là một nhà Nho sinh ra trong một gia đình giàu truyền

thống khoa cử và văn chƣơng. Ông sống vào cuối thế kỉ XVIIII đầu thế kỷ

XIX, đây là thời kỳ chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng, chiến tranh

xảy ra triền miên, kinh tế đình đốn, đời sống nhân dân khổ cực, cộng thêm

hạn hán mất mùa, nạn đói hoành hành, bệnh dịch tràn lan... Chính vì vậy mà

nhiều gia đình phải ly tán, đi tha hƣơng cầu thực, đạo lí cƣơng thƣờng bị đảo

lộn, dẫn tới nông dân bùng lên khởi nghĩa khắp nơi. Nguyễn Hành đã chứng

kiến tất cả biến động xã hội to lớn ấy, điều này đã ảnh hƣởng vào sáng tác của

ông. Nguyễn Hành vừa là nhân chứng, cũng vừa là nạn nhân của cuộc biến

thiên lịch sử. Từ một công tử sống cuộc sống dòng dõi thế gia vọng tộc,

Nguyễn Hành bị ném vào cuộc đời gió bụi; từ một hàn sĩ ông trở thành “nhà

thơ dân đen”. Cũng chính từ cuộc sống gian khổ ấy, từ sự trải nghiệm việc

đời, chứng kiến nhiều cảnh đời cơ cực, sống nay đây mai đó, và đƣợc nhận sự

giúp đỡ của làng xóm, của bạn hữu tri ân tri kỉ.. Nguyễn Hành có nhiều bài

thơ giản dị, chân thực nhƣng đầy sự ám ảnh.

2. Giá trị nội dung trong Minh quyên thi tập, chúng tôi phân chia thành

bốn nội dung chính, bao gồm: nỗi niềm đau xót trƣớc cuộc sống khốn cùng

của nhân dân; cuộc sống nghèo khổ, cô đơn của nhà Nho nơi đất khách quê

ngƣời; phẩm chất tốt đẹp của nhà Nho; ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên. Thơ ca

Nguyễn Hành luôn là những vẫn thơ thể hiện nỗi buồn, đau xót trƣớc cuộc

sống đói nghèo, khổ cực, bệnh tật của nhân dân. Ông đã phơi bày cuộc sống

biến loạn ấy rất chân thực. Nói thơ Nguyễn Hành nhƣ tiếng kêu thƣơng ai oán

đến cùng cực thì ta hiểu trƣớc hết là tiếng kêu của nhân dân đói nghèo, tiếng

57

kêu đau thƣơng về cuộc sống khốn cùng, ly tán phiêu bạt khắp nơi của nhân

dân giữa “thuở đất trời nổi cơn gió bụi”. Một trong những nội dung lớn khác

bao trùm thơ Nguyễn Hành đó là chính hiện thực về cá nhân tác giả, ngƣời

khách lữ thứ, ngƣời ẩn sĩ với những khó khăn, nhọc nhằn, đau đớn, tha hƣơng

lánh nạn của nhà thơ. Cho dù cuộc sống đầy rẫy những đói nghèo, những cơ

cực nhƣng Nho sĩ ấy vẫn luôn lạc quan, bình thảm, luôn giữ cái chí của nhà

Nho. Ngoài ra, vẻ đẹp thiên nhiên đƣợc Nguyễn Hành khắc họa rất tự nhiên,

mộc mạc và giản dị; không tráng lệ, không sắc màu rực rỡ, hay thấm đẫm triết

lý sâu xa...Điều đó tạo nét riêng biệt độc đáo trong thơ ca Nguyễn Hành.

3. Giá trị nghệ thuật trong tập thơ, chúng tôi chia thành bốn nội dung

đó là hình tƣợng thơ, ngôn ngữ thơ, thể thơ và giọng điệu. Hình tƣợng thơ

trong tập thơ rất đa dạng, đó là ngƣời hàng xóm, bạn hữu, vợ con... nhƣng

hình tƣợng chủ yếu là những ngƣời dân quê với cuộc sống thƣờng nhật. Các

tác gia văn học cổ điển thƣờng không dụng công trau chuốt ngôn từ, cho nên

ngôn từ đƣợc sử dụng đều rất tự nhiên, nó tự nhiên mà đặc sắc. Có thể nói,

ngôn ngữ đƣợc Nguyễn Hành sử dụng tự nhiên, rất thuần, giản dị mà gần gũi,

không quá trau chuốt. Về thể loại, Minh quyên thi tập có sự đa dạng về thể

loại bao gồm nhiều thể loại khác nhau nhƣng thể thơ ngũ ngôn và thất ngôn

làm trung tâm. Ngoài ra, giọng điệu thơ Nguyễn Hành cũng phong phú. Có

giọng điệu trào lộng, phê phán khi nói về thế đạo. Còn có giọng tri ân về tình

làng xóm láng giềng, và giọng ngợi ca tình bằng hữu đẹp đẽ. Có lúc là giọng điệu

thở than kêu thƣơng khi gặp cảnh sinh không gặp thời, không chốn nƣơng náu yên

ổn… Tuy nhiên, chủ âm của thơ Nguyễn Hành vẫn là tiếng kêu đau thƣơng bi thảm

trƣớc thời thế suy loạn, cuộc sống con ngƣời đói khổ, khốn cùng.

4. Với đề tài Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong Minh quyên

thi tập của Nguyễn Hành, chúng tôi đã tiếp cận hai phƣơng diện: nội dung

tiêu biểu và đặc sắc nghệ thuật tập thơ của Nguyễn Hành – một trong “An

58

Nam ngũ tuyệt”. Có thể nói, đây chƣa phải là công trình khép lại những

nghiên cứu về sáng tác văn chƣơng của Nguyễn Hành. Chúng tôi hy vọng đề

tài này sẽ còn là hƣớng mở để tiếp tục nghiên cứu trong quá trình giảng dạy,

cũng nhƣ trong những công trình nghiên cứu có quy mô lớn hơn và cấp độ

cao hơn. Trong phạm vi khóa luận cử nhân, bƣớc đầu nghiên cứu khoa học,

năng lực cũng nhƣ trình độ còn hạn chế; vì vậy khóa luận chắc chắn còn

nhiều thiếu sót, và chƣa phải đã là hoàn thiện. Tôi rất mong nhận đƣợc sự

đóng góp của bạn đọc và thầy cô để khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn vì sự

khám phá giá trị văn chƣơng Nguyễn Hành nói riêng và những giá trị của văn

học Trung đại Việt Nam nói chung.

59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Trọng Chánh (2013), “Nguyễn Hành - nhà thơ tài hoa trong An

Nam ngũ tuyệt”, https://khoahocnet.com/2013/05/31/ts-pham-

trongchanh-nguyen-hanh-1771-1824-nha-tho-tai-hoa-trong-an-nam-

ngutuyet/

2. Thái Kim Đỉnh, Nguyễn Hành với Thăng Long, “Văn hóa nghệ thuật”

số 316 (tháng 10/2010)

3. Võ Hồng Huy (2012), “Nguyễn Du trong tâm tƣởng Nguyễn Hành”,

http://vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-

xunghe43/nguyen-du-trong-tam-tuong-nguyen-hanh

4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), Từ

điển thuật ngữ văn học,Nxb. Giáo dục. 14

5. Đỗ Đức Hiếu (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ văn học, tập 2, Nxb.

Khoa học xã hội

6. Nguyễn Thị Huấn, Cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Hành, Luận văn

thạc sĩ, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội

7. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn

Du, Nxb. Khoa học xã hội

8. Phạm Nhật Khang (2012), Tìm hiểu Minh quyên thi tập của Nguyễn

Hành – một trong “An Nam ngũ tuyệt”, Khóa luận tốt nghiệp, Trƣờng

Đại học khoa học xã hội và nhân văn

9. Mai Quốc Liên (chủ biên) (2015), Thơ Nguyễn Hành (Tuyển), Nxb.

Văn học,

10. Mai Quốc Liên (chủ biên) (2016), Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền

(Nguyễn Thị Bích Đào phiên âm, dịch, khảo cứu), Nxb. Văn học

11. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2002), Lí luận văn học tập 1 (Văn học, nhà

văn, bạn đọc), Nxb. Đại học sƣ phạm

12. Mạnh Tử, Đằng Văn công thượng

13. Nam Phong tạp chí, (số 5), tr.15

14. Nguyễn Ngọc Nhuận (1997), Nguyễn Hành và tập Quan Đông hải,

“Tạp chí Hán Nôm” (số 4), tr.33

15. Nguyễn Ngọc Nhuận (2001), Mối quan hệ giữ Nguyễn Hành

(1771 – 1824) với Nguyễn Du (1776 – 1820) qua một số bài thơ văn,

“Thông báo Hán Nôm học”, tr.423 – 431

16. Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi (1959), Sơ thảo

lịch sử văn học Việt Nam (Quyển III), Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội

17. Đào Thái Tôn (2015), Bài thơ của Nguyễn Hành có nhiều bổ ích,

http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-

vanhoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/bai-tho-cua-nguyen-hanh-co-nhieu-

bo-ich

18. Lã Nhâm Thìn, Vũ Thanh Đồng (chủ biên) (2015), Giáo trình văn học

trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb. Giáo dục

19. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng

20. Francois Jullien (Hoàng Ngọc Hiến dịch, 2004), Đường vòng và lối

vào, Nxb. Đà Nẵng