TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ VI

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ

NGHỆ THUẬT BANG GIAO HẢO THOẠI

CỦA NGÔ THÌ NHẬM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2018

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN THỊ VI

TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ

NGHỆ THUẬT BANG GIAO HẢO THOẠI

CỦA NGÔ THÌ NHẬM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học

ThS. LÊ THỊ HẢI YẾN

HÀ NỘI - 2018

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình triển khai làm khóa luận, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ

của thầy cô khoa Ngữ Văn, các thầy cô trong tổ bộ môn Văn học Việt Nam, đặc biệt

là ThS. Lê Thị Hải Yến, giảng viên trực tiếp hướng dẫn. Nhân khóa luận được hoàn

thành, chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy cô và các bạn.

Vì thời gian có hạn và cũng là lần đầu tiên làm quen với việc nghiên cứu

khoa học, chắc chắn khóa luận còn nhiều hạn chế. Chúng tôi mong nhận được đóng

góp của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Vi

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ

thuật Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm là kết quả nghiên cứu của bản thân,

có sự tham khảo và kế thừa ý kiến của những người đi trước dưới sự hướng dẫn

khoa học của giáo viên hướng dẫn. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo, các số

liệu kết quả trình bày trong khóa luận là hoàn toàn trung thực, nếu sai tôi xin chịu

hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Vi

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 2

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 3

5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 3

6. Đóng góp của khóa luận .......................................................................................... 4

7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................................ 4

NỘI DUNG ................................................................................................................. 5

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................ 5

1.1. Tình hình lịch sử - xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII .................. 5

1.1.1. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân ..................................................... 5

1.1.2. Phong trào nông dân rầm rộ - thế kỷ “nông dân khởi nghĩa” ........................... 7

1.1.3. Về triều đại Tây Sơn ......................................................................................... 8

1.1.3.1. Sự ra đời của triều đại Tây Sơn ...................................................................... 8

1.1.3.2. Hoạt động ngoại giao thời Tây Sơn ............................................................... 9

1.2. Ngô Thì Nhậm và Bang giao hảo thoại ............................................................. 12

1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp ........................................................................................ 12

1.2.1.1. Cuộc đời ....................................................................................................... 12

1.2.1.2. Sự nghiệp...................................................................................................... 17

1.2.2. Bang giao hảo thoại ......................................................................................... 19

Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 20

Chương 2: BANG GIAO HẢO THOẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ... 21

2.1. Khẳng định độc lập chủ quyền đất nước ............................................................ 21

2.2. Giữ quan hệ hòa hiếu với nước láng giềng ........................................................ 27

2.3. Hình ảnh vua Quang Trung ................................................................................ 37

Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 39

Chương 3: BANG GIAO HẢO THOẠI NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

................................................................................................................................... 40

3.1. Thể loại, hệ thống văn thể .................................................................................. 40

3.2. Lý lẽ, lập luận ..................................................................................................... 48

3.3. Thủ pháp ngôn từ ............................................................................................... 55

Tiểu kết chương 3...................................................................................................... 59

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Lí do khoa học

Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, vương

triều Tây Sơn của Quang Trung - Nguyễn Huệ là một trong những trang sử vẻ vang,

oai hùng nhất. Lịch sử không chỉ ghi nhận những chiến công vang dội trên mặt trận

chống ngoại xâm của phong trào Tây Sơn, mà còn ghi lại những trang sử ngoại giao

hào hùng, chói lọi của triều Tây Sơn trong bang giao với triều Mãn Thanh phương

Bắc. Thành quả ngoại giao to lớn của vương triều Tây Sơn đối với nhà Thanh Trung

Quốc không thể tách rời tư tưởng ngoại giao lỗi lạc của Ngô Thì Nhậm. Đó là tư

tưởng ngoại giao chủ động, dựa trên sức mạnh chính nghĩa và thực lực của dân tộc,

vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, linh hoạt, khôn khéo đồng thời biết giữ “thể diện”

nước lớn cho Thanh triều. Nhận định về vai trò của Ngô Thì Nhậm với ngoại giao

thời Tây Sơn, tiến sĩ Trần Ngọc Ánh trong bài báo “Ngoại giao Tây Sơn - Những tư

tưởng đặc sắc và bài học lịch sử” in trên báo Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà

Nẵng có viết: “Với Bang giao hảo thoại, qua ngòi bút sắc bén, vừa đanh thép, kiên

quyết nêu cao chính nghĩa, vừa khéo léo, mềm mỏng, hợp tình hợp lý, Ngô Thì

Nhậm đã thể hiện xuất sắc thiên tài chính trị của vua Quang Trung là khéo bi lẽ mới

dẹp nổi việc binh đao, khi mà nhà Thanh bị đánh thua, nhịn thì thẹn mà báo thù thì

khó. Vị quân sư số một của Quang Trung, đáng được xếp vào hàng nhân vật đứng

ngay sau Nguyễn Trãi trong lịch sử ngoại giao của nước Việt, đáng được liệt vào

những người viết thư thảo hịch giỏi hơn hết một thời.” [1, 97 - 103].

Tìm hiểu, đi sâu nghiên cứu Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm sẽ giúp

chúng ta không chỉ thấy được giá trị nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm

mà còn hiểu thêm về một trong những trang sử đáng tự hào nhất của mặt trận ngoại

giao và những bài học lịch sử quý giá mà tác phẩm này để lại cho hậu thế. Đó là

những lí do khoa học mà chúng tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài này.

1.2. Lí do thực tiễn

Thực tế hiện nay tác giả Ngô Thì Nhậm được giới phê bình, nghiên cứu quan

1

tâm và tìm hiểu trên nhiều bình diện nhưng vẫn còn nhiều điều đáng nói. Các sáng

tác của Ngô Thì Nhậm có dung lượng khá lớn, tuy nhiên trong giáo trình văn học

trung đại cũng chưa giới thiệu nhiều đến các tác phẩm của ông, đặc biệt là Bang

giao hảo thoại.

Bản thân là một giáo viên, tôi luôn muốn tìm hiểu sâu sắc các tác giả và tác

phẩm của văn học trung đại để có cái nhìn toàn diện về dòng chảy văn học Việt

Nam. Đặc biệt là những tác giả có tư tưởng và tài năng văn học, chính trị, bang giao

lỗi lạc như Ngô Thì Nhậm.

Đây là lí do mà chúng tôi chọn đề tài: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật

Bang giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm. Nghiên cứu đề tài này phần nào thấy được

giá trị của tác phầm, đồng thời chỉ ra được vị trí của nó trong tiến trình văn chính

luận trung đại Việt Nam cũng như thấy được vị trí của Ngô Thì Nhậm trong dòng

chảy văn học dân tộc.

2. Lịch sử vấn đề

Qua khảo sát, tìm hiểu chúng tôi thấy Bang giao hảo thoại là một đề tài khá

hấp dẫn, tuy nhiên chưa được giới nghiên cứu quan tâm và dụng công phân tích.

Tác phẩm này mới được đề cập đến trong cái nhìn khái quát về ngoại giao thời Tây

Sơn nói chung, hay những đánh giá về tư tưởng ngoại giao của vua Quang Trung,

hoặc những nghiên cứu về thể loại văn chính luận trung đại Việt Nam.

Trong sách Quang Trung anh hùng dân tộc của nhà nghiên cứu Hoa Bằng,

nhà xuất bản Bốn Phương (1944), Bang giao hảo thoại được nhắc đến bên cạnh

những đánh giá về vua Quang Trung và triều đại Tây Sơn. Trong cuốn Cách mạng

Tây Sơn của nhà sử học Văn Tân, nhà xuất bản Sử - Địa (1958), Bang giao hảo

thoại mới chỉ được đề cập đến trong những trang phân tích về quan hệ bang giao

giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc vào những năm 1789 - 1802, đặc biệt là đề

cao công lao và tài năng ngoại giao của vua Quang Trung mà chưa có những nhìn

nhận về vai trò to lớn của Ngô Thì Nhậm trong công cuộc ngoại giao phức tạp ấy.

Một số công trình nghiên cứu về ngoại giao thời Tây Sơn như: năm 1996 có luận án

Tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Nhuận với đề tài Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn

2

bang giao đi sứ của Phan Huy Ích. Trong đó tác giả đã phân tích, đánh giá về giá trị

nội dung và nghệ thuật các tác phẩm của ông cũng như tài năng của Phan Huy Ích

trong công cuộc bang giao với nhà Thanh, Bang giao hảo thoại và Ngô Thì Nhậm

được nhắc đến bên cạnh những tác phẩm của Phan Huy Ích giúp ngoại giao thời

Tây Sơn thành công mà thôi. Hay trong luận án tiến sĩ năm 2014 của nghiên cứu

sinh Nguyễn Đức Thăng Văn chính luận trung đại Việt Nam - Trung Quốc tiếp biến

và phát triển, tác giả cũng đề cập đến nhiều khía cạnh nội dung và nghệ thuật đặc

sắc của các thể loại thư từ bang giao trong ngoại giao dưới thời trung đại nói chung

và triều đại Tây Sơn nói riêng, Bang giao hảo thoại được đề cập đến trong cái nhìn

khái quát đó.

Vậy chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu nào về giá trị nội

dung và nghệ thuật của Bang giao hảo thoại, đánh giá đúng tài năng của Ngô Thì

Nhậm về quân sự, ngoại giao, tài năng văn chương của ông trong tác phẩm này. Với

thái độ trân trọng và kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước,

trong khuôn khổ cho phép, khóa luận xin phép được tiếp tục mở rộng và bổ sung

nhiều ý kiến, quan điểm của bản thân về tập Bang giao hảo thoại của Ngô Thì

Nhậm trong tiến trình văn chính luận trung đại Việt Nam.

3. Mục đích ngiên cứu

Thực hiện đề tài này chúng tôi hướng đến mục đích sau:

- Góp phần tìm hiểu thêm một tác phẩm thộc thể loại văn chính luận trung đại

Việt Nam, chỉ ra được đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tập Bang giao hảo thoại.

- Qua nhưng đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Bang giao hảo thoại,

khẳng định vì trí, vai trò của tác phẩm nói riêng và của Ngô Thì Nhậm nói chung

trong ngoại giao thời Tây Sơn.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Bang giao hảo thoại trong sách Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 3 do Lâm Giang -

Nguyễn Công Việt (chủ biên) (2005), NXB Khoa học Xã hội, từ trang 395 - 853.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình triển khai đề tài, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu

3

văn bản văn học, phương pháp nghiên cứu văn học sử. Ngoài ra, luận văn còn sử

dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để khai thác tài liệu liên quan đến lịch sử

bang giao thời Tây Sơn, cuộc đời và sự nghiệp của vua Quang Trung và trí sĩ Ngô

Thì Nhậm; phương pháp phân tích tác phẩm để thấy được giá trị nội dung và nghệ

thuật của Bang giao hảo thoại.

6. Đóng góp của khóa luận

Qua việc khảo sát về tác phẩm Bang giao hảo thoại, luận văn góp thêm một

cái nhìn mới về ngoại giao thời Tây Sơn, vua Quang Trung trên mặt trận ngoại giao

cũng như đánh giá đúng tài năng và công lao của mưu sĩ Ngỗ Thì Nhậm - cận thần

trung thành, trợ thủ đắc lực, tri âm tri kỷ của vua Quang Trung. Đồng thời, ông

cũng được coi là mắt xích quan trọng trong ngoại giao giữa Đại Việt và Trung Quốc

dưới triều Tây Sơn.

7. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa luận gồm

3 chương:

Chương 1. Những vấn đề chung

Chương 2: Bang giao hảo thoại nhìn từ phương diện nội dung

4

Chương 3: Bang giao hảo thoại nhìn từ phương diện nghệ thuật

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Tình hình lịch sử - xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII

Thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng

trầm trọng. Sự tồn tại của hai thế lực phong kiến lớn (Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và

chúa Nguyễn ở Đàng Trong) chính là vật cản trên con đường phát triển của lịch sử

dân tộc. Các thế lực phong kiến này càng ngày càng tha hóa, không ngừng tranh

giành xâu xé nhau đưa đến những cuộc chiến tranh liên miên, gây ra biết bao đau

thương cho dân tộc Việt Nam.

Đời sống của người dân hết sức khổ cực (đặc biệt là người nông dân) vì

chiến tranh, mất mùa, đói kém, nạn tham ô, gánh nặng thuế khóa… Không còn lựa

chọn nào khác, họ buộc phải đứng lên đấu tranh để tự giải phóng cho mình. Trong

thế kỉ này, hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân đã bùng nổ khắp Đàng Ngoài lẫn

Đàng Trong tạo thành một phong trào đấu tranh của nông dân rộng lớn, quyết liệt

làm lung lay hệ thống chính trị của các tập đoàn phong kiến. Đỉnh cao của chíến

tranh nông dân khởi nghĩa thế kỷ XVIII là phong trào Tây Sơn với những cống hiến

vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân tộc.

Với những biến cố như vậy, thế kỷ XVIII được mệnh danh là “thế kỷ nông

dân khởi nghĩa”. Tình hình lịch sử - xã hội Việt Nam thế kỷ này có những đặc điểm

nổi bật sau:

1.1.1. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân

Sự chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ: chiến tranh phong kiến trong

hơn một thế kỉ sau khi nhà Lê sụp đổ đã tạo điều kiện cho các làng xã, địa phương

xa trung ương tách khỏi sự quản lý trực tiếp từ nhà nước và nâng cao tính tự trị.

Trước tình hình đó, năm 1664 nhà nước phải ban hành phép “Bình lệ” để có thể thu

thuế. Tuy nhiên, do bấy giờ nhà nước chỉ đánh thuế ruộng công, nên số hộ tăng

giảm thất thường, ruộng đất dần lọt vào tay các nhà hào phú. Cường hào địa chủ thi

nhau vơ vét, chiếm đoạt ruộng đất của dân và còn làm lũng đoạn ruộng đất công

5

vốn đã bị nhà nước cắt xén nhiều.

Vì lý do trên, trong mấy chục năm cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII đã

diễn ra 9-10 trận đói lớn, cùng với đó hình thành những địa chủ lớn có hàng nghìn

mẫu ruộng. Tình hình nghiêm trọng đến mức, năm 1728, chúa Trịnh Cương đã phải

kêu lên “Ruộng đất rơi hết vào các nhà hào phú, còn dân nghèo thì không có một

miếng đất cắm dùi.” [25, 393-394]. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở đồng bằng

mà còn diễn ra ở cả những miền thượng du, bọn quyền thế làm văn khế giả để

chiếm đoạt ruộng đất của dân cày, buộc người dân phải bỏ đi lưu tán, cuộc sống vô

cùng khổ cực.

Một tình trạng nổi bật nữa có thể kể đến là: do hậu quả của các cuộc chiến

tranh phong kiến, cát cứ, nhiều người đã tình nguyện cúng ruộng đất tư của mình cho

làng xã hay cho chùa, với hi vọng được thờ cúng sau khi qua đời (gọi là ruộng hậu).

Từ đó, làng xã trở thành chủ một số ruộng đáng kể. Với tình trạng như vậy, năm

1722, chúa Trịnh đã thực hiện một cuộc cải cách về chế độ tô thuế, bắt đầu đánh thuế

ruộng tư. Tuy nhiên, khi thực hiện, nhà nước lại quy định miễn thuế ruộng tư cho

quan lại theo thứ bậc, thành ra ruộng đất của quan lại, địa chủ lại ngày càng tăng lên.

Cuộc sống của nhân dân vốn không được cải thiện mà ngày càng khổ cực.

Mâu thuẫn, đối kháng giai cấp trở lên quyết liệt hơn, năm 1740 Trịnh Doanh

thực hiện chính sách “tỉnh điền” với hi vọng “quân bình giàu nghèo”, “san đều thuế

dịch”. Tuy nhiên, việc làm đó không cải thiện được tình hình là bao, bởi việc khám

đạc ruộng đất chỉ thêm phiền nhiễu, nạn trộm cướp vẫn hoành hành chưa được giải

quyết. Sự phát triển của chế độ tư hữu địa chủ về ruộng đất đã đạt đến đỉnh cao, ảnh

hưởng to lớn đến đời sống xã hội.

Bộ máy quan lại thời Lê - Trịnh ở đầu thế kỷ XVIII không còn được như trước

nữa. Để thực hiện chính sách chuyên quyền, nắm hết quyền hành trong tay, phủ chúa

đã thay 3 phiên cũ trước đây thành 6 phiên mới (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công), mỗi

phiên gồm 60 người, phụ trách chính những hoạt động của các bộ. Số lượng quan lại

tăng lên, bộ máy quan lại cồng kềnh. Bãi bỏ chế độ lộc điền cũ, nhà Lê - Trịnh đặt ra

chế độ ban cấp xã dân lộc cho các quan, trực tiếp đặt gánh nặng phú dịch lên xã dân.

Khi đặt chế độ thuế khóa ruộng đất, mọi chính sách của nhà nước đều bất lợi và đè

6

nặng lên người dân. Khiến đời sống của nông dân ngày càng khổ cực.

Đói kém xảy ra liên miên, nhu cầu chi tiêu của nhà nước ngày càng gia tăng,

nhân dân không nộp được thuế phải bỏ đi lưu tán. Lúc này nhà nước lại đặt ra lệ

mua quan bán tước để thu tiền, thóc; không chỉ thế còn đặt “tiền thông kinh” (cứ

nộp tiền là được vào thi Hương). Điều này dẫn đến tình trạng khoa cử suy đồi, quan

lại thối nát tham nhũng ngày càng gia tăng.

Trong tình trạng đó, thay vì các chúa tập trung giải quyết tình hình, quan tâm

đến đời sống của nhân dân thì chính các chúa lại làm gia tăng sự khổ cực cho người

dân bằng việc xây dựng các chùa chiền, cung tẩm…

Do bất lực trong việc quản lý và bảo về các công trình thủy lợi, chính vì vậy

nhà nước Lê - Trịnh đã bỏ mặc cho quan lại các địa phương thu tiền của người dân

và thuê người làm. Bọn chúng thừa cơ hội nhũng nhiễu nhân dân, hạch sách, tham

ô, vơ vét tiền của không kể siết. Lụt lội, mất mùa, đói kém xảy ra liên miên trong

suốt các năm từ 1690 đến năm 1729, thảm cảnh xảy ra khi dân nghèo phải ăn vỏ

cây, rau cỏ, lá cây, thây chết đói đầy đường, thôn xóm tiêu điều.

Thiên tai, sản xuất nông nghiệp chỉ là một trong nhiều nguyên nhân đẩy nhân

nhân đến thảm cảnh đói khổ. Chính chính sách thuế khóa nặng nề của nhà nước mới

là nguyên nhân lớn gây ra sự cực khổ của người dân. Khắp nơi làng xóm điêu tàn,

kinh tế suy sụp, người nông dân lưu tán hoặc chết đói, tha phương cầu thực hoặc

dùng chút lực tàn cuối cùng để khai phá đất hoang hay canh tác trên các thửa ruộng

bỏ hóa của các hộ lân cận.

Cuối cùng, khi tình hình không thể cứu vãn được nữa, “tức nước vỡ bờ”, họ

đành nổi dậy chống phá, lật đổ giai cấp cường hào ác bá và nhà nước phong kiến.

Phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp mọi miền, trở thành xu thế thời đại này.

1.1.2. Phong trào nông dân rầm rộ - thế kỷ “nông dân khởi nghĩa”

Bước sang thế kỷ XVIII, đặc biệt là giữa thế kỷ XVIII, phong trào nổi dậy

của nhân dân diễn ra ở khắp nơi. Năm 1737, có cuộc nổi dậy của nhà sư Nguyễn

Dương Hưng ở vùng Sơn Tây. Năm 1738, có cuộc khởi nghĩa do Lê Duy Mật ở

Thanh Hoá, cuộc khởi nghĩa này duy trì được đến năm 1770. Năm 1740 - 1741 có

cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh Thoan, thủ lĩnh Thiều lãnh đạo ở Hưng Hoá. Ở Sơn Tây

7

có cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Tương từ năm 1741 đến năm 1752. Hay Toản Cơ

lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Lạng Sơn từ năm 1740 đến 1742. Ngoài ra còn có các

cuộc khởi nghĩa khác ở vùng trung tâm đồng bằng bắc bộ như: Nguyễn Tuyển,

Nguyễn Cừ, Vĩ Trác Oánh, Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, Nguyễn

Danh Phương (1741 - 1751), Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751), Hoàng Công Chất

(1739 - 1769). Mặc dù hầu hết các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại, nhưng ít nhiều

nó đã góp phần làm cho bộ máy chính tri ̣ của chúa Trịnh ngày một suy tàn và sau

đó bi ̣ kết thúc bởi cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ.

1.1.3. Về triều đại Tây Sơn

1.1.3.1. Sự ra đời của triều đại Tây Sơn

Nhà Tây Sơn được ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Ở Đàng Ngoài thế

lực họ Trịnh ngày một suy yếu, mệt mỏi bởi các cuộc khởi nghĩa liên miên, bản thân

nội bộ họ Trịnh cũng lục đục chia rẽ. Bên cạnh đó thế lực họ Trịnh đã từ lâu không

thể kiểm soát nổi họ Nguyễn ở Đàng Trong, nên lúc này họ Trịnh không còn thời

gian chú ý đến các việc xảy ra ở Đàng Trong nữa. Trong khi đó ở Đàng Trong, tuy

các cuộc khởi nghĩa không nhiều nhưng đúng lúc đó nhà Nguyễn rơi vào cảnh suy

tàn dưới tay của Trương Phúc Loan. Chính vì thế, sau khi cuộc khởi nghĩa do Nguyễn

Nhạc phát động với khẩu hiệu “diệt Trương Phúc Loan phò chúa Nguyễn” đã nhanh

chóng được người dân ủng hộ, khiến cho cuộc khởi nghĩa Tây Sơn từ một cuộc khởi

nghĩa nhỏ lẻ bỗng chốc gặt hái được nhiều thành công. Trong khoảng thời gian từ

1771 đến 1789, không chỉ dẹp tan chế độ Trịnh - Nguyễn mà đội quân Tây Sơn với

sức mạnh phi thường đã đánh tan được các cuộc ngoại xâm của Trung Hoa.

Trước những thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, năm Mậu Tuất (1778),

Nguyễn Nhạc tự lập làm Hoàng đế lấy là năm đầu niên hiệu Thái Đức, gọi thành Đồ

Bàn là thành Hoàng Đế. Đồng thời phong cho Nguyễn Lữ là Tiết chế, phong cho

Nguyễn Huệ làm Long tướng Tướng quân. Như vậy, có thể nói giai đoạn này quân

Tây Sơn đã dần hình thành một vương triều phong kiến chứ không còn mang dáng

dấp của một cuộc khởi nghĩa nông dân nữa, trong đó những quyền lợi của mỗi cá

8

nhân cũng được phân định theo ngôi thứ.

Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ một lần nữa đại thắng tại

Cần Giờ, quân họ Nguyễn phải chạy ra đảo Côn Lôn. Năm Giáp Thìn (1784),

Nguyễn Vương phải chạy sang Xiêm cứu viện nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh cho

đại bại.

Tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) Nguyễn Huệ tiếp tục phản công chiếm đuợc

thành Phú Xuân, sai người mang thư về cho Nguyễn Nhạc nói dẫn thủy quân tiến

thẳng ra Đàng Ngoài, trong vòng một tháng đã đánh tan quân Trịnh. Trong suốt

khoảng thời gian từ năm 1785 đến 1786 Nguyễn Huệ thực sự phát huy đuợc vai trò

của mình trong việc đánh tan giặc ngoại xâm và tiêu diệt hai tập đoàn Trịnh -

Nguyễn. Không dừng ở đó, sau khi dẹp tan chế độ họ Trịnh và trao quyền lại cho

nhà Lê chẳng bao lâu, năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ một lần nữa phải kéo

quân ra Bắc để dẹp loạn. Lúc này để giữ yên Đàng Ngoài vì bộ máy chính quyền

nhà Lê thực sự đã suy yếu không còn sức để vực dậy được nữa, nên Nguyễn Huệ đã

cho Ngô Văn Sở trấn giữ Thăng Long, đồng thời chiêu mời các sĩ phu tài giỏi ở Bắc

Hà như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thế Lịch, Phan Huy Ích, Trần Bá Lãm… giúp

mình giữ yên đất nước trên các mặt trận ngoại giao cũng như chiến trận.

1.1.3.2. Hoạt động ngoại giao thời Tây Sơn

Trong lịch sử Việt Nam, nhà Tây Sơn tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng để lại một

vết son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cả về quân sự

lẫn nghệ thuật ngoại giao. Ngay từ những buổi đầu trứng nước, dưới sự lãnh đạo tài

tình và khéo léo của Nguyễn Huệ, nhà Tây Sơn đi từ thắng lợi này đến thắng lợi

khác. Điều đáng chú ý hơn cả, với vai trò là một người lãnh đạo đất nước, vấn đề

mà Nguyễn Huệ luôn quan tâm, đó là việc tránh cho dân không bị rơi vào cảnh

chiến tranh, tận dụng cơ hội, tranh thủ xây dựng đất nước vững mạnh. Chính vì thế

ông đã có chính sách ngoại giao khôn khéo với nhà Thanh. Quan điểm này đã được

thể hiện rất rõ trong lời nói của Nguyễn Huệ như sau: “Chẳng qua 10 ngày là có thể

đuổi được người Thanh, nhưng nghĩ nó là nước lớn gấp 10 nước mình, sau khi thua

9

trận ắt lấy làm hổ thẹn mà cố báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt, thật

không phải phúc cho dân, lòng ta không nỡ làm vậy. Tới lúc đó chỉ có một cách nói

thật khéo thì mới ngăn được cái ngòi chiến tranh” [22, 372].

Qua đây ta thấy thêm tình cảm yêu quý dân của Nguyễn Huệ, đồng thời thấy

được cả trách nhiệm của ông trong việc xác định phương thức ngoại giao. Đối với

nhà Thanh, một kẻ thù mạnh nhất lúc bấy giờ, việc khôn khéo trong xử lý khi nước

nhà vẫn còn đang chìm trong thù trong giặc ngoài là một điều hết sức khôn ngoan.

Để có thể có một chiến lược lâu dài ra sức củng cố xây dựng đất nước, ông cho rằng

chỉ có sức mạnh nội lực mới thực sự là chỗ dựa của đất nước. Chính sách ngoại giao

dù khôn khéo đến đâu nhưng nền kinh tế không đủ mạnh thì không thể đem lại nền

hòa bình thực sự và lâu dài. Điều này được thể hiện khi Nguyễn Huệ ra Tam Điệp

đã từng nói với Ngô Thì Nhậm: “Cứ để cho ta mười năm nữa, nước ta giàu dân ta

mạnh, thì ta có sợ gì chúng” [22]. Cuộc ngoại giao đầu tiên giữa Nguyễn Huệ với

nhà Thanh không phải sau khi nhà Tây Sơn chính thức được nhà Thanh công nhận,

mà ngay từ khi Tôn Sỹ Nghị đưa quân sang xâm lược với danh nghĩa giúp nhà Lê

thì Nguyễn Huệ đã có những động thái ngoại giao quan trọng.

Khi sắp kéo quân sang Đại Việt, Tôn Sỹ Nghị cho người đưa thư loan báo: “Ai

bắt sống được Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đem nộp sẽ được công đầu”. Đây thực

chất là mục đích phô trương thanh thế, cũng như muốn thị uy với dân Đại Việt của

Tôn Sỹ Nghi ̣. Y đã đưa ra một chỉ dụ hòng mượn tay của những kẻ phản bội để giết

anh em nhà Tây Sơn một cách dễ dàng, từ đó có thể nhanh chóng xâm lược Đại Việt.

Sau khi chiếm được Thăng Long một cách dễ dàng, Tôn Sĩ Nghi ̣vô cùng

hống hách. Hiểu rõ được vấn đề này, Nguyễn Huệ một mặt củng cố lòng tin cho

quân sỹ để chiến đấu chống quân Thanh, một mặt “Để nuôi lòng kiêu căng của giặc,

vua Quang Trung vừa cho gấp rút tiến quân vừa cử một sứ đoàn gồm 8 người đi

theo Trần Danh Bính đến gặp Tổng đốc họ Tôn với ba đạo bẩm văn (một của Lê

Duy Cẩn, một của các cựu thần nhà Lê, một của nhân dân) bày tỏ sự tình phải thay

nhà Lê và ngỏ ý "cung thuận" với "Thiên triều", đồng thời nhà vua lại nộp trả bọn

tuần dương binh của nhà Thanh có bốn chục người bị tướng Tây Sơn bắt được khi

10

còn đóng ở Thăng Long. Tôn Sỹ Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể

nhân viên sứ đoàn lại, rồi truyền hịch kể tội vua Quang Trung và cho biết sẽ bắt nhà

vua cùng đánh tới Quảng Nam cho sạch cả gốc lẫn ngọn”.

Chính vì thế sau chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, Nguyễn Huệ đã rất khôn

khéo nhìn nhận rõ tình hình trong nước lúc bấy giờ không thể tiếp tục gây chiến

hoặc có thêm bất kỳ cuộc chiến nào với nhà Thanh, nên Nguyễn Huệ đã sai nguời

sang gặp Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp là Tả Giang Binh bị đạo để mở

đường cho cuộc giảng hòa. Về phía nhà Thanh sau cuộc bại trận của Tôn Sỹ Nghị,

các quan tướng nhà Thanh cũng rất e ngại thế mạnh của Đại Việt, đặc biệt là Phúc

Khang An và Thang Hùng Nghiệp cũng không muốn gây chiến với Đại Việt nữa.

Nên khi đoàn sứ giả của Đại Việt sang đã rất vui mừng và tận tình giúp đỡ. Thậm

chí ngay cả sau này mọi thuận lợi của Nguyễn Huệ có được cũng do sự giúp đỡ của

Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp.

Ngoài việc cho sứ giả sang gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng để dọn đường cho

công việc giải hòa và cầu phong vương, ở trong nước Nguyễn Huệ cũng thực thi

những chính sách tạo nên uy tín và thể hiện thiện chí hòa hữu với nhà Thanh. Cụ thể

đối với đám tàn quân của nhà Thanh, Nguyễn Huệ đã nghiêm cấm quân lính và

người dân truy giết, đồng thời cho phép quân Thanh được ra đầu thú. Đối với những

binh lính nhà Thanh sau khi ra đầu thú còn được cấp lương ăn, quần áo mặc chờ

ngày trao trả về nước.

Với những chính sách nhân đạo của Nguyễn Huệ và được sự giúp đỡ của

Tổng đốc Lưỡng Quảng, nhà Thanh đã chấp nhận phong vương cho Nguyễn Huệ,

đồng nghĩa với việc nhà Thanh công nhận Đại Việt chính thức có một vương chủ

mới. Đây được coi là một trong những thắng lợi lớn trên mặt trận ngoại giao của

nhà Tây Sơn với nhà Thanh. Điều đáng chú ý hơn nữa, khi Nguyễn Huệ từ chối

sang Trung Quốc nhận phong vương theo thông lệ thì nhà Thanh đã cho sứ thần

sang Đại Việt để thực hiện việc phong vương cho Nguyễn Huệ. Lần thứ hai Nguyễn

Huệ từ chối ra Thăng Long nhận phong vương với lý do sức khỏe không tốt, thì nhà

Thanh lại một lần nữa nhún mình đến tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn

Huệ. Có thể nói, mặc dù Nguyễn Huệ trên danh nghĩa chấp nhận triều kiến nhà

11

Thanh, nhưng trên thực tế, nhà Thanh luôn bị động trước những mưu tính khôn

khéo của Nguyễn Hụê. Chính vì thế mà nhà Thanh hết lần này đến lần khác phải

nhượng bộ những yêu cầu của Nguyễn Huệ, điều mà trong lịch sử Việt Nam trước

đây chưa bao giờ làm được. Thậm chí ngay việc sang dự lễ bát tuần của Càn Long,

Nguyễn Huệ cũng không đi mà sai người đóng giả đi thay. Sau những thành công

kể trên của nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã tiếp tục thực hiện thêm những chính sách

phản kháng của mình với nhà Thanh. Cụ thể Nguyễn Huệ yêu cầu nhà Thanh bỏ tục

cống người vàng, và mở chợ buôn bán giao thương tại Cao Bằng và Lạng Sơn. Tiếp

đó, năm 1792 Nguyễn Huệ còn cử Vũ Văn Dũng làm Chánh sứ mang biểu sang cầu

hôn công chúa nhà Thanh và đòi lại vùng đất Lưỡng Quảng. Thật đáng tiếc ngày 16

tháng 9 năm 1792, Nguyễn Huệ đột ngột qua đời khiến cho những kế hoạch còn

dang dở của ông không thực hiện được.

Có thể nói sau 15 năm khởi nghĩa đánh Nam dẹp Bắc, quân Tây Sơn đã hoàn

thành một sứ mệnh to lớn, thay đổi tình tình đất nước trên mọi phương diện: đánh

đổ 3 tập đoàn phong kiến thống trị Nguyễn, Trịnh, Lê; làm chủ cả đất nước. Mặc dù

sự nghiệp của phong trào Tây Sơn chưa trọn vẹn do thế lực của nhà Lê còn lay lắt

và trong bước đường cùng đã cầu cứu nhà Thanh “cõng rắn cắn gà nhà”; tuy nhiên

phong trào và những chính sách và thành tựu to lớn mà nhà Tây Sơn đạt được đã

ghi dấu trong sử sách và trong lòng dân tộc những dấu son sáng chói. Bên cạnh đó,

phong trào cũng làm nổi bật tài năng, đức độ của vị tướng tài, anh hùng giải phóng

dân tộc - Quang Trung (Nguyễn Huệ), cùng với đó là hàng loạt các trí thức đã góp

phần to lớn vào những thành tựu của đất nước trong giai đoạn này. Họ không chỉ

góp sức vào công cuộc ổn định tình hình chính trị, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, vì

nhân dân; mà bằng tài năng họ đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm văn chương có giá

trị cả về nội dung và nghệ thuật. Trong đó không thể không kể đến tác phẩm Bang

giao hảo thoại của trí sĩ Ngô Thì Nhậm.

1.2. Ngô Thì Nhậm và Bang giao hảo thoại

1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp

1.2.1.1. Cuộc đời

Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần, tức ngày 25 tháng 10

12

năm 1746, tại làng Tả Thanh Oai, tục gọi là làng Tó, trấn Sơn Nam (nay thuộc

huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Thuở nhỏ có tên là Phó, sau đổi thành

Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên (khi nghiên cứu Thiền học ông lấy đạo hiệu

Hải Lượng).

Ngô Thì Nhậm đỗ Tiến sĩ năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), làm quan tới Đốc

đồng Kinh Bắc, rồi thăng tới chức Công bộ Hữu thị lang. Năm 29 tuổi - 1775 Ngô

Thì Nhậm ra phụng sự nhà Tây Sơn và được Nguyễn Huệ trọng dụng, trao cho chức

Thị lang Bộ Công, tước Tình Phái hầu, sau thăng đến chức Thượng thư Bộ Binh.

Ông mất ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi (tức ngày 9 tháng 3 năm 1803).

Cuộc đời của Ngô Thì Nhậm có những nét cơ bản như sau:

Ngô Thì Nhậm là con trưởng của Ngô Thì Sỹ (1726-1780), tên tự là Thế

Lộc, hiệu Ngọ Phong, biệt hiệu Nhị Thanh cư sỹ. Ngô Thì Sỹ có tài, từ chương lại

nổi tiếng nhưng nhiều năm thi không đỗ, vì vậy gia cảnh đã nghèo túng lại càng

nghèo túng hơn. Đến khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 12 (1752),

ông lại thi trượt, tuy nhiên được Minh Đô Vương Trịnh Doanh mến tài cho làm một

chức nhỏ Thiêm sai tri Công phiên ở Phủ Chúa. Nếu như người cha Ngô Thì Sỹ 7

tuổi đi học, 8 tuổi làm được văn, 9 tuổi biết làm thơ, 11 tuổi mồ côi cha phải theo

học ông nội Đan Nhạc công (tức Ngô Trân), thì Ngô Thì Nhậm 7 tuổi cũng đi học

và đến năm 11 tuổi cũng được cụ nội Đan Nhạc công dạy bảo. Chỉ 2 năm sau đó,

Ngô Thì Nhậm đã đọc thông các loại sách Kinh, Truyện, Sử và Tính lý; đến năm 16

tuổi (tức năm Tân Tỵ - 1761) cụ nội Đan Nhạc qua đời thì Ngô Thì Nhậm mới học

với phụ thân Ngô Thì Sỹ. Vốn thiên tư thông minh, lại chăm chỉ học hỏi, nên mới

16 tuổi Ngô Thì Nhậm đã soạn sách Nhị thập thất sử toát yếu (đây là sách chủ yếu

dùng trong học tập). Năm 17 tuổi, Ngô Thì Nhậm trải qua 2 lần sát hạch ở trường

đều đạt loại ưu. Cùng năm này, mẹ ông qua đời ở tuổi 33, để lại 5 người con.

Năm 1763 (năm Quý Mùi), Ngô Thì Nhậm 18 tuổi, người cha Ngô Thì Sỹ

được chúa Ân Vương Trịnh Doanh, đặc cách cho tiến triều, trao cho chức Cấp sự

trung Bộ Công. Đến năm sau, 1764 (năm Giáp Thân) trao cho chức Giám sát Ngự

sử đạo Sơn Tây, và chỉ vài tháng sau đó đã thăng đến chức Đốc đồng xứ Thái

13

Nguyên (Hào mân ai lục). Từ đây gia đình Ngô Thì Sỹ mới dần thoát khỏi cảng

nghèo khó, và cũng năm này Ngô Thì Sỹ lấy vợ kế, bà đưa 4 người con chồng đến

nhậm sở ở với chồng tại Sơn Tây. Lúc này chỉ còn lại Ngô Thì Nhậm ở nhà với

người vợ mới cưới là Ngô Thị Anh, tiếp tục học tập.

Năm 1766 (năm Bính Tuất), Ngô Thì Nhậm 20 tuổi, ông đã cùng Lưu Hi Trí

(người cùng ấp, đỗ đầu thi Hương khoa Ất Dậu), đến theo học thầy Đan Sỹ là Tham

chính Thanh Hóa; và cũng năm đó phụ thân ông - Ngô Thì Sỹ thi đậu Hoàng giáp

(khoa Bính Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 - 1766).

Năm 1771 (năm Mậu Tý), Ngô Thì Nhậm 23 tuổi, ông thi Hương đậu giải

Nguyên, năm sau ông lại đỗ Sỹ vọng, được bổ chức Hiến sát phó sứ Hải Dương

(hàm Chánh thất phẩm). Ngô Thì Nhậm là một người thanh liêm, giản dị; khi rỗi

việc ông mở lớp dạy học, học trò theo học rất đông.

Năm 1771 (năm Tân Mão), Ngô Thì Sỹ làm Tham chính Nghệ An, tư đồ

Hoàng Ngũ Phúc ghen ghét, ghép ông vào tội gian lận ở trường thi Hương, bị cách

chức tước mất mấy năm liền. Cùng năm đó, vợ kế của Ngô Thì Sỹ qua đời khi ông

đang ở Nghệ An. Mọi việc thuốc thang lúc đau ốm và tang ma khi mất của mẹ kế

đều Ngô Thì Nhậm một tay lo liệu. Sau đó, Ngô Thì Nhậm cũng xin cáo quan về

quê với lý do sớm hôm phụng dưỡng cha, năm đó ông 26 tuổi.

Năm 1772 (năm Nhâm Thìn), Ngô Thì Nhậm dự khảo khóa ở Quốc Tử

Giám, đỗ hạng ưu, nhưng lấy lý do ốm, cố từ chối không ra làm quan.

Năm 1775 (năm Ất Mùi), Ngô Thì Nhậm thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến Sỹ

xuất thân, đứng hàng thứ 5, khi đó ông vừa tròn 30 tuổi. Sau khi thi đỗ ông được bổ

làm Hộ bộ Đô cấp sự trung, năm sau thì thăng đến chức Giám sát Ngự sử sạo Sơn

Nam, lại được làm quan Giám khảo trường thi ở Hải Dương.

Đến năm 1778 (năm Mậu Tuất), Ngô Thì Nhậm được thăng chức Đốc đồng

Kinh Bắc. Chức Đốc đồng một trấn, dưới chức Trấn thủ một bậc, là chức phó, có

nhiệm vụ tra xét ngục tụng. Năm đó phụ thân ông cũng nhậm chức Đốc trấn Lạng

Sơn. Hai cha con cùng đi nhậm chức một ngày (Ngô gia thế phả). Cùng năm đó,

Ngô Thì Nhậm còn kiêm giữ chức Đốc đồng Thái Nguyên. Tại đây, ông đã cùng

cha phối hợp với Trấn thủ Tuân Vãng hầu, đánh dẹp tại vùng Vũ Nhai, và cũng năm

14

đó ông soạn xong tập Công vụ thành thư. Năm 1779 (năm Kỷ Hợi), Ngô Thì Nhậm

được thăng chức Đông các hiệu thư, phụng mệnh hiệp đồng với Trấn thủ Tuyên,

Thái đánh dẹp các cuộc nổi dậy của Hoàng Văn Đồng ở Tuyên Quang. Ít lâu sau

ông lại được phái đi kinh lược ở mỏ bạc Tống Tinh. Năm 1780 (năm Canh Tý) trở

về, ông dâng sớ về phương sách thu thuế ở xưởng bạc, được chúa Trịnh Sâm khen

ngợi, ban thưởng rất hậu. Gần cuối năm đó xảy ra vụ án tranh đoạt ngôi chúa, người

đời sau gọi là “vụ án năm Canh Tý”. Cuối tháng 9 cùng năm đó, phụ thân ông bị

cảm tại động Nhị Thanh (Lạng Sơn) và không lâu sau thì qua đời.

Năm 1782 (năm Nhâm Dần), trong kinh có biến, Trịnh Sâm qua đời, những

người có liên quan ít nhiều đến vụ án năm Canh Tý hoặc bị giết, hoặc bị bắt giam, tịch

thu gia sản… Ngô Thì Nhậm vì bị dư luận ghép cho đã dính líu đến vụ án năm Canh

Tý, đồng thời lại là thầy dạy của Trịnh Tông nên lo lắng không bảo toàn được tính

mạng. Vì vậy ông phải lánh về quê vợ am Lê Trạch, xã Đội Trạch, trấn Sơn Nam (nay

là Vũ Thư, Thái Bình). Tai đậy, ông nương nhờ tại nhà người em vợ là Đồng Lạc thị

trong gần 4 năm trời (1782-1786).

Nhà Lê sụp đổ, năm 1788 (năm Mậu Thân), Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai,

xuống lệnh tìm kiếm quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh ra giúp việc nước. Ngô

Thì Nhậm đã đón nhận ngay chính sách trọng dụng này của Nguyễn Huệ - thái độ

trái ngược hẳn với các cựu thần nhà Lê khác như các Tiến sĩ: Nguyễn Nha, Trần

Danh Án, Ninh Tốn… Ngô Thì Nhậm được Nguyễn Huệ giao cho chức Hữu Thị

lang Bộ Công, tước Tình phái hầu, cùng với Võ Văn Ước giám sát tất cả các quan

văn võ nhà Lê, còn Nguyễn Huệ lại trở về Phú Xuân để lo công việc trong Nam.

Công việc đầu tiên mà Ngô Thì Nhậm làm để đáp lại lòng mong mỏi, tin

tưởng của Nguyễn Huệ là làm sao thuyết phục được các danh sỹ trí thức Bắc Hà

sớm nhận rõ thời thế mà dốc sức phụng sự nhà Tây Sơn. Đó là việc làm quan trọng

bậc nhất lúc này. Bởi Bắc Hà đang trong tình trạng rối ren, lòng người chưa ổn

định, vua Chiêu Thống chạy khỏi Thăng Long (sử sách gọi là “xuất Đế”), cùng với

một số trọng thần thân cận tìm cách trung hưng nhà Lê một lần nữa. Trong đó có rất

nhiều các nhà khoa bảng nổi tiếng như: Trần Công Xán, Bùi Huy Bích, Phạm Quý

Thái…có cả em ruột của Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Chí. Trước tình hình phức tạp

15

ấy, bằng tài năng và khả năng thuyết phục, sự nhạy bén; Ngô Thì Nhậm đã không

ngần ngại vạch ra cho họ thấy xu thế tất yếu của lịch sử. Từ đó ông đã thuyết phục

được nhiều người về với nhà Tây Sơn như Đoàn Nguyễn Tuấn, Võ Huy Tấn, Phan

Huy Ích… Chính sách thu phục người tài, không phân biệt người cũ - người mới,

đại đoàn kết, cô lập kẻ thù, chú trọng thu phục nhân tâm về một mối của Nguyễn

Huệ đã được Ngô Thì Nhậm thực hiện một cách xuất sắc, góp phần quan trọng vào

việc củng cố nền chính trị ở Bắc Hà, tạo tiền đề thuận lợi sau này chống giặc ngoại

xâm, giành những thắng lợi huy hoàng.

Tháng 10 năm Mậu Thân (1788), lấy cớ “xuất Đế cầu viện” để “hưng diệt, kế

tuyệt” (dấy nước đã bị diệt, nối lại dòng đã tuyệt), Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sỹ

Nghị đã đem 29 vạn quân và hàng chục vạn dân phu phục dịch, vượt biên giới, tiến

sâu vào nội địa nước ta với âm mưu và dã tâm xâm lược. Trong những tháng ngày

đó, Ngô Thì Nhậm đã dốc hết sức lực, tài năng phụng sự cho nhà Tây Sơn, góp

phần quan trọng vào chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789).

Sau chiến thắng năm 1789, khoảng đầu tháng 3 năm Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ

trở lại Phú Xuân, giao mọi việc bang giao với nhà Thanh cho Ngô Thì Nhậm và

Phan Huy Ích phụ trách. Ngô Thì Nhậm cũng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan

trọng này, vừa thuyết phục được nhà Thanh không “hổ thẹn” mà báo thù để tránh

được nạn binh đao, lại tạo điều kiện cho quân ta có thời gian củng cố về mặt quân

sự ngày càng hùng mạnh.

Với những đóng góp to lớn về mặt ngoại giao như vậy, Ngô Thì Nhậm được

phong chức Binh bộ Thượng thư. Năm sau, năm Tân Hợi (1791), ông lại được

thăng làm Thị lang đại học sỹ, ban Dực vận công thần.

Năm Nhâm Tý (1792), Ngô Thì Nhậm kiêm chức Quốc sử thự Tổng tài,

nhưng vẫn tiếp tục các công việc về ngoại giao. Cùng năm đó, ngày 29 tháng 7

(nhuận), Quang Trung lâm bệnh đột ngột qua đời.

Tháng 2 năm sau (1793) Ngô Thì Nhậm lãnh chức Chánh sứ sang nhà Thanh

báo tang và cầu phong cho vua mới Quang Toản. Quang Trung mất, từ đây Ngô Thì

Nhậm mất đi người hiểu mình, biết đến tài năng và tin dùng mình. Quang Toản lên

ngôi khi mới 15 tuổi, vì vậy triều đình không tránh khỏi những lục đục trong nội bộ,

16

dần lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng bởi sự lộng hành của người cậu của vua

Quang Toản - Bùi Đắc Tuyên. Trước tình hình rối ren của triều đình Quang Toản,

Nguyễn Ánh tận dung thời cơ, cấu kết với các địa chủ phản động, dựa vào thế lực tư

bản nước ngoài đã liên tiếp phản công, điều này làm cho triều đình Quang Toản

ngày càng suy yếu.

Trong hoàn cảnh như vậy, Ngô Thì Nhậm không thể phát huy được tài năng

của mình. Ông cùng một số bầy tôi cũ của nhà Lê được tin dùng như Phan Huy Ích,

Ninh Tốn, Nguyễn Huy Lượng… chỉ còn là những quan soạn sách, trông coi việc lễ

nghi… ví như năm Đinh Tỵ (1797) Ngô Thì Nhậm phụng mệnh trông coi việc tu

sửa Quốc sử. Ngô Thì Nhậm không thể đóng góp được gì trong hoàn cảnh triều

đình Quang Toản ngày một rối loạn, ông âm thầm ôm niềm đau xót, tìm lối thoát

trong Thiền học.

Nhà Tây Sơn nhanh chóng sụp đổ trước sự công kích, dượt đuổi của Nguyễn

Ánh. Năm Quý Hợi (1803) Nguyễn Ánh bắt đầu công cuộc trả thù những người

trước đây theo phong trào Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích bị đưa ra Văn

Miếu kể tội. Ngô Thì Nhậm qua đời trong trận đòn ấy (nhằm ngày 16 tháng 2, tức

ngày 9 tháng 3 năm 1803), hưởng thọ 58 tuổi.

1.2.1.2. Sự nghiệp

Bên cạnh sự nghiệp chính trị, quân sự, ngoại giao của mình; Ngô Thì Nhậm

còn để lại cho đời một di sản thơ văn rất đồ sộ, phong phú và nhiều nhất so với các

tác gia cùng thời. Theo các tư liệu ghi chép, nghiên cứu về Ngô Thì Nhậm hiện còn,

tác giả có khoảng 20 tác phẩm thơ văn. Tuy nhiên hiện tại mới tìm được văn bản

của 13 tác phẩm mà thôi. Các tác phẩm này được tập hợp trong tùng thư Ngô gia

văn phái, đồng thời đây cũng là tác giả có nhiều tác phẩm nhất trong tùng thư này.

Có thể kể đến:

1. Nhị thập thất sử toát yếu. Biên soạn năm 1762, đã mất. Thấy nói trong

Ngô gia thế phả.

2. Tứ gia thuyết phả. Biên soạn năm 1766, đã mất. Thấy nói trong Ngô gia

thế phả.

3. Hải Dương chí lược. Biên soạn năm 1772, đã mất. Thấy nói trong Ngô gia

17

thế phả.

4. Tự học toản yếu. Không rõ năm soạn, đã mất. Còn bài tựa trong Kim mã

hành dư, có lẽ là sách Tam thiên tự giải nghĩa.

5. Công vụ thành thư. Soạn năm 1778, đã mất. Thấy nói trong Ngô gia thế phả.

6. Thánh triều hội giám. Soạn năm 1781, đã mất. Đề cương thấy nói trong

Kim mã hành dư.

7. Bút hải tùng đàm. Soạn khoảng năm 1769 - 1782, hiện có 3 dị bản chép

trong tùng thư Ngô gia văn phái.

8. Thủy vân nhàn vịnh. Sáng tác năm 1782 - 1786, hiện có 3 dị bản chép

trong tùng thư Ngô gia văn phái.

9. Xuân thu quản kiến. Soạn năm 1782 - 1786, hiện có 3 dị bản chép trong

tùng thư Ngô gia văn phái.

10. Kim mã hành dư. Sáng tác năm 1775 - 1788, hiện có 13 dị bản chép trong

tùng thư Ngô gia văn phái.

11. Ngọc đường xuân khiếu. Sáng tác năm 1789 - 1792, hiện có 3 dị bản chép

trong tùng thư Ngô gia văn phái.

12. Hoàng hoa đổ phả. Sáng tác năm 1793, hiện có 7 dị bản chép trong tùng

thư Ngô gia văn phái.

13. Cúc học thi trận. Sáng tác khoảng năm 1796, hiện có 7 dị bản chép trong

tùng thư Ngô gia văn phái.

14. Cẩm đường nhàn thoại. Sáng tác khoảng năm 1785 - 1797, hiện có 4 dị

bản chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.

15. Thu cận dương ngôn. Sáng tác khoảng năm 1797 - 1798, hiện có 4 dị bản

chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.

16. Hào mân ai lục. Sáng tác khoảng năm 1780 - 1800, hiện có 5 dị bản chép

trong tùng thư Ngô gia văn phái.

17. Bang giao hảo thoại. Sáng tác khoảng năm 1789 - 1800, hiện có 11 dị

bản chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.

18. Hàn các anh hoa. Sáng tác khoảng năm 1789 - 1801, hiện có 8 dị bản

18

chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.

19. Liên hạ thi minh. Sáng tác năm 1800, đã mất, hiện chỉ còn bài thuyết

chép trong tùng thư Ngô gia văn phái.

20. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Không chép trong tùng thư Ngô gia văn

phái mà có sách in riêng.

Vua Quang Trung qua đời, Ngô Thì Nhậm mất đi người tri kỉ, một người

hiểu mình, tin mình và trọng dụng tài năng của mình. Cũng từ đây, Ngô Thì Nhậm

tìm hiểu đạo Phật, ông lập thiền viện, soạn công án, trở thành Hải Lượng thiền sư.

Ngô Thì Nhậm từ một nhà nho, một nhà chính trị ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền

tông Việt Nam. Trong lịch sử Việt Nam thật hiếm có một người trí thức nào có một

đời sống tâm linh và đời sống trần thế phong phú đa diện như Ngô Thì Nhậm.

Tóm lại, có thể thấy, trong bối cảnh xã hội phong kiến nước ta cuối thế kỷ

XVIII, Ngô Thì Nhậm thực sự là một người yêu nước và thức thời. Ông có cách xử

thế khác hẳn với các danh sỹ đương thời, không mang nặng tư tưởng triều đại mà

thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc bằng việc dốc hết sức lực, tài năng để phục vụ

đất nước, phục vụ nhân dân. Đúng như đánh giá của một số nhà nghiên cứu, cuộc

đời và sự nghiệp của Ngô Thì Nhậm như những ngôi sao sáng chói, xứng đáng để

các thế hệ người Việt Nam ngưỡng mộ, tự hào.

1.2.2. Bang giao hảo thoại

Bang giao hảo thoại là một tập hợp những bài bẩm, trình, biểu do Ngô Thì

Nhậm thay mặt triều đình Tây Sơn chấp bút, được viết trong khoảng thời gian từ

1789 - 1800. Sau được soạn giả tùng thư Ngô gia văn phái sưu tầm, tập hợp, biên

soạn, sắp xếp theo thể loại thành hai quyển 48 và 49 cho tùng thư này. Trong đó:

Quyển 48 tập hợp theo thể loại bẩm, trình, gồm 64 bài, được viết sau chiến

thắng Mậu Thân (1789), gửi cho các quan Lưỡng Quảng như: Thanh Hùng Nghiệp,

Phúc Khang An… để dàn xếp các công việc sau chiến tranh. Những bài bẩm, trình

này đều được viết trong khoảng thời gian từ 1789 đến năm 1799.

Quyển 49 lại được tập hợp theo thể loại biểu, gồm 17 bài, cũng được viết trong

khoảng thời gian sau chiến thắng Mậu Thân (1789) đến năm 1799. (Tập sách này

19

được đánh số từ bài 65 đến bài 92, thuộc quyển 49 của tùng thư Ngô gia văn phái).

Bang giao hảo thoại được biên soạn, sắp xếp theo trât tự thời gian, phản ánh

hiện thực ngoại giao của nhà Tây Sơn. Đây là tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp

sáng tác của Ngô Thì Nhậm, nó không chỉ thể hiện tài năng uyên bác của ông mà

qua đó còn cho thấy chiến lược, sách lược và tầm nhìn của vua Quang Trung. Tác

phẩm để lại cho hậu thế những bài học về quân sự, ngoại giao có giá trị to lớn, vượt

thời gian.

Tiểu kết chương 1

Tình hình lịch sử - xã hội, văn hóa tư tưởng Việt Nam thế kỉ XVIII có nhiều

biến động. Triều đình Lê - Trịnh ngày càng bộ lộ nhiều hạn chế trong việc an dân,

phát triển đất nước khiến bão táp của phong trào khởi nghĩa nông dân mạnh mẽ hơn

bao giờ hết. Triều đại Tây Sơn ra đời trong hoàn cảnh đầy phức tạp đó, vừa phải

giải quyết vấn đề chính trị trong nước khi các thế lực Trịnh - Nguyễn vẫn còn mạnh

và vẫn muốn nắm quyền, vừa phải đối mặt với nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc

khi Lê Chiêu Thống cầu viện triều đình Mãn Thanh “cõng rắn cắn gà nhà”. Vua

Quang Trung đã thể hiện tài năng quân sự của mình khi đại phá 29 vạn quân Thanh

xâm lược với tương quan lực lương chênh lệch khá lớn, đồng thời đạt được những

thành tựu ngoại giao bước đầu trong công cuộc bang giao với nhà Thanh sau thắng

lợi đó. Ngô Thì Nhậm xuất hiện như một ngôi sao sáng, nhận tố quan trọng góp

20

phần thành công trong công cộc ngoại giao phức tạp đó.

Chương 2: BANG GIAO HẢO THOẠI

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG

2.1. Khẳng định độc lập chủ quyền đất nước

Một trong những nội dung xuyên suốt và quan trọng nhất của tác phẩm Bang

giao hảo thoại của Ngô Thì Nhậm là khẳng định độc lập chủ quyền đất nước. Đây

cũng chính là mục đích cao nhất, mục đích cuối cùng hướng đến của mọi đòn tấn

công ngoại giao mà vua Quang Trung cũng như vị quân sư Ngô Thì Nhậm ngày

đêm trăn trở. Nội dung này được thể hiện ở nhiều mức độ với những hình thức khác

nhau: khi thì mềm dẻo, lúc lại vô cùng đanh thép nhưng tựu chung đều nhằm mục

đích giữ vững tinh thần trước sau như một về một nền độc lập, chủ quyền toàn vẹn

của Đại Việt.

Nội dung này được thể hiện ngay từ bài số 1 - Bẩm thiên triều Lưỡng Quảng

tổng đốc Tôn đại nhân (Bẩm Tôn đại nhân, tổng đốc Lưỡng Quảng thiên triều).

Trong đó Ngô Thì Nhậm đã thông qua việc phê phán hành động gây chiến của Tôn

Sỹ Nghị mà gián tiếp khẳng định chủ quyền của đất nước với những lời chỉ trích

nhẹ nhàng mà sâu cay như sau:

“Ôi! Chiếm lấy nước người bằng thoán đoạt, thực là điều bậc vương giả

không dung tha, lẽ trời càng không thể tha thứ được. Quả nhân của Ngô Hồng Chấn

tôi là Nguyễn Huệ, tuy sinh trưởng ở chốn xa xôi, cũng đội thanh giáo của Thiên

triều, há lẽ u mê không biết!” [11, 406].

Để từ đó tác giả đưa ra mong muốn quân Thanh dừng lại việc đưa quân qua

biên ải nước ta:

“Tôi trộm nghĩ, khắp cả trong ngoại bốn bể đều là bề tôi của Thiên triều, quan

quân đi đâu, mọi người đều mang lẵng cơm, xách bầu nước đợi đón quan quân đến.

Ngô Hồng Chấn đâu dám kháng cự? Nhưng nay chợt nghe thấy quân Thiên triều qua

cửa ải, lại báo cho biết việc tiến hành, khiến lòng người phải ngờ vực, lo sợ. Kẻ là

lính sợ mắc vào tội phản nghịch, nói rằng không đánh thì cũng bị giết. Kẻ làm dân sợ

hãi không tiếp tục cấp quân lương, nói rằng không chốn đi thì cũng chết. Vì thế các

21

cánh quân tranh nhau đến chỗ đồn trại, dân các xứ phải chạy vào chốn sơn lâm. Việc

đồn đến trước trướng, Đại nhân ngờ là có việc như con bọ ngựa dơ càng lên chống lại

xe.” [11, 407].

Ngô Thì Nhậm đã nói lên sự bất ngờ của quân dân Đại Việt khi Tôn Sỹ Nghị

kéo quân xâm chiếm nước ta, đồng thời khéo léo nhắn nhủ về động thái chống trả

của quân dân Đại Việt để bảo vệ bờ cõi, chủ quyền. Và ông cho thấy tài năng của

mình khi nói lên được suy nghĩ, ý định của nhà Thanh “Đại nhân ngờ là có việc như

con bọ ngựa dơ càng lên chống lại xe” coi sự chống trả của chúng ta yếu ớt, tiềm

lực của chúng ta cũng chỉ như “con bọ ngựa” hay châu chấu, nhưng có thể lắm bởi

lịch sử bao lần đã chứng minh sức mạnh của Đại Việt “tưởng rằng chấu ngã ai rè xe

nghiêng”.

Hay như trong bài số 2 - Bẩm thiên triều Quảng Tây phân tuần tả giang binh bị

đạo tổng lý phiên vụ Thang đại nhân (Biện về việc xảy xa binh đao, Quốc Vương

bẩm), lời lẽ vô cùng nhún nhường, thể hiện mong muốn giữ hòa hiếu, song quyết tâm

giữ vững chủ quyền dân tộc vẫn được thể hiện rất đậm nét:

“Ôi! Quân cốt ở chỗ hòa chứ không phải ở chỗ đông, quý ở tinh nhuệ chứ

không quý ở nhiều người. Người khéo nắm phần thắng, thắng ở chỗ hòa nhu, không

phải người mạnh lấn người yếu, nhiều người lấn ít người. Nếu tình hình trước đây

chưa rõ, Thiên triều không khoan dung cho chút nào, phải đem quân đến đánh, thế

thì nước nhỏ tôi không được hết lòng kính thờ nước lớn, tôi cũng phó mặc cho

mệnh trời đó thôi”. [11, 412].

Ngô Thì Nhậm đã đề cập đến một quan điểm rất phổ biến thời bấy giờ, đó là

việc phân định quốc gia, chủ quyền đã được ghi trong “sách trời” (điều này đã từng

được đề cập trong bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” trong trận quyết chiến với quân

Tống trên sông Như Nguyệt). Và như một lẽ tự nhiên, ông cũng khẳng định, nếu

phía Trung Hoa không tôn trọng chủ quyền quốc gia của chúng ta, thì Đại Việt đành

phải “phó mặc cho mệnh trời” mà chống lại để giữ yên biên cương mà thôi.

Triều đại Tây Sơn ra đời trong hoàn cảnh đất nước rất rối ren, loạn lạc; nanh

vuốt kẻ thù rập rình cướp nước, vì vậy việc một triều đại mới lên nắm quyền, một vị

22

vua mới trị vì đất nước cần được ban bố rộng khắp và sự công nhận của nước lớn để

mọi công việc hành chính, quyết sách ngoại giao được “danh chính ngôn thuận”.

Trong Bang giao hảo thoại số lượng các bài bẩm, trình về việc cầu phong cho vua

Quang Trung, biểu cầu phong cho vua Quang Toản như: sứ giả nhà Thanh sang đọc

sắc phong, chuẩn bị trạm dịch cho sứ giả nghỉ chân, điểm đón tiếp xứ giả, điểm nghỉ

chân… chiếm một số lượng lớn và hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều khẳng định

độc lập chủ quyền dân tộc. Bên cạnh đó, loạt bài viết về việc sang chúc thọ vua

Kiền Long hay tâu báo tình hình trong nước sau khi vua Quang Trung qua đời, tạ ơn

về việc tuyên phong, tạ ơn về việc ban nhân sâm, ban ngọc như ý… đến các bài viết

về tình hình biên cương, hải phận, làm lễ dâng hương khi vua Kiền Long mất… đều

có điểm chung là mang nội dung khẳng định chủ quyền dân tộc rất đậm nét. Cụ thể

có thể xét tới:

Sau chiến thắng oanh liệt đại phá 29 vạn quân Thanh, đặt danh dự quốc gia lên

hàng đầu, mục tiêu ngoại giao của tây Sơn là kiên quyết đấu tranh với nhà Thanh để

không những nhà Thanh công nhận Tây Sơn về mặt ngoại giao mà còn hủy bỏ lệ

cống “người vàng” do Thiên triều đặt ra từ trước đó (bắt đầu từ thế kỷ XV) mỗi khi

thay đổi triều đại. Trong bài số 20 - Bẩm Phúc Đại nhân (Giãi bày về việc nộp thay

người vàng. Tông thuộc trong nước bẩm) có đoạn:

“Nay, gần tiếp quang nghi, sao lành phượng đẹp. Ơn dạy bảo về lệ trước trải

đời thay đổi, phải có người vàng thay mình đến tạ, sức cho nước tôi phải sắm đủ

một pho người vàng dâng hiến… Ngày nay Quốc trưởng nước tôi, xuất thân từ áo

vải, nhân thời biết việc, cùng với vua Lê cũng không phải danh phận vua tôi, sự còn

mất do ở số trời, việc hướng theo hay quay lưng lại với nhau là bởi lòng người,

chẳng liên quan gì đến nhà Lê, có phải như những bọn thoán đoạn đâu? Vả lại trước

đây, Tôn bộ đường cầm quân đến đánh, Quốc trưởng nước tôi không dừng được mà

phải ứng chiến, không xâm phạm vào biên cảnh, để đắc tội với Thượng quốc. Nay

Đại nhân ép theo lệ cống người vàng, thế thì Quốc trưởng nước tôi được nước

quang minh chính đại, lại phải ngang hàng với ngụy Mạc, với tấm lòng thành thực

kính thuận, sợ trời thờ nước lớn ư? Trái lại cũng chung một duộc như nhà Trần bắt

23

Ô Mã Nhi; nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao? Thế thì chẳng những Quốc trưởng

nước tôi đối với tình đã chịu khuất mà cái được bỉnh quốc của Đại nhân lại khiến

cho người tôi thuộc phải mong mỏi đến sự cầm quân hay sao?” [11, 487].

Với lời lẽ mềm dẻo, chí tình chí lý, Ngô Thì Nhậm đã thay mặt vua Quang

Trung gửi đến Phúc Khang An bài bẩm thể hiện rõ ý định, lập trường của ta về việc

sẽ bãi bỏ lệ cống người vàng cho Thiên triều Trung Hoa. Bằng cái nhìn lịch sử

xuyên thời gian cùng nhãn quan chính trị và lòng tự tôn dân tộc, Ngô Thì Nhậm đã

gợi lại niềm tự hào dân tộc trong những trận thắng kiêu hùng của dân tộc ta trước

những lần quân Trung Hoa xâm lược với sự bại trận đớn đau của Ô Mã Nhi trước

triều Trần hay Liễu Thăng dưới đội quân của vua Lê Lợi. Sự vững vàng trong lập

trường chính trị, mềm dẻo trong lời lẽ thuyết phục ấy, hỏi thiên triều Mãn Thanh

không chấp thuận sao được?

Nội dung khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc trong Bang giao hảo thoại

của Ngô Thì Nhậm còn thể hiện ở việc chúng ta luôn chủ động trong việc tiến hành

bang giao, thể hiện một sự tự tin và có lập trường. Cụ thể trong những lần xin bạn

sắc phong hay tuyên nhậm ấn vàng, ta chủ động gửi bẩm, trình thay đổi thời gian

nếu thấy nó chưa thực sự thuận lợi hay do ta vướng một số công việc cấp thiết khác.

Trong bài số 15 Trình Thiên triều sắc sứ nhị vị đại nhân (Trình lý do bị bệnh, xin

hoãn lễ tuyên phong, Quốc Vương thư trình) có đoạn:

“Trộm nghĩ, ngày 24 là kỳ tuyên phong, chắc đã được Tước các đốc bộ đường

công tấu rõ, Đại nhân tuân theo thi hành, tiểu phiên tôi đâu dám tự tiện thay đổi. Chỉ vì

mình mắc bệnh, lại đúng ngày làm lễ, rất mong tiết ngọc tạm đình, xe hương dừng lại,

đợi cho tiểu phiên tôi khỏi bệnh, ngay sau khi tham yết, sẽ xin chọn ngày tốt làm lễ thụ

phong, để cho trọn điển lễ, rất mong đại nhân phán quyết.” [11, 466].

Cáo bệnh để lùi ngày nhận tuyên phong, nhưng thực chất Quang Trung muốn

phía Trung Hoa phái người sang Đại Việt thực hiện lễ tuyên phong trên đất của ta.

Mặc dù bề ngoài ta rất nhún nhường trong ngoại giao với nhà Thanh, nhưng thực

chất ta rất kiên quyết, buộc nhà Thanh phải theo ý ta, ta luôn giữ thế chủ động, thế

“thượng phong”.

Nước ta cho truyền thống bang giao lâu đời, và hầu hết dưới triều đại nào

24

cũng phải đối mặt với những kẻ thù mạnh hơn về cả sức người và sức của. Tuy

nhiên, chúng ta luôn giữ gìn được bờ cõi non sông bởi ý sự kiên định trong việc giữ

vững nền độc lập chủ quyền, mạnh mẽ phản kháng trước bất kì một hành động nào

có dấu hiệu của sự xâm phạm biên giới quốc gia. Dưới triều Tây Sơn, vua Quang

Trung với tài mưu lược và nhãn quan chính trị nhạy bén đã nhìn rõ mưu đồ muốn

phục thù luôn thường trực trong suy nghĩ của người Trung Quốc, sau sự đại bại ở

Ngọc Hồi - Đống Đa. Chính vì vậy, trước bất kì hành động nào của quân Thanh,

vua Quang Trung cũng đều phái Ngô Thì Nhậm thay mặt mình gửi bẩm, trình báo

cáo tình hình, nhưng qua đó để thể hiện thái độ của ta trước những âm mưu gây hấn

của chúng. Cụ thể trong bài số 22 - Hựu nhất đạo (Báo tin có thuyền đậu ở ngoài

biển. Quốc vương bẩm) có đoạn:

“Nhưng bỗng vào ngày 26 tháng này, nhận được tin của lính tuần biển Nghệ

An báo rằng: trên biển có một đoàn thuyền ước hơn một trăm chiếc, từ biển Đông

tiến thẳng vào Biện Sơn thuộc vùng biển Nghệ An, nối đuôi nhau đi chênh chếch,

tiến vào các cửa biển Nhật Lệ, Tư Dung, tinh kỳ khí giới y như hình dạng của nội địa,

chúng cướp bóc vùng ven biển, dân tình rất khổ sở. Tiểu phiên chúng tôi đang tiến

hành sửa sang tân ấp, bỗng nghe tin ấy, chưa biết thuyền biển đó đến là do duyên cớ

gì?... Nay nước tôi đã được nội thuộc, tức là trở thành phên giậu của Thiên triều. Bọn

quân ở biển kia là bọn quân nào? Há dám im lặng sao được?” [11, 497].

Báo cáo tình hình cho nhà Thanh biết việc có thuyền quân, binh lính đến

vùng biển Đại Việt; đồng thời tự coi mình là “phên giậu” của Trung Hoa, một lòng

kính cẩn muốn bảo vệ nước lớn. Tuy nhiên ẩn sau đó là lời cảnh tỉnh, nói rõ cho nhà

Thanh thấy việc ta đã nhận ra được mưu đồ xâm lấn vùng biển nước ta của chúng,

cùng với đó là thể hiện lập trường kiên quyết chống trả “Há im lặng làm sao được?”

Hay trong bài số 46 - Ký bồi giới Nguyễn Hoành Du để hậu đề thư (Bức thư

đề sau gửi cho bọn bồi giới Nguyễn Hoành Du) có viết:

“Ta là người áo vải dấy nghiệp, cùng với nước đó lúc đầu không có hiềm

khích gì. Nhưng nước đó gần đây từng vào đánh cướp thuộc ấp Đồng Nai của ta vì

thế phải dùng đến việc binh đao. Bọn đó đã bị ta đánh thua ba lần, tính số người

25

ngựa của chúng bị giết không biết bao nhiêu mà kể. Bọn chúng muốn chống lại

nước ta, nhưng sức không địch nổi, muốn đơm đặt dèm pha với Thượng quốc song

chưa có cơ hội. Nay nghe nói sứ thần nước đó đến [Yên] Kinh hẳn có mánh lới.

Nhưng Đại Hoàng đế là người nhìn xa muôn dặm, ta sợ gì những lời ton hót đó.”

[11, 616].

Ta viết cho bọn bồi giới Nguyễn Hoành Du vì chúng đã có những hành động

gây hấn trên bờ cõi nước ta (vùng Đồng Nai) mới khai hoang lập ấp, nhưng thực chất

muốn nhắn nhủ đến thế lực đứng sau nó, chính là thiên triều Trung Hoa. Ngô Thì

Nhậm đã liệt kê những thất bại về quân lực, vật lực, “người ngựa” trước đó để chúng

biết rằng nước ta tuy là một nước nhỏ nhưng hoàn toàn có khả năng chống trả trước

những hành vi xâm phạm bờ cõi, và kiên quyết bảo về chủ quyền cho bằng được.

Rõ ràng vua Quang Trung cũng như các đại thần nước ta đều ý thức được việc

nước ta là một nước nhỏ, tiềm lực về quân sự yếu hơn Trung Hoa rất nhiều, và bao

triều đại đều phải đối mặt với việc Trung Quốc sang gây chiến, mưu đồ cướp nước ta.

Tuy nhiên chúng ta không hề bị khuất phục, không hề chịu nô lệ mà luôn vững vàng,

quyết tâm giữ vững chủ quyền dân tộc.

Trước những tình huống cấp bách khi quân đội Trung Hoa gây hấn, chúng ta

đều chủ động chống trả, sau đó viết biểu dâng nói rõ tình hình cũng như lập trường

của ta, lời lẽ vô cũng thuyết phục, kiên quyết. Như trong bài số 65 - Trần tình biểu

(Biểu trần tình) viết:

“Cúi xin trừng trị kẻ gian, không vì thế yếu mà phụ họa, che đậy hôn bạo,

cứu vớt dân lành, thể hiện nguyện vọng lớn.

… Ôi! Những mạng sống ở nơi góc biển, chẳng lẽ không phải là con đỏ của

triều đình sao? Cái đạo của Đại Hoàng đế giáo hóa cho đã lâu, há vì thích công lao

to lớn mà sinh sự với cõi ngoài xa xôi, khiến cho dân vô tội phải mắc trong vòng

hòn tên mũi đạn? Còn Sỹ Nghị đã không tuyên đức ý của bề trên, mà còn giết người

chết như ngả rạ, không chỉ một mình thần mà tất cả bề tôi đều muốn gom bè đản ấy

lại, bắt giết toàn bộ, bố cáo khắp nơi, để người người thấy nguy mà sợ.

… Trộm thấy, trong khi xảy ra đánh nhau, Thánh nhân cũng không được rõ. Đại

26

Hoàng đế ở chốn cửu trùng thâm thiên, việc ngoài biên cương, Tôn Sỹ Nghị chưa từng

tâu lên, che đậy tin tức, mới khiến cho sự thể đến mức ấy. Thần quả thực không dám

bọ ngựa đá xe, nhưng vì cửa vua xa vạn dặm, lại vì bề tôi ở thế ép buộc, không thể

nhẫn nại được, nên đã chống trả.” [11, 678-681].

Rõ ràng Ngô Thì Nhậm đã cho Thiên triều Trung Hoa thấy được hành động

chống trả, phản kháng của nước ta trước sự xâm chiếm của chúng là một điều tất

yếu, hợp lý. Đồng thời thể hiện sự chủ động, quyết liệt trong việc giữ vững nền độc

lập, chủ quyền dân tộc. Phê phán hành động gây hấn của Tôn Sỹ Nghĩ, nhưng ẩn

sau đó Ngô Thì Nhậm cũng “đánh tiếng, cảnh cáo” cho cả triều đình nhà Thanh

thấy mặc dù tiềm lực quân sự giữa ta và địch như “bọ ngựa - xe”, nhưng không phải

vì vậy mà chúng ta cam tâm chịu khuất phục.

Về nội dung giữ vững nền độc lập, chủ quyền dân tộc trong Bang giao hảo

thoại, có thể nói Ngô Thì Nhậm đã phát huy tinh thần của dân tộc, vận dụng có sáng

tạo truyền thống bang giao của lịch sử đấu tranh nước nhà, kết hợp với nhãn quan

chính trị, sự nhạy bén trong việc nhận định tình hình, cục diện của mình để từ đó có

những đối sách vô cùng hợp lý. Có thể nói nội dung này đã xuyên suốt và như một

cái xương sống giúp định hình tinh thần của tác phẩm, làm rõ được mục đích và lập

trường ngoại giao của ta. Chúng ta thấy trong Bang giao hảo thoại có hơi thở của bài

thơ thần Nam quốc sơn hà năm nào vọng về, hay trí tuệ, sự vẻ vang hào hùng trong

Bình Ngô Đại cáo của công thần Nguyễn Trãi dưới triều Lê hiện lên…Và sau này là

đòn tấn công ngoại giao và lời tuyên ngôn đanh thép về chủ quyền quốc gia trong

Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch. Và quả thực Bang giao hảo thoại không chỉ

mang tinh thần của thời đại, mà còn là tác phẩm góp phần quan trọng trong dòng

chảy lịch sử ngoại giao, khẳng định chủ quyền quốc gia của nước ta.

2.2. Giữ quan hệ hòa hiếu với nước láng giềng

Trong lịch sử ngoại giao của tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam nói

chung và triều đại Tây Sơn nói riêng, chúng ta luôn phải đối mặt với những kẻ thù

mạnh hơn, thậm chí còn phải đối mặt với chúng trong những hoàn cảnh chúng ta có

nhiều hạn chế về quân lực, vật lực. Và hơn hết người dân Đại Việt luôn khát khao

27

được sống trong hòa bình, yên ổn; vì vậy, mục tiêu giữ quan hệ hòa hiếu với các

nước láng giềng luôn là mục tiêu hàng đầu mà các chính sách ngoại giao của chúng

ta hướng đến. Đây là nội dung quan trọng và tiêu biểu trong Bang giao hảo thoại,

được thể hiện trong hầu hết các văn bản bang giao. Và nội dung này khi thì được

thể hiện một cách trực tiếp, khi lại được thể hiện một cách gián tiếp thông qua việc

bày tỏ thái độ tôn trọng của nước ta với Trung Hoa - “Thiên triều”, vua Trung Hoa -

“Đại hoàng đế”.

Trong bài số 2 - Bẩm thiên triều Quảng Tây phân tuần tả giang binh bị đạo

tổng lý phiên vụ Thang đại nhân (Biện về việc xảy xa binh đao, Quốc Vương bẩm) -

Ngô Thì Nhậm thay mặt vua Quang Trung viết cho Thang Hùng Nghiệp, lời lẽ vô

cùng mềm dẻo nói về việc bất bình khi Tôn Sỹ Nghị ném thư của chúng ta gửi đến,

cố tình tiến quân nên bị quân ta đánh cho tơi bời. Tuy nhiên, lời lẽ trong bức thư rất

điềm tĩnh, ôn tồn thể hiện thái độ tôn trọng đối với nhà Thanh, gọi chúng là

“Thượng quốc”, để chúng không mất mặt vì hành động gây hấn của Tôn Sỹ Nghị và

sự bại trận đó. Cụ thể trong bài bẩm có đoạn:

“Tôn Sỹ Nghị tự kéo quân đến đón đánh, để đến nỗi bị quân của tôi đánh cho

phải thua, chết ngổn ngang không biết bao nhiêu mà kể…Tôi vẫn không xâm phạm

đến bờ cõi để đắc tội với Thượng quốc… Nay nhờ vào tấm thịnh tình xem xét rộng

của Đại nhân mà kính dâng biểu chương, trình bày sự việc. Rất mong Đại nhân

chuyển đạt lên, để được ngửa đợi ân điển của Đại Hoàng đế, kính cẩn sửa lễ cống,

cử phiên thần dâng lên, làm cho quân dân khỏi khổ về nạn binh đao, đó là điều

mong muốn lớn nhất của tôi.” [11, 411].

Chúng tôi khảo sát hầu hết các bài viết trong Bang giao hảo thoại, từ các bài

bẩm, trình đến các biểu dù bàn về việc trao trả tù binh, đến báo cáo tình hình biên

cương, biên ải, xin cầu phong hay việc chúc thọ vua Kiền Long… đều thể hiện một

sự hòa nhã, nhún nhường và thái độ cầu thị của đất nước khát khao hòa bình và

chung sống hòa hiếu với Trung Hoa. Đó là tinh thần cốt yếu của ngoại giao Đại Việt

không chỉ được thể hiện đậm sâu dưới triều đại Tây Sơn, mà đã được thể hiện từ

các triều đại trước và duy trì đến tận ngày nay.

Với những lời lẽ hết sức mềm mỏng, khéo léo nêu lên thiện chí của chúng ta:

28

“Tôi nghĩ đi nghĩ lại, mọi việc trong thiên hạ, không gì hơn tấm lòng thành. Lần này

quan quân về đến Yên Kinh, xin Tôn đài cứ ỉm đi, làm cách nào cho được như công

văn trước nói “Nghỉ việc để yên dân”, đó mới thực là điều mong mỏi lớn nhất của

tôi… Ôi, nước nhỏ đối với nước lớn, ngoài những điều sợ lẽ trời sợ nước lớn ra,

không có ý kiến gì khác.” (Bài số 4 - Bẩm thang đại nhân - Trình bày việc nộp trả

những quân nhân, Quốc Vương bẩm) [11, 420].

Tác giả khơi lại chuyện Tôn Sỹ Nghĩ vượt quyền gây hấn, vô cớ đem quân

đến nước ta để dẫn đến thất bại, hao tổn bao quân lương và còn lại rất nhiều tù binh

bị quân ta đang giam giữ, nhưng chúng ta không lấy đó làm cái cớ để đổi chác, ra

điều kiện mà vẫn luôn giữ thái độ khoan hòa, đem lễ vật để dâng lên, coi việc cầu

phong là việc lớn, muốn duy trì quan hệ hòa hiếu với Trung Hoa là điều mong mỏi.

Nhận thức rõ vị thế nước mình là nước nhỏ, chính vì vậy những công việc

trọng thể liên quan đến việc xin cầu phong, trần tình về việc lên ngôi lập nước... triều

đình Tây Sơn đều viết thư để hoặc thông báo trọng thể, hoặc xin phong ban. Điều đó

thể hiện thái độ tôn trọng của nước ta với Thiên triều Trung Hoa và mong muốn giữ

mối thân tình với nước láng giềng, cũng là nước lớn với sự tôn kính. Cụ thể trong Bài

số 7 - Bẩm Phúc Đại nhân (Cầu phong điển lễ, Quốc Vương bẩm) có viết:

“Theo việc cũ của nước tôi, chịu mệnh làm phiên bang phải sớm làm lễ ở

quốc đô, ân quang ban xuống, nghe thấy cùng tin, có thể yên định cơ đồ lúc buổi

đầu, thỏa lòng mọi người, do đó mà đến chầu giữ chức là danh nghĩa đương nhiên,

tiểu phiên tôi nhờ ân sủng của Thiên tử, phúc lành tràn ngập trong nước, tức là Đại

Hoàng đế, ơn đã tràn đến cõi xa, cái ơn như trận mưa nhuần ấy, ca tụng không bao

giờ hết được.” [11, 432].

Những lời lẽ hết sức mềm dẻo, thể hiện thái độ tôn kính của nước nhỏ với

nước lớn, của bề dưới với bề trên. Đồng thời coi việc cầu phong, ban tước là việc

mà Thiên triều Trung Hoa ban ơn “ân quang ban xuống”, như vậy há chẳng phải

nước ta muốn tỏ rõ lòng tôn trọng với nước họ là gì. Và mục đích cuối cùng của tất

cả những việc làm đó là muốn giữ quan hệ hòa hiếu, hoà bình với Trung Quốc.

Chúng tôi khảo sát hầu hết các bài viết trong Bang giao hảo thoại thì thấy

29

một điểm chung rất đáng quan tâm, đó chính là nội dung muốn giữ quan hệ hòa

hiếu với nước láng giềng Trung Hoa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tác phẩm góp

phần làm nên tinh thần chung của tập bang giao. Dù là bài biểu hay bẩm, trình thì

nội dung này cũng được lồng ghép vào đó một cách khéo léo, cụ thể như sau:

Trong bài số 15 - Trình Thiên triều sắc sứ nhị vị đại nhân (Trình lí do bị

bệnh, xin hoãn lễ tuyên phong, Quốc Vương thư trình) Ngô Thì Nhậm đã thay mặt

vua Quang Trung trình bày rõ thịnh tình, niềm vui mừng khôn xiết khi được tuyên

phong, tuy nhiên do bị bệnh nên không thể nhận phong đúng ngày mà phải xin hoãn

lại với mục đích để phía nhà Thanh phải phái người sang đất ta truyên phong. Trong

đó có những lời lẽ vô cùng mềm dẻo, thể hiện thái độ tôn kính của nước ta đối với

Trung Hoa:

“Tiểu phiên tôi sợ mệnh trời thờ nước lớn, cảm cách được soi xét tới, xin Đại

nhân lượng xét mà chu toàn cho, chuyển bẩm Tước các đốc bộ đường công tấu

minh duyên cho tiểu phiên tôi đi giữa đường cảm bệnh, và xin đổi ngày tuyên

phong, may được khỏi tội lỗi, thấy được lòng thành thực, đó là điều mong mỏi lớn

nhất của vua tôi tiểu phiên này vậy. Trông lên sao Khuê sao Đẩu, khó nhọc kiễng

chân kính trình.” [11, 466].

Rõ ràng tác giả đã nhận thức rõ được tình hình, cục diện mà đưa ra những lời lẽ

hết sức mềm mỏng thể hiện rõ được tấm lòng tôn kính của nước ta với nhà Thanh, coi

việc kính trọng đó là lẽ thường, thuận “mệnh trời” và sẽ dốc lòng thực hiện đúng để

Trung Quốc không trách việc chúng ta muộn ngày tuyên phong mà lấy cớ gây hấn hay

gây bất lợi việc gì. Âu cũng là muốn giữ nền hòa bình, quan hệ hòa hiếu, tránh nhưng

xích mích, hiểu lầm không đáng có.

Cùng trong hệ thống các bài trình, bẩm về việc xin hoãn ngày tuyên phong,

ban ấn bài số 16 - Hựu nhất đạo (Xin đổi ngày hẹn tuyên phong. Quốc Vương

trình thư) cũng thể hiện sự tôn trọng của nước ta với triều đình Trung Hoa:

“Trộm nghe, sách Lễ ký nói “Đấng quân vương đến, thì chủ nhân phải ra vái

lạy, chịu nhục vâng lời quân vương, tự nghĩ rằng đó là nghiêm mệnh của quân

vương vậy.” [11, 469].

Ngô Thì Nhậm dẫn ngay cái “lễ” được ghi trong sách của chính người Trung

30

Hoa để bày tỏ thái độ tôn trọng của nước ta với nhà Thanh, vừa thể hiện sự am

tường lịch sử nước bạn, vừa cho thấy tấm lòng muốn kết giao khi tin dùng chính

những điều mà họ tôn thờ, đúc rút từ trước tới nay đã ghi trong sử sách.

Trong lịch sử nước ta có lệ cống người vàng, sản vật quý cho Thiên triều

Trung Hoa, tuy nhiên đến thời vua Quang Trung, nhận rõ thấy sự tốn kém, hao tốn

của cải, công sức của việc làm này; đồng thời căn cứ vào thế và lực của Đại Việt

trong giai đoạn này, triều đình ta đã chủ động xin bỏ lệ nộp thay người vàng với lời

lẽ hết sức mềm mỏng, tránh những xung đột, hiểu lầm không đáng có mà vẫn buộc

nhà Thanh phải chấp thuận. Trong bài số 20 - Bẩm Phúc Đại nhân (Giãi bày về việc

nộp thay người vàng. Tông thuộc trong nước bẩm) có đoạn:

“Ôi! Đời xưa ấy các nước chư hầu vào chầu thiên tử, hoặc chầu ở phương

nhạc, hoặc chầu ở kinh sư, ai đến được thì đến, còn ai không đến được thì sai con em

vào chầu, quý hồ bưng ngọc tốt cầm vật tin, sao cho người trên kẻ dưới hiểu nhau.

Còn như đúc người vàng thay mình vào chầu thì từ Đường, Ngu, Tam Đại cho tới

Hán, Đường, Tống chưa từng có thế bao giờ.

Lớn lao thay Đại Hoàng đế! Đạo cao đức trọng, sáng khắp bốn phương, vỗ

về kẻ xa, coi muôn nước cung thuận là chính. Đại nhân rộng tuyên thanh giáo, cũng

nên lấy ý hay phép tốt của đời cổ mà sửa trị triều đình, mà thi hành đến các nước

nhỏ.” [11, 487].

Rõ ràng Ngô Thì Nhậm phải có một tầm nhìn và sự am hiểu lịch sử Trung

Hoa nhất định mới thấy được lệ vào chầu của họ, lấy đó làm căn cứ để xin bỏ lệ nộp

thay người vàng, tránh cho ta được những hao tổn về của cải, công sức không đáng

có. Tuy nhiên để thay đổi một thông lệ đã duy trì lâu dài trong quan hệ ngoại giao

giữa nước ta với Trung Hoa, được thực hiện qua nhiều triều đại trước đó mà tránh

được sự nghi ngờ, nổi giận hay những hiểu lầm không đáng có, ảnh hưởng đến quan

hệ hòa hiếu giữa hai nước quả thực là một việc làm không hề dễ dàng, cần có một

khả năng thuyết phục rất lớn. Ngô Thì Nhậm đã thể hiện rõ tài năng bang giao của

mình khi khơi lại cội nguồn của tục cống người vàng, đồng thời nhắc lại niềm tự

hào của người Trung Hoa về các vị vua anh minh trong lịch sử như vua Nghiêu, vua

31

Thuấn… để cho Thiên triều Trung Hoa thấy chúng ta đề nghị việc xin bỏ lệ nộp

thay người vàng không phải vì chúng ta muốn phá lệ, mà bởi chúng ta muốn học

theo những gương sáng trong lịch sử Trung Hoa mà thôi. Lời lẽ như vậy, thịnh tình

đó phía Trung Quốc muốn hiểu sai mà phá vỡ quan hệ hòa hiếu và không đồng ý

với lời đề nghị của ta e rằng là điều khó khăn hơn!

Trong Bang giao hảo thoại nội dung muốn giữ hòa hiếu với nhà Thanh

không chỉ thể hiện trong những công việc liên quan đến hành chính, phong - cầu mà

ngay trong những tình hình liên quan đến quân sự khi quân đội Trung Quốc gây hấn

ngoài biên ải hay vùng biển nước ta, một mặt ta vẫn bày tỏ sự kiên quyết trong việc

giữ vững nền độc lập chủ quyền, một mặt vẫn thể hiện sự khát khao của dân tộc

muốn hướng tới là hòa bình, là hữu nghị, là sự chung sống hòa hiếu. Trong bài số

22 - Hựu nhất đạo (Báo tin có thuyền đậu ở biển, Quốc Vương bẩm) có đoạn:

“Trộm xét nước tôi từ khi thành thực nộp khoản tới nay, kính được Đại

Hoàng đế tỏ lòng thành kính mến thương, và nhờ Liệt hiến Tôn Đại nhân sẵn lòng

che chở nên mới có sự gặp gỡ ngày nay. Nước tôi nay đã được nội thuộc, tức là đã

trở thành phên giậu của Thiên triều. Bọn quân ở biển kia là bọn quân nào? Há dám

im lặng sao được? Nếu sai gia tướng ra biển đánh lại, vạn nhất gặp quan quân tuần

biển qua đây, trong lúc giao phong với nhau, nhỡ can vào hiệu lệnh Thiên triều thì

thật là sợ hãi.” [11, 497].

Ngô Thì Nhậm đã nói hộ suy nghĩ của bao người dân Đại Việt về mong mốn

được chung sống hòa bình, được Thiên triều Trung Hoa chở che, được giữ mối hòa

hiếu của hai quốc gia láng giềng, đồng thời cho thấy rõ thái độ tôn trọng của nước ta

với họ, tự coi mình là “phên giậu” của Trung Hoa để từ đó đưa ra mong muốn được

nhận sự che chở từ Thiên triều với nước nhỏ như chúng ta. Há chẳng phải chúng ta

một lòng tôn kính đó sao?

Sau mỗi lần phong tước, ban hầu triều đình ta đều có thư gửi lời cảm ơn thể

hiện thái độ tôn trọng, cảm tạ, sự trân trọng mối giao hảo mà Thiên triều Trung

Quốc và triều đình ta đã thiết lập được. Trong đó những lời hay, ý đẹp ca tụng sự

rộng lượng, mối quan hệ tốt giữa ta và Trung Quốc, đều mang lại hiệu quả cao trong

32

việc thể hiện khát khao hòa bình và giữ sự hòa hiếu.

Trong bài số 26 - Trình Thang Đại nhân (Lễ phong đã xong, đệ thư xin tạ,

Quốc Vương thư trình) có đoạn:

“Tấm lòng của Đại nhân tựa như nước mùa thu trùm lên núi xuân. Xét đến

tấm lòng sợ trời thờ nước lớn của tôi, thực không phải là tấm lòng ở ngoài…Nay

thấy gia thần tôi kính lĩnh ấn vàng, cáo sắc vua ban và đem về các đồ vật vua ban

thưởng, rất là ưu ái, càng ngước thấy tấm lòng của Đại hoàng đến như trời che đất

chở, như hoa mai chớm nở có gió đông thổi vào, bèo xanh trôi có bóng nước soi tới.

Nếu hòa tiếng lớn ở núi Thái nhất, ứng với tiếng kêu của con hạc thiêng, để che chở

mở mang, không phải là tiếng nói tốt của người quân tử ở trong nhà, thì sao có thể

được như thế?” [11, 518-519].

Ngô Thì Nhậm ca tụng sự ưu ái, ban thưởng của “Đại hoàng đế” Trung Hoa

như “trời che đất chở, hoa mai chớm nở có gió đông thổi vào” há chẳng phải mục đích

cuối cùng là muốn làm đẹp lòng nước láng giềng để giữ quan hệ tốt, hòa hiếu là gì?

Trong ngoại giao với Trung Hoa, Đại Việt không chỉ muốn giữ quan hệ hòa

hiếu để chiến tranh hay xung đột không xảy ra, mà còn muốn tiến xa hơn nữa là

thực sự muốn xây dựng tình hữu nghị để hai nước giao lưu, thông thương hàng hóa,

làm ăn. Điều này thực sự cho thấy tầm nhìn của triều đình ta trong quan hệ ngoại

giao, thiện chí thực sự của ta muốn hòa bình lâu dài với Trung Hoa.

Trong bài số 34 - Trình Phúc Đại nhân (Vâng ban sách thời hiến và chuẩn bị

cho mở cửa ải thông thương, xin dâng biểu tạ ơn và sai con vào chầu, cho viên mục

đi theo được phép đề bạt, thư trình của Quốc Vương) có viết:

“Ngước nhờ thánh đức như trời, hết lòng thương xót, ban tháng trao mùa,

khiến cho thứ tự bốn màu không sai, để thành công trong một năm. Mở của ải,

thông ngõ chợ, khiến cho trăm thứ hàng hóa không bị ứ đọng. Cho lợi dân sinh, để

cho kẻ bôn ba ấy hết mầm gây biến. Cho tan mối lo về sau, trên cầu lấy phúc thái

bình, phong trân mãi mãi bình yên, nước tôi ngày được yên ổn, là nhờ công vun đắp

rộng lớn không thể hình dung được. Vâng có bài biểu kính tạ, gửi tới Đại nhân soi

xét, xin mong thu biểu, chuyển đạt lên, may thỏa được tấm lòng chân thật quý hoắc

33

của tôi.” [11, 558].

Rõ ràng Ngô Thì Nhậm và triều đình ta đã nhận thấy được việc cần thiết của

mối quan hệ hòa hiếu giữa ta và Trung Quốc nếu muốn giữ vững nền hòa bình,

muốn dân được yên ổn sản xuất, giao thương thuận lợi. Chính sách ngoại giao như

vậy thực có chiều sâu, có tầm nhìn chiến lược, bởi một lẽ khi có sự ràng buộc về

mặt kinh tế, làm “bạn hàng” của nhau, giữa hai nước có điểm chung về quyền lợi

kinh tế với nhau thì quan hệ ngày càng được gắn bó, xung đột từ đó cũng hạn chế

được đôi phần xảy ra hơn.

Không chỉ dưới triều Tây Sơn mà dưới nhiều triều đại trước đó và cả sau này

nữa, Trung Hoa luôn ôm tham vọng muốn thôn tính nước ta, chính vì vậy mọi hành

động của chúng đều được triều đình ta suy xét và tìm giải pháp đối phó phù hợp.

Vẫn duy trì chính sách ngoại giao kiên quyết nhưng mềm mỏng, khéo léo chúng ta

đưa ra đề nghị đòi lại chủ quyền cùng đất phía Nam. Điều này được thể hiện trong

bài số 70 - Thỉnh hoàn Hưng Hóa thất châu chi địa biểu (Bài biểu xin trả lại bảy

châu thuộc trấn Hưng Hóa) có đoạn:

“Thần từ khi vâng lệnh mở nước, phải cưu tập liên miên, việc trong nước rất

bận rộn, tình hình đầu cuối nơi biên giới chưa lịp xét đến. Nhưng nay căn cứ vào lời

bẩm báo của Trấn mục Hưng Hóa nói, thổ dân ở 7 châu phỉ nộp thuế về Thượng quốc

đã lâu, bản quốc tự sức thu nộp, nhất thiết trái lệnh chống lại. Nguyên ủy ấy bởi nhà

Tiền Lê không giữ được phong cương nên dần dà đến như thế…Vậy dám mạo muội

làm tờ biểu, nhờ tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An chuyển tấu cho. Thần xin ở

đầu địa giới Nam Quan, sai chuyên viên ứng trực, và sai viên mục văn vũ và đến cả

địa đầu trấn Hưng Hóa, lần lượt thanh tra, hỏi cho đích xác địa giới 7 châu, đưa vào

sổ sách nước thần, thần trông cậy vào sự sủng ái, kính vâng bảo vệ giữ gìn. Xa trông

cung khuyết, đợi lời dạy bảo, rất mực ngóng trông, khôn xiết sợ hãi.” [11, 712].

Chúng ta muốn lấy lại vùng đất của ta mà trước giờ Trung Hoa cai quản, thu

thuế thực đã phạm đến lợi lộc mà trước giờ chúng sử dụng. Chính vì vậy ngoài việc

thể hiện rõ thái độ kiên quyết muốn lấy lại vùng đất đó của ta, Ngô Thì Nhậm đã

khéo léo cho phía Trung Hoa thấy được mong mỏi của chúng ta muốn đưa vùng đất

34

đó hợp nhất lại trên “sổ sách” nước Đại Việt với thái độ thỉnh cầu, nhũn nhặn và hòa

bình. Ngô Thì Nhậm tôn kính xem việc triều đình Trung Hoa chấp thuận việc này là

một sự sủng ái và hết sức biết ơn, cảm tạ. Đề cập đến một việc hệ trọng, liên quan

đến lợi ích và danh dự của một nước luôn thường trực mưu đồ thôn tính nước ta, để

vừa đòi lại quyền lợi, chủ quyền của thứ vốn thuộc về ta bị chúng chiếm hữu đã lâu,

vừa không làm tổn hại danh dự của chúng khi trao trả vốn là một điều chẳng hề dễ

dàng. Chính vì vậy, cái tài của Ngô Thì Nhậm được bộc lộ rõ ở điểm đó, vừa đạt

được mục đích “đòi đất”, vừa không làm tổn hại đến quan hệ hòa hiếu giữa hai nước.

Một chính sách ngại giao được coi là “truyền thống” của nước ta đã có từ các

đời trước vẫn được sử dụng và phát huy lợi ích dưới triều Tây Sơn là chính sách

“cầu thân”. Bang giao hảo thoại cũng đề cập đến chính sách này với vai trò nhằm

phát triển hơn nữa mối quan hệ hòa hiếu giữa Đại Việt và Trung Hoa. Trong bài số

72 - Thỉnh hôn biểu (Biểu cầu hôn) có viết:

“Thần vốn là một kẻ áo vải, đội ơn Thánh hoàng cho coi giữ cõi nam, đã tự

vào triều cận sân vua. Đặc biệt lệnh cho vào trực tiếp thỉnh an, ban thưởng cho tiện

phiên rất nhiều ân sủng, đều là những việc từ xưa cõi Giao Nam chưa từng nhận

được, nhất nhất đều ban cho chư thần.

… Thần mới đây, gặp vận không may, trong nhà thiếu người đơm cúng, con

thuyền ít người hỗ trợ, nghĩ rằng phải nương nhờ bóng cây ngọc, giữ vững giậu

phên. Ngửa thấy Thánh triều, mở nền ở núi Trường Bạch, dựng nên nghiệp vua, con

cháu ức vạn, đời đời phồn thịnh. Từ trước tới nay chế độ Hoàng gia, công chúa gả

chồng, tất phải người chân quý mới chọn đẹp duyên, không có lệ rộng ra đến bề tôi

ở ngoài, trong ngoài phân chia, rạch ròi nghiêm túc. Vẫn biết là mình không có

phận, nhưng vẫn một lòng trông đợi, nghiêng mình nghển trông, trằn trọc không thể

tự mình kiềm chế.” [11, 719-710].

Chính sách cầu hôn công chúa Thanh của triều đại Tây Sơn nhằm thực hiện

những mục đích chính trị nhất định. Nó làm gắn kết hơn nữa mối quan hệ hòa hiếu

giữa hai nước, xoa dịu những rạn nứt do tranh chấp, xung đột giữa hai nước trong

thời điểm đó. Phải là người có cái nhìn chiến lược cùng tài bang giao lỗi lạc mới đề

35

xuất và thực hiện nó mang lại hiệu quả cao được. Ngô Thì Nhậm đã làm tròn vai trò

của một vị quân sư, một công thần đắc lực của triều Tây Sơn. Tuy nhiên, như một

sự không may của lịch sử, vua Quang Trung qua đời vào ngày 16 tháng 9 năm 1972

khi những dự định của ông chưa hoàn thành, những bậc công thần như Ngô Thì

Nhậm cũng không có cách gì để thực hiện tiếp những dự định đó với vị vua mới -

vua Quang Toản trong một tình thế chính trị hoàn toàn khác.

Sau khi vua Quang Trung qua đời, uy tín của triều đại Tây Sơn bị giảm đi đôi

phần, Quang Toản lên ngôi nắm giữ, điều hành triều chính. Ngô Thị Nhậm viết một

loạt các bài biểu xin triều đình nhà Thanh công nhận, phong ban tước vị cho vua

Quang Toản để việc ngoại giao, chính trị được “danh chính ngôn thuận”. Trong bài

số 83 - Thỉnh phong biểu (Biểu xin phong) có viết:

“Kính nghĩ Đại Hoàng đế bệ hạ: Thay trời hành đạo, yêu mến hạ bang, xét lòng

thanh quy hướng của cha thần, cho dự vào hàng phiên phong, dầy ban ân huệ. Thần

tuổi còn trẻ, ân phong ban xuống, gia thế đều vẻ vang. Nay thần gặp vận đen, đau đớn

trong khi cư tang, nhờ có nhân viên trong nước đồng lòng phò tá, được quyền trông coi

việc nước, đội uy đức Hoàng đế đến cả nơi xa.

Hiện lòng người trong nước quy phụ, bốn cõi được bình yên, kính sai bồi thần

Ngô Thì mỗ đến cửa cung đợi mệnh. Cúi mong Thánh từ rủ lòng thể tuất, thương cha

thần đến cả đời thần, lại cho được nhận tước phong, đời đời làm phên giậu nước

Nam, để được nương tựa vào lòng yêu mến, giữ yên bờ cõi. May nối nghiệp đời

trước, giữ trọn chức phận đối với Thánh triều, thần vô cùng sợ sệt.” [11, 781].

Có thể nói, khi vua Quang Trung qua đời, triều chính, ngoại giao nước nhà

có phần chưa ổn định; Ngô Thì Nhậm đã trở thành cầu nối quan trọng để những

thành tựu ngoại giao với nhà Thanh đã thiết lập được từ đời vua Quang Trung tiếp

tục được phát huy, đồng thời Quang Toản thế chỗ vào vị trí trị vì đất nước, “ngôn

luận triều chính” với nhà Thanh.

Chỉ tiếc rằng, sau khi vua Quang Trung qua đời, một thời gian sau đó vua

Quang Toản chưa nhìn nhận đúng và sử dụng được tài năng của Ngô Thì Nhậm dẫn

đến việc trí sĩ Ngô Thì bị rơi vào những oan khuất không đáng có. Sự thiếu vắng

36

một công thần tài năng am tường việc nội quốc, ngoại bang không hẳn làm suy

vong một triều đại, nhưng quả thực những tổn thất về mặt chính trị, ngoại giao sau

đó đã phần nào nói lên tất cả. Triều Tây Sơn dưới triều vua Quang Toản thiếu vắng

những quân sư lỗi lạc như Ngô Thì Nhậm đã dần bộc lộ những hạn chế, đi vào bế

tắc. Nghĩ tiếc thương cho một tài năng, một tấm lòng ái quốc, nhưng đâu cũng là số

mệnh của lịch sử mà chúng ta thời hậu bối chỉ có thể chấp nhận.

2.3. Hình ảnh vua Quang Trung

Triều đại Tây Sơn dưới thời vua Quang Trung không chỉ phát triển vượt bậc

về mặt kinh tế, văn hóa đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no, mà còn đạt được

những thành tựu về chính trị, ngoại giao đáng tự hào làm đất nước thái bình thịnh

trị. Không chỉ với tài cầm quân xuất chúng đại phá 29 vạn quân Thanh, vua Quang

Trung còn hiện lên là một vị vua anh minh, sáng suốt có tài thao lược, nhiếp chính

và đặc biệt là một nhãn quan chính trị, ngoại giao sắc bén mà các triều đại sau này

và cả hiện nay đều đáng học hỏi.

Nhìn thấy tài năng của Ngô Thì Nhậm cũng là vua Quang Trung, tạo điều

kiện tốt để tài năng ấy được phát huy cũng là vua Quang Trung, sử dụng tài năng ấy

hiệu quả nhất cũng là vua Quang Trung, quyết định những chính sách bang giao

quan trọng với nhà Thanh cũng là vua Quang Trung… Tất cả đều làm nổi bật bức

chân dung sáng chói về một vị vua tài năng, đức độ.

Trong những trận giao tranh giữa Đại Việt và nhà Thanh, vua Quang Trung

luôn kiên quyết giữ vững từng tấc đất thiêng liêng. Và với tài cầm quân kì tài, vua

Quang Trung đã làm nên trận Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử. Trước thất bại đó, vua

Càn Long nhà Thanh đưa ra lệnh động binh chín tỉnh, trù tính xâm lược báo thù,

nhưng không thể không e ngại sức mạnh của nhà Tây Sơn. Vua Quang Trung lúc này

đã đề ra đường lối ngoại giao đúng đắn, không ngừng nêu cao sức mạnh chính nghĩa,

khẳng định việc mình đại phá quân Thanh là không có gì đắc tội với “Thiên triều”.

Bởi Tây Sơn không hề lấn sang biên giới để phải tội với “Thượng quốc”, cho nên nếu

nhà Thanh động binh xâm lược lần nữa thì quân dân ta kiên quyết chống lại: “Nếu

như sự tình trước đây chưa được giãi tỏ mà thiên triều không chút khoan dung cố gây

việc chiến tranh, thì đó là làm nước nhỏ này không được hết lòng cung kính thờ nước

37

lớn, tôi cũng đành phải nghe theo mệnh trời mà thôi.” [30, 349]. Quyết sách ngoại

giao vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo như vậy đã khiến cho nhà Thanh khó lòng mà làm

khác được ngoài việc chấp thuận giảng hòa với Đại Việt.

Cái tài của vua Quang Trung còn được thể hiện ở chỗ ngài luôn chủ động

trong mọi công tác ngoại giao, vừa để tránh đến mức tối đa những xung đột không

đáng có, vừa lấy được quyền lợi nhiều nhất cho dân tộc ta. Sau trận đại bại của Tôn

Sỹ Nghị, phía nhà Thanh - người đứng đầu quyền binh Quảng Tây lúc này là Thang

Hùng Nghiệp nhiều lần bắn tin cho nhà Tây Sơn ý định muốn giảng hòa. Chớp

được cơ hội đó, cộng với mong muốn hòa bình của nhân dân, vua Quang Trung đã

sai Ngô Thì Nhậm chủ động soạn thảo thư gửi nhà Thanh yêu cầu giảng hòa để

chúng tránh được sự mất mặt. Ta yêu cầu giảng hòa trong tư thế của người chiến

thắng, vừa có thế mạnh, vừa có lực mạnh lại giữ được thể diện cho đối phương, há

chẳng phải một mũi tên trúng nhiều đích là gì? Phải là một người có cái nhìn nhạy

bén, sâu sắc mới có những quyết sách hay đến vậy.

Vua Quang Trung vừa mang tài năng thao lược của mình, vừa vận dụng

được những thành tựu ngoại giao đã có trong lịch sử cùng một tấm lòng thương dân,

luôn nghĩ cho vận mệnh đất nước, lợi ích và ước mơ của nhân dân muốn sống trong

hòa bình để tiến hành các chính sách bang giao. Trong quan hệ Đại Việt - Mãn

Thanh, Quang Trung tích cực gia tăng sự hòa hảo, gắn kết mối quan hệ láng giềng

vừa để thực hiện những mục đích chính trị (đòi đất, yên định biên cương…), vừa để

giải tỏa những nguy cơ xảy ra xung đột làm nhân dân phải sống trong binh đao loạn

lạc. Vua Quang Trung liên tục nhờ Ngô Thì Nhậm và các cận thần viết các bài biểu,

bẩm, trình để tạ ơn, chúc thọ vua nhà Thanh, xin cầu phong, cầu hôn công chúa nhà

Thanh… Chính nhờ những chính sách bang giao đó mà nước ta dưới triều Tây Sơn

khá yên bình, nhân dân được hưởng ấm no.

Có thể nói tài năng, thành tựu ngoại giao của vua Quang Trung là niềm tự

hào của lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ta thấy ở đó sự kết hợp hài hòa

giữa trí tuệ của một thiên tài quân sự, một kho tàng những thành tựu ngoại giao đã

có từ các đời trước, đồng thời mang dấu ấn riêng có được vận dụng sáng tạo vào

38

triều đại mình. Và trong Bang giao hảo thoại nó được hòa nhập cùng những bài viết

không thể hoàn hảo hơn của vị quân sư Ngô Thì Nhậm. Phải chăng chính những

viên ngọc quý báu đó đã tỏa ánh sáng đến mãi đời sau để làm nên những Điện Biên

Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” với tên tuổi của một trong 10 vị tướng

tài của thế giới, niềm tự hào của Việt Nam - Võ Nguyên Giáp. Hay đi vào những

kinh nghiệm ngoại giao quý báu dưới thời đại Hồ Chí Minh với sách lược “Dĩ bất

biến, ứng vạn biến” đầy linh hoạt, mềm dẻo khi phải đối mặt với những tên trùm đế

quốc như Pháp, như Mỹ. Những bài học đó thực sự rất cần được phát huy vì nó có

tính ứng dụng cao trong thời đại hiện nay, bởi nước ta đang trên đà hội nhập kinh tế,

quốc tế của xu hướng toàn cầu hóa; tuy nhiên vấn đề chủ quyền, quyền lợi lãnh thổ

quốc gia lúc nào cũng cần được quan tâm. Chính những động thái tiêu cực của

Trung Quốc thời gian gần đây trên địa phận lãnh hải Việt Nam, càng cho thấy sự

cấp thiết hơn bao giờ hết cần phát huy tinh thần và thành tựu ngoại giao của cha ông

trong lịch sử nói chung, hay dưới triều đại Tây Sơn cấp bách hơn bao giờ hết.

Tiểu kết chương 2

Mục đích cao nhất trong công cuộc ngoại giao với triều đình Mãn Thanh của

nhà Tây Sơn chính là giảm thiểu tối đa nguy cơ chiến tranh, nâng cao quan hệ hòa

hiếu với Trung Hoa để tránh khỏi tình trạng chiến tranh, chết chóc cho người dân

được sống trong hòa bình, yên ấm. Ngô Thì Nhậm đã giúp nhà Tây Sơn đạt được

mục đích đó một xuất sắc. Nội dung trong Bang giao hảo thoại đã truyền tải hết

những tư tưởng chỉ đạo ngoại giao của vua Quang Trung, đồng thời cho thấy tài

năng dùng người, biệt đãi nhân tài của vị vua này. Bên cạnh đó, qua nội dung của

Bang giao hảo thoại, ta cũng có cái nhìn toàn diện công cuộc ngoại giao đầy phức

tạp giữa Đại Việt với Trung Quốc - đất nước chưa bao giờ ngừng ôm tham vọng đô

39

hộ nước ta.

Chương 3: BANG GIAO HẢO THOẠI

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

3.1. Thể loại, hệ thống văn thể

Như đã trình bày ở chương 1, Bang giao hảo thoại là một tập hợp các bài

bẩm, trình, biểu được Ngô Thì Nhậm thay mặt vua Quang Trung viết nhằm thực

hiện mục đích duy trì công việc bang giao với nhà Thanh. Đây đều là các thể loại

của văn chính luận, vì vậy nó mang đầy đủ những đặc điểm của văn chính luận.

Đồng thời nó được viết trong bối cảnh lịch sử thời trung đại nên nó cũng mang tất

cả những đặc trưng thời đại trong đó. Chúng tôi đã khảo sát và tìm ra được những

đặc trưng cơ bản về thể loại, hệ thống văn thể của các bài viết trong Bang giao hảo

thoại như sau:

Bang giao hảo thoại bao gồm 92 bài viết, được soạn giả tùng thư Ngô gia

văn phái tập hợp, biên soạn, sắp xếp theo thể loại vào 2 quyển 48 và 49. Trong đó

có 19 bài bẩm và 45 trình và 28 bài biểu. Qua nghiên cứu, tìm hiểu chúng tôi đã

thiết lập được bảng biểu về hệ thống thể loại trong Bang giao hảo thoại:

Bảng thống kê tác phẩm theo thể loại trong Bang giao hảo thoại

Thể loại Tên bài viết

Bẩm Bài số 1: Bẩm Thiên triều Lưỡng Quảng Tổng đốc Tôn đại nhân (Bẩm

Tôn đại nhân Tổng đốc Lưỡng Quảng Thiên triều)

Bài số 2: Bẩm Thiên triều Quảng Tây Phân tuần Tả giang binh bị đạo

Tổng lý biên vụ Thang đại nhân (Bẩm Thang đại nhân, Tổng lý biên

vụ Tả giang binh bị đạo Phân tuần Quảng Tây Thiên Triều)

Bài số 3: Bẩm Thiên triều Lưỡng Quảng Tổng đốc Gia Dũng công

Phúc đại nhân (Bẩm Gia Dũng công Phúc đại nhân, Tổng đốc Lưỡng

Quảng Thiên triều)

Bài số 4: Bẩm Thang đại nhân (Bẩm Phúc đại nhân)

Bài số 5: Hựu nhất đạo - Tạ thượng thổ ngân, Quốc Vương bẩm (Lại

40

một đạo - Tạ và đưa biếu thứ bạc thổ sản, Quốc Vương bẩm)

Bài số 6: Hựu nhất đạo - Cầu phong điển, Quốc Vương bẩm (Lại một

đạo - Cầu phong điển, Quốc Vương bẩm)

Bài số 7: Bẩm Phúc đại nhân (Bẩm Phúc đại nhân)

Bài số 8: Hựu nhất đạo - Khẩn thỉnh tảo phong tịnh tạ sá hoàn thủ hạ

nhân đẳng, Quốc Vương bẩm (Lại một đạo - Xin sớm được phong và

tạ ơn và tha cho bọn thủ hạ về, Quốc Vương bẩm)

Bài số 9: Bẩm Thiên triều Tả giang đạo Lâm đại nhân (Bẩm Lâm đại

nhân đạo Tả giang Thiên triều)

Bài số 10: Hựu nhất đạo - Phúc kê điển lễ, Lưu thủ quan bẩm (Lại một

đạo - Kê cứu lại điển lễ sách phong, quan Lưu thủ bẩm)

Bài số 11: Lại một đạo - Phúc trình diên đồ tình trạng tịnh thỉnh báo

thị tạ ân sứ thần hành chỉ, Lưu thủ quan bẩm (Lại một đạo - Phúc

trình về tình trạng dọc đường đi và xin báo cho biết việc sứ thần sai đi

tạ ân, đã cho đi hay còn ở lại Lạng Sơn, thế nào, quan Lưu thủ bẩm)

Bài số 12: Hựu nhất đạo - Phúc trình lý số quan xá các tập, Thăng

Long Lưu thủ quan bẩm (Lại một đạo - Phúc trình các tập nói về số

dặm đường và quán xá, quan Lưu thủ Thăng Long bẩm)

Bài số 13: Hựu nhất đạo - án định khải quan nhật kỳ, Quốc Vương

bẩm (Lại một đạo - ấn định ngày mở cửa quan, Quốc Vương bẩm)

Bài số 14: Hựu nhất đạo - Trình bản Quốc Vương đáo thành nhật kỳ

tịnh hồng thuận các tập, Lưu thủ quan bẩm (Lại một đạo- Trình về kỳ

hạn Quốc trưởng đến thành Thăng Long và những tập nói về các việc

cung đốn, quan Lưu thủ bẩm)

Bài số 20: Bẩm Phúc đại nhân (Bẩm Phúc đại nhân)

Bài số 21: Hựu nhất đạo - Phụng sứ lai phong đệ thư trình tạ, Quốc

Vương bẩm (Lại một đạo - Vâng theo sứ đến phong, đệ thư trình tạ,

Quốc Vương bẩm trình)

Bài số 22: Hựu nhất đạo - Thanh bảo dương thuyền, Quốc Vương bẩm

41

(Lại một đạo - Báo tin có thuyền của Tây Dương đậu ở ngoài biển, thư

của Quốc Vương)

Bài số 23: Hựu nhất đạo - Thỉnh hứa sắc sứ tựu Phú Xuân thành tuyên

phong, Quốc Vương bẩm (Lại một đạo - Xin cho sắc sứ đến thành Phú

Xuân tuyên phong, Quốc Vương bẩm)

Bài số 29: Hựu nhất đạo - Mông tặng ngọc Như ý cung thượng thọ từ

tạ bẩm. Quốc Vương thư (Lại một đạo - Được tặng ngọc Như ý, dâng

lời chúc thọ để tạ bẩm, thư của Quốc Vương)

Trình Bài số 15: Trình Thiên triều sắc sứ nhị vị Đại nhân (Trình hai vị Đại

nhân là sắc sứ của Thiên triều)

Bài số 16: Hựu nhất đạo - Thỉnh cải tuyên phong nhật kỳ, Quốc Vương

thư trình (Lại một đạo - Xin đổi nhật kỳ tuyên phong, Quốc Vương

thư trình)

Bài số 17: Hựu nhất đạo - Thỉnh định tuyên phong nhật kỳ tịnh đệ kiền

tạ Trung Đường công thọ từ hậu chính, Quốc Vương thư trình (Lại

một đạo - Xét định nhật kỳ tuyên phong và đệ bài chúc thọ kính tạ

Trung Đường công đích chính)

Bài số 18: Hựu nhất đạo - Trình thỉnh sắc sứ tựu Phú Xuân thành

tuyên phong, Quốc Vương thư trình (Lại một đạo - trình xin sứ thần

phụng sắc đến thành Phú Xuân tuyên phong, Quốc Vương thư trình)

Bài số 19: Trình Thiên triều Tổng quản đại lão da (Trình cụ lớn Tổng

quản của Thiên triều)

Bài số 24: Trình Thiên triều Thái Bình phủ Chính đường Vương đại nhân

(Trình Vương đại nhân ở Chính đường phủ Thái Bình, Thiên triều)

Bài số 25: Trình Thiên triều Thái Bình phủ Chính đường Vương đại nhân

(Trình Vương đại nhân ở Chính đường phủ Thái Bình, Thiên triều)

Bài số 26: Trình Thanh đại nhân (Trình Thang đại nhân)

Bài số 27: Hựu nhất đạo - Trình cáo Quốc thư vị dụng kim ấn duyên

do tính vãng phục nhật hạn kỳ đại chuyển bẩm, Quốc Vương thư trình

(Lại một đạo - Trình báo duyên do Quốc thư chưa dùng ấn vàng và

42

hẹn ngày xin thay mặt chuyển bẩm, thư trình của Quốc Vương)

Bài số 28: Trình Phúc đại nhân (Trình Phúc đại nhân)

Bài số 30: Hựu nhất đạo - Trình tạ dụ thư tính kỳ đại dịch đệ tạ ân

biểu, Quốc Vương thư trình (Lại một đạo - Trình thư tạ dụ và xin thay

dịch trạm đệ biểu tạ ơn, Quốc Vương thư trình)

Bài số 31: Trình Thang đại nhân (Trình Thang đại nhân)

Bài số 32: Hựu nhất đạo - Kỳ truyền Quốc thư dữ bồi giới Nguyễn

Hoành Du, Quốc Vương thư trình (Lại một đạo - Gửi chuyển Quốc

thư cho cho bồi giới Nguyễn Hoành Du, Quốc Vương trình thư)

Bài số 33: Hựu nhất đạo - Trình đệ tạ ân biểu tính đáp tạ Công Trung

đường bẩm tái kỳ chuẩn định tùy cận viên số cập tạ đạt Quốc thư,

Quốc Vương thư trình (Lại một đạo - Dâng biểu tạ ơn và đáp tạ tờ bẩm

của Công Trung đường xin chuẩn định số nhân viên vào chầu và đưa

Quốc thư, Quốc Vương trình thư)

Bài số 34: Trình Phúc đại nhân (Trình Phúc đại nhân)

Bài số 35: Tạ tứ nhân sâm, Quốc Vương thư trình (Lại một đạo - Tạ

ơn ban cho nhân sâm, thư trình của Quốc Vương)

Bài số 36: Hựu nhất đạo - Trình tạ ân mệnh tịnh tư vấn tiến cận sự thể

cập cáo cải đô Nghệ An duyên cố, Quốc Vương thư trình (Lại một đạo

- Trình tạ ân mệnh và tư hỏi sự thể vào chầu, cùng với lý do thay đổi

kinh đô Nghệ An. Thư trình của Quốc Vương)

Bài số 37: Hựu nhất đạo - Trình tạ đại chế chúc hạnh nghi vật tính kỳ

vi chuyển tạ ân cập thỉnh hứa tiến cống đẳng tình (Lại một đạo - Tạ

việc chế thay nghi vật chúc thọ, xin làm biểu văn tạ ơn và xin vào tiến

cống. Quốc Vương trình thư)

Bài số 38: Hựu nhất đạo - Kỳ đạt tấu biểu hứa hoàn Hưng Hóa châu

chi địa, Quốc Vương thư trình (Lại một đạo - Tâu về việc dâng biểu

xin trả lại đất Hưng Hóa, Quốc Vương trình thư)

Bài số 39: Trình Thiên triều Lễ Bộ Thượng thư Trần đại nhân (Trình

Trần đại nhân Lễ Bộ Thượng thư Thiên triều)

43

Bài số 40: Trình Thiên triều Tuần phủ đại nhân (Trình tuần phủ đại

nhân Thiên triều)

Bài số 41: Trình Thiên triều Ngư tiền đại nhân Nội các Đại học sĩ Hòa

đại nhân A đại nhân (Trình Hòa đại nhân, A đại nhân ngư tiền đại thần

Nội các Đại học sĩ của Thiên triều)

Bài số 42: Trình Thiên triều Thái Bình phủ Chính đường Vương đại

nhân (Trình Vương đại nhân Chính đường phủ Thái Bình, Thiên triều)

Bài số 43: Hựu nhất đạo - Thanh báo bổ tiễu Duy Kỳ sự thế, Kỳ đại đệ

trình Vân Quý Đốc hiến, Thăng Long thành lưu thủ quan thư trình

(Lại một đạo - Trình báo về việc tìm bắt Duy Chi, xin thay đệ trình

Đốc hiến Vân Quý, thư quan Lưu thủ thành Thăng Long)

Bài số 44: Hựu nhất đạo - Trình đại đề đạt khất hôn sự kiện, bản quốc

Thị thần (Lại một đạo - Trình thay đề đạt việc xin kết hôn, thư của Thị

thần bản quốc)

Bài số 45: Hựu nhất đạo - Trần biện hôn nghị, Thị thần thư trình (Lại

một đạo - Trình bày bàn về việc kết hôn, thư của Thị thần)

Bài số 46: Ký bồi giới Nguyễn Hoành Du đẳng hậu đề thư (Bức thư đề

sau gửi cho bọn Nguyễn Hoành Du)

Bài số 47: Thư trình Tứ Xuyên Tổng đốc Tất đại nhân giản (Trình

Tổng đốc Tứ Xuyên Tất đại nhân)

Bài số 48: Trình Thiên triều Nội các đại thần Vương công da giản

(Thư trình Nội các đại thần Thiên triều Vương công da)

Bài số 49: Trình Thiên triều Kinh diên đại thần Đổng đại nhân giản

(Thư trình Kinh diên đại thần Thiên triều Đổng đại nhân)

Bài số 50: Trình Lưỡng Quảng Tổng đốc Gia Dũng công Phúc đại nhân

giản (Thư trình Tổng đốc Lưỡng Quảng Gia Dũng công Phúc đại nhân)

Bài số 51: Trình Thiên triều Các lão Tham chính Anh Dũng công giản

(Thư trình Tham chính Nội các Thiên triều Anh Dũng công)

Bài số 52: Trình Thiên triều Hàn lâm học sỹ Kim đại nhân giản (Thư

trình Hàn lâm học sỹ Thiên triều Kim đại nhân)

44

Bài số 53: Trình Thiên triều Nội các Đại học sỹ Hòa đại nhân giản

(Thư trình Nội các Đại học sỹ Thiên triều Hòa đại nhân)

Bài số 54: Trình Phúc đại nhân (Trình Phúc đại nhân)

Bài số 55: Trình Thiên triều Quảng Đông Đề đốc Quách đại nhân,

Quảng Tây Đề đốc Trần đại nhân (Trình Đề đốc Quảng Đông Thiên

triều Quách đại nhân, Đề đốc Quảng Tây Thiên triều Trần đại nhân)

Bài số 56: Trình Thiên triều Thống đốc Giác La Cát đại nhân (Trình

Thống đốc Thiên triều Giác La Cát đại nhân)

Bài số 57: Trình Thiên triều Tổng lý biên vụ Vương đại nhân (Trình

Tổng lý biên vụ Thiên triều Vương đại nhân)

Bài số 58: Hựu nhất đạo (Lại một đạo)

Bài số 59: Trình Cát đại nhân - Tự vương thư trình (Trình Cát đại

nhân - Thư trình của Tự vương)

Bài số 60: Trình Thiên triều Tổng đốc Cát đại nhân, Đề đốc Thai đại

nhân (Trình Tổng đốc Thiên triều Cát đại nhân, Đề đốc Thiên triều

Thai đại nhân)

Bài số 61: Trình Thiên triều Quảng Tây Hộ lý Văn đại nhân (Trình Hộ

lý Quảng Tây Thiên triều Văn đại nhân)

Bài số 62: Trình Thiên triều Khâm sứ Cao Liêm đạo Đài Hùng đại

nhân giản (Thư trình Khâm sứ Cao Liêm đạo Thiên triều Đài Hùng

đại nhân)

Bài số 63: Trình Thiên triều Khâm sứ Liêm Châu phủ Chính đường

Trương đại nhân giản (Thư trình Chính đường Khâm sứ phủ Liêm

Châu Thiên triều Trương đại nhân)

Bài số 64: Trình Thiên triều Đại lão da - Sứ bộ bồi thần (Trình đại

nhân lão da Thiên triều - Bồi thần sứ bộ)

Biểu Bài số 65: Trần tình biểu (Biểu trần tình)

Bài số 66: Phụng ban cáo mệnh sắc ấn tạ biểu (Biểu tạ ơn được ban

cáo mệnh sắc ấn)

Bài số 67: Tân phong tạ biểu (Biểu tạ ơn mới được phong)

45

Bài số 68: Tạ tứ dụ chỉ tịnh ban thưởng các hạng cung khất tiết ân biểu

(Biểu tạ ơn ban chỉ dụ và thưởng các hạng cùng xin tỉnh giảm ân điển)

Bài số 69: Phụng tứ trân bảo dụ chỉ cập gia thưởng Trấn mục Lê Văn

Nhậm phẩm vật tạ biểu (Biểu tạ ơn ban lời dụ quý báu và khen thưởng

phẩm vật cho Trấn mục Lê Văn Nhậm)

Bài số 70: Thỉnh hoàn Hưng Hóa thất châu chi địa biểu (Biểu xin trả

lại bảy châu thuộc trấn Hưng Hóa)

Bài số 71: Khất mã biểu (Biểu xin ngựa)

Bài số 72: Thỉnh hôn biểu (Biểu cầu hôn)

Bài số 73: Trần biện Ngự phê đẳng ngữ biểu (Biểu trình bày về những

lời Ngự phê)

Bài sô 74: Phụng ban thời hiến thư tịnh chuẩn thông thương lập thị tạ

biểu (Biểu tạ ơn về việc phụng ban lịch thư và chuẩn cho thông thương

mở chợ)

Bài số 75: Tạ tứ sắc thư trân châu biểu (Biểu tạ ơn được ban sắc thư

và chuỗi ngọc trai)

Bài sô 76: Phụng thích cấm nhân Nguyễn Viễn Du đẳng bát danh hồi

quốc tạ biểu (Biểu tạ ơn về việc tha cho những người bị giam cầm là

bọn Nguyễn Viễn Du tám người được về nước)

Bài số 77: Tu cống biểu (Biểu sửa lễ cống)

Bài số 78: Phụng ban sắc thư Ngư thi tạ biểu (Biểu tạ ơn về việc được

ban sắc thư và thơ Ngự chế)

Bài số 79: Phụng Ngự tứ san hô Triều Châu hà bao tạ biểu (Biểu tạ ơn

về việc được Ngự ban san hô Triều Châu và hà bao)

Bài số 80: Tạ tứ nhân sâm tịnh thỉnh kỳ triển cận biểu (Biểu tạ ơn về

việc được ban nhân sâm và xin hẹn ngày vào hầu cận)

Bài số 81: Khánh thọ biểu (Biểu chúc thọ)

Bài số 82: Đại vạn thọ kim tiên (Dâng tờ kim tiên chúc mừng tiết Đại

vạn thọ)

46

Bài số 83: Thỉnh phong biểu (Biểu xin phong)

Bài số 84: Phụng thưởng Tiền Vương phẩm số tịnh chỉ dụ biện lý Tây

Tạng cơ lược tạ biểu (Biểu tạ ơn về số phẩm vật thưởng cho Tiền

Vương và chỉ dụ xử lý Tây Tạng)

Bài số 85: Khâm định lế cống lệ tạ biểu (Biểu tạ ơn về việc khâm định

lễ cống)

Bài số 86: Bồi thần phụng thượng biểu (Biểu của bồi thần kính dâng)

Bài số 87: Bồi thần hiến tụng (Bồi thần dâng bài tụng)

Bài số 88: Tu cống biểu (Biểu sửa lễ cống)

Bài số 89: Tiến cống biểu (Biểu dâng lễ cống)

Bài số 90: Tiến hương biểu (Biểu dâng hương)

Bài số 91: Tiến hương kim tiên (Tờ kim tiên dâng hương)

Bài số 92: Ban sắc dụ tạ biểu (Biểu tạ ơn về việc ban sắc dụ)

Từ bảng trên chúng ta thấy, số lượng bài viết thuộc các thể loại trong Bang

giao hảo thoại khác nhau, điều đó thể hiện mục đích ngoại giao, trao đổi công việc

của nhà Tây Sơn với nhà Thanh trong từng thời điểm không giống nhau. Ngô Thì

Nhậm đã khéo léo lựa chọn thể loại cho phù hợp với tính chất công việc một cách

hợp lý. Các bài viết theo thể trình trong tác phẩm này chiếm số lượng nhiều nhất

(45 bài) vì thể trình có ưu điểm vừa tỏ bày được công việc một cách tường tận, vừa

có thể đưa ra những mong muốn, đề xuất của người viết một cách cụ thể. Nói như

vậy không có nghĩa thể bẩm và thể biểu hạn chế trong việc bang giao, điều chúng

tôi muốn khẳng định ở đây là tác giả Ngô Thì Nhậm đã rất tài năng, am hiểu văn

chương, thể loại để lựa chọn phù hợp với mục đích ngoại giao. Hơn nữa, tuy Đại

Việt là một nước nhỏ, nhưng không phải là một nước yếu, điều này đã được chứng

minh thông qua những chiến thắng oai hùng của chúng ta trước các đạo quân xâm

lược của Trung Quốc bao triều đại. Vậy nên, việc viết trình để thông báo sự việc,

tình hình trong nước để bang giao xem ra phù hợp hơn, đồng thời cũng ngầm nói

lên vị thế của chúng ta với Trung Quốc. Việc dùng thể bẩm, biểu ngay từ tên gọi

của thể loại đã mang tính chất thứ bậc nhiều hơn, nên trong Bang giao hảo thoại số

47

lượng bài bẩm, biểu ít hơn (19 bài bẩm, 28 bài biểu) là điều dễ hiểu.

3.2. Lý lẽ, lập luận

Xét trên phương diện bản chất của văn chính luận, các bài viết trong Bang

giao hảo thoại chủ yếu dùng lý lẽ để trình bày, biện luận, thuyết phục một vấn đề.

Nó thuộc loại hình văn chương quan phương lúc bấy giờ, thường phục vụ cho mục

đích chính trị, nên ngôn từ được dùng rất chặt chẽ, chính xác, nội dung trình bày

logic và có sức thuyết phục cao với người đọc. Trong hầu hết các bài viết của tác

phẩm Bang giao hảo thoại, một điểm chung dễ nhận thấy đó là thể văn chính luận

được kế thừa từ truyền thống văn chính luận từ thời Lý, Trần, Lê phát huy được tinh

thần chính nghĩa và tinh thần nhân đạo của dân tộc ta trong lịch sử, tinh thần của

một dân tộc yêu chuộng hòa bình và hòa hiếu với các nước láng giềng.

Chúng ta có thể xét những ví dụ cụ thể như sau:

Ngay trong những bài bang giao mở đầu tác phẩm, ta đã thấy rõ tính chất

tranh biện, lập luận chặt chẽ thường xuất hiện trong văn chính luận. Sau khi Tôn Sỹ

Nghị xé thư của chúng ta, cố tình gây hấn để động binh mong xâm chiếm Đại Việt,

vua Quang Trung đã sai Ngô Thì Nhậm soạn một bài bẩm để gửi tới tổng đốc

Lưỡng Quảng Thang Hùng Nghiệp - người nắm giữ quyền binh lúc này để trình bày

rõ về việc binh đao, trong đó có đoạn:

“Tôi là kẻ áo vải ở đất Quảng Nam, sinh trưởng nơi xa vắng, kính mến thanh

giáo Trung Hoa, gặp buổi nhiễu nhương mới theo việc chinh phạt. Mùa hạ năm

Bính Ngọ (1786), có việc ở thành nhà Lê, rồi lại về Nam. Mùa xuân năm Mậu Thân

(1788), nhân trong nước không được yên, mới sửa sang binh giáp lại ra. Năm ấy đã

sai sứ giả đến cửa quan, đem tất cả tình hình trong nước tâu lên, cúi đợi mệnh lệnh

Đại Hoàng đế phân xử. Khốn nỗi Tổng đốc Sỹ Nghị ném thư đi, đuổi sứ không

nhận, ỉm việc ấy đi không tâu lên, vô cớ điều động đại binh, vô càn gây hấn nơi

biên cương. Việc này mồng 5 tháng Giêng năm nay, tôi đưa thư đi, mong được gặp

mặt Tôn Sỹ Nghị, hỏi cái cớ vì đâu mà dụng binh, có vâng mệnh Đại Hoàng đế sai

khiến không mà Tôn Sỹ Nghị tự kéo quân đến đón đánh, để đến nỗi quân sỹ của tôi

đánh cho phải thua, chết ngổn ngang không biết bao nhiêu mà kể, số hiện còn bị bắt

giữ, tới hơn nghìn người, nhưng vì tiếng nói không hiểu nhau, không biết ai là viên

48

biền, ai là binh lính, tôi đã cấp cho lương ăn, để ở yên một chỗ. Tôi vẫn không xâm

phạm đến bờ cõi để đắc tội với Thượng quốc, thế mà Sỹ Nghị đem tất cả tấm lòng

thực kính thuận của tôi vứt xuống đất hết cả, lại truyền thư đi khắp cõi, muốn cam

tâm phục thù với tôi mới được thỏa lòng, vì thế gây ra mối hiềm khích binh đao, để

cho sinh linh bị thương tổn. Tôi ở xa nơi bãi bể, động làm việc gì đều bị Sỹ Nghị

chèn ép, nay sự thể suy di, đã bị cái tiếng như con bọ ngựa dơ càng đá xe.” (Bài số

2 - Bẩm Thiên triều Quảng Tây phân tuần tả giang binh bị đạo tổng lý biên vụ

Thang Đại nhân (Biện về việc xảy ra binh đao quốc vương bẩm)) [11, 411].

Ngô Thì Nhậm đã rất khéo léo thay lời vua Quang Trung để bày tỏ lòng thành

kính với “Thượng quốc”, sau đó phê phán hành động dụng binh vô cớ của Tôn Sỹ

Nghị đang làm tổn hại đến mối giao hảo của hai nước. Đồng thời vờ đưa ra mối nghi

ngờ hành động đó của Sỹ Nghị là hành động “vô càn” không được sự đồng thuận, chỉ

đạo của Thiên triều mà do Sỹ Nghị tự mình làm. Lập luận như vậy làm phía Trung

Quốc bớt đi hổ thẹn vì đại quân của Sỹ Nghị thua to trong trận đó, để họ không mất

mặt, đồng thời cho thấy rõ thịnh tình một lòng hướng về Thượng quốc của chúng ta

và sự nhân ái, bao dung khi cấp lương ăn, chỗ ở cho tù binh bị bắt. Nhưng ẩn sau đó

là thái độ kiên quyết giữ vững nền độc lập chủ quyền dân tộc, và sẵn sàng chống trả

nếu Tôn Sỹ Nghị tiếp tục gây hấn. Cái lý, cái tình như vậy liệu phía Trung Quốc

không xem lại mình mà có những quyết sách cho phù hợp sao được?

Sau khi đánh tan 20 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi, để bảo vệ thành quả đã

đạt được, tránh lại xảy ra chiến tranh, vua Quang Trrung đã rất tin tưởng vào tài

năng của mưu sĩ, vị quân sư Ngô Thì Nhậm để giao cho công việc bang giao quan

trọng. Ngô Thì Nhậm đã vận dụng bài học lịch sử nước nhà, hòa hoãn với nhà

Thanh để chúng ta có thời gian phục binh, nhân dân được nghỉ nơi sau những ngày

khói lửa. Cụ thể, Ngô Thì Nhậm đã xin thần phục làm phiên bang, xin phong vương

cho Quang Trung. Để đạt được mục đích như vậy, Ngô Thì Nhậm đã khéo léo đổ

lỗi cho Tôn Sỹ Nghị tự ý gây hấn chuốc lấy thất bại nặng nề, điều đó nhằm giữ thể

diện cho Càn Long. Cụ thể trong bài số 65 - Trần tình biểu (Biểu trần tình) có viết:

“Trộm thấy, trong khi xảy ra đánh nhau, Thánh nhân cũng không được rõ.

49

Đại Hoàng đế ở chốn cửu trùng thâm nghiêm, việc ngoài biên cương, Tôn Sỹ Nghị

chưa từng kêu lên, che đậy tin tức, mới khiến cho sự thể đến mức ấy. Thần quả thực

không dám bọ ngựa đá xe, nhưng vì cửa vua xa vạn dặm, lại vì bề tôi ở thế ép buộc,

không thể nhẫn nại được, nên đã chống trả.

Trộm nghĩ bản quốc từ Đinh, Lê, Lý, Trần đến nay, các đời có sự thay đổi, không

phải chỉ có một họ nắm quyền Nam Giao. Tuy bọn Ô Mã Nhi, Hoàn Phúc không chiếm

được tiểu phiên, nhưng Thiên triều rộng lượng như biển xuân, bỏ qua những điều nhỏ

nhặt, đạo lớn hài hòa vun đắp cho, chỉ với tấm lòng chí công chí nhân mà thôi. Sỹ Nghị

không biết suy xét sự lý, gây mối binh đao, khiến cho sinh linh oán hờn, dối trên lừa dưới

đến mức ấy. Thần án binh ở Long Biên, nghển nhìn cửa Thiên tử, vâng có tờ biểu trần

tình tạ tội, nhờ Phân tuần Quảng Tây chuyển tâu lên.” [11, 681].

Ngô Thì Nhậm vừa tố cáo hành động của Tôn Sỹ Nghị, vừa nói lại những

gương thất bại của Ô Mã Nhi, Hoàn Phúc trong lịch sử trước đội quân Đại Việt

trước đó. Điều đó nhằm mục đích một mặt cho thấy thế và lực của ta, mặt khác lại

cho thấy tấm lòng tôn kính với Thượng quốc Trung Hoa. Càn Long chắc cũng thừa

biết ý đồ đó, tuy nhiên trước lời lẽ thuyết phục cộng với thế lực của Quang Trung

lúc bấy giờ, việc thừa nhận một triều đình mới ở An Nam là điều tất yếu. Tuy nhiên

trước khi tuyên phong, vua Kiền Long mời Quang Trung đích thân sang Yên Kinh

triều cận. Quang Trung đồng ý nhưng trước mắt xin cho con đi thay, trong bài số 31

- Trình Thang Đại nhân (Trình xin cho con vào chầu, Quốc Vương thư) có viết:

“Nghển đầu trông sân vua, ruổi lòng nơi nhà trạm, vừa mừng cảnh ngày xuân

tươi đẹp, nay đã tới ngày ra đi. Ôi! Việc chiêm bái của vua, thực lòng tôi rất mong

mỏi. Nhưng nay bỗng thấy việc chẳng như mong đợi, để một niềm cung kính, muốn

bày tỏ dưới ánh mặt trời dọi soi, không biết nói lại như thế nào đây?

Con tôi là Quang Thùy mới mười một tuổi, trước vâng đại lễ tuyên phong,

từng được ủy cho đi rước thay sắc thư, đã tham yết hai vị Đại nhân của Thành đạo,

Vương phủ, được ban thưởng quá mức. Nay tôi không thể vào chầu được, xin ủy

cho đi rước thay tôi làm lễ chiệm cận. Nhưng e tuổi còn non nớt phải lặn lội khó

nhọc, lễ độ chưa quen, nên cần phải có người dẫn dắt chỉ bảo. Bèn kén thân thần là

50

Ngô Văn Sở, và bọn văn võ quan biền, định đến tháng 4 đến cửa ải, đợi chỉ cho vào

chầu, ngõ hầu được bồi tòng gần lối vua đi, ngửa trông phúc lớn, coi như bản thân

tôi đang ở đó vậy. Đó là sợ uy trời thờ nước lớn bằng một tấm lòng trung thành

chân thực, mong Đại nhân soi xét, vì công việc mà dẫn dắt giúp đỡ, khiến cho trong

ngoài thông suốt, sau trước vẹn toàn, may được thấm nhuần ơn lớn, từ trước tới nay

chưa từng có, gặp gỡ tình cờ, cảm phục thực không bờ bến.” [11, 546].

Vừa mang đúng tính chất của một bài trình với việc giãi bày hết ngọn ngành

sự việc, vừa thể hiện tài năng lập luận, thuyết phục của Ngô Thì Nhậm làm phía

Trung Hoa khó lòng từ chối được đề nghị xin cho Quang Thùy cùng cận thần Ngô

Văn Sở vào chầu thay Quang Trung. Ngô Thì Nhậm đề cập đến việc Quang Thùy

đã từng được yết kiến các vị Đại nhân của Thiên triều, nhận ân ban vô cùng hậu

hĩnh, nên nay việc vào chầu thay cũng là việc chấp thuận được. Nhưng chỉ vì tuổi

còn nhỏ, e rằng việc đối nhân xử thế chưa được lễ độ nên cần có cận thần đi hầu

cận. Và Ngô Thì Nhậm cũng nói thêm, việc xin cho Quang Thùy đi chầu thay

Quang Trung không làm giảm đi sự tôn kính của Đại Việt với Thượng quốc Trung

Hoa, mà chỉ là do tình thế ngặt nghèo, vướng bận công việc nên không thể đi được

mà thôi. Lý lẽ, thịnh tình như vậy phía Trung Hoa không chấp thuận sao được?

Một ví dụ nữa mà chúng tôi thấy rất tâm đắc khi lấy làm dẫn chứng cho lập

luận sắc bén, lôgic và thuyết phục về đặc trưng thể loại văn chính luận trong Bang

giao hảo thoại đó là bài số 45 - Hựu nhất đạo (Trình bày bàn về việc kết hôn, thư

của thị thần) có viết:

“Tờ bẩm trước, xin theo dòng dõi vàng ngọc của Thiên hoàng, đó là do tôi

học kinh Xuân thu mà tìm ra nghĩa đó, chứ không phải là ý của Quốc Vương tôi

trao cho tôi. Trộm nghĩ, các vua thời Tam Đại toàn là hiền thánh ra đời, mà các

nước chư hầu thời Tam Đại, trí tuệ cũng không thiếu. Khanh tướng một thời, ở

nước ấy giúp vua ấy, khiến cho gần gũi với các cô gái đẹp giòng giõi họ vua, quả là

không hợp với đạo ư? Thế thì chương Đường lệ không nên chép ở Kinh thi nữa và

lễ đội mũ miện đến đón vợ, ông Khổng Tử không nên bảo cho vua nước Lỗ làm gì.

Việc này thực do bản ý của tôi, chưa từng nói cho Quốc Vương biết. Nếu quả đó là

ý của Quốc Vương, thì sự học nông cạn của tôi đủ thấy cũng có lý lẽ là đúng với

51

đạo lý, quyết không dám có điều gì trái khác vậy.” [11, 612].

Ngô Thì Nhậm đã dùng cách nói hết sức thuyết phục để nói đến một việc vừa

tế nhị, vừa hệ trọng - cầu hôn công chúa Thanh cho vua Quang Trung. Vị quân sư

này đã nhận đây là chủ kiến của mình, chứ không phải là ý kiến của vua Quang

Trung để khiến cho lời cầu thân được khách quan hơn. Đồng thời ông cũng cho thấy

sự am tường, trân trọng lịch sử Trung Hoa bằng việc nhắc đến Tam Đại (tức 3 triều

đại Hạ, Thương, Chu) và văn học Trung Hoa bằng việc nhắc đến một trong số

những tác phẩm kinh điển, niềm tự hào của đất nước này đó là tác phẩm Kinh Thi

với bài thơ Đường lệ. Ngô Thì Nhậm cũng cho rằng mình cũng chỉ là người học hỏi

cái hay, cái tốt của những bậc tiền nhân đã làm trong lịch sử Trung Hoa mà thôi, vì

xét một cách tổng thể cái tài, cái đức của Quang Trung hoàn toàn xứng đáng với

công chúa Thanh, tấm lòng tôn kính của Đại Việt với Thiên triều Trung Hoa hoàn

toàn phù hợp để giao hảo hai nước ngày một tốt đẹp, nên việc cầu hôn là việc nên

làm để thân càng thêm thân!

Quả vua Quang Trung đã “chọn mặt gửi vàng” để giao những công việc

trọng đại cho một người sâu sắc, nhạy bén, lại tinh tế như Ngô Thì Nhậm; mưu sĩ

này đã có những lập lập thuyết phục khiến phía Trung Quốc rất đáng phải suy nghĩ

và xét khả năng đồng ý với lời cầu thân của ta là cao. Chỉ tiếc rằng vua Quang

Trung qua đời khi đại cục còn dở dang, việc kết hôn với công chúa Thanh chưa

được thực hiện để mục đích lấy lại bảy châu thuộc trấn Hưng Hóa của chúng ta

cũng bị gián đoạn. Thiết nghĩ âu cũng là sự không may của lịch sử nước nhà.

Một loại thể không thể không nhắc đến của văn chính luận trung đại chính là

thể biểu. Trong Bang giao hảo thoại số lượng lượng bài biểu khá lớn, lên đến 28

bài, cụ thể: từ bài số 65 đến bài 85, là những bài biểu viết thời Quang Trung, như

biểu trần tình về việc lên ngôi lập nước, đánh Tôn Sỹ Nghị, việc định lễ cống, biểu

xin phong, biểu chúc thọ, biểu hẹn ngày vào chầu…Từ bài 86 đến bài 92, gồm

những bài biểu viết thời Quang Toản. Đó là những bài biểu viết gửi vua Kiền Long

nói về tình hình sau khi vua Quang Trung qua đời, biểu tu sửa lễ cống, biểu tiến

cống sản vật địa phương dâng lên Kiền Long, biểu tiến hương khi nghe tin Kiền

52

Long mất… Biểu nằm trong các loại văn thư như tấu, nghị, sớ… là loại văn thần tử

gửi cho vua trình bày sự kiện, ý kiến, tạ ơn nhưng nó khác tấu, nghị, sớ… ở những

lập luận chặt chẽ, thuyết phục hợp logic. Ngô Thì Nhậm đã vận dụng hết những đặc

điểm và thế mạnh của thể loại này để truyền tải mục đích bang giao của mình một

cách hiệu quả nhất. Ta có thể xét một ví dụ cụ thể như sau:

Trong bài số 83 - Thỉnh phong biểu (Biểu xin phong) có viết:

“Kính nghĩ Đại Hoàng đế bệ hạ: Thay trời hành đạo, yêu mến hạ bang, xét

lòng thành quy hướng của cha thần, cho dự vào hàng phiên phong, dầy ban ân huệ.

Thần tuổi còn trẻ, ân phong ban xuống, gia thế đều vẻ vang. Nay thần gặp vận đen,

đau đớn trong khi cư tang, nhờ có nhân viên trong nước đồng lòng phò tá, được

quyền trông coi việc nước, đội uy đức Hoàng đế cả đến nơi xa.

Hiện lòng người trong nước quy phụ, bốn cõi được bình yên, kính sai bồi

thần Ngô Thì mỗ đến cửa cung đợi mệnh. Cúi mong thánh từ rủ lòng thể tuất,

thương cha thần đến cả đời thần, lại cho được nhận tước phong, đời đời làm phên

giậu nước Nam, để được nương tựa vào lòng yêu mến, giữ yên bờ cõi, may nối

nghiệp đời trước, giữ trọn chức phận đối với Thánh triều, thần vô cùng sợ sệt.

Thần hiện trông coi việc nước, xin dùng ấn tín đã ban cho, để tỏ lòng kính

cẩn, xin dâng biểu tâu lên.” [11, 781].

Vua Quang Trung qua đời, đất nước mất đi một vị vua anh minh, nhân từ,

đức độ; riêng với cá nhân mưu sĩ Ngô Thì mất đi một người bạn tri kỉ, một người

hiểu đúng, đánh giá đúng và tin tưởng vào tài năng, tấm lòng của ông với đất nước.

Ngô Thì Nhậm đã đóng vai trò rất lớn trong khúc giao lịch sử quan trọng này: ông

trở thành cầu nối giữa Quang Toản và những thành tựu bang giao đã có từ thời vua

Quang Trung với triều đình nhà Thanh. Trong bài biểu trên Ngô Thì Nhậm đã thay

mặt Quang Toản viết bài xin phong với Thiên triều Trung Hoa. Vị quân sư này đã

ca ngời tấm lòng, ân điển cùng mối quan hệ tốt đẹp của nhà Thanh với vua Quang

Trung, đồng thời nói lên sự đau buồn của Quang Toản khi cha mất đi “cư tang” để

khơi gợi mối đồng cảm nơi người nhận biểu. Tiếp đó, ông nói lên lý do xin phong

“(thần) được quyền trông coi việc nước, đội uy đức hoàng đế đến cả nơi xa. Hiện

53

lòng người trong nước quy phụ, bốn cõi được bình yên.” Ngô Thì Nhậm đã gián

tiếp nêu rõ tình hình chính trị của chúng ta sau khi vua Quang Trung qua đời: Vua

Quang Toản được sự đồng lòng, nhất trí của nhân dân sẽ là người lên ngôi vua thay

cha mình. Vì vậy, ông đưa ra lời xin phong rất hợp tình, hợp lý “Cúi mong thánh từ

rủ lòng thể tuất, thương cha thần đến cả đời thần, lại cho được nhận tước phong, đời

đời làm phên giậu nước Nam, để được nương tựa vào lòng yêu mến, giữ yên bờ cõi,

May nối nghiệp đời trước, giữ trọn chức phận đối với Thánh triều, thần vô cùng sợ

sệt.”. Vẫn giữ nguyên thái độ khiêm nhường, kính cẩn vốn thấy của các bài biểu

trong toàn tập bang giao, Ngô Thì Nhậm khéo léo nói đến mong muốn làm “phên

giậu” cho Thiên triều Trung Hoa như từ trước tới nay, để khẳng định vị vua mới -

Quang Toản cũng sẽ giữ đúng sự trân trọng với Đại hoàng đế nhà Thanh và mối

giao hảo giữa hai hai triều đình vẫn duy trì như thời vua Quang Trung. Với lối tư

duy và cách lập luận như vậy, nhà Thanh không yên lòng mà chấp thuận việc ban

phong cho Quang Toản sao được?

Sau khi Quang Toản lên ngôi vua, thời gian ngắn sau đó Ngô Thì Nhậm vẫn

giữ vai trò quan trọng trong việc bang giao với nhà Thanh. Ông viết một loạt các bài

biểu tạ ơn về việc ban phong, ban giống ngựa tốt hay nhân sâm, ngọc như ý, biểu xin

định lại lễ cống, biểu chúc vạn thọ… vô cùng đặc sắc, quan hệ ngoại giao giữa ta với

nhà Thanh trong giai đoạn này cũng tốt đẹp. Tuy nhiên, khoảng thời gian này không

kéo dài không bao lâu khi triều đình vua Quang Toản có sự lũng đoạn của Bùi Đắc

Tuyên (cậu của vua Quang Toản). Chính vì vậy mà Ngô Thì Nhậm cùng hàng loạt

các trung thần như Phan Huy Ích, Ninh Tốn, Nguyễn Huy Lượng… không những

không còn giữ được những trọng trách quan trọng nữa, mà còn bị vua nghi ngờ.

Có thể nói, Ngô Thì Nhậm đã vận dụng tài năng uyên bác, tầm nhìn chiến

lược, phương thức bang giao mưu lược cùng sự am tường lịch sử, phát huy tối đã

những thành tựu bang giao sẵn có từ các triều đại đi trước để tạo thành mỗi bài viết

của mình. Đặc trưng thể loại và những thế mạnh của từng loại thể từ đó cũng được

phát huy một cách cao nhất. Điểm chung dễ thấy trong các bài viết của Ngô Thì

Nhậm đó chính là văn chính luận với lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, dẫn chứng

54

thuyết phục. Tuy nhiên, do đặc thù phục vụ mục đích bang giao với một nước như

Trung Quốc, Ngô Thì Nhậm đã khéo léo khắc phục tính công thức của văn chính

luận để nó trở nên mềm dẻo, linh hoạt hơn trong từng trường hợp. Dù có những

đoạn phê phán hành động gây hấn của Tôn Sỹ Nghị thì Ngô Thì Nhậm vẫn nói với

một thái độ hết sức nhã nhặn, đồng thời tin tưởng vào mối thịnh tình của Đại Việt

với triều đình nhà Thanh để coi hành động gây hấn kia chỉ là của cá nhân Tôn Sỹ

Nghị mà thôi. Cách nói, lối suy nghĩ mưu lược như vậy không phải ai cũng làm

được. Tuy nhiên, với những gì là mục đích tối cao trong công việc bang giao, Ngô

Thì Nhậm vẫn quyết giữ vững cho bằng được, đó là độc lập, là chủ quyền, là toàn

vẹn lãnh thổ của Đại Việt.

Đọc các bài viết trong Bang giao hảo thoại, chúng tôi thấy nó có nhiều điểm

chung với những tác phẩm của người anh hùng Nguyễn Trãi trong công cuộc ngoại

giao với nhà Minh, hay của Hồ Chủ tịch với những tên trùm đế quốc Pháp, Mỹ…ở

tính chính luận, luận bàn. Tuy nhiên, ta cũng thấy được cái hay, cái độc đáo riêng

mà chỉ ở Ngô Thì Nhậm mới có, đó chính là lối tư duy, lập luận của ông vừa sắc

bén, vừa khéo léo được truyền tải bởi một thủ pháp ngôn từ không thể hợp lý hơn.

3.3. Thủ pháp ngôn từ

Trong các bài viết của Bang giao hảo thoại, điều chúng ta dễ nhận thấy là tác

giả đã sử dụng ngôn từ rất khéo léo, khiêm nhường. Tuy nhiên, ẩn sâu trong đó vẫn

kiên định giữ vững nguyên tắc ngại giao của ta.

Như chúng ta đã biết, trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, Trung Hoa luôn tự

coi mình là nước lớn (Thiên triều), còn các nước xung quanh là nước nhỏ (Chư

hầu), đây cũng là một trong những phương thức được các triều đại phong kiến

Trung Hoa áp dụng trong ngoại giao với các nước láng giềng. Trong lịch sử ngoại

giao giữa Đại Việt và Trung Hoa từ đời Đinh, Lý, Trần, Lê cho đến thời Tây Sơn,

để tránh các cuộc chiến tranh với các triều đại phong kiến Trung Hoa chúng ta luôn

phải khéo léo, đặc biệt trong thư từ bang giao, việc sử dụng ngôn từ phải hết sức

chú ý, ngay cả sau mỗi lần đánh thắng các cuộc xâm lược của chúng. Chính vì thế

trong các bài bẩm, trình, biểu của Bang giao hảo thoại, ta luôn thấy Ngô Thì Nhậm

55

tôn xưng Trung Hoa là “Thiên triều”, gọi vua Trung Hoa là “Đại Hoàng đế”, coi

Đại Việt là “phên giậu” của Trung Hoa và việc triều đình nhà Thanh duy trì mối hòa

hảo, hữu nghị là “ân điển, lượng rộng trời cao”. Cách xưng hô này luôn được duy trì

giống như một khuôn giáo trong ngoại giao giữa Đại Việt và Trung Hoa, một hình

thức giữ thể diện cho nhà Thanh ngay cả khi chúng bị đánh bại một cách thảm hại

thì cách xưng hô này vẫn được sử dụng như một nguyên tắc.

Thời Tây Sơn, ngay cả khi chưa đánh thắng quân của Tôn Sỹ Nghị, Nguyễn

Huệ đã đặc biệt chú trọng đến việc làm thế nào để có một con đường ngoại giao tốt

nhất nhằm tránh khỏi họa chiến tranh cho người dân Đại Việt, nên ông đã xác định việc

làm đầu tiên trong ngoại giao là phải giữ thể diện cho nhà Thanh sau khi chúng bại

trận. Nguyễn Huệ đã đích thân chỉ định Ngô Thì Nhậm là người có tài năng văn

chương và thông thạo ngoại giao nắm trọng trách thay Nguyễn Huệ đảm nhiệm soạn

thảo thư từ ngoại giao. Và quả thực mắt nhìn người của Nguyễn Huệ rất tinh tường đã

chọn đúng người đúng việc, Ngô Thì Nhậm có cơ hôi phát huy hết tài năng văn

chương, mưu lược của mình.

Thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, Ngô Thì Nhậm đã triệt để áp dụng

cách sử dụng ngôn từ và lời lẽ, làm thế nào mà trong mỗi câu văn, mỗi từ ngữ không để

vượt qua những khuôn phép ngoại giao giữa một nước lớn và một nước nhỏ để giữ thể

diện cho nhà Thanh, đồng thời cũng không làm mất đi hào khí oai hùng của một người

thắng trận để có thể ép nhà Thanh phải thực hiện những yêu cầu của mình trong việc

bảo vệ chủ quyền và giữ vững hòa bình. Chính vì vậy ngay trong những bài đầu tiên

của tập bang giao gửi quan tổng đốc Lưỡng Quảng, việc sử dụng ngôn ngữ khách sáo,

khiêm nhường cũng đã được sử dụng một cách triệt để. Cụ thể trong bài số 2 - Bẩm

thiên triều Lưỡng Quảng Tây phân tuần tả giang binh bị đạo tổng lý phiên vụ Thang

Đại nhân (Biện về việc xảy ra binh đao, Quốc Vương bẩm) có viết:

“Nhận được lời dụ của Đại nhân, trong lòng ngoại mặt đều sáng ra, mới biết

Đại nhân thực là một bề tôi rường cột của Đại Hoàng đế, cho nên có thể tuyên

dương đức ý, lo liệu xử lý tình hình ngoài biên, mới thiết thực rõ ràng như thế. Còn

như cái tội nói dối, che dấu của Tôn Sỹ Nghị nói sao cho hết được!” [11, 411].

Ngô Thì Nhậm đã làm đẹp lòng Thanh Hùng Nghiệp bằng những từ ngữ ngợi

56

ca hết sức đẹp đẽ, tôn ông ta là “rường cột” của nhà Thanh, người có thể “tuyên

dương đức ý, lo liệu xử lý tình hình ngoài biên, mới thiết thực rõ ràng như thế”. Mục

đích của việc làm vui lòng Thanh Hùng Nghiệp chính là để ông ta tâu lên triều đình

nhà Thanh việc Tôn Sỹ Nghị tự ý dụng binh gây hấn trên đất Đại Việt. Viết như vậy,

một người ở ngôi cao không đồng ý sao được!

Cách nói, cách viết này vẫn được duy trì trong các bài viết sau đó và phát

huy tác dụng một cách tối đa. Vẫn về việc tố cáo hành động gây hấn, đại bại của

Tôn Sỹ Nghị, trong bài số 65 - Trần tình biểu (Biểu trần tình) - bức thư đầu tiên sau

trận đánh thắng Tôn Sỹ Nghị gửi cho Thanh Hùng Nghiệp, Ngô Thì Nhậm vẫn sử

dụng lối viết quen thuộc:

“Cúi nghĩ, Đại Hoàng đế thay trời thi hành giáo hóa, việc thịnh suy ban ra

nơi xa vắng, là thuận theo lẽ tự nhiên, thứ lỗi cho thần một lần bất đắc dĩ đem quân

ra chống lại, lượng xét cho lòng thành của thần đã ba lần dâng biểu trần tình ở cửa

quan, xin dựng lập phiên phong, ban mệnh mới, phong cho thần làm An Nam Quốc

Vương, để thần che chắn một phương, cung kính chờ đợi phục tùng, khiến cho

trong nước có chỗ thống nhất. Thần kính cẩn sai sứ đến cửa khuyết, phụng sửa lễ

cống phiên thuộc và kê khai số nhân khẩu hiện có dâng lên, để biểu lộ tấm lòng chí

thành như vậy.” [11, 681].

Ngô Thì Nhậm cho thấy Đại Việt trước sau như một, luôn một lòng thờ kính

Thiên triều Trung Hoa, nhưng đồng thời cũng ngầm thông báo cho phía Trung

Quốc thấy Đại Việt rất kiên quyết trong việc giữ vững chủ quyền của mình nếu phía

họ có bất cứ một hành động dụng binh nào. Thông báo ngầm này cũng được Ngô

Thì Nhậm ẩn chứa dưới một lớp vỏ ngôn từ hết sức khéo léo, mềm dẻo:

“Trộm nghĩ, bản quốc từ Đinh, Lê, Lý, Trần tới nay, các đời có sự thay đổi,

không phải chỉ có một họ nắm quyền Nam Giao. Tuy bọn Ô Mã Nhi, Hoàng Phúc

không chiếm được tiểu phiên, nhưng Thiên triều rộng lượng như biển xuân, bỏ qua

những điều nhỏ nhặt, đạo lớn hài hòa vun đắp cho, chỉ với tấm lòng chí công chí

nhân mà thôi. Sỹ Nghị không biết suy xét sự lý, gây mối binh đao, khiến cho sinh

linh oán hờn, dối trên lừa dưới đến mức ấy.” [11, 681].

Ngô Thì Nhậm khéo léo nói về niềm tự hào dân tộc để khẳng định thế lực

57

của chúng ta bằng việc nhắc đến sự đại bại của Ô Mã Nhi, Hoàng Phúc trong lịch

sử, nhưng đồng thời cũng đổ hết mọi tội lỗi cho Tôn Sỹ Nghị để làm giảm bớt mối

hổ thẹn cho triều đình nhà Thanh trước sự bại trận đó. Ngô Thì Nhậm đã có cách

viết không thể khôn khéo hơn.

Hay trong bài biểu tạ ơn, bài số 84 - Phụng thưởng tiền vương phẩm số tịnh

chỉ dụ biện lý Tây Tạng cơ tạ biểu (Biểu tạ ơn về số phẩm vật thưởng cho tiền

vương và chỉ dụ xử lý Tây Tạng), Ngô Thì Nhậm đã cố tình ca ngợi công trạng, vị

thế của Càn Long như một vị Đại Hoàng đế:

“Kính nghĩ Đại Hoàng đế bệ hạ, làm chủ hai vùng, kinh luân tám cõi. Thôi

việc can qua, đến tận nơi hoang vắng xa xôi không để sót. Chí thành thì sáng tỏ,

không thể soi riêng sáng mãi. Thần kính đọc tỉ thư, cảm kích không thôi. Kính chúc

Thánh thiên tử thọ mãi đến vô cũng, sáng cùng trời đất. Thần ngước nhờ mưa móc,

may được giữ phên giậu, ngõ hầu không bỏ nghiệp cũ của cha thần, để đội ân sủng

của Thiên vương ban cho, đó là điều thần luôn mong mỏi. Thần hướng về phương

bắc, trông chốn cung đình, đốt hương khấu đầu, vô cùng cảm kích đội ơn.” [11, 787].

Sẵn có sự tự mãn luôn mặc định nước mình là Thượng quốc, thường trực

mưu đồ thôn tính Đại Việt, luôn coi Đại Việt là nước nhỏ; nắm được tâm lý đó của

vua Thanh, Ngô Thì Nhậm đã dùng hàng loạt từ ngữ ngợi ca Kiền Long ở mức độ

cao nhất. Hẳn sau khi đọc xong bài biểu, vua Thanh cũng nở một nụ cười thỏa mãn

mà dễ dàng chấp thuận những lời đề nghị mà Ngô Thì Nhậm gửi kèm. Cái tinh tế,

cái tài “biết địch biết ta” của Ngô Thì Nhậm khiến mặt trận ngoại giao của ta đạt

được nhiều thành tựu to lớn cũng là vì vậy.

Qua khảo sát các bài viết trong Bang giao hảo thoại chúng tôi thấy, khi nói

về việc chống trả phản kháng của Đại Việt trước việc Trung Quốc gây hấn, hay việc

đòi lại đất, tác giả cũng nói với một ngôn ngữ và giọng điệu rất khéo léo, nhũn

nhặn. Cụ thể, Ngô Thì Nhậm rất nhiều ần sử dụng cụm từ “bọ ngựa đá xe” để nói về

những lần Đại Việt chống trả quân Thanh, nói giảm nói tránh để làm nhẹ bớt sự hổ

thẹn của Trung Quốc trước những lần thất bại đó. Theo ý kiến, suy nghĩ của chúng

tôi, cụm từ này Ngô Thì Nhậm dùng được lấy ý từ câu tục ngữ:

“Nực cười châu chấu đá xe,

58

Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.”

Vừa thể hiện vị thế của hai nước, tự nhận nước mình nhỏ bé chỉ là “bọ ngựa,

châu chấu”, còn Thiên triều Trung Hoa là “xe”, là “cỗ nhung y đồ sộ”. Nhưng cái ý

thâm sâu ẩn sau đó nói đến cái điều tưởng như vô lý, “nực cười”, nhưng lại rất có

khả năng xảy ra “Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng” để “dằn mặt” nhà Thanh.

Ngô Thì Nhậm không chỉ là một mưu sĩ, một quân sư tài ba mà vốn am tường ngôn

ngữ, văn chương dân gian của ông cũng cũng thật uyên bác.

Trong ngoại giao, Trung Quốc luôn được coi là “Thiên triều”, Càn Long

được coi là “Đại Hoàng đế” và các quan nhà Thanh luôn được gọi là những vị “Đại

thần nước Thiên triều”. Nhưng trong những lời văn, câu chữ đó luôn có sự phân

định rạch ròi về ranh giới giữa hai nước. Nó như một sự tuyên bố chính thức với

nhà Thanh về chủ quyền và tính độc lập của Đại Việt, sự tôn trọng trong câu chữ

chỉ là hình thức ngoại giao, còn trên thực tế quan hệ ấy là quan hệ bang giao, cho

nên Nguyễn Huệ đã nói: “Thiên triều không khoan dung, muốn động binh chinh

chiến, thì nước nhỏ không được thờ nước lớn, thì tôi cũng đành nhờ trời mà thôi.”

Cũng chính vì những lý do trên, ngôn ngữ trong Bang giao hảo thoại trở

thành mẫu mực trong thư từ bang giao, để lại nhiều bài học cho hậu thế.

Tiểu kết chương 3

Nằm trong hệ thống văn chính luận trung đại Việt Nam, các bài viết trong

Bang giao hảo thoại mang đầy đủ những đặc trưng thể loại về cấu trúc, lập luận của

nó. Tuy nhiên, với tài năng văn chương lỗi lạc, căn cứ vào tình hình thực tế của thời

đại mình, Ngô Thì Nhậm đã cho ra đời những bài viết thể hiện lối tư duy cùng nhãn

quan chính trị nhạy bén. Ngôn ngữ trong những bài viết của ông đạt đến đỉnh cao

của nghệ thuật lập luận, vừa sắc sảo, vừa thuyết phục; vừa thể hiện được mong

muốn hòa hiếu với triều đình nhà Thanh, vừa không làm mất đi cái hào hùng trong

tư thế của người chiến thắng trước mỗi lần nhà Thanh bại binh mà lại không khiến

chúng hổ thẹn, căm phẫn để đem quân tiếp tục báo thù. Chính những thành công

của các văn bản bang giao này đã góp phần to lớn vào việc giảm thiểu tối đa nguy

cơ chiến tranh cho Đại Việt mà không phải ai cũng làm được và làm tốt như Ngô

Thì Nhâm. Bang giao hảo thoại để lại nhiều bài học vô giá về nghệ thuật ngoại giao

59

mà chúng tôi nghĩ đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị.

KẾT LUẬN

1. Thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng

hoảng trầm trọng, đó là “ngòi châm” để bão táp của phong trào nông dân nổ ra rầm

rộ. Triều đại Tây Sơn ra đời, Quang Trung Nguyễn Huệ khẳng định được tài năng,

đức độ của mình trong việc trị nước cũng như đánh giặc. Ngô Thì Nhậm nổi lên

như một ngôi sao sáng chói trong số các danh sĩ đương thời. Với thái độ khác hẳn

với các trí thức cùng thời còn mang nặng tư tưởng triều đại, Ngô Thì Nhậm đã dốc

toàn bộ tài năng, trí lực để phụng sự vua Quang Trung, gây dựng nhà Tây Sơn ngày

càng hùng mạnh. Đặc biệt với Bang giao hảo thoại, ông đã có đóng góp quan trọng

vào thành công trên mặt trận ngoại giao trước triều Mãn Thanh.

2. Nội dung của Bang giao hảo thoại đã thể hiện tư tưởng chủ đạo về ngoại

giao dưới triều Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình:

làm gia tăng mối hòa hảo giữa quan hệ ngoại giao của Đại Việt và Mãn Thanh,

đồng thời giảm thiểu tối đa nguy cơ chiến tranh mà vẫn giữ vững độc lập, chủ

quyền dân tộc. Vị quân sư số một của vua Quang Trung thực sự đã ghi dấu son

vàng chói vào lịch sử ngoại giao của dân tộc, góp phần to lớn vào thắng lợi của triều

đại này trên mặt trận không gươm súng - mặt trận bút chiến.

3. Nằm trong hệ thống thể loại văn chính luận trung đại, tuy nhiên các bài

viết trong Bang giao hảo thoại có những nét riêng, vừa kế thừa thành tựu của các

triều đại đi trước, vừa đặc sắc bởi tài năng lập luận sắc bén và thủ pháp ngôn từ

không thể sắc sảo và hoàn hảo hơn của mưu sĩ Ngô Thì. Bang giao hảo thoại cũng

để lại nhiều bài học quý giá cho hậu thế về sức hấp dẫn, thuyết phục của văn

chương bang giao. Cũng từ đó tên tuổi, tài năng của mưu sĩ Ngô Thì Nhậm sống

mãi trong lòng dân tộc.

Trong khuôn khổ của bài khóa luận, chúng tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, tiếp

cận với một văn bản văn học trung đại để thấy được những nét đặc sắc về nội dung

và nghệ thuật của nó. Từ đó đánh giá đúng tài năng, vị trí của tác giả Ngô Thì Nhậm

60

đối với phong trào, triều đại Tây Sơn nói riêng và cả tiến trình lịch sử, văn học Việt

Nam nói chung. Thiết nghĩ trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phát hiện ra ở tác

phẩm này còn rất nhiều điều đáng nói, đáng phân tích: Bang giao hảo thoại nhìn từ

phương diện ngoại giao; bài học ngoại giao trong Bang giao hảo thoại với tình hình

đất nước hiện nay; hay chân dung Ngô Thì Nhậm trong Bang giao hảo thoại…

Điều chúng tôi còn chưa khai thác hết ở một tác phẩm đồ sộ như Bang giao hảo

thoại rất mong chờ những bài nghiên cứu, tìm hiểu của các bạn đọc yêu văn chương

61

tiếp theo.

1. Trần Ngọc Ánh (2009), “Ngoại giao Tây Sơn - Những tư tưởng đặc sắc và bài

TÀI LIỆU THAM KHẢO

học lịch sử”, báo Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng số 1, trang 97 - 103.

2. Đỗ Bang (2006), Những khám phá về hoàng đế Quang Trung, NXB Văn hóa

Thông tin.

3. Hoa Bằng (1944), Quang Trung anh hùng dân tộc. NXB Bốn Phương.

4. Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1963), Tìm hiểu thiên tài quân sự

Nguyễn Huệ, NXB Quân đội nhân dân.

5. Đinh Mạnh Cường (1980), Góp phần tìm hiểu những cải cách của vua Quang

Trung, NXB Bình Trị Thiên.

6. Phan Đại Doãn (1989), “Tài dùng người của Quang Trung”, Tạp chí lịch sử quân

sự, số 1.

7. Phạm Văn Đang (1973), Văn học Tây Sơn, NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn.

8. Trần Văn Giáp (1963), “Nguyễn Huệ với bia tiến sĩ ở Hà Nội”, Tạp chí nghiên

cứu lịch sử, số 46.

9. Lâm Giang (chủ biên), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 1 (2003), NXB Khoa học Xã hội.

10. Lâm Giang - Nguyễn Công Việt (chủ biên) (2004), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập

2, NXB Khoa Học Xã hội.

11. Lâm Giang - Nguyễn Công Việt (chủ biên) (2005), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập

3, NXB Khoa học Xã hội.

12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ văn học,

NXB Giáo dục.

13. Lê Văn Hòe (1952), Những bài học lịch sử, NXB Quốc học thư xã.

14. Nguyễn Mạnh Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

15. Phan Huy Lê (1959), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, NXB Giáo dục.

16. Đặng Thanh Lê (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục.

17. Phan Huy Lê (2011), Quang Trung - Nguyễn Huệ con người và sự nghiệp, NXB

Thế giới.

18. Phan Huy Lê (1961), Tìm hiểu thêm về phong trào nông dân Tây Sơn, NXB

Giáo dục.

19. Trần Huy Liệu (1966), “Quan hệ lịch sử giữa hai ngước Việt - Trung”, Tạp chí

nghiên cứu lịch sử, số 88.

20. Ngô Thế Long (2005), Bang giao Đại Việt, NXB Văn hóa Thông tin.

21. Ngô Thế Long (2005), Những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử Việt Nam,

NXB Giáo dục.

22. Ngô gia văn phái (1970), Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học.

23. Nguyễn Xuân Nhân (2001), Các ngôi sao Tây Sơn, NXB Văn nghệ Thành phố

Hồ Chí Minh.

24. Nhiều tác giả (1983), Nguyễn Huệ - Phú Xuân, NXB Thuận Hóa.

25. Trương Bá Phát (1971), Cuộc khởi dẩy và chiến tranh Tây Sơn, Tập san Sử -

Địa, kỉ niệm 200 năm phong trào Tây Sơn.

26. Ngô Văn Phú (2009), Thời Tây Sơn, NXB Trẻ.

27. Trương Hữu Quýnh (1997), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục.

28. Trương Hữu Quýnh (1988), Phong trào nông dân Tây Sơn dưới con mắt người

nước ngoài, NXB Tổng hợp Nghĩa Bình.

29. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học quốc

gia Hà Nội.

30. Văn Tân (1958), Cách mạng Tây Sơn, NXB Văn-Sử-Địa.

31. Tập san Sử - Địa đặc khảo về Quang Trung - Nguyễn Huệ (1968), Nhà sách

Khai Trí bảo trợ.

32. Nguyễn Khắc Thuần (2010), Đại cương lịch sử cổ trung đại Việt Nam, NXB

Giáo dục.

33. Nguyễn Đăng Thục, Thái độ kẻ sĩ thời Tây Sơn, Tập san Sử - Địa số 9, 10, trang

107 - 127.

34. Nguyễn Đăng Thục, Trận Đống Đa với chính nghĩa quốc gia, Tập san Sử - Địa số 9,

10, trang 9 - 20.

35. Minh Tranh (1958), Phong trào nông dân thế kỷ XVIII và khởi nghĩa Tây Sơn,

NXB Sự thật.

36. Tạ Chí Đại Trường (1973), Lịch sử nội chiến Việt Nam từ 1771 - 1802, NXB

Văn - Sử - Địa.

37. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, NXB Đại học và Trung

học chuyên nghiệp.