TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
PHAN THỊ THU HÀ
GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
TRONG PHONG LÂM MINH LẠI THI TẬP
CỦA NGUYỄN ÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI, 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
PHAN THỊ THU HÀ
GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
TRONG PHONG LÂM MINH LẠI THI TẬP
CỦA NGUYỄN ÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. AN THỊ THÚY
HÀ NỘI, 2018
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp “Giá trị nội dung và nghệ thuật
trong Phong lâm minh lại thi tập của Nguyễn Án”, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam cùng toàn thể thầy cô
giáo khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và nhiệt
tình giảng dạy trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại đây.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến ThS. An Thị Thúy đã
nhiệt tình hướng dẫn và chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Phan Thị Thu Hà
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung triển khai trong khóa luận tốt nghiệp này là
công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. An Thị Thúy.
Kết quả thu được là trung thực và không trùng lặp với nghiên cứu của những
tác giả khác.
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Sinh viên
Phan Thị Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 5
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 5
NỘI DUNG .................................................................................................................... 6
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN ÁN ....... 6
1.1. Tác giả Nguyễn Án .................................................................................... 6
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội, tư tưởng ....................................................... 6
1.1.2. Cuộc đời và con người ............................................................................ 8
1.2. Sự nghiệp sáng tác ................................................................................... 10
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 11
Chƣơng 2. PHONG LÂM MINH LẠI THI TẬP NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN
NỘI DUNG .................................................................................................................. 12
2.1. Thiên nhiên cảnh vật trong Phong lâm minh lại thi tập .......................... 12
2.1.1. Di tích lịch sử văn hóa .......................................................................... 12
2.1.2. Danh lam thắng cảnh ............................................................................. 18
2.2. Tâm sự của người trí thức nghèo ............................................................. 21
2.2.1. Nỗi buồn trước thời cuộc ...................................................................... 22
2.2.2. Nỗi buồn trước cuộc sống của bản thân ................................................ 27
2.3. Tình bạn - tri âm tri kỉ .............................................................................. 32
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 37
Chƣơng 3. PHONG LÂM MINH LẠI THI TẬP NHÌN TỪ PHƢƠNG
DIỆN NGHỆ THUẬT ................................................................................... 38
3.1. Hình ảnh thơ ............................................................................................. 38
3.1.1. Hình ảnh thiên nhiên cảnh vật ............................................................... 38
3.1.2. Hình ảnh con người ............................................................................... 41
3.2. Ngôn ngữ thơ ............................................................................................ 44
3.3. Thời gian, không gian nghệ thuật ............................................................ 48
3.3.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................. 48
3.3.2. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 53
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................... 58
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam trải qua quá trình hình thành và phát triển
trong mười thế kỉ. Mỗi thời kì văn học lại gắn với những biến cố của lịch sử
xã hội và thường được ghi lại với những dấu ấn sâu sắc trong các sáng tác.
Văn học giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX được coi là một
trong những giai đoạn đỉnh cao, đạt nhiều thành tựu rực rỡ nhất trong văn học
trung đại Việt Nam với sự xuất hiện của nhiều tác giả và tác phẩm tiêu biểu.
Nguyễn Án sống trong khoảng thời kì cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ
XIX. Đây được coi thời kì biến động dữ dội nhất của lịch sử dân tộc khi chế
độ phong kiến đang khủng hoảng, bế tắc. Các nhà thơ, nhà văn đều đem tâm
tư, tình cảm vào trong những trang thơ văn của mình. Qua tác phẩm của họ,
người đời sau phần nào thấy được diện mạo chân thực của bức tranh hiện thực
xã hội bấy giờ. Cũng như nhiều nho sĩ khác, chí hướng ban đầu của Nguyễn
Án là mong muốn được đem tài năng ra hành đạo, để góp phần “trị quốc an
dân”, nhưng thời thế đang có những biến chuyển dữ dội, cảnh “bể dâu” diễn
ra ngay trước mắt qua từng tháng từng ngày khiến nhà thơ bi quan, thất vọng.
Ông đành lui về ở ẩn, tìm niềm vui từ cuộc sống gần thiên nhiên, tìm chỗ dựa
tinh thần trong triết thuyết Lão Trang, tìm niềm an ủi trong sự đồng cảm của
bạn bè tri kỉ, nguyện đem ngọn bút phụng sự nhân sinh qua những trang văn
thơ ghi lại thế sự, diễn tả nỗi lòng, mong muốn góp phần cảnh tỉnh thế tục.
Mặc dù không được giảng dạy, nghiên cứu trong chương trình phổ
thông nhưng Nguyễn Án cũng là tác giả được nhắc đến khá nhiều trong văn
học giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX với thiên ký Tang thương
ngẫu lục - viết chung với người bạn thân Phạm Đình Hổ. Đây được coi là tác
phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của tác giả.
1
Trong những năm qua, con người và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Án
đã được giới nghiên cứu văn học quan tâm. Bên cạnh những công trình
nghiên cứu về Tang thương ngẫu lục, việc sưu tầm và nghiên cứu tập thơ
Phong lâm minh lại thi tập của Nguyễn Án đã được quan tâm ít nhiều. Tuy
nhiên, sự quan tâm đó đa phần là dừng lại ở việc giới thiệu văn bản. Giá trị
nội dung và nghệ thuật được đề cập đến không nhiều và chưa toàn diện trong
tập thơ này. Đặc biệt chưa có công trình nghiên cứu nào riêng biệt dành cho
tập thơ.
Trên đây là những lí do khích lệ chúng tôi lựa chọn đề tài “Giá trị nội
dung và nghệ thuật trong Phong lâm minh lại thi tập của Nguyễn Án”. Qua
đó, chúng ta có những nhìn nhận, đánh giá đầy đủ hơn về con người và sự
nghiệp sáng tác của nhà thơ đồng thời khẳng định vai trò, đóng góp của ông
đối với nền văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Xưa nay chúng ta thường chỉ nhắc đến Nguyễn Án với tư cách đồng tác
giả Tang thương ngẫu lục, viết chung với Phạm Kiều Niên mà không chú ý là
ông còn một tập thơ Phong lâm minh lại thi tập. Các công trình, tư liệu nghiên
cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Án đến nay còn khá mỏng. Trong quá
trình tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng với tập truyện ký Tang thương ngẫu lục, đã
có khá nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm. Riêng tập thơ Phong
lâm minh lại thi tập mới chỉ dừng lại ở giới thiệu văn bản.Với sự tìm hiểu hạn
hẹp, chúng tôi đã sưu tầm được một số tư liệu nghiên cứu về Nguyễn Án cũng
như tập thơ Phong lâm minh lại thi tập như sau:
Tác giả Nguyễn Tư Uyển, Nguyễn Án trong Danh nhân Hà Nội tập I đã
có những ghi chép giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của danh nhân.
Khi giới thiệu về tập thơ Phong lâm minh lại thi tập tác giả viết: “Ngoài
Thương tang ngẫu lục Nguyễn Án còn hay cùng các bạn bè đồng tâm đồng
2
chí đi thăm các nơi danh làm thắng cảnh, di tích lịch sử rồi cùng nhau ngâm
vịnh rồi ghi lại thành sách đặt tên là Phong lâm minh lãi thi tập” [15, tr.240].
Trong cuốn Danh nhân Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2004, Phạm Ngọc Lan có
bài viết với tiêu đề Nguyễn Án với những ghi chép về “cuộc tang thương” và
những vần thơ tâm sự. Trong đó, tác giả đã có đôi nét giới thiệu với khái quát
về danh nhân Nguyễn Án cùng với sự nghiệp sáng tác của ông. Đồng thời, tác
giả cũng nhắc tới một số nội dung chính trong tập thơ và trích dẫn một số bài
thơ trong tập Phong lâm minh lại thi tập.
Trên báo Hà Nội mới, ngày 27/09/2010, tác giả Thi Thi có bài viết Bình
văn thơ danh nhân Nguyễn Án: “Ngày 25 - 9 - 2010, nhân dịp 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội và kỷ niệm 240 năm ngày sinh Nguyễn Án, dòng họ
Nguyễn gốc Lý tổ chức buổi bình văn thơ danh nhân Nguyễn Án tại làng Du
Nội, Mai Lâm, Đông Anh, Hà Nội. Buổi bình thơ đã tập trung giới thiệu và
ngâm một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Án như “Đáp thơ Phạm Kiều
Niên”, “Qua nơi ở cũ của Nguyễn Trãi”, “Cảm hoài”,...” [14].
Cuốn Thơ văn Nguyễn Án do TS. Phạm Ngọc Lan, TS. Phạm Văn Ánh
biên soạn và giới thiệu. “Cuốn sách lần đầu tiên công bố bản dịch tập thơ
Phong lâm minh lại thi tập (Phạm Văn Ánh dịch và chú thích, PGS.TS. Trần
Thị Băng Thanh hiệu đính và dịch thơ kèm phụ lục nguyên bản Hán văn của
Phong lâm minh lại thi tập)” [6, tr.9]. Bên cạnh đó, cuốn sách còn cung cấp
tương đối đầy đủ tư liệu tham khảo về thi sĩ Nguyễn Án và đề cập đến một số
nội dung trong Phong lâm minh lại thi tập.
Qua khảo sát các công trình, tư liệu nghiên cứu, giới thiệu về Nguyễn
Án cũng như tập thơ Phong lâm minh lại thi tập chúng tôi thấy rằng: Những
công trình, tư liệu nghiên cứu mới chỉ mang tính chất giới thiệu sơ lược, gợi
mở, chưa đầy đủ. Vì vậy, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ
thuật trong tập thơ Phong lâm minh lại thi tập một cách hệ thống, đầy đủ hơn.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận hướng tới mục đích tìm hiểu “Giá trị nội dung và nghệ thuật
trong Phong lâm minh lại thi tập của Nguyễn Án” nhằm khẳng định tài năng toàn
diện của nhà thơ.
Đồng thời, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về con người, thái độ của
Nguyễn Án qua thơ ca của ông - danh sĩ Thăng Long trong biến động “bể dâu”.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Triển khai đề tài này, chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tìm hiểu về cuộc đời nhà thơ, hoàn cảnh xã hội ảnh hưởng
đến phong cách và hồn thơ danh sĩ.
Thứ hai, tìm hiểu về tập thơ Phong lâm minh lại thi tập, những kiến
thức lí luận liên quan đến đề tài, tìm hiểu giá trị nội và hình thức nghệ thuật
nổi bật trong tập thơ Phong lâm minh lại thi tập.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận khảo sát tập thơ Phong lâm minh lại thi tập in trong cuốn
Thơ văn Nguyễn Án, 2017, Nxb Đại học Sư phạm. Cuốn sách do TS. Phạm
Ngọc Lan và TS. Phạm Văn Ánh sưu tầm, biên soạn và giới thiệu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là tìm hiểu nội dung và nghệ thuật
trong tập thơ Phong lâm minh lại thi tập của Nguyễn Án để có cái nhìn sâu sắc
hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật qua một số bài thơ, đoạn thơ tiêu biểu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu những phương pháp sau:
- Phương pháp văn học sử
- Phương pháp sưu tầm và khảo cứu tài liệu
4
- Phương pháp phân loại
- Phương pháp hệ thống
Ngoài các phương pháp nêu trên, để hoàn thành khóa luận tốt hơn,
chúng tôi còn kết hợp một số thao tác: bình giảng, phân tích, chứng minh,...
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận tìm hiểu “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Phong lâm
minh lại thi tập của Nguyễn Án”. Từ đó, có cái nhìn đầy đủ hơn về con người
và sự nghiệp sáng tác của thi nhân.
Đồng thời, thông qua đề tài khóa luận, chúng tôi hi vọng giúp giáo viên
Ngữ văn có những kiến thức bổ trợ khi nghiên cứu, giảng dạy về văn học
trung đại sau này.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của
khóa luận được bố cục theo ba chương:
Chương 1: Khái quát về tác giả và tác phẩm Nguyễn Án
Chương 2: Phong lâm minh lại thi tập nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Phong lâm minh lại thi tập nhìn từ phương diện nghệ thuật
5
NỘI DUNG
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN ÁN
1.1. Tác giả Nguyễn Án
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội, tư tưởng
Để hiểu rõ hơn về nội dung trong Phong lâm minh lại thi tập, chúng tôi
đã tìm hiểu đôi nét về yếu tố thời đại bấy giờ để phần nào thấy được sự tác
động của hoàn cảnh lịch sử xã hội và tư tưởng tới hồn thơ, phong cách thơ
của danh sĩ.
Cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX là giai đoạn có nhiều biến động
dữ dội trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Giai cấp thống trị tranh giành
quyền lực, chiến tranh xảy ra liên miên. Từ năm 1778 đến 1802, đất nước
thay đổi đến mấy triều đại. Chế độ phong kiến bước vào giai đoạn khủng
hoảng không có lối thoát, kinh tế, chính trị, tư tưởng có nhiều đổi thay.
Về kinh tế: Nền kinh tế giai đoạn này suy sụp một cách trầm trọng và
toàn diện.
Nông nghiệp đình đốn. Ruộng đất phần lớn tập trung trong tay địa chủ,
quan lại, cường hào. Đến chính chúa Trịnh cũng phải công nhận rằng: “Ruộng
đất tư của dân nghèo phần nhiều rơi vào tay hào phú, dân nghèo không còn
miếng đất cắm rùi” [8, tr.91]. Tô thuế nặng, mất mùa, đói kém xảy ra liên tiếp
khiến cho đời sống nhân dân ngày càng khổ cực.
Công thương nghiệp trì trệ, không phát triển. Chính quyền phong kiến
hướng công thương nghiệp vào mục đích phục vụ cho nhu cầu của giai cấp
thống trị.
Thương nghiệp giai đoạn này cũng bị đình trệ, việc buôn bán của
thương nhân bị chính quyền kìm hãm.
6
Về chính trị: Chế độ phong kiến Việt Nam bước vào thời kì khủng
hoảng trầm trọng và bộc lộ trên nhiều phương diện nhưng nổi bật là tính
chất thối nát, suy thoái trong toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến.
Thời Lê mạt, vua Lê chỉ là tên bù nhìn, còn quyền lực tập trung hết
vào tay chúa Trịnh. Alêcxăngđrơ Rốt đã ghi lại thực trạng này trong cuốn
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (NXB Giáo dục, Hà Nội, 1967) như
sau: “Cái xứ này thực là một nước quân chủ thực sự, hơn nữa lại có hai vua,
nhưng một gọi là vua thì chỉ có tên mà thôi. Còn ông chúa kia thì có đủ
quyền hành. Vua chỉ ra mắt những ngày nhất định nhưa những ngày đại lễ
đầu năm. Ngoài ra nhà vua chỉ có du dú ở trong một ngôi điện cổ kính, kéo
dài cuộc đời nhàn tản vô vị, trong khi ông chúa coi sóc các công việc chiến
tranh và hòa bình” [8, tr.102]. Nhìn chung, chính quyền phong kiến giai
đoạn này từ trung ương đến địa phương là một bộ máy quan liêu nặng nề,
nạn tham ô, hối lộ thỏa sức phát triển.
Xã hội loạn lạc, đời sống nhân dân khổ cực, phiêu bạt, bị dồn vào
đường cùng, gia đình ly tán, hạn hán, mất mùa đói kém, bệnh dịch hoành
hành, người chết vô số.
Đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự phẫn nộ của quần chúng nhân dân
và sự bùng nổ của phong trào nông dân khởi nghĩa. Tiêu biểu là các cuộc khởi
nghĩa lớn sau: Năm 1737, khởi nghĩa của Nguyễn Dương Hưng mở đầu cho
phong trào khởi nghĩa nông dân ở giai đoạn này. Tiếp đến là cuộc khởi nghĩa
của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trác Oánh ở Hải Dương. Khởi nghĩa của
Nguyễn Hữu Cầu (1741 - 1751), khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương (1740
- 1751) ở Sơn Tây, khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ở Sơn Nam. Đỉnh cao
của phong trào nông dân khởi nghĩa là phong trào Tây Sơn. Năm 1771,
Nguyễn Nhạc khởi nghĩa ở Quy Nhơn, Bình Định. Năm 1776, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ đánh chiếm Gia Định, chúa Nguyễn phải bỏ chạy. Năm 1786
7
Nguyễn Huệ kéo quân ra Thăng Long, phù Lê, diệt Trịnh. Năm 1787, nhà Tây
Sơn lại cho quân ra Bắc Hà, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền. Năm
1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung. Năm
1792, Nguyễn Huệ mất, phong trào Tây Sơn từ đấy tan rã.
Về tư tưởng: Thời kì này diễn ra sự phá sản của ý thức hệ phong kiến
và sự ảnh hưởng của các tư tưởng nhân văn khác đã ảnh hưởng không nhỏ
đến thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ.
Nho giáo bị đả kích, lung lay, suy yếu và không còn đại diện cho tư tưởng
tiến bộ của nhà nước phong kiến. Các nhà nho chân chính bị khủng hoảng về tư
tưởng, mất niềm tin vào chính quyền nhà nước. Trong số đó, có người lui về ở ẩn
hoặc từ quan lui về ở ẩn để giữ gìn, bảo toàn nhân cách của mình.
Bên cạnh đó, đạo Phật và đạo Lão trỗi dậy, hòa cùng đạo Nho đã phần
nào xoa dịu được nỗi đau trong lòng con người.
Như vậy, nhìn vào hoàn cảnh lịch sử - xã hội nước ta thời bấy giờ,
chúng ta có thể thấy Nguyễn Án đã sống và chứng kiến thời kì biến động dữ
dội nhất của lịch sử dân tộc. Điều này đã có ảnh hưởng lớn đến con người
cũng như phong cách sáng tác văn học của ông.
1.1.2. Cuộc đời và con người
Nguyễn Án (1770 - 1815), tự là Kính Phủ, hiệu Ngu Hồ Khách và
Kiếm Hồ Ngư Ẩn. Ngoài ra, có tài liệu khác ghi tự của ông là Thanh Ngọc,
hiệu Bỉnh Trực. Ông là danh sĩ sống cuối Lê mạt đầu Nguyễn sơ. Quê gốc của
Nguyễn Án ở làng Vân Điềm nhưng sau đó gia đình chuyển sang thôn Du
Nội, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc xưa (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện
Đông Anh, Hà Nội). Nơi đây được coi là mảnh đất địa linh nhân kiệt đã sản
sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Ông xuất thân trong dòng họ thuộc dòng dõi thế gia vọng tộc, nối đời
khoa bảng và có danh tiếng. Đó là dòng họ Nguyễn gốc Lý, là hậu duệ của Lý
8
Thái Tổ. Ông là hậu duệ của Đình nguyên Hoàng giáp Nguyễn Thực, tiến sĩ
Nguyễn Nghi, Tiến sĩ Nguyễn Thẩm. Ông nội của Nguyễn Án là tiến sĩ
Nguyễn Thưởng từng làm quan và trải qua nhiều chức. Hơn nữa, dòng họ của
Nguyễn Án có nhiều người từng đi sứ. Sau những chuyến đi sứ này, các vị
tiền nhân đã giúp cho con cháu đời sau mở mang học vấn, kiến thức văn học
qua việc mang những sách vở từ nước bạn về. Điều này lí giải vì sao dòng họ
Nguyễn Án là dòng họ có truyền thống hiếu học, đỗ đạt khoa bảng.
Cha của Nguyễn Án là Nguyễn Đường. Dù không đỗ đạt cao nhưng
ông rất được chúa Trịnh Khải xem trọng. Năm Bính Ngọ (1786), quân Tây
Sơn ra Bắc, ông rút lui về ở ẩn tại làng Du Lâm. Mẹ của Nguyễn Án là bà kế
thất Trần Thị Từ Huệ.
Từ thời thơ ấu, Nguyễn Án đã là một cậu bé thông minh, hiếu học
nhưng do lớn lên giữa thời li loạn dẫn đến việc học hành lỡ dở. Khi gia đình
chuyển cư sang Du Lâm, đang tuổi thanh niên nhưng ông đã giúp đỡ cha dạy
học. Đến khi cha mất, Nguyễn Án tiếp tục nghề dạy học và chuyển cư ra
Thăng Long để tiện đường học tập và giao thiệp với bạn bè.
Hoàn cảnh xã hội đã tác động trực tiếp đến người thanh niên Nguyễn
Án. Vì không đủ điều kiện theo đuổi con đường cung kiếm đồng thời còn mẹ
già phải phụng dưỡng nên người thanh niên trí thức ấy đành mượn con đường
ẩn dật để tiếp tục sự nghiệp văn chương và tìm cách giúp người, giúp đời.
Sau khi ra đất Thăng Long, Nguyễn Án nhiều năm trú ngụ trên một
mảnh đất thuê của người khác và sống cuộc đời nửa ẩn dật và mưu sinh vất
vả. Để mưu sinh, ông phải làm nhiều nghề: dạy học, làm thuốc, rồi tìm niềm
an ủi từ thiên nhiên và những người bạn văn chương (vì vậy ông có tên hiệu
là Kiếm Hồ Ngư Ẩn). Nguyễn Án còn là một người con có hiếu với mẹ.
Những năm đói kém, nghe lời mẹ, ông đã bán ruộng vườn, tài sản để cứu vớt
người nghèo.
9
Về sau, triều Tây Sơn suy vong, nhà Nguyễn lên thay. Năm Gia Long
thứ 4 (1805), do được tiến cử, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Phù Dung
(nay thuộc huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên), nhưng chỉ làm một năm thì xin từ
quan. Năm Gia Long thứ 6 (1807), nhà Nguyễn mở khoa thi Hương đầu tiên ở
Bắc Thành, ông cùng con trai trưởng Nguyễn Siêu Tôn lều chõng dự thi.
Nguyễn Án đỗ Hương cống (Cử nhân) còn con trai trưởng thì đỗ Sinh đồ.
Năm Gia Long thứ 7 (1808), Nguyễn Án được bổ nhiệm làm Tri huyện Tiên
Minh, thuộc phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (tức huyện Yên Lãng, thành phố
Hải Phòng ngày nay). Năm 1815, sau sáu năm làm quan, ông mất tại nhiệm
sở, thọ 46 tuổi.
Cuộc đời Nguyễn Án gắn với những biến động bão táp của thời đại.
Ông xuất thân trong gia đình gốc quan lại. Bản thân lại là người có cá tính,
thông minh, hiếu học nhưng đường công danh lận đận. Trong con người thi
nhân vừa có tình yêu thiên nhiên, vừa có phẩm chất thanh cao và vừa có tâm
sự của nhà nho trước thời vận.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
Là một người thông minh, ham học lại sống trong một giai đoạn lịch sử
có nhiều biến động nên những điều tai nghe mắt thấy của Nguyễn Án rất
nhiều. Sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyễn Án tiêu biểu gồm có thiên ký
Tang thương ngẫu lục và tập thơ chữ Hán Phong lâm minh lại thi tập. Ngoài
ra, ông còn viết lời tựa cho Đông Dã Học ngôn thi tập của Phạm Đình Hổ và
tập Thủ khâu tàn mặc của cậu ruột là Trần Văn Đối.
Tang thương ngẫu lục (Ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu) là tập ký
bằng chữ Hán được Nguyễn Án viết chung với Phạm Đình Hổ vào khoảng Lê
mạt - Nguyễn sơ. Tác phẩm gồm 90 thiên ký và thơ đề sau tập truyện được
Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án viết bằng chữ Hán đã góp phần mang lại sắc
thái mới mẻ cho thể loại ký. Trong đó, có 34 thiên ký ghi rõ tên tác giả là
Kính Phủ (tức Nguyễn Án), một số thiên là của Phạm Đình Hổ và còn một số
10
thiên không đề tác giả. Đây là tác phẩm mang giá trị to lớn cả về văn học lẫn
giá trị lịch sử. Nội dung của nó giúp phơi bày hiện thực với những mặt xấu xa
đến tột cùng của đời sống xã hội phong kiến Việt Nam giai đoạn cuối Lê đầu
Nguyễn. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng chứa đựng những mẩu chuyện vặt, giai
thoại về nhân vật lịch sử, những sự tích kì lạ hoang đường lưu truyền trong
dân gian và triều đình. Trong các thiên của mình, Nguyễn Án viết rất nhiều
mẩu chuyện hay có, dở có và cả ma quỷ. Khá nhiều thiên là những ghi chép
chuyện “người thật việc thật” của cuộc sống và xã hội ở thành Thăng Long.
Phong lâm minh lại thi tập (Tập thơ Sáo ngân rừng gió), có tài liệu ghi
là Phong lâm minh lãi thi tập. Đây là thi tập được Nguyễn Án viết bằng chữ
Hán gồm 75 bài thơ nhưng chỉ có 73 bài thơ của Nguyễn Án, 02 bài thơ và 01
bài Tự là của Thanh Phái hầu Lê Thụy Tâm. Phong lâm minh lại thi tập là kết
quả của những chuyến du hành của nhà thơ với những người bạn qua các di
tích lịch sử và những danh lam thắng cảnh. Đồng thời, nó cũng chứa đựng
những vần thơ tâm sự của người trí thức nghèo trước thời thế suy loạn, góp
phần giúp chúng ta hiểu sâu hơn con người và thời đại ở một giai đoạn lịch sử
đầy biến động của đất nước - giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.
Tiểu kết chương 1
Xã hội cuối Lê mạt - đầu Nguyễn sơ chứng kiến sự loạn lạc, nhiễu
nhương nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam. Sống trong thời đại đó,
Nguyễn Án trải nghiệm những bi kịch của thời đại, bi kịch của kẻ sĩ - làm
quan nhưng không mấy thanh thản. Ngoài ra, sự đan xen của nhiều luồng tư
tưởng khác nhau ảnh hưởng đến tư tưởng của nhà nho. Sáng tác thơ ca của
Nguyễn Án vừa là đời, vừa là cá tính, vừa là số phận của chính ông.
11
Chƣơng 2. PHONG LÂM MINH LẠI THI TẬP NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG
Phong lâm minh lại thi tập giúp tái hiện phần nào chân dung thi nhân.
Ở chương này, khóa luận trình bày những nội dung chính trong thi tập: Thiên
nhiên cảnh vật, tâm sự của người trí thức nghèo và tình bạn - tri âm tri kỉ.
2.1. Thiên nhiên cảnh vật trong Phong lâm minh lại thi tập
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Án đầy thi vị, sinh động và gợi tình.
Nguyễn Án đi nhiều, nhìn ngắm nhiều nên cảnh vật đi vào trong thơ dễ dàng,
nhẹ nhàng như bản chất chính nó vậy. Tâm hồn hòa với thiên nhiên cảnh vật,
cuộc đời và đi tới đâu ông cũng có thơ. Nguyễn Án họa thơ ở mọi lúc mọi
nơi, khi buổi sáng sớm, về đêm, làm thơ dưới ánh trăng thanh, khi lên núi,
chùa chiền, hang động... Ông ghi lại nơi này một con sông, nơi kia ngọn núi
rồi nơi khác lại là một ngôi chùa cổ,... Nhờ những chuyến du sơn ngoại cảnh,
tham quan di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh của non sông đất nước
đã khơi gợi trong nhà thơ nhiều bài thơ vịnh cảnh, thắng tích. Thiên nhiên
cảnh vật trong tập thơ Phong lâm minh lại thi tập nổi bật là di tích lịch sử văn
hóa và danh lam thắng cảnh.
2.1.1. Di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa là sản phẩm vật chất nhưng mang trong mình
những yếu tố phi vật chất thể hiện thông điệp, sự sáng tạo, ý thức xã hội, đời
sống tâm linh của thế hệ trước lưu truyền cho thế hệ sau. Nguyễn Án là người
luôn mang trong mình ý thức trách nhiệm sâu sắc, ngòi bút của nhà thơ luôn
trăn trở việc lưu giữ, bảo vệ các giá trị di tích lịch sử văn hóa của dân tộc.
Nhà thơ không quên ghi lại những ấn tượng của mình về vẻ đẹp của đất nước
mà ông có dịp chiêm ngưỡng. Ông đã dựng lại những di tích lịch sử văn hóa
nổi tiếng của đất nước mà trên đường mình có dịp gặp gỡ.
12
Với mảng đề tài di tích lịch sử, nhà thơ chủ yếu viết về nét nghiêm
trang mà giản dị, siêu thoát mà chân chất của những chùa chiền, đền miếu và
những di tích gắn liền với cách mạng, anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước
như chùm thơ Tây hành tạp vịnh có: Phật Tích sơn Thiên Phúc tự (Chùa
Thiên Phúc trên núi Phật Tích), Thiên Phúc biệt tự (Chùa Thiên Phúc), Thiên
thị phong (Đỉnh chợ Trời), Bối Am tự (Chùa Bối Am), Câu Lậu sơn Tây
Phương tự (Chùa Tây Phương trên núi Câu Lậu), Phỏng Tế Văn hầu từ đường
(Thăm nhà thờ Tế Văn hầu)...
Viết về những di tích chùa chiền, Nguyễn Án mang đến cho người đọc
cảnh đẹp chốn tu hành thiền không. Thu vào đôi mắt nhà thơ, chùa Phật hiện
ra với vẻ đẹp linh thiêng, thanh tịnh, đắc đạo:
“Cám vũ vân khai ỷ thúy bình,
Lâu đài đảo trám bích ba tình.
Nhị Tiên kiều để du ngư hí,
Phong động hà hoa tình nhật minh.”
(Chùa phật mở ra trong mây, dựa vào bình phong màu cánh chả,
Lâu đài lộn bóng in xuống làn sóng xanh biếc.
Dưới hai cây cầu Tiên, cá bơi đùa,
Gió lay động hoa sen, ngày tạnh ráo, ánh mặt trời trong sáng)
(Phật Tích sơn Thiên Phúc tự - Chùa
Thiên Phúc trên núi Phật Tích)
Bằng nhãn quan và cảm nhận tinh tế, Nguyễn Án đã vẽ ra trước mắt
người đọc bức tranh phong thủy về ngôi chùa cổ kính. Đó là vẻ đẹp vừa giản
dị, đơn sơ, vừa lung linh, huyền ảo của chốn tu hành. Chùa giống như tòa lâu
đài ẩn hiện sau lớp mây mơ màng “mở ra trong mây” với địa thế dựa núi nhìn
sông, hòa với “màu cánh chả” của ngọn núi, “xanh biếc” của làn sóng. Điểm
xuyết trong khung cảnh là “cá bơi đùa” phơi phới đáng yêu dưới hai cây cầu
13
Nhật Nguyệt. Cảnh chùa gió mát, sông nước trong xanh cùng với hương sen
hòa quyện tạo nên vẻ đẹp non nước hữu tình vừa huyền bí lại vừa đơn sơ. Đến
vãn cảnh chùa dường như con người có cảm giác thoát tục, như lạc vào bức
sơn họa thủy chốn bồng lai tiên cảnh. Người làm thơ phải cái nhìn bao quát,
tinh tế mới khám phá được nét đẹp bí ẩn mà tạo hóa ban tặng. Cái nhìn toàn
diện của nhà thơ thể hiện khi tái hiện vẻ đẹp mộc mạc, đơn sơ mà tinh tế nơi
chùa môn thanh tịnh:
“Huề cung lâm cổ tự,
Tề kính triệp dương trường.
Nham thạch câu y liệt,
U lan phác tị hương.
Viên nhu phan tiêu bích,
Tiết lệ ẩn cao tường.
Nhật noãn điểu thanh toái,
Khô tăng ngột tọa vương (vong).”
(Chống gậy lên chùa cổ,
Đường đi gấp khúc như ruột dê.
Vách đá móc rách áo,
Hoa lan nơi thâm u tỏa hương nức mũi.
Vượn núi vin trèo trên vách đá,
Cỏ tiết cỏ lệ giấu mình lên tường cao.
Trời ấm áp, tiếng chim vỡ òa,
Vị sư như cây khô ngồi sững, quên hết mọi sự.)
(Thiên Phúc biệt tự - Chùa Thiên Phúc)
Chống gậy lên chùa cổ, nhà thơ có dịp quan sát tỉ mỉ khung cảnh xung
quanh: đường lên khúc khuỷu “gấp khúc như ruột dê” tạo nên độ hiểm trở,
vách đá sắc nhọn khiến người leo rách áo, hương lan ngào ngạt, thấp thoáng
14
bóng vượn nô đùa trên vách đá, chim hót ca vang, cây cỏ xanh tươi,... Không
gian đồi núi hùng vĩ, hoang sơ và thanh bình làm say đắm lòng người. Tìm
đến chốn thanh tịnh cửa Phật để tâm hồn được thanh thản, con người đắm
chìm trong cảnh vật, bao mệt mỏi, lo toan ngoài kia được xua tan đi hết khi
đặt chân tại nơi này. Người đọc như cảm nhận được phong vị cuộc sống của
nhà thơ nhuốm màu vô dục, vô thường của đạo Phật. Ông không bộc lộ
những ham muốn danh lợi, tham vọng trần phàm.
Theo bước chân nhà thơ, người đọc tiếp tục được chiêm ngưỡng vẻ đẹp
tuyệt mĩ được tạo nên bởi sự hòa hợp của thiên nhiên nơi Thiên thị phong
(Đỉnh Chợ Trời):
“Phiên đằng lãm cát thướng tằng điên,
Tứ cố vân hà tận khoát nhiên.
Ẩn ẩn giang lưu phù tố luyện,
Mang mang mạch lãng trướng hồi thiên.
Bằng hư phủ thị du ai tế,
Ỷ thạch bình lâm điệp chướng huyền.”
(Vin nằm dây leo, lên trên tầng đỉnh
Trông tứ bề mây, ráng bát ngát.
Sông chảy ẩn hiện như lụa trắng bồng bềnh,
Sóng lúa dập dờn như dâng lên quanh bờ ruộng.
Dựa tầng không cúi nhìn bụi nhỏ bay,
Tựa vào đá nhìn ngang tầng núi dựng đứng.)
(Thiên thị phong - Đỉnh Chợ Trời)
Như một ống kính thu nhỏ trên đỉnh cao, hiện ra trước mắt người đọc là
không gian bao la, khoáng đãng được bao phủ bởi “tứ bề mây”. Nhìn xuống
phía dưới, nhà thơ thấy dòng sông chảy như dải thắt lưng “lụa trắng bồng
bềnh”, những ruộng lúa tạo thành làn sóng “sóng lúa dập dờn như dâng lên
15
quanh bờ ruộng”. Con người với tư thế “dựa tầng không” để quan sát cỏ cây,
“tựa vào đá” mà nhìn những dãy núi hùng vĩ xếp thành từng tầng dựng đứng
trước mắt. Với nghệ thuật miêu tả từ xa đến gần, kết hợp biện pháp so sánh,
người đọc có thể hình dung khung cảnh của danh thắng nơi đây: có làn mây
mơ màng bao phủ bốn phương, có núi non, ruộng đồng hòa quyện với sông
nước,... tạo nên nét chấm phá trong bức tranh thủy mặc. Cảnh vật tạo nên
những rung động mãnh liệt khiến con người không thể kìm được xúc cảm mà
phải “Hú dài một tiếng chấn động cả vách khe” để hòa mình với thiên nhiên,
để giải tỏa tâm hồn.
Ngoài ghi lại cảnh chùa chiền, núi non hùng vĩ, tráng lệ thi nhân còn
cho bạn đọc thấy được cái nhìn đầy đủ hơn về con người mình. Thơ ông còn
là tiếng nói yêu cuộc sống, yêu cảnh vật và trân trọng giá trị nơi linh thiêng do
các bậc đế vương thời trước dựng lên. Đi về phía Tây, nhà thơ phát hiện ra
ngôi chùa cổ chiếm giữ cảnh đẹp nơi đây:
“Tự chiêm Tây Phương thắng
Bi tồn Vĩnh Hựu niên.
Bá đồ chung tịch mịch,
Cựu cảnh túc lưu liên.”
(Chùa chiếm nơi cảnh đẹp ở phía Tây,
Hãy còn bia đá từ thời Vĩnh Hựu.
Cơ đồ của bậc vương bá rốt cục rơi vào lặng lẽ,
Cảnh cũ đủ để lưu truyền năm này qua năm khác.)
(Câu Lậu sơn Tây Phương tự - Chùa
Tây Phương trên núi Câu Lậu)
Xen lẫn vịnh cảnh, Nguyễn Án thể hiện tâm trạng, cảm xúc nuối tiếc
khi chứng kiến ngôi chùa cổ đang dần rơi vào quên lãng “rơi vào lặng lẽ”.
Dường như nhà thơ đang muốn nhắc nhở người đời sau hãy trân trọng và giữ
gìn di sản do bậc đế vương xây dựng.
16
Không dừng lại ở đó, nhà thơ còn bộc lộ cảm xúc, thái độ về vị anh
hùng dân tộc có công dựng nước. Đáng chú ý nhất, Nguyễn Án viết về con
người tài hoa mà cuộc đời trắc trở - Nguyễn Trãi. Đến thăm nhà thờ Tế Văn
hầu, nhà thơ trầm ngâm tại nơi đây:
“Tá mệnh nguyên thần tuyệt đại anh,
Thập niên thư kiếm dực Nam kinh.
Thổ long sô cẩu thất tiền oán,
Thiết khoán đan thư tử hậu vinh.”
(Là trọng thần giúp thiên tử sáng nghiệp, người anh hùng
bậc nhất trên đời,
Mười năm văn võ giúp rập vương triều nước Nam.
Rồng đất chó rơm chẳng còn oán hờn cũ,
Thiết khoán đan thư sau khi chết vẫn còn vinh.)
(Phỏng Tế Văn hầu từ đương - Thăm nhà
thờ Tế Văn hầu)
Đưa bạn đọc đến du ngoạn nhà thờ Nguyễn Trãi, nhà thơ bày tỏ tâm
trạng xót xa trước cảnh bậc tiền nhân gặp họa diệt thân. Từ cổ chí kim, người
có tài luôn bị tạo vật ghen ghét. Nếu trước đây là anh hùng bậc nhất trên đời,
giúp vua dựng nước thì sau không còn được trọng dụng, thậm chí phải chịu
thảm họa tru di tam tộc. Đau xót thay, một thời oai hùng là vậy nhưng nay chỉ
còn cảnh:
“Hoang lương từ miếu Tô giang thượng,
Hoa lạc tàn bi nhất điểu minh.”
(Đền miếu hoang vắng trên dòng sông Tô
Hoa rụng, bia vỡ, một tiếng chim hót.)
Đền thờ nay trở nên đổ nát, “hoang vắng”, cô độc, lẻ loi bên sông, cảnh
vật tiêu điều, xơ xác “hoa rụng”, “bia vỡ”. Điều này chứng tỏ từ lâu đã không
có ai ghé thăm, không ai trùng tu nơi này. Nó bị người ta lãng quên như chính
chủ nhân của nó vậy.
17
Dựng lại các di tích lịch sử văn hóa, Nguyễn Án vừa thể hiện nhãn
quan tinh tế khi miêu tả vẻ đẹp của chốn tu hành linh thiêng, vừa đan xen vào
đó cảm xúc hoài cổ của nhà thơ. Đồng thời, thi nhân còn bày tỏ niềm tiếc
nuối, xót xa khi những ngôi chùa, đền miếu bị rơi vào dĩ vãng và phai tàn theo
năm tháng.
2.1.2. Danh lam thắng cảnh
Cùng với những bài thơ viết về di tích lịch sử, thơ Nguyễn Án có khá
nhiều bài viết về danh lam thắng cảnh của đất nước ngoài những ngôi chùa cổ
kính hay đền miếu. Trong Phong lâm minh lại thi tập, ta bắt gặp nhiều bài thơ
vịnh cảnh về những cảnh núi non, ngôi chùa, hang động như Thạch Thất động
(Động Thạch Thất), Chu trung vọng Tản Viên sơn (Trong thuyền ngắm núi
Tản Viên), Đề Khánh Vân thôn Vân Thụy tự (Thơ đề chùa Vân Thụy thôn
Khánh Vân), Đáp Hoành Hải (Đáp lại Hoành Hải), Phiếm chu Tây Hồ (Thả
thuyền ở Hồ Tây),... Điều này giúp người đọc thấy được sự trải nghiệm cũng
như tâm huyết của tác giả đối với non nước mình.
Ta bắt gặp tâm hồn thi nhân đang giao hòa với thiên nhiên trong Phong
cốc (Hang gió):
“Không cốc khu y nhập,
Thanh tiêu phất diện lai.
Huyền nham kinh hội trụy,
Chúng điểu tận phi hồi.
Thư khiếu độc hoản nhĩ,
Phi khâm chân khoái tai.”
(Vén áo vào hang trống,
Gió mát thổi lên mặt.
Vách đá cheo leo sợ có thể rơi xuống,
Đàn chim thảy đều bay về.
18
Hú lên, riêng mình mỉm cười,
Phanh áo, thật khoan khoái thay!)
Giữa không gian khoáng đạt, con người với tâm thế thanh nhàn, có thể
thả hồn vào thiên nhiên, “hú lên”, “mỉm cười” cùng trời đất nghĩa là con
người đã vươn tới tầm cao vũ trụ và tầm cao của tâm hồn. Khung cảnh nơi
đây giúp con người gột bỏ tất cả bụi bặm ngoài kia để đắm chìm trong không
khí của thiên nhiên. Có lẽ chính cảm hứng thiên nhiên đã gợi lên trong thi
nhân những rung động tinh tế. Qua con mắt nhà thơ, ngọn núi Tản vừa tôn lên
vẻ hùng vĩ, vừa mang vẻ đẹp nên thơ:
“Phiếm khả trung lưu vong,
Du nhiên kiến Tản san.
Du vân thôn thổ xứ,
Giai khí uất thông gian.”
(Thả thuyền giữa dòng trông xa xa,
Chợt thấy núi Tản Viên.
Nơi mây bay hút vào, đùn ra,
Chỗ khí lành giăng đầy)
(Chu trung vọng Tản Viên sơn - Trong thuyền
ngắm núi Tản Viên)
Thả thuyền đi dạo, từ xa nhà thơ “chợt thấy núi Tản Viên” hiện lên thật
kì vĩ, kì ảo với màu xanh biếc um tùm, những làn mây “hút vào”, “đùn ra”
từng tầng, từng lớp cộng hưởng với “khí lành giăng đầy” xung quanh. Nơi
đây tạo cho con người cảm giác chẳng phải chốn trần phàm mà giống như
chốn tiên cảnh nhân gian. Sự hùng vĩ của phong cảnh thiên nhiên ban tặng nơi
núi Tản còn được thể hiện qua ước muốn của con người:
“Hà đương lâm tuyệt đính,
Hồi thủ tiểu trần hoàn”
(Bao giờ lên đỉnh cao nhất?
Quay nhìn lại thấy cõi trần thật bé nhỏ.)
19
Hai câu thơ khiến chúng ta liên tưởng đến Khổng Tử trong một lần du
ngoạn núi Thái Sơn đã viết lên bức tường đá dòng chữ:
“Đăng Thái Sơn nhi tiểu thiên hạ’’
(Lên trên núi Thái Sơn thì thấy thiên hạ là bé nhỏ)
Con người với tâm hồn quản cả núi sông, đất trời: Lên cao không phải
để mọi người nhìn thấy mình mà để bản thân có thể nhìn rõ sự vật phía dưới.
Để thấy “cõi trần” tưởng như rộng lớn kia thực chất lại “bé nhỏ” khi nhìn từ
đỉnh núi cao. Vịnh về các danh lam thắng cảnh của đất nước, Nguyễn Án như
hòa với thiên nhiên để tìm sự thanh tĩnh, yên bình. Nhà thơ thả hồn mình
trong cảnh núi non, sông nước, lang thang du ngoạn khắp bốn phương tám
hướng để quên đi bao phiền lụy cuộc đời. Phải chăng, đó chính là ngọn gió
trong lành giữa cuộc đời gió bụi. Hòa trong ngòi bút của tác giả, người đọc
đến với chùa Vân Thụy - chốn Phật đường vừa cổ kính, vừa thơ mộng:
“Tang hải bách thiên cách,
Kỳ viên vô cổ câm.
Minh nguyệt cảnh đương tĩnh,
Lạc hoa khinh chuyển thâm. ”
(Dâu bể ngàn năm cách,
Vườn Kỳ nay vẫn xưa.
Trăng thanh soi cảnh tĩnh,
Đường nhỏ rụng đầy hoa.)
(Đề Khánh Vân thôn Vân Thụy tự - Thơ đề
chùa Vân Thụy thôn Khánh Vân)
Vãn cảnh chùa vào lúc “xuân vừa cuối”, nhà thơ thấy cảnh vật nơi đây
dù trải qua bao lần “bể dâu” nhưng vẫn như cũ, không thay đổi “Vườn Kỳ nay
vẫn xưa”. Cảnh chùa thơ mộng, gió mát, ánh trăng tỏa sáng khắp nơi “trăng
thanh soi cảnh tĩnh”, những cánh hoa bay phấp phới trong gió tạo nên “đường
nhỏ rụng đầy hoa”, thấp thoáng tiếng kêu “chim nhẩn nha”,... Trước cảnh đẹp
20
bình dị, mộc mạc và yên bình, tâm hồn con người như được thoát tục nơi chùa
chiền linh thiêng.
Trong bài Phiếm chu Tây Hồ (Thả thuyền Hồ Tây), ta tiếp tục bắt gặp
cảnh sông nước thơ mộng, nên thơ:
“Cô trạo y hi phiếm Nhược Dạ,
Trừng không tễ cảnh trạm thanh hoa.”
(Mái chèo lẻ loi hệt như thả thuyền vào chốn Nhược Dạ,
Trời trong, cảnh đẹp, hoa in dưới nước trong.)
Khung cảnh non nước hữu tình, mênh mông trời nước, trên thấy trời
cao in bóng trong xanh, dưới thấy “hoa in dưới nước trong”. Thả thuyền đi
dạo Hồ Tây mà thi nhân ngỡ mình lạc vào nơi có phong cảnh đẹp như chốn
Nhược Dạ trong thi ca cổ điển.
Như vậy, qua những bài thơ vịnh về thiên nhiên cảnh vật với những di
tích lịch sử hay danh lam thắng cảnh của đất nước, Nguyễn Án đã góp phần
tạo nên “phong cách thơ kỉ sự” đặc sắc cho thơ ca nước nhà cuối thế kỉ XVIII
- XIX. Những vần thơ đằm thắm thể hiện suy tư, chiêm nghiệm của thi nhân
trước thiên nhiên cảnh vật đất nước. Ðó cũng là niềm tự hào, là tình yêu thắm
thiết đối với cảnh sắc thiên nhiên, với non sông gấm vóc của Tổ quốc trong
tâm trí của nho sĩ trước giông bão thời đại. Cùng với đó, nhà thơ cũng bày tỏ
tâm trạng hoài niệm, buồn đau về giá trị của cái đẹp đang tàn phai, bị bao phủ
bởi lớp bụi trần gian.
2.2. Tâm sự của ngƣời trí thức nghèo
Bên cạnh những trang thơ viết về thiên nhiên cảnh vật, trong Phong
lâm minh lại thi tập, Nguyễn Án còn bày tỏ tâm sự của một nho sĩ nghèo nơi
cố kinh. Thi liệu trong thơ Nguyễn Án bắt nguồn từ những điều tai nghe mắt
thấy, hoặc do chính ông trực tiếp trải nghiệm. Bởi vậy, có nhiều bài thơ ông
viết về thời thế nhưng cũng chính là viết về cảnh ngộ của bản thân, về cuộc
21
đời chìm nổi, lạc lõng giữa xã hội. Nói cách khác, Nguyễn Án đã ngộ được
cái hữu hạn của cuộc đời con người hay cái vô thường của tạo vật “chao ôi,
mây trắng chó xanh biến đổi đi trong chớp mắt”.
Thơ Nguyễn Án vừa là con người, vừa là tâm hồn, vừa là công cụ để
ông tỏ lòng, giãi bày trên những trang giấy. Thời gian lưu lạc nơi, chứng
nghiệm những điều “tang thương” nên trong thơ ông mang nỗi cô đơn, cô
liêu, buồn tủi trước thời cuộc, nỗi niềm tiếc nuối... Mặc dù Nguyễn Án viết
nhiều về tâm sự nhưng đó đều là tâm sự buồn, cứ day dứt, và có dịp là nhà thơ
bày tỏ, thổ lộ.
2.2.1. Nỗi buồn trước thời cuộc
Thời thế suy loạn, từ những vấn đề của cuộc sống, xuất phát từ số phận của
bản thân, nhà thơ cũng bày tỏ nỗi buồn về nhân tình thế thái, về đời, về người.
Thơ Nguyễn Án miêu tả chân thực và phản ánh hiện thực rất sâu sắc.
Đấy là cuộc sống bần cùng của người dân đương thời mà nhà thơ có dịp tận
mắt chứng kiến:
“Tuế khiểm nhi thiên sấu,
Gia bần đạo miễn tăng.”
(Mùa mất, trẻ gầy yếu,
Nhà nghèo, trộm không màng.)
(Thôn cư xuân nhật tảo khởi - Ngày xuân ở
xóm quê, dậy sớm)
Hiện thực đau lòng bày ra trước mắt danh sĩ: nhân dân mất mùa, đói ăn
do hạn hán, lũ lụt, trẻ nhỏ “gầy yếu” chỉ còn da bọc xương. Những vần thơ tả
thực đến mức đọc lên, người đọc cảm thấy đau đớn, tê tái, buốt giá cõi lòng.
Câu thơ giống như tiếng kêu thảm thiết, lời tố cáo về cuộc sống khốn khổ, nhà
nghèo, rách nát đến nỗi “trộm không màng” của nhân dân trong xã hội loạn
lạc mà thiên tai lại bủa vây. Phản ánh hiện thực, Nguyễn Án không chỉ đứng ở
tâm thế ghi chép đơn thuần mà xen vào đó là trách nhiệm, nỗi niềm của một
22
nhà nho chứng kiến thực trạng buồn đau của đất nước. Vậy nên, chứng kiến
cảnh lũ lụt hoành hành, nhà thơ không kìm lòng được mà phải thốt lên:
“Vũ trướng hà đê quyết,
Ngô cư thành trạch hương.
Ngư long thời xuất một,
Nguyên dã cộng thương mang.
Tương tử kê thê ốc,
Y nhân khuyển thướng sàng.
Đông nam chư lộ thủy,
Văn đạo cánh kham thương.”
(Mưa dâng nước làm đê sông bị vỡ,
Chỗ ở của ta biến thành đầm.
Bấy giờ loài cá loài rồng lúc nổi lúc lặn,
Cánh đồng thảy dâng nước mênh mông.
Gà đưa con đậu trên mái nhà,
Chó theo người lên trên giường.
Nước lụt ở các lộ phía đông nam,
Nghe nói càng thảm thương hơn)
(Thủy lạo - Nước lụt)
Xưa nay, mối hiểm họa lớn nhất của đối với con người là thủy, hỏa, đạo
tặc. Giờ đây, lụt lội kéo theo mất mùa triền miên, trở thành nỗi ám ảnh thường
trực với người dân đồng bằng. Nhà thơ thuật lại tỉ mỉ những hậu quả do lũ lụt
gây ra: mưa nhiều làm nước dâng ngập nhà, ngập cửa, ngập trắng đồng “nước
mênh mông”, chỗ ở “biến thành đầm”, động vật theo người tìm nơi lánh nạn,...
Từng sống chung với lũ, chứng kiến hậu quả do nó gây ra nên Nguyễn Án thấu
hiểu, thấm thía nỗi khổ đau, thảm thương của người dân. Thu vào trong mắt nhà
thơ là hiện thực cuộc sống đau thương, nhức nhối, trật tự xã hội đảo lộn. Để rồi,
đến thăm nơi ở cũ của cố nhân nhà thơ trầm tư:
23
“Giao quynh nhất vọng ế hoang khư,
Tằng ký huân hiền thụ nghiệp sơ.
Tẩy mặc trì bình thanh thảo ám,
Than kinh thạch phá lục đài dư.
Cô trung vị giải đào viên hận,
Di cảo không tồn thế sử thư.
Yên các phù danh chung thị ảo,
Côn Sơn tùng cúc tự tiêu sơ.”
(Ngoài thành ngút mắt một gò hoang,
Thuở trước Văn hầu đã mở trường.
Ao rửa nghiên nay rờn cỏ biếc,
Đá phơi sách vỡ vệt rêu loang.
Lòng trung khôn giải “vườn đào” hận,
Dã sử ghi giùm “di bút” vương.
Danh hão Đài Mây thành chuyện ảo,
Côn Sơn tùng cúc tự thê lương.
(Quá Tế Văn hầu biệt nghiệp - Qua nơi ở cũ
của Tế Văn hầu)
Những vần thơ bày tỏ niềm cảm khái, ngậm ngùi, chua xót khi bậc vĩ
nhân, vị anh hùng dân tộc vĩ đại từng phò vua giúp nước phải chịu thảm án
oan khiên, thảm khốc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Giờ đây, nhà
thơ phải chứng kiến: dinh thự “biệt nghiệp” cao quý, sang trọng là nơi cố
nhân dạy học nay thành “gò hoang ngút mắt”, ao rửa nghiên mực phẳng lặng
“rờn cỏ biếc”, tảng đá phơi kinh sách “vỡ vệt rêu loang”, công danh ghi nơi
“Yên các” (Đài Mây) chỉ còn hư ảo. Người buồn cảnh cũng buồn, hoa cỏ héo
hon, úa tàn, tùng cúc chốn Côn Sơn đã “tự thê lương”. Tấm lòng trung thành
của người bề tôi vẫn chưa được hóa giải nỗi hận “vườn đào”, văn thơ đành
24
gửi gắm vào sử sách của thế nhân. Cảnh vật nơi đây khiến con người ta không
khỏi ngậm ngùi, xót xa cho số phận chủ nhân của nó.
Nỗi niềm đó còn được nhà thơ gửi gắm trong bài Thù Kiều Niên tống
biệt chi tác (Đáp lại bài “Tiễn biệt trên cầu Vân” của Kiều Niên):
“Quân bất kiến Ức Trai Văn hầu,
Công thành bất thoái duy khiên vưu.”
(Anh chẳng thấy Văn Hiếu hầu Ức Trai,
Công thành không lui tai vạ chuốc.)
Thật đúng như Nguyễn Du từng nói “Chữ tài liền với chữ tai một vần”,
người tài luôn bị ghen ghét, đố kị. Một bậc công thần hết lòng vì dân vì nước
nhưng không “công thành thân thoái”, không “minh triết bảo thân” mà bị kẻ
gian hãm hại, mắc họa tru di tam tộc, sự nghiệp tan vào mây khói. Cuộc đời
của Nguyễn Trãi như một điển hình, tượng trưng cho số phận đau đớn của
con người tài hoa trong xã hội cũ. Chính điều đó làm cho nhà thơ xúc động,
gửi gắm vào trang thơ tâm huyết của mình với cả một thế hệ. Ngoái nhìn về
tiền nhân, nhà thơ bày tỏ niềm chua chát khi người tài không được trọng
dụng, tầng lớp nho gia không được tôn trọng:
- “Dao lạc giang thiên thảo thụ hoàng,
Tha đà dục điểm kính trung sương.”
(Từ lâu đã biết đời loạn thì văn chương rẻ rúng,
Dừng than thở rằng cuộc phù sinh tung tích mịt mờ)
(Đông dạ túc Kiều Niên lưu biệt - Đêm đông
làm thơ lưu biệt Kiều Niên)
- “Lạc hậu thùy tri thế hữu nho”
(Sau loạn đâu người biết quý nhà nho)
(Thù Kiều Niên kiêm hoài Hoàng Lão Đỗ - Đáp
Kiều Niên và nhớ Hoàng Lão Đỗ)
25
Vốn biết đời loạn thì “văn chương rẻ rúng”, bị coi khinh nhưng trong
thi nhân vẫn trịu nặng nỗi buồn của một nhà nho bất lực trước thời cuộc. Thời
đại loạn lạc, nổi cơn “gió bụi” làm những người theo nghiệp nhà nho trở nên
bi quan trước số phận mịt mờ. Trước thực trạng cay đắng, nhà thơ bộc lộ
mong muốn tìm về chốn điền viên, làm bạn với thiên nhiên:
“Cựu nghiệp tạm từ tam kính trúc,
U cư thí ỷ bán vân sàng.
Hành mao hữu phận nhàn ngư điếu,
Tiểu án vô tâm bang trĩ tường.
Luyến ngã thanh sơn tần mộng tưởng,
Duy nhân bạch thủ thị văn chương.
Tôn tiền án tụng Dương Xuân điệu,
Dục tẩy trần khâm vạn hộc lường.”
(Nghiệp cũ tạm xa ba luống trúc,
Ẩn cư, ghé tựa nửa giường mây.
Cần buông, nhà cả vui đành phận,
Sẻ múa, cùng công ngại kết bầy.
Núi biếc lòng yêu thường mộng thấy,
Văn chương đầu bạc chính từ đây.
Dương Xuân, trước chén cung đàn dạo,
Rửa sạch lòng trần muôn hộc đầy.
(Thù Phạm Kiều Niên kiến ký - Đáp thơ
Phạm Kiều Niên gửi đến)
Thời trước, các bậc tiền nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng
từng cáo quan về ở ẩn lui về làm bạn với thú điền viên sơn thủy. Ngày nay,
chứng kiến thời cuộc nổi cơn phong ba, thế sự khổ đau, Nguyễn Án cũng học
các bậc tiền nhân lui về với ba hàng tùng trúc, hòa mình với thiên nhiên, với
cuộc sống ẩn cư “ghé tựa nửa giường mây”, vui thú “cần buông”, nâng chén
rượu thưởng trăng, ngâm điệu Dương Xuân để quên hết mọi sầu đau đang
26
diễn ra ngoài kia. Thế nhưng với một người luôn “tâm không nhàn mà thân
cũng không nhàn” như Nguyễn Án thì chuyện đó chẳng phải dễ dàng.
Có thể nói, thơ Nguyễn Án thấm đượm nỗi sầu của nhà nho trước thời
cuộc. Đấy là nỗi buồn khi chứng kiến cuộc sống đói khổ, bần hàn của nhân
dân, trật tự xã hội bị đảo lộn, người tài hoa lỗi lạc, công trạng to lớn với dân
với nước cuối cùng bị ruồng rẫy, mắc phải tai họa diệt thân.
2.2.2. Nỗi buồn trước cuộc sống của bản thân
Trong nhiều bài thơ, Nguyễn Án thể hiện nỗi buồn về xã hội loạn li, gia
cảnh khó khăn chỉ mong về với chốn thiên nhiên, điền dã. Tuy nhiên, Nguyễn
Án không có được tâm hồn thanh thản như các bậc cố nhân bởi nỗi lo cơm áo,
gạo tiền.
Bao trùm trong tập thơ, Nguyễn Án nói nhiều đến cuộc sống ẩn cư,
hoàn cảnh nghèo khổ, gian nan, chìm nổi và lưu lạc của mình tại đất Thăng
Long. Trong bài Xuân mộ hoài ký Kiều Niên - Kì nhất (Cuối xuân viết về nỗi
lòng gửi Kiều Niên - Bài 1), nhà thơ xót xa cho hiện thực cuộc sống của bản
thân nơi cố đô:
“U thê hồ thượng tuyệt phân hiêu,
Sổ quyền tàn thư bạn tịch liêu.
Tệ trạch bán hoang tài dược phố,
Cố kinh ngũ kiến lạc hoa triêu.
Hạnh phong du vũ ky hoài cố,
Bích thủy thanh sơn quy mộng diêu.
Lãn phóng doãn biền thời cộng khí,
Sách cư sầu tự tối vô liêu.”
(Ẩn cư bên hồ, cách biệt với mọi ồn ã,
Vài cuốn sách nát làm bạn với cảnh tịch liêu.
Nhà nát cửa bỏ hoang, trồng vườn thuốc,
Kinh đô xưa, năm lần thấy hoa rụng buổi sáng.
27
Gió cây hạnh, mưa cành du gợi nỗi buồn lữ khách xưa,
Nước biếc non xanh giấc mộng trở về xa xăm.
Lười nhác buông trôi hay gắng gỏi nay đều vứt bỏ,
Nỗi buồn ở ẩn thật là buồn tênh.)
Trải qua cuộc sống gian nan, thiếu thốn, người lữ khách ở ẩn nơi cố
kinh với tâm thế cô đơn “cách biệt mọi ồn ã”, gia cảnh khó khăn “nhà nát cửa
bỏ hoang”, làm bạn với “cảnh tịch liêu”, tìm niềm khuây lãng từ “vài cuốn
sách nát”. Nhìn cảnh vật xung quanh “hoa rụng”, “gió cây hạnh”, “mưa cành
du”, trong ông lại gợi lên nỗi buồn, nỗi nhớ, giấc mộng xa xăm về Kinh đô
cũ. Theo lẽ tự nhiên, con người tìm về nơi ẩn cư để tìm niềm vui với thiên
nhiên, để tâm hồn thanh thản nhưng với Nguyễn Án chốn ở ẩn lại “thật là
buồn tênh”. Cũng bởi cuộc sống mưu sinh nên cái tâm nhà thơ luôn rầu rĩ,
không thanh nhàn:
“Bất duyên can lợi dữ can danh,
Ngũ tải yêm lưu khách cố kinh.
Thập khẩu phù gia do ký thực,
Nhất triền tựu địa ký nghiêm chinh.
Cùng thu thủy giác thanh sam lãnh,
Cựu lữ không hàn bạch lộ minh.
Tá vấn u cư thùy thị bạn,
Dạ thâm quán thủ duyệt Đan kinh.”
(Chẳng vì cầu lợi với cầu danh,
Mà đã năm năm lưu đế kinh.
Mười miệng lênh đênh nhà ở đậu,
Một khoanh đất mướn thuế dồn nhanh.
Cuối thu áo mỏng hay trời lạnh,
Bạn cũ nguyền xưa nhạt thế tình.
28
Ướm hỏi u cư, ai đấy bạn,
Đêm sâu đọc hết bộ Đan kinh.
(Cảm hoài, Kì nhất - Cảm hoài, Bài 1)
Quy luật cuộc đời con người có thăng, có giáng song Nguyễn Án vẫn
ngậm ngùi chua xót cho số mệnh đau thương của mình trong xã hội tao loạn.
Cuộc sống ở chốn Kinh thành “chẳng vì cầu lợi, cầu danh” vẫn khó khăn,
túng thiếu “lênh đênh nhà ở đậu”, “thuế dồn nhanh”, tình bạn khi xưa đã
“nhạt thế tình” không biết ai là bạn. Nhà thơ vừa ca thán, than thở về sự
nghèo khổ, vừa cất lên những dòng thơ bộc lộ tâm trạng day dứt về trách
nhiệm của mình với gia đình, người thân. Có lẽ, cuộc sống bần hàn khiến ông
trăn trở, đấu tranh giữa “đi - ở”:
“Tân thấp xuy yên lãnh,
Hồ càn bạc tửu xa.
Thốn tâm vị khứ tựu,
Thập tải khách kinh hoa.”
(Củi ướt, bếp không khói,
Bình khô, dốc rượu xoàng.
Đô thành, mười năm khách,
Đi ở đều dở dang)
(U trai đối vũ - Từ trai phòng u tịch ngắm mưa)
Theo quan niệm phong kiến xưa, một nhà nho phải lấy sự nghiệp khoa
bảng để thể hiện hoài bão, lí tưởng. Nguyễn Án là một nho sĩ có tài, mang
trong mình lí tưởng lớn nhưng sinh ra không hợp thời. Thi nhân cũng giống
với các bậc hiền tài xưa, sống cuộc đời ở ẩn, dùng thơ văn, đàn hát, chén rượu
để trải lòng, để tiêu sầu. Song, cuộc sống tẻ nhạt, lạnh lẽo, nghèo khó nơi đất
khách “Củi ướt, bếp không khói”, “Bình khô, dốc rượu xoàng” nên ông không
được thanh thản như các bậc tiền bối xưa. Bởi vậy, có lúc người đọc bắt gặp
sự trăn trở, mâu thuẫn, giằng co nội tâm giữa “đi - ở”, rời xa hay ở lại chốn đô
29
thành. Không gian sương thu giăng, gió nổi, mưa bay,... càng gợi lên nỗi
buồn, sự giằng xé trong thâm tâm con người mười năm làm khách nơi đô
thành. Dường như, đó là sự cảm thương của nhà nho trước những thay đổi của
cuộc đời, cảm thương cho số phận “con ong cái kiến”, nỗi buồn mất phương
hướng, mất niềm tin vào lí tưởng giúp vua, trợ dân “trí quân trạch dân”, thậm
chí phải trốn vào Đạo, vào Lão:
“Loạn hậu phù sinh nhược chuế vưu,
Vong tình thiên ái độc Trang Chu.
Xa trần mã tích kinh tàn mộng,
Dược phố hoa viên ức cựu du.
Thế sự kham bi đầu bạch tảo,
Vinh danh an dụng hãn thanh lưu.
Thiềm tiền thả tận nhất tôn tửu,
Đối nguyệt cao ca túy vị hưu.”
(Sau loạn phù sinh kiếp sống dư,
Vui buồn quên hết đọc Trang Chu.
Ngựa xe cuốn bụi xua tan mộng,
Hoa thuốc đầy vườn nhớ bạn xưa.
Sự thế đáng buồn đầu sớm bạc,
Sử xanh còn hão, tiếng tăm ư?
Trước thềm hãy cạn vài ba chén,
Đối nguyệt cao ca say ngất ngư.)
(Cảm hoài, Kì nhị - Cảm hoài, Bài 2)
Trước ngã ba đường không nơi nương tựa, “kiếp sống dư” như “núm
thịt thừa”, chỉ mong trốn vào Đạo để quên hết mọi tâm sự nhưng chớ trêu
thay bụi xe, vó ngựa kia lại “xua tan mộng”. Nhìn cảnh vật xung quanh, vườn
thuốc, luống hoa, nhà thơ lại nhớ cuộc du sơn ngoạn thủy xưa cùng những
người bạn, nghĩ đến thế sự đáng buồn “đầu sớm bạc”. Tâm trạng cô đơn, chán
30
chường, không màng danh lợi, thi nhân lại tìm đến rượu giải sầu, bầu bạn với
trăng, cất tiếng ca giãi bày nỗi lòng:
“Lập công chung tịch mịch,
Học tiên diệc hoang đường.
Hà như thạch thượng nguyệt,
Đối ảnh túy phi thương.”
(Lập công, cqhẳng nên việc,
Học tiên, chuyện hoang đường!
Sao bằng ngồi trên đá,
Đối bóng say cùng trăng.)
(Bộ nguyệt - Rảo bước dưới trăng)
Đêm hè, nhà thơ tản bộ dưới ánh trăng mà ngẫm về bản thân mình. Thời
buổi chính sự loạn lạc, rối ren, công danh cũng “chẳng nên việc”, chuyện học
theo tiên nhân cũng chỉ là “hoang đường”. Vậy nên, thi nhân tìm niềm khuây
lãng cho mình bằng cách ngồi trên phiếm đá “Đối bóng say cùng trăng”.
Không chỉ ngồi uống rượu bên ánh trăng tàn với lòng nặng trĩu tâm tư,
nhà thơ cũng có giây phút thư thái, nhàn hạ. Giây phút ấy được nhà thơ thể
hiện trong bài Hồi kinh Thụy Chương tự tỵ vũ (Trên đường về vào chùa trú
mưa tại chùa Thụy Chương):
“Khách tử chinh sam thấp,
Ngư nhân điếu đĩnh hồi.
Sa âu hồn bất giác,
Phiếm phiếm lục tần ôi.”
(Áo khách mưa dầm ướt,
Thuyền về chèo nhẹ khua.
Chim âu riêng chẳng quản,
Quanh khóm rau lượn lờ)
Thế sự phiền lụy, đáng buồn, ta không còn bắt gặp hình ảnh con người
cô đơn bên chén rượu, bầu bạn với trăng sao để quên sầu. Nhà thơ ước tâm trí
31
mình thư thái, thanh nhàn, giống như loài chim âu kia vô lo vô nghĩ, chẳng
quản đến cơn mưa giăng mờ lưng chừng trời, vẫn cứ mải “lượn lờ” quanh
khóm rau. Ước nguyện là vậy, song trong tâm nhà thơ vẫn mang nỗi sầu trước
số phận nghèo khổ nơi đất khách.
Tóm lại, không lúc nào Nguyễn Án rời xa vận mệnh đất nước. Bởi vậy,
tâm sự về thời thế là một trong những chủ đề chính trong thơ người trí thức
nghèo. Nội dung này biểu hiện khá đa dạng. Năm tháng qua đi, trong tâm hồn
nhà thơ nỗi buồn vì nước vì dân vẫn cứ trào dâng, thổn thức. Trong ông cũng
luôn tồn tại tâm sự của nhà nho nghèo bất lực trước thời đại suy loạn, về cuộc
sống ẩn cư khó khăn nơi cố kinh luôn giằng xé sâu thẳm trong nội tâm.
2.3. Tình bạn - tri âm tri kỉ
Có lẽ càng buồn, con người ta càng khao khát tìm người để chia sẻ. Bởi
vậy, Nguyễn Án tìm đến những người bạn tri âm, tri kỉ để giải bày. Đây cũng
là một nội dung lớn trong tập thơ Phong lâm minh lại thi tập của thi nhân.
Tình bạn - tri âm trỉ kỉ của Nguyễn Án chảy trong khá nhiều bài thơ. Có bài ít
bài nhiều, có bài chỉ một vài câu nhưng cũng có khi toàn bài. Với nhà thơ,
tình bạn tri âm tri kỉ như nguồn sinh lực nuôi dưỡng tâm hồn ông. Cũng như
mạch thơ viết về thiên nhiên cảnh vật và tâm sự của người trí thức nghèo, thơ
về tình bạn - tri âm tri kỉ của Nguyễn Án cũng chứa đựng nỗi sầu. Khi là nỗi
sâu thăm thẳm, khi là nỗi sầu trào dâng nước mắt làm lay động tâm hồn,
khiến người đọc đồng cảm, xót xa.
Trong Phong lâm minh lại thi tập, Nguyễn Án viết khá nhiều bài thơ
dành cho những người bạn tâm giao nhất là Phạm Kiều Niên. Phạm Kiều
Niên, tức Phạm Đình Hổ - một trong những người bạn thân nhất của Nguyễn
Án và là người viết chung Tang thương ngẫu lục với nhà thơ (khóa luận đã
giới thiệu ở mục 1.2). Thơ Nguyễn Án thường hay nhắc đến Kiều Niên. Cũng
chỉ với những người bạn tri kỉ, Nguyễn Án mới tìm được sự đồng cảm, mới
thỏa nguyện được nỗi niềm chất chứa trong lòng:
32
“Độc tọa hàn đăng túy trọc lao,
Kê minh tàn dạ nguyệt sơ cao.
Đoản trường nhiệm phận an phù hạc,
Phủ ngưỡng tùy nhân tạ cát cao.
Khách tứ khả kham đàn kiếm hiệp,
Cùng sầu cộng giải độc Ly tao.
Hồ sơn ẩn ước Thương châu thú,
Đồ tiễn thùy can điếu cự ngao.”
(Ngồi một mình trước ngọn đèn lạnh, say rượu nồng,
Gà gáy, đêm sắp tàn, trăng mới lên cao.
Dài ngắn, mặc số phận, yên lòng với chuyện chân le, chân hạc,
Cúi xuống, ngẩng lên theo người, hãy cảm ơn cái cần lấy nước.
Nỗi niềm lẽ khách, có lẽ chấp nhận việc vỗ chuôi kiếm,
Sầu trong cảnh khốn cùng thì cùng hiểu là nên đọc Ly tao.
Núi hồ thấp thoáng có thú vui của đất Thương châu,
Thảy hâm mộ việc buông câu bắt con ngao lớn.)
(Dạ tọa thư hoài thị nhất nhị tri kỉ - Đêm đông ngồi
viết về nỗi lòng giãi bày với một vài người bạn tri kỉ)
Xuất hiện trong tư thế cô đơn, lặng lẽ, trầm ngâm, say chén rượu nồng,
đối diện với “ngọn đèn lạnh” cũng lặng lẽ, trầm ngâm như thế, thi nhân trải
lòng qua những vần thơ tâm sự với những người bạn tri kỉ. Đó là những tâm sự
chung của các nhà nho bất lực, cay đắng trước số phận, trước cảnh đời loạn lạc:
“Cùng đồ bạch phát không tao thủ,
Thế lộ truy trần vị phất y.
Cộng thán sinh nhai đồng lạc diệp,
Niên niên xuy hướng đế thành phi. ”
(Đường cùng, tóc bạc, luống gãi đầu,
33
Đường đời, bụi bẩn, chưa thể phủi áo.
Cùng than cuộc sống như lá rụng,
Liền năm theo gió thổi bay về nơi đế thành)
(Thù Kiều Niên kiến ký - Đáp thơ Kiều Niên gửi đến)
Những vần thơ trữ tình chứa đựng tình cảm chân thành, đằm thắm. Đọc
lên, người đọc vừa cảm nhận được tâm tư của người viết, vừa cảm nhận được
tình bạn thân tình, thắm thiết, sự đồng cảm về “cuộc sống như lá rụng”, mặc
cho “gió thổi bay” về chốn đế thành. Cám cảnh số phận long đong, trôi dạt,
nhà thơ lại nhớ đến những người bạn tri kỉ:
“Tạc dạ thu thanh đáo tỉnh ngô,
Thăng Long thành ngoại nguyệt luân cô.
...
Sách cư ý tự không trù trướng,
Dật Thiếu trì biên nhập mộng vô?”
(Đêm qua tiếng gió thu truyền đến cây ngô đồng bên giếng,
Ngoài thành Thăng Long, vành trăng lẻ bóng.
...
Ở một mình, tâm ý luống rầu rĩ,
Chuyện bên ao Dật Thiếu liệu có đi vào giấc mộng hay không?)
(Thù Kiều Niên kiêm hoài Hoàng Lão Đỗ, Kì nhất -
Đáp Kiều Niên và nhớ Hoàng Lão Đỗ, Bài 1)
Hoàng Lão Đỗ tức Hoàng Hy Đỗ, là người có tài về thư pháp. Nguyễn
Án biết ông qua Phạm Đình Hổ rồi trở thành chỗ bạn bè tri giao. Trong chùm
hai bài thơ Thù Kiều Niên kiêm hoài Hoàng Lão Đỗ, Nguyễn Án cất lên
những vần thơ chia sẻ nỗi sầu, nỗi cô đơn “tâm ý luống rầu rĩ”, cuộc sống “cỏ
bồng phiêu dạt” nơi Thăng Long với hai người bạn. Bởi bạn già cùng lứa nên
họ dễ dàng tìm được sự đồng cảm để sẻ chia tâm sự, để mạn đàm, an ủi. Phải
34
chăng vì tình bạn tri âm tri kỉ, gắn bó mật thiết nên khi xa Kiều Niên, Nguyễn
Án ngậm ngùi không lỡ:
“Lâm kì đa khiển quyển,
Huy thủ phục trù trừ.
Tùng cúc quy lai dị,
Cầm tôn biệt hậu sơ.
Cố giao trường dẫn lĩnh,
Mạc khiển oán li cự.”
(Chia đường nhiều bịn rịn,
Tay vẫy thêm ngại ngùng.
Tùng cúc về đã khác,
Chén đàn khó trùng phùng.
Cố nhân ngóng theo mãi,
Chớ để buồn nhớ nhung.)
(Tiễn Kiều Niên đông quy cố viên - Tiễn Kiều
Niên về vườn cũ phía đông
Tiễn Kiều Niên về ở quê cũ, Nguyễn Án luyến tiếc không lỡ rời xa “bịn
rịn”, “tay vẫy ngại ngùng”, nghển cổ “ngóng theo mãi” khi cách biệt. Sau
cuộc chia li, không biết khi nào hai người tri kỉ mới có cơ hội gặp lại bên cây
đàn, chén rượu “Chén đàn khó trùng phùng”. Vì thế, giây phút chia li giữa hai
người bạn trở nên đáng quý, trân trọng biết bao. Vắng người bạn tri kỉ, lòng
Nguyễn Án không tránh khỏi nỗi buồn, nỗi nhớ. Có lẽ chính nỗi nhớ, nỗi cô
đơn đã thôi thúc thi nhân về thăm nơi ở của Kiều Niên:
“Tiện tử thanh chiên nhàn học quán,
Thán dư bạch phát lữ kinh hoa.
Điêu li mạt kĩ thành vô dụng,
Bình ngạnh phù sinh khả nại hà?
35
Thế sự tĩnh tư quy khứ hảo,
Thanh sơn cộng chủng Thiệu Bình qua.”
(Nhà học, nệm xanh thầm phục bác,
Kinh thành, lữ khách thẹn thân này.
Văn chương, tài mọn thành vô dụng,
Cuộc sống bèo mây sao nữa đây?
Lặng lẽ mà suy “về” tốt nhất,
Cùng trồng dưa Thiệu, núi xanh dày.)
(Tái phỏng Kiều Niên mông quán - Lại thăm
nhà học của Kiều Niên)
Ngưỡng mộ cuộc sống bình dị, mộc mạc, thảnh thơi của Kiều Niên “nệm
xanh thầm phục bác” Nguyễn Án cảm thấy “thẹn thân này” khi tuổi già vẫn
phải làm kẻ lữ khách ẩn cư. Đến thăm Kiều Niên, Nguyễn Án tiếp tục được
giãi bày, thỏa hết nỗi niềm tâm sự chất chứa vơi đầy trong lòng bấy lâu. Bởi họ
đều là những người bạn tri kỉ, người trí thức mang trong mình lòng nhiệt huyết
với nước, với dân dẫu biết “tài mọn thành vô dụng” giữa thời thế đổi thay nhiễu
nhương. Thế nên, cả hai đều mong muốn hòa mình với thiên nhiên, vui thú
điền viên “Cùng trồng dưa Thiệu, núi xanh dày”. Thật là một cuộc sống thanh
cao chẳng khác gì họ Đào, lánh đục tìm trong như Khuất Nguyên.
Ngoài ra, Nguyễn Án còn có một số bài thơ tặng, tiễn đưa hay họa thơ
với những người bạn khác: Tống Phan Hoành Hải điệp sơn xứ quán, Đáp
Ninh Qúy Hoằng kiến tặng, Tặng cữu Bí thư quân lị Thanh Liêm Hữu Đường,
Họa Lê Thụy Tâm lưu biệt chi tác,...:
“Thi lễ văn chương thiệu Lý đình,
Nam châu tác tể nhận tân hình.
...
Lợi danh nhị tự quân tu ký,
Vật yếm thanh bần hoạn thác khinh.”
36
(Thi lễ văn chương nối theo truyền thống gia đình,
Làm quan tể ở Nam châu, như lưỡi dao mới mài.
...
Lợi danh hai chữ mong cậu nhớ,
Chớ chán cảnh thanh bần, túi quan hãy nhẹ tênh.)
Những vần thơ thể hiện tình cảm chân thành, tinh tế của thi nhân. Vừa
bộc lộ nỗi niềm, sự trải nghiệm, vừa bộc lộ lời khuyên sâu sắc xuất phát từ
đáy lòng của thi nhân với người bạn.
Trong thơ Nguyễn Án, tình bạn - tri âm tri kỉ được thể hiện qua những
trang thơ tâm sự. Đó là tâm sự của riêng tác giả nhưng cũng là tâm sự chung
của những trí thức đương thời bất lực trước cảnh chính sự đổ nát, chỉ mong
lui về với chốn tùng cúc, vui thú điền viên, thả hồn vào thiên nhiên.
Tiểu kết chương 2
Tóm lại, với Phong lâm minh lại thi tập, Nguyễn Án tập trung vào ba
nội dung chính. Đó là thiên nhiên cảnh vật, tâm sự về thời thế của người trí
thức nghèo và mạch thơ tình bạn - tri âm tri kỉ. Viết về thiên nhiên cảnh vật,
Nguyễn Án phác họa vẻ đẹp của chính nó mà không chứa nghĩa hàm ẩn đồng
thời đan xen trong đó là tấm lòng yêu non sông đất nước. Với mạch thơ tâm
sự, ông thể hiện nỗi buồn của con người bất lực, của một nhà nho ẩn cư
nhưng chưa quên hẳn việc đời. Trong mạch thơ tình bạn, nhà thơ giãi bày
những tâm tư, tình cảm qua những vần thơ trữ tình, chân thành, đằm thắm. Vì
vậy, bạn đọc cần tìm hiểu cả ba nội dung trên để hiểu rõ và đầy đủ hơn về thơ
ca Nguyễn Án.
37
Chƣơng 3. PHONG LÂM MINH LẠI THI TẬP NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
Để làm nên thành công về nội dung, Nguyễn Án đã vận dụng nhiều yếu
tố nghệ thuật. Tuy nhiên, tác giả khóa luận xin được khảo sát một số phương
diện nghệ thuật nổi bật: hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ, thời gian nghệ thuật và
không gian nghệ thuật.
3.1. Hình ảnh thơ
Hình ảnh đóng một vai trò quan trọng trong việc diễn đạt của văn
chương cũng như trong các ngành nghệ thuật khác. Có nhiều cách định nghĩa
về hình ảnh song khóa luận xin được trích dẫn một số định nghĩa sau:
Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Hình ảnh là hình người, vật, cảnh
tượng để lại ấn tượng nhất định và tái hiện được trong trí óc” [9, tr.425].
Từ điển Hán - Việt lại cho rằng: “Hình ảnh là ấn tượng của con người,
sự vật phản ánh trong trí não hoặc trong tác phẩm nghệ thuật” [2, tr.25].
Có thể hiểu, hình ảnh trong thơ ca, văn chương là hình ảnh của sự vật, con
người bên ngoài đời sống được nhà văn, nhà thơ chọn lọc, tái hiện bên trong tác
phẩm bằng phương tiện ngôn từ nhằm tăng khả năng diễn đạt nội tâm. Bởi vậy,
khám phá hình ảnh trong tác phẩm văn học cũng chính là một con đường để
giải mã tư tưởng, tình cảm, cảm xúc mà nhà thơ, nhà văn gửi gắm trong
đó. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng hình ảnh mà Nguyễn Án sử dụng
chủ yếu trong Phong lâm minh lại thi tập là hình ảnh thiên nhiên cảnh vật và
hình ảnh con người.
3.1.1. Hình ảnh thiên nhiên cảnh vật
Hình ảnh thiên nhiên cảnh vật trong thơ Nguyễn Án bắt gặp khá nhiều.
Đây cũng là đề tài quen thuộc trong thơ ca từ xưa đến nay. Đi vào vũ trụ văn
chương của cha ông, người đọc như được sống trong thế giới tạo vật non nước
hữu tình vừa tĩnhh lặng vừa hoành tráng mà thiên nhiên mang lại. Bởi họ quan
38
niệm thiên nhiên là nơi để chiêm ngưỡng, để giao hòa và để chuyển tải tâm trạng
chủ thể trữ tình. Hình ảnh thiên nhiên trong Phong lâm minh lại thi tập hiện lên
kì vĩ, bao la: vừa có độ cao rộng, vừa có chiều sâu thăm thẳm, có đường nét,
hình khối, có màu sắc, có âm thanh,... Hơn cả, thiên nhiên hiện lên không chỉ ở
trạng thái tĩnh tại, nguyên sơ mà còn sống động.
Đó là hình ảnh núi non hùng vĩ, hiểm trở trên đường lên chùa Thiên
Phúc tọa lạc: “Nham thạch câu y liệt” (Vách đá móc rách áo) (Thiên Phúc biệt
tự), của hang Gió “Huyền nham kinh hội trụy” (Vách đá cheo leo sợ có thể
rơi xuống) (Phong cốc). Các hình ảnh vách đá “móc rách áo”, “cheo leo” giúp
chúng ta hình dung dáng vẻ, thế đứng của núi. Đó là những ngọn núi có độ
cao, hiểm trở và cheo leo, khiến con người luôn có cảm giác sợ hãi, bất cứ lúc
nào cũng có thể rơi xuống dưới.
Núi trong bài Thiên thị phong cũng tạo nên vẻ kì vĩ khi xếp thành tầng
tầng lớp lớp: “Ỷ thạch bình lâm điệp chướng huyền” (Tựa đá nhìn ngang tầng
núi dựng đứng).
Hình ảnh ngọn núi Tản Viên (Chu trung vọng Tản Viên sơn) hùng vĩ,
thơ mộng như chốn tiên cảnh:
“Du vân thôn thổ xứ,
Giai khí uất thông gian.”
(Nơi mây bay hút vào, đùn ra,
Chỗ lành khí giăng đây.)
Đối lập với sự hùng vĩ của núi Tản và đỉnh Chợ Trời là hình ảnh mềm
mại, uyển chuyển của núi Thiên Thai:
“Yểu điệu Thai xuất tú”
(Núi Thiên Thai lộ vẻ đẹp mềm mại)
Kết hợp hình ảnh núi non là hình ảnh sông nước, ao hồ. Khi là sông
nước dưới núi, khi ao hồ... tất cả tạo nên vẻ đẹp cùng núi non, hữu tình của
thiên nhiên.
39
Sông trong bài Thiên thị phong đẹp như một dải lụa trắng bồng bềnh
thấp thoáng dưới chân núi “Ẩn ẩn giang lưu phù tố luyện” (Sông chảy ẩn hiện
như dải lụa trắng bồng bềnh).
Cùng mang vẻ đẹp đó là hình ảnh sông Thiên Đức trong trẻo, quanh co
uốn lượn dưới chân núi:
“Hồi hoàn Đức thủy thanh”
(Sông Thiên Đức trong trẻo chảy quanh co)
Hay hình ảnh hồ Tây với cảnh sắc đẹp đẽ, trời trong xanh, nước trong
veo, bóng hoa in dưới nước tạo nên bức tranh thủy mặc:
“Cô trạo y hi phiếm Nhược Dạ,
Trừng không tễ cảnh trạm thanh hoa.”
(Mái chèo lẻ loi hệt như thả thuyền vào chốn Nhược Dạ,
Trời trong, cảnh đẹp, hoa in dưới nước trong.)
(Phiếm chu Tây Hồ - Thả thuyền Hồ Tây)
Bên cạnh hình ảnh sông núi, Phong lâm minh lại thi tập của Nguyễn
Án còn đầy ắp hình ảnh chùa chiền, đền miếu.
Là cảnh chùa Thiên Phúc tọa lạc trên núi Phật Tích với cảnh sắc kì ảo,
lung linh:
“Cám vũ vân khai ỷ thúy bình,
Lâu đài đảo trám bích ba tình.”
(Chùa phật mở ra trong mây, dựa vào bình phong màu
cánh chả,
Lâu đài lộn bóng in xuống làn sóng xanh biếc)
(Phật Tích sơn Thiên Phúc tự - Chùa
Thiên Phúc trên núi Phật Tích)
Hình ảnh ngôi chùa giống như tòa lâu đài hiện ra sau màn mây bao phủ.
Xung quanh chùa là núi non, sông nước, mây trời, đàn cá, hoa cỏ... hòa quyện
với nhau tạo nên khung cảnh rộng lớn, vừa nguyên sơ lại vừa lung linh, kì ảo.
40
Không giống với chùa Thiên Phúc, chùa Tây Phương tuy cũng chiếm
cảnh đẹp ở phía tây nhưng lại rơi vào cảnh bị quên lãng: “Bá đồ chung tịch
mịch” (Cơ đồ của bậc đế vương rốt cục rơi vào lặng lẽ) (Câu Lậu sơn Tây
Phương tự).
Cùng chung tình trạng đấy là nhà thờ Tế Văn hầu tiêu điều, hoang phế:
“Hoang lương từ miếu Tô giang thượng,
Hoa lạc tàn bi nhất điểu minh.”
(Đền miếu hoang vắng trên dòng sông Tô,
Hoa rụng, bia vỡ, một tiếng chim hót.)
(Phỏng Tế văn hầu từ đường - Thăm nhà
thờ Tế Văn hầu)
Qua hình ảnh thiên nhiên cảnh vật, Nguyễn Án thể hiện tình yêu với
những danh lam thắng cảnh, niềm cảm khái với di tích văn hóa, nơi thờ kính
thiêng liêng vị anh hùng của dân tộc mà nay đã hoang phế, chôn vùi bởi lớp
bụi trần gian, bị người đời quên lãng.
3.1.2. Hình ảnh con người
Đan xen với hình ảnh thiên nhiên là hình ảnh con người. Trong thi tập,
chúng ta bắt gặp đầy ắp hình ảnh của chính nhà thơ. Nguyễn Án tự họa chân
dung của chính mình và mỗi lần lại hiện hữu không giống nhau.
Là hình ảnh thi nhân với mái tóc rối như cỏ bồng, áo trắng bám đầy
bụi đen:
“Phi bồng loạn kì mấn,
Truy trần lưu tố y.”
(Tóc mai như cỏ bồng bay rối
Bụi đen bám đầy áo trắng)
(Thù Hoành Hải kiến thị Sĩ Trai ký - Đáp Hoành Hải
nhân được cho xem bài ký về Sĩ Trai)
41
Có khi là bức chân dung tự họa được vẽ lên bởi tâm trạng cô đơn, lẻ loi
buồn bã trong đêm:
“Thế sự kham bi đầu bạch tảo,
Vinh danh an dụng hãn thanh lưu.
Thiềm tiền thả tận nhất tôn tửu,
Đối nguyệt cao ca túy vị hưu.”
(Sự thế đáng buồn đầu sớm bạc,
Sử xanh còn hão, tiếng tăm ư?
Trước thềm hãy cạn vài ba chén,
Đối nguyệt cao ca say ngất ngư.)
(Cảm hoài, Kì nhị - Cảm hoài, Bài 2)
Giữa màn đêm tĩnh lặng, hình ảnh thi nhân với mái tóc bạc cô độc, trăn
trở vì thời cuộc loạn lạc, không biết ngỏ cùng ai đành tìm đến chén rượu để
tiêu sầu, gửi gắm niềm tâm sự cùng ánh trăng.
Cũng có khi chúng ta bắt gặp hình ảnh nhà thơ buồn tủi khi phải chịu
cảnh sống ẩn cư nghèo khó, lênh đênh, túng thiếu nơi cố kinh:
“Bất duyên can lợi dữ can danh,
Ngũ tải yêm lưu khách cố kinh.
Thập khẩu phù gia do ký thực,
Nhất triền tựu địa ký nghiêm chinh.”
(Chẳng vì cầu lợi với cầu danh,
Mà đã năm năm lưu đế kinh.
Mười miệng lênh đênh nhà ở đậu,
Một khoanh đất mướn thuế dồn nhanh.)
(Cảm hoài, Kì nhất - Cảm hoài, Bài 1)
Những hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, bộc lộ tâm sự, nỗi niềm thế cuộc,
nỗi niềm về cuộc sống ẩn cư nghèo khó của nhà nho có tài nhưng bất lực lui
về ở ẩn. Đây cũng là hai hình ảnh mà chúng ta bắt gặp rất nhiều trong tập thơ
của thi sĩ.
42
Ngoài hình ảnh con người giàu tâm sự, cũng có lúc người đọc bắt gặp
hình ảnh thi nhân rạng rỡ, tươi cười, hòa mình giữa thiên nhiên trong tâm thế
thư thái, thanh nhàn, khoan khoái:
“Thư khiếu độc hoản nhĩ,
Phi khâm chân khoái tai.”
(Hú lên, riêng mình mỉm cười,
Phanh áo, thật khoan khoái thay!)
(Phong cốc - Hang Gió)
Thấp thoáng trong thơ Nguyễn Án còn có hình ảnh của những cô gái.
Đó là hình ảnh nàng ca kĩ có dáng người mỏng manh, gầy guộc, có tài ca hát,
nhảy múa nức tiếng một thời nơi lầu hồng ai cũng biết trong bài Nghĩ Tượng
Xuyên Phan tổng sự hoài ca kĩ Thanh Nữ tòng lương (Phỏng lời tổng sự họ
Phan ở Tượng Xuyên nhớ ca kĩ Thanh Nữ hoàn lương):
- “Dương liễu anh đào thể thái khinh,
Hồng lâu ca vũ cộng tri danh.”
(Dương liễu, anh đào, dáng vẻ mỏng manh,
Tài ca múa nơi lầu hồng mọi người đều biết tiếng.)
- “Bất kham sấu ảnh lý tàn trang,
Tiễu ỷ đông phong biệt hận tràng.
Luân lạc thử sinh thành ngộ thiếp,
Bồi hồi vãng sự mỗi tu lang.’’
(Không chịu nổi bóng dáng gầy guộc, bèn chỉnh lại dung nhan
tàn tạ,
Buồn bã dựa bên gió đông, nỗi hận biệt ly dằng dặc.
Kiếp này lưu lạc, thực đã khiến thiếp lỡ lầm,
Bâng khuâng chuyện đã qua, thường thẹn cùng chàng.)
(Nghĩ Thanh Nữ tạ Tượng Xuyên - Thay lời
Thanh Nữ từ tạ Tượng Xuyên)
43
Dưới ngòi bút của Nguyễn Án, người kĩ nữ hiện lên thật đáng thương,
tài sắc là vậy nhưng “hồng nhan bạc phận” số mệnh lưu lạc nơi trêu hoa ghẹo
nguyệt, chuyện tình duyên trắc trở, truân chuyên.
Cũng là hình ảnh cô gái nhưng trong bài Phú đắc thiếu nữ tát kiều
(Làm được câu “Thiếu nữ khoe dung”) người đọc lại bắt gặp hình ảnh người
thiếu nữ với diện mạo xinh tươi, căng tràn tuổi xuân: “Doanh doanh tiểu nhi
nữ” (Cô gái nhỏ xinh tươi).
Bên cạnh đó, trong thi tập còn xuất hiện hình ảnh của nhân dân. Đó là
hình ảnh ông chài được tái hiện qua tiếng hát từ xa vọng lại:
“Viễn thính ngư ca thôi tịch chiếu”
(Xa nghe tiếng hát ông chài giục ánh chiều xuống)
Hay hình ảnh trẻ nhỏ gầy yếu, chỉ còn da bọc xương làm tê tái lòng
người đọc:
“Tuế khiểm nhi thiên sấu”
(Mùa mất, trẻ gầy yếu)
Tóm lại, hình ảnh trong thơ Nguyễn Án thể hiện thông qua thiên nhiên
cảnh vật và con người. Qua ngòi bút của thi nhân, hình ảnh thiên nhiên cảnh
vật hiện lên vừa nguyên sơ, lại vừa sinh động. Cùng với đó là hình ảnh con
người được phác họa với những chân dung khác nhau. Sự kết hợp giữa hệ
thống hai hình ảnh nghệ thuật có chức năng quan trọng, đem lại nét đặc sắc
trong thi tập của tác giả.
3.2. Ngôn ngữ thơ
Thơ ca phản ánh cuộc sống xuất phát từ những rung động của tình cảm.
Ngôn ngữ thơ có nhịp điệu riêng của nó cũng giống như nhịp đập của trái tim
thay đổi khi xúc động. Lời thơ thường là lời đánh giá, bộc lộ cảm xúc của chủ
thể. Vì vậy, mỗi nhà thơ đều tạo cho mình một phong cách sáng tác riêng
mang tính cá nhân.
Ngôn ngữ sử dụng trong Phong lâm minh lại thi tập phần nào thể hiện
con người Nguyễn Án. Nó biểu hiện ở tính chất qui phạm, ước lệ và tượng
44
trưng của văn học trung đại. Trong Phong lâm minh lại thi tập, Nguyễn Án có
rất nhiều bài thơ sử dụng điển cố, điển tích nhằm làm tăng giá trị biểu đạt nội
dung và ý nghĩa sâu sắc nhờ lời ít ý nhiều mà điển cố, điển tích mang lại.
Khi nói về chí nam nhi, Nguyễn Án mượn câu nói của cổ nhân Tư Mã
Tương Như nhằm bày tỏ tâm tư, thái độ của mình:
“Trượng phu vị toại đề kiều chí,
Hà sự tha đà khách Hán quan.”
(Trượng phu chưa thỏa chí lập công danh,
Cớ sao lại lần nữa làm khách ở quan ải nhà Hán.)
(Ký Kiều Niên kiêm hoài đông du chư hữu -
Gửi Kiều Niên, lại nhớ các bạn cùng du chơi)
“Chí lập công danh” nguyên là “đề kiều chí”, nghĩa là “cái chí ghi trên
cây cầu”. Điển này bắt nguồn khi Tư Mã Tương Như mới vào Trường An đã
đề rằng: “Không ngồi xe tứ mã màu đỏ, ta sẽ không qua đây nữa”. Nghĩa là
nếu không lập được công danh sẽ không trở lại. Nguyễn Án rất khéo léo khi
dùng tích này để nói lên hoài bão, “ý chí quyết lập công danh” của đấng nam
nhi đồng thời tạo âm hưởng cổ thi cho bài thơ.
Để nói về cách hành xử của nhà nho trước thời cuộc suy loạn, nhà thơ
nhắc đến hai nhân vật lịch sử Đào Tiềm và Nguyễn Tịch trong bài Họa Kiều
Niên cảm hoài (Họa thơ “Cảm hoài” của Kiều Niên):
“Đào Tiềm đối tửu ưng tuý,
Nguyễn Tịch đào danh hảo thị cuồng.”
(Đào Tiềm uống rượu, cần phải say,
Nguyễn Tịch trốn cái danh nên khéo giả cuồng.)
Đào Tiềm và Nguyễn Tịch đều là những người có tài, nổi tiếng thanh
bạch và thích uống rượu. Vì không muốn hợp tác với triều đình, họ đều mượn
rượu để uống say, giả điên cuồng. Tác giả mượn điển về hai cổ nhân để thay
45
lời tâm sự của mình gửi đến người bạn thân, khiến cho câu thơ vừa cô đọng,
súc tích vừa sâu sắc.
Bày tỏ nỗi niềm về số phận của vị công thần, nhà thơ mượn điển tích để
thể hiện niềm cảm khái sâu lắng hơn:
“Thổ long sô cẩu thất tiền oán,
Thiết khoán đan thư tử hậu vinh.”
(Rồng đất chó rơm chẳng còn oán hờn cũ
Thiết khoán đan thư sau khi chết vẫn còn vinh.)
(Phỏng Tế Văn hầu từ đường - Thăm nhà
thờ Tế Văn hầu)
Việc vận dụng điển tích của Nguyễn Án làm tăng giá trị biểu đạt của câu
thơ rất nhiều. Tác giả mượn tích “rồng đất chó rơm” nhằm nói lên niềm tiếc
nuối, chua chát trước số phận của người anh hùng. Trong dân gian “rồng đất
chó rơm” là vật cúng tế. Nhân dân thường nặn rồng từ đất, tết chó bằng rơm để
cúng, cúng xong thì đem bỏ các đồ vật đó đi. Bởi vậy, người xưa nói đến “rồng
đất chó rơm” là ngụ ý nói đến số phận bỏ đi của con người, đồ vật khi không
cần dùng đến nữa. Nhà thơ rất tài tình đan cài điển tích trên để bảy tỏ niềm cảm
khái, chua chát cho số mệnh con người. Ông không cần diễn đạt nhiều nhưng
vẫn thể hiện được niềm đau xót với vị anh hùng dân tộc có công lao to lớn khi
phò vua đánh giặc mà lại bị ruồng bỏ. Đến đây, một lần nữa ta lại thấy tài năng,
sự khéo léo của thi nhân khi vận dụng thi liệu cổ trong sáng tác:
“Yên các phù danh chung thị ảo,
Côn Sơn tùng cúc tự tiêu sơ.”
(Danh hão Đài Mây thành chuyện ảo,
Côn Sơn tùng cúc tự thê lương.)
(Quá Tế Văn hầu biệt nghiệp - Qua nơi ở cũ
của Tế Văn hầu)
46
“Đài Mây” (Yên các) vốn là nơi để ghi công trạng của các công thần
nhưng giờ đây chỉ là “chuyện ảo”. Côn Sơn xưa kia là nơi cổ nhân thả tâm
hồn giao hòa với thiên nhiên: suối là đàn, rêu làm chiếu, bóng thông là giường
và bóng tre trúc là nơi vịnh thơ ca, nay cảnh vật trở nên “thê lương” não nề.
Nhìn về số phận của đời trước, thi nhân rút ra bài học cho bản thân mình cũng
như cho người bạn tri kỉ:
“Thế sự tĩnh tư quy khứ hảo,
Thanh sơn cộng chủng Thiệu Bình qua.”
(Lặng lẽ mà suy “về” tốt nhất,
Cùng trồng dưa Thiệu, núi xanh dày.)
(Tái phỏng Kiều Niên mông quán - Lại thăm
nhà học của Kiều Niên)
Thiệu Bình vốn là làm quan dưới triều nhà Tần. Sau khi nhà Tần diệt
vong, ông về làm người nông dân đi trồng dưa. Dưa ông trồng rất ngọt nên
được mọi người yêu thích. Về sau, trong thơ văn thường hay dùng điển này để
khen ngợi người từ quan về ở ẩn. Tác giả mượn điển “dưa Thiệu” nhằm thể
hiện ước nguyện lui về với điền viên sơn thủy, sống cuộc đời bình dị, thanh
nhàn, tránh xa sự đời. Tuy không nói nhiều, không viết nhiều song người đọc
vẫn có thể hiểu được ý đồ, tư tưởng mà nhà thơ gửi gắm trong đó.
Ngoài ra, nhà thơ còn sử dụng điển cố, điển tích trong rất nhiều bài thơ
khác: Tống Phan Hoành Hải điệp sơn xứ quán, Thù Kiều Niên kiêm hoài
Hoàng Lão Đỗ, Giai Kiều Niên du Đông Ngạc phỏng Phạm Liên Y, Cảm
hoài, Đáp Kiều Niên cổ ý chi tác, Tặng cữu bí thư quận lị Thanh Liêm Hữu
Đường: đền Vu, bến Tầm Dương, Dật Thiếu,... Những nhân vật lịch sử, địa
danh lịch sử, sự kiện lịch sử từ quá khứ như được khắc họa lại, dựng lại nhằm
tô đậm hơn thái độ, cảm xúc của thi nhân. Qua đó, chúng ta thấy được sự
uyên thâm, bác học của nhà nho tài hoa này.
47
Bên cạnh sử dụng điển tích điển cố, thi nhân còn mượn hình ảnh ước lệ
tùng, cúc để chỉ những người quân tử có nhân cách thanh cao:
“Tùng cúc quy lai dị,
Cầm tôn biệt hậu sơ.”
(Tùng cúc về đã khác,
Chén đàn khó trùng phùng.)
(Tiễn Kiều Niên đông quy cố viên - Tiễn Kiều Niên
về vườn cũ ở phía Đông
Có thể nói, ngôn ngữ Nguyễn Án sử dụng trong Phong lâm minh lại thi
tập mang tính khuôn mẫu, công thức trong diễn đạt. Việc sử dụng những điển
tích điển cố kết hợp với ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng tạo nên nét đặc sắc qua
những vần thơ chất đầy tâm sự của thi nhân.
3.3. Thời gian, không gian nghệ thuật
3.3.1. Thời gian nghệ thuật
Theo giáo sư Trần Đình Sử quan niệm, thời gian nghệ thuật là “thời gian
mà ta có thể chiêm nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với độ dài của nó,
với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều dài thời gian là hiện tại, quá khứ hay
tương lai” [12, tr.77].
Trong tác phẩm nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là “sáng tạo của tác
giả”, thể hiện tài năng, cá tính sáng tác của người nghệ sĩ nên nó thường mang
tính chủ quan, phụ thuộc vào cảm thức của họ. Qua khảo sát Phong lâm minh
lại thi tập, chúng tôi nhận thấy thời gian sử dụng là kiểu thời gian vũ trụ và
thời gian trong ý thức cá nhân. Thời gian trong thơ Nguyễn Án không chỉ là
đơn vị biểu thị thời gian mà nó còn mang giá trị biểu đạt tâm trạng của chủ
thể trữ tình. Cảm thức về thời gian trong thơ ông thường hay song trùng với
cảm thức về cuộc đời, về nhân tình thế thái.
Trong Phong lâm minh lại thi tập, thời gian vũ trụ thường được tính
theo ngày, theo mùa.
48
Trước hết, là thời gian theo ngày. Thời gian theo ngày trong tập thơ
được đánh dấu bởi buổi chiều và đêm tối. Là người luôn mang trong mình
những nỗi niềm tâm sự, cô đơn, rầu rĩ nên viết về thời gian buổi chiều, nhà
thơ cũng gửi gắm bao nỗi niềm, tâm trạng trong đó. Đó là buổi chiều, người
lữ khách cô đơn, lạnh lẽo một mình trong phòng ngắm cảnh thấy “sương thu
giăng”, màn mưa giăng lối, đàn quạ vút cánh bay mà động lòng, xót xa để rồi
băn khoăn giữa “đi - ở”:
“Vụ ế thu lương mộ,
Phong phiêu sậu vũ tà.
Oải thiềm thừa trích lựu,
Hàn mộc tụ phi nha.”
(Chiều mát sương thu giăng,
Gió hùa mưa tạt ngang.
Hiên tranh nước rỏ giọt,
Cây lạnh quạ bay hàng.)
(U trai đối vũ - Từ trai phòng u tịch ngắm mưa)
Thông thường buổi chiều là thời gian để các gia đình sum họp, đoàn tụ.
Nhưng với kẻ lữ khách như Nguyễn Án lại càng thêm sầu. Buổi chiều lúc này
hiện ra với hình ảnh sương thu, mưa tạt, cây lạnh, quạ bay, bếp không khói...
chúng che kín, khiến cảnh vật thêm ảm đạm, tâm trạng con người càng thêm
rầu rĩ.
Cùng với thời gian buổi chiều, thời gian ban đêm là đơn vị thời gian
xuất hiện nhiều trong Phong lâm minh lại thi tập. Trong đêm tối, con người
thường cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo khi phải đối diện với chính mình. Nguyễn
Án không ngoại lệ, thời gian đêm tối chất chứa bao tâm tư, tình cảm, tâm
trạng, của nhà thơ. Nó là thời khắc để thi nhân dễ dàng bộc bạch nỗi u sầu, sự
quạnh vắng, để giải tỏa nỗi lòng. Không ngủ được, nhà thơ phải trở dậy một
49
mình đối bóng với ngọn đèn, chén rượu trong Dạ tọa thư hoài thị nhất nhị tri
kỉ (Đêm ngồi viết về nỗi lòng giãi bày với một vài người bạn tri kỉ):
“Độc tọa hàn đăng túy trọc lao,
Kê minh tàn dạ nguyệt sơ cao.”
(Ngồi một mình trước ngọn đèn lạnh, say rượu nồng,
Gà gáy, đêm sắp tàn, trăng mới lên cao.)
Đêm khuya mang theo sự tịch mịch, u buồn trở thành chất xúc tác
khiến tâm hồn thi nhân xúc động nên ông làm thơ thể hiện, bày tỏ nỗi lòng.
Đâu đó trong ông luôn nặng trĩu nỗi u hoài, muôn ngàn uẩn khúc khó tháo gỡ
cứ chất chứa trong tư duy nên lúc nào cũng thao thức không ngủ được. Cuộc
đời phong ba, cảnh ẩn cư nghèo nàn càng làm ông buồn tủi, trăn trở, thức
trắng đêm.
Thời gian ban đêm còn được đánh dấu bởi hình ảnh bóng trăng, những
đêm trăng rọi sáng tâm sự của thi nhân:
“Thừa nguyệt bộ tiền đình,
Ngưỡng kiến phù vân tường.
Ta ngã hoàn trung nhân,
Doanh doanh tự bôn mang.”
(Trăng sáng, ra sân trước,
Ngẩng trông mây bay ngang.
Ôi, người ta trong cõi,
Bôn tẩu sao vội vàng!)
(Bộ nguyệt - Rảo bước dưới trăng)
Đêm khuya với cảnh trăng sáng đã gợi hứng thơ cho Nguyễn Án. Tâm
trạng, cảm xúc của thi nhân như được đánh thức bởi ánh trăng sáng rọi chiếu.
Cảnh vật như tấm gương phản chiếu tâm trạng của thi sĩ. Đó là nỗi khắc
khoải, suy tư, chỉ muốn “bôn tẩu” vội vàng khỏi cuộc đời gió bụi. Chiều và
50
đêm là khoảng thời gian trong ngày được Nguyễn Án quan tâm nhiều hơn cả,
tăng khả năng bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ trong cuộc đời.
Bên cạnh thời gian tính bằng ngày, nhà thơ còn kết hợp với việc sử
dụng thời gian theo mùa. Cũng như thời gian chiều và đêm, Nguyễn Án
thường hướng tới mùa thu hơn mùa xuân, hạ và đông. Đó là những dấu hiệu
tự nhiên: trời thu, gió thu, mưa thu, sương thu, trăng thu, đêm thu,...
Ấy là mùa thu trong bài Đáp Ngô Thuật Cao khách quán chi tác (Đáp
bài thơ làm tại quán khách của Ngô Thuật Cao) với lá phong rơi rụng, gió thu
xào xạc, chim nhạn bay liệng, sương thấm ướt áo:
“Dao lạc phong lâm vãn,
Trường không lữ nhạn quy.
Lương phong xuy hộ dũ,
Linh lộ nhập thường y.”
(Rừng phong chiều rụng lá,
Tầng biếc nhạn xa về.
Gió mát lùa song cửa,
Áo quần sương ẩm sì.)
Mùa thu còn gắn với hình ảnh gió thu, lá ngô đồng rụng:
“Tạc dạ thu thanh đáo tỉnh ngộ”
(Đêm trước thu về bên giếng ngô)
(Thù Kiều Niên kiêm hoài Hoàng Lão Đỗ - Đáp
Kiều Niên và nhớ Hoàng Lão Đỗ)
Ngoài ra, mùa thu gợi lên trong Nguyễn Án bao niềm chất chứa ưu tư.
Thi nhân đã có những trang thơ mang đầy tâm trạng về mùa thu. Đó là những
đêm thu lạnh lẽo, cô đơn, lòng người lữ khách buồn não nùng:
“Bất kham quang cảnh tự bôn thoa,
Sương mấn tần thiêm nại lão hà.
51
Chẩm bạn hồ thanh kinh dạ vũ,
Mộng trung hàn điểu ức sơn gia.”
(Chẳng chịu nổi khi quang cảnh vụt nhanh như thoi đưa,
Tóc mai nhuốm bạc ngày càng thêm nhiều, cái già đến
rồi, biết làm sao?
Bên gối tiếng sóng trên hồ, kinh sợ khi đêm mưa.
Trong mộng có cánh chim lạnh, nhớ về núi non quê nhà.)
(Thu hứng thù Kiều Niên kiến ký - Cảm hứng
mùa thu, đáp lại thơ Kiều Niên)
Mùa thu khiến cõi lòng nhà thơ đọng lại một nỗi sầu, nỗi sợ hãi khi
phải đem thân ngụ nơi đất khách lúc tuổi già. Thu sang, làm lòng con người
đầy tâm trạng, họ yếu mềm hơn và giấc ngủ chẳng an.
Thời gian trong ý thức cá nhân được thể hiện qua nỗi sợ tuổi già, bệnh tật.
Trong thi tập, nhà thơ khá nhiều lần nhắc đến “tóc bạc, “tóc điểm sương”...:
“Bất kham quang cảnh tự bôn thoa,
Sương mấn tần thiêm nại lão hà.”
(Chẳng chịu nổi khi quang cảnh vụt nhanh như thoi đưa,
Tóc mai nhuốm bạc ngày càng thêm nhiều, cái già đến
rồi, biết làm sao?)
Thời gian chạy “nhanh như thoi đưa” đem đến cho con người nỗi sợ
hãi, lo âu bởi nó in hằn ngay trên mái tóc ngả màu. Thấp thoáng trong thơ,
Nguyễn Án nhắc đến tóc bạc, tuổi già như để nói lên nỗi lo âu, than thở cho
cuộc đời và để minh chứng cho sự nghiệt ngã của thời gian. Đặc biệt với kẻ lữ
khách nghèo khó, long đong, trôi dạt như Nguyễn Án thì hình ảnh tóc bạc như
trở thành nỗi ám ảnh. Nó vừa thể hiện tâm trạng thổn thức, lo lắng, kinh sợ,
lại vừa thể hiện sự bất lực trước dòng đời của thi nhân:
“Cùng đồ bạch phát không tao thủ,
Thế lộ truy trần vị phất y.
52
Cộng thán sinh nhai đồng lạc diệp,
Niên niên xuy hướng đế thành phi.”
(Đường cùng, tóc bạc, luống gãi đầu,
Đường đời, bụi bẩn, chưa thể phủi áo.
Cùng than cuộc sống như lá rụng,
Liền năm theo gió thổi bay về nơi đế thành)
(Thù Kiều Niên kiến ký - Đáp thơ Kiều Niên gửi đến)
“Dao lạc giang thiên thảo thụ hoàng,
Tha đà dục điểm kính trung sương.”
(Lay lắt, rụng rơi giữa khoảng sông và trời, cây cỏ ngả vàng,
Lần nữa đến khi soi gương thấy tóc trực điểm sương.)
Thời gian như cuốn đi sức sống, hoài bão, sức mạnh của tuổi trẻ. Nó để
lại trong thi nhân sự mệt mỏi, chán chường, muốn buông xuôi tất cả mà phó
mặc cho số phận, cho dòng đời xô đẩy. Dường như với Nguyễn Án, cảm thức
thời gian qua “tóc bạc”, “tóc điểm sương” trở thành điểm nhấn trong thơ ông.
Như vậy, thời gian nghệ thuật sử dụng trong Phong lâm minh lại thi tập
là thời gian tự nhiên khách quan và thời gian ý thức cá nhân. Sự kết hợp của
hai kiểu thời gian này đóng vai trò quan trọng trong việc bộc lộ tâm trạng,
cảm xúc của thi nhân.
3.3.2. Không gian nghệ thuật
Theo Lê Bá Hán: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của
hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [4, tr.160].
Giáo sư Trần Đình Sử lại cho rằng: “Không gian nghệ thuật là sản
phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan
niệm nhất định về đời sống” [12, tr.108].
Trước hết, không gian trong Phong lâm minh lại thi tập là không gian
vũ trụ. Nó chiếm khá nhiều trong không gian tồn tại khách quan. Nhiều bài
53
thơ Nguyễn Án viết về thiên nhiên gắn với không gian của những địa danh:
động Thạch Thất, núi Tản Viên, hồ Tây, hang Gió, đỉnh Chợ Trời… Với
những bài thơ viết về không gian vũ trụ, người đọc có cảm giác đây giống
như một tập nhật kí bằng thơ ghi lại những cảm xúc theo bước chân thi sĩ.
Không gian trong bài Thiên thị phong (Đỉnh Chợ Trời) được quan sát ở
nhiều chiều: trời rộng, sông nước thăm thẳm, núi xếp thành tầng dựng đứng...
Những vần thơ đều thể hiện không gian bao la, kì vĩ và khoáng đạt:
“Phiên đằng lãm cát thướng tằng điên,
Tứ cố vân hà tận khoát nhiên.
Ẩn ẩn giang lưu phù tố luyện,
Mang mang mạch lãng trướng hồi thiên.
Bằng hư phủ thị du ai tế,
Ỷ thạch bình lâm điệp chướng huyền.”
(Vin nắm dây leo, lên trên tầng đỉnh,
Trông tứ bề mây, ráng bát ngát.
Sông chảy ẩn hiện như dải lụa trắng bồng bềnh,
Sóng lúa dập dờn như dâng lên quanh bờ ruộng.
Dựa tầng không cúi nhìn bụi cỏ bay,
Tựa vào đá nhìn ngang tầng núi dựng đứng.)
Không gian vũ trụ bao la, không ngừng được mở rộng: có mây, có núi,
có sông, cánh đồng,... Đặc biệt, con người với đôi mắt vũ trụ, với tư thế dựa
núi, “dựa tầng không” để bao quát cảnh vật xung quanh thể hiện con người đã
đạt đến tầm cao vũ trụ, tâm hồn.
Phiếm chu Tây Hồ (Thả thuyền ở Hồ Tây), hiện ra trước mắt người đọc là
không gian mênh mông trời nước, bầu trời trong xanh, hoa in nước trong:
- “Trừng không tễ cảnh trạm thanh hoa”
(Trời trong, cảnh đẹp, hoa in dưới nước trong)
54
- “Nhất hoằng tình trướng bạch tần hoa”
(Một vùng nước lớn trong veo, rau tần trắng ngổ)
Trong tập thơ, thi sĩ còn nhắc đến khá nhiều không gian chùa chiền,
đền miếu linh thiêng. Trên hành trình tìm về với thiên nhiên, thi nhân không
quên thả hồn vào chỗ thanh tịnh, yên bình: Đề Khánh Vân thôn Vân Thụy tự,
Phật Tích sơn Thiên Phúc biệt tự, Thiên Phúc biệt tự... Không gian mang đặc
điểm của chốn tu hành đắc đạo:
“Cám vũ vân khai ỷ thúy bình,
Lâu đài đảo trám bích ba tình.
Nhị Tiên kiều để du ngư hí,
Phong động hà hoa tình nhật minh.”
(Chùa Phật mở ra trong mây, dựa vào bình phong màu cánh chả,
Lâu đài lộn bóng in xuống làn sóng xanh biếc.
Dưới hai cây cầu Tiên, cá bơi đùa,
Gió lay động hoa sen, ngày tạnh ráo, ánh mặt trời trong sáng.)
(Phật Tích sơn Thiên Phúc tự - Chùa Thiên Phúc
trên núi Phật Tích)
Không gian được mở ra theo nhiều với những đường nét mượt mà, tinh
tế. Nhìn từ xa, chùa Phật hiện ra sau làn mây, dựa vào núi non mà tưởng như
“dựa vào bình phong màu cánh chả”. Nhìn từ cao xuống, chùa Phật giống như
tòa lâu đài in bóng xuống làn sóng xanh biếc. Cảnh vật vừa nên thơ, vừa nên
họa khi có thêm “cá bơi đùa”, hoa sen lay động trong gió và cả “ánh mặt trời
trong sáng”. Với đôi mắt tinh tế, nhà thơ tạo nên một sự liên tưởng độc đáo,
thú vị.
Không gian trong Phong lâm minh lại thi tập còn là không gian ẩn dật.
Trong nhiều bài thơ, ta thấy hiện lên là không gian ẩn cư nơi đất khách và
hình ảnh người lữ khách. Nguyễn Án suốt đời lưu lạc nơi Kinh đô cũ nên
không gian cũng theo bước chân nhà thơ.
55
Có khi là không gian thành thị lạnh lẽo, nghèo khó, thiếu thốn:
- “U thê hồ thượng tuyệt phân hiêu,
Sổ quyển tàn thư bạn tịch liêu.
Tệ trạch bán hoang tài dược phố...”
(Ẩn cư bên hồ cách biệt với mọi ồn ã,
Vài cuốn sách nát làm bạn với cảnh tịch liêu.)
Nhà nát, cửa bỏ hoang, trồng vườn thuốc...)
- “Thập khẩu phù gia do ký thực,
Nhất triền tựu địa ký nghiêm chinh.”
(Mười miệng lênh đênh nhà ở đậu,
Một khoang đất mướn thuế dồn nhanh.)
- “Phiêu bồng trường tại đế đô vương”
(Lênh đênh cư ngụ mãi vương đô)
Không gian chốn thành thị “cách biệt mọi ồn ã”, “làm bạn với cảnh tịch
liêu”, “sách nát”, “nhà nát”, “cửa bỏ hoang”, “lênh đênh nhà ở đậu”, “một
khoanh đất mướn thuế dồn nhanh”... Tất cả đều phán ánh cuộc sống cô đơn,
túng thiếu, cực khổ trăm bề của người lữ khách nơi Kinh kì cũ.
Có khi không gian ẩn dật chốn thôn quê gắn với cuộc sống, cảnh vật
(đầm, đồng, thiên nhiên cỏ cây hoa lá...): Hạ nhật thôn cư, hỷ kinh trung chư
hữu kiến phỏng (Ngày hè, ở thôn quê, vui mừng vì có bạn từ kinh thành về
thăm), Thôn cư xuân nhật tảo khởi (Ngày xuân ở xóm quê, dậy sớm), Thủy
lạo (Nước lụt)...:
“Tảo khởi môn do bế,
Đồng đống húc nhật thăng.
Điểu thanh lai hạm nhiễu,
Hoa khí thướng liêm ngưng.”
(Dậy sớm cửa còn đóng,
Mặt trời lên huy hoàng.
56
Ngoài song, chim ríu rít,
Bên trướng, hoa ngừng hương.)
(Thôn cư xuân nhật tảo khởi - Ngày xuân ở
xóm quê dậy sớm)
Không gian chốn thôn quê với: ánh nắng tinh khôi mặt trời buổi sáng,
tiếng chim ríu rít vọng từ cửa, cộng hưởng cùng hương hoa lan tỏa, ngưng
đọng trên rèm cửa... tạo cho con người cảm giác thanh bình và yên ả.
Không gian thôn quê còn gắn với cảnh lũ lụt, đê vỡ, cánh đồng mênh
mông trắng nước...:
“Vũ trướng hà đê quyết,
Ngô cư thành trạch hương.
Ngư long thời xuất một,
Nguyên dã cộng thương mang.
Tương tử kê thê ốc,
Y nhân khuyển thướng sàng.
Đông nam chư lộ thủy,
Văn đạo cánh kham thương.”
(Mưa dâng nước làm đê sông bị vỡ,
Chỗ ở của ta biến thành đầm.
Bấy giờ loài cá loài rồng lúc nổi lúc lặn,
Cánh đồng thảy dâng nước mênh mông.
Gà đưa con đậu trên mái nhà,
Chó theo người lên trên giường.
Nước lụt ở các lộ phía đông nam,
Nghe nói càng thảm thương hơn.)
(Thủy lạo - Nước lụt)
Tóm lại, thời gian và không gian nghệ thuật trong Phong lâm minh lại
thi tập đem đến cho người đọc sự đánh giá toàn diện hơn về con người và hồn
57
thơ Nguyễn Án. Trong đó, thời gian và không gian nghệ thuật được biến đổi,
khúc xạ qua lăng kính chủ quan, phụ thuộc vào cảm xúc của thi nhân. Chúng
ẩn chứa những suy tư, trăn trở của ông trước cuộc đời.
Tiểu kết chương 3
Qua khảo sát hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ, thời gian và không gian nghệ
thuật tiêu biểu cho tài năng của Nguyễn Án. Nghệ thuật thơ vừa kế thừa của
thơ ca cổ, vừa bộc lộ cá tính riêng nhà thơ đồng thời đóng vai trò quan trọng
đối với biểu đạt, góp phần làm nội dung trở nên sâu sắc hơn.
58
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Án sống trọn cuộc đời trong giai đoạn chính sự nhiễu
nhương, suy loạn - cuối Lê đầu Nguyễn. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội và tư
tưởng tác động mạnh mẽ đến việc lựa chọn cách hành xử của thi nhân. Ông
sống cuộc đời gần như ở ẩn, gửi gắm tâm tư của mình qua những trang thơ
đầy tâm sự. Thơ ông là tiếng nói chân thành xuất phát từ chính tâm hồn của
một nho sĩ bất lực trước thời cuộc.
2. Nội dung trong Phong lâm minh lại thi tập tập trung ở ba mảng
chính: Thiên nhiên cảnh vật, tâm sự của người trí thức nghèo trước thời cuộc
và mảng thơ tình bạn - tri âm tri kỉ. Thiên nhiên cảnh vật trong tập thơ mang
vẻ đẹp của chính nó, là nơi nhà thơ thể hiện tình yêu với non sông đất nước,
để giao hòa, để nuôi dưỡng tâm hồn và gửi gắm tâm tư, tình cảm trước cuộc
đời. Trong tâm sự của mình, nhà thơ bộc lộ nỗi buồn của một kẻ sĩ “lỡ thời”
trước thời cuộc, nỗi buồn trước số phận “con ong cái kiến” của những nhà
nho mà bản thân ông cũng chung số phận đó. Đây là nội dung lớn, bao trùm
trong rất nhiều bài thơ của thi tập. Với mảng thơ tình bạn, người đọc cũng bắt
gặp những vần thơ tâm sự chân thành xuất phát từ đáy lòng nhà thơ với những
người bạn tri kỉ. Qua đó, ta thấy chân dung một nhà nho “sinh bất phùng thời”
với những lời tự thuật, tự truyện được viết lên bằng chính thơ ca của mình.
3. Nghệ thuật trong Phong lâm minh lại thi tập hòa chung với dòng
chảy của thơ ca bác học cuối thế kỉ XVIII - XIX. Những trang thơ giống như
tấm gương phản chiếu về thiên nhiên cảnh vật, về số phận của một nho sĩ sinh
ra nhưng không gặp thời và về cả tình bạn chân thành, gắn bó thắm thiết.
Hình ảnh thi nhân sử dụng trong Phong lâm minh lại thi tập rất giản dị,
gần gũi với cảnh vật đời thường, với tác giả. Ngôn ngữ chuẩn mực, uyên bác
khi vận dụng những điển tích điển cố, ước lệ tượng trưng, gắn với dòng văn
59
học bác học. Thời gian nghệ thuật là thời gian vũ trụ và thời gian trong ý thức
cá nhân con người được đo bằng ngày, bằng mùa, bằng tuổi già... Không gian
nghệ thuật trong thơ là không gian vũ trụ, không gian chùa chiền miếu mạo và
không gian ẩn dật. Cảm nhận về thời gian, không gian nghệ thuật là cảm nhận
về sự tồn tại của con người, về thế giới xung quanh.
Phong lâm minh lại thi tập giống như tấm gương phản chiếu về cuộc
đời, về tâm hồn của Nguyễn Án. Những trang thơ nói lên tâm tư của một con
người giàu tâm sự, muốn thả hồn vào thiên nhiên, muốn quên đi danh vọng
lợi lộc nhưng không quên lí tưởng của một kẻ sĩ.
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1994), Từ điển văn học Việt
Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục.
2. Phan Văn Các (chủ biên) (2003), Từ điển Hán - Việt, Nxb T.p Hồ Chí Minh.
3. Trần Văn Giáp (1971), Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I, Nxb
Khoa học xã hội Hà Nội, số 403.
4. Lê Bá Hán (chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
5. Vũ Khiêu (chủ biên) (2004), Danh nhân Hà Nội, Nxb Hà Nội.
6. Phạm Ngọc Lan, Phạm Văn Ánh (2017), Thơ văn Nguyễn Án, Nxb Đại
học Sư Phạm.
7. Nguyễn Lộc (2009), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế
kỷ XIX), Nxb Giáo dục.
8. Phạm Quang Ngọc (1967), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
9. Hoàng Phê (chủ biên) (1995), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội-
Trung tâm từ điển học.
10. Nguyễn Ngọc San (1998), Từ điển điển cố trong nhà trường, Nxb
Giáo dục.
11. Trần Đình Sử (2006), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục.
12. Trần Đình Sử (2008), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
13. Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Bá Thế (1993), Từ điển nhân vật lịch
sử Việt Nam, Nxb Văn hóa.
14. Thi Thi (2010), Bình văn thơ danh nhân Nguyễn Án,
Http://hanoimoi.com.vn/Ban-in/Van-hoa/378915/binh-van-tho-danh-
nhan-nguyen-an
15. Nguyễn Tư Uyển (1973), Nguyễn Án, trong Danh nhân Hà Nội, tập I,
Hội Văn nghệ Hà Nội.