TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ---------***-------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI

CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS

Sinh viên thực hiện

: Vũ Thị Tú Uyên

Lớp

: Nhật 7

Khóa

: 45

Giáo viên hướng dẫn

: PGS. TS Nguyễn Đình Thọ

Hà Nội, tháng 5 năm 2010

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU.............................................................................

DANH MỤC BẢNG .......................................................................................

DANH MỤC BIỂU ĐỒ ..................................................................................

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1

Chƣơng I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ

HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN ................ 4

I. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC NGHIỆP VỤ CƠ BẢN CỦA

CÔNG TY CHỨNG KHOÁN .................................................................. 4

1. Khái niệm và đặc điểm của Công ty chứng khoán ............................. 4

1.1. Khái niệm và phân loại Công ty chứng khoán ............................... 4

1.2. Đặc điểm của Công ty chứng khoán .............................................. 5

2. Các nghiệp vụ cơ bản của Công ty chứng khoán ............................. 10

2.1. Hoạt động tự doanh ..................................................................... 10

2.2. Hoạt động bảo lãnh phát hành .................................................... 12

2.3. Hoạt động tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán ........... 14

2.4. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư ............................................ 16

2.5. Các hoạt động hỗ trợ khác .......................................................... 17

2.6. Hoạt động môi giới chứng khoán................................................. 18

II. HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN...... 18

1. Khái quát chung về Môi giới chứng khoán ...................................... 18

2. Đặc trưng, chức năng và vai trò của hoạt động Môi giới chứng

khoán .................................................................................................... 21

2.1. Đặc trưng của hoạt động Môi giới chứng khoán ......................... 21

2.2. Chức năng của Môi giới chứng khoán ......................................... 22

2.3. Vai trò của Môi giới chứng khoán ............................................... 24

3. Quy trình thực hiện một giao dịch chứng khoán ............................. 26

4. Các loại hình Môi giới chứng khoán................................................ 29

4.1. Phân loại theo loại dịch vụ cung cấp ........................................... 29

4.2. Phân loại theo hoạt động của nhà môi giới chứng khoán ............ 30

5. Phát triển hoạt động Môi giới của công ty chứng khoán ................. 32

5.1. Chỉ tiêu định tính ......................................................................... 32

5.2. Chỉ tiêu định lượng ...................................................................... 33

6. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động Môi giới

chứng khoán ......................................................................................... 35

6.1. Các nhân tố chủ quan .................................................................. 35

6.2. Các nhân tố khách quan .............................................................. 39

III. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI Ở MỘT SỐ

THỊ TRƢỜNG LỚN TRÊN THẾ GIỚI ............................................... 43

1. Sở giao dịch chứng khoán New York ............................................... 43

2. Sở giao dịch chứng khoán London .................................................. 45

Chƣơng II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY

CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS ........................................................... 47

I. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS ... 47

1. Sự ra đời ........................................................................................... 47

2. Cơ cấu tổ chức và nhân sự ............................................................... 48

3. Các sản phẩm dịch vụ ....................................................................... 50

4. Giá trị mà VNS mang lại cho khách hàng ....................................... 51

5. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần chứng khoán

VNS. ...................................................................................................... 53

II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ

PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS .............................................................. 56

1. Thực trạng hoạt động môi giới ......................................................... 56

1.1. Cách thức đặt lệnh giao dịch ....................................................... 56

1.2. Nộp và rút tiền tài khoản giao dịch chứng khoán ........................ 60

1.3. Phí môi giới ................................................................................. 61

1.4. Nhân lực cho hoạt động môi giới ................................................. 63

1.5. Cơ sở hạ tầng, thiết bị và công nghệ của hoạt động môi giới .... 655

1.6. Các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ khách hàng trong hoạt động môi

giới ................................................................................................... 677

1.7. Kết quả hoạt động môi giới ....................................................... 711

2. Đánh giá ......................................................................................... 777

III. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ .................................................. 83

Chƣơng III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI

CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS ........................................ 88

I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA

CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS TRONG THỜI GIAN

TỚI .......................................................................................................... 88

II. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG

TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS ................................................. 88

III. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC ............................................... 94

KẾT LUẬN ............................................................................................... 102

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 1044

PHỤ LỤC................................................................................................ 1055

1

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1 - Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán ........................................ 8

Sơ đồ 2 - Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần chứng khoán VNS ................. 49

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1 – Tài sản và nguồn vốn của VNS qua các năm ................................. 54

Bảng 2 – Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của VNS qua các năm ...................... 54

Bảng 3 – Kết quả hoạt động kinh doanh của VNS qua các năm ................... 55

Bảng 4 – Biểu phí giao dịch của VNS ........................................................... 61

Bảng 5 – Biểu phí giao dịch của công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán

ACB .............................................................................................................. 62

Bảng 6 – Biểu phí giao dịch của Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long

................................................................................................................... 622

Bảng 7 – Số lượng và trình độ nhân viên của hoạt động môi giới tại VNS.... 64

Bảng 8 - Doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của VNS ............. 711

Bảng 9 - Doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán của VNS qua các năm

................................................................................................................... 733

Bảng 10 – Chi phí hoạt động kinh doanh chứng khoán của VNS qua các năm

................................................................................................................... 744

Bảng 11 – Theo dõi số lượng tài khoản giao dịch đóng, mở tại VNS qua các

quý ............................................................................................................... 76

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1 - Cơ cấu nhân viên của VNS ....................................................... 644

Biểu đồ 2 - Cơ cấu nhân viên môi giới theo trình độ của VNS ...................... 65

Biểu đồ 3 - Cơ cấu nhân viên môi giới của VNS theo chứng chỉ ................. 655

Biểu đồ 4 - Cơ cấu doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của VNS

năm 2007 ................................................................................................... 722

Biểu đồ 5 - Cơ cấu doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của VNS

năm 2008 ................................................................................................... 722

Biểu đồ 6 - Doanh thu môi giới của VNS .................................................... 733

Biểu đồ .7 - Doanh thu và chi phí môi giới của VNS ................................... 755

Biểu đồ 8 - Mức độ hài lòng của nhà đầu tư đối với dịch vụ môi giới của VNS

..................................................................................................................... 78

Biêu đồ 9 - Mức độ hài lòng của nhà đầu tư đối với dịch vụ môi giới của VNS

................................................................................................................... 822

Biểu đồ 10 - Đánh giá từ nhà đầu tư về mức độ quan trọng của các vấn đề

trong hoạt động môi giới .............................................................................. 84

Biểu đồ 11 - Đánh giá từ nhà đầu tư về những vấn đề cần cải thiện trong dịch

vụ môi giới của VNS ................................................................................... 844

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

“Thị trường chứng khoán” đến thời điểm hiện nay đã không còn là một khái

niệm xa lạ với người dân Việt Nam nữa, mà nó đã đi vào không chỉ trong đời sống

kinh tế mà còn trở thành một phần trong đời sống xã hội của người Việt.

Sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế trên toàn cầu xảy ra và chứng kiến những

ảnh hưởng nghiêm trọng của nó đến thị trường chứng khoán thế giới, các nhà đầu tư

Việt Nam mới có nhận thức, cái nhìn đúng đắn hơn về chứng khoán và thị trường

chứng khoán. Đó không phải là nơi cứ có tiền là có thể tham gia được. Khi các nhà

đầu tư muốn đầu tư vào thị trường chứng khoán, ngoài vốn, họ còn phải có kiến

thức về tài chính – ngân hàng, phải năng động để cập nhật thông tin trong nước

cũng như trên thế giới, phải có chiến lược, sự phân tích và quyết định đúng đắn thì

mới có thể tham gia vào thị trường.

Chính từ những yêu cầu đó mà vai trò của công ty chứng khoán, mà đặc biệt

là vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán mới được nhìn nhận và đánh giá lại.

Môi giới không chỉ là người trung gian, dẫn dắt người bán và người mua gặp nhau

để hưởng hoa hồng, mà người môi giới còn phải có kiến thức, có kinh nhiệm, luôn

luôn nắm bắt được những biến đổi của nền kinh tế và hiểu được khách hàng của

mình, từ đó đưa ra lời khuyên, đưa ra những kiến nghị hợp lý để nhà đầu tư đạt

được lợi ích cao nhất.

Hoạt động môi giới mà hiệu quả thì sẽ là một trong những tiền đề vững chắc

giúp thị trường chứng khoán phát triển ổn định, bền vững. Và ngược lại, một thị

trường chứng khoán sôi động, tăng trưởng mạnh thì chắc chắn hoạt động môi giới

của nó phải rất phát triển.

Mặc dù hoạt động môi giới ở Việt Nam hiện nay ngày càng có những bước

tiến bộ, nhưng vẫn chưa đạt được trình độ chuyên nghiệp như ở các thị trường

chứng khoán lớn trên thế giới. Vậy hoạt động môi giới của công ty chứng khoán tại

1

Việt Nam hiện nay ra sao? Để tìm hiểu vấn đề này người viết đã chọn đề tài “Phát

triển hoạt động môi giới tại Công ty cổ phần Chứng khoán VNS” là đề tài nghiên

cứu cho khóa luận của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Người viết nghiên cứu đề tài này nhằm thực hiện 3 mục đích sau:

Thứ nhất là khái quát chung về công ty Chứng khoán và hoạt động Môi giới

của công ty chứng khoán để có được cái nhìn tổng quan nhất về công ty Chứng

khoán và hoạt động Môi giới chứng khoán.

Thứ hai là trình bày thực trạng hoạt động Môi giới tại một công ty chứng

khoán, mà cụ thể ở đây là Công ty cổ phần Chứng khoán VNS.

Thứ ba là dựa trên thực trạng hoạt động Môi giới đó, người viết sẽ đưa ra

giải pháp để giúp Công ty cổ phần Chứng khoán VNS phát triển hơn nữa hoạt động

Môi giới của mình trong tương lai.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Môi giới là một lĩnh vực có tầm hoạt động lớn, đa dạng về hình thức và cách

thức. Trong điều kiện thời gian và trình độ còn hạn chế, người viết chỉ nghiên cứu

nghiệp vụ môi giới trong phạm vi một công ty là Công ty cổ phần Chứng khoán

VNS. Đối tượng nghiên cứu là hoạt động Môi giới tại Công ty cổ phần Chứng

khoán VNS từ khi công ty được thành lập, tức là từ cuối năm 2007 đến hết năm

2009, trong phạm vi chính là Hội sở của công ty tại Hà Nội.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài này dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về Chứng khoán, Thị trường

chứng khoán và hoạt động Môi giới chứng khoán.

Người viết đã áp dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bao gồm:

phương pháp phân tích tài liệu (thu thập các thông tin, số liệu từ tài liệu của công ty

VNS), phương pháp quan sát (thu thập thông tin bằng cách tri thức trực tiếp và ghi

lại những yếu tố liên quan đến hoạt động môi giới của công ty VNS), phương pháp

2

điều tra và thống kê – tổng hợp.

5. Bố cục của đề tài

Ngoài Lời mở đầu, phần Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, nội dung

của đề tài gồm 3 phần chính như sau:

Chương I: Khái quát chung về công ty Chứng khoán và hoạt động Môi giới

của công ty Chứng khoán.

Chương II: Thực trạng hoạt động Môi giới tại Công ty cổ phần Chứng

khoán VNS.

Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động Môi giới tại Công ty cổ phần

3

Chứng khoán VNS.

Chƣơng I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG

KHOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY

CHỨNG KHOÁN

I. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC NGHIỆP VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG

TY CHỨNG KHOÁN

1. Khái niệm và đặc điểm của Công ty chứng khoán

1.1. Khái niệm và phân loại Công ty chứng khoán

Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của

nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty

chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông, buôn bán tấp nập trên thị

trường chứng khoán. Qua đó, một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ

những nguồn vốn nhỏ lẻ được tập hợp lại.

Có thể đưa ra một khái niệm như sau: “Công ty chứng khoán là một tổ chức

kinh doanh chứng khoán, có tư cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo chế độ

hạch toán kinh tế, hoạt động theo giấy phép của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

cấp” (GS.NGƯT Đinh Xuân Trình và PGS.TS. Nghuyễn Thị Quy, “Giáo trình Thị

trường chứng khoán” của Trường ĐH Ngoại Thương, NXB Giáo Dục).

Với vai trò quan trọng là một tổ chức tài chính trung gian trên thị trường

chứng khoán – thị trường tài chính bậc cao của nền kinh tế thị trường, công ty

chứng khoán được xây dựng và phát triển rất đa dạng về loại hình và quy mô.

Nếu căn cứ vào mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán, có thể phân

chia công ty chứng khoán thành 2 nhóm sau:

- Công ty chứng khoán đa năng: Đây là loại hình công ty chứng khoán thực

hiện tất cả các nghiệp vụ như kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các

dịch vụ tài chính khác. Đây chính là mô hình mà các Ngân hàng thương mại hoạt

động với tư cách vừa là chủ thể kinh doanh chứng khoán, vừa là chủ thể kinh doanh

4

bảo hiểm và vừa là chủ thể kinh doanh tiền tệ.

- Công ty chứng khoán chuyên doanh: Đây là loại hình công ty chứng khoán

độc lập và chỉ chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán.

Nếu căn cứ vào việc thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán,

có thể phân chia công ty chứng khoán thành các loại sau:

- Công ty Môi giới chứng khoán: là công ty chứng khoán chỉ thực hiện việc

trung gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.

- Công ty Bảo lãnh phát hành chứng khoán: là công ty chứng khoán có lĩnh

vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh

lệch giá.

- Công ty Kinh doanh chứng khoán: là công ty chứng khoán chủ yếu thực

hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là công ty chứng khoán tự bỏ vốn đầu tư chứng

khoán và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.

- Công ty Trái phiếu: là công ty chứng khoán chuyên mua bán các loại trái

phiếu.

- Công ty chứng khoán không tập trung: là các công ty chứng khoán hoạt

động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.

- Ngoài ra còn có mô hình công ty chứng khoán thực hiện tất cả các nghiệp

vụ kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán.

Hiện nay ở Việt Nam, các công ty chứng khoán được thành lập theo hình thức

chuyên doanh. Dù là các công ty chứng khoán cổ phần hay công ty chứng khoán trách

nhiệm hữu hạn một thành viên của các Ngân hàng thương mại đều chỉ hoạt động kinh

doanh chứng khoán mà không tham gia kinh doanh tiền tệ hay bảo hiểm.

1.2. Đặc điểm của Công ty chứng khoán

1.2.1. Công ty chứng khoán là trung gian trên thị trường tài chính

Trung gian tài chính là các tổ chức tài chính làm cầu nối giữa những người

cần vốn và những người có vốn. Tuy nhiên không như dạng tài chính tực tiếp –

người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, sự

dẫn vốn diễn ra phải thông qua một cầu nối đó chính là các tổ chức tài chính gián

5

tiếp hay các trung gian tài chính.

Các tổ chức trung gian tài chính có thể là các ngân hàng, các công ty chứng

khoán, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công

ty tài chính…

Công ty chứng khoán với đặc điểm là một trung gian tài chính sẽ đóng vai

trò là một trung gian đầu tư. Công ty chứng khoán không chỉ là cầu nối giữa tổ chức

phát hành với nhà đầu tư mà còn là cầu nối giữa các nhà đầu tư với nhau. Các công

ty chứng khoán cung cấp một danh mục đa dạng các dịch vụ tài chính bao gồm dịch

vụ môi giới, tư vấn và quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ ngân hàng đầu tư (bao gồm

cả việc bảo lãnh phát hành các chứng khoán thuộc khu vực công và khu vực tư

nhân, trợ giúp trong lĩnh vực hợp nhất và sáp nhập các công ty), thực hiện giao dịch

mua bán (với tư cách là đối tác trong giao dịch) các cổ phiếu, trái phiếu và các công

cụ của thị trường tiền tệ.

1.2.2. Công ty chứng khoán là tổ chức kinh doanh có điều kiện

Điều kiện kinh doanh của công ty chứng khoán phát sinh là do công ty chứng

khoán hoạt động trong lĩnh vực tài chính – lĩnh vực cực kỳ quan trọng và có ảnh

hưởng sống còn, nên cần phải có những quy định chặt chẽ để đảm bảo an toàn cho

nền kinh tế. Hay nói cách khác, kinh doanh chứng khoán là một trong những ngành,

nghề kinh doanh có điều kiện.

Ngành nghề kinh doanh có điều kiện là những ngành, nghề mà Luật, Pháp

lệnh, Nghị định quy định các diều kiện hay yêu cầu mà doanh nghiệp phải đáp ứng

khi kinh doanh các ngành nghề đó. Điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới 2 hình

thức sau:

- Giấy phép kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp (giấy phép kinh

doanh có thể mang nhiều tên khác nhau, như: giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh

doanh, giấy phép hoạt động…).

- Các điều kiện quy định về tiêu chuẩn chuyên môn kỹ thuật, công nghệ, vệ

sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm; quy định về phòng cháy chữa cháy, trật

tự xã hội, an toàn giao thông và quy định về các yêu cầu khác đối với hoạt động

6

kinh doanh (gọi tắt là điều kiện kinh doanh không cần giấy phép).

Trong trường hợp công ty chứng khoán, điều kiện kinh doanh là được Ủy

ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép này

đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Trước tiên, một doanh nghiệp muốn trở thành một công ty chứng khoán thì

phải được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần

theo quy định của Luật doanh nghiệp. Theo Điều 62, Luật chứng khoán 2006, điều

kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt dộng của công ty chứng khoán bao gồm: có

trụ sở, có trang bị, thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán; có đủ vốn

pháp định theo quy định của Chính phủ; Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân

viên thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có Chứng chỉ hành nghề

chứng khoán…

Ngoài Luật chứng khoán 2006 và Nghị định số 14/2007 của Chính phủ, các

điều kiện kinh doanh của công ty chứng khoán được quy định rất cụ thể trong Quyết

định số 27/2007 của Bộ tài chính về “Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng

khoán” và Quyết định số 126/2008/QĐ-BTC về việc sửa đổi, bổ sung một số điều

của quy chế này.

1.2.3. Mô hình tổ chức của Công ty chứng khoán

Một công ty chứng khoán có bộ máy tổ chức hợp lý sẽ nâng cao tính linh

động trong dịch vụ, linh hoạt trong việc tư vấn và thực hiện yêu cầu của khách

hàng. Cùng một công việc, công ty nào tổ chức hợp lý, chặt chẽ hơn sẽ thực hiện

nhanh hơn, chính xác hơn và ít sai sót.

Có thể nói mỗi công ty chứng khoán đều có một mô hình riêng cho mình và

trên thế giới hiện nay thì không có mô hình chuẩn cho các công ty chứng khoán.

Tùy thuộc vào sự phát triển của các nghiệp vụ và tính chất phức tạp trong hoạt động

mà mỗi công ty tổ chức một khác. Mặc dù vậy, tổ chức trong một công ty chứng

khoán phải theo những nguyên tắc như: cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán

phải đảm bảo tách biệt về văn phòng làm việc, nhân sự, hệ thống dữ liệu, báo cáo

giữa các bộ phận nghiệp vụ có xung đột giữa lợi ích của công ty chứng khoán và

7

của khách hàng hoặc giữa lợi ích của các khách hàng với nhau; công ty chứng

khoán phải tuân thủ các nguyên tắc về quản trị công ty được quy định trong Điều lệ

công ty phù hợp với Điều lệ theo quy định của pháp luật…

Có thể khái quát cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán theo sơ đồ dưới đây:

Đại diện chủ sở hữu Hội đồng quản trị/ Chủ tịch công ty

Ban điều hành Giám đốc/ Tổng giám đốc và các Phó GĐ/ Phó TGĐ

Khối kinh doanh (Front Office) Môi giới Tự doanh Quản lý danh mục đầu tư Bảo lãnh phát hành Tư vấn đầu tư Tư vấn tài chính …

Khối hỗ trợ (Back Office) Kế toán Kho quỹ Văn phòng IT Kiểm soát Pháp chế …

Sơ đồ 1 - Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán

Ngoài ra, tùy theo công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách

nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở

lên mà tổ chức của công ty chứng khoán đó phải theo đúng quy định của pháp luật

về cơ cấu tổ chức của từng loại công ty này.

1.2.4. Hoạt động của Công ty chứng khoán phải theo nguyên tắc

Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán được quy định trong Điều lệ

của công ty. Mỗi công ty chứng khoán đều có thể tự đặt ra nguyên tắc hoạt động

cho mình miễn là phù hợp với quy định của pháp luật và đảm bảo được các nguyên

tắc chung như: Tuân thủ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán và

các pháp luật khác; Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp; Liêm trực và thực hiện hoạt

8

động kinh doanh một cách công bằng; Hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình với khách

hàng một cách tốt nhất; Đảm bảo nguồn lực về con người, vốn và cơ sở vật chất cần

thiết khác để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán và ban hành bằng văn

bản các quy trình thực hiện nghiệp vụ kinh doanh phù hợp; Chỉ được đưa ra lời tư

vấn phù hợp với khách hàng trên cơ sở nỗ lực thu thập thông tin về khách hàng;

Phải cung cấp cho khách hàng thông tin cần thiết cho việc ra quyết định đầu tư của

khách hàng; Phải thận trọng không được tạo ra xung đột lợi ích với khách hàng

(trong trường hợp không thể tránh được, công ty phải thông báo trước cho khách

hàng và/ hoặc áp dụng các biện pháp cần thiết để đảm bảo đối xử công bằng với

khách hàng); Ban hành và áp dụng các quy trình nghiệp vụ trong công ty phù hợp

với quy định của Luật chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan.

Các nguyên tắc chung, cơ bản trên là các nguyên tắc nhằm bảo vệ lợi ích hợp

pháp, công bằng cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự quản lý của pháp luật trong hoạt

động kinh doanh của công ty chứng khoán.

1.2.5. Nhân sự tại Công ty chứng khoán

Nhân sự là một nguồn lực rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung

và các công ty chứng khoán nói riêng. Với một cơ cấu tổ chức hợp lý, gọn nhẹ mà

không có đội ngũ nhân viên có năng lực, nhanh nhạy thì hoạt động kinh doanh của

công ty không thể hiệu quả.

Tùy theo từng doanh nghiệp, từng lĩnh vực hoạt động mà yêu cầu về trình

độ, kỹ năng của đội ngũ nhân lực là khác nhau. Đối với công ty chứng khoán, để

được phép đi vào hoạt động, ngoài Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó

Tổng giám đốc) cần phải có ít nhất 3 người hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp

vụ kinh doanh.

Để trở thành một người hành nghề chứng khoán cần phải được cấp Chứng

chỉ hành nghề chứng khoán (điều kiện để một cá nhân được cấp Chứng chỉ hành

nghề chứng khoán được quy định trong khoản 1, Điều 79, Luật chứng khoán 2006).

Ngoài ra một người hành nghề chứng khoán cần phải có những trách nhiệm ràng

buộc khác để không ngừng nâng cao trình độ của bản thân, bảo đảm lợi ích cho

khách hàng và thực thi đúng quy định của Pháp luật về chứng khoán và thị trường

9

chứng khoán.

Từ những yêu cầu trên, có thể nhận thấy được rằng thị trường chứng khoán

có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nên vấn đề yêu cầu tư cách, trình độ nhân

lực trong công ty chứng khoán rất được xem trọng.

2. Các nghiệp vụ cơ bản của Công ty chứng khoán

Trên đây là những vấn đề về khái niệm và đặc điểm của công ty chứng khoán.

Vậy, với ngành nghề là kinh doanh chứng khoán, công ty chứng khoán sẽ thực hiện

những nghiệp vụ gì, thực hiện như thế nào và điều kiện để thực hiện ra sao?

Các hoạt động của công ty chứng khoán rất đa dạng và phong phú với nhiều

sản phẩm, dịch vụ tài chính để đáp ứng các yêu cầu của thị trường chứng khoán. Để

tham gia thị trường, công ty chứng khoán có thể thực hiện một, một vài hoặc tất cả

các hoạt động nghiệp vụ sau.

2.1. Hoạt động tự doanh

Theo Điều 6, khoản 21, Luật chứng khoán 2006 thì “Tự doanh chứng khoán là

việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình”. Một công ty

chứng khoán muốn hoạt động tự doanh phải có số vốn pháp định ít nhất là 100 tỷ đồng.

Chứng khoán được công ty chứng khoán tự doanh có thể là chứng khoán

niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán hoặc các chứng khoán chưa niêm yết.

Bên cạnh mục đích chính là lợi nhuận, hoạt động tự doanh chứng khoán của

công ty chứng khoán còn nhằm mục đích can thiệp điều tiết giá chứng khoán, tạo

lập thị trường cho các chứng khoán mới phát hành và tự doanh lô lẻ của khách hàng

sau đó tập hợp lại thành lô chẵn để giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Đối với mục đích can thiệp điều tiết giá chứng khoán, công ty chứng khoán

đã góp phần bình ổn thị trường thông qua hành vi mua vào khi giá chứng khoán

giảm hoặc bán ra khi giá chứng khoán tăng. Thông thường, ở một số nước, đây là

một quy định bắt buộc đối với các công ty chứng khoán để đảm bảo bình ổn thị

trường. Luật các nước đều quy định công ty chứng khoán phải dành một tỷ lệ phần

trăm nhất định các giao dịch của mình cho hoạt động bình ổn thị trường.

Đối với vai trò tạo lập thị trường, công ty chứng khoán là nhà đầu tư nắm giữ

một số lượng chứng khoán nhất định của một vài loại chứng khoán và thực hiện

10

việc mua bán chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá, duy trì một thị

trường liên tục đối với chứng khoán mà họ tham gia tạo lập thị trường. Ngoài ra, đối

với các loại chứng khoán mới phát hành chưa có giao dịch, công ty chứng khoán

phải tạo lập thị trường cho các chứng khoán này bằng cách giao dịch mua bán

chứng khoán để tạo tính thanh khoản trên thị trường.

Nguyên tắc của hoạt động tự doanh chứng khoán là công ty chứng khoán

phải đảm bảo quản lý tách bạch giữa hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới. Cụ

thể, công ty chứng khoán phải:

- Đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh giao dịch cho

tài khoản của chính mình.

- Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của mình.

- Công bố cho khách hàng biết khi mình là đối tác trong giao dịch trực tiếp với

khách hàng và không được thu phí giao dịch của khách hàng trong trường hợp này.

- Trong trường hợp lệnh mua/ bán chứng khoán của khách hàng có thể ảnh

hưởng lớn tới giá của loại chứng khoán đó, công ty chứng khoán không được mua/

bán trước cùng loại chứng khoán đó cho chính mình hoặc tiết lộ thông tin cho bên

thứ ba mua/ bán chứng khoán đó.

- Khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, công ty chứng khoán không được mua

hoặc bán cùng loại chứng khoán đó cho mình ở mức giá bằng hoặc tốt hơn mức giá

của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện.

Nguyên tắc này đảm bảo tính công bằng cho khách hàng vì với tư cách là

một tổ chức trực tiếp tham gia thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán thường

chủ động hơn khách hàng trong việc tiếp cân thông tin và có kỹ năng phân tích

thông tin, phân tích tình hình thị trường nên nếu không có nguyên tắc này, công ty

chứng khoán sẽ tranh mua hoặc tranh bán với khách hàng hoặc có thể chiếm dụng

vốn của khách hàng.

Hoạt động tự doanh là hoạt động mà công ty chứng khoán kinh doanh bằng

chính nguồn vốn của mình nên áp lực đối với người trực tiếp tự doanh là rất lớn. Vì

vậy, công ty chứng khoán phải đảm bảo có nguồn vốn lớn và một đội ngũ nhân viên

tự doanh có trình độ phân tích, phán đoán thị trường nhanh nhạy, đưa ra các quyết

11

định đầu tư hợp lý.

Tuy vậy, theo Điều 29 về hạn chế đầu tư của công ty chứng khoán, quyết định

số 27/2007/QĐ-BTC , trừ trường hợp bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết chắc

chắn, có một số trường hợp mà công ty chứng khoán không được phép đầu tư.

2.2. Hoạt động bảo lãnh phát hành

Theo Điều 6, khoản 21, Luật chứng khoán 2006 thì “Bảo lãnh phát hành

chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực

hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ

chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại

chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong

việc phân phối chứng khoán ra công chúng”. Tổ chức phát hành được hưởng phí

bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất địnhtrên số tiền thu được từ đợt phát hành.

Số vốn pháp định tối thiểu để một công ty chứng khoán thực hiện hoạt động này là

165 tỷ đồng. Trong hoạt động bảo lãnh phát hành, công ty chứng khoán đóng vai trò

là tổ chức bảo lãnh.

Trên thị trường chứng khoán không chỉ có công ty chứng khoán được phép

làm tổ chức bảo lãnh phát hành mà còn có các ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên, các

ngân hàng đầu tư nhận bảo lãnh cho một tổ chức phát hành, sau đó thường chuyển

phân phối chứng khoán cho các công ty chứng khoán tự doanh hoặc cho các thành

viên khác. Còn đối với công ty chứng khoán nhận bảo lãnh phát hành, thường kiêm

luôn việc phân phối chứng khoán.

Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành sau:

- Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh

phát hành cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối

hết hay không.

- Bão lãnh cố gắng tối đa: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo

lãnh thỏa thuận làm đại lý phát hành cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh

không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng tối đa. Số chứng

khoán còn lại nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Như vậy,

kết quả của việc bán chứng khoán của tổ chức phát hành tùy thuộc và khả năng, uy

12

tín và sự lựa chọn nhà đầu tư của tổ chức bảo lãnh.

- Bảo lãnh tất cả hoặc không: là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức

phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải bán hết số chứng khoán dự định phát hành,

nếu không phân phối hết sẽ hủy bỏ đợt phát hành. Theo phương thức này, không có

một sự bảo đảm đợt phát hành có thành công hay không, nên Ủy ban Chứng khoán

Nhà nước thường quy định số chứng khoán mà nhà đầu tư đã mua trong thời gian

chào bán sẽ được giữ bởi một người thứ ba để chờ kết quả cuối cùng của đợt phát

hành. Nếu đợt phát hành không thành công thì nhà đầu tư sẽ được trả lại toàn bộ số

tiền đặt cọc.

- Bảo lãnh với hạn mức tối thiểu: là phương thức kết hợp giữa phương thức

bảo lãnh cố gắng tối đa và phương bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo phương thức

này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán

nhất định. Nếu số lượng chứng khoán bán ra dưới hạn mức này thì đợt phát hành sẽ

được hủy bỏ và toàn bộ tiền đặt cọc mua chứng khoán sẽ được trả lại cho nhà đầu

tư. Đây là phương thức bảo lãnh tương đối hiệu quả, vừa bảo vệ lợi ích cho tổ chức

phát hành, vừa hạn chế rủi ro cho tổ chức bảo lãnh.

Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hình thức bảo lãnh với cam kết

chắc chắn nhằm mục đích bảo vệ của nhà đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các

công ty chứng khoán. Điều này gây ra một số khó khăn cho các công ty chứng

khoán trong việc triển khai nghiệp vụ này.

Công ty chứng khoán được thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán theo

hình thức cam kết chắc chắn nếu đáp ứng các điều kiện sau:

- Được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán;

- Không vi phạm pháp luật chứng khoán trong 6 tháng liên tục liền trước

thời điểm bảo lãnh;

- Tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu

của tổ chức bảo lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất tính đến ngày ký

hợp đồng bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính

phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh;

- Có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trong 3 tháng liền trước

13

thời điểm nhận bảo lãnh phát hành.

Mặc dù đã đáp những được các điều kiện trên, nhưng cũng giống như tự

doanh, hoạt động bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán vẫn có những trường

hợp bị hạn chế theo quy định của Pháp luật.

2.3. Hoạt động tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán

Tư vấn tài chính là dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp cho khách

hàng trong lĩnh vực tư vấn tái cơ cấu tài chính, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh

nghiệp; tư vấn cho doanh nghiệp trong việc phát hành và niêm yết chứng khoán.

Theo Điều 6, khoản 23, Luật chứng khoán 2006 thì “Tư vấn đầu tư chứng

khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả phân tích, công

bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán”. Để được phép

thực hiện hoạt động này, công ty chứng khoán phải có số vốn pháp định ít nhất là

10 tỷ đồng.

Từ hai khái niệm trên có thể thấy rằng hoạt động tư vấn của công ty chứng

khoán nhắm tới 2 đối tượng là tổ chức phát hành chứng khoán (trên thị trường sơ

cấp) và nhà đầu tư (trên thị trường thứ cấp).

Tư vấn tài chính là một mảng hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu

tương đối cao cho công ty chứng khoán. Thực hiện nghiệp vụ này sẽ góp phần hỗ

trợ phát triển các doanh nghiệp và tạo ra những hàng hóa có chất lượng cao trên thị

trường. Khi thực hiện nghiệp vụ này, công ty chứng khoán phải ký hợp đồng với tổ

chức được tư vấn và liên đới chịu trách nhiệm về nội dung trong hồ sơ xin niêm yết.

Hoạt động này tương đối đa dạng bao gồm:

- Xác định giá trị doanh nghiệp: là việc định giá các tài sản hữu hình và vô

hình của doanh nghiệp trước khi chào bán chứng khoán. Đây là khâu quan trọng

trước khi phát hành chứng khoán vì nó dùng để đánh giá chứng khoán phát hành,

đặc biệt là khi doanh nghiệp mới phát hành chứng khoán ra công chúng lần đầu.

- Tư vấn về loại chứng khoán phát hành: tùy theo điều kiện cụ thể của từng

doanh nghiệp như tình hình tài chính, chiến lược phát triển của công ty… mà xác

định loại chứng khoán phát hành là cổ phiếu hay trái phiếu.

- Tư vấn chia, tách hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp: khi một doanh nghiệp

14

muốn thâu tóm hay hợp nhất với một doanh nghiệp khác, họ tìm đến các công ty

chứng khoán để nhờ trợ giúp về các vấn đề kỹ thuật, phương pháp tiến hành sao cho

phù hợp và đỡ tốn chi phí…

- Tư vấn tái cơ cấu tài chính: công ty chứng khoán giúp các doanh nghiệp tái

cơ cấu nguồn vốn của mình cho phù hợp với điều kiện kinh doanh hiện tại, phù hợp

với ngành nghề kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và

đảm bảo an toàn.

- Tư vấn niêm yết: công ty chứng khoán giúp các doanh nghiệp thực hiện các

thủ tục theo quy định của pháp luật để đưa doanh nghiệp lên niêm yết tại sở giao

dịch chứng khoán.

Đối với tư vấn đầu tư chứng khoán, các chuyên viên tư vấn sẽ sử dụng kiến

thức chuyên môn của mình để tư vấn cho nhà đầu tư về thời điểm mua bán chứng

khoán, loại chứng khoán mua bán, thời gian nắm giữ, tình hình diễn biến thị trường,

xu hướng giá cả… Nội dung tư vấn đầu tư chứng khoán bao gồm: tư vấn chiến

lược, kỹ thuật giao dịch và cung cấp kết quả phân tích chứng khoán, phân tích thị

trường chứng khoán. Hai nội dung tư vấn này phải có cơ sở hợp lý và phù hợp dựa

trên thông tin đáng tin cậy, phân tích logic.

Việc tư vấn có thể bằng lời nói, hoặc có thể thông qua những bản tin, các báo

cáo phân tích… khách hàng có thể gặp gỡ nhà tư vấn hoặc thông qua các phương

tiện truyền thông như điện thoại, fax… để nhờ tư vấn trực tiếp hoặc có thể gián tiếp

thông qua các báo cáo phân tích, các ấn phẩm mà nhà tư vấn phát hành.

Nhà tư vấn phải luôn là người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận,

những báo cáo phân tích của mình về giá trị các loại chứng khoán, vì những phát

ngôn của các chuyên viên tư vấn có tác động rất lớn đền tâm lý của các nhà đầu tư

và thường dễ có thể trở thành lời tiên đoán, định hướng cho toàn bộ thị trường. Bởi

vì, các nhà đầu tư tin rằng các nhà tư vấn là những chuyên gia trong lĩnh vực này,

họ có nhiều thông tin và kiến thức hơn những người khác và họ có thể đánh giá tình

hình chính xác hơn. Điều này có thể mang lại lợi nhuận cho người được tư vấn

nhưng cũng có thể gây thiệt hại cho họ và làm ảnh hưởng đến thị trường chứng

khoán. Vì vậy, khi tư vấn đầu tư chứng khoán, công ty chứng khoán phải thu thập

15

và quản lý thông tin về khách hàng đã được khách hàng xác nhận, bao gồm: tình

hình tài chính của khách hàng; thu nhập của khách hàng; mục tiêu đầu tư của khách

hàng; khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng; kinh nghiệm và hiểu biết về đầu tư

của khách hàng.

Để ngăn ngừa xung đột lợi ích liên quan đến tư vấn đầu tư chứng khoán giữa

khách hàng và công ty chứng khoán, thì:

- Công ty chứng khoán phải có trách nhiệm ngăn ngừa xung đột lợi ích với

khách hàng; công ty chứng khoán, người hành nghề chứng khoán phải công bố cho

khách hàng biết trước về những xung đột lợi ích có thể phát sinh giữa công ty

chứng khoán, người hành nghề chứng khoán và khách hàng.

- Công ty chứng khoán, người hành nghề chứng khoán phải công bố lợi ích

của mình về chứng khoán mà mình đang sở hữu cho khách hàng đang được tư vấn

về chứng khoán đó.

2.4. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư

Theo Điều 6, khoản 26, Luật chứng khoán 2006 thì “Quản lý danh mục đầu

tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản lý

theo ủy thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ chứng khoán”. Đối với

công ty chứng khoán thì hoạt động này là hoạt động mà công ty chứng khoán quản

lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán vì

quyền lợi của khách hàng theo hợp đồng được ký kết giữa công ty chứng khoán và

khách hàng.

Nghiệp vụ này được thực hiện khi một số nhà đầu tư tổ chức hoặc cá nhân

muốn tham gia thị trường chứng khoán nhưng họ không có đủ điều kiện về thời

gian hoặc kiến thức chuyên môn để quyết định đầu tư, vì vậy, họ ủy thác cho công

ty chứng khoán đầu tư kèm theo thỏa thuận lãi, lỗ. Người ủy thác đầu tư thường

không can dự vào việc đầu tư của công ty chứng khoán và trả một khoản phí cho

công ty chứng khoán theo thỏa thuận.

Các công ty chứng khoán khi thực hiệp nghiệp vụ này ngoài việc được

hưởng phí quản lý, họ còn có thể nhận được những khoản tiền thưởng nhất định khi

mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư. Khi thực hiện quản lý danh mục đầu tư,

16

công ty chứng khoán phải quản lý tiền và chứng khoán cho từng khách hàng ủy thác

và sử dụng tiền trong tài khoản theo đúng các điều kiện quy định trong hợp đồng đã

ký kết. Hợp đồng phải xác định rõ mức độ ủy quyền của khách hàng cho công ty

chứng khoán và điều quan trọng nữa là phải xác định khách hàng phải chịu mọi rủi

ro của hoạt động đầu tư. Để đảm bảo quyền lợi của khách hàng, định kỳ, công ty

chứng khoán phải gửi báo cáo giá trị các khoản đầu tư theo giá thị trường tại thời

điểm báo cáo cho khách hàng.

Như vậy, hoạt động quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn

mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư.

2.5. Các hoạt động hỗ trợ khác

Nhìn chung, các hoạt động hỗ trợ giao dịch nhằm mục đích tạo thuận lợi cho

nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư, nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn.

Hoạt động hỗ trợ được chia làm 2 nhóm chính là hoạt động lưu ký chứng

khoán và hoạt động tín dụng. Theo Điều 6, khoản 24, Luật chứng khoán 2006 thì

“Lưu ký chứng khoán là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho

khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền kiên quan đến sở hữu chứng

khoán”.

Lưu ký chứng khoán là một hoạt động rẩt cần thiết trên thị trường chứng

khoán. Bởi vì trên thị trường chứng khoán tập trung, việc thanh toán các giao dịch

diễn ra tại Sở giao dịch chứng khoán. Vì vậy, lưu ký chứng khoán một mặt giúp cho

quá trình thanh toán tại Sở giao dịch đươc diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, dễ dàng.

Mặt khác, nó hạn chế rủi ro cho người nắm giữ chứng khoán như rủi ro bị hỏng,

rách, thất lạc chứng chỉ sở hữu chứng khoán…

Công ty chứng khoán được cấp Giấy chứng nhận hoạt động lưu ký theo quy

định của Luật chứng khoán được thực hiện cung cấp các dịch vụ sau:

- Cung cấp dịch vụ lưu ký và thanh toán các giao dịch chứng khoán cho

khách hàng;

- Cung cấp dịch vụ đăng ký chứng khoán đối với các chứng khoán phát hành

17

riêng lẻ;

- Làm đại lý chuyển nhượng theo yêu cầu của tổ chức phát hành đối với các

chứng khoán phát hành riêng lẻ.

Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng

khoán sẽ nhận được một khoản phí theo quy định của pháp luật.

Hoạt động tín dụng là hoạt động mà công ty chứng khoán giúp khách hàng

của mình gia tăng khoản vốn đầu tư thông qua các hình thức như cho vay cầm cố

chứng khoán, cho vay bảo chứng, cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán…

- Cho vay cầm cố chứng khoán: là một hình thức tín dụng mà trong đó người

đi vay dùng số chứng khoán sở hữu hợp pháp của mình làm tài sản cầm cố để vay

kiếm tiền nhằm mục đích kinh doanh, tiêu dùng…

- Cho vay bảo chứng: là một hình thức tín dụng mà khách hàng vay tiền để

mua chứng khoán, sau đó dùng số chứng khoán mua được từ tiền vay để làm tài sản

cầm cố cho khoản vay.

- Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: là việc công ty chứng khoán

dùng tiền của mình ứng trước tiền bán chứng khoán của khách hàng được thực hiện

tại Sở giao dịch chứng khoán và sẽ nhận lại tiền khi đến ngày thanh toán.

2.6. Hoạt động môi giới chứng khoán

Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh của công ty chứng

khoán, trong đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch

thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà

chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao

dịch đó.

Hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán sẽ được trình bày

kỹ hơn trong phần II của chương I khóa luận này.

II. HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

1. Khái quát chung về Môi giới chứng khoán

Có thể nói, hoạt động môi giới chứng khoán là hạt nhân của thị trường chứng

khoán. Hoạt động môi giới chứng khoán phát triển sẽ tạo đà phát triển cho thị

18

trường chứng khoán. Điều này bắt nguồn từ nguyên tắc chủ đạo đối với hoạt động

của thị trường chứng khoán là chỉ dựa vào các hoạt động giao dịch được cấp phép

giữa những người trung gian làm nghề môi giới chứng khoán.

Khoản 20, Điều 6, Luật chứng khoán 2006 nêu khái niệm “Môi giới chứng

khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán

cho khách hàng”. Nhưng trong thực tế thì không chỉ có công ty chứng khoán mới

thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán.

Khái niệm môi giới chứng khoán của Hiệp hội những nhà kinh doanh chứng

khoán (NASD) gồm các ý sau:

- Là một cá nhân hay tổ chức tính phí hoặc hưởng hoa hồng cho việc thực

hiện lệnh mua hoặc bán cho một cá nhân hay một tổ chức khác.

- Là hoạt động của công ty môi giới khi hoạt động như một đại lý cho khách

hàng và hưởng hoa hồng cho dịch vụ thực hiện.

- Người tham gia vào việc thực hiện giao dịch chứng khoán vì lợi ích của

những người khác, trừ ngân hàng.

Với cách tiếp cận như vậy, người môi giới chứng khoán, hiểu theo nghĩa rộng,

là những người trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng;

trung gian mua bán chứng khoán bằng vốn của mình; và là người bảo lãnh phát hành

cho những tổ chức phát hành chứng khoán. Người môi giới chứng khoán có thể là các

tổ chức tài chính quốc doanh hoặc tổ chức tài chính thuộc khu vực kinh tế tư nhân với

hai hình thức công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.

Ở Việt Nam, khái niệm môi giới chứng khoán mặc dù dần trở nên quen thuộc

nhưng nhiều người vẫn coi môi giới chứng khoán như một loại trung gian, hay một

loại “cò” giống như “cò” đất, “cò” xe… mà không hiểu bản chất của môi giới chứng

khoán là một tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhất định. Để trở thành một nhà

môi giới chứng khoán giỏi, có tiếng tăm và có nhiều khách hàng thì khi và chỉ khi

khách hàng của nhà môi giới đó thu được nhiều lợi nhuận. Ở các thị trường chứng

khoán có tổ chức, các nhà môi giới chứng khoán không hoạt động với tư cách cá

nhân độc lập. Mỗi cá nhân người môi giới chứng khoán, dù hoạt động trong lĩnh vực

19

nào, cũng thường đại diện cho một công ty chứng khoán. Vì vậy, các công ty chứng

khoán phải chọn người môi giới có phẩm chất đạo đức, có kiến thức chuyên môn về

thị trường chứng khoán nói chung và về môi giới chứng khoán nói riêng.

Có thể nói việc hình thành và phát triển nghề môi giới chứng khoán là một

tất yếu khi thị trường chứng khoán phát triển ở trình độ cao, khi sản phẩm và dịch

vụ ngày càng đa dạng về số lượng và phong phú về chủng loại. Khi đó, nhà đầu tư

sẽ càng cần hơn những người môi giới có thể cung cấp cho họ những thông tin cần

thiết, những ý tưởng đầu tư mới mẻ, những lời khuyên mang tính chiến lược và giúp

cho họ đầu tư theo hướng hiệu quả nhất. Từ yêu cầu thực tế đó, đòi hỏi hoạt động

môi giới chứng khoán phải phát triển ở trình độ cao, mang tính chuyên nghiệp, nói

cách khác là trở thành nghề môi giới chứng khoán. Như vậy, có thể hiểu nghề môi

giới chứng khoán là hoạt động nghiệp vụ trong sự tương tác giữa công ty môi giới,

nơi cung cấp phương tiện vật chất, tổ chức, pháp lý và nhân viên môi giới – người

trực tiếp giao dịch với khách hàng.

Một công ty chứng khoán muốn thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán

cần phải đáp ứng hai điều kiện, đó là điều kiện về vốn và điều kiện về nhân lực.

Điều kiện về vốn: Khoản 1, Điều 18, 14/2007/NĐ – CP quy định về vốn

pháp định cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán là 25 tỷ đồng Việt Nam.

Điều kiện về nhân lực: Để được thực hiện hoạt động môi giới công ty

chứng khoán cần có ít nhất 3 nhân viên hành nghề môi giới chứng khoán.

Một cá nhân muốn hành nghề môi giới chứng khoán thì phải được cấp

Chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán. Theo Khoản 1, Điều 4 Quyết định số

15/2008/QĐ-BTC ngày 27/3/2008 về việc ban hành “Quy chế hành nghề chứng

khoán”, để được hành nghề môi giới chứng khoán, cá nhân phải được Ủy ban

Chứng khoán Nhà nước cấp chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán. Chứng chỉ

này được cấp khi cá nhân đáp ứng các điều kiện như:

- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không thuộc

trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị toà án cấm hành nghề kinh

20

doanh.

- Chưa từng bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xử phạt theo pháp luật chứng

khoán và thị trường chứng khoán hoặc đã chấp hành xong quyết định xử phạt sau 1

năm, trong trường hợp bị xử phạt.

- Có trình độ đại học trở lên.

- Đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán,

phù hợp với loại chứng chỉ hành nghề chứng khoán đề nghị cấp.

- Có các chứng chỉ chuyên môn về chứng khoán, bao gồm: Chứng chỉ những

vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Chứng chỉ pháp luật về

chứng khoán và thị trường chứng khoán, Chứng chỉ phân tích và đầu tư chứng

khoán, Chứng chỉ môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán.

2. Đặc trƣng, chức năng và vai trò của hoạt động Môi giới chứng khoán

2.1. Đặc trưng của hoạt động Môi giới chứng khoán

Đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán là những xung đột, tranh chấp lợi

ích không thể tránh khỏi trong lĩnh vực này. Ở đây, khái niệm “tranh chấp lợi ích”

không bao hàm hành vi của người môi giới hoặc khách hàng cố tình vi phạm pháp

luật để kiếm lời một cách bất chính. Tranh chấp hay xung đột lợi ích có thể xảy ra

trong những trường hợp như việc người môi giới không sẵn sàng thông báo với

khách hàng của mĩnh về những diễn biến xấu của khoản đầu tư do chính anh ta

khuyến nghị với khách hàng, và khi khách hàng bị thiệt hại thì việc bắt lỗi và xử lý

người môi giới là rất khó. Hoặc có những trường hợp khách hàng do không thực sự

hiểu biết về trách nhiệm và khả năng của người môi giới, nên đã kỳ vộng một cách

không hợp lý về những gì mà nhà môi giới có thể mang lại cho mình, và đã khiếu

nại khi thực tế xảy ra trái với những gì họ mong nuốn.

Người môi giới sống bằng tiền hoa hồng hay là khoản chênh lệch giá trong

việc mua hoặc bán những lợi ích tài chính. Như thế, những lợi ích tài chính của

riêng họ có thể xung đột với nhu cầu và mục tiêu của khách hàng. Với tư cách là

người đại diện hay người được ủy quyền của khách hàng, người môi giới luôn luôn

phải dẹp đi xung đột này để phục vụ lợi ích cao nhất của khách hàng – cái phải

21

được ưu tiên hàng đầu.

Các công ty môi giới có thể gây áp lực lớn, buộc nhân viên môi giới của

mình phải bán được những sản phẩm nhất định hoặc đạt được mức tổng sản lượng

nhất định. Áp lực như vậy có thể thấy dưới nhiều hình thức, từ việc cấp văn phòng

riêng cho tới việc tiếp tục thuê nhân viên đó. Giải pháp cho những việc xung đột

như vậy, nói chung, đơn giản chỉ là đặt lợi ích của khách hàng lên trên hết. Các

công ty chứng khoán có thể tăng hoa hồng để khuyến khích người môi giới thực

hiện nhiều giao dịch và có thể nói mức hoa hồng càng cao, được tạo ra càng thường

xuyên thì càng tốt về mặt kinh tế đối với người môi giới và cũng kích thích tăng

nguồn thu cho công ty. Song các công ty chứng khoán hay là những người môi giới

chứng khoán cũng phải luôn luôn vì lợi ích của khách hàng, khách hàng phải được

bán những sản phẩm phù hợp với nhu cầu cá nhân, với khối lượng thích hợp và việc

bán hàng phải diễn ra một cách hợp lý, trung thực trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi.

Nếu như tư cách đại diện được tạo lập trên sự tín nhiệm và trên cơ sở pháp lý thì

một khách hàng công bằng hầu như không thể trách cứ người môi giới hay công ty

môi giới của họ nếu như những khuyến nghị mà người môi giới đưa ra không mang

lại những kết quả mỹ mãn.

Tóm lại, nếu các cố vấn tài chính và những khách hàng của họ ý thức được

đầy đủ hơn thì họ sẽ hành động thận trọng và tránh được những tranh chấp, hay ít

nhất cũng giảm thiểu được những thiệt hại và chi phí để giải quyết tranh chấp.

2.2. Chức năng của Môi giới chứng khoán

Với tư cách là một hoạt động nghiệp vụ trong sự tương tác giữa công ty môi

giới – nơi cung cấp phương tiện vật chất kỹ thuật, tổ chức và pháp lý, nhân viên môi

giới – người trực tiếp tiếp thị và giao dịch với khách hàng, môi giới chứng khoán có

2 chức năng chính sau đây:

 Thứ nhất là cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng.

Công ty chứng khoán thông qua các nhân viên môi giới cung cấp cho khách

hàng các báo cáo nghiên cứu và những khuyến nghị đầu tư. Việc nghiên cứu này

được tiến hành thông qua bộ phận nghiên cứu trong công ty chứng khoán. Bộ phận

này nghiên cứu các lĩnh vực chủ yếu như: diễn biến tổng thể của thị trường, động

22

thái của từng khu vực riêng biệt trong thị trường đó, hay hoạt động của từng công ty

trong khu vực. Những thông tin nay, các nhà nghiên cứu cung cấp cho các nhà môi

giới hàng tuần, kèm theo đó là những khuyến nghị cụ thể về từng loại chứng khoán

cần mua và cần bán. Nhà môi giới sẽ sử dụng những thông tin này để cung cấp cho

khách hàng của mình theo những yêu cầu cụ thể.

Các nhà môi giới hàng ngày tiếp cận với một mạng thông tin điện tử cung

cấp các thông tin tài chính liên tục và được cập nhật về lãi suất, kinh tế, thông tin thị

trường, và cũng được tiếp cận với tất cả các tin tức mới nhất từ khắp nơi trên thế

giới liên quan đến cổ phiếu của khách hàng.

Nhờ nguồn thông tin được thu thập và xử lý công phu này, người môi giới có

đủ tri thức để trở thành nhà tư vấn tài chính của riêng của khách hàng. Ngoài việc

đề xuất với khách hàng những chứng khoán và dịch vụ đơn thuần, người môi giới

cũng có thể giới thiệu với khách hàng những cổ phiếu, trái phiếu mới phát hành, các

chứng chỉ quỹ đầu tư và các công cụ đầu tư khác. Quan trọng hơn hết, người môi

giới có thể đề xuất một cách thức kết hợp các chứng khoán đơn lẻ trong một tổng

thể (danh mục đầu tư) để giảm thiểu rủi ro và tăng tối đa lợi nhuận.

Người môi giới cho nhà đầu tư biết lúc nào thì họ nên mua, lúc nào thì nên

bán và đồng thời cung cấp cho họ những thông tin kinh tế tài chính trên thị trường.

Người môi giới khi đưa ra các lời khuyên cho khách hàng của mình, sẽ dựa trên các

yếu tố như hệ số giá, thu nhập, các dự đoán về thu nhập và giá, tình trạng chung của

nhóm ngành của cổ phiếu và trạng thái tổng thể của thị trường.

Người môi giới không chỉ là người đưa ra các khuyế nghị về tài chính cho

khách hàng mà đôi khi còn lại một người bạn tin cẩn, có thể lắng nghe tất cả các câu

hỏi liên quan tới tình trạng tài chính của khách hàng, và trong một chừng mực có

thể , đưa ra giải pháp thích đáng giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn. Do đó, tìm

được một nhà moi giới giỏi hành nghề và thật tâm huyết là mong muốn của bất cứ

nhà đầu tư chứng khoán nào.

 Thứ hai là cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính, giúp khách

hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và lợi ích của họ.

Người môi giới nhận các đơn dặt hàng từ khách hàng và thực hiện giao dịch

23

cho họ. Quá trình này bao gồm một loạt công việc, từ hướng dẫn khách hàng mở tài

khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận giao dịch đến thanh toán và chuyển

kết quả giao dịch cho khách hàng. Không chỉ có vậy, sau khi giao dịch đã được thực

hiện, người môi giới còn phải tiếp tục chăm sóc tài khoản của khách hàng, tiếp tục

đưa ra những khuyến cáo và cung cấp thông tin , theo dõi để nắm bắt những thay

đổi trong đời sống, công việc mà có thể dẫn tới những thay đổi trong tình trạng tài

chính và thái độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Từ đó đề xuất những giải pháp

hay chiến lược mới thích hợp.

Công ty chứng khoán là nơi đảm bảo những điều kiện vật chất, bao gồm: địa

điểm, hệ thống máy móc thiết bị nối mạng với Sở giao dịch, nhân lực (đội ngũ nhân

viên tác nghiệp) và pháp lý để cho quá trình này được thực hiện nhanh chóng, chính

xác và hiệu quả; đồng thời khi xảy ra tranh chấp thì có thể xử lý được một cách thỏa

đáng. Để làm được chức năng này, công ty được tổ chức theo những phòng ban

chức năng phù hợp, với những quy trình hoạt động chặt chẽ, khoa học.

2.3. Vai trò của Môi giới chứng khoán

Vì, có thể nói, môi giới chứng khoán là hoạt động hạt nhân của thị trường

chứng khoán nên vai trò của môi giới chứng khoán là rất quan trọng.

Sau đây là một số vai trò cơ bản của môi giới chứng khoán.

 Thứ nhất là phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.

Công ty chứng khoán và các nhân viên môi giới của họ, khi thực hiện làm

vai trò trung gian giữa người mua (nhà đầu tư) và người bán (nhà phát hành), có thể

nắm bắt nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung cấp hàng hóa và dịch

vụ, cung cấp những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách

hàng. Kết quả của quá trình đó là đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, phát triển cơ

cấu khách hàng, thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu

tư và tăng trưởng.

Một ví dụ về sự thành công là công ty Merrill Lynch. Trong thập niên 60 –

70, trong khi hoạt động chủ yếu của các công ty chứng khoán mới chỉ là buôn bán

cổ phiếu và trái phiếu, thì Merrill Lynch đã tìm kiếm những dịch vụ mà khách hàng

24

cần. qua đó đã phát triển và tạo ra Tài khoản quản lý tiền mặt (CMA) và Tài khoản

tiếp cận vốn tự có. Nhờ vậy mà công ty này đã vươn lên hẳn các đối thủ cạnh tranh

vào thời kỳ đó.

 Thứ hai là giảm chi phí giao dịch.

Khi mua bán bất kỳ một loại hàng hóa nào, để tiến hành giao dịch thì n gười

mua và người bán phải gặp nhau, xem xét chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả.

Trên thị trường chứng khoán với đặc trưng là một thị trường của những sản

phẩm và dịch vụ bậc cao, để thẩm định chất lượng, giá cả của hàng hóa, người ta

cần một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập và xử lý thông tin, đào

tạo kỹ năng phân tích và tiến hành quy trình giao dịch trên một thị trường đấu giá

tập trung. Những chi phí đó chỉ có các công ty chứng khoán hoạt động chuyên

nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải. Mặt khác, một tổ chức trung

gian chuyên nghiệp như vậy làm cầu nối cho các bên mua và bán gặp nhau sẽ làm

giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp

đồng. Như thế, vai trò của nghề môi giới chứng khoán là tiết kiệm được chi phí giao

dịch, xét trong từng giao dịch cụ thể cũng như trên tổng thể thị trường. Nhờ đó, giúp

nâng cao tính thanh khoản của thị trường.

 Thứ ba là góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư.

Hoạt động của người môi giới chứng khoán khi thâm nhập sâu vào cộng

đồng các doanh nghiệp và người đầu tư sẽ là một yếu tố quan trọng hình thành nền

văn hóa đầu tư. Khi các nhân viên môi giới tiếp cận và mang theo những sản phẩm

tài chính phù hợp với yêu cầu của khách hàng, hoạt động này lâu dần sẽ hình thành

nên thói quen đầu tư vào tài sản tài chính. Hơn nữa, hoạt động này sẽ làm tăng thói

quen và các kỹ năng sử dụng các dịch vụ đầu tư, mà phổ biến là dịch vụ môi giới

chứng khoán. Cùng với đó là sự tăng cường hiểu biết môi trường pháp lý và ý thức

tuân thủ pháp luật vì hoạt động môi giới chứng khoán là một nơi phát sinh và bộc lộ

những xung đột lợi ích giữa các bên tham gia thị trường.

 Thứ tư là tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh.

Để thành công trong nghề môi giới chứng khoán, các công ty chứng khoán

và từng người môi giới phải thu hút được khách hàng tìm đến, giữ chân khách hàng

25

và tăng cường khối tài sản mà khách hàng ủy thác cho họ quản lý. Điều này tạo ra

sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán và từng người môi giới chứng khoán

với nhau. Chính vì vậy, góp phần không nhỏ làm tăng chất lượng và hiệu quả của

dịch vụ.

 Thứ năm là hình thành những dịch vụ mới trong nền kinh tế, tạo thêm

việc làm và làm phong phú thêm môi trường đầu tư.

Với phương châm là chủ động tìm đến với khách hàng, cung cấp những dịch

vụ tài chính tốt nhất, nên công ty chứng khoán nào cũng có lực lượng những người

môi giới đông đảo. Ví dụ như công ty Merrill Lynch ở Mỹ có tới 13.000 nhân viên

môi giới hay những công ty chứng khoán nhỏ khác của Mỹ cũng có không dưới

1.000 nhân viên môi giới. Có thể nói, phát triển dịch vụ môi giới chứng khoán đã

góp phần tạo ra nhiều việc làm mới cho nền kinh tế và cũng làm phong phú thêm

môi trường kinh doanh.

3. Quy trình thực hiện một giao dịch chứng khoán

Hoạt động môi giới là một hoạt động đóng vai trò không thể thiếu trong việc

thực hiện một giao dịch chứng khoán. Vì vậy, người môi giới cần phải nắm rõ một

quy trình giao dịch thông thường để tìm cách phát huy vai trò của mình trong mỗi

công đoạn, sao cho mang lại lợi ích tốt nhất đến với khách hàng.

Việc thực hiện một giao dịch chứng khoán nói chung bao gồm các công việc

chuẩn bị hệ thống đưa vào và truyền lệnh giữa các bên, phát hiện giá cân bằng, thực

hiện lệnh, báo cáo giao dịch, giám sát và thông tin thị trường. Những công việc và

hệ thống này có thể từ những thủ tục giấy tờ đơn giản đến các hệ thống thông tin và

xử lý bằng máy điện tử, phụ thuộc vào yêu cầu của từng thị trường. Các giao dịch

giữa khách hàng và một người môi giới chứng khoán, nói chung, được thực hiện

trực tiếp giữa hai bên. Trái lại, giao dịch giữa hai người môi giới chứng khoán

thường được thực hiện thông qua một cơ chế thị trường, chẳng hạn như một sở

buôn bán trung tâm nơi người mua và người bán gặp nhau, thị trường qua quầy

truyền thống, hoặc hệ thống thực hiện giao dịch tự động. Trong toàn bộ quy trình

giao dịch, bộ phận hành chính luôn làm việc. Họ tính toán, nhập sổ sách các khoản

tiền hoa hồng, thanh toán các chi phí, vào tài khoản doanh thu, tuyển người…

26

Quy trình giao dịch thông thường bao gồm các bước sau:

 Bước 1: Mở tài khoản.

Trước khi nhận lệnh của khách hàng, công ty chứng khoán phải yêu cầu

khách hàng mở tài khoản giao dịch tại công ty đó. Tài khoản đó có thể là tài khoản

giao dịch hoặc tài khoản ký quỹ. Tài khoản giao dịch để dùng cho các giao dịch

thông thường, qua đó khách hàng khi mua chứng khoán được yêu cầu trả đủ tiền

trước thời hạn thanh toán do Sở giao dịch quy định. Tài khoản ký quỹ dùng cho

giao dịch ký quỹ, qua đó khách hàng có thể vay tiền công ty để mua chứng khoán.

Với giao dịch ký quỹ, công ty chứng khoán không chỉ hưởng hoa hồng mua bán hộ

chứng khoán mà còn được thu lãi trên số tiền cho khách hàng vay. Sở dĩ phải có hai

loại tài khoản như vậy là vì yêu cầu quản lý đối với giao dịch ký quỹ khác với yêu

cầu quản lý đối với giao dịch thông thường.

 Bước 2: Nhận đơn đặt hàng.

Sau khi tài khoản đã mở, khách hàng có thể thực hiện các giao dịch trên tài

khoản của mình bằng cách gửi lệnh mua bán chứng khoán đến công ty môi giới.

Hình thức đặt lệnh có thể bằng điện thoại, bằng telex hay bằng phiếu lệnh.

Có thể xảy ra những sai sót khi nhận lệnh, đặc biệt là nhận qua đường điện

thoại, cho nên lệnh đặt hàng phải đảm bảo rõ ràng và chính xác. Nếu là lệnh đặt

mua, công ty phải đề nghị khách hàng ký quỹ một mức tiền nhất định trên tài khoản

của khách hàng ở công ty. Nếu là lệnh bán, công ty sẽ đề nghị khách hàng xuất trình

số chứng khoán muốn bán để kiểm tra trước khi thực hiện lệnh đặt hàng hoặc đề

nghị khách hàng phải ký quỹ một phần số chứng khoán cần bán theo một tỷ lệ do

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quy định.

Phòng môi giới chứng khoán của công ty sau khi phân loại các lệnh mua bán

và hoàn tất thủ tục ban đầu thỏa thuận với khách hàng như mức ký quỹ, hoa hồng,

lệ phí… sẽ thông báo bằng điện thoại, telex hoặc fax cho thư ký văn phòng đại diện

của công ty chứng khoán có mặt tại quầy giao dịch trong Sở giao dịch chứng khoán

hoặc là thị trường OTC.

 Bước 3: Thực hiện lệnh đặt hàng.

Khi bước nhận lệnh đã hoàn thành, công ty chứng khoán bắt đầu chuyển

27

sang bước tiếp theo là thực hiện lệnh theo yêu cầu của khách hàng. Nếu chứng

khoán mua hoặc bán không thuộc loại giao dịch, theo phương pháp đấu giá, sẽ được

chuyển lên phòng môi giới của Sở giao dịch chứng khoán. Tại đây các lệnh mua

bán sẽ được thực hiện theo phương pháp bán giá dò tìm qua hệ thống máy tính.

Sau khi đã xác định được giá của chứng khoán cần bán hay cần mua, theo

đơn đặt hàng do người môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán chuyển đến,

nhân viên của Sở giao dịch chứng khoán sẽ công bố kết quả trên bảng điện. Nội

dung thỏa thuận mua bán sẽ được lưu giữ tại hệ thống thông tin của Sở giao dịch

chứng khoán và được chuyển đến bộ phận quyết toán.

Nếu là lệnh đặt hàng được thực hiện trên thị trường OTC, nội dung tiến hành

bước này cũng tương tự như ở Sở giao dịch chứng khoán, song việc quản lý nhà

nước có phần lỏng lẻo hơn và không đảm bảo chắc chắn bằng Sở giao dịch chứng

khoán cho các khoản giao dịch.

 Bước 4: Xác nhận cho khách hàng và cấp giấy xác nhận vào sổ theo dõi.

Sau khi lệnh đã được thực hiện xong, công ty chứng khan gửi cho khách

hàng một phiếu xác nhận các kết quả giao dịch, bao gồm giá, số lượng chứng khoán

đã thực hiện, mức phí phải trả, ngày thanh toán và ngày giao nhận, lãi vay tiền mua

chứng khoán (nếu có).

Xác nhận này có tính pháp lý rất cao. Nó đóng vai trò là hóa đơn của giao

dịch giữa công ty và khách hàng. Những sai sót trong xác nhận kết quả có thể dẫn

đén sự không hài lòng và khiếu nại của khách hàng.

Thông thường, các công ty môi giới chứng khoán trong ngày làm việc hôm

sau ngày mua hoặc bán chứng khoán. Xác nhận này cũng giống như một hóa đơn

hẹn ngày thanh toán với khách hàng. Đến ngày thanh toán thì người mua sè giao

tiền, người bán sẽ giao chứng khoán, công ty chứng khoán sẽ vào sổ và giao biện

nhận cho khách hàng. Sau đó, công ty chứng khoán sẽ chuyển tới bộ phận quyết

toán của Sở giao dịch hoặc Trung tâm giao dịch của thị trường OTC để hoàn tất thủ

tục thanh toán.

 Bước 5: Thanh toán và giao hàng.

Đến ngày thanh toán, các thủ tục chuyển tiền và giao nhận chứng khoán phải

28

được hoàn tất. Nếu chứng khoán là chứng chỉ thì người bán phải chuyển chứng

khoán cho người môi giới thực hiện lện bán, người mua chuyển tiền vào tài khoản

người môi giới thực hiện lệnh mua. Với hệ thống thanh toán hiện đại, khách hàng

đặt lệnh mua bán chứng khoán với công ty chứng khoán đều mở tài khoản để giao

dịch, do đó thanh toán các khoản tiền mua bán chứng khoán đều thực hiện bằng

chuyển khoản.

Đối với khách hàng mua chứng khoán, sẽ nhận được một giấy chứng nhận

quyền sở hữu về số chứng khoán cho công ty bảo quản chứng khoán xác nhận. Số

chứng khoán này nằm trong tài khoản lưu trữ chứng khoán mà công ty chứng khoán

đã mở tại công ty bảo quản.

Đối với người bán chứng khoán, sẽ nhận được một giấy báo có trên tài khoản

của mình ở công ty chứng khoán hoặc thông qua ngân hàng đại diện của khách

hàng.

4. Các loại hình Môi giới chứng khoán

Tùy theo quy định của mỗi nước, cách thức hoạt động của từng Sở giao dịch

chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại nhà môi giới khác nhau.

4.1. Phân loại theo loại dịch vụ cung cấp

Dựa vào loại dịch vụ cung cấp thì có hai loại môi giới sau:

 Môi giới toàn phần (Full – service).

Là những người môi giới chứng khoán có thể cung cấp đầy đủ các dịch vụ có

liên quan đến chứng khoán cho khách hàng như: đại diện cho khách hàng để mua

hoặc bán chứng khoán; thay mặt khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan đến

chứng khoán của khách hàng… Họ cung cấp một dải dịch vụ hoàn hảo, từ việc đưa

ra những kết quả nghiên cứu, phân tích, cho lời khuyên, đến việc theo dõi tài khoản

và kịp thời đưa ra những khuyến nghị cần thiết cho khách hàng. Tóm lại, với tư

cách là một cố vấn tài chính, người môi giới dịch vụ đầy đủ có thể phục vụ người

đầu tư với nhiều ý tưởng tốt và sản phẩm tốt, giúp nhà đầu tư giải quyết các vấn đề

của mình.

 Môi giới giảm giá (Discount – service).

Là những người môi giới chỉ cung cấp một số ít dịch vụ, tùy theo sự ủy

29

nhiệm của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của họ là giúp khách hàng thực hiện lệnh

mua, bán chứng khoán. Những người môi giưới chứng khoán này thích hợp với nhà

đầu tư tự mình đưa ra các quyết định mua, bán mà không cần lời khuyên hay kết

quả nghiên cứu đầu tư của nhà môi giới chứng khoán. Tuy nhiên, với loại hình môi

giới chứng khoán này, nhà đầu tư dễ gặp rủi ro hơn so với loại hình môi giới chứng

khoán toàn phần.

4.2. Phân loại theo hoạt động của nhà môi giới chứng khoán

Theo hoạt động của nhà môi giới chứng khoán có thể phân thành bốn loại sau:

 Các nhà môi giới được ủy nhiệm thừa hành (hay người môi giới tại sàn

giao dịch).

Hầu hết họ là nhân viên của một công ty chứng khoán – thành viên chính

của Sở giao dịch chứng khoán. Theo hình thức này, công ty chứng khoán tính cho

khách hàng của mình tỷ lệ hoa hồng trên các dịch vụ của công ty. Hoạt động của họ

là thực hiện các lệnh cho khách hàng của công ty chứng khoán, thành viên của Sở

giao dịch chứng khoán, nên họ được gọi là nhà môi giới ủy nhiệm hay nhà môi giới

trên sàn giao dịch. Họ làm việc hưởng lương của các công ty và được bố trí để thực

hiện các lệnh mua bán cho các công ty chứng khoán hay khách hàng của công ty

trên sàn giao dịch. Vì thế, họ cũng được gọi theo một tên chung khác là môi giới

trên sàn (Floor Brocker). Một công ty chứng khoán sẽ cử một người môi giới ủy

nhiệm làm chủ chỗ ngồi của công ty chứng khoán thuê tại Sở giao dịch chứng

khoán.

 Nhà môi giới độc lập (hay nhà môi giới hai đôla).

Nhà môi giới hai đôla là một thành viên của Sở giao dịch chứng khoán,

nhưng là một nhà môi giưới chứng khoán độc lập, không thuộc về một công ty nào.

Nhà môi giới hai đôla có thể sở hữu hoặc mua chỗ cho mình tại Sở giao dịch chứng

khoán và thực hiện các lệnh giao dịch cho bất kỳ một công ty môi giới nào thuê

mình. Trong trường hợp một nhà môi giới chứng khoán của một công ty chứng

khoán không có khả năng thực hiện các lệnh giao dịch của công ty, hoặc vắng mặt

trong phòng giao dịch, người này có thể chuyển một số lệnh cho người môi giới độc

lập. Công ty chứng khoán sẽ trả cho nhà môi giới độc lập một khoản phí cho các

30

dịch vụ mà anh ta cung cấp. Trước đây khoản phí trả cho nhà môi giới độc lập là 2

đôla cho 100 cổ phiếu mua bán hộ công ty chứng khoán (điều này giải thích tại sao

lại có tên gọi là nhà môi giới hai đôla). Tuy nhiên hiện nay, khoản phí của các nhà

môi giới độc lập thường lơn hơn 2 đôla.

Người môi giới hai đôla thực hiện lệnh mua bán của những người môi giới

ủy nhiệm khi những người này quá bận rộn, không thể thực hiện hết tất cả các lệnh

nhận được từ công ty của họ. Người môi giới hai đôla hoạt động cho bất cứ công ty

nào, mua bán bất cứ loại chứng khoán gì và được hưởng hoa hồng từ việc đó.

 Nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký (Registered Floor Trader).

Một số người mua chỗ trên Sở giao dịch chứng khoán chỉ nhằm mục đích

mua bán chứng khoán cho chính bản thân họ. Những người này được gọi là nhà

giao dịch chứng khoán có đăng ký, không thuộc về một công ty môi giới nào và

cũng không làm việc cho một công ty môi giới nào. Tuy nhiên, do sự gia tăng các

nguyên tắc và các quy định nên hoạt động của họ bị hạn chế rất nhiều. Ngày nay,

các nhà giao dịch chứng khoán này hoặc hỗ trợ cho các nhà môi giới chuyên môn

với tư cách là những người tạo lập thị trường hoặc hoạt động như là nhà môi giới

hai đôla.

Người giao dịch có dăng ký thực hiện lệnh mua bán với tài khoản của chính

họ và tự gánh chịu mọi rủi ro. Họ ít khi thực hiện lệnh của khách hàng, nhưng nếu

nhận lệnh của khách hàng thì phải ưu tiên cho khách hàng trước.

 Nhà môi giới chứng khoán chuyên môn (hay các chuyên gia –

Specialist).

Mỗi chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán chỉ được buôn bán

trên một vị trí nhất định trong phòng giao dịch, vị trí này được gòi là quầy. Trong

mỗi quầy có một số nhà môi giới được gọi là những nhà môi giới chuyên môn. Họ

chịu trách nhiệm mua bán một loại chứng khoán nhất định, đã được Hội đồng quản

trị của Sở giao dịch chứng khoán phân công. Những người tụ tập chung quanh các

vị trí gia dịch của các chuyên gia được gọi quen là nhóm giao dịch (Trading

Crowd). Nhà môi giới chuyên môn thực hiện hai chức năng chủ yếu là thực hiện các

31

lệnh giao dịch và tạo lập thị trường.

Thông thường, các nhà môi giới chuyên môn thực hiện các lệnh giao dịch

theo giá hạn mức. Khi đó, họ đóng vai trò là một nhà môi giới chứng khoán và nhận

được các khoản phí môi giới thông thường hoặc tiền hoa hồng trên các dịch vụ mà

họ cung cấp.

Một chức năng khác mà nhà môi giới chứng khoán chuyên môn thực hiện là

hỗ trợ việc duy trì một thị trường ổn định đối với loại chứng khoán mà anh ta được

phân công bằng cách mua bán chứng khoán với tư cách một nhà giao dịch để thu

hẹp chênh lệch giữa giá mua và giá bán.

5. Phát triển hoạt động Môi giới của công ty chứng khoán

Sự phát triển của hoạt động môi giới chứng khoán tại một công ty chứng

khoán được đánh giá bằng các chỉ tiêu.

Đối với công ty chứng khoán, việc đánh giá chất lượng hoạt động môi giới

chính là để nhằm phát triển nó. Vì vậy, công ty chứng khoán không thể chỉ đánh giá

những lợi ích hiện tại mà hoạt động môi giới đem lại mà còn đánh giá tiềm năng

phát triển của nó trong tương lai. Điều đó có nghĩa là công ty phải quan tâm đến khả

năng làm thỏa mãn lợi ích cho khách hàng của hoạt động này cũng như vai trò của

nó đối với nền kinh tế. Do đó, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động

môi giới bao gồm không những các chỉ tiêu xét trên lợi ích mà công ty đạt được từ

hoạt động môi giới mà còn bao gồm cả những chỉ tiêu phản ánh lợi ích mà hoạt

động mô giới chứng khoán đã đem lại cho khách hàng và cho nền kinh tế.

Thực tế hiện nay, Việt Nam chưa có một hệ thống các chỉ tiêu thống nhất

nào phản ánh hoàn toàn chính xác chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán. Tuy

nhiên, theo người viết tìm hiểu, chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán có thể

được đánh giá bằng cách xem xét một số chỉ tiêu sau.

5.1. Chỉ tiêu định tính

Chất lượng hoạt động môi giới của công ty chứng khác được đânhs giá theo

chỉ tiêu định tính được thể hiện ở khả năng hoạt động, tính chuyên nghiệp của sản

phẩm – dịch vụ, mức độ tác động của hoạt động môi giới chứng khoán tới các hoạt

32

động khác.

 Khả năng hoạt động.

Khả năng hoạt động của hoạt động môi giới thể hiện ở chỗ hoạt động môi

giới của công ty chứng khoán có thể cung cấp và làm thỏa mãn những đối tượng

khách hàng nào, quy mô khách hàng, tính chuyên nghiệp của nhân viên môi giới,

quy mô và không gian của sàn giao dịch, cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ phần

mềm mà công ty đang sử dụng…

 Tính chuyên nghiệp của sản phẩm dịch vụ.

Công ty chứng khoán thực hiện việc cung cấp những sản phẩm trọn gói (từ

việc đưa ra những kết quả nghiên cứu, phân tích, cho lời khuyên đến việc theo dõi

tài khoản và kịp thời đưa ra những khuyến nghị cần thiết cho khách hàng) hay công

ty chủ yếu giúp khách hàng thực hiện lệnh mua bán chứng khoán và thu về một

khoản hoa hồng nhỏ mà nó chỉ phản ánh chi phí cho việc thực hiện giao dịch.

 Mức độ tác động của hoạt động môi giới tới các hoạt động khác.

Khi hoạt động môi giới được thực hiện với chất lượng tố sẽ kéo theo các hoạt

động khác như hoạt động phân tích chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu

ký chứng khoán… phát triển và ngược lại. Bởi vì những nghiệp vụ của công ty

chứng khoán không phải hoàn toàn tách rời nhau mà chúng có mối quan hệ tương

hỗ với nhau.

5.2. Chỉ tiêu định lượng

Chỉ tiêu định lượng đánh giá chất lượng hoạt động môi giới chứng khoán

được thể hiện cụ thể như sau:

 Doanh số từ hoạt động môi giới.

Là tổng giá trị giao dịch khớp lệnh tại một công ty chứng khoán. Doanh số từ

hoạt động môi giới nếu tăng lên qua các năm thì thể hiện rằng quy mô hoạt động

môi giới tăng lên. Điều đó cho thấy hoạt động môi giới đang trong quá trình phát

triển và đang được mở rộng, cũng có nghĩa là chất lượng hoạt động môi giới ngày

càng được nâng cao. Tuy nhiên cần phải kết hợp phân tích các chỉ tiêu khác để đảm

33

bảo việc đánh giá được chính xác.

 Doanh thu từ hoạt động môi giới.

Là tổng giá trị mà công ty thu được từ phí môi giới mà khách hàng trả khi sử

dụng các sản phẩm dịch vụ của hoạt động môi giới của công ty. Doanh thu từ hoạt

động môi giới được phân tích ngoài số tuyệt đối còn phải được xem xét trong mối

tương quan với doanh thu từ các hoạt động khác của công ty chứng khoán, tức là tỷ

trọng doanh thu từ hoạt động môi giới trong tổng doanh thu của công ty. Chỉ tiêu này

cho biết khả năng sinh lời và vị trí của hoạt động môi giới trong công ty chứng khoán.

 Chi phí môi giới.

Đây là chỉ tiêu phản ánh các khoản tiền mà công ty chứng khoán đã bỏ ra để

thực hiện việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ môi giới nhằm thỏa mãn nhu cầu của

khách hàng. Chi phí cho hoạt động môi giới không những phản ánh số tiền mà công

ty chứng khoán đã chi trả trong hoạt động môi giới mà còn cho thấy mức độ hiệu

quả của hoạt động môi giới. Nếu chi phí cho hoạt động này mà lớn thì hoạt động

môi giới không hiệu quả. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn vào chỉ tiêu này mà đánh giá hiệu

quả của hoạt động môi giới thì sẽ là phiến diện, có khi còn mang lại kết quả không

chính xác. Vì, nếu một công ty chứng khoán có quy mô hoạt động càng lớn, số

lượng tài khoản giao dịch của khách hàng càng lớn thì tất nhiên chi phí cho hoạt

động môi giới phải lớn hơn nhiều lần so với một công ty chứng khoán nhỏ hơn.

 Lãi thu được từ hoạt động môi giới.

Đây cũng là một chỉ tiêu hết sức quan trọng, cho biết khả năng sinh lời của

hoạt động môi giới. Lãi từ hoạt động môi giới là phần chênh lệch giữa doanh thu và

chi phí đã bỏ ra để đạt được doanh thu đó khi thực hiện nghiệp vụ môi giới theo yêu

cầu của khách hàng.

Với 3 chỉ tiêu là doanh thu, chi phí và lãi, ta có được mối quan hệ sau:

Doanh thu môi giới = Chi phí môi giới + Lãi từ hoạt động môi giới

Từ công thức trên có thể thấy rằng mặc dù có thể doanh thu từ hoạt động môi

giới rất lớn nhưng nếu chi phí bỏ ra để có được doanh thu đó cũng cao thì lãi thu

được ít, và như thế hoạt động môi giới không thật sự được hiệu quả, càn phải tìm ra

34

giải pháp để giảm chi phí cho hoạt động này.

 Tài sản đảm bảo.

Là số dư tiền và số dư chứng khoán phù hợp với yêu cầu về giao dịch đảm bảo

cũng như yêu cầu an toàn cho công ty chứng khoán, đồng thời không gây thiệt hại

quá lớn cho khách hàng. Điều đó cũng sẽ giúp tăng độ an toàn cho khách hàng và

không làm giảm tính cạnh tranh, hấp dẫn của dịch vụ môi giới của công ty chứng

khoán.

 Biểu phí môi giới cạnh tranh.

Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng để thu hút khách hàng tìm đến với công ty

chứng khoán. Một biểu phí giao dịch cao hơn tương đối so với các công ty chứng

khoán khác sẽ làm giảm lượng khách hàng, và như thế làm giảm doanh thu. Còn

nếu biểu phí thấp hơn thì mặc dù số lượng khách hàng giao dịch tại công ty lớn

nhưng phần lãi thu được lại không tương ứng với số lượng đó. Vì vậy, công ty

chứng khoán phải xây dựng cho mình một biểu phí môi giới phù hợp, đưa ra một

mức phí cạnh tranh được với các công ty khác nhưng vẫn có được một khoản lãi

nhất định.

6. Các nhân tố ảnh hƣởng tới sự phát triển của hoạt động Môi giới chứng

khoán

6.1. Các nhân tố chủ quan

Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động môi giới

của công ty chứng khoán. Những nhân tố này xuất phát từ chính bản thân công ty,

đóng vai trò quyết định đến sự phát triển không chỉ của hoạt động môi giới mà còn

của cả công ty chứng khoán.

 Đội ngũ nhân sự của công ty.

Nhân sự là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng của các công ty

chứng khoán nói chung và nghiệp vụ môi giới chứng khoán nói riêng. Đặc biệt với

hoạt động môi giới chứng khoán, đòi hỏi về yếu tố con người lại càng cao hơn.

Người môi giới chứng khoán không chỉ nắm vững kiến thức chuyên môn, kiến thức

xã hội mà cả những kỹ năng làm việc, phải chịu áp lực công việc rất lớn. Thái độ

35

với công việc, với khách hàng, sự chân thành vì lợi ích của khách hàng, khả năng

truyền đạt thông tin, khai thác thông tin từ phía khách hàng… đóng vau trod rất lớn

trong thành công của người môi giới.

Làm thế nào để một người môi giới chứng khoán có thể tiếp cận với khách

hàng, giúp đỡ khách hàng một cách có hiệu quả, điều này đòi hỏi ở người môi giới

chứng khoán một loạt các kỹ năng cần thiết phải tiến hành. Các kỹ năng này không

tách rời mà gắn bó và hỗ trợ cho nhau. Những kỹ năng cần thiết ở người môi giới

chứng khoán là các kỹ năng sau:

- Kỹ năng truyền đạt thông tin: Với một người môi giới chứng khoán thì kỹ

năng này là rất quan trọng. Việc thực hiện kỹ năng này không chỉ phụ thuộc vào

ngôn từ mà người môi giới sử dụng mà phụ thuộc rất nhiều vào cách diễn đạt và khả

năng truyền đạt thông tin. Để có thể dưa thông tin tới khách hàng một cách hiệu quả

nhất, đòi hỏi người môi giới phải có kỹ năng truyền đạt tốt, biểu hiện ở thái độ quan

tâm tới khách hàng, kỹ năng nói chuyện qua âm điệu giọng nói…

- Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: Bước quan trọng trong hoạt động của một

nhà môi giới chứng khoán là tìm kiếm khách hàng. Người môi giới không thể chỉ

ngồi chờ khách hàng đến với mình mà cần thiết là tự mình phải tìm đến với khách

hàng. Việc tìm kiếm khách hàng sẽ làm tăng thu nhập của mỗi nhà môi giới cũng

như duy trì mức tăng trưởng ổn định trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng

khoán.

- Kỹ năng khai thác thông tin: Công việc của một người môi giới chứng

khoán là thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, và để là một nhà tư vấn đầu tư

thành công thì người môi giới chứng khoán đòi hỏi phải hiểu được khách hàng ra

quyết định như thế nào và động lực thúc đẩy của khách hàng là gì? Từ việc khai

thác thông tin này, người môi giới sẽ xác định được loại hình dịch vụ nào thích hợp

nhất với khách hàng, và đưa ra những lời tư vấn hiệu quả cho hoạt động đầu tư của

khách hàng. Việc thực hiện tốt kỹ năng này không những làm tăng lượng tài sản mà

công ty chứng khoán được quản lý mà còn làm tăng sự trung thành và gây ấn tượng

tốt đẹp về công ty chứng khoán với khách hàng.

- Kỹ năng bán hàng: Với một nhà môi giới thì kỹ năng này là kỹ năng không

36

thể thiếu được. Trước hết người môi giới phải nắm rõ quy trình bán hàng hay cung

cấp dịch vụ của mình để thực hiện một cách chính xác và nhanh chóng yêu cầu của

khách hàng. Sau đó việc tiếp tục dịch vụ hậu mãi sẽ đảm bảo cho người môi giới

nhận được những khách hàng thường xuyên và như vậy sẽ thúc đẩy việc kinh doanh

của nhà môi giới cũng như của công ty chứng khoán.

Công ty chứng khoán có đội ngũ nhân sự thành thạo các kỹ năng trên tất yếu

sẽ góp phần không nhỏ tạo nên thành công của công ty. Vì vậy, công ty chứng

khoán muốn giành thắng lợi trong cạnh tranh thì họ phải không ngừng đào tạo đội

ngũ nhân viên môi giới trở thành các nhà môi giới chuyên nghiệp, có kỹ năng, có

đạo đức nghề nghiệp để chiếm được lòng tin từ phía khách hàng, góp phần làm tăng

hiệu quả của hoạt động môi giới chứng khoán. Từ đó năng cao uy tín, khẳng định vị

trí của công ty chứng khoán trên thị trường.

 Chiến lược kinh doanh và định hướng phát triển của công ty.

Mỗi chính sách, định hướng phát triển khác nhau sẽ ảnh hưởng tới hoạt động

môi giới của công ty chứng khoán là khác nhau. Nhận thức của lãnh đạo công ty về

tầm quan trọng của hoạt động môi giới đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự

phát triển của một công ty chứng khoán. Một công ty chứng khoán mà hoạt động

môi giới không mạnh thì công ty sẽ khó tạo được chỗ đứng, danh tiếng và uy tín

trên thị trường cho dù công ty kinh doanh có lãi từ hiều nguồn khác. Chính vì vậy,

ban lãnh đạo công ty xây dựng chiến lược phát triển, có được các chính sách phù

hợp với yêu cầu của thị trường như cung cấp dịch vụ giá rẻ hay chất lượng cao; đào

tạo, tuyển dụng, lương thưởng cho nhân viên, tăng cường hoạt động kiểm soát…

 Nguồn lực về vốn của công ty.

Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành

hoạt động sản xuất kinh doanh. Kinh doanh chứng khoán là ngành nghề kinh doanh

đòi hỏi ngoài các điều kiện về chuyên môn, giấy phép hành nghề còn đòi hỏi các

yêu cầu về tài chính. Ở Việ Nam quy định phải có vốn tối thiểu bằng vốn pháp định.

Đối với hoạt động môi giới, vốn pháp định theo nghị định số 14/2007/NĐ-CP là 25

tỷ đồng Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là mức vốn tối thiểu, hoạt động môi giới đòi

hỏi phải có một lượng vốn không nhỏ để coa thể phát triển tốt các dịch vụ thu hút

37

và giữ chân khách hàng. Nó bao gồm nhiều chi phí như chi phí cho máy móc thiết

bị để thực hiện giao dịch hay tìm kiếm, phân tích thông tin; chi phí để nghiên cứu

thị trường, tìm hiểu khách hàng để xây dựng, cung cấp các dịch vụ phù hợp, có tính

cạnh tranh cao, thu hút khách hàng; chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo,

tìm kiếm mở rộng và giữ chân khách hàng…

Bên cạch đó, quy mô vốn lớn cũng là một yếu tố làm tăng thêm niềm tin ở

khách hàng đối với công ty chứng khoán. Một quy mô vốn dồi dào, mạng lưới rộng

khắp với các dịch vụ tiện ích đa dạng luôn luôn là một trong những yếu tố cạnh

tranh mạnh mẽ của các công ty chứng khoán.

 Biểu phí và các dịch vụ cung cấp.

Một mức phí cạnh tranh với các dịch vụ cung cấp đa dạng là một trong

những yếu tố tác động không nhỏ đến sự phát triển của hoạt động môi giới chứng

khoán nói riêng và sự phát triển của công ty chứng khóa nói chung. Một công ty

chứng khoán với một biểu phí ưu đãi, hợp lý, dịch vụ cung cấp nhanh gọn, đa dạng

sẽ thu hút được khách hàng đến với họ. Từ đó mở rộng được mạng lưới khách hàng,

nâng cao được doanh số, góp phần quan trọng vào sự phatd triển hoạt động môi giới

của công ty.

 Cơ sở vật chất kỹ thuật.

Hoạt động môi giới chứng khoán đòi hỏi rất lớn về hệ thống cơ sở vật chất

và công nghệ thông tin. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một công ty chứng khoán bao

gồm hệ thống cac sàn giao dịch tập trung, hệ thống bảng điện tử, máy chiếu, hệ

thống thông tin nội bộ, trang web của công ty , hệ thống nhập lệnh của phòng môi

giới… Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại giúp công ty có thể tiếp nhận và xử lý

nhanh, chính xác các lệnh của khách hàng, điều này có ý nhĩa quan trọng trong hoạt

động môi giới.

Ngoài ra một cơ sở hạ tầng tốt, trụ sở đẹp, vị trí thuận lợi… sẽ đem đến sự

tiện nghi, thoải mái cho khách hàng, làm cho khách hàng gắn bó lâu dài với công ty.

 Mô hình tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán.

Yếu tố này tác động quan trọng đến sự chyên môn hóa hoạt động của một

công ty chứng khoán. Từ đó, nó tác động tới tính chuyên nghiệp của hoạt động môi

38

giới. Hiện nay ở Việt Nam, công ty chứng khoán tồn tại dưới 2 loại hình thức là

công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Dù được tổ chức theo mô hình nào

thì mỗi loại hình công ty cũng có thế mạnh và điểm yếu riêng. Nếu tính chuyên môn

hóa trong công ty luôn được đảm bảo thì sữ phát huy được tính tự chủ, tính chuyên

môn hóa trong hoạt động môi giới.

 Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động.

Nếu công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện tốt thì hệ thống bảo mật

thông tin của khách hàng được nâng cao bởi vì tính bảo mật cao sẽ là một yếu tố

quyết định tính cạnh tranh của công ty so với các đối thủ khác. Nó không chỉ đảm

bảo lợi ích của khách hàng mà còn bảo đảm cho hoạt động của chính bản thân công

ty. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành một cách chặt chẽ ở tất cả các

khâu, từ khâu mở tài khoản, nộp rút tiền, thông báo kết quả giao dịch đến khách

hàng, đến các khâu nhận lệnh, nhập lệnh của khách hàng, thu nợ của khách hàng…

Ở từng khâu, công ty cần có các quy trình nghiệp vụ cụ thể mà các nhân viên công

ty, đặc biệt là các nhân viên môi giới, phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh để tránh

xung đột giữa quyền lợi của công ty với quyền lợi của khách hàng, quyền lợi của

các khách hàng khác nhau, tránh vi phạm đạo đức nghề nhiệp.

6.2. Các nhân tố khách quan

Đây là những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động môi giới. Những

nhân tố này công ty chứng khoán rất khó có thể kiểm soát được. Hầu hết hoạt động

môi giới của các công ty chứng khoán đều phải chịu tác động của nó. Tuy nhiên,

mức độ ảnh hưởng lớn hay nhỏ thì tùy thuộc vào từng công ty.

 Sự phát triển và mức độ ổn định của nền kinh tế - chính trị.

Phải có một môi trường chính trị ổn định thì mới phát triển được một nền

kinh tế vững mạnh. Không chỉ góp phần ổn định nền kinh tế trong nước, môi trường

chính trị an toàn, có các chính sách phát triển phù hợp, không thay đổi thường

xuyên sẽ thu hút đầu tư nước ngoài vào trong nước.

Đối với trong nước, gắn liền với một nền kinh tế phát triển là một thị trường

chứng khoán sôi động. Đời sống nhân dân được nâng cao thì nguồn vốn nhàn rỗi

trong dân cư cũng tăng lên đáng kể. Người ta bắt đầu có cơ hội quan tâm hơn đến

39

các phương thức đầu tư khác bên cạnh việc gửi tiền vào ngân hàng, dự trữ bằng

vàng hay ngoại tệ. Đây chính là một nguồn vốn tiềm năng cho thị trường chứng

khoán cũng như cơ hội cho hoạt động môi giới chứng khoán phát triển.

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng là một hướng phát triển cho thị trường

chứng khoán. Càng hội nhập thì nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài lại càng trở thành

tất yếu và đóng vai trò quan trọng. Với dòng vốn này thị trường chứng khoán có thể

hoạt động năng động hơn, hội nhập hơn, góp phần thúc đẩy môi giới chứng khoán

phát triển.

 Sự phát triển của thị trường chứng khoán.

Sự phát triển của thị trường chứng khoán có tác động hết sức to lớn đến sự

phát triển của các công ty chứng khoán và hoạt động môi giới. Sự phát triển của thị

trường chứng khoán và sự phát triển của các công ty chứng khoán có mối quan hệ

mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Thị trường chứng khoán phát triển thì các công

ty chứng khoán nói chung và hoạt động môi giới nói riêng mới pháp triển theo

được. Ngược lại, công ty chứng khoán phát triển là cơ sở để đánh giá sự phát triển

của thị trường chứng khoán. Bởi công ty chứng khoán và hoạt động môi giới là

những bộ phân con nằm trong một tổng thể là thị trường chứng khoán. Thị trường

chứng khoán phát triển thể hiện ở những mặt như sau: hàng hóa phong phú, đa dạng

cả về mặt lượng lẫn chất; số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường đông đảo, quy mô

đầu tư lớn; cơ cấu và tổ chức của thị trường đã hoàn chỉnh; doanh thu, quy mô cũng

như mạng lưới của các công ty chứng khoán cũng được nâng lên.

 Hoạt động của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán.

Hoạt động của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán có tác động không nhỏ đến

sự phát triển của các công ty chứng khoán. Hiệp hội kinh doanh chứng khoán ra đời

là cầu nối giữa nhà kinh doanh chứng khoán và cơ quan quản lý nhà nước, là tiếng

nói chung của các nhà kinh doanh chứng khoán với công chúng đầu tư và cac cơ

quan quản lý nhà nước. Một trong những mục đích của hiệp hội là nhằm bảo vệ

quyền lợi hợp pháp của các thành viên, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của

các thành viên. Sự phát triển của hiệp hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty

chứng khoán thành viên phát triển. Sự ra đời của hiệp hội kinh doanh chứng khoán

40

Việt Nam (VASB – 5/2004) được đánh giá là xu thế tất yếu trong tiến trình phát

triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, đã có những đóng góp không nhỏ đến

sự phát triển của thị trường nói chung và sự phát triển của các công ty chứng khoán

thành viên nói riêng.

Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam có 2 chức năng chính sau đây:

Một là, tập hợp các công ty chứng khoán để có tiếng nói thống nhất đóng

góp ý kiến cho các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán, trước khi

ban hành văn bản pháp lý, chế độ chính sách. Hiệp hội cũng là nơi tập hợp, đề xuất

ý kiến, nguyện vọng của các thành viên đối với các chính sách của Chính phủ để từ

đó có thể bổ sung, sửa đổi các chính sách đó nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị

trường chứng khoán.

Hai là, Hiệp hội sẽ là đầu mối thực hiện công tác đào tạo nghiệp vụ trong

cho các thành viên; đại diện cho các thành viên trong việc liên kết, tranh thủ sự tài

trợ của các tổ chức quốc tế về kinh phí, chương trình đào tạo. Ngoài ra, Hiệp hội có

thể là tổ chức ban xây dựng, ban hành, đề ra các nguyên tắc, quy tắc, quy chuẩn đạo

đức nghề nghiệp, giám sát nội bộ, tránh cạnh tranh thiếu lành mạnh...

 Hệ thống chính sách, pháp luật về hoạt động kinh tế nói chung và về

thị trường chứng khoán nói riêng.

Bất cứ một hoạt động nào cũng đều chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp

luật. Đặc biệt môi giới chứng khoán ngay từ bản chất của nó đã thể hiện là nghề với

những tranh chấp lợi ích không thể tránh khỏi. Bởi hoạt động môi giới có ảnh

hưởng tới lợi ích của nhiều người, liên quan đến nhiều vấn đề khó có thể nhìn nhận

bằng mắt thường, do đó, hoạt động này cần có sự điều chỉnh lớn của hệ thống pháp

luật hoàn chỉnh, có sự nhất quán của các văn bản luật.

Hệ thống chính sách, pháp luật mà tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế

phát triển thì đương nhiên thị trường chứng khoán cũng có cơ hội phát triển. Ngược

lại, nếu những quy định, chính sách quá khắp khe thì không những hoạt động môi

giới không thể phát triển được mà thị trường chứng khoán cũng hoạt động không

hiệu quả.

 Trình độ, sự hiểu biết về chứng khoán của công chúng đầu tư và tập

41

quán sinh hoạt, kinh doanh của công chúng.

Khi mà sự hiểu biết của công chúng đầu tư về thị trường chứng khoán được

nâng cao, sự tham gia vào thị trường của họ sẽ tích cực hơn, tạo điều kiện cho thị

trường được phát triển một cách an toàn hơn, phát triển theo đúng quy luật của nó.

Hiểu biết được nâng cao sẽ là yếu tố giúp giảm bớt những xung đột phát sinh từ

nguyên nhân kém hiểu biết của công chúng đầu tư, góp phần thay đổi nếp nghĩ của

công chúng về thị trường chứng khoán. Chính vì thế môi giới chứng khoán sẽ có

chỗ đứng trong thị trường và đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu trong hoạt

động đầu tư chứng khoán.

 Sự cạnh tranh của các công ty chứng khoán khác.

Trong vòng hơn 7 năm vận hành thị trường, tính đến cuối năm 2005 Việt

Nam mới có 14 công ty chứng khoán. Những chỉ một năm sau đó, tính đến ngày

29/12/2006 đã có tới 55 công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động. Và tính đến

cuối năm 2009, Việt Nam có khoảng 105 công ty chứng khoán đang hoạt động trên

thị trường. Tất cả các công ty này đều có nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Đây là

hoạt động được triển khai ngay từ những ngày đầu khi công ty chứng khoán mới

thành lập. Một công ty chứng khoán không chỉ cung cấp những dịch vụ thông

thường mà còn cung ứng rất nhiều dịch vụ tiện ích khác. Tất cả đều có sự cạnh

tranh lẫn nhau về mức độ tiện ích, về chi phí để hưởng dịch vụ, về sự đa dạng

phong phú về dịch vụ ở mỗi công ty… Khách hàng là một yếu tố giới hạn về số

lượng. Khách hàng đã tìm đến công ty này sẽ không thể tìm đén công ty khác nữa.

Giành được niềm tin từ phía khách hàng là yếu tố sống còn đối với sự phát triển của

một công ty chứng khoán. Do đó, hoạt động môi giới của công ty chứng khoán phải

luôn không ngừng cải thiện, đa dạng hóa các dịch vụ, nâng cao chất lượng để cạnh

tranh với các công ty khác.

Ngoài các nhân tố ảnh hưởng trên, hoạt động môi giới chứng khoán còn chịu

ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như sự quản lý, chỉ đạo của các cơ quan quản lý

Nhà nước, cơ quan quản lý thị trường, nhà đầu tư… Việc nhận thức được các nhân

tố ảnh hưởng nêu trên có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển hoạt động môi giới

42

của các công ty chứng khoán.

III. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI Ở MỘT SỐ THỊ

TRƢỜNG LỚN TRÊN THẾ GIỚI

1. Sở giao dịch chứng khoán New York

Sở giao dịch chứng khoán New York (New York Stock Exchange – NYSE),

biệt danh là “Big Board”, là một sở giao dịch chứng khoán đóng tại thành phố New

York thuộc sở hữu của công ty tư nhân NYSE Group (NYX). Đây là sở giao dịch

chứng khoán lớn nhất thế giới nếu tính về giá trị vốn hóa thị trường bằng dollar Mỹ

và là sở giao dịch chứng khoán lớn thư nhì thế giới nếu tính theo số lượng công ty

niêm yết. Số lượng cổ phiếu của sở này vượt quá số lượng cổ phiếu của sàn

NASDAQ trong thập niên 90. Sở giao dịch chứng khoán New York có giá trị vốn

hóa thị trường toàn cầu lên đến 23.000 tỷ dollar Mỹ ngày 30 tháng 9 năm 2006. Sở

giao dịch chứng khoán New York được quản lý bởi tập đoàn NYSE Group, được

thành lập từ sự sáp nhập với sàn giao dich chứng khoán điện tử Archipelago

Holdings. Phòng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán New York nằm ở số 11,

phố Wall và bao gồm 5 phòng được sử dụng cho các hoạt động giao dịch.

NYSE là sở giao dịch luôn được đánh giá là điểm đến lý tưởng nhất thế giới

cho việc kinh doanh cổ phiếu, nơi các nhà đầu tư phải trả phí thấp nhất để có lợi

suất cao nhất. Chính vì vậy, đây được coi là thánh địa của giới tài chính Mỹ cũng

như thế giới. Các chủ ngân hàng lừng lẫy như JP Morgan, các nhà tài phiệt George

Soros… đều làm giàu từ đây. Những tập đoàn công nghiệp lớn như General Motors

cũng dựa vào nguồn vốn lấy từ thị trường này.

Có tất cả 1.366 chỗ ngồi ở NYSE, luôn được bán với giá đắt đỏ nhất so với tất

cả các sàn chứng khoán khác trên thế giới, nhưng không bao giờ trống chỗ. Hôm

3/8/2005, một chỗ ngồi đã được nhượng lại với mức giá kỷ lục. NYSE lúc đó thông

báo rằng một ghế thành viên làm chỗ giao dịch chứng khoán ở đây đã được bán với

giá 3,250 triệu USD, cao hơn mức kỷ lục 2,65 triệu USD được thiết lập từ ngày

23/9/1999. Đắt đến vậy là do đó là thánh địa của giới tài chính, là nơi “đất chật người

đông” nhất trong thế giới tài chính từ rất lâu nay. Đó cũng là nơi những “giấc mơ

Mỹ” được hoàn thành cũng như bị vùi dập nhiều nhất, tạo nên tính hấp dẫn không thể

43

có ở đâu khác với những con người ưa thích kinh doanh và đầu tư mạo hiểm. Thuật

ngữ “chỗ ngồi” hay còn gọi là “ghế” xuất phát từ thực tế là cho đến thập niên 70 của

thế kỷ XIX các thành viên của NYSE ngồi ở ghế để giao dịch mua bán. Năm 1868, số

lượng “ghế” tại NYSE được cố định ở con số 533 và hiện nay là 1.366 “ghế”. Giá của

mỗi “ghế” thay đổi rất nhiều qua các năm. Nếu một “ghế” vào năm 1929 có giá là

625.000 USD thì hiện nay giá của nó có thể lên đến hơn 6 triệu USD.

Từ tháng 8/2006, NYSE thu phí hàng tháng của tất cả các nhà môi giới

chứng khoán làm việc trên sàn New York ở mức 750.000 USD (các nhà môi giới sẽ

chia nhau trả khoản phí này khoản này).

NYSE ban đầu chỉ là một hội tư nhân để chia sẻ lợi ích chung nhưng đã trở

thành một tổ chức hoạt động quy củ: có chủ tịch hưởng lương, một hội đồng điều

hành bao gồm nhiều đại diện những người môi giới và một bộ phận nhân viên hành

chính hưởng lương quản lý hoạt động của sàn giao dịch.

Đối tượng tham gia vào NYSE rất đa dạng, từ những cá nhân đầu tư chứng

khoán tới các công ty hay tập đoàn hùng hậu có chi nhánh trên toàn cầu. Tuy nhiên,

để trở thành một thành viên chính thức, cá nhân hay tổ chức kinh doanh phải đáp

ứng đầy đủ những tiêu chuẩn chuyên môn mà NYSE quy định.

Nhờ vào việc cung cấp những dịch vụ tài chính chất lượng cao, thuận lợi và

dễ dàng nhất. NYSE đã không ngừng nâng cao chữ “Tín” với giới đầu tư trong bối

cảnh thị trường tài chính, tiền tệ thế giới liên tục biến động.

Ngoài chức năng tổ chức các cuộc giao dịch cổ phiếu, NYSE còn hướng tới

mục tiêu trở thành một diễn đàn thảo luận và hoạch định những vấn đề liên quan

đến kinh tế của mỗi quốc gia hay toàn cầu bởi những diễn biến sôi động trên thị

trường chứng khoán sẽ là thước đo hàng đầu, đánh giá tính khả thi cả mỗi chính

sách kinh tế hay tài chính.

Bên cạnh đó, NYSE cũng chú trọng tới công tác giáo dục và đào tạo nhằm

tăng cường nhận thức và trình độ chuyên môn cho các nhà đầu tư, hướng tới nỗ lực

bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.

Hàng năm, NYSE thường tổ chức các chương trình đào tạo gắn với hội thảo

44

nhằm bổ sung thêm những kiến thức về hoạt động của thị trường tài chính và tiền

tệ. Những khoá học này thường được các thành viên NYSE đảm nhận với nhiều

hình thức khác nhau như thảo luận, hội thảo, hay thăm quan sàn giao dịch…

Phương thức giao dịch tại NYSE là mỗi chứng khoán được phân cho một

khu nhất định trong phòng giao dịch, chứng khoán chỉ có thể được phép buôn bán

trong khu đó (bên ngoài khu là một bảng chỉ số giá cả cho thấy mỗi chứng khoán

vừa được mua bán). Theo quy định của NYSE, việc buôn bán phải được thực hiện

theo phương pháp đấu giá, một nhà môi giới phải xướng giá to lên để tất cả các nhà

môi giới khác nghe được. Giá đặt mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất được gọi

là giá yết. Cần chú ý là các nhà môi giới không giao dịch bằng các hợp đồng văn

bản mà mỗi nhà môi giới phải lập riêng cho mình một phiếu ghi nhớ cho mỗi lần

giao dịch buôn bán. Hiện nay, do số lượng giao dịch quá lớn nên phần lớn các giao

dịch đã được vi tính hóa, chỉ còn 1 số loại chứng khoán có tính điển hình là được

giao dịch theo lối thủ công.

NYSE là nơi niêm yết của khoảng 2.800 công ty hàng đầu thế giới. Trong

một ngày bình thường, có khoảng 1,46 tỷ cổ phiếu trị giá 46,1 tỷ USD được giao

dịch tại NYSE.

Tại NYSE thông tin truyền đi bằng điện tử giữa các văn phòng môi giới và

sở giao dịch, và phải cần tới 320 km đường dây sợi cáp quang và 8.000 kết nối điện

thoại để điều khiển việc định giá và các lệnh mua bán.

2. Sở giao dịch chứng khoán London

Sở giao dịch chứng khoán London (London Stock Exchange – LSE) nằm tại

London, Anh Quốc. Được thành lập từ 1801, đây là một trong những cơ sở giao

dịch chứng khoán lâu đời nhất thế giới với nhiều công ty trong Liên hiệp Anh và ở

nước ngoài niêm yết. Trụ sở của London Stock Exchange hiện đặt tại số 10, quảng

trường Paternoster tại trung tâm của thành phố London.

Giao dịch cổ phiếu tại London bắt nguồn từ nhu cầu vốn tài chính của hai

chuyến hải hành vào thế kỷ XVI: một của công ty Muscovy đến Trung Hoa qua

biển Trắng phía bắc nước Nga và chuyến thứ hai của công ty Đông Ấn tới Ấn Độ và

phương Đông. Hai công ty trên đã huy động vốn bằng cách bán cổ phiếu cho các

45

nhà buôn, giao cho họ quyền được hưởng một phần lợi nhuận của chuyến đi. Ý

tưởng này sau đó đã được phổ biến rộng rãi và đến năm 1695, người ta ước lượng

có đến 160 công ty cổ phần. Giao dịch cổ phiếu vào thời đó thường được diễn ra tại

hai quán cà phê Jonathan's và Garraway's trong khu Exchange Alley (Hẻm Đổi

tiền) của thành phố. Vào năm 1697, một bộ luật được ban hành nhằm hạn chế số

lượng các nhà mua bán cổ phiếu và các hành động sai trái của họ sau các vụ giao

dịch nội bộ và đầu cơ nhằm điều khiển thị trường.

LSE là nơi giao dịch quan trọng nhất ở châu Âu và là một trong những Sở

giao dịch lớn nhất trên thế giới. Có tới trên 3.000 công ty với 350 công ty trong số

đó đến từ 50 quốc gia khác nhau.

Sở giao dịch chứng khoán London bao gồm hai thị trường chứng khoán khác

nhau là thị trường chính và thị trường đầu tư thay thế (AIM). Các công ty được

niêm yết trên thị trường chính phải là các công ty có hiệu suất kinh doanh cao và

các yêu cầu đê được tham gia là rất nghiêm ngặt. Khoảng 1.800 công ty trong danh

sách của LSE được giao dịch trên thị trường chính với tổng số vốn hóa thị trường là

hơn 3.500 tỷ. Thị trường đầu tư thay thế là dành cho các công ty hoặc các doanh

nghiệp mới có tiềm năng phát triển cao. Trong danh sách của LSE có hơn 1.060

công ty niêm yết trên thị trường này với tổng số vốn hóa thị trường là khoảng 37 tỷ.

Mặc dù các giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán London được thực hiện

hoàn toàn bằng công nghệ điện tử nhưng những cổ phiếu khác nhau thì giao dịch

trên hệ thống khác nhau.

Đối với những chứng khoán giao dịch thường xuyên thì được sử dụng hệ

thống tự động SETS. Điều này có nghĩa là khi một lệnh mua và một lệnh bán có giá

khớp nhau thì một giao dịch sẽ được tự động thực thi.

Đối với chứng khoán mà việc mua bán ít được thực hiện thường xuyên, Sở

giao dịch chứng khoán London sẽ sử dụng hệ thống SEAQ, hệ thống mà bao gồm

cả những người tạo lập thị trường nắm giữ những cổ phiếu thường xuyên giao dịch.

Các nhà tạo lập thị trường được yêu cầu nắm giữ cổ phiếu của một công ty cụ thể và

46

thiết lập giá mua và bán để đảm bảo rằng luôn luôn có thị trường cho các cổ phiếu.

Chƣơng II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI

CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS

Hoạt động môi giới là hoạt động được công ty triển khai và quan tâm phát

triển ngay từ những ngày đầu nên dù có nhiều thiệt thòi vì ra đời muộn hơn các

công ty chứng khoán khác và vấp phải khó khăn rất lớn nhưng hoạt động môi giới

của VNS cũng đạt được những thành tựu nhất định, góp phần vào sự phát triển

chung của công ty.

Trong chương II này, người viết sẽ đi sâu vào thực trạng hoạt động môi giới

của công ty chứng khoán VNS – nội dung nghiên cứu chính của đề tài khóa luận.

Để đánh giá được hiệu quả của hoạt động này một cách xác thực và khách quan

nhất trong khóa luận của mình, người viết có tiến hành điều tra “Mức độ hài lòng

của nhà đầu tư với dịch vụ môi giới tại Công ty cổ phần Chứng khoán VNS” trên

100 nhà đầu tư có mở tài khoản giao dịch tại VNS.

I. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS

1. Sự ra đời

Công ty cổ phần chứng khoán VNS ra đời trong bối cảnh nền kinh tế đất

nước chuyển mình mạnh mẽ và thị trường tài chính Việt Nam phát triển nhanh

chóng. Là một doanh nghiệp trẻ năng động, ngay từ những ngày đầu mới thành lập,

VNS đã ý thức được sứ mệnh của mình là đem đến cho khách hàng những dịch vụ

tài chính chất lượng cao, những cơ hội lựa chọn sản phẩm, dịch vụ phong phú. Nhu

cầu của khách hàng chính là động lực để VNS phát triển. Thoả mãn tối đa khách

hàng chính là chìa khoá thành công. Toàn bộ Ban Lãnh đạo và tập thể VNS đều

đồng tâm phấn đấu vì sứ mệnh đó.

VNS được thành lập và hoạt động theo giấy phép số 69/UBCK-GPHĐKD do

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp ngày 28/08/2007, gồm các hoạt động: môi giới

chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng

47

khoán.

VNS được Trung tâm Lưu ký Chứng khoán cấp Giấy chứng nhận Thành

viên lưu ký số 64/GCNTVLK ngày 13/09/2007.

Vốn điều lệ của VNS là 161.000.000.000 (một trăm sáu mươi mốt tỷ đồng).

VNS có trụ sở chính đặt tại tầng 1 toà nhà VCCI, số 9 phố Đào Duy Anh và

một chi nhánh tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra công ty còn có khoảng

9 đại lý nhận lệnh trực tuyến tại Hà Đông, Bắc Giang, Phúc Yên, Thanh Hóa, Nghệ

An, Đồng Nai, Gia Lai, Nam Định, Đà Nẵng.

Có thể thấy rằng chi nhánh và đại lý của VNS không nhiều nhưng nằm ở nơi

mà thị trường chứng khoán phát triển nhất (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) và

đã cố gắng trải suốt từ Bắc vào Nam.

2. Cơ cấu tổ chức và nhân sự

VNS hiện có mô hình tổ chức báo cáo ít tầng nhằm giảm thiểu tính quan liêu

trong hệ thống cũng như nâng cao tính năng động của tổ chức. Ðặc điểm nổi bật của

mô hình VNS là tập trung vào khách hàng, đội ngũ nhân viên trẻ chuyên nghiệp,

năng động.

Rủi ro là một phần gắn liền với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Kiểm tra

và quản lý rủi ro sao cho cân bằng được mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận trước hết đòi

hỏi một cơ cấu tổ chức phù hợp và chính sách nhất quán trong toàn hệ thống. Do

đó, cơ cấu VNS hoàn toàn được tổ chức theo chiến lược phát triển do Hội đồng

Quản trị đề ra và liên quan chặt chẽ đến quản lý rủi ro. Đồng thời tính linh hoạt và

giảm thiểu quan liêu cũng luôn được đề cao giúp công ty dễ thích ứng và thay đổi

khi môi trường kinh doanh biến chuyển.

Nhìn vào sơ đồ tổ chức của công ty VNS dưới đây có thể thấy rằng tổ chức

của công ty theo đúng quy định pháp luật về cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần và

cũng theo mô hình chung của các công ty chứng khoán, đó là gồm 2 khối là khối

kinh doanh và khối hỗ trợ, mỗi khối do một Phó Tổng giám đốc chịu trách nhiệm

trực tiếp.

- Khối kinh doanh: thực hiện các giao dịch mua bán kinh doanh chứng khoán

như tự doanh, môi giới, bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán,

48

quản lý danh mục đầu tư. Đây là khối mang lại thu nhập chính cho công ty. Nhìn

chung, khối này có quan hệ trực tiếp với khách hàng bởi vì ngoài nghiệp vụ tự

doanh khối này mang lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng các nhu cầu của

khách hàng và tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó.

- Khối hỗ trợ: thực hiện các công việc yểm trợ cho khối kinh doanh như

hành chính, tổ chức, kế toán... Khối này tuy không trực tiếp tạo ra doanh thu cho

công ty nhưng lại đóng vai trò không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức để đảm bảo cho

sự hoạt động bình thường của công ty.

Sơ đồ 2 - Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần chứng khoán VNS

Các nhân sự chủ chốt, trực tiếp tham gia vào quá trình điều hành, quản lý

công ty đều là những người có học vấn cao, có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực

tài chính – ngân hàng và đã từng trực tiếp tham gia lãnh đạo những công ty lớn, có

uy tín.

Hiện nay, tại Hội sở chính Hà Nội, công ty VNS có khoảng 70 nhân viên và

tại chi nhánh TP. Hồ Chí Minh là khoảng 10 nhân viên. Tất cả các nhân viên của

49

VNS đều có trình độ thấp nhất là từ Đại học trở lên.

3. Các sản phẩm dịch vụ

 Môi giới chứng khoán

Tại VNS, khách hàng có thể giao dịch chứng khoán một cách nhanh chóng

và thuận lợi với chi phí hợp lý. VNS hợp tác với một số ngân hàng để cung cấp các

dịch vụ hỗ trợ vốn ngắn hạn cho khách hàng như: cầm cố cổ phiếu (niêm yết và

OTC), hợp đồng hợp tác đầu tư, ứng trước tiền bán chứng khoán.

Ngoài ra, khách hàng có thể sử dụng các dịch vụ tiện ích như đặt lệnh và truy

vấn thông tin qua điện thoại, tin nhắn và Internet. VNS thông báo kết quả giao dịch

cho khách hàng bằng tin nhắn ngay sau khi khớp lệnh thành công.

VNS còn triển khai mạnh mẽ dịch vụ môi giới và tư vấn cho khách hàng đầu

tư vào chứng khoán trên thị trường phi chính thức (OTC).

 Lưu ký chứng khoán và quản lý sổ cổ đông

Với phần mềm quản lý và theo dõi chứng khoán chuyên nghiệp, hệ thống

kho két hiện đại, VNS giúp nhà đầu tư yên tâm và giao dịch một cách thuận tiện,

chính xác.

VNS nhận ký gửi, bảo quản tập trung, chuyển giao chứng khoán, giúp thực

hiện các quyền lợi và thanh toán các giao dịch chứng khoán cho khách hàng.

VNS quản lý sổ cổ đông cho các tổ chức: quản lý danh sách cổ đông, quản lý

chuyển nhượng cổ phần, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh.

 Tư vấn đầu tư chứng khoán

Với kiến thức, kinh nghiệm và tinh thần trách nhiệm, đội ngũ tư vấn của

VNS giúp khách hàng đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn thông qua những dịch

vụ tư vấn chuyên nghiệp: cập nhật kiến thức và luật pháp về chứng khoán, cung cấp

thông tin về thị trường chứng khoán, phân tích chuyên sâu các cổ phiếu và doanh

nghiệp, phân tích cơ hội và nhân tố rủi ro tiềm ẩn của thị trường, giúp nhà đầu tư

phòng ngừa và đưa ra chiến lược đầu tư hiệu quả.

 Tư vấn tài chính doanh nghiệp

VNS xây dựng đội ngũ chuyên viên tư vấn giàu kinh nghiệm trong các lĩnh

vực chứng khoán, tài chính ngân hàng, kế toán, kiểm toán… Bên cạnh việc cung

50

cấp các dịch vụ tư vấn truyền thống như:

- Tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp.

- Tư vấn lập phương án cổ phần hoa doanh nghiệp.

- Tư vấn phát hành chứng khoán.

- Tư vấn đăng ký công ty đại chúng.

- Tư vấn niêm yết chứng khoán.

VNS còn cung cấp các dịch vụ tư vấn doanh nghiệp như:

- Tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp.

- Tư vấn quản trị tài chính doanh nghiệp.

Với phương châm “Chung một niềm tin”, chuyên viên tư vấn của VNS có

mặt trong suốt quá trình tư vấn và sau khi kết thúc nghiệp vụ, nhằm đảm bảo sự hỗ

trợ tối đa cho khách hàng.

 Ủy thác đấu giá chứng khoán

Đội ngũ đấu giá chuyên nghiệp của VNS hướng tới thoả mãn khách hàng với

giá mua thấp và tỷ lệ trúng cao bằng kinh nghiệm, sự tinh thông nghiệp vụ và nhanh

nhạy trong nắm bắt thông tin thị trường.

 Giao dịch vàng

Đáp ứng nhu cầu đầu tư của khách hàng, nhằm giúp khách hàng nắm bắt các

cơ hội đầu tư mới, VNS đã khai trương Sàn giao dịch vàng VNS Phố Wall tại tầng

1, tòa nhà VCCI, số 9 Đào Duy Anh. Tuy nhiên, sự tăng – giảm giá đầu cơ vàng và

các sàn vàng “mọc lên” ngày càng nhiều trong thời gian gần đây nên theo quy định

của Nhà nước, hạn chót là 31/3/2010 các sàn giao dịch vàng ảo phải chấm dứt hoạt

động. Và dịch vụ này của VNS cũng phải đóng cửa.

4. Giá trị mà VNS mang lại cho khách hàng

Giá trị mà VNS mang lại cho khách hàng cũng chính là thế mạnh của công ty

để cạnh tranh trên thị trường.

 Luôn lắng nghe và tận tâm phục vụ.

Nhu cầu của khách hàng chính là động lực để VNS phát triển. Vì thế, công ty

luôn lắng nghe khách hàng với sự tin tưởng rằng, hiểu rõ mong muốn của khách

hàng là cơ sở để VNS phục vụ khách hàng tốt nhất. Trong bối cảnh thị trường tài

51

chính trong nước mới phát triển và biến động không ngừng, công ty hiểu rằng

khách hàng luôn có những băn khoăn, cần thông tin và sự tư vấn chuyên nghiệp để

yên tâm trước các quyết định đầu tư. VNS cam kết luôn sát cánh cùng khách hàng,

chia sẻ những băn khoăn và hỗ trợ tối đa trên con đường cùng đi đến thành công.

 Đội ngũ cán bộ nhân viên thạo nghiệp vụ.

VNS chú trọng và đầu tư vào nguồn nhân lực, coi đó là yếu tố nòng cốt để

cạnh tranh và phát triển. Đội ngũ nhân viên của VNS được đào tạo từ những trường

đại học uy tín trong và ngoài nước, có kinh nghiệm nhiều năm với thị trường chứng

khoán Việt Nam. VNS áp dụng những chính sách đãi ngộ, khuyến khích tài năng để

nhân viên hoàn toàn yên tâm làm việc và phát triển và phục vụ khách hàng tốt nhất.

 Công nghệ và thiết bị hiện đại, đáng tin cậy.

VNS sử dụng công nghệ bảo mật tiên tiến nhất bằng hệ thống tường lửa của

Cisco Systems, kết hợp với hệ thống kiểm soát của Microsoft. Các máy chủ tiên

tiến nhất của Intel thường xuyên cập nhật và sao lưu dự phòng dữ liệu. VNS trang

bị tổng đài Contact Center của Siemens, phục vụ cho việc tra cứu thông tin chứng

khoán và đặt lệnh trực tiếp qua điện thoại, có thể tiếp nhận đến hàng trăm khách

hàng, ghi âm và báo cáo tất cả các cuộc gọi. Bên cạnh đó, hệ thống SMS tra cứu,

đặt lệnh bằng tin nhắn và giao dịch trực tuyến trên website nhanh chóng và an toàn.

Sàn giao dịch được trang bị 04 màn hình điện tử lớn, có các máy tính cho nhà đầu

tư kiểm tra thông tin.

 Cơ sở hạ tầng khang trang và tiện nghi.

VNS có trụ sở chính đặt tại tầng 1 toà nhà VCCI phố Đào Duy Anh, một

trong những khu vực trung tâm và sầm uất nhất của Hà Nội. Với tổng diện tích hơn 1250m2, VNS là một trong những công ty chứng khoán có mặt bằng giao dịch rộng

và thoáng nhất. Mong muốn của VNS là đem lại sự thoải mái và tiện nghi tối đa cho

nhà đầu tư. Công ty có bãi đỗ xe riêng thuận tiện cho khách hàng.

 Mối quan hệ sâu rộng với doanh nghiệp và tổ chức.

Với kinh nghiệm lâu năm về quản lý và kinh doanh, các chuyên gia tư vấn,

Ban Lãnh đạo, Hội Đồng Quản Trị và Cổ đông của VNS có mối quan hệ hợp tác

52

với nhiều doanh nghiệp và tổ chức ở Việt Nam. Mạng lưới đó cho phép VNS đem

lại cho khách hàng những giá trị gia tăng quan trọng trong tìm kiếm cơ hội hợp tác,

đầu tư và phát triển kinh doanh.

5. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần chứng khoán VNS.

Công ty cổ phần chứng khoán VNS chính thức đi vào hoạt động từ cuối năm

2007. Đây là một thời kỳ có thể nói là cực kỳ nhạy cảm.

Sau một năm 2006 thị trường chứng khoán phát triển quá “nóng” và lên đến

đỉnh điểm vào tháng 3/2007 với chỉ số VN Index hơn 1.000 điểm, thời kỳ này thị

trường chứng khoán đã bắt đầu đi xuống khảng từ tháng 8/2007, không còn “nóng”

như trước nữa. Các yếu tố làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam suy giảm vào

thời kỳ này có thể nêu ra như: vốn dĩ giá cổ phiếu ở Việt Nam là quá đắt so với một

thị trường mới nổi như Việt Nam, mặc dù thị trường có triển vọng tăng trưởng rất

tốt; sự gia tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng Nhà nước Việt Nam để kiểm

soát lạm phát và đồng thời giảm tỷ lệ cho vay đầu tư chứng khoán từ mức 7%

xuống còn 3% để giảm tình trạng dư thừa thanh toán; niềm tin bị sứt mẻ của các nhà

đầu tư tư nhân vào thị trường…

Bước sang năm 2008, khủng hoảng tài chính Mỹ, có dấu hiệu từ giữa năm

2007, đã thực sự xảy ra và làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế thế giới, đặc biệt

là đối với thị trường chứng khoán. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới bất ngờ ập

tới làm chỉ số VN Index lùi về mốc 300 điểm, thậm chí những tháng đầu năm 2009

VN Index chỉ còn hơn 200 điểm.

Có thể nói VNS vừa mới “ra đời” đã gặp ngay cơn sóng thần suy giảm kinh

tế lớn nhất lịch sử thế giới trong vòng 80 năm trở lại đây. Điều này được phản ánh

qua các báo cáo tài chính của công ty.

53

Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của VNS được thể hiện trong bảng sau:

Bảng 1 – Tài sản và nguồn vốn của VNS qua các năm

Đơn vị: đồng

Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Quý II/ 2009

I. Tổng tài sản 203.506.908.359 175.012.945.207 256.245.703.672

- Tài sản ngắn hạn 194.461.429.358 164.656.311.745 212.322.710.070

- Tài sản dài hạn 9.045.479.001 10.356.633.462 43.922.993.602

II. Tổng nguồn vốn 203.506.908.359 175.012.945.207 256.245.703.672

- Nợ phải trả 41.464.319.466 42.782.391.031 140.290.878.007

162.042.588.893 132.230.554.176 116.335.785.665

- Nguồn vốn chủ sở hữu

Nguồn: Bảng cân đối kế toán của VNS

Dựa vào các con số trên bảng có thể thấy được rằng tổng tài sản và tổng

nguồn vốn không phải lớn lắm nhưng cũng không hề nhỏ. Tổng tài sản và tổng

nguồn vốn của VNS năm 2008 giảm khoảng 28,5 tỷ đồng Việt Nam ( khoảng 14%)

so với năm 2007. Đến quý II/ 2009, tổng tài sản và tổng nguồn vốn lại tăng khoảng

81,2 tỷ (46,4%) so với năm 2008, tăng 52,7 tỷ (25,9%) so với năm 2007. Sự gia

tăng này là do sức tăng của tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn và đặc biệt là nợ phải

trả (tăng gần 100 tỷ), trong khi đó nguồn vốn chủ sở hữu có xu hướng giảm.

Ta lại có bảng sau:

Chỉ tiêu

Đơn vị tính Năm 2007 Năm 2008 Quý II/ 2009

Bảng 2 – Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của VNS qua các năm

I. Cơ cấu tài sản

- Tài sản ngắn hạn/ Tổng tài sản

%

95

94

83

- Tài sản dài hạn/ Tổng tài sản

5

6

17

II. Cơ cấu nguồn vốn

- Nợ phải trả/ Tổng nguồn vốn

%

20

24

55

- Vốn CSH/ Tổng nguồn vốn

80

76

45

Nguồn: Bảng cân đối kế toán của VNS

Dựa vào bảng này ta thấy cơ cấu tài sản của VNS thay đổi theo chuyền

hướng giảm dần tài sản ngắn hạn và tăng dần tài sản dài hạn. Trong khi đó, nguồn

54

vốn lại thay đổi theo giảm dần vốn chủ sở hữu và tăng dần nợ phải trả. Sự thay đổi

cơ cấu này của công ty thấy rất rõ từ năm 2008 sang quý II/ 2009. Mặc dù tổng tài

sản và tổng nguồn vốn của công ty tăng lên nhưng tỷ trọng nợ phải trả chiếm nhiều

trong nguồn vốn và tăng lên nhanh chóng cũng là một điều đáng lo ngại. Nếu xét

theo khía cạnh tăng nguồn vốn kinh doanh cho công ty bằng nguồn lực từ bên ngoài

thì cũng không hẳn là không tốt, nhưng VNS cần phải kiểm soát được số nợ của

mình.

Về mặt kết quả hoạt động kinh doanh, vì công ty hoạt động trong thời kỳ suy

thoái kinh tế nên kết quả kinh doanh bị ảnh hưởng rất nhiều.

Bảng 3 – Kết quả hoạt động kinh doanh của VNS qua các năm

STT

Chỉ tiêu

Năm 2007

Năm 2008

Quý II/ 2009

1 Doanh

thu hoạt động kinh

11.417.964.970

22.210.319.384

14.904.838.287

doanh chứng khoán

-

-

-

2

Các khoản giảm trừ

11.417.964.970

22.210.319.384

14.904.838.287

3 Doanh thu thuần

22.497.250

859.220.300

161.437.940

4

Thu lãi đầu tư

5 Doanh thu kinh doanh chứng

11.440.462.220

23.069.539.684

15.066.276.227

khoán và lãi đầu tư

6

Chi phí hoạt động kinh doanh

3.758.487.454

32.866.367.762

24.601.169.878

chứng khoán

7.681.974.766

- 9.766.828.078

- 9.534.893.651

Lợi nhuận gộp

7

Chi phí quản lý doanh nhiệp

6.180.109.006

21.226.055.759

10.968.866.214

8

Đơn vị: đồng

1.501.865.760

- 31.022.883.873

- 20.530.759.865

9

Lợi nhuận thuần từ kinh doanh chứng khoán

11.499.328

1.533.101.356

4.286.739.154

10 Lợi nhuận ngoài hoạt động kinh doanh chứng khoán

11 Tổng lợi nhuận trước thuế

1.513.365.008

- 29.489.782.517

- 16.217.020.711

12 Lợi nhuận tính thuế

1.490.867.838

- 30.349.002.817

-

13 Thuế thu nhập doanh nghiệp

417.442.995

-

-

14 Lợi nhuận sau thuế

1.095.922.093

- 29.489.782.517

-16.217.020.711 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VNS

Có thể thấy, hoạt động kinh doanh cuối năm 2007 của VNS thu được lãi gần

2 tỷ đồng là do vào thời kỳ này thị trường chứng khoán vẫn chưa suy giảm nhiều và

gần như toàn bộ lợi nhuận này là nhờ vào hoạt động kinh doanh chứng khoán. Sang

55

năm 2008 và đến hết quý II/ 2009, trên đà suy giảm của thị trường, lợi nhuận của

công ty luôn ở mức âm lớn. Trong khi lợi nhuận ngoài hoạt động kinh doanh chứng

khoán tăng gấp hàng chục lần thì lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chứng khoán

lại giảm tương ứng.

Đây là khó khăn chung của tất cả các công ty chứng khoán vào thời kỳ đó

chứ không phải chỉ riêng mỗi công ty VNS nên kết quả kinh doanh này không hoàn

toàn phản ánh năng lực của công ty. Thêm vào đó, là một công ty mới gia nhập thị

trường đã gặp ngay phải một cơn bão quá lớn thì sức chống đỡ của công ty dĩ nhiên

cũng kém hơn. Vì thế lợi nhuận sau thuế của VNS âm là điều có thể hiểu được.

Hiện nay, nhờ vào các gói kích cầu trong nước cũng như quốc tế và nỗ lực

vực dậy nền kinh tế của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng đang đạt

được những thành tựu bước đầu. Bằng chứng là cho đến cuối tháng 3/2010, VN

Index đã vượt được ngưỡng 500 điểm. Mặc dù vẫn có lúc tăng, giảm khá mạnh

nhưng thị trường chứng khoán đã có nhịp đập trở lại, không còn không khí ảm đảm

trong cuộc khủng hoảng nữa. Với tình hình diến biến tốt như vậy, kết quả kinh

doanh của VNS đảm bảo sẽ được cải thiện rõ rệt và đạt được những kết quả khả

quan hơn trong năm 2010 này.

II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN

CHỨNG KHOÁN VNS

1. Thực trạng hoạt động môi giới

1.1. Cách thức đặt lệnh giao dịch

Khách hàng đã mở tài khoản giao dịch tại công ty cổ phần chứng khoán VNS có

thể đặt lệnh giao dịch thông qua hai cách là giao dịch tại công ty và giao dịch từ xa.

Khách hàng có thể đến giao dịch trực tiếp tại quầy giao dịch công ty VNS –

tầng 1, số 9 Đào Duy Anh và thực hiện các bước sau:

- Bước 1: Khách hàng liên hệ với nhân viên bộ phận kế toán – lưu ký của

VNS để kiểm tra số dư tiền và số dư chứng khoán trong tài khoản trước khi giao

dịch.

- Bước 2: Khách hàng viết phiếu lệnh mua hoặc bán chứng khoán rồi chuyển

56

cho nhân viên giao dịch tại quầy giao dịch của VNS.

- Bước 3: Nếu lệnh của khách hàng hợp lệ, nhân viên giao dịch nhập lệnh

vào hệ thống sau đó chuyển lệnh vào Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh

hoặc Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.

- Bước 4: Buổi chiều, khách hàng có thể đến trực tiếp tại phòng Phòng giao

dịch của VNS hoặc gọi điện thoại tới số 043. 573 0073, kết nối với Phòng giao dịch

để biết thông tin về kết quả giao dịch của mình.

Để thực hiện một giao dịch từ xa, khách hàng có thể thực hiện qua Internet,

qua điện thoại hoặc qua tin nhắn.

Hệ thống Trading Online của VNS cho phép các nhà đầu tư chứng khoán có

thể thực hiện các chức năng sau:

- Truy cập và thay đổi mật khẩu giao dịch;

- Truy vấn thông tin tài khoản chứng khoán và tiền mặt;

- Thực hiện đặt lệnh mua hoặc bán chứng khoán;

- Hủy các lệnh mua hoặc bán chứng khoán đang trong trạng thái chờ khớp;

- Xem trạng thái và tra cứu chi tiết khớp lệnh tất cả các giao dịch.

Để tiến hành giao dịch mua hoặc bán chứng khoán, nhà đầu tư lựa chọn chức

năng Lệnh mua hoặc bán trên cửa sổ Đặt lệnh mua/ bán chứng khoán. Sau đó nhập

các thông tin cho giao dịch, bao gồm:

- Loại chứng khoán cần mua/ bán;

- Loại lệnh giao dịch: ATO, ATC hoặc LO;

- Số lượng dặt mua/ bán;

- Giá mua/ bán: đối với các loại lệnh như ATO, ATC hệ thống sẽ mặc định

lấy giá trần/ sàn của mã chứng khoán.

Hệ thống sẽ kiểm tra các điều kiện thực hiện giao dịch và sẽ yêu cầu nhà đầu

tư chứng thực nếu như giao dịch đó thỏa mãn các yêu cầu sau:

- Thời gian đặt lệnh: sàn Hà Nội, sàn TP. Hồ Chí Minh;

- Loại lệnh giao dịch: đối với các loại lệnh ATO, ATC, LO;

- Số lượng đặt mua/ bán: thỏa mãn quy định về bước khối lượng;

57

- Giá đặt mua/ bán: thỏa mãn quy định về bước giá đối với loại lệnh LO;

- Lượng tiền khả dụng của tài khoản: lượng tiền khả dụng >= (số lượng*giá)

+ phí giao dịch (mức phí giao dịch được cấu hình trong hệ thống);

- Lượng chứng khoán khả dụng của tài khoản: lượng chứng khoán khả dụng

>= số lượng đặt bán.

Nếu một trong các điều kiện trên không được thỏa mãn, hệ thống sẽ không

cho phép giao dịch thực hiện, đồng thời hiển thị thông báo cho từng trường hợp cụ

thể. Nếu các điều kiện trên được thỏa mãn, hệ thống sẽ xác nhận giao dịch có thể

thực thi và hiển thị ngẫu nhiên 3 tọa độ trên ma trận mã chứng thực để nhà đầu tư

chứng thực giao dịch.

Nhà đầu tư chỉ có thể hủy các lệnh mua hoặc bán chứng khoán khi mà lện đó

chưa được khớp hoặc khớp một phần. Để thực hiện chức năng này, nhà đầu tư lựa

chọn chức năng Trạng thái và Hủy lệnh, sau đó bấm vào nút Hủy lệnh. Trong

trường hợp lệnh đã được khớp thì sẽ không hủy được.

Sau khi khách hàng đã mở một tài khoản giao dịch chứng khoán tại công ty

VNS, để tiện cho khách hàng, công ty còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ đặt

lệnh giao dịch chứng khoán thông qua hệ thống nhắn tin qua SMS. Sau khi đăng ký

sử dụng dịch vụ nhắn tin qua SMS, khách hàng có thể:

- Nhắn tin truy vấn tài khoản chứng khoán và tiền mặt qua SMS;

- Nhắn tin truy vấn giá trần, giá sàn của một chứng khoán nhất định;

- Nhắn tin đặt lệnh mua hoặc bán chứng khoán;

- Nhắn tin xin hủy lệnh mua hoặc bán chứng khoán đang trong trạng thái chờ

xác nhận.

Để đặt lệnh mua/ bán chứng khoán, khách hàng soạn tin nhắn theo mẫu:

__ _[Số lượng]_[Giá giao dịch hoặc

mã lệnh] rồi gửi tới tổng đài dịch vụ 8234 hoặc 8034, với:

- VNS : là ký hiệu của công ty chứng khoán VNS;

- Mã giao dịch: là ký hiệu loại lệnh (M là mua và B là bán);

- Mã chứng khoán: là mã chứng khoán cần mua/ bán;

58

- Số lượng: là số lượng chứng khoán cần mua/ bán;

- Gia giao dịch hoặc mã lệnh: đơn giá chứng khoán cần mua/ bán hoặc loại

lệnh đặt (ATO, ATC, MP).

Kết quả trả về là:

- Nếu cấu trúc tin nhắn không chính xác thì tin nhắn trả về là: “Cấu trúc tin

nhắn không hợp lệ, xin vui lòng đặt lại lệnh”.

- Nếu chứng khoán đặt mua không có trong hệ thống thì tin nhắn trả về là:

“Chứng khoán đặt mua không tồn tại trong hệ thống”.

- Nếu số lượng giao dịch không thỏa mãn quy định về bước giá, tin nhắn trả

về là: “Số lượng đặt mua phải từ xxx chứng khoản trở lên”.

- Nếu đơn giá đặt mua/ bán không nằm trong khoảng giá trần, giá sàn của

chứng khoán thì tin nhắn trả về là : “Giá mua chứng khoán phải nằm trong khoảng

giá trần và giá sàn”.

- Nếu (số lượng*đơn giá) + phí giao dịch > số dư tiền mặt của nhà đầu tư thì

tin nhắn trả về là: “Quý khách không đủ số tiền để thực hiện giao dịch này”.

- Nếu số lượng chứng khoán đặt bán > số lượng khả dụng, tin nhắn trả về là:

“Quý khách không đủ số lượng chứng khoán để thực hiện giao dịch này”.

- Nếu đã hết giờ đặt lệnh đối với sàn Hà Nội, sàn Hồ Chí Minh hoặc với các

loại giao dịch ATO, ATC, MP thì hệ thống sẽ gửi các tin nhắn thông báo tương ứng

cho từng trường hợp.

- Nếu lệnh mua là thỏa mãn các điều kiện thì hệ thống sẽ trả về tin nhắn:

[CHUNG THUC(thay 3 ký tự tương ứng 3 với tọa độ)]_[A3B5D2]. Khách

hàng nhận được tin nhắn này sau đó thay 3 tọa độ bằng mã số thích hợp tương ứng

với các ký tự trên ma trận mã chứng thực đã được cung cấp và gửi lại vào số 8234

hoặc 8034.

- Nếu mã số xác thực chính xác thì tin nhắn trả về là: “Lệnh đã xác nhận

thành công”.

- Nếu mã số xác thực không chính xác thì tin nhắn trả về là: “Xác nhận

không thành công” đồng thời gửi lại yêu cầu chứng thực với 3 tọa dộn mới.

- Quá trình này được lập lại cho đến khi thành công hoặc sau một khoản thời

59

gian thì lệnh này sẽ được tự động loại bỏ.

Nếu khách hàng muốn hủy lệnh đặt mua/ bán chứng khoán vừa đặt trước đó

(lệnh chưa chứng thực) thì soạn tin nhắn theo mẫu _[HUY] rồi gửi đến số

8234 hoặc 8034. Kết quả trả về là: tin về các lệnh được hủy, số lượng tin nhắn được

hủy.

1.2. Nộp và rút tiền tài khoản giao dịch chứng khoán

 Nộp tiền giao dịch

Cách thứ nhất, khách hàng đã mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại công

ty VNS có thể trực tiếp nộp tiền mặt vào tài khoản giao dịch của mình tại quầy giao

dịch ngân hàng.

Cách thứ hai, khách hàng chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi ngân hàng vào

tài khoản giao dịch chứng khoán tại VNS qua các ngân hàng.

Khách hàng điền thông tin vào “Ủy nhiệm chi”, trong đó ghi những thông tin

cần thiết để chuyển tiền vào tài khoản của công ty tại Ngân hàng thương mại cổ

phần Quân đội chi nhánh Điện Biên Phủ - Phòng giao dịch Đào Duy Anh hoặc

Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh Hà Thành.

Cách thứ ba, khách hàng nộp tiền mặt vào tài khoản giao dịch chứng khoán

thông qua hệ thống các ngân hàng. Khách hàng có thể đến một ngân hàng bất kỳ

nộp tiền mặt và điền đầy đủ thông tin để nộp tiền vào tài khoản của công ty tại Ngân

hàng thương mại cổ phần Quân đội chi nhánh Điện Biên Phủ - Phòng giao dịch Đào

Duy Anh hoặc Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh Hà Thành.

Mặc dù như có các cách như trên nhưng nhà đầu tư hầu hết đều đến công ty

để thực hiện nộp tiền vào tài khoản giao dịch của mình.

 Rút, chuyển tiền từ tài khoản giao dịch của khách hàng

Khách hàng có thể rút tiền mặt từ tài khoản của mình bằng cách đến Quầy

giao dịch công ty VNS lập 04 liên “Giấy lĩnh tiền mặt” nộp cho nhân viên kế toán

giao dịch kèm chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu để kế toán giao dịch đối chiếu,

kiểm tra và lập 02 liên “Phiếu chi”. Sau đó, khách hàng cầm 03 liên “Giấy lĩnh tiền

mặt” và 01 liên “Phiếu chi” sang ngân hàng để nhận tiền.

Hoặc, khách hàng có nhu cầu chuyển tiền từ tài khoản giao dịch chứng

60

khoán tại công ty VNS sang ngân hàng bất kỳ mà khách hàng có tài khoản, thực

hiện bằng cách ghi vào 02 liên “Ủy nhiệm chi” sau đó chuyển cho bộ phận kế toán

giao dịch.

Nói chung, các nhà đầu tư hầu hết sử dụng hình thức rút tiền tại công ty vì

muốn chuyển tiền từ tài khoản giao dịch chứng khoán tại công ty sang tài khoản

ngân hàng thì phải có chữ ký “sống” của nhà đầu tư trên “Ủy nhiệm chi”. Và như

thế, nhà đầu tư muốn chuyển tiền thì vẫn phải đến công ty làm thủ tục.

Hơn nữa, hiện nay trên thị trường, chỉ có một số rất ít công ty chứng khoán

được phép cho khách hàng rút tiền từ tài khoản giao dịch tại công ty mình qua hệ thống

ATM của ngân hàng. Nhưng VNS lại không phải là một trong số những công ty này.

1.3. Phí môi giới

Sau đây là biểu phí môi giới và các nghiệp vụ liên quan phục vụ cho hoạt

động môi giới của công ty cổ phần chứng khoán VNS.

Mức phí giao dịch/ Giá trị giao

Bảng 4 – Biểu phí giao dịch của VNS

dịch ngày

STT Loại dịch vụ

1 Phí giao dịch cổ phiếu

- Phí mở tài khoản Miễn phí

- Giá trị giao dịch từ 100 – dưới 500 triệu

- Giá trị giao dịch < 100 triệu đồng 0,3%

0,25%

- Giá trị giao dịch >= 500 triệu đồng 0,2%

0,1% 2 Phí giao dịch trái phiếu

0,25% 3 Phí giao dịch chứng chỉ quỹ

4 Phí lƣu ký chứng khoán

- Phí lưu ký chứng khoán Miễn phí

- Phí chuyển khoản chứng khoán Miễn phí

Nguồn: http://www.vnsc.com.vn

Với mức phí giao dịch như vậy thì VNS là một trong những công ty chứng

khoán có mức phí giao dịch thấp nhất trên thị trường.

Để chứng minh điều này, người viết xin đưa ra biểu phí của một số công ty

61

chứng khoán khác sau đây để so sánh.

Bảng 5 – Biểu phí giao dịch của công ty trách nhiệm hữu hạn

STT

Loại dịch vụ

Mức phí

1

Giao dịch cổ phiếu và chứng chỉ quỹ

- Tổng giá trị giao dịch < 100 triệu đồng/ ngày

0,4% * Giá trị GD

- Tổng giá trị giao dịch từ 100 – dưới 300 triệu đồng/ ngày

0,3 % * Giá trị GD

- Tổng giá trị giao dịch từ 300 – dưới 500 triệu đồng/ ngày

0,25% * Giá trị GD

- Tổng giá trị giao dịch từ 500 – dưới 1 tỷ đồng/ ngày

0,2 % * Giá trị GD

- Tổng giá trị giao dịch > 1 tỷ đồng/ ngày

0,15% * Giá trị GD

0.15% * Giá trị GD

- Giao dịch thỏa thuận

2

0,1% * Giá trị GD

Giao dịch trái phiếu

3

Lưu ký chứng khoán

2 đồng/30 x Vi (*)

- Phí lưu ký chứng khoán/ tháng

5đồng/ lô CK

- Phí chuyển chứng khoán

chứng khoán ACB

Với:

 1 lô chứng khoán = 10 chứng khoán.

 Vi (*) là tổng số lô chứng khoán lưu ký trong tháng được xác định bằng

cộng dồn số dư trên tài khoản lưu ký chứng khoán của từng ngày.

Nguồn: http://www.acbs.com.vn

Bảng 6 – Biểu phí giao dịch của Công ty cổ phần chứng khoán Thăng Long

Mức phí/ tổng phí giao dịch/ ngày Giá trị giao dịch

< 50 triệu đồng 0,4%

50 – 100 triệu đồng 0,385%

100 – 200 triệu đồng 0,375%

200 – 300 triệu đồng 0,35%

300 – 500 triệu đồng 0,3%

500 – 700 triệu đồng 0,25%

700 – 1 tỷ đồng 0,2%

> 1 tỷ đồng 0,15%

62

Nguồn: http://www.thanglongsc.com.vn

Có thể thấy rằng trong khoảng giá trị giao dịch nhỏ hơn 100 triệu đồng và từ

100 - dưới 500 triệu đồng thì mức phí của VNS nhỏ hơn từ 0,05 – 0,1% so với

công ty ACB và Thăng Long, trong khi giá trị giao dịch lớn hơn 1 tỷ đồng thì mức

phí của VNS lại cao hơn 0,05%. Nhìn vào biểu phí như thế này có thể thấy ngay

được rằng đối tượng khách hàng VNS hướng tới là các nhà đầu tư nhỏ lẻ, giá trị

giao dịch hàng ngày thường nhỏ hơn 1 tỷ đồng. Tuy vậy, nhìn chung, mức phí giao

dịch của VNS hiện nay là thấp, có sức cạnh tranh cao, là một trong những yếu tố thu

hút khách hàng đến với dịch vụ môi giới của công ty.

1.4. Nhân lực cho hoạt động môi giới

Hiện nay tại VNS có 2 phòng làm các công việc liên quan đến hoạt động môi

giới chứng khoán là phòng Giao dịch niêm yết và phòng Phân tích và Phát triển

kinh doanh.

Phòng Phân tích và Phát triển kinh doanh có 28 nhân viên, phòng Giao dịch

niêm yết thì có 12 nhân viên.

Các nhân viên của phòng Phân tích và Phát triển kinh doanh làm các công

việc như: tìm kiếm khách hàng; dịch vụ hỗ trợ vốn ngắn hạn cho khách hàng; phân

tích và đưa ra lời khuyên cho khách hàng; phát triển kinh doanh… Trong khi đó,

phòng Giao dịch niêm yết thì chỉ có một công việc là đặt lệnh cho nhà đầu tư.

Có thể thấy rằng ở VNS không có phòng môi giới riêng, mọi công việc của

hoạt động môi giới và hỗ trợ hoạt động môi giới đều do 2 phòng trên đảm nhiệm.

Mặc dù trên danh nghĩa là do 2 phòng cùng làm nhưng thực tế mọi công việc đều do

nhân viên phòng Phân tích và Phát triển kinh doanh thực hiện, còn phòng Giao dịch

thì chỉ có một nhiệm vụ là đặt lệnh.

Và ngoài công việc phát triển hoạt động môi giới, phòng Phân tích và Phát

triển còn phải phát triển các hoạt động khác của công ty. Vì thế, khối lượng công

việc của phòng này rất lớn, đòi hỏi nhân viên không những phải có trình độ, năng

lực mà còn năng động, chịu được áp lực công việc.

63

Sau đây là bảng tổng kết số lượng và trình độ nhân viên của 2 phòng.

Bảng 7 – Số lƣợng và trình độ nhân viên của hoạt động môi giới tại VNS

Chỉ tiêu

Phòng

Phòng

Đơn vị: người

Tổng

Phân tích và Phát triển kinh doanh

Giao dịch niêm yết

số

12

Số nhân viên

28

40

2

Trình độ trên đại học

10

12

10

Trình độ đại học

18

28

3

Có chứng chỉ hành

10

13

nghề

Nguồn: Phòng Phân tích và Phát triển kinh doanh VNS

So với tổng số nhân viên Hội sở là 70 người thì số nhân viên giành cho hoạt

động môi giới chiếm phần lớn. Đây cũng là điều dễ hiểu vì môi giới là một trong

những hoạt động mang lại nguồn thu chính cho công ty, nhất là sau khi VNS không

còn hoạt động tự doanh nữa. Bên cạnh đó, như đã nói ở trên, phòng Phân tích và Phát

triển kinh doanh không chỉ làm công việc môi giới mà còn làm nhiều công việc khác.

Biểu đồ 1 - Cơ cấu nhân viên của VNS

Do tính chất công việc đòi hỏi nên nhìn chung trình độ nhân viên của phòng

Phân tích và Phát triển kinh doanh rất cao, có đến 10/ 28 người có trình độ trên đại

học. Phòng Giao dịch cũng có 2/ 12 người có trình độ trên đại học. Các nhân viên

còn lại đều là trình độ đại học, đã tốt nghiệp ở các trường đại học có tiếng như Đại

64

học Ngoại thương, Đại học Kinh tế qốc dân…

Biểu đồ 2 - Cơ cấu nhân viên môi giới theo trình độ của VNS

Nhìn chung, đội ngũ nhân sự môi giới của VNS bao gồm những cán bộ có

trình độ chuyên môn cao, có năng lực và có trách nhiệm với công việc. Cán bộ quản

lý và kinh doanh của VNS đều là những người có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh

vực tài chính ngân hàng, kinh doanh tiền tệ. Một số nhân viên vẫn đang theo học

các khóa học trên đại học, bao gồm cả thạc sỹ quản trị kinh doanh và tiến sỹ kinh tế.

Biểu đồ 3 - Cơ cấu nhân viên môi giới của VNS theo chứng chỉ

Nhìn vào biểu đồ về cơ cấu trình độ nhân viên môi giới của VNS theo tỷ lệ

đã có chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán hay chưa, có thể thấy được số

lượng nhân viên môi giới đã có chứng chỉ hành nghề của công ty là cao: 13/ 40

người. Mặc dù vậy, hiện nay VNS cũng đang khuyến khích các nhân viên chưa có

chứng chỉ hành nghề đăng ký các khóa học chứng chỉ do Sở giao dịch chứng khoán

tổ chức.

1.5. Cơ sở hạ tầng, thiết bị và công nghệ của hoạt động môi giới

Có thể nói cơ sở hạ tầng và thiết bị là một thế mạnh nổi bật của VNS trong

65

hoạt động môi giới.

Sàn giao dịch của công ty được đặt tại tầng 1, tòa nhà VCCI, số 9 Đào Duy

Anh (Hà Nội) – cũng chính là Hội sở của công ty, là địa điểm đông đúc, sầm uất,

đường xá rộng rãi và dễ tìm. So với các địa điểm khác thì tòa nhà này có chỗ để xe

rộng hơn, sàn giao dịch của công ty lại ngay mặt tiền tầng 1 nên rất thuận tiện cho

khách hàng ra vào.

Với tổng diện tích là hơn 1.250m vuông, sàn giao dịch của VNS được cho là

sàn có diện tích gần như lớn nhất so với các sàn ở Hà Nội. Sức chứa của sàn có thể

lên đến hơn 200 người. Đây là một điểm rất thu hút đối với các nhà đầu tư nhỏ, lẻ -

đối tượng khách hàng chủ yếu của công ty.

Trang thiết bị của sàn cũng là một điểm đáng nhắc tới. Như đã nói ở trên,

với lợi thế diện tích sàn giao dịch rộng, VNS đã tạo cho khách hàng sự thoải mái

nhất khi giao dịch tại sàn của mình. Sàn được trang bị những chiếc ghế êm ái, thoải

mái, được sắp xếp theo từng đôi một để tiện cho sự di chuyển của khách hàng.

Ngoài nghế đệm, sàn còn có khoảng 10 máy tính để bàn cho khách hàng tùy nghi sử

dụng. Những chiếc máy này gọn gàng, màn hình mỏng, cấu hình cao đem, lại sự hài

lòng cao nhất cho người dùng chúng. Với sức chứa hơn 200 người thì trang bị 10

máy tính là ít, để khắc phục việc này VNS còn đặt tại sàn nhiều bàn đôi để khách

hàng đặt máy tính xách tay của mình.

Sàn giao dịch của VNS có 4 bảng điện tử lớn và 4 máy chiếu phục vụ cho

khách hàng theo dõi. Số bảng điện tử này đều nối mạng trực tiếp bảng điện tử của

Sở giao dịch để cập nhật thông tin nhất cho khách hàng. Về tốc độ, bảng điện tử của

VNS có thể nói là nhanh nhất, nhì thị trường, màn hình sắc nét và chưa bao giờ bị

lỗi. Mặc dù đây là một ưu điểm không phải mang tính quyết định nhất nhưng không

phải công ty chứng khoán nào cũng làm thỏa mãn khách hàng về mặt này. Có thể

thấy đây là nỗ lực rất lớn của VNS, rất đáng để ghi nhận.

Trước mặt tiền của công ty, VNS còn có một bảng điện tử lớn để cập nhật

những thông tin, ưu đãi từ phía công ty. Trên đoạn đường Đào Duy Anh, bảng điện

tử này rất bắt mắt, thu hút sự chú ý của người qua đường. Đây vừa là một cách

66

marketing vừa là thể hiện sự quan tâm của công ty đến khách hàng.

Hiện tại, VNS đang có 5 máy nhận lệnh giao dịch trực tiếp tại sàn của khách

hàng và 10 máy nhận lệnh giao dịch qua điện thoại.

Về công nghệ, hiện nay VNS đang sử dụng hệ thống phần mềm VSPro của

Việt Nam. VSPro là một phiên bản phần mềm với rất nhiều tính năng vượt trội,

trong đó, VNS đặc biệt ưu tiên đến tốc độ, tính chính xác và bảo mật trong quá trình

giao dịch.

VSPro được sử dụng thống nhất trong Hội sở, chi nhánh và các đại lý nhận

lệnh của công ty. Nhờ vậy, khách hàng của VNS có thể tới bất kỳ đại lý nào của

TSC để truy vấn thông tin, thực hiện các giao dịch về tiền, chứng khoán và các dịch

vụ khác do TSC cung cấp.

Khách hàng của VNS có thể thực hiện đồng thời các giao dịch đặt lệnh, xem

số dư tài khoản, tra cứu thông tin khớp lệnh, tra cứu thông tin thị trường trên tất cả

các hình thức đặt lệnh của VNS: trực tiếp tại sàn giao dịch, qua Internet và qua điện

thoại.

Với phiên bản VSPro, VNS mong muốn sớm hoàn thành mục tiêu tiến tới tự

động hoá hoàn toàn các quy trình nghiệp vụ của hoạt động giao dịch chứng khoán

của khách hàng.

1.6. Các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ khách hàng trong hoạt động môi giới

Về hình thức thì các dịch vụ này rất đa dạng nhưng mục đích chung là tạo

điều kiện thuận lợi và làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, tăng doanh thu cho

hoạt động môi giới.

Đầu tiên, khi nhà đầu tư mở tài khoản tại VNS, công có dịch vụ cung cấp số

tài khoản đẹp, số tài khoản chọn cho khách hàng. Loại dịch vụ này thường để phục

vụ cho các khách VIP, có yêu cầu về hình thức số tài khoản.

Sau khi giao dịch của khách hàng được khớp lệnh, ngay lập tức, nhân viên

giao dịch sẽ gọi điện thông báo cho khách hàng. Và nếu khách hàng có yêu cầu, sẽ

được in thông tin kết quả khớp lệnh, sao kê chứng khoán, tiền gửi của mình. Vào 17h

hàng ngày, nhân viên môi giới sẽ gửi vào địa chỉ email của nhà đầu tư bản tin kết quả

giao dịch thị trường trong ngày. Đây là một hoạt động phổ biến của các công ty

67

chứng khoán và VNS cũng không thể bảo qua dịch vụ chăm sóc khách hàng này.

Hàng ngày, ngoài những bản in thông tin thị trường phát cho nhà đầu tư khi

đến sàn giao dịch, buổi sáng sẽ có bài thuyết trình của nhân viên công ty cập nhật và

phân tích mọi thông tin về thị trường, từ ngày hôm trước đến 8h sáng ngày thuyết

trình, trước toàn thể nhà đầu tư tại sàn. Đây là chương trình có tên “VNS Daily

Morning Report” rất hữu ích cho nhà đầu tư.

Không chỉ dừng ở đó, vào 17h thứ 6 hàng tuần VNS đều tổ chức “Hội thảo

nhận định chứng khoán” có sự tham gia của các chuyên gia trong ngành nhằm chia

sẻ những thông tin liên quan trực tiếp đến thị trường chứng khoán trong nước và quốc

tế để nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định sáng suốt nhất cho mình. Đây là chương

trình thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư. Nhất là khi thị trường chứng

khoán Việt Nam vừa trải qua một cơn sóng to gió lớn, nhu cầu được cung cấp thông

tin và đưa ra hướng đi đúng đắn của nhà đầu tư thực sự bùng phát mạnh mẽ.

Hai chương trình “VNS Daily Morning Report” và “Hội thảo nhận định

chứng khoán hàng tuần” thực sự là điểm nổi bật, độc đáo, rất sáng tạo của VNS.

Những hoạt động này làm tăng thêm niềm tin của nhà đầu tư đối với công ty, tạo ra

sự gắn kết giữa công ty và nhà đầu tư, thể hiện được sự tận tâm và vì lợi ích cao

nhất của công ty dành cho nhà đầu tư.

Vào những dịp lễ, tết, ngày kỷ niệm quan trọng… VNS luôn có những

chương trình ưu đãi, giảm phí giao dịch cho nhà đầu tư và các ưu đãi khác như:

“Mừng sinh nhật vàng cùng VNS”, giảm 50% chi phí giao dịch cho các tài khoản

mở trong tháng 3/2010…

Ngoài những hoạt động hỗ trợ thông tin, VNS còn hoạt động rất mạnh trong

việc hỗ trợ vốn ngắn hạn cho khách hàng. Các dịch vụ hỗ trợ về vốn cho nhà đầu tư

gồm có dịch vụ cầm cố chứng khoán, hợp đồng hợp tác đầu tư giữa khách hàng giao

dịch chứng khoán niêm yết và công ty, ứng trước tiền bán chứng khoán.

Cho vay cầm cố chứng khoán là một hình thức tín dụng mà nhà đầu tư nở

tài khoản giao dịch tại VNS dùng số chứng khoán sở hữu hợp pháp có trong tài

khoản của mình làm tài sản cầm cố để vay tiền. Nhằm chia sẻ và tạo điều kiện

thuận lợi nhất cho khách hàng gia tăng được vốn đầu tư, đặc biệt là khi thị trường

68

tăng điểm mạnh, công ty chứng khoán VNS đã phối hợp với ngân hàng thương mại

cổ phần Đại Tín – Chi nhánh Hà Nội (Trustbank) hỗ trợ vốn đầu tư cho khách hàng

bằng dịch vụ cầm cố chứng khoán niêm yết. Số tiền khách hàng vay được từ chứng

khoán cầm cố chỉ được sử dụng vào đầu tư chứng khoán, không được rút ra.

Theo định kỳ, phòng Đầu tư của ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín –

chi nhánh Hà Nội tiến hành phân tích và lựa chọn các cổ phiếu niêm yết trên 2 sàn

HOSE và HASTC để phục vụ sản phẩm cho vay cầm cố của ngân hàng. Để thực

hiện sản phẩm này, khách hàng sẽ được hưởng mức vay như sau:

- Các mã chứng khoán hạng H1: tỷ lệ cho vay áp dụng là 45%.

- Các mã chứng khoán hạng H2: tỷ lệ cho vay áp dụng là 40%.

- Các mã chứng khoán hạng H3: tỷ lệ cho vay áp dụng là 35%.

- Các mã chứng khoán hạng H4: tỷ lệ cho vay áp dụng là 30%.

Giá áp dụng tính tỷ lệ cho vay là giá tham chiếu của chứng khoán tại ngày ký

hợp đồng cho vay và định mức cho vay của tất cả các cổ phiếu không vượt quá 03

lần mệnh giá.

Danh mục được xếp loại theo tính thanh khoản (trung bình 20 phiên gần

nhất) và định giá riêng của phía ngân hàng Đại Tín. Trong đó, hạng H1 có 36 mã cổ

phiếu, hạng H2 có 36 mã cổ phiếu, hạng H3 có 54 mã cổ phiếu, hạng H4 có 69 mã

cổ phiếu.

Lãi suất mà VNS đưa ra là 1,2% giá trị cầm cố/ tháng với kỳ hạn là 3 tháng

và không được gia hạn thêm. Khi đã hết thời hạn, VNS cho nhà đầu tư thêm 5 ngày

qua hạn nhưng phải chiu mức lãi suất bằng 150% lãi suất trong hạn, tức là 1,8% giá

trị cầm cố/ ngày. Nếu quá thời hạn này, VNS sẽ fax “Yêu cầu xử lý chứng khoán

cầm cố” cho ngân hàng Đại Tín. Và nếu Đại Tín yêu cầu VNS bán chứng khoán

cầm cố để thu hồi vốn thì VNS sẽ bán một số lượng chứng khoán nhất định của

khách hàng bằng với gía trị đã cho vay. Nhưng thông thường, không bao giờ trường

hợp này xảy ra.

Lãi thu được của VNS trong hoạt động này là tỷ lệ hoa hồng đã thỏa thuận

trước giữa công ty và ngân hàng Đại Tín (tỷ lệ trong số 1,2%). Nhưng phần lời mà

VNS thu được thực tế là rất thấp vì với mức lãi suất 1,2%/ tháng là thấp hơn so với

69

mức 1,7% – 1,8%/ tháng của những công ty khác. Mặc dù vậy, VNS vẫn duy trì và

phát triển hoạt động này vì đây là một hoạt động hỗ trợ quan trọng cho hoạt động

môi giới.

Hợp đồng hợp tác đầu tư giữa khách hàng giao dịch chứng khoán niêm yết

và VNS có tiền thân là hoạt động repo. Về bản chất hoạt động này cũng giống như

hoạt động cầm cố chứng khoán, chỉ khác ở chỗ chính công ty chứng khoán bỏ tiền

của mình ra cho nhà đầu tư vay. VNS có thể cho nhà đầu tư vay dựa trên tài sản

đảm bảo lên đến mức 100%.

Hiện nay, VNS đang áp dụng mức lãi suất là 0,05%/ ngày đối với một hợp

đồng hợp tác đầu tư, thời hạn quy định trong hợp đồng. Trong trường hợp quá hạn

lần một, tức là trong 7 ngày quá hạn (kể cả các ngày nghỉ thứ 7, chủ nhật và các

ngày nghỉ lễ), lãi suất áp dụng: 120% lãi suất trong hạn. Trong trường hợp quá hạn

lần hai, tức là lớn hơn 7 ngày quá hạn (kể cả các ngày nghỉ thứ 7, chủ nhật và các

ngày nghỉ lễ), lãi suất áp dụng: 150% lãi suất trong hạn và thời hạn quá hạn lần 2

không vượt quá 7 ngày. Sau 7 ngày, VNS sẽ đơn phương dừng hợp tác đầu tư và

bán chứng khoán của khách hàng để thu hồi vốn cho Công ty.

Vì lãi suất cho vay cao và số lượng nhà đầu tư có nhu cầu rất lớn nên doanh

thu VNS thu được từ hoạt động này là rất lớn, có thể ngang ngửa bằng doanh thu

môi giới của công ty. Như vậy, khi thực hiện hợp đồng hợp tác đầu tư này, ngoài

việc hỗ trợ vốn cho nhà đầu tư sử dụng dịch vụ môi giới chứng khoán của công ty,

còn làm tăng doanh thu của công ty một cách đáng kể. Đối với công ty, đây là một

hoạt động lợi cả đôi đường.

Ứng trước tiền bán chứng khoán là việc VNS dùng tiền của mình ứng trước

tiền bán chứng khoán của khách hàng có tài khoản giao dịch tại công ty được thực

hiện tại Sở giao dịch chứng khoán và sẽ nhận lại tiền khi đến ngày thanh toán. Vì

sau khi bán chứng khoán, đến ngày T+3 nhà đầu tư mới nhận được tiền của chứng

khoán mình đã bán. Để tạo điều kiện cho nhà đầu tư không bỏ mất cơ hội, hoạt

động này được ra đời. Đây cũng là một hoạt động hỗ trợ phổ biến của các công ty

70

chứng khoán.

Khi tiền về tài khoản của khách hàng thì hệ thống sẽ tự trừ số tiền mà công ty

đã ứng trước cho nhà đầu tư. Mức lãi suất hiện nay VNS đang áp dụng cho hoạt

động này là 0,045%/ ngày, số tiền ứng trước ít nhất là 50.000 đồng.

Mặc dù cũng là hoạt động mà công ty phải tự bỏ vổn ra nhưng so với hợp

đồng hợp tác đầu tư thì lãi thu được từ hoạt động này là không đáng kể. Cũng giống

như hoạt động cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán là nhằm hỗ trợ

khách hàng để phát triển dịch vụ môi giới của công ty.

Tất cả các hoạt động chăm sóc và hỗ trợ nhà đầu tư kể trên đều do phòng

Phân tích và Phát triển kinh doanh thực hiện. Nhân viên trong phòng được chia ra

thanh 4 nhóm, mỗi nhóm từ 6 – 7 người quản lý một số lượng nhà đầu tư nhất định.

1.7. Kết quả hoạt động môi giới

Như đã phân tích trong mục thực trạng hoạt động kinh doanh của VNS, kết

quả kinh doanh của công ty không được tốt, lợi nhuận sau thuế năm 2008 và năm

2009 đều âm, nhưng như vậy không có nghĩa là hoạt động kinh doanh môi giới

không phát triển, không đạt được thành tựu gì.

Môi giới chứng khoán là một hoạt động chính của VNS, rất được ban lãnh

đạo công ty quan tâm phát triển, nhất là khi mà công ty không còn hoạt động tự

doanh chứng khoán từ năm 2009.

Ta có bảng doanh thu sau của VNS.

Bảng 8 - Doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của VNS

Đơn vị: đồng

Chỉ tiêu

Năm 2007 1.759.659.618 4.403.556.912 Năm 2008 6.952.930.255 1.185.779.283

- - - -

155.490.900 969.524.638

- -

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Doanh thu môi giới chứng khoán Doanh thu hoạt động tự doanh Doanh thu quản lý danh mục đầu tư Doanh thu bảo lãnh phát hành Doanh thu tư vấn đầu tư chứng khoán Doanh thu lưu ký chứng khoán Hoàn nhập dự phòng, trích trước Doanh thu về vốn kinh doanh Doanh thu cho thuê tài sản Tổng số

71

- - 11.434.054.123 4.096.540.540 1.668.031.085 1.002.717.000 22.210.319.384 11.417.964.970 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VNS

Nhìn vào bảng ta có thể thấy doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán

của VNS được cấu thành từ 5 nguồn, tùy vào tình hình của công ty và thị trường mà

đóng góp của 5 nguồn này vào doanh thu của công ty là khác nhau. Nhưng có thể

thấy, doanh thu của VNS có 2 nguồn chính và ngày một phát triển là Doanh thu

môi giới chứng khoán cho nhà đầu tư và Doanh thu về vốn kinh doanh.

Biểu đồ 4 - Cơ cấu doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của

VNS năm 2007

Biểu đồ 5 - Cơ cấu doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của

72

VNS năm 2008

Nhìn vào 2 biểu đồ cơ cấu doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán trên

của VNS, ta thấy tỷ trọng của hoạt động môi giới đóng góp vào doanh thu của công

ty tăng lên gấp đôi chỉ sau 1 năm, từ 15% lên đến 31%. Tổng doanh thu kinh doanh

chứng khoán của VNS tăng từ 11,4 tỷ đồng năm 2007 lên 22,2 tỷ đồng năm 2008

càng cho thấy sức gia tăng của doanh thu hoạt động môi giới.

Bảng 9 - Doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán của VNS qua các năm

Đơn vị: đồng

Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009

Doanh thu môi giới 1.759.659.618 6.952.930.255 9.032.598.600

Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VNS

Qua các con số doanh thu môi giới ở bảng trên,có thể thấy hoạt động môi giới

của công ty ngày càng phát triển. Điều đó thể hiện ở doanh thu môi giới ngày càng

tăng qua các năm.Mặc dù năm 2008 và năm 2009 là quãng thời gian đen tối nhất của

thị trường chứng khoán Việt Nam kể từ ngày ra đời cho đến nay, nhưng mọi nỗ lực

cố gắng của VNS, bằng các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ khách hàng, để thu hút nhà

đầu tư sử dụng dịch vụ môi giới của công ty không phải là không có kết quả.

Vào thời điểm thị trường hoạt động tốt, ổn định, doanh thu môi giới trong

một ngày của VNS có thể lên tới từ 100 – 120 triệu đồng. Trong thời gian thị trường

chứng khoán ảm đảm, trung bình một tháng VNS chỉ thu được khoảng 30 triệu

đồng tiền phí môi giới.

73

Biểu đồ 6 - Doanh thu môi giới của VNS

Đối với một công ty còn non trẻ như VNS cùng với những khó khăn khách

quan gặp phải mà đạt được mức tăng doanh thu như vậy là rất đáng mừng. Tuy

nhiên, mặc dù vậy, kết quả kinh doanh hoạt động môi giới chứng khoán của công ty

không thu được lợi nhuận vì chi phí bỏ ra cho hoạt động này là rất lớn. Hầu hết các

chi phí cho hoạt động kinh doanh chứng khoán, đối với một công ty mới ra đời như

VNS, là chi cho cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ. Các cơ sở này mặc dù để

phục vụ cho tất cả các hoạt động của công ty nhưng thực chất là chủ yếu phục vụ

cho hoạt động môi giới. Ngoài các chi phí này, công ty còn phải chi cho các dịch vụ

chăm sóc khách hàng và các chương trình thu hút nhà đầu tư. Vì thế chi phí bỏ ra

cho hoạt động này không hề nhỏ.

Bảng 10 – Chi phí hoạt động kinh doanh chứng khoán của VNS qua các năm

Đơn vị : đồng

Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009

Chi phí hoạt động kinh 3.758.487.454 32.866.367.762 45.509.678.912

doanh chứng khoán

Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VNS

So với bảng Doanh thu hoạt động kinh doanh chứng khoán của VNS thì mức

chi phí phải bỏ ra cao hơn rất nhiều so với doanh thu. Mà hầu hết chi phí này đều là

chi phí cho hoạt động môi giới nên so với doanh thu môi giới thì lợi nhuận của công

ty lại càng âm nhiều hơn nữa.

74

Ta có thể thấy được điều đó trong biểu đồ sau đây.

Biểu đồ .7 - Doanh thu và chi phí môi giới của VNS

Để xây dựng được một cơ sơ hạ tầng tốt, tiện nghi; trang thiết bị đầy đủ, hiện

đại; công nghệ tiên tiến với độ bảo mật cao thì quả thật con số phải bỏ ra là rất lớn.

Nhưng cũng chính nhờ vào điểm này mà nó trở thành một trong những thế mạnh

của VNS để cạnh tranh với các công ty chứng khoán khác. Ưu điểm về cơ sở hạ

tầng, thiết bị thực sự đã có ảnh hưởng rất tốt đến tâm lý của các nhà đầu tư. Nhiều

nhà đầu tư đã bỏ những sàn giao dịch nhỏ, chật hẹp, không tiện nghi mấy để đến với

sàn giao dịch của VNS. Đây lại càng là một thế mạnh để công ty phát triển hoạt

động môi giới khi mà công việc tìm kiếm khách hàng không hề đơn giản, số lượng

nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán là có hạn.

75

Số lượng tài khoản giao dịch tại VNS được theo dõi trong bảng sau.

Bảng 11 – Theo dõi số lƣợng tài khoản giao dịch đóng, mở tại VNS qua các quý

Tài khoản mở

Tài khoản đóng

Quý

Cá nhân

Tổ chức

Cá nhân

Tổ chức

Trong

Nước

Trong

Nước

Trong

Nước

Trong

Nước

nước

ngoài

nước

ngoài

nước

ngoài

nước

ngoài

4/ 2007

1.352

0

0

0

0

0

0

0

1/ 2008

2.030

0

3

0

0

0

0

0

2/ 2008

1.265

0

1

3

0

0

0

0

3/ 2008

567

0

1

12

0

0

0

0

4/ 2008

221

0

0

20

0

0

0

0

1/ 2009

309

0

0

5

0

0

0

0

2/ 2009

712

0

2

1

0

0

0

0

3/ 2009

898

2

2

0

0

0

0

0

4/ 2009

863

2

1

0

0

0

0

0

Đơn vị: tài khoản

4

41

0

0

0

Tổng

8.217

10

0

Nguồn: Phòng Phân tích và Phát triển kinh doanh VNS

Số lượng mở, đóng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư tại VNS biến động

theo tình hình của thị trường chứng khoán. Cuối năm 2007 và hai quý đầu năm

2008, số lượng tài khoản mở tại công ty là nhiều nhất. Và khi nền kinh tế đã đi vào

ảnh hưởng của cuộc đại suy thoái kinh tế thì số lượng tài khoản mở giảm hẳn, trong

khi đó số lượng tài khoản đóng lại tăng lên. Tuy nhiên, nhờ sự thoát dần khỏi đáy

cuộc khủng hoảng của nền kinh tế, cũng như sự nỗ lực rất lớn của toàn thể công ty,

cuối năm 2009 đã có thêm nhiều nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch tại VNS.

Như vậy, hiện tại VNS đang có khoảng hơn 8.000 tài khoản giao dịch của

nhà đầu tư, trong đó số nhà đầu tư nước ngoài là 4 – tất cả đều là tài khoản cá nhân,

và 10 tài khoản của tổ chức trong nước. Đây là đặc điểm của sàn VNS – gần như

100% là các nhà đầu tư nhỏ, lẻ trong nước, các nhà đầu tư là tổ chức rất ít.

Chính vì đặc điểm này nên số lượng tài khoản VIP của VNS cũng hạn chế,

chỉ có khoảng 50 nhà đầu tư. Để được xếp vào danh sách nhà đầu tư VIP của VNS,

76

các khách hàng phải có giá trị giao dịch trung bình là 1 tỷ đồng/ ngày và giá trị giao

dịch hàng tháng phải đạt từ 25 – 30 tỷ đồng. Khi trở thành khách hàng VIP, nhà đầu

tư sẽ nhận được nhiều ưu đãi và được cung cấp nhiều dịch vụ chăm sóc hơn từ phía

công ty so với các tài khoản thông thường.

Một đặc điểm nữa ở VNS là các tài khoản chủ yếu là giao dịch cổ phiếu, giao

dịch trái phiếu rất ít và không có giao dịch các chứng chỉ quỹ. Giao dịch UPCoM tại

VNS cũng rất ít, trung bình một ngày chỉ có thể thu được khoảng 1 triệu tiền phí từ

giao dịch này.

2. Đánh giá

Dựa vào một số vấn đề được đưa ra sau đây, người viết sẽ đánh giá thực

trạng hoạt động môi giới tại công ty VNS. Những kết quả và ý kiến đánh giá được

đưa ra dựa trên việc thống kê phiếu điều tra về “Mức độ hài lòng của nhà đầu tư với

dịch vụ môi giới tại công ty cổ phần chứng khoán VNS” do người viết thực hiện,

với tổng số điều tra là 100 nhà đầu tư có tài khoản giao dịch chứng khoán tại VNS.

Các câu hỏi được người viết đưa ra tập trung chủ yếu vào 5 vấn đề chính

trong hoạt động môi giới của công ty VNS, đó là các vấn đề về mức phí môi giới,

nhân viên thực hiện nghiệp vụ môi giới cho khách hàng, khả năng xử lý lệnh tại sàn

và xử lý lệnh từ xa, việc cung cấp thông tin tư vấn cho nhà đầu tư và đánh giá về cơ

sở hạ tầng, trang thiết bị và công nghệ hiện nay của VNS.

Mỗi vấn đề được đưa ra cho nhà đầu tư đánh giá dưới hình thức một nhóm

câu hỏi. Và sau đây là biểu đồ kết quả mà người viết tiến hành thống kê và tổng hợp

được từ việc tiến hành điều tra đối với 100 nhà đầu tư mở tài khoản tại công ty

77

chứng khoán VNS.

Biểu đồ 8 - Mức độ hài lòng của nhà đầu tư đối với dịch vụ môi giới của VNS

 Mức phí môi giới

Như đã trình bày trong phần thực trạng hoạt động môi giới, mức phí môi giới

của VNS là một mức phí cạnh tranh, được tính lũy thoái theo giá trị giao dịch tăng

dần của nhà đầu tư. Mức phí này rất phù hợp với các nhà đầu tư nhỏ lẻ - chiếm gần

như toàn bộ lực lượng khách hàng của công ty. Vì thế rất dễ hiểu vì sao mức hài

lòng của nhà đầu đối với biểu phí môi giới của VNS là cực cao.

Nhưng để công ty phát triển đối tượng khách hàng có giá trị giao dịch lớn –

các tổ chức và khách VIP, thì VNS cần điều chỉnh lại mức phí giao dịch của mình.

Hơn nữa, mức phí môi giới thấp cũng ảnh hưởng rất lớn đến doanh thu của

hoạt động môi giới. Việc thu hút nhà đầu tư bằng một biểu phí cạnh tranh sẽ có lợi

cho công ty trong những năm đầu hoạt động, nhưng về lâu dài, một biểu phí thấp

hơn biểu phí trung bình của các công ty chứng khoán khác không phải là một

phương hướng phát triển mà VNS nên đi theo.

 Nhân viên môi giới

Theo ý kiến của các nhà đầu tư tham gia điều tra thì tất cả đều đánh giá tốc

độ và độ chính xác của việc đặt lệnh trong hệ thống truyền thông tin của VNS ở

78

mức cao nhất. Và khi họ đồng ý như vậy thì không phải chỉ có hệ thống thông tin

của công ty cực tốt, mà nhân viên môi giới nhập lệnh cũng phải làm việc với sự

nhanh nhẹn và cẩn thận rất cao. Nhìn chung, khách hàng đánh giá nhân viên môi

giới của công ty khá cao.

Về thái độ ứng xử của nhân viên môi giới, hầu hết các khách hàng đều cảm

thấy hài lòng và rất hài lòng. Tuy nhiên, cũng hầu hết nhà đầu tư đánh giá thái độ khi

mở tài khoản của nhân viên là cao hơn một bậc so với khi nhận lệnh và giao dịch.

Đây cũng là một điểm mà VNS cần cố gắng hoàn thiện hơn nữa trong tương lai.

Như đã trình bày trong phần thực trạng nhân lực cho hoạt động môi giới của

VNS, hiện nay công ty chưa có phòng môi giới riêng. Mọi công việc chủ chốt đều

do nhân viên phòng Phân tích và Phát triển kinh doanh đảm nhiệm, còn phòng Giao

dịch chỉ làm nhiệm vụ đặt lệnh cho khách. Như vậy chứng tỏ rằng, nguồn nhân lực

của công ty trong hoạt động môi giới đang ở trong tình trạng “ thừa nhưng vẫn

thiếu”. Đây là một bài toán, tuy không khó, nhưng công ty cần phải tìm cách giải để

nâng cao hiệu quả của dịch vụ môi giới trong thời gian phát triển sắp tới.

 Khả năng xử lý lệnh

Tất cả các nhà đầu tư khi được điều tra đều thống nhất rằng mình rất hài lòng

hoặc hài lòng với quy trình đặt lệnh và khả năng xử lý lệnh tại sàn cũng như xử lý

lệnh từ xa của VNS.

Một quy trình đặt lệnh giao dịch thì gần như công ty chứng khoán nào cũng

giống nhau, nên nhà đầu tư dễ dàng cảm thấy thỏa mãn với quy trình đặt lệnh tại

VNS. Nhưng không phải công ty chứng khoán nào cũng làm thỏa mãn khách hàng

của mình trong việc đặt lệnh nhanh, chính xác, dù khách hàng dùng phương thức

giao dịch trực tiếp hay giao dịch từ xa, như VNS. Để được khách hàng đánh giá cao

về khả năng xử lý lệnh như vậy, phải là sự kết hợp nhịp nhàng giữa yếu tố nhân

viên chuyên nghiệp và công nghệ hiện đại.

Tuy nhiên, khi đánh giá về giao diện và chức năng giao diện trực tuyến của

VNS thì gần như toàn thể các nhà đầu tư đều chưa đạt đến mức hài lòng. Vì thế đã

làm giảm đi sự đánh giá tốt chung cho khả năng xử lý lệnh của công ty. Theo ý kiến

79

của các nhà đầu tư thì chức năng giao dịch trực tuyến của VNS còn khá kém, chưa

có đầy đủ chức năng đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư là có thể truy cập, đặt lệnh,

kiểm tra, quản lý tài khoản của mình ở bất kỳ đâu.

VNS cũng tự nhận thấy được yếu điểm của mình về phương diện này, nên

trong cuối tháng 3/ 2010 công ty đã thực hiện một cuộc “lột xác” cho dịch vụ giao

dịch trực tuyến. Ngoài cải thiện giao diện, công ty còn bổ sung thêm một số chức

năng như sao kê tiền, chứng khoán; tính lãi, lỗ đầu tư… theo yêu cầu của khách hàng.

VNS là một trong những công ty đầu tiên được kết nối giao dịch trực tuyến với sàn

HOSE và sàn HASTC. Hiện tại, có khoảng 80% công ty chứng khoán trên thị trường

đã được kết nối giao dịch trực tuyến với HOSE, còn kết nối với HASTC thì mới có

khoảng 20 – 30 % tổng số công ty. Vì mới được đổi mới nên chưa thể đánh giá sự đổi

mới này của VNS có làm hài lòng các nhà đầu tư của mình hay không. Nhưng với nỗ

lực không ngừng để hoàn thiện, tin chắc rằng VNS sẽ làm được.

 Cung cấp thông tin

Đề cập đến vấn đề cung cấp thông tin thì mức độ hài lòng của nhà đầu tư có

sự phân hóa rõ rệt, mặc dù tỷ lệ rất hài lòng và hài lòng trong đánh giá chung vẫn

lớn hơn 50% nhưng lại cũng có đến 19% không hài lòng. Tại sao lại như vậy?

Người viết xin được phân tích như sau.

Cứ 17h các ngày làm việc trong tuần, nhân viên môi giới của VNS sẽ tổng hợp

và làm bản tin thị trường rồi gửi đến địa chỉ email của các nhà đầu tư. Đây là một

hoạt động phổ biến của tất cả các công ty chứng khoán nên về đánh giá sự chủ động

của VNS trong việc cung cấp thông tin kết quả giao dịch thị trường có đến 90% nhà

đầu tư cảm thấy rất hài lòng, các nhà đầu tư còn lại cũng cảm thấy thỏa mãn.

Trong phiên giao dịch, bất cứ lệnh nào của khách hàng được khớp thì ngay

lập tức, nhân viên môi giới sẽ điện thoại trực tiếp thông báo cho khách hàng. Có thể

nói đây là cách thức cung cấp thông tin giao dịch cá nhân của khách hàng một cách

nhanh nhất, hơn nữa VNS lại hoàn toàn chủ động tiến hành. Nên không có gì lạ khi

đánh giá của nhà đầu tư về vấn đề này trùng khớp với việc cung cấp thông tin kết

quả giao dịch thị trường hàng ngày.

Về dịch vụ tư vấn đầu tư, có 94% số người được hỏi cho rằng mình (ít nhất

80

là) cảm thấy hài lòng với dịch vụ này. Điều này cũng không phải lạ khi mà các

chương trình “VNS Daily Morning Report” và “Hội thảo nhận định chứng khoán

hàng tuần” của VNS được tổ chức thường xuyên, thu hút được sự quan tâm rất lớn

từ phía các nhà đầu tư. Tuy nhiên, các chương trình này được tổ chức miễn phí cho

khách hàng nên công ty không thu được doanh thu. Năm 2007, doanh thu tư vấn

đầu tư chứng khoán của VNS khoảng 155,5 triệu đồng và đến năm 2008 là khoảng

969,5 triệu đồng. Mặc dù mức tăng trưởng doanh thu này là cao (hơn 6 lần) nhưng

nếu nhìn vào giá trị tuyệt đối thì doanh của hoạt động này còn rất thấp.

Hai vấn đề làm cho đánh giá chung về việc cung cấp thông tin cho nhà đầu

tư của VNS thay đổi mạnh đó là: cung cấp thông tin thị trường trước phiên giao

dịch và thông tin trên website. Trước phiên giao dịch, các nhà đầu tư đến sàn trực

tiếp giao dịch sẽ được phát một bản cung cấp thông tin thị trường. Nhưng có thể do

ảnh hưởng của 2 chương trình “VNS Daily Morning Report” và “Hội thảo nhận

định chứng khoán hàng tuần”, mà bản này được làm khá sơ sài và thông tin không

đầy đủ. Nếu nhà đầu tư nào mà lỡ bỏ qua hai chương trình phân tích của công ty thì

dĩ nhiên, chỉ đọc bản thông tin này, sẽ cảm thấy không hài lòng. Nhưng dù xét thế

nào đi nữa, VNS cũng phải khắc phục được nhược điểm này của mình.

Vấn đề nhà đầu tư thấy không hài lòng hơn cả chính là website của công ty.

Địa chỉ trang web của VNS là http://www.vnsc.com.vn. Trang này, ngoài đưa

những thông tin cơ bản mà trang web của công ty chứng khoán nào cũng có như

giới thiệu về công ty, giới thiệu dịch vụ, danh sách các công ty niêm yết… thì chỉ có

những tin hệ thống tự cập nhật từ trang web của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

và một số thông báo của công ty. Có thể nói với một website như thế này thì đây là

điểm đáng chê nhất của VNS.

 Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và công nghệ

Lợi thế nổi bật của VNS về trang cơ sở vật chất và trang thiết bị đã được

phân tích rất rõ trong phần thực trạng hoạt động môi giới, nên ở đây người viết sẽ

không nhắc lại nữa. Nhưng, mặc dù cơ sở vật chất tốt như vậy, hiện nay VNS vẫn

chưa có phòng riêng dành cho khách VIP. Đây lại là một công việc nữa đòi hỏi

81

thêm lượng vốn đầu tư không nhỏ cho hoạt động môi giới chứng khoán.

Mặc dù đang sử dụng hệ thống phần mềm VSPro của Việt Nam nhưng VNS

vẫn mang đến sự hài lòng cho các nhà đầu tư. Điều này là hiển nhiên khi đa số nhà

đầu tư đều đánh giá rất cao khả năng xử lý lệnh, hệ thống thông tin, hệ thống bảng

điện… của VNS. Nhìn chung, vấn đề công nghệ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối

với các công ty chứng khoán nói chung và hoạt động môi giới nói riêng. Công nghệ

tiên tiến, hiện đại chắc chắn sẽ tạo nền tảng tốt cho sự phát triển của hoạt động môi

giới. Hoạt động môi giới của một công ty chứng khoán rất phát triển thì chắc chắn

hoạt động đó được hỗ trợ bởi một nền tảng công nghệ vững chắc. Và để nắm bắt

được công nghệ thì trước tiên VNS cần tạo cho mình một nguồn tài chính ổn định,

vững mạnh. Như vậy, trong những năm tới đây, VNS cần phải cải thiện kết quả hoạt

động kinh doanh của mình, trước tiên là lợi nhuận vượt qua dấu âm, sau đó là tăng

trưởng liên tục.

Với những phân tích, đánh giá đưa ra ở trên, người viết xin tổng hợp lại kết

quả mà 100 nhà đầu tư trả lời cho câu hỏi “Mức độ hài lòng của Quý khách hàng về

dịch vụ môi giới tại VNS” bằng biểu đồ sau.

Biêu đồ 9 - Mức độ hài lòng của nhà đầu tư đối với dịch vụ môi giới của VNS

Nhìn vào kết quả này có thể thấy rằng, mặc dù vần còn nhiều thiếu sót chưa

thể khắc phục ngay được, nhưng hoạt động môi giới của VNS đã thực sự thu hút và

làm thỏa mãn các nhà đầu tư. Với đánh giá của khách hàng như thế này về dịch vụ

môi giới thì tin chức rằng hoạt động này của công ty sẽ có nhiều cơ hội phát triển

hơn nữa trong tương lai, nhất là khi nền kinh tế trong nước và thế giới đang dần dần

82

hồi phục sau cuộc khủng hoảng.

Nhưng hoạt động môi giới của VNS cũng cần được phát triển, không chỉ là

tăng doanh thu, mà còn theo hướng chuyên nghiệp hơn, sáng tạo hơn để không

những cạnh tranh, VNS còn phải trở thành một trong những công ty có hoạt động

môi giới uy tín nhất ở Việt Nam.

III. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ

Với một công ty chứng khoán mới ra đời như VNS, có được sự đánh giá tốt

từ phía khách hàng về dịch vụ cung cấp của mình là một thành công lớn và cũng là

sự khẳng định cho khả năng phát triển của công ty sau này. Nhưng, song song với

việc còn non trẻ trên thị trường chứng khoán, là những khuyết điểm, những thiếu

sót chưa thể hoàn thiện trong “ độ tuổi” mới hơn 2 của công ty.

Qua những phân tích về thực trạng kinh doanh cũng như những đánh giá về

hoạt động môi giới của công ty cổ phần chứng khoán VNS đã trình bày trong

chương II này, có thể thấy rằng hoạt động môi giới chứng khoán của VNS vẫn còn

có những mặt hạn chế. Trong nội dung phiếu điều tra của mình, người viết đã đưa ra

5 vấn đề còn có những mặt hạn chế của VNS khi cung cấp dịch vụ môi giới cho

khách hàng.

Đó là các vấn đề về biểu phí môi giới, dịch vụ tư vấn đầu tư và cung cấp thông

tin cho khách hàng, chức năng giao dịch trực tuyến, điều kiện sàn giao dịch và

website của công ty.

Dựa vào sự đánh giá của các nhà đầu tư được điều tra và ý kiến cá nhân khi

tìm hiểu về hoạt động môi giới của công ty cổ phần chứng khoán VNS, người viết

sẽ nêu ra những hạn chế trong hoạt động này của công ty.

Sau đây là kết quả trả lời của câu hỏi “ Theo Quý khách hàng, trong hoạt động

môi giới, vấn đề nào được đặt ra sau đây là quan trọng nhất? (Sắp xếp mức độ quan

83

trọng theo thứ tự giảm dần từ 1  5)” .

Biểu đồ 10 - Đánh giá từ nhà đầu tư về mức độ quan trọng của các vấn đề trong

hoạt động môi giới

Biểu đồ sau là kết quả đánh giá của nhà đầu tư đối với câu hỏi “Theo Quý

khách hàng, với thực trạng hoạt động môi giới hiện nay tại VNS, vấn đề nào đưa ra

sau đây cần được cải thiện nhất? (Sắp xếp mức độ cần cải thiện theo thứ tự giảm

dần từ 1  5)”.

Biểu đồ 11 - Đánh giá từ nhà đầu tư về những vấn đề cần cải thiện trong dịch vụ

84

môi giới của VNS

 Chưa có Phòng Môi giới riêng.

Có thể nói đây là một thiếu sót lớn trong quá trình hoạt động môi giới của

VNS.

Mọi công việc chủ chốt của hoạt động môi giới đều do nhân viên phòng

Phân tích và Phát triển kinh doanh đảm nhiệm, còn phòng Giao dịch chỉ làm nhiệm

vụ đặt lệnh cho khách hàng.

Với tình trạng như vậy, không chỉ làm cho nguồn nhân lực của công ty bị

phân tán đồng thời rơi vào tình trạng “ thừa nhưng vẫn thiếu”, mà còn gây khó khăn

cho việc phát triển dịch vụ môi giới của công ty một cách chuyên nghiệp sau này.

 Thủ tục mở tài khoản còn mang nhiều tính chất hành chính.

Theo như kết quả điều tra thì chỉ khoảng 1/3 số nhà đầu tư được hỏi cảm

thấy hài lòng với những thủ tục mở tài khoản của công ty, số nhà đầu tư còn lại đều

chọn mức hài lòng của mình là bình thường. Nếu nhìn nhận một cách tích cực thì có

thể nói thủ tục ở VNS được tiến hành một cách khá đơn giản, không phải thông qua

nhiều nhân viên giao dịch. Khi mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại VNS, cũng

giống như khi mở ở các công ty chứng khoán khác, khách hàng không phải trả phí.

Nhưng, lượng thông tin khách hàng phải viết vào giấy tờ khi muốn mở một tài

khoản còn khá nhiều. Để đem đến sự hài lòng hơn cho khách hàng VNS cần xem

xét cải thiện công việc làm thủ tục hơn nữa.

 Biểu phí môi giới chưa thu hút được những nhà đầu tư lớn.

Nhìn vào 2 biểu đồ trên có thể thấy rằng trong 5 vấn đề mà người viết đưa ra

thì có đến 86% nhà đầu tư xếp biểu phí môi giới ở mức quan trọng số 1 và số 2,

nhưng cũng có đến 88% nhà đầu tư cho rằng mức độ cần cải thiện mức phí giao

dịch ở VNS chỉ ở mức độ 4 và 5, không có ai xếp ở mức độ 1. Như vậy, có thể nói

rằng mức phí môi giới hiện tại của VNS là khá tốt. Mặc dù vậy, như đã trình bày

trong phần đánh giá, trong dài hạn, VNS nên điều chỉnh lại mức phí của mình để

làm sao ngày càng thu hút thêm nhiều nhà đầu tư lớn mà vẫn duy trì được những

85

khách hàng hiện có và đảm bảo tăng trưởng doanh thu môi giới cho công ty.

 Cung cấp thông tin thị trường trước phiên giao dịch còn sơ sài.

Từ 2 biểu đồ trên cho thấy thấy có đến 52% nhà đầu tư cho rằng dịch vụ tư

vấn đầu tư và cung cấp thông tin là quan trọng nhất trong hoạt động môi giới chứng

khoán, số còn lại cũng xếp dịch vụ này ở vị trí số 2. Trong khi đó các ý kiến muốn

cải thiện dịch vụ này đều có từ mức độ 1 đến mức độ 5, trong đó có 50% nhà đầu tư

xếp vào mức độ 3. Như vậy là tư vấn đầu tư ở VNS vẫn phải cải thiện hơn nữa.

Nói một cách rõ ràng thì vấn đề mà VNS cần phải cải thiện mà các nhà đầu

tư muốn nhắc đến ở đây chính là việc cung cấp thông tin thị trường cho khách hàng

trước phiên giao dịch. Bản cung cấp thông tin này còn sơ sài, chưa mang những nội

dung mà khách hàng mong đợi, chưa làm thỏa mãn những đòi hỏi của nhà đầu tư.

 Chưa có phòng giao dịch riêng dành cho khách VIP.

Mặc dù điều kiện vật chất của sàn giao dịch không phải là yếu tố được nhà

đầu tư đánh giá là quan trọng nhất trong hoạt động môi giới, nhưng thực tế đây lại

là một điều kiện không thể thiếu và có ảnh hưởng về lâu dài khi mà yêu cầu của nhà

đầu tư đối với công ty chứng khoán ngày càng cao hơn. Nhìn chung các nhà đầu tư

đều đánh giá điều kiện sàn giao dịch của VNS rất tốt. Điều còn thiếu của sàn giao

dịch VNS đó chính là chưa có phòng giao dịch riêng dành cho khách VIP. Muốn

thu hút những khách này thì, cùng với thay đổi phí giao dịch, đương nhiên công ty

cần phải quan tâm đầu tư dịch vụ chăm sóc khách VIP hơn nữa. Và dịch vụ chăm

sóc dễ làm hài lòng nhà đầu tư lớn nhất đó chính là một phòng giao dịch riêng với

những trang bị tiện nghi, sang trọng. Trong tương lai, VNS cũng cần duy trì và phát

triển hơn nữa những gì đã làm được về phương diện này.

 Chức năng giao dịch trực tuyến còn kém.

Chức năng giao dịch trực tuyến được khách hàng của VNS đánh giá là khá

quan trọng với 74% đánh giá ở mức độ 3 và 4. Đối với chức năng giao dịch trực

tuyến của VNS, có đến 75% khách hàng cho rằng chức năng này cần phải cải thiện

ở cấp độ 1 và 2. Và từ cuối tháng 3/2010, VNS đã cải thiện lại chức năng này của

mình bằng cách bổ sung thêm một số chức năng như sao kê tiền, chứng khoán; tính

86

lãi, lỗ đầu tư… theo yêu cầu của khách hàng, đồng thời cũng thay đổi giao diện tiện

lợi và bắt mắt hơn. Hiện công ty đang chờ phản hồi từ phía khách hàng về sự đổi

mới này.

 Thông tin trên website của công ty còn nghèo nàn.

Nói đến điểm bị chê nhiều nhất của VNS thì đó chính là website của công ty.

Mặc dù có đến 70% khách hàng đánh giá mức độ quan trọng của vấn đề này là ở

mức 5 – mức thấp nhất, nhưng có đến 62% ý kiến cho rằng đây là điểm phải cản

thiện nhiều nhất của VNS, hầu như các ý kiến còn lại cũng xếp ở mức độ 2.

Như vậy, website chưa thu hút và đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư cũng

87

chính là một trong những mặt còn hạn chế của hoạt động môi giới tại VNS.

Chƣơng III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI

GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS

I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY

CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS TRONG THỜI GIAN TỚI

Mục tiêu phát triển đầu tiên của VNS đối với hoạt động môi giới đó là trong

vòng hai năm (từ 2010 – 2011) doanh thu môi giới của công ty phải đạt được từ 20

– 25 tỷ đồng. Mà muốn đạt được mức doanh thu ấy thì công ty phải kết hợp hai

công việc là tăng số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại công ty và tăng

giá trị giao dịch của khách hàng.

Mục tiêu thứ hai trong quá trình phát triển công ty mà VNS đặt ra là phải xây

dựng được một phòng Môi giới riêng, một phòng Môi giới thực sự chuyên nghiệp với

những nhân viên thành thạo công việc, có trình độ, có chuyên môn, có đạo đức nghề

nghiệp, năng động, sáng tạo và tràn đầy nhiệt huyết gắn bó với công ty.

Mặc dù vốn điều lệ của công ty hiện tại là khá nhỏ, nên VNS chưa thể hướng

đến mục tiêu là một trong top những công ty có thị phần môi giới lớn nhất thị

trường chứng khoán Việt Nam, nhưng VNS luôn hướng đến mục tiêu phát triển thứ

ba là trở thành một trong những công ty có hoạt động môi giới uy tín nhất trên thị

trường. Để hoàn thành mục tiêu này thì VNS còn cả một con đường dài để đi với sự

hoàn thiện không ngừng về tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất, công nghệ, nguồn lực

con người… cùng với những chiến lược phát triển đúng đắn trong từng thời kỳ của

ban lãnh đạo công ty.

II. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ

PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS

Để thực hiện được 3 mục tiêu phát triển trên, sau một thời gian tìm hiểu về

hoạt động môi giới của VNS, người viết xin đưa ra một số giải pháp sau đây.

Những giải pháp này được đưa ra dựa trên ý kiến cá nhân của người viết và dựa trên

kết quả của 100 phiếu điều tra “Mức độ hài lòng của nhà đầu tư với dịch vụ môi

88

giới tại công ty cổ phần chứng khoán VNS”.

 Thành lập Phòng Môi giới riêng và phát triển hơn nữa dịch vụ tư vấn

đầu tư.

Trước tiên, VNS phải thành lập một phòng Môi giới chứng khoán để hoạt

động môi giới được thực sự chyên môn hóa.

Trong phòng Môi giới sẽ thành lập một đội tư vấn đầu tư, chuyên cập nhật

tất cả các tin tức kinh tế trong nước và trên thế giới, tiến hành phân tích và đưa ra

những nhận định, khuyến cáo – tóm lại là đưa ra sản phẩm phân tích để phục vụ nếu

nhà đầu tư có nhu cầu.

Ngoài phát triển dịch vụ tư vấn có thu phí thì VNS còn phải duy trì hoạt

động hai chương trình là “VNS Daily Morning Report” và “Hội thảo nhận định

chứng khoán hàng tuần” để nó trở thành nét riêng độc đáo, mang phong cách của

công ty.

Đội ngũ phân tích cũng sẽ trở thành hạt nhân của các hoạt động này, như vậy

càng tạo sự tin tưởng hơn vào công ty trong tâm lý nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, VNS còn phải khắc phục nhược điểm của mình đó là việc cung

cấp thông tin thị trường trước các phiên giao dịch cho khách hàng. Bản tin này cần

được trình bày cẩn thận hơn, thâu tóm được những thông tin chính, trợ giúp phần

nào cho việc ra quyết định của nhà đầu tư.

VNS cũng có thể lập ra một diễn đàn thảo luận trên website của mình để kết

nối giữa khách hàng và công ty, kết nối giữa các nhà đầu tư với nhau. Trên diễn đàn

này, phòng Môi giới sẽ đưa ra những đề tài liên quan đến thị trường được mọi

người quan tâm để mọi thành viên cùng thảo luận, trao đổi. Công việc này không

chỉ tạo sự gắn kết giữa công ty và khách hàng mà còn giúp cho nhân viên tư vấn

hiểu hơn về nhu cầu, ý kiến cá nhân, quan điểm nhìn nhận của mỗi nhà đầu tư, từ đó

đưa ra được lời khuyên thích hợp nhất cho từng khách hàng cụ thể. Để khách hàng

tìm đến dịch vụ tư vấn của công ty thì bước đầu tiên là nhân viên tư vấn phải hiểu

được mong muốn của khách hàng.

Có thể nói nếu phát triển mạnh được dịch vụ tư vấn đầu tư thì uy tín của

89

công ty ngày càng được nâng cao hơn trong lĩnh vực môi giới.

 Thay đổi biểu phí môi giới trong dài hạn.

Giải pháp mà người viết muốn đề ra với công ty VNS về việc thay đổi biểu

phí đó là chia nhỏ các khoảng giá trị giao dịch, trong mỗi khoảng sẽ xem xét một

mức phí phù hợp tương ứng. Hiện nay, phí môi giới tại VNS được tính tương ứng

với 3 khoảng giá trị giao dịch là nhỏ hơn 100 triệu đồng, từ 100 triệu đến dưới 500

triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên. Bằng cách chia nhỏ hơn nữa các khoảng

này, sẽ đảm bảo cho công ty vẫn giữ chân được các nhà đầu tư nhỏ lẻ mà còn thu

hút thêm được nhà đầu tư có giá trị giao dịch hàng tỷ đồng/ ngày.

Với một biểu phí môi giới hợp lý, tương đối đồng đều với các công ty chứng

khoán khác và có những ưu đãi phù hợp cho khách hàng không chỉ làm tăng khả

năng cạnh tranh của công ty mà còn mang lại cho VNS một nguồn thu cao hơn.

 Tăng cường đầu tư vào website.

Để góp phần vào sự phát triển của hoạt động môi giới và sự phát triển chung

của công ty, một giải pháp nữa mà người viết xin đưa ra là: VNS cần phải đầu tư

vào website hơn nữa. Hiện tại, trên trang web của công ty vẫn chưa đăng tải được

những thông tin mà nhà đầu tư mong muốn, chỉ đăng những thông báo một cách rất

thụ động và nhàm chán. Nếu công ty cho đăng tải những sản phẩm phân tích cơ

bản, phân tích kỹ thuật, những đánh giá chuyên môn của công ty về thị trường

chứng khoán sẽ thu hút nhà đầu tư hơn. Thêm nữa, VNS cần phải bổ sung thêm

chức năng theo dõi danh mục đầu tư của khách hàng trên website của mình để đáp

ứng nhu cầu quản lý tài sản của nhà đầu tư ở mọi lúc, mọi nơi.

 Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng văn hóa

công ty.

Chất lượng các dịch vụ của hoạt động môi giới chủ yếu phụ thuộc vào nhân tố

con người. Nhân viên môi giới phải là những người có kỹ năng tìm kiếm khách hàng,

kỹ năng khai thác thông tin, kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng thuyết phục và kỹ

năng bán hàng. Nhân viên giao dịch phải là những người nhanh nhẹn, xử lý các giao

dịch chính xác, nhiệt tình tận tâm phục vụ vì khách hàng. Bên cạnh những yêu cầu

này còn đòi hỏi đội ngũ nhân viên phòng Môi giới phải được đào tạo các kiến thức về

90

chứng khoán, ngân hàng và thị trường tài chính, có trình độ ngoại ngữ và tin học cao.

Ngoài ra, những nhân viên này phải tâm huyết và trung thành, đồng hành cùng công

ty trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, công việc lâu dài và mang ý nghĩa quyết định đối với

việc phát triển hoạt động môi giới là VNS phải tăng cường đào tạo, phát triển nguồn

nhân lực và xây dựng văn hóa công ty. Theo người viết, để thực hiện được hai công

việc trên, VNS có thể tiến hành đồng thời các biện pháp như:

- Thường xuyên mở các khóa học nâng cao trình độ cho nhân viên về phân

tích chuyên sâu tài chính doanh nghiệp, các khóa học về kỹ năng bán hàng, về thị

trường OTC, tin học, ngoại ngữ…

- Khuyến khích nhân viên tham gia các khóa đào tạo do Ủy ban Chứng

khoán Nhà nước tổ chức để có chứng chỉ hành nghề chứng khoán bằng cách: hỗ trợ

tiền học, cung cấp thông tin về các khóa học, có những ưu đãi hơn đối với những

nhân viên đã đạt được chứng chỉ hành nghề… Dần dần sau này sẽ đưa việc có

chứng chỉ thành điều kiện bắt buộc của nhân viên môi giới trong công ty.

- Tuyển dụng nhân viên môi giới mới trên cơ sở công khai, đảm bảo chất

lượng về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, ngoại hình, khả năng

giao tiếp và ứng xử để tạo nguồn nhân lực trẻ có trình độ, có năng lực cho hoạt

động môi giới. Đồng thời, nguồn nhân lực trẻ này cũng có tác dụng kích thích

những nhân viên đang làm cho công ty ra sức hoàn thiện mình hơn, cùng nhau góp

sức vào sự phát triển chung của công ty.

- Chủ động kết hợp với các trường đại học về kinh tế có tiếng trên địa bàn

Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh để tổ chức các chương trình cho sinh viên thực tập tại

công ty. Nhờ vào hoạt động này, VNS có thể tiếp cận với nguồn nhân lực mới, có

năng lực và đồng thời cũng là quảng bá hình ảnh của mình.

- Kết hợp với các công ty chứng khoán khác đưa những nhân viên môi giới

xuất sắc đi thực tập, đào tạo ở nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình

độ chuyên môn sau đó về truyền lại kinh nghiệm cho các nhân viên khác, góp phần

nâng cao tính chuyên nghiệp và trình độ chung.

- Thiết kế đồng phục và yêu cầu nhân viên phải mặc trong thời gian làm việc

91

để tạo tính chuyên nghiệp và ấn tượng riêng về công ty đối với khách hàng.

- Tổ chức các chương trình giao lưu, du lịch, dã ngoại, party… để tăng tình

đoàn kết giữa các nhân viên. Trong những ngày kỷ niệm quan trọng của VNS, tổ

chức các cuộc tọa đàm giữa ban lãnh đạo và nhân viên giúp cho người quản lý hiểu

rõ hơn nguyện vọng của nhân viên mình, còn nhân viên sẽ thấy mình được quan

tâm hơn.

- Thành lập các quỹ thăm hỏi, giúp đỡ… dành cho nhân viên.

- Xây dựng tủ sách chung để chia sẻ kiến thức giữa ban lãnh đạo với nhân

viên và giữa các nhân viên với nhau.

 Kết hợp với Ngân hàng thực hiện hoạt động Ứng trước tiền bán chứng

khoán.

Để góp phần làm tăng doanh thu của công ty, phục vụ cho quá trình xây

dựng cơ sở vật chất cho hoạt động môi giới, người viết xin đưa ra ý kiến: VNS nên

kết hợp với ngân hàng thực hiện hoạt động ứng trước tiền bán chứng khoán.

Như đã trình bày trong chương II, để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho nhà đầu tư,

VNS sẽ bỏ tiền của mình ứng trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng với mức

lãi suất là 0,045%/ ngày, mức ứng trước thấp nhất là 50.000 đồng. Lợi nhuận thu

được của hoạt động này gần như không đáng kể mà chủ yếu là để hỗ trợ cho hoạt

động môi giới chứng khoán. Vì thế, nếu VNS kết hợp cùng với ngân hàng, có thể là

ngân hàng Đại Tín, để ngân hàng bỏ tiền ra ứng trước và cho họ hưởng toàn bộ số

lãi thu được thì VNS sẽ dư ra một lượng vốn không nhỏ để thực hiện Hợp đồng hợp

tác đầu tư với khách hàng. Hiện nay, nhu cầu của nhà đầu tư hợp tác cùng công ty ở

VNS rất nhiều, mà lãi thu được từ hoạt động này lại rất lớn, có thể gần bằng doanh

thu phí môi giới. Vì vậy, nếu đẩy mạnh Hợp đồng hợp tác đầu tư với khách hàng sẽ

đem lại nguồn thu lớn cho công ty.

 Đẩy mạnh hoạt động PR và Marketing.

Với tình hình của công ty hiện nay thì VNS còn phải đẩy mạnh hoạt động PR

và Marketing. Cho đến thời điểm này thì vẫn còn ít người biết đến một công ty

chứng khoán là công ty VNS. Đối với những người chưa tham gia vào thị trường

chứng khoán thì cái tên “Công ty cổ phần chứng khoán VNS” còn khá xa lạ. Nếu

92

tìm kiếm trên Google thì cũng chỉ có thông tin về trang web của công ty và vài mẩu

tin ngắn ngủi, không có gì đặc sắc. Để giải quyết vấn đề này, VNS có thể kết hợp

các hoạt động như:

- Đào tạo kỹ năng bán hàng trực tiếp cho nhân viên môi giới. Nhân viên môi

giới, nhân viên giao dịch là cầu nối trực tiếp giữa công ty với khách hàng, là người

tạo nên hình ảnh và uy tín của công ty. Vì vậy, công ty cần đẩy mạnh quan tâm đến

đội ngũ những nhân viên này, tuyên truyền để họ hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của

mình, hướng dẫn và đào tạo cách thức giao tiếp, ứng xử với khách hàng, cách trả lời

điện thoại… để luôn tạo được sự tin cậy và hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ

môi giới do công ty cung cấp. Như vậy, thông qua những nhà đầu tư đã từng giao

dịch ở VNS, hình ảnh tốt đẹp của công ty sẽ được truyền tới những người thân, bạn

bè của họ, ngày càng có nhiều người biết đến VNS nhiều hơn.

- Tăng cường hoạt động quảng cáo. Khi tiến hành quảng cáo, công ty cần

xác định rõ đối tượng khách hàng mà mình nhắm vào, cách truyền đạt thông tin làm

sao để vừa gây sự chú ý lại vừa mang đầy đủ những thông tin muốn gửi gắm. Các

phương tiện để quảng cáo cho hoạt động môi giới có thể là báo, chí chuyên ngành

về chứng khoán, tài chính, ngân hàng; đài truyền hình; các biển quảng cáo…

- Phối hợp với Trung tâm Đào tạo chứng khoán của Ủy ban Chứng khoán

Nhà nước tổ chức các buổi thực tế tại công ty cho học viên các lớp kiến thức cơ bản

về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hoạt động này cũng có thể phát triển

hơn bằng cách mở rộng phạm vi kết hợp tới các cơ quan, ban ngành, các ngân hàng,

các công ty bảo hiểm, các trường đại học, các trung tâm đào tạo về chứng khoán.

Đây là một hoạt động rất hữu ích để quảng bá hình ảnh công ty nếu VNS biết cách

tổ chức tốt.

- Tích cực tham gia các triển lãm chuyên ngành tài chính – ngân hàng, các

cuộc hội thảo chuyên đề, các hội nghị báo chí…

- Tham gia tài trợ cho các cuộc hội thảo liên quan đến thị trường chứng

khoán, các câu lạc buổi chứng khoán của sinh viên, các cuộc thi về chứng khoán do

sinh viên tổ chức…

- Kết hợp với những tờ báo chuyên ngành để xuất bản những ấn phẩm riêng

93

của công ty.

III. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC

Những kiến nghị mà người viết đưa ra sau đây đối với nhà nước là những

kiến nghị chung để phát triển thị trường chứng khoán và hoạt động của công ty

chứng khoán. Qua đó góp phần tạo điều kiện cho dịch vụ môi giới phát triển, trong

đó có hoạt động môi giới của công ty cổ phần chứng khoán VNS.

 Ổn định và tăng trưởng kinh tế.

Ổn định và tăng trưởng kinh tế là tiền đề, là điều kiện quan trọng để phát

triển thị trường chứng khoán nói chung và hoạt động môi giới chứng khoán nói

riêng. Thị trường chứng khoán là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Thị trường

này chỉ có thể phát triển khi nền kinh tế của một nước đạt đến một trình độ phát

triển nhất định.

Sự ổn định và tăng trưởng kinh tế sẽ tạo nhiều việc làm mới, giảm tình trạng

thất nghiệp, từ đó tăng thu nhập của doanh nghiệp cũng như tăng thu nhập của dân

cư. Do thu nhập tăng lên, nhu cầu tiêu dùng và các khoản tiết kiệm cũng tăng tương

ứng. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu đầu tư từ phía công chúng và kích thích doanh

nghiệp phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của xã hội.

Sự ổn định và tăng trưởng kinh tế làm giảm rủi ro và tăng hiệu quả của hoạt

động đầu tư. Điều này sẽ làm tăng tính hấp dẫn của thị trường chứng khoán trong

nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, nhu cầu đầu tư ra nước ngoài của các

nhà đầu tư và các doanh nghiệp trong nước cũng tăng theo. Đây chính là tiền đề cho

việc phát triển của công ty chứng khoán và dịch vụ môi giới.

Để tạo điều kiện ổn định và tăng trưởng kinh tế, Nhà nước cần phải thực hiện

đồng bộ chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách thu hút và khuyến khích đầu tư

trong nước và nước ngoài, hoàn thiện chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,

chính sách phát triển khoa học và công nghệ. Đồng thời Nhà nước cần thực hiện cải

cách hành chính, nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước.

 Phát triển thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán là môi trường phát triển của hoạt động môi giới

chứng khoán. Sự phát triển của thị trường chứng khoán ảnh hưởng trực tiếp tới sự

94

phát triển của hoạt động này.

Để phát triển thị trường chứng khoán Nhà nước cần chú trọng đến mấy vấn

đề sau.

Thứ nhất, hệ thống kế toán và kiểm toán là hệ thonongs phụ trợ quan trọng

nhất trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống này cung cấp các thông tin cần thiết và

tin cậy cho việc xác định giá trị kinh tế cơ bản của công ty hay các thông tin về điều

kiện tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tăng trưởng của

công ty trong tương lai. Đây là các thông tin cơ bản giúp cho việc định giá chứng

khoán.

Thứ hai, hệ thống công bố thông tin phát triển có ý nghĩa quan trọng đối với

sự tham gia của các thành viên của thị trường chứng khoán, trong đó có công ty

chứng khoán. Mục đích cơ bản của hệ thống này là để cung cấp cho các nhà đầu tư

các thông tin đầy đủ và chính xác liên quan đến chứng khoán và để ngăn chặn các

gian lận trong giao dịch. Điều này được biểu hiện trong các quy định về đăng ký và

báo cáo định kỳ.

Hệ thống công bố công khai góp phần làm tăng độ tin cậy của thj trường

chứng khoán và giải quyêt vấn đề về thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối

nghịch và rủi ro đạo đức. Nó tạo điều kiện công bằng về thông tin giữa các nhà phát

hành và các nhà đầu tư trên thị trường.

Thứ ba, trong giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán, hệ thống lưu

ký và thanh toán bù trư chứng khoán cũng rất quan trọng. Vì thế, nó cần phải được

xem xét đầy đủ khi thành lập thị trường nếu các nhà quản lý không muốn thị trường

bị tê liệt.

Phát triển hệ thống thanh toán và lưu ký chứng khoán sẽ tạo điều kiện tăng

hiệu quả và tăng mức độ an toàn của thị trường, đồng thời giúp cho việc phát triển

các nghiệp vụ lưu ký, thanh toán, cho vay của công ty chứng khoán.

Thứ tư, việc phát triển hệ thống quản lý, giám sát thị trường ảnh hưởng

không nhỏ tới sự tham gia của công ty chứng khoán vào thị trường. Việc lựa chọn

mô hình quản lý thị trường chứng khoán cần phải xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng các

yếu tố và phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường. Các mô hình

95

quản lý và giám sát được lựa chọn trên cơ sở không để cho thị trường trở thành

sòng bạc với các trò gian lận và làm thiệt hại cho các nhà đầu tư, song cũng không

nên hạn chế thị trường bằng sự can thiệp quá mức của Nhà nước. Sự can thiệp quá

mức sẽ làm hạn chế sự tham gia của công ty chứng khoán và điều này làm hạn chế

hiệu quả của thị trường.

 Hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh thị trường chứng khoán và

hoạt động môi giới chứng khoán.

Thị trường chứng khoán vốn được ví như “con dao hai lưỡi”, nếu không vận

dụng khéo léo để phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của nó thì

vai trò to lớn của thị trường chứng khoán cũng đồng nghĩa với những tác hại khôn

lường mà nó có thể gây ra. Vì vậy, để đảm bảo cho thụ trường chứng khoán hoạt

động một cách an toàn, hiệu quả và phát huy tối đa tác dụng thì cần phải có một môi

trường pháp lý phù hợp.

Nếu như các trung gian tài chính, Sở giao dịch chứng khoán được tư do hoạt

động thì lợi ích của các nhà đầu tư sẽ không được đảm bảo. Nhưng nếu pháp luật về

hoạt động chứng khoán quá nghiêm khắc thì có thể làm giảm sự sôi động của thị

trường.

Các điều kiện pháp lý ảnh hưởng lớn đến việc thu hút công ty chứng khoán

tham gia thị trường và thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Thị trường chứng

khoán hoạt động trên cơ sở quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và các nhà đầu

tư chỉ an tâm tham gia thị trường khi quyền lợi của họ được tôn trọng và bảo vệ.

Một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ sẽ tạo điều kiện bảo vệ quyền lợi hợp

pháp cho cả công ty chứng khoán và nhà đầu tư.

Thị trường chứng khoán Việt Nam, trong đó có hoạt động môi giới của công

ty chứng khoán, ra đời dưới sự quản lý và giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước,

mà đại diện là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, bằng các văn bản luật trực tiếp điều

chỉnh và giám sát hoạt động của công ty chứng khoán như: Luật doanh nghiệp

2005, Luật chứng khoán 2006, Luật đầu tư 2005, Luật thương mại 2005…

Việc ra đời các văn bản luật này cần phải dảm bảo sự đồng bộ và nhất quán

trong một số vấn đề như các quy định về thủ tục, giấy phép hoạt động kinh doanh,

96

lập chi nhánh, đại lý, văn phòng đại diện; vấn đề thâu tóm, mua bán, giải thể, sáp

nhập, phá sản… để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các công ty chứng

khoán tuân thủ các quy định của pháp luật mà không gây ra những cản trở làm hạn

chế hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán và hoạt động môi giới

chứng khoán.

Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay thì sự phát triển môi giới chứng

khoán qua mạng là điều tất yếu. Về lĩnh vực này đối với Việt Nam còn là một lĩnh

vực mới nhưng đang từng bươc phát triển. Vì vậy, Nhà nước cần phải hoàn thiện

khung pháp lý cho hoạt động môi giới trực tuyến qua mạng Internet, tạo điều kiện

cơ sở cho công ty chứng khoán đẩy mạnh hoạt động trực tuyến hơn nữa, phát triển

hoạt động môi giới chứng khoán điện tử.

Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước cũng cần xây dựng

luật chuẩn hóa tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp với người môi giới chứng khoán.

Đây là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng tới sự phát triển lành mạnh, chuyên nghiệp

của hoạt động môi giới chứng khoán.

 Hoàn thiện sự quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước.

Hoạt động của công ty chứng khoán nói chung và hoạt động môi giới chứng

khoán nói riêng có ảnh hưởng không chỉ đối với quyền lợi của các nhà đầu tư mà

còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán và nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động của

công ty chứng khoán thường được điều hành và quản lý chặt chẽ bởi các cơ quan

quản lý Nhà nước.

Thông thường, hoạt động quản lý này bao gồm: việc thành lập công ty chứng

khoán phải tuân theo quy định chặt chẽ, phải được cấp phép và chịu sự quản lý của

các cơ quan quản lý Nhà nước. Công ty chứng khoán phải chịu chế độ báo cáo, chế

độ tiết lộ thông tin công khai, chế độ giám sát đặc biệt. Luật pháp từng nước thường

quy định rất rõ ràng những hạn chế trong hoạt động, những loại tài sản mà công ty

chứng khoán được phép nắm giữ.

Tùy theo mức đọ pháp triển của công ty chứng khoán và sự phát triển của

các cơ quan quản lý Nhà nước mà mức độ can thiệp của Nhà nước vào hoạt động

97

của công ty chứng khoán là khác nhau.

 Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.

Ở tầm quản lý vĩ mô, có thể thấy các cơ quan quản lý nhà nước về các vấn đề

liên quan đến chứng khoán vẫn chưa có chính sách chú trọng đến hoạt động môi

giới chứng khoán và chưa thấy rõ được tầm quan trọng của những quy chuẩn về

hoạt động môi giới chứng khoán. Việc thi lấy chứng chỉ hành nghề môi giới chứng

khoán mới được quy định và chỉ được thực hiện một cách nghiêm túc trong vòng

vài năm gần đây. Điều đáng nói là những khóa đào tạo hay việc cấp chứng chỉ hành

nghề được nhiều người xem như một điều kiện đủ để hành nghề, chứ chưa xem nó

như một điều kiện cần phải có, một yếu tố thiết yếu để đảm bảo thực hiện tốt công

việc của một nhà môi giới chứng khoán. Nói cách khác, những chứng chỉ đó hầu

như chỉ có giá trị trên danh nghĩa, và không có mấy ý nghĩa đối với công việc thực

tế của một nhà môi giới chứng khoán.

Chính sách đào tạo người hành nghề môi giới chứng khoán của Mỹ đã có từ

lâu với các quy định rất chi tiết. Ở Mỹ, mỗi loại môi giới chứng khoán được cấp

một loại giấy phép hành nghề khác nhau, và có những quy định đảm bảo nghiêm

ngặt về việc đăng ký, phạm vi hành nghề, trách nhiệm và yêu cầu đảm bảo vốn tối

thiểu để có được một chỗ ngồi trên Sở giao dịch. Cơ quan quản lý Nhà nước về thị

trường chứng khoán nên thắt chặt quy định đào tạo môi giới chứng khoán để hoạt

động môi giới chứng khoán được chuyên nghiệp hơn.

Chính sách đào tạo từ phía Nhà nước cần quy định thêm những điều kiện

hành nghề cho nhà môi giới chứng khoán, chứ không chỉ có các vấn đề cơ bản,

phân tích đầu tư và luật áp dụng trong ngành chứng khoán như hiện nay. Đặc biệt,

vấn đề đạo đức nghề nghiệp của người môi giới chứng khoán cần phải đưa lên hàng

đầu trong chương trình đào tạo.

 Phát triển vào chiều sâu nghiệp vụ môi giới chứng khoán.

Giao dịch chứng khoán ở Mỹ dược thực hiện thông qua các chuyên gia thị

trường có trình độ cao, đó là những người có đầy đủ tư cách thành viên trên Sở giao

dịch chứng khoán New York. Để phát triển một thị trường chứng khoán có tính

chuyên nghiệp cao thì việc chuyên môn hóa như tại NYSE là điều mà Việt Nam nên

98

hướng đến trong thời gian tới.

Có nhiều loại tư cách thành viên: môi giớ sàn hay môi giới chuyên môn, và

mỗi loại nhằm mục đích khác nhau trên sàn giao dịch. Những người môi sàn sẽ chỉ

đóng vai trò là những người nhận lệnh qua các phương tiện điện tử, còn những

người môi giới chuyên môn sẽ là điểm kết nối giữa các nhà môi giới sàn.

Giống như trên sàn NYSE, mỗi loại chứng khoán niêm yết được phân bổ cho

mỗi chuyên gia, và người này chỉ giao dịch những loại chứng khoán nhất định ở

một vị trí giao dịch nhất định. Sự sắp xếp như vậy sẽ giúp quản lý các giao dịch

chứng khoán để đảm bảo tính công bằng, cạnh tranh và hiệu quả của thị trường.

Để được phát triển như vậy, còn rất nhiều công việc mà cơ quan quản lý nhà

nước phải làm. Đây là một chặng đường dài hơi, không phải một sớm một chiều mà

giải quyết được nhưng đòi hỏi phải được tiến hành, dù là từng bước một.

 Nâng cao sự hiểu biết của nhà đầu tư chứng khoán.

Đây là một sự khó khăn lớn cho sự phát triển của thị trường chứng khoán nói

chung và nghiệp vụ môi giới chứng khoán nói riêng.

Thị trường chứng khoán là thị trường bậc cao, nó đòi hỏi nhà đầu tư phải có

sự hiểu biết về hàng hóa, luật chơi, biết về mức độ chấp nhận rủi ro… Trong khi đó,

trình độ dân trí ở Việt Nam về lĩnh vực này còn thấp. Người dân Việt Nam, nhà đầu

tư Việt Nam chưa có thói quen sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của các công ty

chứng khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam có quá ít nhà đầu tư chuyên

nghiệp.

Sự hạn chế về nhận thức không chỉ làm giảm hoạt động đầu tư của công

chúng mà còn ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bền vững của thị trường chứng

khoán. Rất nhiều người hiện vẫn đang coi chơi chứng khoán như một trò đánh bạc.

Họ mua bán ngắn hạn, ồ ạt mua theo tâm lý khi thị trường nóng và ào ạt bán ra tháo

chạy khi thị trường suy giảm. Nhà đầu tư cần phải nhận thức được rằng họ có thể

tăng tài sản của mình, song họ cũng có thể họ cũng có thể bị thua lỗ, thậm chí mất

toàn bộ tài sản và bị phá sản. Chính vì thế mà, các nhà đầu tư nhận thức chưa đúng

đắn, họ lại càng không thấy được vai trò quan trọng của nghiệp vụ môi giới chứng

99

khoán trong sự phát triển của thị trường chứng khoán.

Các cơ quan quản lý nhà nước, với điều kiện thuận lợi là có thể gây ảnh

hưởng một cách rộng khắp, bằng các phương tiện truyền thông, bằng các quy định

bắt buộc đối với nhà đầu tư… nâng cao nhận thức, sự hiểu biết về thị trường chứng

khoán cho nhà đầu tư. Từ đó nhà đầu tư sẽ có cái nhìn đúng đắn và coi trọng hơn

đối với nghiệp vụ môi giới chứng khoán.

 Thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán để nâng cao

chất lượng dịch vụ môi giới.

Từ kinh nghiệm của thị trường chứng khoán Mỹ cho thấy để tạo nên một môi

trường cạnh tranh lành mạnh và có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các lực

lượng thị trường, đầu tiên Việt Nam phải có được một khung pháp lý điều chỉnh

mọi hoạt động liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán. Để tránh

những vi phạm của công ty chứng khoán, Nhà nước nên hoàn thiện các quy định xử

phạt vi phạm, các chế tài nghiêm khắc để mọi hoạt động trên thị trường chứng

khoán nói chung và hoạt động môi giới chứng khoán nói riêng được diễn ra một

cách lành mạnh.

Hiện tại, giữa các công ty chứng khoán trong nước đang diễn ra cuộc cạnh

tranh gay gắt để giành từng miếng bánh thị phần. Sự cạnh tranh bắt đầu từ việc các

công ty chứng khoán đồng loạt cắt giảm chi phí hay tung ra các chương tình khuyến

mại để thu hút các nhà đầu tư. Tiếp đó là việc các công ty chứng khoán nâng cao cơ

sở vật chất của mình, nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên, để thực sự tồn

tại được trong một thị trường tài chính ngày càng phát triển với những yêu cầu ngày

càng khắt khe từ phía khách hàng thì điều quan trọng nhất vẫn là chất lượng dịch vụ

mà công ty cung cấp.

Và để kích thích cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán theo hướng ngày

càng chuyên nghiệp hơn thì Việt Nam phải mở cửa thị trường tài chính trong những

năm tới.

Trong cam kết mở cửa thị trường tài chính khi gia nhập WTO, về dịch vụ

chứng khoán, Việt Nam cam kết cho phép thành lập văn phòng đại diện và liên

doanh đến 49% vốn đầu tư nước ngoài từ thời điểm gia nhập. Sau 5 năm kể từ thời

100

điểm gia nhập, cho phép thành lập các công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài

và cho phép thành lập chi nhánh của các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán

nước ngoài hoạt động trong các loại hình dịch vụ quản lý tài sản, quản lý quỹ đầu

tư, lưu ký, thanh toán bù trừ, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, tư vấn và

các hoạt động môi giới và phụ trợ khác liên quan đến chứng khoán. Tuy nhiên,

không mở cửa cho chi nhánh đối với các loại hình dịch vụ kinh doanh chứng khoán

và tham gia phát hành.

Việc mở cửa cho các công ty nước ngoài cung ứng dịch vụ chứng khoán gia

nhập thị trường sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài

chính thế giới bởi sản phẩm trong thị trường chứng khoán khá phức tạp, là sự kết

hợp cao giữa trình độ phát triển của thị trường tài chính và của công nghệ. Hiện

nay, tất cả các thị trường tài chính phát triển đều sử dụng các chuẩn SWIFT mã hóa

các lệnh giao dịch, trong khi ở Việt Nam thì chưa có. Các loại chứng khoán của

Việt Nam hầu hết chưa có mã ISIN (International Stock Identity Number), trong khi

đây là thông lệ của thị trường tài chính quốc tế.

Sự tham gia của các công ty chứng khoán nước ngoài sẽ tạo áp lực lớn cho

các công ty chứng khoán trong nước, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội để tiếp thu

công nghệ hiện đại, học hỏi trình độ lao động của các nước tiên tiến. Sự xuất hiện

của các tổ chức cung ứng dịch vụ chứng khoán của nước ngoài trên thị trường tài

chính Việt Nam còn giúp gia tăng niềm tin cho các nhà đầu tư lớn nước ngoài, vốn

101

chưa thật sự tin tưởng vào chất lượng dịch vụ của các tổ chức trong nước cung cấp.

KẾT LUẬN

Vậy, qua đề tài nghiên cứu của mình, người viết đã tìm hiểu được những nét

khái quát nhất về công ty Chứng khoán và đặc biệt là hoạt động Môi giới của công

ty chứng khoán. Môi giới chứng khoán không chỉ là việc công ty chứng khoán làm

trung gian giữa các giao dịch mua bán của khách hàng mà nó còn mang ý nghĩa sâu

hơn, chuyên nghiệp hơn, đó là công ty chứng khoán phải tư vấn cho khách hàng của

mình để làm sao những giao dịch mua bán ấy đạt hiệu quả kinh tế cao nhất cho nhà

đầu tư. Để có thể là một công ty có hoạt động môi giới mạnh, uy tín thì ngoài đội

ngũ nhân viên môi giới giỏi còn đòi hỏi công ty chứng khoán phải có nguồn tài

chính lớn để đáp ứng những yêu cầu về cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ phục

vụ cho hoạt động này.

Qua tìm hiểu hoạt động Môi giới tại Công ty cổ phần Chứng khoán VNS,

người viết nhận thấy được rằng VNS có điều kiện cơ sở vật chất và kỹ thuật khá tốt,

làm nền tảng cho sự phát triển của hoạt động môi giới của công ty. Ngoài ra, đội

ngũ nhân viên môi giới của VNS còn rất trẻ, có trình độ, có nhiệt huyết với nghề

cũng là một điểm mạnh của công ty. Tuy nhiên, nếu đánh giá một cách khách quan

thì hoạt động môi giới tại VNS chưa được phát triển một cách thực sự chuyên

nghiệp. Điều đó thể hiện ở việc cho đến nay, đã qua hơn 2 năm kể từ khi thành lập

nhưng công ty vẫn chưa có phòng Môi giới riêng, chính vì thế mà cản trở rất nhiều

đến việc chuyên môn hóa hoạt động Môi giới của công ty này. Bên cạnh đó, chi phí

bỏ ra cho hoạt động môi giới lớn hơn rất nhiều so với doanh thu thu được. Mặc dù

vậy, không phải hoạt động môi giới của VNS không phải là không có những thành

tựu bước đầu.

Để trong tương lai hoạt động môi giới của công ty được phát triển một cách

chuyên nghiệp hơn, người viết xin đề xuất giải pháp là VNS phải nhanh chóng

thành lập cho mình một phòng Môi giới. Bên cạnh đó, VNS phải tìm ra những chiến

lược sử dụng nguồn vốn của công ty sao cho sinh lợi nhiều nhất, để hỗ trợ cho việc

phát triển hoạt động môi giới và các hoạt động kinh doanh chứng khoán khác.Một

trong những giải pháp mà VNS có thể sử dụng đó là kết hợp với ngân hàng thực

hiện hoạt động ứng trước tiền bán chứng khoán, để tăng vốn cho hoạt động hợp tác

đầu tư. Ngoài ra còn những biện pháp khác, người viết đã trình bày trong nghiên

102

cứu của mình.

Nhưng, hoạt động môi giới của VNS chỉ thực sự phát triển khi được sự giúp

đỡ từ những chính sách vĩ mô của nhà nước. Vì vậy trong nghiên cứu của mình,

người viết cũng đưa ra những kiến nghị đối với nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán nói chung và của VNS nói

riêng phát triển.

Tuy còn rất nhiều khó khăn trước mắt, không phải một sớm một chiều là có

thể khắc phục được, nhưng với những gì đã đạt được, hy vọng trong những năm tới

đây, VNS sẽ vươn lên ngày một mạnh hơn, đứng vững trước sự cạnh tranh gay gắt

của thị trường, sớm đưa công ty trở thành một trong những công ty chứng khoán có

hoạt động môi giới hiệu quả và uy tín nhất, góp phần sức lực nhỏ bé của mình vào

sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng…

Những ý kiến, vấn đề được đưa ra trình bày trong nội dung đề tài này chỉ

dừng lại ở những ý kiến, nghiên cứu của cá nhân người viết nhận thức được thông

qua quá trình học tập và thời gian tìm hiểu về hoạt động môi giới tại Công ty cổ

phần Chứng khoán VNS, vì thế chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và

nhiều điểm còn chưa thấu đáo. Người viết chỉ hy vọng qua nghiên cứu đề tài này,

bản thân được vận dụng kiến thức vào thực tế, từ đó rút ra được nhận thức mới và

kinh nghiệm thực tiễn cho mình.

Người viết xin chân thành cảm ơn sự tận tình giúp đỡ của PGS.TS Nguyễn

Đình Thọ – giáo viên hướng dẫn trực tiếp và các anh, chị làm việc tại Phòng Phân

tích và Phát triển kinh doanh Hội sở Công ty cổ phần Chứng khoán VNS đã giúp

103

người viết hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS.NGƯT Đinh Xuân Trình và PGS.TS. Nghuyễn Thị Quy, “Giáo trình

Thị trường chứng khoán” của Trường ĐH Ngoại Thương, NXB Giáo Dục 2006.

2. TS. Trần Thị Thái Hà, “Một số vấn đề về hình thành và phát triển nghề

môi giới chứng khoán”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Ủy ban Chứng khoán

Nhà nước 2000.

3. Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006.

4. Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 1 năm 2007.

5. Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 14 tháng 4 năm 2007.

6. Quyết định số 15/2008/QĐ-BTC ngày 27 tháng 3 năm 2008.

7. Báo cáo tài chính đã kiểm toán của Công ty cổ phần Chứng khoán VNS

năm 2007, năm 2008 Và Báo cáo tài chính của Công ty cổ phầ Chứng khoán VNS

năm 2009.

8. Các website:

http://www.vns.com.vn

http://www.thanglongsc.vn

http://www.acbs.com.vn

http://www.vi.wikipedia.org

http://www.vnecon.com

104

9. Các tài liệu trong Thư viện trường Đại học Ngoại Thương.

PHỤ LỤC

PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÕNG CỦA NHÀ ĐẦU TƢ VỚI DỊCH

VỤ MÔI GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN VNS

Họ và tên:

Với các mức độ hài lòng dưới đây, đối với mỗi câu hỏi, Quý khách hàng vui

1

2

3

4

5

lòng đánh dấu vào mức độ tương ứng mình cho là phù hợp.

Rất không hài lòng Không hài lòng Bình thường Hài lòng Rất hài lòng

STT

Câu hỏi

1

2

3

4

5

1

Thủ tục mở tài khoản

2 Mức phí môi giới hiện nay

3 Mức phí môi giới so với chất lượng dịch vụ môi giới

của VNS

4 Mức phí môi giới so với lợi nhuận Quý khách hàng thu

được

5

Thái độ, ứng xử của nhân viên môi giới khi Quý khách

hàng mở tài khoản

6

Thái độ, ứng xử của nhân viên môi giới khi nhận lệnh

và giao dịch với Quý khách hàng

7 Độ chính xác và tốc độ khi đặt lệnh cho Quý khách

hàng

8 Khả năng xử lý lệnh tại sàn

9 Khả năng xử lý lệnh từ xa

10 Quy trình đặt lệnh giao dịch

11 Giao diện và chức năng giao dịch trực tuyến

12 Cách thức cung cấp thông tin thị trường trước phiên

giao dịch

13 Thời gian mà VNS chủ động cung cấp thông tin kết quả

14

giao dịch cá nhân cho Quý khách hàng Sự chủ động của VNS trong việc cung cấp thông tin giao dịch thị trường cho Quý khách hàng

105

Xin Quý khách hàng vui lòng trả lời các câu hỏi sau đây.

15 Dịch vụ tư vấn đầu tư do VNS cung cấp

16 Thông tin thu được từ website của VNS

17 Điều kiện tại sàn giao dịch của VNS (vị trí, an ninh trật

tự, diện tích, ghế ngồi, điều hòa…)

18 Bảng điện tử của VNS

19 Trình độ công nghệ VNS đang áp dụng

20 Nộp, rút tiền tại công ty

21

Sau khi trả lời các câu hỏi trên, đánh giá chung của Quý

khách hàng về dịch vụ môi giới tại VNS

Câu 22: Theo Quý khách hàng, trong hoạt động môi giới, vấn đề nào được đặt

ra sau đây là quan trọng nhất? (Sắp xếp mức độ quan trọng theo thứ tự giảm dần từ

1  5).

STT Mức độ quan trọng Chỉ tiêu

1 Biểu phí môi giới

2 Tư vấn và cung cấp thông tin

3 Chức năng giao dịch trực tuyến

4 Điều kiện sàn giao dịch

5 Website của công ty

Câu 23: Theo Quý khách hàng, với thực trạng hoạt động môi giới hiện nay tại

VNS, vấn đề nào đưa ra sau đây cần được cải thiện nhất? (Sắp xếp mức độ cần cải

thiện theo thứ tự giảm dần từ 1  5).

STT Chỉ tiêu Mức độ cần cải thiện

1 Biểu phí môi giới

2 Tư vấn và cung cấp thông tin

3 Chức năng giao dịch trực tuyến

4 Điều kiện sàn giao dịch

5 Website của công ty

106

Xin chân thành cảm ơn Quý khách hàng đã hoàn thành phiếu điều tra này.

KẾT QUẢ ĐIỀU TRA

Câu hỏi 1 2 3 4 5

Câu 1 71% 29% - - -

Câu 2 9% 91% - - -

Câu 3 28% 72% - - -

Câu 4 96% 4% - - -

Câu 5 2% 98% - - -

Câu 6 88% 10% - - 2%

Câu 7 - 100% - - -

Câu 8 100% - - - -

Câu 9 43% 57% - -

Câu 10 24% 56% - - 20%

Câu 11 8% - - - 92%

Câu 12 - - - 27% 73%

Câu 13 10% 90% - - -

Câu 14 10% 90% - - -

Câu 15 71% 23% - - 6%

Câu 16 - - - 66% 34%

Câu 17 61% 30% - - 9%

Câu 18 18% 82% - - -

Câu 19 96% - - - 4%

Câu 20 16% - - - 84%

107

Câu 21 77% 23% - -

Chỉ tiêu

Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4 Mức độ 5

Biểu phí môi giới

48%

14%

38%

-

-

Dịch vụ tư vấn đầu tư

52%

-

48%

-

-

Chức năng giao dịch trực

33%

41%

14%

-

12%

tuyến

Điều kiện sàn giao dịch

-

2%

43%

39%

16%

Website của công ty

-

-

10%

20%

70%

Câu 22

Chỉ tiêu

Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4 Mức độ 5

Biểu phí môi giới

-

5%

48%

40%

7%

Dịch vụ tư vấn đầu tư

5%

14%

25%

6%

50%

Chức năng giao dịch trực

33%

42%

-

25%

-

tuyến

Điều kiện sàn giao dịch

-

2%

27%

54%

17%

Website của công ty

62%

37%

-

1%

-

108

Câu 23