TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ---------------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
“ XUẤT KHẨU VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI”
Sinh viên thực hiện
: Trịnh Ngọc Hân
Lớp
: Anh 14 - K44D
Khoa
: KT&KDQT
Giáo viên hướng dẫn
: Ths. Vũ Huyền Phƣơng
Hà Nội - 2009
1
MỤC LỤC
Danh môc b¶ng Danh môc h×nh vÏ biÓu ®å Lêi më ®Çu Ch ¬ng I Mét sè vÊn ®Ò vÒ xuÊt khÈu vµ chuyÓn dÞch c¬ cÊu xuÊt khÈu ......................................................................................................... 1 I. C¸c kh¸i niÖm xuÊt khÈu vµ chuyÓn dÞch c¬ cÊu xuÊt khÈu ............................... 1 1. Khái niệm xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu ................................ 1 1.1. Khái niệm xuất khẩu và cơ cấu xuất khẩu ................................................. 1 1.2. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu .................................................. 3 2. Vai trò của xuất khẩu đối với Việt Nam ...................................................... 4 2.1. Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ ......................................................... 4 2.2. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước (CNH - HĐH) .......................................... 4 2.3. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển ................................................................................................................ 5 2.4. Xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn, việc làm cho xã hội và đời sống nhân dân ......................................................................................................... 6 2.5. Xuất khẩu là cơ sở để thực hiện phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại của nước ta ................................................................ 7 3. Các lý thuyết liên quan đến chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu ........................... 7 3.1. Lý thuyết Heckscher - Ohlin .................................................................... 7 3.2. Lý thuyết vòng đời sản phẩm quốc tế R.Vernon ....................................... 9 3.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia ................................................. 12 II. Sù cÇn thiÕt ph¶i chuyÓn dÞch c¬ cÊu hµng xuÊt khÈu ë ViÖt Nam ................. 17 III. Nh÷ng yÕu tè ¶nh h ëng ®Õn chuyÓn dÞch c¬ cÊu xuÊt khÈu ë ViÖt Nam ..... 22 1. ¶nh h ëng cña tù do ho¸ th ong m¹i ®Õn ho¹t ®éng xuÊt khÈu ë ............... 22 Việt Nam ...................................................................................................... 22 2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ........... 23 2.1. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến quá tình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ...................................................................................................... 23 2.2. Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến quá tình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ...................................................................................................... 24
Ch ¬ng II T×nh h×nh xuÊt khÈu vµ chuyÓn dÞch c¬ cÊu xuÊt khÈu .................................................................................................................. 28 cña ViÖt Nam trong thêi gian qua ..................................................... 28 I. Tæng quan vÒ t×nh h×nh xuÊt khÈu ViÖt Nam trong thêi gian qua .................... 28 1. Xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2001 – 2006 .............................................. 28 II. C¬ cÊu hµng xuÊt khÈu ViÖt Nam giai ®o¹n 2001 - 2006 ......................... 37 1. .............................................................. Nhóm hàng khoáng sản và nhiên liệu ..................................................................................................................... 38 2. Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản ............................................................... 40 3. Nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ .......................................... 45 III. C¬ cÊu hµng xuÊt khÈu ViÖt Nam giai ®o¹n sau khi gia nhËp WTO.............. 49 1. Nhóm hàng khoáng sản và nhiên liệu ........................................................ 51 2. Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản .................................................................. 52 3. Nhóm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ ................................................... 59 IV. §¸nh gi¸ chung vÒ c¬ cÊu xuÊt khÈu ViÖt Nam giai ®o¹n 2001 - 2008 ......... 64 1. Những kết quả đạt được ............................................................................ 64
2
2. Những hạn chế còn tồn tại ......................................................................... 67
Ch ¬ng III Mét sè gi¶i ph¸p nh»m thóc ®Èy xuÊt khÈu ViÖt Nam trong thêi gian tíi .......................................................................... 71 I. Dù b¸o chuyÓn dÞch c¬ c¸u xuÊt khÈu ViÖt Nam trong thêi gian tíi ................ 71 1. Dự báo nền kinh tế thế giới đến năm 2020................................................. 71 2. Tác động của kinh tế thế giới tới chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam ..................................................................................................................... 74 3.1. Đối với nhóm nguyên liệu và khoáng sản ............................................... 76 3.2. Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản ............................................................ 77 3.3. Nhóm hàng công nhiệp và thủ công mỹ nghệ ...................................... 80 II. §Ò xuÊt ®èi víi Nhµ n íc ........................................................................... 84 1. Giải pháp đổi mới cơ chế hoạt động xuất khẩu ..................................... 84 2. Các giải pháp phát triển khoa học công nghệ ........................................ 85 3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ..................................................... 87 4. Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu ............................................. 88 5. Thu hút vốn đầu tư cho quá trình đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu. ............. 90 5.1. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào sản xuất phục vụ xuất khẩu. .................................................................... 90 5.2. Tập trung nguồn lực để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME- Small and medium enterprises). .................................................................... 91 5.3. Tiếp tục thực thi chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. ......... 92 5.4. Thu hút vốn đầu tư trong dân. ................................................................. 92 III. Gi¶i ph¸p ®èi víi doanh nghiÖp ............................................................... 93 1. Thay đổi quan điểm, chiến lƣợc kinh doanh trong thời kì hội nhập ..... 93 2. Đầu tƣ vào khoa học công nghệ, hoạt động nghiên cứu (R&D) và nguồn nhân lực ....................................................................................................... 94 3. Nâng cao chất lƣợng hàng xuất khẩu ..................................................... 95 3.1. Đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại sản phẩm. ....................... 96 3.2. Hàng hoá sản xuất ra phải phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và đảm bảo vệ sinh an toàn. .................................................................................................. 97 4. Tăng cƣờng hoạt động nghiên cứu thị trƣờng và xúc tiến xuất khẩu ... 98
KÕt luËn Danh môc tµi liÖu tham kh¶o
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Kim ngạch và tăng trƣởng xuất khẩu Việt Nam 26
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu Việt Nam thời kì 2001 – 2006 28
Bảng 3: Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2006 29
Bảng 4: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia
xuất khẩu 30
Bảng 5: Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2008
31
Bảng 6: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2007
32
Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2001 – 2006 38
Bảng 8: Kim ngạch và tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu nhóm nông lâm
thuỷ sản 40
Bảng 9: Kim ngạch và tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu nhóm hàng công
nghiệp và thủ công mỹ nghệ giai đoạn 2001 – 2006 45
4
Bảng 10: Tình hình nhập siêu của Vịêt Nam giai đoạn 2001 – 2007 68
DANH MỤC HÌNH VẼ BIỂU ĐỒ
Hình 1: Vòng đời sản phẩm và thƣơng mại quốc tế 11
Hình 2: Xác định lợi thế cạnh tranh quốc gia: Viên kim cƣơng Porter 12
Hình 3: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 33
Hình 4: Diễn biến xuất khẩu cao su từ năm 1999 đến năm 2006 42
Hình 5: Lƣợng xuất khẩu cà phê từ năm 2000 đến năm 2006 43
5
LỜI MỞ ĐẦU
Khi nói về cơ cấu kinh tế quốc dân, Nghị quyết 6 của Ban chấp hành
Trung ương khoá V đã nhận định: “bằng một cơ cấu kinh tế hợp lý và một cơ
chế quản lý thích hợp chúng ta sẽ có khả năng tạo ra một chuyển biến mạnh
trong đời sống kinh tế - xã hội”. Đối với ngoại thương cũng vậy, việc thay đổi
cơ chế quản lý mà không đi đôi với việc xác định một chính sách cơ cấu đúng
đắn sẽ không thể phát triển ngoại thương được nhanh chóng và có hiệu quả.
Trong những năm 80, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách
và biện pháp quan trọng để tăng cường công tác xuất khẩu nhằm đáp ứng
nhập khẩu. Song những chính sách và biện pháp đó còn mang tính chất chắp
vá và bị động, chỉ chú ý nhiều đến vấn đề đổi mới cơ chế nhưng chưa giúp
xác định được cơ cấu xuất khẩu (và nhập khẩu) lâu dài và thích ứng. Do đó,
trong việc tổ chức sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ cho xuất khẩu còn
nhiều lúng túng và bị động. Việc xác định đúng cơ cấu xuất khẩu sẽ có rất
nhiều tác dụng tích cực đối với xuất khẩu và nền kinh tế. Nó giúp chúng ta
định hướng rõ cho việc đầu tư sản xuất hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu tạo nên
những mặt hàng chủ lực xuất khẩu có giá trị cao và có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Đồng thời giúp định hướng rõ việc ứng dụng khoa học - kỹ
thuật cải tiến sản xuất hàng xuất khẩu. Trong điều kiện thế giới ngày nay
khoa học - kỹ thuật ngày càng trở thành một yếu tố sản xuất trực tiếp, không
tạo ra được những sản phẩm có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao sẽ khó
cạnh tranh trong xuất khẩu. Hơn nữa, xác định được cơ cấu xuất khẩu đúng
còn cho phép chuẩn bị thị trường trước để thực hiện cơ cấu. Trước đây, trong
điều kiện cơ cấu xuất khẩu được hình thành trên cơ sở “năng nhặt chặt bị” rất
bị động trong khâu chuẩn bị thị trường tiêu thụ. Vì vậy, có nhiều lúc có hàng
không biết xuất khẩu đi đâu, rất khó điều hoà giữa sản xuất và tiêu thụ. Điều
này cũng tạo cơ sở để hoạch định các chính sách phục vụ và khuyến khích
xuất khẩu đúng địa chỉ, đúng mặt hàng và đúng mức độ. Qua đó có thể khai
thác các thế mạnh xuất khẩu của đất nước.
Đối với nước ta từ trước đến nay cơ cấu xuất khẩu nói chung còn manh
mún và bị động. Hàng xuất khẩu chủ yếu còn là những sản phẩm thô, hàng sơ
6
chế hoặc những hàng hoá truyền thống như nông sản, lâm sản, thuỷ sản, hàng
thủ công mỹ nghệ và một số khoáng sản. Với cơ cấu xuất khẩu như vậy,
chúng ta không thể xây dựng một chiến lược xuất khẩu hiện thực và có hiệu
quả.
Từ những thực tiễn khách quan trên đây, một yêu cầu cấp bách được
đặt ra là phải đổi mới cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hiện nay như
thế nào, làm thế nào để thay đổi có cơ sở khoa học, có tính khả thi và đặc biệt
là phải dịch chuyển nhanh trong điều kiện tự do hoá thương mại ngày nay.
Với lý do trên, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Xuất khẩu và chuyển
dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới” nhằm đưa
ra những lý luận cơ bản về xuất khẩu và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, khảo sát
thực trạng và đề ra các giải pháp đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
Nam trong những năm tới.
Đề tài này kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu.
- Chương 2: Tình hình xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam trong thời gian qua.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
Việt Nam trong thời gian tới.
Đây là một đề tài có nội dung phong phú và phức tạp nhưng trong điều
kiện hạn chế về thời gian cũng như giới hạn về lượng kiến thức, kinh nghiệm
thực tế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý kiến
của các thầy cô cùng các bạn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến tập thể các thầy cô giáo trường Đại học
Ngoại thương Hà Nội đã tận tình dạy dỗ em trong thời gian qua. Đặc biệt, em
xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn, Thạc Sỹ Vũ Huyền Phương. Cô
đã giúp đỡ em rất nhiều, chỉ bảo tận tình và cung cấp tài liệu giúp em hoàn
7
thành khoá luận tốt nghiệp này.
CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XUẤT KHẨU VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
XUẤT KHẨU
I. Các khái niệm xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
1. Khái niệm xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
1.1. Khái niệm xuất khẩu và cơ cấu xuất khẩu Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại,
là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong lí luận thương mại quốc tế, xuất khẩu là việc bán hàng hoá và
dịch vụ cho nước ngoài (wikipedia). Có thể hiểu xuất khẩu là quá trình hàng
hoá được sản xuất ở trong nước nhưng tiêu thụ ở nước ngoài. Xuất khẩu thể
hiện nhu cầu về hàng hoá của các quốc gia khác đối với quốc gia chủ thể.
Xuất khẩu còn chỉ ra những lĩnh vực có thể chuyên môn hoá được, những
công nghệ và tư liệu sản xuất trong nước còn thiếu để sản xuất ra sản phẩm
xuất khẩu đạt được chất lượng quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá
được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên
lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp
luật (theo điều 28, mục 1, chương 2 luật Thương mại Việt Nam 2005).
Cơ cấu hàng xuất khẩu là tổng thể các nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu
trong toàn bộ kim ngạch xuất khẩu với vị trí, tỷ trọng tương ứng và mối liên
hệ hữu cơ tương đối hợp thành. Cơ cấu xuất khẩu là quá trình sáng tạo ra của
cải vật chất và dịch vụ của một nền kinh tế thương mại tương ứng với một
mức độ và trình độ nhất định khi tham gia vào quá trình phân công lao động
quốc tế. Nền kinh tế như thế nào thì cơ cấu xuất khẩu như thế và ngược lại.
Hiểu một cách đầy đủ, cơ cấu hàng xuất khẩu là tổng thể các nhóm hàng,
mặt hàng xuất khẩu trong toàn bộ kim ngạch xuất khẩu với vị trí, tỷ trọng
tương ứng và mối liên hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành [11]. Cơ cấu
hàng xuất khẩu được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau:
1
Theo danh mục tiêu chuẩn ngoại thương SITC
Danh mục hàng hoá thương mại quốc tế tiêu chuẩn (Standard International
Trade Clasification) là bảng danh mục phân loại hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu dựa trên các công đoạn sản xuất của hàng hoá do Uỷ Ban Thống Kê
Liên hợp quốc ban hành. Bản sửa đổi lần thứ 3 năm 1986 của danh mục này
chia hàng hoá xuất khẩu thành 3 nhóm:
Nhóm 1: Hàng thô hoặc mới sơ chế (Primary products), gồm 5 nhóm:
- Lương thực, thực phẩm và động vật sống
- Đồ uống và thuốc lá
- Nguyên liệu thô, không dùng để ăn, trừ nhiên liệu
- Nhiên liệu, dầu mỡ nhờn và vật liệu liên quan
- Dầu, mỡ, chất béo, sáp động thực vật
Nhóm 2: Hàng chế biến hoặc đã tinh chế (manufactured products), gồm
4 nhóm:
- Hoá chất và sản phẩm liên quan
- Hàng chế biến phân loại theo nguyên liệu
- Máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng
- Hàng chế biến khác
Nhóm 3: Hàng không thuộc các nhóm trên
Theo nhóm hàng:
Trong niên giám thống kê của Việt Nam, cơ cấu hàng xuất khẩu được chia
thành 3 nhóm hàng dựa trên cơ cấu ngành kinh tế:
- Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
- Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
- Hàng nông - lâm - thuỷ sản
Theo hàm lƣợng chế biến của sản phẩm
Đây là cách phân loại được đưa ra trong chiến lược phát triển ngoại
thương Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Theo đó hàng xuất khẩu được phân
chia thành 4 nhóm:
- Khoáng sản
- Nông - lâm - thuỷ - sản
- Hàng chế biến chính
Theo tầm quan trọng của mặt hàng xuất khẩu [11] 2
- Hàng chế biến cao
Bao gồm 3 nhóm hàng:
- Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định
trong tổng kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều
kiện sản xuất trong nước thuận lợi.
- Nhóm mặt hàng xuất khẩu quan trọng là hàng chiếm tỉ trọng không
lớn trong kim ngạch xuất khẩu nhưng đối với từng thị trường, từng địa
phương lại có vị trí quan trọng.
- Nhóm mặt hàng xuất khẩu thứ yếu gồm nhiều loại, kim ngạch của
những loại này thường nhỏ.
Trong phạm vi nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp sẽ đề cập đến cơ cấu
hàng xuất khẩu dựa theo tiêu chí nhóm ngành hàng bao gồm: nhóm hàng
khoáng sản và nhiên liệu, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản, nhóm hàng công
nghiệp và thủ công mĩ nghệ. Đây là cách phân loại thường thấy trong báo
cáo thường niên của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương).
1.2. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
Cơ cấu xuất khẩu là một yếu tố động, mà sự biến động của nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: năng lực sản xuất trong nước, nhu cầu của thị
trường thế giới ...và trên hết là chính sách ngoại thương của các quốc gia.
Muốn xuất khẩu thành công các quốc gia phải biết nắm bắt những điều
kiện bên ngoài và phát huy nội lực có sẵn từ bên trong để xây dung được
một cơ cấu xuất khẩu hợp lí. Do các yếu tố bên ngoài, mà đặc biệt là thị
trường thế giới luôn luôn thay đổi, và chính sách ngoại thương của mỗi
quốc gia cũng được thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế nên cơ cấu
hàng xuất khẩu cũng cần phải thay đổi cho phù hợp với xu thế và nhu cầu
của thị trường. Đây có thể hiểu là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu là sự thay đổi cơ cấu hàng xuất
khẩu từ trạng thái này sang trạng thái khác nhằm đạt đến một cơ cấu
xuất khẩu tối ưu hơn, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế [11].
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu chính là sự thay đổi tỉ trọng các nhóm
hàng, các mặt hàng trong tổng nhóm hàng để đáp ứng nhu cầu quốc tế. Để
3
xác định được tỉ trọng này, chúng ta cần đề ra được phương hướng cụ thể,
những chính sách, biện pháp đẩy mạnh những mặt hàng chủ lực, những
mặt hàng quan trọng.
Trong chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, Nhà nước giữ vai trò quan trọng
đó là xác định đường lối, phương hướng cho xuất khẩu nói chung và cơ
cấu xuất khẩu nói riêng, để có biện pháp phù hợp với mỗi giai đoan phát
triển của đất nước đồng thời bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới.
2. Vai trò của xuất khẩu đối với Việt Nam
2.1. Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ Trong các nguồn thu ngoại tệ cho Ngân sách quốc gia có các nguồn thu chính
sau:
- Xuất khẩu hàng hoá - dịch vụ
- Đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp
- Vay nợ của chính phủ và tư nhân
- Kiều bào từ nước ngoài gửi về
- Các khoản viện trợ
Tuy nhiên, khoản thu từ xuất khẩu hàng hoá là tích cực nhất đối với
quốc gia vì xuất khẩu không gây ra nợ nước ngoài như các khoản vay của
Chính phủ và tư nhân, Chính phủ không bị rằng buộc vào những yêu sách
của nước khác như nguồn tài trợ từ bên ngoài, phần lớn ngoại tệ thu được
từ hoạt động xuất khẩu thuộc về các nhà sản xuất trong nước được tái đầu
tư để phát triển sản xuất, không bị chuyển ra nước ngoài như nguồn đầu
tư từ nước ngoài, qua đó cho phép nền kinh tế tăng trưởng chủ động, đỡ
bị lệ thuộc vào bên ngoài.
Do đó, đối với bất kì quốc gia nào, để tránh tình trạng nợ nước ngoài,
giảm thâm hụt cán cân thanh toán, con đường tốt nhất là đẩy mạnh xuất
khẩu. Nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu sẽ làm tăng tổng cung ngoại
tệ của đất nước, góp phần ổn định tỉ giá hối đoái, ổn định kinh tế vĩ mô.
2.2. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nƣớc (CNH - HĐH)
Sự tăng trưởng của mỗi quốc gia đều đòi hỏi có các điều kiện về
nhân lực, tài nguyên, vốn, kĩ thuật. Song không phải quốc gia nào cũng có
4
đủ 4 điều kiện trên, trong thời gian hiện nay, các nước đang phát triển đều
thiếu vốn, kĩ thuật lại thừa lao động. Mặt khác, trong quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), để thực hiện tốt quá trình này đòi
hỏi nền kinh tế phải có đủ cơ sở vật chất để tạo đà phát triển. Để khắc
phục tình trạng này các quốc gia phải nhập khẩu máy móc, thiết bị, kĩ
thuật tiên tiến.
Hơn nữa, xu thế tiêu dùng trên thế giới ngày nay càng ngày càng coi
trọng chất lượng sản phẩm. Để nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc
tế, doanh nghiệp buộc phải đầu tư để nâng cao công nghệ của mình - đây
là một vấn đề cấp bách đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Do đó, xu
hướng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ cũng đang
ngày càng phát triển và các nước phát triển muốn chuyển giao công nghệ
của họ sang các nước đang phát triển. Hai nhân tố trên có tác động rất
quan trọng đến quá trình chuyển giao công nghệ và nâng cao trình độ
quốc gia. Tuy nhiên, yếu tố vô cùng quan trọng để quá trình chuyển giao
công nghệ có thể diễn ra được đó là cần phải có nguồn ngoại tệ. Xuất
khẩu đã phần nào đem lại nguồn thu ngoại tệ và giải quyết vấn đề này.
Hoạt động xuất khẩu đã mang về ngoại tệ và từ đó các doang nghiệp có
tiền để mua công nghệ sản xuất tiến bộ phục vụ sản xuất trong nước.
2.3. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển Khi xuất khẩu phát triển thì sự phát triển của những ngành sản xuất ra
sản phẩm xuất khẩu tạo ra nhu cầu đối với các ngành sản xuất đầu vào
như: điện, nước, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị… Các nhà đầu tư sẽ
đầu tư mở rộng sản xuất đáp ứng các nhu cầu này, tạo sự phát triển cho
công nghiệp nặng. Hơn nữa, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới
đang thay đổi hết sức mạnh mẽ. Do đó sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của thế
giới và tất yếu đối với chúng ta.
Ngày nay, trong xu thế mới, chúng ta phải coi thị trường và đặc biệt
là thị trường thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất. Điều này có ý nghĩa
tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát
5
triển. Xuất khẩu tác động đến sản xuất thể hiện ở những mặt sau:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho những ngành khác phát triển thuận lợi.
Chẳng hạn, khi ngành dệt may xuất khẩu phát triển sẽ giúp cho các ngành
nguyên liệu được phát triển như bông, sợi, thuốc nhuộm…
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp sản xuất phát
triển ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào, nâng cao
năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra tiền đề kinh tế - kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng
lực sản xuất trong nước. Điều này cho thấy, xuất khẩu là phương tiện
quan trọng tạo ra vốn và kĩ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào
Việt Nam. Từ đó, nền sản xuất trong nước được đổi mới, trình độ công
nghệ cao hơn phù hợp xu thế phát triển.
- Qua quá trình xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ chính thức tham gia vào
cuộc cạnh tranh về chất lượng, giá cả. Cuộc cạnh tranh này buộc các
doanh nghiệp phải đổi mới, phát triển để thích nghi và theo kịp các nước
trên thế giới.
Xuất khẩu cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải dần hoàn thiện sản xuất,
kinh doanh, xúc tiến mở rộng thị trường.
2.4. Xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn, việc làm cho xã hội và đời sống nhân dân
Theo tính toán của các nhà kinh tế, nếu đẩy mạnh xuất khẩu, tăng
giá trị kim ngạch xuất khẩu thì sẽ góp phần tạo công ăn việc làm cho
người lao động. Giải quyết việc làm là một vấn đề hết sức cần thiết, đặc
biệt đối với một nước đông dân và lại là dân số trẻ như Việt Nam. Người
lao động có việc làm ổn định không chỉ thúc đẩy sản xuất phát triển mà
còn ổn định chính trị, nâng cao đời sống người dân.
Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất
nhiều mặt. Trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang
trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động và có thu nhập không thấp.
Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết
yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu
6
cầu tiêu dùng của nhân dân.
Quan trọng hơn cả là xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm
cho cả qui mô và tốc độ của sản xuất tăng lên , các ngành nghề cũ được
khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao
động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân
dân được cải thiện.
2.5. Xuất khẩu là cơ sở để thực hiện phƣơng châm đa dạng hoá, đa phƣơng hoá trong quan hệ đối ngoại của nƣớc ta
Xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại có quan hệ qua lại với
nhau. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động
kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng
hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu
tư, vận tải quốc tế. Sau đó, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền
đề cho mở rộng xuất khẩu. Xuất khẩu góp phần thực hiện đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại nước ta thông qua:
- Phát triển khối lượng hàng xuất khẩu ngày càng lớn ra thị trường thế
giới, nhất là những sản phẩm chủ lực, những sản phẩm mũi nhọn.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu sang những nước mới.
- Thông qua xuất khẩu, tranh thủ khai thác tiềm năng của đối tác.
Nói tóm lại, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược trong phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
3. Các lý thuyết liên quan đến chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
3.1. Lý thuyết Heckscher - Ohlin Lý thuyết này được hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển là Eli
Heckscher và Bertil Ohlin đưa ra vào những năm đầu thế kỉ 20. Nếu như
David Ricacdo nhấn mạnh rằng có lợi thế tương đối là do sự khác biệt về
năng suất, và đặc biệt sự khác biệt về năng suất lao động chính là nền tảng
của lợi thế tương đối thì lý thuyết H-O thì lại cho rằng lợi thế tương đối xuất
phát từ sự khác nhau của các yếu tố sản xuất. Đó chính là các nguồn lực cần
thiết cho quá trình sản xuất: đất đai, lao động và tư bản. Do mức độ sẵn có
của các yếu tố này ở các quốc gia là khác nhau nên điều này tạo ra sự khác
biệt trong chi phí sản xuất. Lý thuyết H-O được xây dựng trên hai khái niệm
7
cơ bản là hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào các yếu tố [9]. Một quốc
gia được coi là dồi dào tương đối về lao động (hay về vốn) nếu tỷ lệ giữa
lượng lao động (hay lượng vốn) của quốc gia đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng của
các quốc gia khác. Chẳng hạn, quốc gia A được coi là dồi dào tương đối về
lao động so với quốc gia B nếu LA/KA > LB/KB. Trong đó LA, LB là lượng
lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tại hai quốc gia A và
B; KA, KB lần lượt là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm tại 2 quốc gia A và B.
Lý thuyết H - O phát biểu rằng một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt
hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối các yếu tố
sản xuất dồi dào của quốc gia đó và ngược lại, nhập khẩu những mặt hàng mà
việc sản xuất đòi hỏi sử dụng các yếu tố sản xuất khan hiếm trong nước [9].
Như vậy chúng ta có thể hiểu nội dung cơ bản của học thuyết này như sau:
một nước có nguồn cung tài nguyên nào đó lớn hơn tương đối so với nguồn
của các tài nguyên khác thì được xem là phong phú về tài nguyên đó và sẽ có
xu hướng sản xuất các hàng hoá sử dung các tài nguyên phong phú đó nhiều
hơn. Nói một cách khác, các nước có xu hướng xuất khẩu hàng hoá có hàm
lượng các yếu tố mà trong nước có nguồn cung cấp dồi dào. Các yếu tố sản
xuất càng dồi dào thì chi phí sản xuất càng thấp. Theo như lý thuyết này,
những nước giàu tài nguyên thiên nhiên sẽ tập trung xuất khẩu chúng trên thị
trường thế giới, những nước có nguồn nhân công lớn và tương đối rẻ sẽ tập
trung phát triển những mặt hàng chế biến sử dụng nhiều sức lao động [9].
Các nước đang phát triển như Việt Nam thường dồi dào về lao động,
trong khi đó các nước phát triển thường dồi dào về vốn. Do đó, thời gian qua
nước ta tập trung cho những mặt hàng xuất khẩu cần nhiều lao động như dệt
may, giày dép, nông sản là hoàn toàn hợp lí với lý thuyết này. Tuy nhiên, trên
thị trường thế giới hiện nay, lợi thế sản xuất những mặt hàng cần nhiều sức
lao động đang dần giảm đi và vai trò của vốn trong sản xuất ngày càng tăng
lên. Nếu vẫn tiếp tục duy trì cơ cấu xuất khẩu như trước kia thì Việt Nam sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong xuất khẩu thời gian tới. Nhưng nếu chúng ta
biết thay đổi và tận dụng được những lợi thế mới về vốn thì chúng ta sẽ hình
8
thành được những lợi thế quốc gia mới.
3.2. Lý thuyết vòng đời sản phẩm quốc tế R.Vernon Lý thuyết vòng đời sản phẩm quốc tế được Raymond Vernon đưa ra vào
giữa thập kỉ 60. Lý thuyết này cho rằng các phát minh có thể ra đời ở các
nước giàu, nhưng điều đó không có nghĩa là quá trình sản xuất sẽ chỉ được
thực hiện ở các nước đó mà thôi [9].
Lý thuyết vòng đời sản phẩm quốc tế nghiên cứu về những sản phẩm hoàn
toàn mới trên thị trường thế giới. Mỗi một sản phẩm sẽ trải qua 5 pha:
- Pha 0: Đổi mới trong nước: Trong giai đoạn này sản phẩm được tiêu
thụ tại nước khởi xướng sản phẩm. Khi sản phẩm mới được giới thiệu,
việc sản xuất và tiêu thụ còn mang tính chưa chắc chắn và phụ thuộc
nhiều vào nguồn cung cấp nhân công lành nghề và khoảng cách gần
gũi với thị truờng, lúc đó sản phẩm sẽ được sản xuất với chi phí cao,
cạnh tranh chỉ diễn ra giữa các công ty ở nước khởi xướng sản phẩm.
Chẳng hạn, rất nhiều các sản phẩm mới của thế giới do các công ty
Mỹ và trước hết được bán ở thị trường Mỹ (ví dụ: máy quay phim,
máy photocopy, máy tính cá nhân...). Theo Vernon sự giàu có của thị
trường Mỹ cùng với trình độ công nghệ cao khiến cho ngành công
nghiệp của Mỹ phát triển vượt bậc và sáng tạo ra nhiều sản phẩm tiêu
dùng mới.
- Pha 1: Đổi mới ngoài nước: Trong pha này, hàng hoá thâm nhập thị
trường quốc tế thông qua con đường xuất khẩu. Theo thời gian, nhu
cầu về các sản phẩm mới này ngày một tăng lên ở các quốc gia có
điều kiện thuận lợi khác (chẳng hạn như Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản).
Thị trường giờ đây bao gồm cả nước khởi xướng sản phẩm và các
nước phát triển khác. Cạnh tranh diễn ra chủ yếu giữa các công ty xuất
khẩu của nước khởi xướng.
- Pha 2: Tăng trưởng và chín muồi: Trong pha này, xuất khẩu của nước
khởi xướng sản phẩm tăng nhanh và đạt mức cao nhất. Công nghệ sản
xuất dần dần trở nên chuẩn hoá và phát triển rộng rãi. Sản phẩm bắt
đầu được sản xuất ở các nước phát triển khác. Thị trường là những
nước phát triển và một số nước đang phát triển, chủ yếu là những
nước công nghiệp mới NICs. Thị trường tiêu thụ mở rộng tạo điều
9
kiện cho việc tổ chức sản xuất trên quy mô lớn với chi phí thấp. Chi
phí sản xuất có một vai trò rất lớn trong quá trình cạnh tranh. Các nhà
sản xuất ở những quốc gia phát triển khác có chi phí nhân công rẻ hơn
ở Mỹ đã có cơ hội xuất khẩu sản phẩm của họ vào chính thị trường
Mỹ. Cạnh tranh trong giai đoạn này diễn ra chủ yếu giữa các công ty
xuất khẩu của các nước khởi xướng và của các nước phát triển khác.
- Pha 3: Đổi mới toàn cầu : Trong pha này sản phẩm đuợc sản xuất
khắp nơi trên thế giới. Công nghệ trở nên hoàn toàn được chuẩn hoá,
quá trình sản xuất có thể được chia ra thành nhiều công đoạn khác
nhau và tương đối đơn giản. Lợi thế so sánh được chuyển tới những
nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động dồi dào và mức lương
thấp. Thị trưòng mục tiêu lúc này là các nước đang phát triển. Xuất
khẩu của nước khởi xướng giảm mạnh và bắt đầu suy thoái. Cạnh
tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp của các nước phát triển và nước
đang phát triển.
- Pha 4: Đổi mới ngược chiều: trong pha này nước khởi xướng không
còn xuất khẩu sản phẩm, sản phẩm được nhập khẩu ngược trở lại nước
khởi xướng. Cuối cùng, nước Mỹ chuyển thành một nước nhập khẩu
do sản phẩm được sản xuất tại những nước có chi phí thấp hơn
Chẳng hạn như ví dụ ở trên, các công ty Mỹ sản xuất ra các sản
phẩm hiện đại, lần đầu tiên có mặt trên thế giới như máy quay phim, máy
photocopy.... và trước hết các sản phẩm này được bán ra ở thị trường Mỹ
(pha 0). Tuy nhiên, theo thời gian, nhu cầu về các sản phẩm mới này ngày
một tăng lên ở các quốc gia có điều kiện thuận lợi khác (chẳng hạn như Anh,
Pháp, Đức, Nhật Bản), và mới chỉ hạn chế ở nhóm những khách hàng có thu
nhập cao. Khi đó các nhà sản xuất tại các quốc gia này có khả năng thu được
nguồn lợi lớn từ việc tổ choc sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước. Đồng
thời các công ty của Mỹ cũng thiết lập các chi nhánh sản xuất ở đó bởi nhu
cầu về sản phẩm của Mỹ đang ngày một tăng lên. Kết quả là tiềm năng xuất
khẩu của Mỹ bị hạn chế bởi việc sản xuất ngay tại các thị trường thiêu thụ.
Trên các thị trường phát triển như Mỹ và các quốc gia phát triển khác,
hàng hoá được tiêu chuẩn hoá và giá cả là vũ khí chủ chốt trong cạnh tranh.
Thực tiễn đã cho thấy các nhà sản xuất ở các quốc gia phát triển khác có chi
10
phí nhân công rẻ hơn ở Mỹ (chẳng hạn như Ý, Tây Ban Nha) bắt đầu lại
giành được lợi thế hơn các quốc gia phát triển đã có cơ hội để xuất khẩu sản
phẩm của họ vào chính thị trường Mỹ.
Nếu như sức ép về chi phí không ngừng tăng lên thì quá trình cạnh
tranh sẽ không dừng lại ở đó. Chu kỳ cạnh tranh có thể lặp lại một lần nữa vì
các quốc gia đang phát triển (chẳng hạn như Thái Lan) bắt đầu giành được
lợi thế sản xuất hơn các quốc gia phát triển. Như vậy, địa điểm sản xuất được
dịch chuyển từ Mỹ sang các quốc gia phát triển khác, rồi sau đó dịch chuyển
sang các quốc gia đang phát triển.
Cuối cùng thì, nước Mỹ, từ một nước xuất khẩu chuyển sang một nước
nhập khẩu do sản xuất được tập trung tại những nơi có chi phí thấp hơn.
11
Chúng ta có thể hiểu rõ hơn về lý thuyết này qua hình vẽ dưới đây:
Hình 1: Vòng đời sản phẩm và thƣơng mại quốc tế
Nguồn: GS.TS Bùi Xuân Lưu, PGS.TS Nguyễn Hữu Khải (2006), giáo
trình Kinh tế ngoại thương, NXB Lao động – xã hội, - trang 66 -
Vận dụng lý thuyết vòng đời sản phẩm quốc tế vào Việt Nam - một
nước đang phát triển, chúng ta thấy đây là một lý thuyết thiết thực đối với
quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Việt Nam có trình độ
công nghiệp, khoa học kỹ thuật đi sau các nước phát triển như Mỹ, Nhật
Bản hàng vài chục năm. Tuy không có được những máy móc thiết bị,
trình độ công nghệ cao hàng đầu thế giới nhưng chúng ta cũng có lợi thế
của mình. Việt Nam có thể tận dụng công nghệ của những nước đi trước
cải tiến nền sản xuất trong nước. Dần dần, Việt Nam có thể bắt kịp với
tiến bộ của thế giới, xuất khẩu những mặt hàng đáp ứng đủ chất lượng,
yêu cầu của thị trường quốc tế.
3.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia
Lý thuyết này do Michael Porter đưa ra vào những năm 1990. Mục
đích của lý thuyết này là giải thích tại sao một số quốc gia lại có được vị
trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm, hay nói khác đi tại sao
lại có những quốc gia có lợi thế cạnh tranh về một số sản phẩm. Lý thuyết
này được xây dựng dựa trên cơ sở lập luận rằng khả năng cạnh tranh của
một ngành công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và
đổi mới của ngành đó. Điều này được khái quát cho một thực thể lớn hơn
12
– một quốc gia. Lý thuyết của M.Porter đã kết hợp được các cách giải
thích khác nhau trong các lý thuyết thương mại quốc tế trước đó và đồng
thời đưa ra một khái niệm khá quan trọng là lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Hình 2. Xác định lợi thế cạnh tranh quốc gia: Viên kim cƣơng Porter
Nguồn: GS.TS Bùi Xuân Lưu, PGS.TS Nguyễn Hữu Khải (2006), giáo
trình Kinh tế ngoại thương, NXB Lao động - xã hội, - trang 67-
Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự
liên kết của bốn nhóm yếu tố. Mối liên kết của bốn nhóm này tạo thành
mô hình kim cương. Các nhóm yếu tố đó bao gồm: điều kiện các yếu tố
sản xuất, điều kiện về cầu, các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan,
chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành, các yếu tố này tác
động qua lại lẫn nhau và hình thành lên khả năng cạnh tranh quốc gia.
Ngoài ra, còn có hai yếu tố khác là chính sách của chính phủ và cơ hội.
Đây là hai yếu tố có thể tác động đến bốn yếu tố cơ bản kể trên.
- Các yếu tố sản xuất: là khả năng của quốc gia về các yếu tố sản
xuất như lao động có kỹ năng cao hoặc cơ sở hạ tầng cần thiết để
cạnh tranh trong một ngành công nghiệp nhất định. Các yếu tố sản
xuất là trung tâm của lý thuyết Heckscher – Ohlin. Sự phong phú,
dồi dào của yếu tố sản xuất có vai trò nhất định đối với lợi thế cạnh
tranh quốc gia; các quốc gia có lợi hơn khi sản xuất, xuất khẩu
nhiều yếu tố đầu vào mà nước đó có nhiều. Các doanh nghiệp có
thể có được lợi thế cạnh tranh nếu họ sử dụng các yếu tố đầu vào
có chi phí thấp, chất lượng cao và có vai trò quan trọng trong cạnh
tranh. Tuy nhiên, có những trường hợp, sự dồi dào về yếu tố sản
13
xuất lại làm giảm lợi thế cạnh tranh nếu như chúng không được
phân bổ hợp lí. Hơn nữa, những đầu vào quan trọng nhất đối với
hầu hết các ngành, đặc biệt với các ngành mà việc tăng năng suất
không phải là yếu tố tự nhiên mà do con người sáng tạo quyết
định. Nói cách khác, sử dụng, tạo ra, cải tiến và chuyên biệt hoá
đầu vào có tầm quan trọng lớn hơn số lượng yếu tố đầu vào trong
việc tạo ra lợi thế cạnh tranh [9].
Việc duy trì lợi thế cạnh tranh còn phụ thuộc nhiều vào việc
đầu vào đó là đầu vào cơ bản hay đầu vào cao cấp. Đầu vào cơ bản
bao gồm nguồn taì nguyên, khí hậu, vị trí địa lí và cá đầu vào cao
cấp là thông tin liên lạc, lao động có kĩ năng và tay nghề cao, các
thiết bị nghiên cứu, bí quyết công nghệ [9]. M.Porter cho rằng các
nhân tố cấp cao này đóng vai trò quan trọng nhất đối với lợi thế
cạnh tranh. Nếu như các yếu tố cơ bản là những yếu tố mang tính
tự nhiên, các yếu tố cấp cao là sản phẩm của quá trình đầu tư của
các cá nhân, công ty và chính phủ.
Mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản và cao cấp rất phức tạp.
Các yếu tố cơ bản tạo ra lợi thế ban đầu. Những lợi thế này được
củng cố và mở rộng thông qua đầu tư cho các yếu tố cấp cao và
ngược lại.
- Điều kiện về cầu: M.Porter cũng khẳng định vai trò của cầu trong
nước trong việc thúc đẩy nâng cao lợi thế cạnh tranh. Đặc điểm
của nhu cầu trong nước là đặc biệt quan trọng trong việc đưa ra
quyết định sản xuất cũng như tạo ra áp lực cải tiến kỹ thuật và
nâng cao chất lượng. M.Porter cho rằng một công ty của quốc gia
sẽ có được lợi thế cạnh tranh nếu chư các khách hàng tại thị trường
trong nước có nhu cầu. Những khách hàng này gây áp lực buộc
công ty phải cung cấp sản phẩm đạt chất lượng cao, mới và có tính
sáng tạo.
- Các ngành công nghiệp bổ trợ và có liên quan: nghiên cứu về
việc quốc gia đó có hay không có các ngành công nghiệp bổ trợ
cho ngành công nghiệp phải cạnh tranh quốc tế.
Một quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong nhiều ngành hỗ trợ và
14
nhiều ngành liên quan sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp. Lợi thế cạnh tranh của các ngành hỗ trợ và liên quan sẽ tạo
ra lợi thế tiềm tàng cho các doanh nghiệp như cung cấp trong thời
gian ngắn, với chi phí thấp; duy trì quan hệ hợp tác liên tục...
Chẳng hạn lợi thế về sản phẩm thép (vòng bi, dụng cụ sắt) đã tạo
ra lợi thế cho các ngành luyện thép đặc biệt của Thụy Điển. Khả
năng sản xuất thiết bị bán dẫn của Mỹ cho đến tận giữa những năm
80 là nền tảng cho sự thành công của quốc gia này trong lĩnh vực
sản xuất máy tính cá nhân và các sản phẩm điện tử công nghệ cao
khác.
Như vậy, sự thành công của mỗi ngành trong một quốc gia có
xu hướng tạo nên sự thành công của một nhóm ngành khác có liên
quan.
- Về chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh: là các điều kiện
thể chế của quốc gia về việc thành lập, tổ chức hoạt động, quản lý
và cạnh tranh giữa các công ty trong nước. Lợi thế cạnh tranh còn
được quyết định bởi chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh
của các hãng trong phạm vi một quốc gia. M.Porter chỉ ra 2 điểm
quan trọng. Thứ nhất, các quốc gia được phân biệt bởi cách thức
quản lí khác nhau. Cách thức quản lí này tạo điều kiện thuận lợi
hoặc không thuận lợi cho việc tạo ra lợi thế cạnh tranh của quốc
gia. Ví dụ, M.Porter chú ý đến tính vượt trội của những kĩ sư có
trình độ cao trong đội ngũ quản lí của các doanh nghiệp Nhật Bản
và Đức, đặc biệt là trong việc cải tiến các qui trình sản xuất và thiết
kế sản phẩm. Ngược lại, M.Porter nhận thấy có sự vượt trội của
các chuyên gia tài chính trong bộ máy quản lí của các công ty Mỹ.
Trong khi đó nhiều công ty Mỹ không quan tâm nhiều đến việc cải
tiến các qui trình sản xuất và thiết kế sản phẩm, đặc biệt là trong
những thập kỉ 70 và 80. Ông cũng cho rằng sự vượt trội của các
chuyên gia tài chính trong bộ máy quản lí đã dẫn đến việc chú
trọng quá mức các nguồn thu tài chính ngắn hạn. Hậu quả là các
công ty của Mỹ tỏ ra yếu thế trong các ngành công nghiệp cần
nhiều kĩ sư, những ngành mà quá trình sản xuất và thiết kế sản
15
phẩm là rất quan trọng (chẳng hạn như công nghiệp sản xuất ô tô)
[8]. Thứ hai, M.Porter cho rằng có mối quan hệ chặt chẽ giữa sự
cạnh tranh mạnh mẽ ở trong nước với tính sáng tạo và kiên trì ở
của công ty về lợi thế cạnh tranh trong một ngành công nghiệp.
Môi trường cạnh tranh gay gắt trong nước khiến các công ty phải
tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất. Do đó, tạo cho các doanh
nhgiệp này khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường quốc tế.
Cạnh tranh trong nước tạo ra áp lực sáng tạo kĩ thuật, nâng cao
chất lượng, giảm chi phí và tăng đầu tư để nâng cao chất lượng các
yếu tố cao cấp [8].
Trong các yếu tố cấu thành lợi thế cạnh tranh thì Việt Nam chỉ có thuận
lợi về điều kiện tự nhiên và lao động đơn giản, đây là nhân tố điều kiện các
yếu tố sản xuất. Theo lý thuyết này, các quốc gia có lợi hơn khi sản xuât và
xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố đầu vào mà quốc gia đó dồi
dào. Như vậy Việt Nam chỉ có thuận lợi về điều kiện tự nhiên và lao động
đơn giản là các đầu vào cơ bản, không quan trọng bằng các đầu vào cao cấp.
Còn các đầu vào khác của nước ta đều còn rất hạn chế. Tại những nước đang
và kém phát triển như Việt Nam, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, trình độ lao động
chưa cao nên xuất khẩu ở những nước này chủ yếu dựa vào những lợi thế cơ
bản về lao động, tài nguyên. Ngược lại, ở các nước phát triển mặt hàng xuất
khẩu của họ chủ yếu là những mặt hàng công nghệ cao, chất lượng tốt vì họ
có lực lượng lao động có tay nghề cao và một cơ sở hạ tầng hiện đại. Tầm
quan trọng của đầu vào cơ bản trong việc tạo lợi thế cạnh tranh ngày một
giảm do nhu cầu sử dụng chúng giảm dần và khả năng cung ứng hoặc tiếp
cận tới chúng ngày càng mở rộng. Ngược lại, các đầu vào cao cấp hiện đang
là những đầu vào quan trọng nhất giúp các doanh nghiệp tạo được lợi thế
cạnh tranh trình độ cao, đó là lợi thế cạnh tranh dựa vào tính chất độc đáo sản
phẩm và công nghệ. Số lượng các đầu vào này không nhiều do việc tạo ra
chúng đòi hỏi phải đầu tư lớn và thường xuyên về nhân lực và vật lực và việc
có được chúng không phải là điều dễ dàng. Do vậy, lợi thế cạnh tranh dựa
vào đầu vào cao cấp ổn định hơn. Vậy theo lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc
gia, để phát triển xuất khẩu đòi hỏi các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia
đang và kém phát triển phải chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Có như
16
vậy các nước mới có thể duy trì được lợi thế cạnh tranh của mình. Các nước
phải biết tận dụng được những lợi thế sẵn có về đầu vào cơ bản vừa đầu tư,
phát triển công nghệ hiện đại để có được lợi thế từ những đầu vào cao cấp.
Ngoài ra còn có hai yếu tố có tác động quan trọng đến Viên kim cương
quốc gia: cơ hội và chính phủ. Các cơ hội chẳng hạn như một phát minh quan
trọng tạo ra sự nhảy vọt làm thay đổi cấu trúccủa ngành công nghiệp và đem
lại cơ hội cho các công ty trong nước vượt lên trên đối thủ. Chính phủ, thông
qua sự lựa chọn chính sách, có thể hạn chế hoặc tăng năng lực cạnh tranh của
công ty. Ví dụ, luật pháp có thể làm thay đổi nhu cầu trong nước, các chíng
sách chống độc quyền có thể làm tăng sức cạnh tranh trong một ngàch công
nghiệp, và đầu tư của Chính phủ cho giáo dục có thể thay đổi các yếu tố sản
xuất.
II. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ở Việt Nam Qua nghiên cứu các lý thuyết về thương mại quốc tế liên quan đến cơ
cấu hàng xuất khẩu ở trên, chúng ta thấy việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất
khẩu ở Việt Nam là một việc làm cần thiết và tất yếu, phù hợp với quá trình
phát triển toàn cầu. Khi Việt Nam đã đạt được một cơ cấu xuất khẩu phù hợp
với tình hình đất nước và thế giới thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế nói chung và
xuất khẩu nói riêng vận hành và phát triển tốt.
Kết hợp các xu thế trên với với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta
càng thấy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu là một con đường đúng đắn mà Việt
Nam đã chọn, đặc biệt là khi chúng ta đã tham gia vào một sân chơi lớn,
mang tính chất toàn cầu - WTO. Chúng ta không thể đứng ngoài cuộc chơi
mà phải tham gia, phải cạnh tranh, phải thay đổi. Qua những cơ sở lí luận ở
trên, ta rút ra những lí do chính khiến Việt Nam phải chuyển dịch cơ cấu xuất
khẩu như sau:
Thứ nhất, đổi mới cơ cấu xuất khẩu có mối quan hệ hữu cơ với quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) và hội nhập kinh tế. Để
có được đánh giá chính xác và toàn diện tình hình chuyển dịch cơ cấu xuất
khẩu trong thời gian qua và định hướng cho thời gian tớ cần phải dựa trên
quan điểm cụ thể về CNH - HĐH. Báo cáo Chính trị tại đại hội toàn quốc IX
17
của Đảng đã chỉ rõ những mục tiêu, quan điểm và tư tưởng chỉ đạo về CNH -
HĐH đất nước được phản ánh rõ nét nhất là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH - HĐH; hướng mạnh về xuất khẩu có lựa chọn; CNH -
HĐH theo hướng mở cửa và hội nhập với thế giới. Rõ ràng, giữa chuyển dịch
cơ cấu kinh tế với CNH - HĐH có mối quan hệ biện chứng, cái nọ vừa là
hiệu quả nhưng lại là tiền đề cho cái kia. Song xuất khẩu hàng hoá chỉ là một
khâu trong quá trình tái sản xuất và là một bộ phận trong tổng thể nền kinh tế
nói chung, cho nên một mặt nó giữ vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH - HĐH, mặt khác với tư cách là chủ thể vừa diễn ra trong
quá trình CNH - HĐH, lại vừa diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu trong bản
thân lĩnh vực xuất khẩu.
Việt Nam cũng đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước. Với mục tiêu là sẽ cơ bản đưa nước ta thành nước công nghiệp hiện
đại vào năm 2020 thì chắc chắn việc sản xuất những mặt hàng công nghiệp sẽ
được coi trọng và phát triển. Trong những năm gần đay, những mặt hàng
công nghiệp Việt Nam cũng dần chiếm được vị trí cao trong cơ cấu hàng xuất
khẩu. Chẳng hạn trong năm 2008 vừa qua, mặt hàng linh kiện điện tử, máy
tính đạt kim ngạch trên 2,7 tỷ USD, là một trong 8 mặt hàng xuất khẩu đạt
kim ngạch trên 2 tỷ USD, gồm có: dầu thô, hàng dệt may, sản phẩm gỗ, gạo,
linh kiện điện tử, máy tính, cà phê. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho quá
trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Thị
trường quốc tế là thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng nhưng cũng không ít
những thách thức đang chờ đợi chúng ta ở phía trước. Nhưng những tín hiệu
đáng mừng ở trên đã khẳng định Việt Nam hoàn toàn có thể vươn ra thế giới
với những sản phẩm công nghệ cao chứ không chỉ là những sản phẩm giản
đơn, sản phẩm thô như trước kia Đây cũng tạo nên một niềm tin mới cho xuất
khẩu Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nước nhà nói chung.
Thứ hai, những thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu trên thị trường quốc tế
có những chiều hướng mới, các xu hướng rõ nét nhất là:
- Xuất khẩu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc
dân của các quốc gia, thể hiện mức độ mở cửa của các nền kinh tế
quốc gia trên thị trường thế giới.
- Tốc độ tăng trưởng của hàng hoá “vô hình” nhanh hơn các hàng hoá “
18
hữu hình” .
- Giảm đáng kể tỷ trọng các nhóm hàng lương thực, thực phẩm.
- Giảm mạnh tỷ trọng của nguyên liệu, tăng nhanh tỷ trọng của dầu mỏ
và khí đốt.
- Tăng nhanh tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp chế biến, nhất là máy
móc thiết bị.
Từ tình hình trên chúng ta thấy việc Việt Nam phải thay đổi cơ cấu hàng hoá
xuất khẩu là hoàn toàn đúng đắn.
Thứ ba, chỉ có thay đổi cơ cấu xuất khẩu chúng ta mới có thể bảo vệ
được tài nguyên thiên nhiên đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt, bảo vệ môi
trường trước nguy cơ ô nhiễm trầm trọng do sự khai thác taì nguyên triệt để
của con người. Các nước đang và kém phát triển như Việt Nam thường tập
trung vào các mặt hàng thô, sơ chế, đòi hỏi sử dụng nhiều lao động, tài
nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu chúng ta dần thay thế những mặt hàng
này bằng những mặt hàng chứa hàm lượng công nghệ cao theo như xu hướng
hiện nay của thế giới thì lợi thế về lao động và tài nguyên thiên nhiên cũng
dần bị mất đi và thay vào đó là ưu tiên cho lợi thế về công nghệ và vốn. Do
đó, Việt Nam có thể giảm bớt sự phụ thuộc vào tài nguyên sẵn có của quốc
gia, thay vào đó chúng ta cần tăng cường đầu tư cho công nghệ, đào tạo lao
động có tay nghề cao phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Việt Nam vốn là một nước rất có tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên,
dân số trẻ và đông. Trong những năm vừa qua Việt Nam đã biết vận dụng tốt
lợi thế so sánh của mình để đáp ứng cho hoạt động xuất khẩu. Chính vì thế
mà trong thời gian vừa qua, sản phẩm xuất khẩu chủ lực của nước ta là những
mặt hàng còn phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, cần nhiều sức lao
động giản đơn như dầu thô, dệt may, giày dép, nông lâm thuỷ sản... Xuất
khẩu những sản phẩm này đã đóng góp một phần không nhỏ vào kim ngạch
xuất khẩu quốc gia và là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, quan trọng trong
cơ cấu hàng xuất khẩu. Ngược lại với Việt Nam, Singapore là một đất nước
không có nhiều tài nguyên thiên nhiên, không dồi dào về lao động. Nắm
được điểm mạnh và chưa mạnh cuả đất nước mình, quốc gia này đã chọn cho
mình hướng phát triển xuất khẩu những mặt hàng công nghiệp, những sản
phẩm chứa hàm lượng công nghệ cao đã giúp cho xuất khẩu và nền ngoại
19
thương Singapore có những kết quả đáng ghi nhận. Nhờ tăng cường đầu tư
vào những lĩnh vực công nghệ cao, bồi dưỡng, đào tạo lao động có tay nghề,
trình độ, đất nước này đã trở thành một trong những đất nước có nền kinh tế
phát triển hàng đầu Châu Á trong một thời gian ngắn.
Trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu của chúng ta vẫn tăng cao,
tuy nhiên chue yếu đều dựa trên những nguồn lực sẵn có, mà đây là những
nguồn lực có hạn. Do vậy đây không phải là hướng phát triển bền vững cho
Việt Nam. Chúng ta cần phải đổi mới cơ cấu xuất khẩu để bảo vệ những
nguồn lực này và có được những bước tiến dài, vững chắc trong tương lai.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ tăng cường sức cạnh tranh
của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
Một xu hướng trên thị trường thế giới hiện nay là các sản phẩm có hàm
lượng khoa học và công nghệ cao, sức cạnh tranh mạnh mẽ, trong khi các sản
phẩm nguyên liệu thô ngày càng mất giá và kém sức cạnh tranh. Chu kỳ sống
của các loại sản phẩm xuất khẩu được rút ngắn, việc đổi mới thiết bị, công
nghệ, mẫu mã hàng hoá diễn ra liên tục. Đây là một kết quả tất yếu khi khoa
học kỹ thuật phát triển, bởi chính sự phát triển đó làm giảm giá thành sản
phẩm, tiêu hao ít nhiên liệu cũng dẫn tới nhu cầu nhiên liệu ngày càng có xu
hướng giảm.
Việc tăng cường xuất khẩu những sản phẩm tinh chế thu được giá trị xuất
khẩu lớn hơn. Mặt khác, cải biến cơ cấu xuất khẩu sẽ hạn chế sản xuất và
xuất khẩu những sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu thị trường, hạn chế
xuất khẩu bằngmọi giá, bất chấp hiệu quả kinh tế - xã hội và lợi ích quốc gia.
Hiện nay, hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên
liệu thô và sản phẩm sơ chế, vì vậy, sức cạnh tranh kém, người xuất khẩu bị
ép giá thiệt thòi. Trong thực tế mấy năm gần đây đã chứng tỏ điều đó, các
mặt hàng nông sản trên thế giới đều có xu hướng cung lớn hơn cầu, giá giảm.
Để nâng cao cạnh tranh, cũng như hạn chế sự dao động về giá cả thì không
còn con đường nào khác là phải đổi mới cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng
cường xuất khẩu các mặt hàng tinh chế, giảm dần sản phẩm thô và sản phẩm
sơ chế.
Khi chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, đồng nghĩa với việc doanh nhgiệp có
trong tay máy móc công nghệ thiết bị cao, lực lượng lao động có tay nghề
20
được đào tạo để nâng cao hiệu quả sản xuất, sản phẩm được đổi mới... Như
vậy rõ ràng sản phẩm của Việt Nam đã bắt nhịp được với xu hướng chung
của thế giới và có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước bạn.
Tuy nhiên, để thực hiện quá trình này, doanh nghiệp sẽ gặp phải rất
nhiều khó khăn trong vấn đề vốn và công nghệ. Thông thường các quốc gia
sẽ có chính sách hỗ trợ kịp thời để doanh nghiệp có thể vượt qua những khó
khăn ban đầu. Khi sản xuất đã đi vào ổn định và đi vào phát triển thì chắc
chắn nguồn lợi mà hoạt động sản xuất các sản phẩm mới này mang lại cho
đất nước là không hề nhỏ. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam cũng
đã ý thức rõ vấn đề này và đã có kế hoạch chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo
hướng nâng dần tỉ trọng những mặt hàng công nghiệp. Với nền tảng công
nghệ còn lạc hậu, cơ sở vật chất hạn chế như hiện nay, bước đầu các doanh
nghiệp xuất khẩu sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Để vượt qua những khó
khăn trước mắt, doanh nghiệp cần khai thác tốt những nguồn lực sẵn có và sự
hỗ trợ từ phía nhà nước. Khi doanh nghiệp đã bắt nhịp được với xu thế mới,
những sản phẩm chất lượng cao, được đổi mới sẽ có sức cạnh tranh lớn hơn
trên thị trường và tạo nên sự phát triển cho doanh nghiệp.
Cuối cùng, đó chính là sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Hiện
nay mỗi quốc gia đều tham gia vào các hiệp ước, hiệp hội khu vực và quốc
tế. Điều này yêu cầu các nước đang phát triển như Việt Nam phải có sự
chuyển biến nhanh chóng trong thương mại quốc tế, mà nội dung quan trọng
là phải chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Bởi những yếu tố khách quan
cũng như chủ quan, có thể nhìn nhận trong thời gian này, kinh tế thế giới và
khu vực vẫn đang ở trong chu kỳ suy thoái. Do vậy, những nỗ lực ra tăng sản
lượng đã không đủ bù đắp lại thiệt hại về giá cả trên thị trường thế giới.
Chúng ta không thể phát triển đất nước dựa vào xuất khẩu những gì hiện có
và nhập khẩu những gì cần thiết, đã đến lúc đòi hỏi phải có chất lượng lâu dài
21
về cơ cấu xuất khẩu hàng hoá.
III. Những yếu tố ảnh hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu ở Việt Nam
1. Ảnh hƣởng của tự do hoá thƣong mại đến hoạt động xuất khẩu ở
Việt Nam
Tự do hoá thuơng mại là xu thế chung trên toàn cầu hiện nay. Đây là
xu thế bắt nguồn từ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế với cấp độ toàn
cầu hoá và khu vực hoá. Khi lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài
phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động quốc tế phát
triển cả về bề rộng và bề sâu, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng
các mô hình kinh tế mới với việc khia thác ngày càng triệt để lợi thế so
sánh của mỗi nước. Tự do hoá thương mại đều đưa lại lợi ích cho mỗi
quốc gia cho dù ở trình độ phát triển có khác nhau và nó phù hợp với xu
thế phát triển chung của nhân loại.
Nội dung của tự do hoá thương mại là Nhà nước áp dụng các biện
pháp cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại trong hàng rào
thuế quan và hàng rào phi thuế quan trong quan hệ mậu dịch quốc tế
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động thương mại
quốc tế cả về bề rộng lẫn bề sâu. Đặc biệt, khi Việt Nam đã gia nhập vào
tổ chức kinh tế thế giới WTO, thì vấn đề này càng trở nên có ý nghĩa hơn.
Tự do hoá thương mại trước hết nhằm mở rộng qui mô xuất khẩu của mỗi
nước cũng như đạt tới điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động nhập khẩu.
Kết quả của tự do hoá thương mại là hàng hoá, công nghệ nước ngoài
cũng như những hoạt động dịch vụ quốc tế được xâm nhập dễ dàng vào
thị trường nội địa đồng thời việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra nước
ngoài cũng thuận lợi hơn. Điều đó có nghĩa là cần phải đạt tới một sự hài
hoà giữa tăng cường xuất khẩu và nới lỏng nhập khẩu. Quá trình tự do
hoá gắn liền với những biện pháp có đi có lại trong khuôn khổ pháp lý
giữa các quốc gia.
Bên cạnh đó, thị trường mở rộng, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt khi mà
sự tương đồng về cơ cấu xuất khẩu trong khu vực diễn ra ngày càng cao.
Chính điều này là động lực thúc đẩy cải tiến cơ cấu kinh tế cũng như cải
tiến cơ cấu xuất khẩu, nếu không sẽ tự loại mình ra khỏi sân chơi này.
22
Mặt khác, chính xu thế này tạo ra một môi trường khách quan để thu hút
đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, công nghệ kém… là những vấn đề
tồn tại thường trực trong nền kinh tế Việt Nam.
2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
Thực tế, hoạt động xuất khẩu thời gian qua cho thấy, cần thiết phải
có sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện
hiện nay. Một trong những căn cứ đó là phải dựa vào việc nghiên cứu các
nhân tố khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến sự đổi mới cơ cấu hàng xuất
khẩu.
2.1. Các yếu tố khách quan ảnh hƣởng đến quá tình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu Đó là những yếu tố sẵn có, tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu mà chúng ta chỉ có thể phát huy hay chấp nhận nó để phát triển.
- Điều kiện tự nhiên của đất nƣớc
Bao gồm: tài nguyên thiên nhiên, điều kiện khí hậu, vị trí địa lí - đây
là những yếu tố đầu vào quan trọng trong sản xuất hàng hoá. Các nước có
nền công nghiệp non trẻ, lạc hậu thì yếu tố này có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động xuất khẩu. Các quốc gia cần phải sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
thiên nhiên vì đây là lại yếu tố có khả năng cạn kiệt, đồng thời bảo vệ môi
trường và một số tài nguyên không có khả năng tái sinh.
Việt Nam có vị trí địa lí thuận lợi, nằm trên các đường hàng không và
hàng hải quốc tế quan trọng. Hệ thống cảng biển là cửa ngõ không chỉ cho
nền kinh tế Việt nam mà còn cả các quốc gia láng giềng, đặc biệt là vùng Tây
Nam Trung Quốc, Lào, Đông Bắc Thái Lan. Vị trí thuận lợi tạo khả năng
phát triển hoạt động trung chuyển, tái xuất và chuyển khẩu các hàng hoá của
đất nước qua các khu vực lân cận, đồng thời đó cũng là tài nguyên vô hình để
đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam.
- Điều kiện kinh tế xã hội
Bao gồm: số lượng dân số, trình độ và truyền thống văn hoá, mức sống
và thị hiếu dân cư, nhu cầu thị trường, lợi thế đi sau về khoa học công
nghệ… đây có thể vừa là hạn chế phát triển, vừa là lợi thế cạnh tranh quan
23
trọng của các nước đang phát triển để thúc đẩy xuất khẩu. Ví dụ, những sản
phẩm có hàm lượng lao động cao như hàng thủ công, hàng may mặc, hàng
điện tử… là loại sản phẩm có lợi thế cạnh tranh của các nước đang phát triển
đông dân như Việt Nam, Trung Quốc trên thị trường quốc tế. Các nước NICs
Đông Nam Á, AESAN đã thành công nhờ tận dụng tốt lợi thế này. Tuy vậy,
trong quá trình phát triển, lợi thế này có thể mất đi do giá nhân công ngày
càng cao. Do đó các nước này cần chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu kịp
thời khi yếu tố lợi thế này bị mất đi.
- Quan hệ thƣơng mại và chính sách của các nƣớc nhập khẩu hàng hoá
của Việt Nam
Quan hệ chính sách ngoại giao, quan hệ thương mại giữa Việt nam và
các nước trên thế giới là nhân tố quan trọng để mở cửa thị trường, tăng cường
hợp tác toàn diện nhiều mặt và đặc biệt tăng trưởng khối lượng hàng hoá xuất
nhập khẩu với các nước. Đồng thời cũng là một nhân tố góp phần tạo sự
chuyển dịch nhanh trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
2.2. Các nhân tố chủ quan ảnh hƣởng đến quá tình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu Là những nhân tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
mà chúng ta có thể điều chỉnh, đó là:
- Nhận thức về vai trò, vị trí của xuất khẩu và định hƣớng phát triển
xuất khẩu của Chính phủ
Trong xuất khẩu hàng hoá, các nước đều xuất phát từ lợi thế vốn có và
biết tạo ra lợi thế mới trên cơ sở đổi mới chính sách, khoa học công nghệ,
vốn đầu tư và thị trường. Trong đó yếu tố chính sách và khoa học công nghệ
có ý nghĩ quyết định, tạo nên những động lực và xung lực cho sự phát triển.
Bởi vậy, hoạt động xuất khẩu trước hết phụ thuộc vào nhận thức tình hình và
đường lối chính sách đẩy mạnh xuất khẩu với lộ trình phù hợp của Chính
phủ.
Từ lâu, Đảng và Nhà Nước Việt Nam đã nhận thức rõ vai trò, vị trí của
xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. Đường lối này một lần nữa được
khẳng định trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam: “Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và
trọng điểm của nền kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực, nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỷ 24
trọng thô và sơ chế, tăng tỷ trọng chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu.
Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ, nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong
giá trị hàng xuất khẩu... Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu để sản xuất
phục vụ xuất khẩu. Hạn chế nhập hàng tiêu dùng chưa thiết yếu, có chính
sách bảo hộ hợp lí sản xuất trong nước. Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa
hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, xử lí đúng đắn lợi ích giữa nước ta
với các đối tác.”
- Qui hoạch và kế hoạch phát triển hàng xuất khẩu
Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước chỉ là định hướng chiến
lược, còn khả năng thực thi chính sách phụ thuộc vào qui hoạch, kế hoạch
phát triển trong từng thời kì. Thực tế ở Việt Nam, do chậm trễ trong việc xây
dựng, triển khai qui hoạch, kế hoạch phát triển xuất nhập khẩu, cũng như hạn
chế về tầm nhìn dẫn đến bị động, lúng túng trong xử lí các mối quan hệ cụ
thể với ASEAN, APEC, EU, Mỹ, WTO. Cần phải thấy, mục đích cuối cùng
của Việt Nam là hội nhập với các nước công nghiệp phát triển trên thị trường
thế giới, còn hội nhập với khu vực, với thị trường nào đó chỉ là bước đệm để
chúng ta học hỏi, rút kinh nghiệm và hoà nhập nhanh chóng.
Về cơ bản, xuất khẩu của Việt nam hiện nay là dựa trên nền tảng xuất
khẩu những gì hiện có chứ không phải những gì thế giới cần. Bởi vậy, phải
qui hoạch lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ lực với từng thời kì. Xác định thị
trường trọng điểm với từng mặt hàng để có kế hoạch phát triển nguồn hàng,
thu mua và chế biến hợp lí, đồng bộ.
- Khả năng điều kiện sản xuất các mặt hàng trong nƣớc ảnh hƣởng tới
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
Điều kiện và khả năng sản xuất các mặt hàng trong nước là nhân tố có
tính quyết định đến chuỷen dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Hay nói một cách cụ
thể hơn, đó là điều kiện cần trong quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Trong xu htế hiện nay, các mặt hàng tinh chế có lợi thế hơn so với các mặt
hàng nguyên liệu thô, sơ chế. Nhưng không phải dễ dàng thực hiện được điều
đó. Vì nó phụ thuộc rất nhiều vào thực lực của một nền kinh tế (trình độ
người lao động, thu gom, vận chuyển, bảo quản, trình độ công nghệ, kĩ thuật
chế biến...). Sau nhiều năm phát triển liên tục, nền sản xuất của Việt Nam đã
25
có sự phát triển đáng kể, công nghệ mới bắt đầu được sử dụng ở nhiều nơi,
tay nghề cử người lao động được nâng cao hơn phù hợp với hoàn cảnh mới.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, các đơn vị sản xuất còn thiếu vốn, công nghệ về cơ
bản còn lạc hậu, chưa thoả mãn với nhu cầu ngày một tăng của khách hàng
nước ngoài.
- Khả năng xúc tiến thị trƣờng xuất khẩu ở tầm vi mô và vĩ mô
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu không chỉ dừng lại ở chỗ, chúng ta đã có
được những mặt hàng mà thị trường thế giới cần, mà điều quan trọng là
những mặt hàng đó phải được tiêu thụ tại những thị trường cần thiết. Trong
điều kiện hiện nay xu hướng sản xuất ngày càng tăng, thương mại quốc tế
cũng như trong nước ngày càng mở rộng, khối lượng hàng hoá được đưa vào
lưu thông ngày càng nhiều. Để tiêu thụ khối lượng hàng hoá đồ sộ ấy đòi hỏi
phải tiến hàng xúc tiến thị trường trong nước và xuất khẩu. Cùng với sự phát
triển của sản xuất và lưu thông, vai trò của xúc tiến thương mại ngày càng trở
nên quan trọng. Trong bối cảnh hàng hoá cung vượt cầu trên thị trường thì
hoạt động xúc tiến thương mại đóng vai trò quan trọng, quyết định trong việc
tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu, đồng thời cũng đóng vai trò làm tăng tốc độ
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu.
Ở tầm vĩ mô, chúng ta thiết lập mối quan hệ ngoại giao, mối quan hệ
thương mại giữa Việt Nam với các nước về mặt pháp lí, cung cấp thông tin
về thị trường trong nước, ngoài nước cho các doanh nghiệp. Đồng thời cung
cấp thông tin về môi trường pháp luật, các rào cản thuế quan và phi thuế
quan, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham quan và khảo sát thị trường
để thực hiện xuất khẩu.
Bên cạnh đó, về phía các doanh nghiệp, thực hiện tham quan, khảo sát,
nghiên cứu thị trường, trực tiếp đàm phán và kí kết các hợp đồng xuất khẩu.
Về mặt này, các doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm thông tin, thăm dò thị
trường và lựa chọn đối tác, xác định giá và các điều kiện cụ thể về giao dịch,
mua bán, thanh toán.
Xúc tiến thương mại vi mô và vĩ mô có quan hệ chặt chẽ, tác động bổ
sung cho nhau. Trong đó xuác tiến trên tầm vĩ mô là tiền đề, điều kiện để
thực hiện xúc tiến thị trường của các doanh nghiệp. Ngược lại, xúc tiến thị
trường của các doanh nghiệp nâng cao uy tín của đất nước, tạo điều kiện
26
hoàn thiện xúc tiến vĩ mô. Ở Việt Nam, hoạt động xúc tiến được đánh giá là
yếu cả về vi mô lẫn vĩ mô. Đây cũng là một trong những nguyên nhân hạn
chế hiệu quả xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
- Tổ chức điều hành xuất khẩu hàng hoá của Chính phủ
Mọi người đều thừa nhận rằng hoạch định đường lối chính sách và tổ
chức thực hiện thành công xuất khẩu là vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia,
nhất là những nước đang thực hiện hướng ngoại như Việt Nam.
Tổ chức điều hành xuất khẩu là việc xác định các mặt hàng được phép
xuất khẩu theo hạn ngạch hay tự do, xác định đầu mối xuất khẩu, phân chia
hạn ngạch, đề ra các chính sách khuyến khích xuất khẩu, điều chỉnh tiến đọ
xuất khẩu theo tiến độ xuất khẩu mà kế hoạch đã đề ra.
Ở Việt Nam, việc điều hành xuất khẩu do Chính phủ, các bộ, các ngành thực
27
hiện. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể thành lập Uỷ Ban riêng
CHƢƠNG II TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. Tổng quan về tình hình xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua
1. Xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2001 – 2006 Xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2006 đã đạt được những thành
tích rất ấn tượng và được xác định là một thế mạnh của Việt Nam trên con
đường hội nhập đầy đủ và sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Bảng 1: Kim ngạch và tăng trƣởng xuất khẩu Việt Nam giai đoạn
2001 - 2006
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2001-2006
Nội
dung
KN
Tăng
KN
Tăng
KN
Tăng
KN
T ăng KN
Tăng KN
Tăng
KN
Tăng
3
3
Tổng
1
3,8
16.706
11,2
20.149
20,6
26.503
31,5
22,2
22,1 150.434 18,5
2.422
9.605
số
5.029
XK/GD
46,2
47,6
51
58,3
61,3
69
P
Tăng
7,4
24,7
22,1
18,5
bình
quân
Đơn vị tính: Tr.USD, %
Nguồn: báo cáo của Bộ Công Thương các năm 2001, 2002, 2003, 2004,
2005, 2006
Qua bảng 1 chúng ta thấy tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá (XKHH) của
Việt Nam phát triển khá chậm vào những năm 2001 - 2002, với tốc độ tăng
trưởng chỉ đạt 7,4%. Nhưng tốc độ tăng trưởng đã tăng cao nhanh chóng và
đạt mức trên 20%/ năm từ năm 2003 đến 2006. Kết quả là kim ngạch XKHH
đã tăng 2,64 lần trong vòng 5 năm từ 15 tỉ USD năm 2001 lên 39,6 tỉ USD
năm 2006. Qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2005 thực
hiện vượt chỉ tiêu 5 năm đầu của chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2010.
28
Kim ngạch xuất khẩu năm 2006 cũng vượt kế hoạch đề ra trong đề án phát
triển xuất khẩu 2006 - 2010. Kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt trên 32,4 tỷ
USD, trong khi chiến lược đặt ra là 28,4 tỷ USD, thực hiện vượt 4 tỷ USD.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta đặt ra cho tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu là 16%, thực hiện trung bình cả giai đoạn 2001 - 2005 đạt 17,5%/
năm, vượt chỉ tiêu chiến lược 1,5%. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của giai
đoạn 2001 - 2006 không đồng đều. Năm 2001 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chỉ
đạt 3,8%, năm 2001 đạt 11,2%, năm 2004 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao
nhất trong 6 năm là 31,5%, năm 2005 có giảm đi và giữ ở mức 22,2%, năm
2006 có tốc độ tăng đồng đều so với năm 2005 là 22,1%. Tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu hàng hoá trong giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng từ
46,2% năm 2001 lên 69% năm 2006 [6,7]. Đây là dấu hiệu tích cực đối với xuất
khẩu Việt Nam [23]. Loại trừ những tác động ảnh hưởng có tính khách quan từ
sự tăng cầu của nền kinh tế thế giới, sự gia tăng quốc tế của hàng nguyên,
nhiên liệu và một số hàng nông sản khiến giá hàng xuất khẩu của Việt Nam
tăng cao thì những nỗ lực chủ quan của Nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã
hội là yếu tố có ý nghĩa quan trọng quyết định giúp tăng trưởng xuất khẩu
mạnh mẽ trong thời gian 2001 - 2006 [23].
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, giai đoạn này đã có những chuyển biến
tích cực. Đó là tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có
hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô. Tỷ trọng
nhóm hàng nông lâm thuỷ sản giảm từ 24,3% năm 2001 xuống còn 20,5%
năm 2006; nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm dần trong 3 năm đầu thực
hiện chiến lược xuất khẩu từ 24,3% năm 2001 xuống còn 22,1% năm 2003
nhưng đã tăng trở lại vào năm 2004 - 2005 và chiếm tỷ trọng 24,7% năm 2005,
sau đó giảm nhẹ vào năm 2006 (23,4%). Nhóm hàng công nghiệp và thủ công
mỹ nghệ có xu hướng tăng nhẹ nhưng không đều và chiếm tỷ trọng 39,0%
29
trong cơ cấu xuất khẩu năm 2006 [5,7].
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu Việt Nam thời kì 2001 - 2006 (%).
Đơn vị: %
Ngành 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Nông, lâm, thuỷ 24,3 23,9 22,1 20,5 21,1 20,5
sản Nhiên liệu, 21,6 20,5 19,9 22,7 24,7 23,4
khoáng sản Công nghiệp và 33,9 40,0 40,5 40,4 38,4 39,0
TCMN Hàng hoá khác 20,2 15,6 17,5 16,4 15,6 17,1
Nguồn: báo cáo tổng kết của Bộ Công Thương 2005, 2006
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, đến năm 2006, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng đến 220 nước và vùng lãnh thổ. Từ chỗ chúng ta phải lệ thuộc hoàn toàn vào khu vực thị trường Đông Âu và Liên Xô (cũ), từ năm 1991 đến nay, thị trường ngày càng được mở rộng từ ASEAN, đến Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ, Châu Phi. Nếu như từ năm 2000 trở về trước thị trường xuất khẩu thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta là thị trường Châu Á, thì từ 2001 đến nay, thị trường đã được đa dạng hoá hơn rất nhiều [23].
Bảng 3: Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2006
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Nội
Tỷ
Tỷ
Tỷ
Tỷ
Tỷ
Tỷ
KN
KN
KN
KN
KN
KN
dung
trọng
trọng
trọng
trọng
trọng
trọng
Tổng
15..029
100
16.706
100
20.149
100
26.503
100
32.442
100
39.605
100
XK hh
Châu ¸
8.610
57,3
8.684
52
9.756
48,4
12.634
47,7
16.383
50,5
17.540
44,3
ASEAN
2.556
17
2.437
14,6
2.958
14,7
3.885
14,7
5.450
16,8
6.560
16,4
3.155
23,4
3.640
21,8
4..326
21,5
5.412
20,4
5.872
18,1
7,65
19,3
Châu Âu
EU-25
3.152
21
3.311
19,8
4.017
19,9
4..971
18,8
5.450
16,8
6.810
17,2
Châu
1.342
8,9
2.774
16,6
4.327
21,5
5.642
21,3
6.910
21,3
9,2
23.2
1.065
7,1
2.421
14,5
3.939
19,5
4.992
18,8
6.553
20,2
8.000
20,2
Mỹ Hoa Kỳ
Chõu
1.76
1,2
131
0,8
211
1,0
427
1,6
681
2,1
1,915
4.8
Phi Châu
1.072
7,1
1.370
8,2
1.455
7,2
1.879
7,1
2.595
8
3.300
8,3
Đại
Dương
30
Đơn vị: Triệu USD, %
Nguồn: Bộ Công Thương, Báo cáo của Bộ Công Thương 2006, Đề án phát
triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010
Trong giai đoạn 2001 - 2006, thị trường Châu Á đã giảm tỷ trọng từ
57,3% năm 2001 xuống còn 44,3% năm 2005, song vẫn là thị trường xuất
khẩu hàng hoá lớn nhất Việt Nam [5,7]. Ngoài ra, việc số liệu thống kê về xuất
khẩu vào Châu Đại Dương được tính gộp vào Châu Á từ năm 2006 đã làm
tăng thêm tỷ trọng của khu vực này (Châu Đại Dương chiếm 8,3% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Trong đó khu vực Đông Bắc Á chiếm tỷ
trọng 51,8%, đạt kim ngạch 10,79 tỷ USD, khu vực Đông Nam Á chiếm
31,5% đạt kim ngạch 6,56 tỷ USD, Châu Đại Dương chiếm tỷ trọng 15,87%,
đạt kim ngạch 3,3 tỷ USD... trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị
trường Châu Á [23].
Tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Châu Âu có giảm chút ít, nhưng kim
ngạch năm sau vẫn tăng so với năm trước và đóng góp trên 20% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các nước EU chiếm tỷ trọng 89,2% trong
kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Châu Âu (6,81 tỉ USD), tăng
23,5% so với cùng kì năm 2005 [23]. Tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Châu
Mỹ tăng đều trong các năm qua (từ 8,9% năm 2004 lên 23,2% năm 2006). Thị
trường Hoa Kì vẫn là đối tác chính của Việt nam về xuất khẩu, với kim ngạch
8 tỉ USD, chiếm tỷ trọng 86,8%, các nước khác chỉ chiếm 13,2% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu vào thị
trường Hoa Kì tăng mạnh từ 7,1% năm 2001 lên 20,2% năm 2006 [15]. Khu
vực thị trường Châu Phi còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam, tuy nhiên mức tăng trưởng khá, từ tỷ trọng 1,2% năm 2001 lên
4,8% năm 2006, kim ngạch xuất khẩu vào khu vực này từ 176 triệu USD năm
2001 lên 1,9 tỉ USD năm 2005. Tỷ trọng của khu vực Châu Đại Dương tăng
chậm và khá ổn định từ 7,1% năm 2001 lên 8,3% năm 2006 [5,7].
Về cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế, Việt Nam cũng có
31
những thay đổi đáng kể trong giai đoạn 2001 - 2006.
Bảng 4: Cơ cấu xuất khẩu phân theo thành phần kinh tế tham gia
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
14.455
15.027
16.706
20.176
26.503
32.442
39.605
25,3
4,0
11,2
20,8
31,5
22,4
22,1
7.646
8.228
8.834
10.015
12.017
13.889
16.740
Tổng kim ngạch (tr. USD) Tốc độ tăng trưởng (%) DN 100% vốn trong nước
52,9
54,8
52,9
49,6
45,0
43,0
42,0
11,5
7,6
7,4
13,4
20,3
15,6
20,5
6.809
6.799
7.872
10.161
14.486
18.553
22.865
47,1
45.2
47,1
50,4
55,0
57,0
58,0
45,4
-0,2
15,8
29,1
42,6
28,1
23,2
- Tỉ trọng - Tăng trưởng (%) DN có vốn ĐTNN - Tỉ trọng - Tăng trưởng (%)
xuất khẩu
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Công Thương
Qua bảng trên có thể thấy một điểm tích cực là trước đây tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu của khu vực FDI thường cao gấp 1,5 - 2 lần khu vực doanh
nghiệp 100% vốn trong nước, chẳng hạn như năm 2002 tốc độ tăng trưởng của
2 khu vực này lần lượt là 7,4% và 15,8%; năm 2003 là 13,4% và 29,1%; năm
2004 20,3% và 40,6%; năm 2005 25,6% và 28,2%. Song năm 2006, tốc độ
tăng kim ngạch xuất khẩu của 2 khu vực này gần như tương đương nhau là
20,5% và 23,2%. Đây là kết quả của quá trình đầu tư chiều sâu, đổi mới công
nghệ của khu vực doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, nếu không có những
đột phá cải cách rộng lớn và quyết liệt (nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà
nước) thì tăng trưởng xuất khẩu của ta sẽ còn rất khó khăn, đặc biệt trong bối
cảnh các nước trong khu vực đang tích cực đẩy nhanh quá trình cải cách để thu
32
hút vốn nước ngoài.
2. Xuất khẩu Việt Nam giai đoạn sau khi gia nhập WTO 2007-2008
Bảng 5: Xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2008. Đơn vị tính: Tr.USD, %
Xuất khẩu Nhập khẩu Năm Trị giá Tăng trưởng Trị giá Tăng trưởng
U6T/2008 30.300 31,9 44.470 60,3
2007 48.561 22,0 62.682 39,6
2006 39.805 23,5 44.891 21,7
2005 32.223 21,6 36.881 15,0
2004 26.503 31,5 32.075 27,0
2003 20.149 20,6 25.256 27,9
2002 16.706 11,2 19.746 21,8
2001 15.029 3,8 16.218 3,7
2000 14.483 25,5 15.637 34,5
Nguồn: Báo cáo của Bộ Công Thương, Tổng cục thống kê
Sau khi gia nhập WTO năm 2006, kinh tế Việt Nam đã có những bước
tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ và tích cực. Có
được những thành công không nhỏ như vậy phải kể đến hoạt đông xuất khẩu.
Xuất khẩu 2 năm trở lại đây tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và tăng
trưởng với tốc độ cao. Kim ngạch xuất khẩu cả năm 2007 đạt 48,561 tỷ USD,
tăng 21,5% so với năm 2006 (tương ứng 7,9 tỷ USD) và vượt 17,4% so với kế
hoạch [5,7]. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước ước đạt xấp xỉ
63 tỷ USD, tăng hơn 29,5% so với năm 2007, vượt 8,8% so với kế hoạch đề ra
là 59,2 USD [2].
Nhìn chung xuất khẩu năm 2008 đã đạt được những kết quả tích cực với
mức tăng trưởng cao so với nhiều năm trước, nhất là trong điều kiện nền kinh
tế thế giới và Việt Nam đã xuất hiện nhiều yếu tố không thuận lợi. Tốc độ tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu giữ được ở mức độ cao do trong những tháng đầu
năm dầu thô, than đá và nhiều mặt hàng nông sản gặp thuận lợi về giá và thị
33
trường xuất khẩu. Những mặt hàng có độ tăng trưởng xuất khẩu cao như gạo
nhân điều, khoáng sản. Tuy nhiên, xuất khẩu những tháng cuối năm 2008, đã
có sự sụt giảm do có sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới.
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, năm 2007 hàng nông lâm thuỷ sản chiếm tỷ
trọng đặc biệt cao (24,9%) trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu là do có sự tăng
giá mạnh hàng nông sản thực phẩm quốc tế do tình trạng mất cân đối cung
cầu. Trong khi đó riêng mặt hàng dầu mỏ và than đá xuất khẩu cũng đạt kim
ngạch 9,49 tỷ USD chiếm tới 19,5% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá. Nhóm
công nghiệp nhẹ và thủ công mỹ nghệ là nhóm chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng kim ngạch xuất khẩu với 36,1% [1].
Bảng 6: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2007
Đơn vị tính: Tr. USD, %
Năm 2006 Năm 2007 Nội dung Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng
Tổng XK hàng hoá 39.605 100 48.561 100
Nhóm nông lâm thuỷ 8.126 20,5 12.094 24,9
9.250 23,4 9.495 19,5
15.437 39,0 17.530 36,1
Nhóm nhiên liệu, sản khoáng sản Nhóm công nghiệp nhẹ và TCMN Nhóm hàng khác 6.792 17,1 9.483 19,5
Nguồn: Bộ Công Thương, Báo cáo của Bộ Công Thương 2006, 2007
Riêng năm 2008, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt nam cũng tương tự
như năm 2007:
34
Hình 3: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam năm 2008
Nguồn: Người viết tính toán dựa trên số liệu tổng hợp từ Báo cáo tổng kết tình
hình thực hiện nhiệm vụ năm 2008 và kế hoạch năm 2009 của ngành Công
thương, Bộ Công Thương (tháng 12/2008), Báo cáo tình hình kinh tế xã hội
tháng 12 và cả năm 2008, các giải pháp cần thực hiện trong quí I/2009, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư (tháng 12/2008).
Năm 2008 cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam cũng tương tự năm
2007. Chiếm tỷ trọng cao nhất là nhóm công nghiệp nhẹ và TCMN, nhóm
hàng này vẫn chiếm kim ngạch cao nhất với tỷ trọng khoảng 38,5%. Đứng thứ
2 là nhóm hàng nông lâm thuỷ sản với tỷ trọng 25,8% tăng cao hơn so với năm
2007. Với kim ngạch 11,89 tỷ USD [2], nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản
chiếm tỷ trọng gần như không thay đổi là 18,9%.
Về thị trường xuất khẩu, các thị trường truyền thống vẫn được duy trì và
có những biến động nhất định. Năm 2007, thị trường Châu Á vẫn chiếm tỷ
trọng lớn (43,8%) với kim ngạch khoảng 21 tỷ USD và tăng 22,8% so với năm
2006 nhưng lại có xu hướng giữ nguyên hoặc giảm dần ở các thị trường như
Trung Quốc, Nhật bản, ASEAN. Thị trường Châu Âu chiếm 19,8% với kim
ngạch đạt 9,6 tỷ USD tăng 19% so với 2006, chủ yếu do tăng trưởng các mặt
hàng dệt may, thuỷ sản, cao su tự nhiên, đồ gỗ, cà phê, sản phẩm nhựa, thủ
công mỹ nghệ. Thị trường Châu Mỹ chiếm 24,3% với kim ngạch 11,6 tỷ USD,
tăng 28% so với năm 2006 trong đó chủ yếu là thị trường Hoa Kì với kim
ngạch khoảng 10,2 tỷ USD chiếm 21,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Với kim ngạch 1,8 tỷ USD tăng 23% so với năm 2006 thị trường Châu
Phi, Tây Nam Á chiếm tỷ trọng khá nhỏ 3,8% [6].
Năm 2008, xuất khẩu vào thị trường Châu Á tăng khá và khu vực thị
trường này tiếp tục chiếm ưu thế trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, tỷ
trọng tăng từ 43,8% năm 2007 lên 44,5% năm 2008. Tỷ trọng xuất khẩu vào
thị trường Châu Âu có xu hướng giảm nhẹ xuống còn 18,9% năm 2008.
Trong khi đó xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ đã giảm khá mạnh, tỷ trọng
từ 24,3% năm 2007 xuống còn 22% năm 2008, Châu Đại Dương 6,7% (năm
35
2007 là 6,4%), Châu Phi 1,9% (năm 2007 là 1,27%) [6].
Đến nay, hàng hoá xuất khẩu của nước ta đã vươn tới hầu hết các quốc
gia và vùng lãnh thổ. Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng đến xuất khẩu
của chúng ta vào EU và Hoa Kì khiến tốc độ tăng xuất khẩu vào 2 thị trường
này giảm so với năm 2007 nhưng năm qua chúng ta tiếp tục đẩy mạnh đa dạng
hoá thị trường xuất khẩu, nhiều chủng loại hàng hoá đã vào được các thị
trường xuất khẩu mới, giảm dần xuất khẩu qua các thị trường trung gian.
Năm 2007, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục chiếm vị trí vượt
trội trong hoạt động xuất khẩu, chiếm 57,5% đạt 27,8 tỷ USD và tăng 21% so
với năm 2006 [5]. Năm 2008, con số này là 34,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng
55,4%, tăng 25,5% so với năm 2007. Khu vực 100% vốn trong nước đạt 20,6
tỷ USD, chiếm 42,5% và tăng 22,2%; năm 2008, đạt 28,2 tỷ USD chiếm tỷ
trọng 44,6%, tăng 34,9% so với 2007 [6].
Trong giai đọan nghiên cứu trên, chúng ta thấy Việt Nam đã có những
thành tựu đáng kể trong xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục từ năm
2001 đến năm 2008, đặc biệt năm 2008 kim ngạch xuất khẩu của nước ta đã
đạt xấp xỉ 63 tỷ USD, một con số cao nhất trong cả giai đoạn [6]. Các chỉ tiêu
về qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đều đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra.
Tuy nhiên, năm 2008 do chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới nên
xuất khẩu diễn biến không theo qui luật, những tháng đầu năm xuất khẩu gặp
thuận lợi về giá nhưng sau đó giảm mạnh vào những tháng cuối năm.
Nhìn chung, những thành quả xuất khẩu đã đạt được trong giai đoạn 2006 -
2007 đó là:
- Qui mô và tốc độ tăng trưởng tiếp tục được duy trì ở mức cao.
- Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng cao,
nhất là các mặt hàng gạo, rau quả, hạt điều, than đá... Xuất khẩu hàng hoá tăng
còn có sự đóng góp của nhiều mặt hàng mới ví dụ như sản phẩm từ cao su, sản
phẩm chế tạo từ gang, thép, máy biến thế, động cơ điện...
- Cơ cấu hàng hoá vẫn chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỉ trọng nhóm
36
hàng chế biến, chế tạo, giảm tỉ trọng xuất khẩu thô. Những hàng hoá có giá trị
tăng trưởng xuất khẩu cao và giá trị xuất khẩu lớn là nhóm hàng công nghiệp
và chế biến như: thuỷ sản, sản phẩm nhựa...
- Bên cạnh tập trung khai thác tối đa thị trường trọng điểm, những năm qua
chúng ta vẫn tiếp tục giữ vững thị trường truyền thống, đẩy mạnh việc đa dạng
hoá thị trường xuất khẩu, nhiều chủng loại hàng hoá đã dần dần đi vào các thị
trường mới, điển hình là các thị trường tại khu vực Châu Phi, Tây Nam Á,
Châu Á và Châu Đại Dương.
- Có được những kết quả đáng ghi nhận như vậy phải kể đến sự kiện Việt
Nam gia nhập WTO năm 2006, nhờ đó chúng ta được hưởng những ưu đãi,
đối xử công bằng trong quan hệ thương mại với các nước và vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên qui mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân
đầu người thấp so với các nước trên khu vực và trên thế giới. Kim ngạch xuất
khẩu bình quân đầu người năm 2001 là 200 USD/người, năm 2005: 388USD/
người, năm 2007: 473 USD/người trong khi xuất khẩu bình quân đầu người
của Singapore là 60.600 USD/ người, Malaysia 5.890 USD/ người, Philippin
546 USD/ người [12]. Xét theo chỉ số kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu
người thì Việt nam đứng thứ 5 trong số các nước AESAN, thứ 11 Châu Á và
thứ 84 thế giới [10].
II. Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2001 - 2006
Cơ cấu hàng xuất khẩu là tổng thể các nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu
trong toàn bộ kim ngạch xuất khẩu với vị trí, tỷ trọng tương ứng và mối liên hệ
hữu cơ ổn định hợp thành. Trong phạm vi nghiên cứu khoá luận tốt nghiệp sẽ
đề cập đến cơ cấu hàng xuất khẩu dựa theo tiêu chí nhóm ngành hàng bao
gồm: nhóm hàng khoáng sản và nhiên liệu, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản,
nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ.
Trong điều kiện lợi thế về các yếu tố tự nhiên và lao động rẻ ngày càng
giảm dần và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì sự chậm thay đổi cơ cấu
hàng xuất khẩu là một hạn chế lớn đối với tăng trưởng xuất khẩu của nước ta.
Trong dài hạn, sự chậm trễ này sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm
37
sức cạnh tranh và giảm sự cải thiện cán cân thanh toán.
Giai đoạn này chúng ta đã xây dựng đựơc một số các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực quan trọng. Nếu như năm 2001 Việt Nam mới có 4 mặt hàng có kim
ngạch trên 1 tỷ USD gồm dầu thô, dệt may, giầy dép, thuỷ sản thì đến năm
2006 có tới 9 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD gồm 4 mặt hàng như năm
2001 và thêm 5 mặt hàng mới là điện tử, gỗ, gạo, cao su, cà phê. Trong những
mặt hàng này có một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng rất nhanh như điện tử,
sản phẩm gỗ... Những mặt hàng chủ lực đã đóng vai trò quyết định đến tốc độ
tăng trưởng mạnh của kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua. Sự xuất
hiện của những mặt hàng này cũng thể hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng
xuất khẩu của nước ta. Từ chỗ chỉ bao gồm những mặt hàng nhiên liệu, nông
sản đến nay đã xuất hiện một số mặt hàng công nghiệp như sản phẩm điện tử,
giày dép. Tuy nhiên các mặt hàng chủ lực vẫn chiếm tỷ trọng quá lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2005 chỉ có 7 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất
chiếm đến 69% tổng kim ngạch xuất khẩu [11]. Điều đó thể hiện sự phụ thuộc
của hoạt động xuất khẩu vào một số mặt hàng chủ lực, chưa thực sự đa dạng
hoá cơ cấu mặt hàng.
Nhìn chung, cơ cấu xuất khẩu đã có sự chuyển biến song tốc độ còn
chậm. Tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến (công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp) còn quá khiêm tốn, trong khi hàng sơ chế và khoáng sản vẫn còn
chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu nhìn chung chưa thật bền
vững, còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Cơ cấu xuất khẩu là một trong những
hạn chế lớn nhất của nền kinh tế. Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng
chế biến xét về dài hạn, tăng trưởng xuất khẩu sẽ khó có thể tiếp tục đà tăng
cao như hiện nay.
1. Nhóm hàng khoáng sản và nhiên liệu
Trong giai đoạn này, nhóm hàng khoáng sản và nguyên liệu chiếm tỉ trọng
cao trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (trên 20%). Từ 2001 - 2003
nhóm hàng này có xu hướng giảm dần xuống 19,9% vào năm 2003 và tăng trở
lại trong 2 năm 2004 và 2005. Đến 2006 tỷ trọng nhóm hàng nguyên nhiên
liệu lại giảm nhẹ (23,4%) nhưng vẫn cao hơn mức dự tính trong Đề án phát
38
triển xuất khẩu 2006-2010 (20,9%). Trong nhóm hàng này mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu là dầu thô, tiếp đến là than đá và hầu như không có mặt hàng nguyên
liệu nào khác được xuất khẩu. Tỷ trọng xuất khẩu dầu thô năm 2006 chiếm
90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cuả nhóm hàng khoáng sản và nhiên liệu,
còn lại là than đá [11].
Dầu thô
Sản lượng dầu thô xuất khẩu tăng dần qua từng năm từ 2001 đến 2004
(năm 2001: 16,7 triệu tấn, năm 2002: 16,8 triệu tấn, năm 2003: 17,1 triệu tấn,
năm 2004: 19,5 triệu tấn). Tuy nhiên từ 2005 sản lượng dầu thô xuất khẩu lại
giảm xuống còn 18 triệu tấn vào 2005 và 16,6 triệu tấn vào 2006 [7]. Nguyên
nhân là do nguồn tài nguyên bị hạn chế (mỏ Bạch Hổ giảm dần sản lượng khai
thác trong khi chưa tìm được nguồn khác thay thế). Tình hình này được thể
hiện qua bảng kim ngạch xuất khẩu dầu thô dưới đây.
Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu dầu thô giai đoạn 2001-2006
Khối lượng Kim ngạch Tăng trưởng Tăng do lượng Tăng do giá
Năm
(triệu tấn) ( triệu USD) (%) (%) (%)
2001 16,7 3126 -11,19 6,38 -17,57
2002 16,8 3279 4,89 0,62 4,27
2003 17,1 3821 16,53 2,02 14,49
2004 19,5 5671 48,42 18,27 30,15
2005 18,0 7600 30,01 -10,83 40,85
2006 16,6 8323 9,51 -9,23 18,75
Nguồn: Bộ Công Thương, Báo cáo các năm của Bộ Công Thương
Mặc dù sản lượng xuất khẩu dầu thô có giảm nhưng tổng kim ngạch xuất
khẩu 2001 - 2006 vẫn tăng đều qua các năm từ 3,1 tỉ USD vào 2001 lên 8,3 tỉ
USD vào năm 2006 nhờ sự biến động giá cả xăng dầu trên thế giới. Tuy nhiên
xu hướng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dầu thô đang giảm: năm 2004 tốc
độ tăng trưởng ở mức cao nhất (48,42%) sau đó giảm liên tiếp trong 2 năm,
39
năm 2005 là 30,01%, năm 2006 là 9,51%. Hiện nay Việt Nam vẫn chỉ là nhà
cung cấp dầu nhỏ, chiếm 0,6% so với nhu cầu thế giới. Thị trường xuất khẩu
chính là Australia, Nhật Bản, Singapore chiếm 64,83% trong tổng kim ngạch
xuất khẩu [24].
Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt nam Pertro Viet Nam là đơn vị duy nhất
quản lí khai thác dầu mỏ. Bên cạnh đó các công ty thuộc các quốc gia Nga,
Malaysia, Nhật Bản, Canada đang khai thác và tinh lọc dầu tại Việt nam. Thực
chất hoạt động khai thác dầu thô ở Việt nam hiện nay là kết hợp giữa công
nghệ và vốn của nước ngoài với tài nguyên thiên nhiên trong nước. Hoạt động
này không phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Bên
cạnh đó hiệu quả xuất khẩu dầu thô cũng không cao do phần lớn ngoại tệ thu
được từ xuất khẩu dầu thô được sử dụng để nhập khẩu những sản phẩm xăng
dầu.
Than đá
Trong những năm của giai đoạn nghiên cứu này, than đá là một trong những
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu bình quân trong cả giai đoạn 2001 - 2006 đạt 49,35%/ năm, đặc biệt sản
lượng khai thác than đá đã tăng mạnh và đem lại kim ngạch xuất khẩu cao gần
1 tỉ USD vào năm 2006 [7]. Phần lớn sự gia tăng về kim ngạch do tăng về sản
lượng nên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tài nguyên đất nước. Than đá của
chúng ta chủ yếu xuất sang Nhật Bản và Trung Quốc, chiếm đến 80% kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt riêng thị trường Trung Quốc chiếm
đến 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Cho tới nay, toàn bộ hoạt động
khai thác và kinh doanh than thuộc độc quyền tập đoàn Than và Khoáng sản -
Vinacomin. Khối các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài cũng tham gia vào hoạt động khai thác và sản xuất tha
nhưng sản lượng còn rất nhỏ. Về chất lượng, than Việt nam được đánh giá vào
loại tốt hàng đầu thế giới, có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên trình độ khai thác
còn lạc hậu, tay nghề yếu kém dẫn tới xuất khẩu than của Việt nam chủ yếu ở
dạng thô [11].
2. Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản
40
Trong giai đoạn này, tốc độ tăng kim ngạch của nhóm hàng này đạt bình
quân 15,1%/ năm, tỷ trọng có xu hướng giảm dần từ 24,3% năm 2001 xuống
còn 20,5% năm 2006.
Bảng 8: Kim ngạch và tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu nhóm nông lâm thuỷ sản giai đoạn 2001 – 2006
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2001-2006
Nội dung
KN
Tăng KN
Tăng KN
Tăng KN
Tăng KN
Tăng KN
Tăng KN
Tăng*
Tổng cả nhóm 3.649 5,8
3.989
9,3
4.452 11,6
5.437
22,1
6.852
22,4 8.126 18,6
32.505
17,4
Tỷ trọng
trong tổng
24,3
23,9
22,1
20,5
21,1
20,5
21,6
KNXK
- Thuỷ sản
1.778
20,3 2.023 13,8
2.200 8,7
2.360 7,3
2.739
16,0
3.364 22,8
14.464
13,6
- Gạo
625
-6,3
726
16,2 721
-0,7
950
31,8
1.407
41,8
1.306 -0,07 5.735
15,9
-Cà phê
391
-22
322
-17,6 505
56,8
641
26,9
14,7
1.101
49,8 3.695
23
735
- Rau quả
330
54,9 201
-39,1 151
-24,9 179
18,5
31,3 263
11,9 1.359
235
-0,5
- Cao su
166
0
268 61,4
378
41
597
57,9
34,7 1.273 58,3
3.486
804
50,3
- Hạt tiêu
91
-37,7 107 17,6
105
-1,9
152
44,8
-0,1 190
26,7
795
150
15,9
- Nhân điều
152
209 37,5
284
35,9
436
53,5
15,1 505
0,06 2.088
-9
502
27,1
78
- Chè
83 6,4
-27,7 96
60,0
0,1
111
14,4 525
13
60
97
7,3
38
48
- Lạc nhân
-7,3
51 34,2
5,9 27
-43,8
22,2
10,5
-68,2 207,5
-22,7
33
Đơn vị: Triệu USD, %
Nguån: Bé C«ng Th ¬ng, §Ò ¸n ph¸t triÓn xuÊt khÈu giai ®o¹n 2006 – 2010, B¸o
c¸oBé C«ng Th ¬ng n¨m 2006, (*) do sinh viªn tù tÝnh
C¸c mÆt hµng xuÊt khÈu trong nhãm hµng nµy lµ thuû s¶n, g¹o, cµ phª,
rau qu¶, cao su, h¹t tiªu, nh©n ®iÒu, chÌ c¸c lo¹i, l¹c nh©n. Trong ®ã ba mÆt
hµng lµ thuû s¶n, g¹o, cµ phª ®· chiÕm ®Õn trªn 70% tæng kim ng¹ch cña
nhãm. C¸c mÆt hµng kh¸c, kim ng¹ch nhá h¬n, Ýt ¶nh h ëng ®Õn kim ng¹ch
cña c¶ nhãm.
41
G¹o
Lóa g¹o lu«n lµ mÆt hµng xuÊt khÈu cã thÕ m¹nh truyÒn thèng cña ViÖt
Nam. Tõ chç viÖc ®¶m b¶o l ¬ng thùc cßn lµ mét mèi lo, ViÖt Nam ®· v ¬n
lªn xÕp thø 2 trong 10 quèc gia xuÊt khÈu g¹o hµng ®Çu thÕ giíi vµo n¨m 2003.
Trong giai ®o¹n 2001-2006, xuÊt khÈu g¹o ViÖt Nam cã sù biÕn ®éng thÊt
th êng, trong ®ã cã 3 n¨m kim ng¹ch xuÊt khÈu gi¶m vµ 3 n¨m kh¸c l¹i t¨ng.
§Æc biÖt n¨m 2005 tèc ®é t¨ng tr ëng cao ®ét biÕn ®¹t trªn 48%. Víi thµnh tùu
xuÊt khÈu g¹o, cã thÓ kh¼ng ®Þnh n¨m 2005 lµ dÊu mèc lÞch sö ch a tõng cã
trong 17 n¨m ho¹t ®éng s¶n xuÊt vµ xuÊt khÈu lo¹i n«ng s¶n chiÕn l îc nµy
cña n íc ta. Nh ng tÝnh trung b×nh trong c¶ giai ®o¹n, kim ng¹ch xuÊt khÈu
g¹o t¨ng kho¶ng 15,9% [11]. Biến động của xuất khẩu gạo do biến động về cả
lượng và về giá. Trong giai đoạn này, khi giá gạo của thế giới xuống thấp thì
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam lại tăng và ngược lại. Điều này dẫn tới kim
ngạch xuất khẩu gạo của nước ta không cao mặc dù Việt Nam hiện là nước
xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới. Một phần nguyên nhân là do chất lượng
gạo của chúng ta chưa cao (năm 2003 gạo xuất khẩu của Việt Nam có phẩm
cấp trung bình và thấp chiếm tới 55,6% tổng khối lượng gạo xuất khẩu) [11].
Riêng năm 2006, kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước đạt gần 4,77 ngàn
tấn với kim ngạch 1,414 USD, giảm 9,1% về lượng nhưng so với năm 2005
kim ngạch vẫn tăng 0,45%. Như vậy là kim ngạch xuất khẩu gạo năm 2006 đã
vượt 16,73% kế hoạch (tương đương trên 200 triệu USD). Nguyên nhân làm
cho kim ngạch xuất khẩu năm 2006 đạt khá chủ yếu là do giá xuất khẩu mặt
hàng này tăng cao, đạt 296 USD/tấn, tăng 10% so với giá xuất khẩu trung bình
năm 2005 [20]. Do đó thị trường xuất gạo của Việt Nam là những thị trường dễ
tính như Phillippin, Malaysia, Indonesia và một số nước ở Châu Phi. Gạo của
chúng ta hầu như chưa thâm nhập được vào thị trường gạo chất lượng cao.
Trong khi đó, Thái Lan có tỉ lệ gạo phẩm chất cao lên tới 80% lượng gạo xuất
khẩu nên giá gạo của họ thường cao trên thị trường thế giới. Ngược lại giá gạo
của Việt Nam thường thấp hơn giá gạo quốc tế từ 4-12 USD/ tấn trong những
năm 2001 - 2004 [11].
42
Cao su
Nguồn: Bộ Công Thương, Báo cáo các năm của Bộ Công Thương
Hình 4: Diễn biến xuất khẩu cao su từ năm 1999 đến năm 2006
Trong vòng 6 năm qua, xuất khẩu cao su của nước ta khá thuận lợi, giá liên
tục tăng và lượng xuất cũng không ngừng tăng. Năm 2001 giá xuất khẩu cao
su mới chỉ ở mức 539USD/tấn, đến năm 2006 giá xuất khẩu cao su là 1.605
USD/tấn, tăng khoảng 240% (tăng trung bình 16%/ năm) [20]. Cũng so với năm
2001, lượng cao su xuất khẩu của nước ta cũng đã tăng tới 164% (tương đương
với mức tăng trung bình khoảng 17%/năm), từ 308 ngàn tấn năm 2001 lên đến
721 ngàn tấn năm 2006. Nhờ giá và lượng cùng tăng nhanh nên kim ngạch
xuất khẩu cao su từ năm 2001 đến 2006 đã tăng từ 166 triệu USD lên 1300
triệu USD, gấp gần 7 lần, tương đương với mức tăng trung bình trên 40%/năm.
Cả năm 2006 lượng cao su xuất khẩu của cả nước đạt 721 ngàn tấn với kim
ngạch trên 1,3 tỉ USD, tăng 22,8% về lượng và tăng 62% về trị giá so với năm
2005. So với kế hoạch đề ra, kim ngạch xuất khẩu cao su năm 2006 đã vượt
55%, tương đương trên 460 triệu USD [7].
Cà phê
Hầu hết toàn bộ số cà phê của Việt Nam đều được mang đi xuất khẩu, tiêu
thụ trong nước chỉ chiếm 5%. Cà phê là mặt hàng xuất khẩu quan trọng thứ 2
trong các mặt hàng nông sản [17]. Năm 2001, 2002 xuất khẩu cà phê có tốc độ
tăng trưởng âm: năm 2001 mặc dù khối lượng xuất khẩu tăng so với năm 2000
43
(năm 2000 đạt 734 ngàn tấn và tăng lên 931 ngàn tấn năm 2001) nhưng kim
ngạch xuất khẩu giảm 21,96% do giá cà phê thế giới giảm; năm 2002 kim
ngạch cà phê tiếp tục giảm do lượng cà phê xuất khẩu giảm 23,84%( từ 931
ngàn tấn năm 2001 xuống còn 719 ngàn tấn năm 2002) trong khi giá thị trường
thế giới tăng nhẹ [20].
Hình 4: Lƣợng xuất khẩu cà phê từ năm 2000 đến năm 2006
Nguồn: Bộ Công Thương, Báo cáo các năm của Bộ Công Thương
Đơn vị tính: ngàn tấn
Bốn năm tiếp theo kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng nhưng không đồng đều:
năm 2003 tăng vọt lên 56,8% rồi giảm liên tiếp trong 2 năm 2004, 2005 và lại
tăng cao vào năm 2006 đạt mức 49,8%. Từ 2006, cà phê gia nhập vào nhóm
mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỉ USD của Việt Nam [22].
Thuỷ sản
Thuỷ sản là mặt hàng xuất khẩu quan trọng thứ 3 của Việt Nam sau
dầu thô và dệt may. Trong giai đoạn này xuất khẩu thuỷ sản đạt tốc độ tăng
trưởng tương đối cao khoảng 13,6% năm. Tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản so với
tổng kim ngạch xuất khẩu luôn dao động từ 8,44% đến 12,11%. Như vậy tỷ
trọng này ổn định và hầu như không tăng trong giai đoạn 2001 - 2006 mặc dù
thuỷ sản đạt tốc độ tăng trưởng cao [5,7]. Từ năm 1995 đến năm 2006 sản
lượng thuỷ sản Việt Nam đã tăng 6,3 lần, và tăng 6,0 lần về giá trị. Kim ngạch
44
xuất khẩu thuỷ sản đã đạt được các mốc quan trọng như sau: năm 1995 đạt 0,5
tỷ USD, năm 2000 đạt 1 tỷ USD, năm 2002 đạt 2 tỷ USD, năm 2005 đạt 2,5 tỷ
USD, năm 2006 3,3 tỷ USD. Riêng năm 2006 sản lượng xuất khẩu đạt
805,766 MT (tăng 29,4%), về giá trị đạt 3,348 tỷ USD, xuất khẩu vào 139
nước và vùng lãnh thổ [11].
Xuất khẩu của Việt Nam dần dần chiếm được chỗ đứng trên thị trường
thế giới, đã vươn lên vị trí thứ 8 vào năm 2002. Trong các mặt hàng xuất khẩu
thuỷ sản, tôm chiếm tới gần một nửa giá trị xuất khẩu, hầu hết ở dạng đông
lạnh, ngoài ra cũng có xuất khẩu ở dạng sấy khô, đóng hộp và tươi. Thị trường
xuất khẩu của Việt Nam cũng đa dạng, trong đó đặc biệt có 2 thị trường lớn là
Mỹ (khoảng 20% tổng kim ngạch) và Nhật Bản chiếm 1/4 tổng giá trị xuất
khẩu [11].
3. Nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ Trong giai đoạn 2001 - 2006 nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ
nghệ là nhóm đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 24,8%/năm, chiếm 39% tổng
kim ngạch xuất khẩu của giai đoạn 2001-2006 của cả nước. Tỷ trọng của
nhóm hàng này tăng mạnh qua các năm và có nhiều mặt hàng có kim ngạch
xuất khẩu lớn như dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ, điện tử và linh kiện máy
tính. Năm 2001 tỷ trọng nhóm các mặt hàng này là 33,9% đã tăng lên 39% vào
năm 2006 với kim ngạch đạt trên 15 tỷ USD [5,7]
Bảng 9: Kim ngạch và tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp
và thủ công mỹ nghệ giai đoạn 2001 - 2006
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2001-2006
Nội dung
KN
Tăng KN
Tăng KN
Tăng KN
Tăng
KN Tăng KN
Tăng KN
Tăng*
Tổng cả
5102
2,9
6340 24,3
8164 28,8
10697 31,0
12459 16,5 15437 23,9
58199 24,8
nhóm Tỷ trọng
33,9
40,0
40,5
40,4
38,4
39,0
38,7
trong tổng
KNXK
- Dệt may 1975
4,4
2752 39,3
3687 34,0
4386
18,9
4838 10,3 5802
19,9
23440 24,1
- Giầy dép 1559
6,5
1867 19,7
2268 21,5
2692
18,7
3040 12,9 3555
16,9
14981 17,9
- Điện tử,
595
-23,9
492
-17,3 672
36,6
1075
60,0
1427
32,7 1770
24,0
6031
24,4
LKMT - Thủ công
235
-0,8
331
40,7
367 10,9
516
40,6
569
10,3 630
10,8
2648
21,8
mỹ nghệ
335
13,9
435
29,9
567 30,3
1139 100,9 1563
37,2 1904
21,9
5943
41,6
- Sản phẩm gỗ
45
Đơn vị tính: triệu USD,%
134
27,6
153
14,2
186 21,6
261
40,3
350
34,1
478
36,6
1562
28,9
114
65,2
124
8,8
154 24,2
239 55,2
149
-37,6
110
74,1
890
-0,71
- Sản phẩm nhựa - Xe đạp và phụ tùng - Dây điện,
154
31,5
186
20,8
263 41,4
389
47,9
523
34,4
701
34
2216 35,4
cáp điện
Nguån: Bé C«ng Th ¬ng, §Ò ¸n ph¸t triÓn xuÊt khÈu 2006 – 2010, B¸o c¸o
cña Bé C«ng Th ¬ng n¨m 2006; (*) do sinh viªn tÝnh to¸n.
Trong sè c¸c mÆt hµng nµy cña nhãm, cã n¨m mÆt hµng gåm giÇy dÐp, dÖt
may, ®iÖn tö vµ linh kiÖn m¸y tÝnh, thñ c«ng mü nghÖ vµ s¶n phÈm gç chiÕm
91,14% tæng kim ng¹ch cña nhãm. C¸c mÆt hµng cßn l¹i cã kim ng¹ch Ýt, ¶nh
h ëng kh«ng ®¸ng kÓ ®Õn ho¹t ®éng xuÊt khÈu cña nhãm hµng nµy.
DÖt may
Hµng dÖt may hiÖn nay chiÕm tû träng lín trong tæng trÞ gi¸ xuÊt khÈu
cña ngµnh hµng vµ lµ s¶n phÈm xuÊt khÈu lín thø 2 sau dÇu th«. XuÊt khÈu
hµng dÖt may t¨ng tõ gÇn 2 tû USD n¨m 2001 lªn gÇn 6 tû USD n¨m 2006 víi
tèc ®é t¨ng tr ëng b×nh qu©n cao kho¶ng 21%. Trong giai ®o¹n 2001 - 2006
kim ng¹ch xuÊt khÈu tuyÖt ®èi hµng dÖt may t¨ng liªn tôc qua c¸c n¨m [7].
Chúng ta có thể thấy tốc độ tăng trưởng của ngành dệt may khá thất
thường. Năm 2002 tốc độ tăng trưởng vượt bậc và tăng vọt lên mức cao nhất
trong cả giai đoạn đạt 39,34% từ mức 4,39% năm 2001. Trong 3 năm liên tiếp
2003-2005 tốc độ tăng trưởng liên tục giảm và xuống mức 10,31% vào năm
[7].
2005. Nhưng đến năm 2006 tốc độ tăng trưởng lại tăng lên đáng kể gần 20%
Mặc dù có kim ngạch lớn nhưng hàng xuất khẩu dệt may đa phần được
làm theo các hợp đồng gia công với nước ngoài, hàm lượng nhập khẩu cao, lên
đến 80%. Do vậy giá trị gia tăng có trong hàng dệt may không lớn và phụ
tghuộc nhiều vào lực lượng lao động. Lợ thế cạnh tranh của Việt Nam trong
ngành dệt may chủ yếu là do chi phí nhân công thấp. Còn lại thiết bị công
nghệ tương đối lạc hậu, chỉ có 30% công nghệ là thiết bị hiện đại. Bên cạnh
đó, ngành dệt may của nước ta còn tồn tiạn một số điểm yếu như năng lực thiết
kế sản phẩm còn kém, năng suất lao động thấp. Giá thành đơn vị sản phẩm
cao, công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may còn yếu kém.
Về thị trường xuất khẩu, Hoa Kì chiếm tỷ trọng cao nhất với 2,626 tỷ USD
năm 2005, chiếm 54,5% tổng kim ngạch và tăng 6,1% so với năm 2004. Nếu
46
năm 2001, Việt Nam chưa có tên trong danh sách 25 nước xuất khẩu hàng may
mặc hàng đầu vào thị trường Mỹ thì đến năm 2002, sau khi qui chế quan hệ
bình thường Việ - Mỹ được thông qua, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 20 và
giành vị trí thứ 5 năm 2003 khi đạt kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kì là 3,6 tỷ
USD. Sau đó khi Hoa Kì áp dụng quota nhập khẩu đối với một số hàng may
mặc của Việt Nam, vị trí này chuyển xuống thứ 7, nhưng đến năm 2006, Việt
Nam đã vươn lên vị trí thứ 5. Sau đó là thị trường EU đạt khoảng 850 triệu
USD chiếm 17% và tăng 12%. Đứng thứ 3 là thị trường Nhật Bản [11].
Thủ công mỹ nghệ
Hàng thủ công mỹ nghệ là hàng có hiệu quả xuất khẩu rất cao thể hiện ở
tỉ lệ thực thu ngoại tệ. Nếu dệt may, giày dép có kim ngạch xuất khẩu cao
nhưng tỷ lệ thực thu ngoại tệ chỉ từ 60 - 70% do phải nhập nguyên liệu thì
hàng thủ công mỹ nghệ với lợi thế tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có
trong nước theo đó có giá nhân công cực rẻ có tỉ lệ thực thu ngoại tệ đạt tới
98-99%. Thời kì hoàng kim của thủ công mỹ nghệ là giai đoạn 1975 đến 1986.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân 40% (đỉnh điểm đạt 53,4% năm
1979).
Hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những mặt hàng chủ lực của Việt
Nam và tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước giai đoạn này
dao động trong khoảng 1,56% đến 1,98%. Tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn
2001 - 2006 khá đều đặn (năm 2001: 17,5%; năm 2002: 40,85%; năm 2003:
10,88%, năm 2004: 40,6%; năm 2005: 10,27%; năm 2006: 10,3%). Cơ cấu thị
trường ngày càng đa dạng và mở rộng ra nhiều thị trường mới. Hiện nay hàng
thủ công mỹ nghệ của nước ta có mặt ở gần 100 nước, nhưng tập trung chủ
[5,7].
yếu vào 15 nước và vùng lãnh thổ, 2 thị trường lớn nhất là Nhật Bản và EU
Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay chủ yếu được sản xuất
tại các làng nghề truyền thống và dựa trên lợi thế về giá nhân công rẻ. Hoạt
động sản xuất đã có những bước phát triển nhất định theo hướng áp dụng công
nghệ vào một số công đoạn nhất định, hình thành các cơ sở cung cấp nguyên
liệu. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ còn mang tính chất
manh mún, nhỏ lẻ, thiếu lao động lành nghề để làm ra các sản phẩm có chất
lượng cao.
47
Điện tử
Điện tử cũng là một mặt hàng xuất khẩu đạt hiệu quả của Việt Nam trong
giai đoạn này. Từ chỗ chưa có xuất khẩu vào những năm 1990, cho tới 2001
xuất khẩu hàng điện tử đã đạt 595 triệu USD, và 1,7 tỉ USD năm 2006. Tốc độ
tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001-2006 là 19,2% nhưng qua các năm thì
sự tăng trưởng laị không ổn định. Hiện nay do xuất khẩu hàng điện tử của Việt
Nam còn phụ thuộc nhiều vào gia công của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Xuất khẩu sản phẩm điện tử thời gian này chưa có hiệu quả cao do tỉ lệ
nội địa hoá còn thấp, cao nhất chỉ đạt 70% đối với máy thu hình màu, thấp
nhất 25% đối với tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ [11].
Về cơ cấu thị trường, hàng Việt Nam xuất đi tới hơn 40 quốc gia, chủ yếu
là các nước Châu Á. Nhìn chung cơ cấu thị trường xuất khẩu sản phẩm còn
phụ thuộc nhiều vào thị trường trung gian, chưa xuất được sang các nước có
thị trường phát triển như Mỹ, EU.
Hiện nay xu hướng sản xuất hàng điện tử trên toàn cầu là chuyển tới các
nước có chi phí thấp. Sản xuất các sản phẩm điện tử đòi hỏi nghiên cứu phát
triển cao. Tuy nhiên các loại linh kiện cần công nghệ cao như linh kiện bán
dẫn, linh kiện cơ khí điện tử, quang điện tử... ta lại chưa sản xuất được. Trình
độ lắp ráp của các doanh nghiệp điện tử phổ biến ở mức trung bình. Phần lớn
các doanh nghiệp có trình độ cao là các doanh nghiệp liên doanh hoặc 100%
vốn nước ngoài như Daewoo-Hanel, Fujitsu, Alcatel.
Giày dép
Kim ngạch xuất khẩu giày dép tăng liên tục trong giai đoạn 2001-2006 từ
1559 triệu USD năm 2001 lên 3555 triệu USD năm 2006 với tốc độ tăng
trưởng bình quân17,9%/ năm. Trong giai đoạn này xuất khẩu giầy dép của
Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh lớn từ Trung Quốc do họ đã gia nhập
WTO năm 2001 trong khi Việt nam vẫn đang ở trong vòng đàm phán. Song
nhờ Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì, giầy dép xuất khẩu của Việt
Nam vẫn có chỗ đứng nhất định trên thị trường Hoa Kì (chiếm 20,1% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam năm 2005). Bên cạnh đó EU là
khách hàng quan trọng chiếm đến 80% và thực hiện chế độ ưu đãi thuế quan
phổ cập (GSP) với Việt Nam. Việt Nam hiện đứng thứ 2 sau Trung Quốc về
xuất khẩu giày dép sang EU và chiếm tỉ trọng lớn nhất các mặt hàng của Việt
48
Nam xuất khẩu sang EU. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản mới
chỉ chiếm khoảng 3% tổng kim ngạch của toàn ngành. Ngoài 3 thị trường trên,
giày dép Việt Nam còn xuất khẩu sang một số nước khác, trong đó gia tăng
mạnh và có nhiều nước đến từ Mexico [5,7].
Tuy nhiên giống dệt may, hàng giầy dép xuất khẩu của ta chủ yếu xuất
khẩu dưới hình thức gia công và phải nhập khẩu khoảng 80% nguyên vật liệu.
Do vậy giá trị gia tăng không cao và cơ cấu thị trường mang nặng tính tập
trung vào những nước giao gia công [5,7]. Thách thức lớn của ngành da giầy
khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới chính là tính cạnh tranh còn yếu
do thiếu khả năng cung ứng vật tư nguyên liệu, điều kiện kinh tế và hạ tầng
dịch vụ chưa theo kịp với các nước kết hợp với giá dịch vụ vận chuyển cao.
Thêm vào đó, ưu thế của Việt nam về tiền công lao động vẫn là nhân tố cạnh
tranh nhưng bắt đầu đã có những khó khăn và biến động, công tác đào tạo lao
động lành nghề vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu của sản xuất, cán bộ kĩ thuật và
cán bộ quản lí chưa được bổ túc và phổ cập các kiến thức chuyên ngành đầy
đủ.
III. Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam giai đoạn sau khi gia nhập WTO
Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam giai đoạn này tiếp tục chuyển dịch theo
hướng tích cực tăng dần nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm
lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô. Tỷ trọng
nhóm hàng công nghiệp, hàng chế biến xuất khẩu năm 2007 chiếm 40,7%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Sau 2 năm gia nhập WTO, chúng ta hầu như
vẫn chưa có sự chuyển biến cơ bản trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Tỷ trọng 2 nhóm hàng nông lâm thuỷ sản và khoáng sản vẫn chiếm tới 45,36%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 (cao hơn 9,7% so với mức dự tính
trong đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010). Trong khi tỷ trọng
nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chỉ tăng rất nhỏ (0,55% so với
2006 và thấp hơn nhiều so với Đề án: 47,7%)
Năm 2007, nhóm nông lâm thuỷ sản dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu khoảng 53% so với năm 2006 - mức tăng cao nhất trong 7 năm tiếp đến
là nhóm hàng khác tăng 32,5%, đứng thứ 3 là nhóm công nghiệp và thủ công
49
mỹ nghệ tăng 24%, cuối cùng là nhóm khoáng sản nhiên liệu tăng 2% [24].
Trong số 24 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu năm 2007, có 10 mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng tới trên 71%. Đó là dầu thô,
than đá, dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính, gạo cà phê, cao su,
sản phẩm gỗ, thuỷ sản. Trong đó, 4 mặt hàng dầu thô, dệt may, giầy dép, thuỷ
sản đã chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Bên cạnh đó có một mặt
hàng mới xuất khẩu đã tham gia vào nhóm các mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ
USD là sản phẩm cơ khí (kim ngạch 2,2 tỷ USD) [13,22]. Năm 2007 là năm đầu
tiên sau khi nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO nên vẫn gặp
phải rất nhiều khó khăn. Đó là rào cản về thương mại nước ngoài như Nga
cấm nhập khẩu gạo của Việt Nam, Đài Loan trả lại chè và đòi áp thuế chống
bán phá giá, cà phê bị nhiều đối tác trả lại do không đáp ứng được yêu cầu về
chất lượng, Trung Quốc tạm ngưng nhập khẩu một số thực phẩm đông lạnh
của Việt Nam, Campuchia cấm nhập nhập khẩu thịt lợn và lợn sống từ Việt
Nam, dệt may gặp khó khăn trên cả 3 thị trường trọng điểm: Mỹ áp dụng cơ
chế giám sát đối với hàng dệt may củat Việt Nam, EU áp dụng thuế chống bán
phá giá vì coi nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường, và Nhật Bản
áp dụng mức thuế suất 10% đối với hàng dệt may của ta trong khi 6 nước
ASEAN đã đàm phán được mức 0% do chúng ta không đáp ứng được yêu cầu
tỉ lệ nội địa hoá và khu vực hoá (khu vực ASEAN) tối thiểu trong sản phẩm.
Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 63 tỷ, tăng 29,5% so với
năm 2007, vượt 8,8% so với kế hoạch [2]. Những kết quả này cũng cho thấy
xuất khẩu việt Nam đã đi đúng hướng và đạt được những thành công nhất
định. Qua biểu đồ trên ta thấy, cơ cấu xuất khẩu trong năm 2008 vẫn tương tự
như năm 2007 với hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chiếm khoảng còn
lại hàng khoáng sản và nhiên liệu và nhóm nông lâm thuỷ sản có kim ngạch
xuất khẩu tương đương nhau. Theo báo cáo của Bộ Công thương, giá trị sản
xuất công nghiệp toàn ngành năm 2008 ước đạt khoảng 650 nghìn tỷ đồng,
tăng 14,6% so với năm 2007 (mục tiêu đề ra là tăng 16%). Những sản phẩm
công nghiệp chủ yếu phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu năm 2008
cơ bản đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế và tiếp tục tăng trưởng. Một số
sản phẩm đạt mức tăng trưởng cao so với năm trước như máy công cụ tăng
28,5%; động cơ diesel tăng 18,3%; quần áo người lớn tăng 27,7%; sữa bột
50
tăng 18,6%; quần áo người lớn tăng 27,7%; sữa bột tăng 18,6%; tủ lạnh, tủ đá
tăng 22,2%... [2]. Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu tăng cao (tăng 29,5%) do
nhiều yếu tố, trong đó đáng chú ý là tăng lượng hàng hoá xuất khẩu, tăng giá
hàng hoá và tăng do một số mặt hàng nhập khẩu lúc giá thấp và xuất khẩu lúc
giá cao như sắt thép, kim loại quí… Kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng
hầu hết đều tăng cao so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu năm nay giữ
được tốc độ cao do trong những tháng đầu năm dầu thô, than đá và nhiều mặt
hàng nông sản gặp thuận lợi về giá và thị trường xuất khẩu. Năm nay có thêm
2 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD là dây điện và cáp điện, thủ công mỹ
nghệ nâng tổng số các mặt hàng có kim ngạch có kim ngạch trên 1 tỷ USD
lên 12 mặt hàng gồm: thuỷ sản (4,56 tỷ USD), gạo (2,9 tỷ USD), cao su (1,6 tỷ
USD), dầu thô (10,5 tỷ USD), than đá (1,44 tỷ USD), dệt may (9,1 tỷ USD),
điên tử và linh kiện máy tính (2,7 tỷ), sản phẩm gỗ (2,78 tỷ USD), dây điện và
cáp điện (1,014 tỷ USD), sản phẩm cơ khí, giầy dép ( 4,7 tỷ USD), cà phê (2 tỷ
USD) [3]. Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản chiếm 27,8%; nhóm hàng khoáng
sản nhiên liệu chiếm 19,02%: nhóm hàng chế biến, công nghiệp và thủ công
mỹ nghệ chiếm 32,5%.
1. Nhóm hàng khoáng sản và nhiên liệu Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm đạt khoảng 9,5 tỉ USD,
trong đó 2 mặt hàng chính của nhóm là dầu thô và than đá tiếp tục chiếm tỷ
trọng áp đảo. Tỷ trọng nhóm này trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước giảm xuống thấp nhất trong 7 năm qua –19,5%. So với năm 2006, kim
ngạch của nhóm chỉ tăng có 0,2 tỷ USD [24]. Dầu thô tiếp tục là mặt hàng đạt
kim ngạch xuất khẩu lớn nhất 8,477 tỷ USD chiếm 17,5% tổng kim ngạch cả
nước. Mặc dù sản lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu giảm nhưng do giá
xăng dầu thế giới tăng mạnh trong năm 2007 nhất là thời điểm cuối năm nên
kim ngạch xuất khẩu dầu thô của ta vẫn tăng 2,6% so với cuối năm 2006.
Năm 2007 sản lượng dầu thô khai thác ở các mỏ trong nước tiếp tục giảm
trong khi sản lượng khai thác ở các mỏ nước ngoài lại không cao. Trong
8,477 tỷ thu được từ xuất khẩu chúng ta phải dành đến 7,5 tỷ để nhập khẩu
các sản phẩm xăng dầu. Như vậy thực chất số ngoại tệ nhận được từ xuất
khẩu chỉ khoảng 0,9 tỷ USD [22,24]. Xuất khẩu dầu thô năm 2008 ước tính đạt
51
13,9 triệu tấn tương đương với 10,5 tỷ USD, tuy giảm 7,7% về lượng nhưng
tăng 23,1% về kim ngạch. Mặc dù lượng giảm nhưng do giá bình quân tăng
33,6 % nên kim ngạch xuất khẩu dầu thô năm 2008 vẫn đạt 10,5 tỷ USD,
tăng 22% so với năm 2007 [2]. Than đá lần đầu tiên gia nhập nhóm các mặt
hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD với sản lượng xuất khẩu trên 32,5 triệu tấn,
kim ngạch xuất khẩu 1018 triệu USD tăng 9,8% so với 2006. Tăng trưởng
xuất khẩu than đá năm 2007 được giải thích cả bằng tăng do lượng (11%) và
tăng do giá (11,3%) [22].
Năm 2008 là năm có nhiều khó khăn đối với ngành than. Sản lượng khai
thác ở nhiều mỏ có trữ lượng lớn giảm như: than Thống Nhất giảm 33,3%,
than Hà Tu giảm 29,3%, than Hạ Long giảm 24,5%, than Uông Bí giảm
21,0%... Tình trạng khai thác, xuất khẩu than lậu trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh đã tái diễn phức tạp trong những tháng đầu năm, gây tác động xấu tới
hoạt động sản xuất và tiêu thụ than của ngành. Sản lượng xuất khẩu than năm
2008 ước đạt 19,7 triệu tấn, bằng 62% so với năm 2007, đạt kim ngạch 1,44
tỷ USD [2].
2. Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản Năm 2007, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản là nhóm đạt tốc độ tăng cao
nhất trong tất cả các nhóm hàng: 53% (nhóm công nghiệp và thủ công mỹ
nghệ 24%, nhóm hàng khác 32%, nhóm khoáng sản nhiên liệu 2,1%). Theo
đó, tỷ trọng của nhóm này trong tổng kim ngạch của cả nước cũng tăng lên
mức 25,83% sau 4 năm liên tiếp ở dưới mức 22%. Các mặt hàng chủ yếu
xuất khẩu đạt kim ngạch cao trong nhóm bao gồm gạo (1,4 tỷ USD), thuỷ sản
( 3,7 USD), cà phê (1,8 tỷ USD), cao su (1,4 tỷ USD), hạt điều (649 triệu
[22,24]. Năm 2008 xuất khẩu nông sản đã đạt được những kết quả tốt, nhất là
USD). Năm mặt hàng này đã chiếm tới 71,5% tổng kim ngạch của nhóm
những tháng giữa năm khi yếu tố thị trường có lợi cho mặt hàng lương thực
thực phẩm do sự khan hiếm lương thực và mức tăng giá kỉ lục so với nhiều
thập kỉ qua. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản năm 2008 ước đạt
16,074 tỉ USD, tăng 27,8% so với năm 2007 (đạt 12,576 tỉ USD). Trong khi
đó tổng kim ngạch nhập khẩu nông lâm thuỷ sản và vật tư năm 2008 ước
52
9,457 tỉ USD, tăng gần 31,3% so với năm 2007. Như vậy thương mại nông
lâm thuỷ sản tiếp tục xuất siêu với mức 6,617 tỉ USD, tăng 23,14% so với
mức xuất siêu của năm 2007 (đạt 5,374 tỉ USD) [20].
Gạo
Năm 2007 Việt Nam xuất hơn 4,5 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch trên 1,4
tỷ USD, đứng thứ 2 thế giới sau Thái Lan. Năm này, xuất gạo 15% tấm đạt
1,512 triệu tấn với kim ngạch 501,5 triệu USD, tăng 15,04% về lượng và
tăng 37,96% về trị giá so với năm 2006, tăng 21,84 về lượng và 44,67% về
trị giá so với năm 2005. Năm 2007 loại gạo này được xuất khẩu sang các thị
trường: Inđônêxia, Cuba, Malaixia... Đứng đầu về thị trường nhập khẩu gạo
của Việt nam năm 2007 là Philippin với 1,454 triệu tấn, trị giá 464,87 triệu
USD, giảm 3,71% về lượng nhưng tăng 8,3% về trị giá so với năm 2006.
Xuất khẩu sang các thị trường này chủ yếu là gạo 25% tấm. Năm 2007, xuất
khẩu sang thị trường Inđônêxia cũng tăng mạnh, thị trường này chủ yếu nhập
khẩu gạo 15% tấm và gạo nếp 10% tấm. Tuy nhiên, xuất khẩu sang thị
trường một số nước Châu Phi lại giảm khá mạnh như Angola, Nam Phi, Bờ
Biển Ngà, Tanzania, Camơrun, Kênya... Nhìn chung xuất khẩu gạo năm 2007
không có gì đột biến so với những năm trước. Bên cạnh đó các doanh nghiệp
đã xuất khẩu được khoảng 230.000 tấn gạo nếp với giá trung bình đạt
400USD/ tấn. Hiện gạo của Việt Nam đã có mặt tại hơn 80 nước trên thế
giới, chủ yếu vẫn là các thị trường dễ tính như các nước Đông Nam Á, các
nước Châu Phi [17,18]. Năm 2008 là năm có nhiều biến động trong hoạt
động xuất khẩu gạo, có lúc giá gạo xuất khẩu của ta đã lên tới 1.050
USD/tấn. Nguyên nhân giá gạo tăng đột biến là do lạm phát cao khiến chính
phủ các nước xuất khẩu gạo hạn chế xuất khẩu mặt hàng này để ổn định tình
hình trong nước. Nhưng bắt đầu từ tháng 6/2008 giá gạo đã giảm nhanh do
Thái Lan và Việt Nam bắt đầu vào vụ thu hoạch và nối lại hoạt động xuất
khẩu gạo. Năm 2008, xuất khẩu gạo của nước ta đạt 4,7 triệu tấn với kim
ngạch 2,9 tỉ USD, tăng 3,6% về lượng và tăng tới 94,6% về trị giá so với năm
2007 [20].
Thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam năm 2008 là Châu Á, Châu
Phi, và Châu Mỹ. Trong đó, xuất gạo Việt Nam sang thị trường Châu Á giảm
53
mạnh so với năm 2007 (giảm từ 78,1% năm 2007 xuống còn 58,8% năm
2008). Trong số các thị trường có tỷ trọng xuất khẩu gạo tăng thì thị trường
Châu Phi là tăng mạnh nhất, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007 (từ 8,4% năm
2007 lên 20% năm 2008). Dưới đây là 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất
của Việt Nam năm 2008. Nếu như trong năm 2007, gạo Việt Nam được xuất
khẩu đến 63 quốc gia, vùng lãnh thổ thì đến năm 2008, con số này đã tăng
lên gấp đôi (128 quốc gia và vùng lãnh thổ) [20].
Trong top 10 thị trường này thì Philippines vẫn là thị trường đứng vị trí
số 1, chiếm gần 40% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó,
Philippines, Malaysia, Cuba là thị trường truyền thống, chiếm 68,3% về giá
trị và 54,8% về lượng [20].
Thuỷ sản
Với kim ngạch xuất khẩu trên 3,7 tỷ USD tăng 3,7% so với 2006 và
chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nhóm, Việt Nam đã chính thức
trở thành 1 trong 10 quốc gia xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới. Đây cũng
là mức kim ngạch lớn nhất trong 7 năm qua và cao hơn 0,4 tỷ USD so với dự
tính trong đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010. Theo Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, năm đầu tiên chúng ta gia nhập WTO, số
lượng doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào những thị trường khó tính
như EU, Hoa Kì, Nhật Bản tăng gấp 2 lần so với trước. Trong đó năm 2007
có gần 1200 doanh nghiệp được phép xuất khẩu sang EU, Trung Quốc,
Canađa, Hàn Quốc... Hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt tại 130 quốc gia và
vùng lãnh thổ, sản phẩm xuất khẩu ngày càng đa dạng hơn về chủng loại.
Mặt hàng chủ lực là tôm giảm xuống chỉ còn gần 40% từ 48% vào năm 2003,
nhường chỗ cho các sản phẩm cá da trơn và nhiều sản phẩm khác [13] .
Mặc dù năm 2008 là một năm là một năm đầy khó khăn, nhưng xuất
khẩu thuỷ sản của cả nước vẫn tăng gần 20% về giá trị. Với mức tăng trưởng
này, ngành thuỷ sản đã có những bước tiến đưa Việt Nam từ vị trí thứ 11 lên
hàng thứ 6 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Trong năm này xuất khẩu
thuỷ sản của cả nước đạt trên 1,2 triệu tấn, trị giá đạt trên 4,5 tỷ USD, tăng
33,7% về khối lượng và 19,8% về giá trị so với năm trước. Liên minh Châu
âu EU tiếp tục là nhà nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với khối lượng nhập
54
khẩu là 349 ngàn tấn với trị giá 1,14 tỷ USD, tăng 26% về giá trị. Trong năm
2008, Việt Nam đã xuất khẩu thuỷ sản sang 26/27 quốc gia thuộc khối này,
đứng đầu là 5 thị trường: Đức, Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan và Bỉ [24].
Trong 61 sản phẩm thuỷ sản Việt Nam đựơc vào EU, cá tra, cá basa tăng
23,8%, tôm tăng 47,6%, mực bạch tuộc đông lạnh tăng 26,6%, cá ngừ tăng
21,6% so với năm 2007. Đứng thứ 2 là thị trường Nhật Bản, với khối lượng
nhập khẩu trên 134 ngàn tấn, giá trị đạt trên 828 triệu USD, tăng 13,2% về
khối lượng và 11% về giá trị so với năm trước. Là trung tâm của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, Mỹ đã tụt xuống hàng thứ 3 về nhập khẩu
thuỷ sản của Việt Nam. Tỷ trọng của thị trường Mỹ giảm từ 20,4% xuống
16,5% trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam do nhu cầu tiêu thụ và
nhập khẩu của nước này giảm. Tiếp theo, Hàn Quốc là nước thứ 4 trong top
các thị trường nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam và đứng thứ 2 về nhập khẩu
thuỷ sản khô từ nước ta. Nửa đầu năm, xuất khẩu tôm đông lạnh và mực bạch
tuộc sang thị trường này tăng mạnh so với năm ngoái. Tuy nhiên xuất khẩu
những tháng cuối năm lại giảm mạnh nên xuất khẩu cả năm chỉ tăng trưởng
10% so với năm 2007. Cũng trong năm 2008, Nga vẫn là lực hút lớn cho nhiều
doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam. Thị trường đơn lẻ này
tiếp tục đứng đầu về nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam với mức tăng trên
142% về khối lượng và tăng 109% về giá trị so với năm 2007. Thêm vào đó,
Ukraina thực sự là một hiện tượng của năm 2008, với mức tăng trưởng nhập
khẩu cao nhất lên tới 202,6% về khối lượng và 221,1% về giá trị [24].
Cà phê
Năm 2007 là năm đầu tiên chúng ta xuất khẩu trên 1 triệu tấn cà phê và là
năm thứ 2 liên tiếp mặt hàng này nằm trong nhóm các mặt hàng có kim ngạch
trên 1 tỷ USD. Đồng thời đây cũng là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhất
68,4%, trong đó 21,8% tăng do lượng và 52,3% tăng do giá. Cà phê Việt Nam
ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường thế giới, đặc biệt là
cà phê Robusta đứng thứ 2 thế giới. Từ năm 2006, ICO - Tổ chức cà phê thế
giới đã chọn cà phê Việt Nam và Inđônêxia thay thế cho cà phê Madagatxca
và Trung Phi làm căn cứ xác định chỉ giá cà phê Robusta. Trong năm 2007 cà
phê nước ta được xuất tới 74 nước và vùng lãnh thổ. Mười nước nhập khẩu cà
phê của Việt Nam lớn nhất theo khối lượng là Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý,
Nhật, Inđônêxia, Anh, Hàn Quốc, Philippin và Bỉ. Chúng ta cũng có những 55
khách hàng mới ở Châu Mỹ, vùng sản xuất cà phê lớn của thế giới như
Ecuador, Mexico, Chilê, Paraguay, Nicaragua. Chủng loại mặt hàng cà phê
của chúng ta cũng phong phú hơn, ngoài cà phê nhân sống còn cà phê rang
xay, đặc biệt là cà phê hoà tan, 3 trong 1, 4 trong 1 [13].
Tuy nhiên chất lượng cà phê còn chưa theo kịp chuẩn thế giới (nguyên
nhân chính dẫn tới hiện tượng cà phê của ta bị nhiều đối tác trả lại trong năm
2007), công nghệ sau thu hoạch còn chưa được cai thiện, quy mô trồng còn
nhỏ vừa phân tán trong các hộ gia đình. Các doanh nghiệp hầu như chưa áp
dụng tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4193-2005. Nâng cao chất lượng cà phê là
việc làm cần thiết để đưa sản phẩm của ta vươn xa hơn và sâu hơn đến thị
trường các nước, gia tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu.
Tổng lượng cà phê xuất khẩu năm 2008 đạt 1,06 triệu tấn với kim ngạch
2,02 tỷ USD giảm 13,8% so với năm 2007 (giảm 22,4% về lượng nhưng vẫn
tăng 2,1% về trị giá) và chỉ hoàn thành có 96,3% kế hoạch năm.Tính trung
bình cả năm 2008, giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 2.044 USD/tấn, tăng
31% so với năm 2007. Trong đó giá cà phê có lúc lên tới mức đỉnh điểm là
2.240 USD/ tấn trong tháng 7 và tháng 8-2008. Về thị trường xuất khẩu cà phê
của nước ta được xuất sang 93 quốc gia và vùng lãnh thổ, giảm 34,5% thị
trường so với năm 2007 [26].
Theo nhận định của Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam, mặc dù có tăng
trưởng xuất khẩu nhưng sự phát triển của ngành cà phê chưa thật sự vững
chắc, hiệu quả kinh doanh vẫn thấp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Trước tình hình
này ngành cà phê đang hướng tới mục tiêu tăng giá trị trên một đơn vị sản
phẩm do hiện nay cà phê xuất khẩu của Việt Nam phần lớn mới chỉ ở dạng cà
phê hạt sơ chế. Hiện nay, chất lượng cà phê của Việt Nam thấp, không ổn
định, chưa xuất theo tiêu chuẩn xuất khẩu dẫn đến bị ép cấp, ép giá, làm giảm
giá trị xuất khẩu. Bên cạnh đó ổ chức thu mua chưa tốt dẫn đến việc đầu vụ
người dân thường phải bán vội cà phê với giá thấp. Hệ thống đại lí thu mua cà
phê hình thành một cách tự phát, chủ yếu là các đại lí tư nhân, hệ quả là khi
giá cả thị trường biến động mạnh dẫn đến đổ vỡ theo dây chuyền từ đại lý đến
nhà xuất khẩu. Việt Nam cũng là một trong những nước xuất khẩu cà phê chủ
56
yếu của thế giới.
Thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Hiện cà phê nhân của Việt
Nam đã xuất khẩu qua 75 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cà phê hoà tan cũng đã
xuất khẩu sang 25 thị trường trên thế giới, trong đó nhiều nhất là các thị trường
Canada, Hoa Kì, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Úc, Hàn Quốc. Thị trường
chính nhập khẩu cà phê Việt Nam trong 12 tháng qua là Đức: 136 nghìn tấn,
Hoa Kì: 106 nghìn tấn, Tây Ban Nha: 88 nghìn tấn. Bên cạnh đó, 10 thị trường
xuất khẩu cà phê nhân lớn nhất của Việt Nam Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ,
Ba Lan, Hàn Quốc, Pháp, Anh, Nhật Bản. Mười thị trường này tiêu thụ 73,4%
tổng sản lượng cà phê của Việt Nam. Đáng chú ý là thị trường Nga, 7 năm
trước Nga chỉ mua cà phê của Việt Nam 5,550 tấn/vụ, xếp thứ 12 trong các thị
trường Châu Âu và chiếm 0,665% thị phần, thì vụ này mua tới 20.589 tấn/vụ
xếp thứ 12 trong 75 nước và lãnh thổ mua cà phê của Việt Nam và chiếm gần
2% thị phần. Thị trường ASEAN cũng có sự chuyển biến, Philippines đã mua
19.330 tấn, Malaysia mua 17.903 tấn, Thái Lan cũng đã tăng sản lượng lên
11.949 tấn [19].
Cao su
Xuất khẩu cao su năm 2007 đạt 719 ngàn tấn với trị giá 1,4 tỷ USD, chiếm
3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng 10% so với năm 2006. Cơ
cấu mặt hàng cao su vẫn không được cải thiện, chúng ta vẫn chủ yếu xuất khẩu
cao su thô với giá trị thấp. Cao su khối SVR3L - loại cao su thị trường thế giới
cần ít, chỉ có Trung Quốc là có nhu cầu nhập khẩu nhiều - lại là loại hàng
chiếm tỷ trọng chủ yếu của ta, chiếm 42,78% tổng lượng cao su xuất khẩu, trị
giá xuất khẩu trên 641 triệu USD chiếm khoảng 46% tổng kim ngạch xuất
khẩu của mặt hàng này. Cao su SVR 10 có tỷ trọng trong cơ cấu các mặt hàng
cao su xuất khẩu. Về thị trường xuất khẩu, năm 2007 chúng ta xuất khẩu sang
41 quốc gia, trong đó Trung Quốc là nước nhập khẩu nhiều nhất (58,3%).
Nguồn cung cao su trên thế giới đang khan hiếm trong khi nhu cầu không
giảm, nhất là nhu cầu ở Trung Quốc và Ấn Độ đang bùng nổ [22,24].
Tổng lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 là 658 nghìn tấn,
giảm 7,9% và chỉ hoàn thành có 84,4% kế hoạch năm. Tuy nhiên do năm 2008
giá bình quân tăng 25% (tương đương với tăng 487 USD/tấn) nên kim ngạch
xuất khẩu cao su cả năm đạt hơn 1,6 tỷ USD tăng 15,1% so với năm 2007.
57
Năm 2008, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam với
gần 431 nghìn tấn, chiếm tới gần 65,5% khối lượng xuất khẩu cao su cả nước.
Tiếp theo là Hàn Quốc: 29.000 tấn, Đài Loan: 21,2 nghìn tấn, Malaysia: gần
21 nghìn tấn...[20].
Hạt điều
Năm 2007, Việt Nam đứng trong top đầu về xuất khẩu hạt điều trên thế
giới, đồng thời đạt mức cao kỉ lục về lượng cũng như trị giá. Cả năm chúng ta
xuất khẩu được 151,73 ngàn tấn hạt điều các loại, chiếm trên 50% lượng điều
xuất khẩu trên thế giới, với trị giá 649 triệu USD tăng 28,5% so với năm 2006,
cao hơn mức bình quân của cả giai đoạn 2001 - 2006. Giá xuất khẩu trung
bình năm 2007 đạt 4288 USD/tấn tăng 7,93% so với năm 2006 nhưng giảm
6,83% so với năm 2005. Hạt điều của nước ta được xuất sang 78 quốc gia,
tăng thêm 10 quốc gia so với năm 2006. Năm thị trường xuất khẩu lớn nhất là
Mỹ (33%), Hà Lan (14,4%), Trung Quốc (13,7%), Australia (8%), Anh
(6,2%). Tuy là nước đứng đầu xuất khẩu thế giới về nhân điều nhưng khả năng
cạnh tranh mặt hàng này của Việt Nam lại thấp hơn so với Ấn Độ do năng suất
chế biến thấp, chi phí sản xuất cao. Một số công đoạn như bóc tách, phơi sấy
làm thủ công. Năm 2007 một số công ty đã đầu tư thiết bị nhưng vẫn chỉ trong
giai đoạn thử nghiệm [24].
Năm 2008, cả nước xuất khẩu được 167 nghìn tấn hạt điều các loại với trị
giá 920 triệu USD, tăng 9,1% về lượng và tăng 40,6% về giá trị so với năm
2007. Với lượng điều xuất khẩu trong năm 2008, nước ta đã vượt kế hoạch đề
ra là 160 nghìn tấn và tiếp tục là một trong những nước xuất khẩu điều lớn
nhất thế giới [20].
Giá xuất khẩu trung bình trong năm 2008 tiếp tục đứng ở mức cao đạt
5.423 USD/tấn tăng 26,4% so với năm 2007. Ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng
toàn cầu khiến giá các mặt hàng nông sản thay đổi thất thường nhưng giá điều
trên thị trường thế giới vẫn sẽ tiếp tục ổn định do lượng dự trữ toàn cầu thấp,
trong khi diện tích đất canh tác nhiều nước tiếp tục bị thu hẹp, nhu cầu thế giới
luôn đứng ở mức cao.
Theo số liệu chính thức, trong năm 2008, hạt điều của chúng ta được xuất
khẩu sang 83 thị trường và vùng lãnh thổ, tăng 5 thị trường so với năm 2007.
Trong đó, cả nước hiện có 203 đơn vị tham gia xuất khẩu hạt điều. Hoa Kì tiếp
58
tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta. Ngoài ra, còn có các thị
trường chủ chốt khác như Trung Quốc, Hà Lan, Anh, Nga, Canada có lượng
nhập khẩu tăng mạnh hơn so với năm 2007 [20].
3. Nhóm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ
Mặc dù có tốc độ tăng trưởng khiêm tốn, nhưng nhóm hàng công nghiệp
và thủ công mỹ nghệ vẫn chiếm tỷ trọng tương đối cao trong cơ cấu các nhóm
ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam, đạt kim ngạch tuyệt đối cao nhất trên 19
tỷ USD [24]. Tốc độ tăng trưởng của nhóm này trong năm 2007 xấp xỉ bằng tốc
độ tăng bình quân của giai đoạn 2001-2006. Đây là nhóm hàng có nhiều mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất như dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ,
sản phẩm cơ khí, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm nhựa, thủ công mỹ
nghệ. Riêng mặt 7 hàng này chiếm đến 94% tổng kim ngạch của cả nhóm.
Dệt may, giầy dép
Hai mặt hàng này chiếm tới trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nhóm và tiếp tục là 2 mặt hàng xuất khẩu chính của nhóm. Trong những năm
qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành công trong việc giải
quyết việc làm cho người lao động cũng như đóng góp vào kim ngạch xuất
khẩu chung của cả nước, từng bước đưa nước ta trở thành một trong mười
nước có ngành dệt may phát triển nhất thế giới.
Hàng dệt may sau khi gia nhập WTO có cơ hội cạnh tranh công bằng hơn
với sản phẩm của Trung Quốc đã nhanh chóng gia tăng kim ngạch xuất khẩu
tăng 34% so với 2006, đạt kim ngạch 7,784 tỷ USD bằng 1/3 tổng kim ngạch
xuất khẩu mặt hàng này giai đoạn 2001 - 2006. Việt Nam vươn lên trở thành
một trong mười nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Thị trường Mỹ tiếp
tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ta (55%). Tuy nhiên từ đầu năm 2007
hàng dệt may của ta gặp khó khăn trên thị trường này do Bộ Thương mại Mỹ
đơn phương áp dụng “cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam”
đến hết 2008. Thị trường lớn thứ hai là Nhật Bản cũng gây rất nhiều khó khăn
cho chúng ta. Họ yêu cầu Việt Nam đảm bảo về xuất xứ “hai công đoạn” (sản
phẩm được sản xuất ra từ nguồn nguyên liệu của Việt Nam, Nhật hoặc các
nước khu vực Đông Nam Á) thì mới cho chúng ta hưởng thuế nhập khẩu 0%
59
như với 6 nước ASEAN khác [2,22,24].
Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu của ngành này đạt 9,108 tỷ USD, tăng
17,5% so với năm 2007, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và giải
quyết công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động [2].
Hiện nay, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm
57% thị phần xuất khẩu, thứ hai là thị trường EU chiếm 18%, và thị trường
Nhật Bản chiếm 9%. Xuất khẩu sang Nhật Bản và Đài Loan đang hồi phục
dần. Hoạt động mở rộng thị trường sang khu vực Châu Phi và các nước Châu
Á khác cũng khá tốt. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường
này đều có mức tăng trưởng cao [21].
Cho tới nay, khó khăn lớn nhất của ngành dệt may nước ta vẫn chưa chủ
động được nguồn nguyên liệu đầu vào. Nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất và
xuất khẩu phảI nhập khẩu chiếm tới 90%. Điều này thể hiện rất rõ trong đồ thị
tăng trưởng kim ngạch hàng dệt may của nước ta [21].
Đối với mặt hàng giầy dép, hoạt động xuất khẩu nước ta không có biến
động lớn: kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 11,5% trong năm 2007, năm 2007 kim
ngạch xuất khẩu giầy dép chỉ đạt dưới 4 tỷ USD [13,22,24]. Năm 2008, dù gặp
khó khăn trong xuất khẩu do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng
xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vào một số thị trường như Australia, Hà Lan,
Tây Ban Nha, Brazil, Argentina, Bồ Đào Nha, Trung Quốc… ở những tháng
cuối năm vẫn đạt tăng trưởng khá so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu 2
tháng cuối năm đạt khoảng 660 triệu USD. Như vậy, tổng kim ngạch xuất
khẩu giầy dép của Việt Nam trong năm qua đạt khoảng gần 4,4 tỷ USD, gần
chạm ngưỡng kế hoạch 4,5 tỷ USD đề ra cho năm 2008. Thị trường chính của
sản phẩm này là Mỹ, EU, Nhật. Hiện nay, EU là thị trường nhập khẩu giầy dép
của Việt Nam lớn thứ 2 trên thế giới (sau Hoa Kì) và được coi là thị trường
trọng điểm của Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu giầy dép của thị trường EU
trong những năm gần đây khoảng 29 tỷ USD/năm. Theo số liệu thống kê, xuất
khẩu giầy dép của Việt Nam vào thị trường EU đã tăng khá nhanh trong thời
gian qua và đạt 2,1 tỷ USD trong năm 2007, tăng 8% so với 2006 và chiếm
7,2% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này. Tuy đạt được tốc độ tăng trưởng
khá nhưng nhìn chung xuất khẩu giầy dép của Việt Nam vẫn đang phải đối
mặt với nhiều hạn chế như nguyên liệu đầu vào của ngành da giày phải nhập
60
khẩu từ bên ngoài, khâu tiêu thụ phải phụ thuộc lớn vào đối tác trong liên
doanh, khâu nghiên cứu thị trường thiết kế mẫu mã và phát triển sản phẩm mới
còn yếu [21].
Sản phẩm nhựa
Xuất khẩu sản phẩm nhựa của Việt Nam năm 2007 đạt 725 triệu USD, tăng
21,7% so với năm 2006. Đây là một trong những mặt hàng có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất trong những năm qua (trên 30%). Sản phẩm nhựa của ta có
chất lượng tương đối tốt, khả năng thâm nhập thị trường lại dễ dàng. Năm
2008, toàn ngành nhựa xuất khẩu đạt 930 triệu USD, tuy cao so với các ngành
khác nhưng lại không đạt chỉ tiêu đề ra đầu năm. Tuy nhiên, do ngành nhựa
phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nên giá bán của các doanh nghiệp Việt
Nam luôn cao hơn Trung Quốc, Ấn Độ từ 10-15%. Năm 2008, các doanh
nghiệp nhựa đã phải nhập khẩu nhựa tới hơn 1,7 triệu tấn nguyên liệu. Điều
này cho thấy tuy mặt hàng nhựa trong nước có mức tăng trưởng tốt nhưng còn
thiếu tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế [24].
Chúng ta xuất khẩu khoảng 104 sản phẩm nhựa các loại trong đó có 15 mặt
hàng có kim ngạch 1 triệu USD (bao bì nhựa, bao tay nhựa, sản phẩm nhựa
các loại, chậu nhựa, tấm nhựa...). Sản phẩm nhựa Việt Nam hiện nay xuất
khẩu tới khoảng 40 quốc gia, trong đó bao gồm Mỹ, EU, Nhật Bản – những thị
trường trọng yếu trên thế giới đối với mặt hàng này- nhưng thị phần còn rất
khiêm tốn (chưa đến 3% ở Nhật, khoảng 5% ở EU và dưới 1% tại Hoa Kì). Về
cơ cấu doanh nghiệp Việt Nam có khoảng 1400 doanh nghiệp tham gia sản
xuất và xuất khẩu, phần lớn trong số đó là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tăng
trưởng xuất khẩu chủ yếu đến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan), họ chuyển sản xuất sang Việt Nam nhằm
tránh thuế chống bán phá giá đối với các quốc gia trên đang được áp dụng tại
Hoa Kì và Châu Âu cũng như chênh lệch thuế nhập khẩu đối với hàng hoá từ
Trung Quốc. Hiệu quả xuất khẩu ngành nhựa mặc dù vậy cũng không cao.
Hàng năm chúng ta có nhu cầu 1,4-1,5 triệu tấn nguyên liệu nhựa nhưng sản
[24].
xuất trong nước chủ đáp ứng được khoảng 20%, 80% còn lại phải nhập khẩu
61
Sản phẩm gỗ
Năm 2007, lần đầu tiên sản phẩm gỗ xuất khẩu đạt trên 2 tỷ USD với tốc
độ tăng trưởng khoảng 23%, và tăng 10 lần so với năm 2000. Đây là mặt hàng
duy trì tốc độ tăng trưởng tốt vào hàng đầu trong cơ cấu hàng xuất khẩu của
nước ta (luôn đạt trên 20% kể từ năm 2002 đến nay). Việt Nam vươn lên trở
thành một trong năm nhà xuất khẩu gỗ lớn nhất khu vực ASEAN. Sản phẩm
gỗ năm 2007 được xuất tới 94 quốc gia và vùng lãnh thổ và hiện đã có mặt
trên 120 nước trong đó các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Mỹ đứng đầu với
kim ngạch xuất khẩu đạt 944,29 triệu USD và chiếm 39,8% tổng kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm gỗ. Thứ hai là thị trường Nhật Bản (300,6 triệu USD), thứ
3 là Anh và thứ 4 là Trung Quốc. Chủng loại sản phẩm gỗ xuất khẩu chính là
đồ mộc nội thất, đồ gỗ mỹ nghệ, ván nhân tạo, bàn ghế ngoài trời... Chúng ta
có thế mạnh chủ yếu đối với sản phẩm gỗ ngoài trời [24].
Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam
năm 2008 đạt 2,8 tỷ USD, tăng 16,3% so với năm 2007 [2]. Như vậy, trong
năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam đã không hoàn
thành kế hoạch 3 tỷ USD như đã đề ra. Tuy nhiên, với tình hình kinh tế khủng
hoảng trầm trọng như năm qua, ngành xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vẫn đạt
mức tăng trưởng trên 15% là một thành công [26].
Trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đồ nội thất dùng trong phòng ngủ
của Việt Nam đạt 768 triệu USD, tăng 20,3% so với năm 2007. Hiện nay sản
phẩm này đã được xuất khẩu sang 60 thị trường với kim ngạch xuất khẩu
chiếm 27,5% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của cả nước. Các sản
phẩm chính xuất khẩu trong năm 2008 là: giường và các bộ phận của giường,
tủ, bàn trang điểm, tủ đầu giường, bàn ghế, tủ đựng quần áo...
Về thị trường năm 2008, Hoa Kì vẫn duy trì là thị trường xuất khẩu gỗ
chủ lực của Việt Nam, tuy vậy, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường
này đã có dấu hiệu chậm lại và càng thể hiện rõ nét hơn vào những tháng cuối
năm. Trong tháng 12, xuất khẩu gỗ sang Hoa Kì đạt 88,7 triệu USD, tăng 7%
so với tháng 11 và chỉ tăng 0,4% so với cùng kì năm 2007. Năm 2008, tổng
kim ngạch xuất khẩu gỗ của Việt Nam sang thị trường Hoa Kì đạt 1,049 tỷ
USD, tăng 10,7% so với năm 2007 và chiếm 37% tỷ trọng. Như vậy, xuất
khẩu gỗ sang thị trường Hoa Kì vẫn khá khả quan. Đứng thứ hai là thị trường
62
Nhật Bản, tổng kim ngạch năm 2008 đạt 371,7 triệu USD, tăng 21% so với
cùng kì năm ngoái. Xuất khẩu sang thị trường EU cũng đạt khá, đạt 730,15
triệu USD, tăng 15,23% so với năm 2007 [26].
Điện tử và linh kiện máy tính
Năm 2007, ngành hàng này đạt kim ngạch xuất khẩu 2,2 tỷ USD, tăng
28,8%. Vào WTO, hàng điện tử của ta không còn được trợ cấp xuất khẩu trong
khi thuế nhập khẩu giảm khiến cạnh tranh càng lớn. Tuy nhiên, gia nhập WTO
cũng mang lại nhiều cơ hội lớn cho ngành điện tử bằng việc các hãng điện tử
lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam với những dự án hàng triệu USD [24].
Năm 2008 sản phẩm điện tử và linh kiện máy tính là một trong 8 mặt
hàng xuất khẩu trọng điểm nằm trong top các mặt hàng đạt kim ngạch trên 2 tỷ
USD. Theo thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng máy tính, sản phẩm điện tử và
linh kiện năm 2008 đạt 2,639 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2007 [2].
Về thị trường xuất khẩu, thị trường Thái Lan đạt cao nhất với trên 404,53
triệu USD trong năm 2008, tăng 9,33% so với năm 2007. Tiếp đến là Nhật Bản
đạt kim ngạch xuất khẩu 379,15 triệu USD, tăng 40,78%, sang Trung Quốc đạt
273,9 triệu USD, tăng 129% sang Singapore đạt 163,11 triệu USD, tăng
22,9%. Kim ngạch xuất khẩu sang EU của mặt hàng này cũng đạt cao trong
năm 2008 với 456 triệu USD, tăng 10% so với năm 2007 và chiếm 17,3% tỉ
trọng kim ngạch. Hoa Kì cũng là một nhà nhập khẩu lớn sản phẩm này của
nước ta với kim ngạch xuất khẩu đạt 301 triệu USD, tăng 9,3% so với năm
2007 [24].
Thủ công mỹ nghệ
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ là mặt hàng có truyền thống lâu đời của
Việt Nam, và được xuất khẩu khá sớm so với các mặt hàng khác. Thủ công
mỹ nghệ đã đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đồng
thời có một vai trò quan trọng trong giải quyết một số vấn đề kinh tế xã hội
tại nông thôn. Là mặt hàng có mức độ tăng trưởng khá cao trong những năm
qua, bình quân khoảng 20%/ năm, với kim ngạch đạt hơn 750 triệu USD vào
năm 2007, và đạt 1 tỷ USD vào năm 2008 [2].
Thị trường xuất khẩu của thủ công mỹ nghệ nước ta chủ yếu là Mỹ,
63
Nga, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Đài Loan… Hiện sản phẩm thủ
công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt tai 163 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới và cũng là mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu rất lớn.
IV. Đánh giá chung về cơ cấu xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2001 - 2008
1. Những kết quả đạt đƣợc Việt Nam đã trải qua 8 năm đầu của Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kì
2001-2010, cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực
theo hướng tăng tỉ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp, hàng đã qua chế biến,
giảm tỉ trọng xuất khẩu hàng thô và sơ chế. Trong giai đoạn này năm 2007 là
năm đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nền
kinh tế Việt Nam- năm đầu tiên Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới. Trong suốt 11 năm đàn phán gia nhập WTO, Việt Nam đã
có nhiều nỗ lực cải cách thể chế, chính sách, hệ thống pháp luật để phù hợp
với thông lệ quốc tế. Nhờ đó, nền kinh tế Việt Nam và hoạt động xuất khẩu nói
riêng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên phải đến khi trở thành viên chính thức
của WTO chúng ta mới thực sự chứng kiến khả năng xuất khẩu to lớn của Việt
nam và những thay đổi đáng kể trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
Những kết quả đạt được của giai đoạn này như sau:
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu diễn ra cùng nhịp và
cùng chiều hƣớng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Từ năm 2001 – 2008, cơ cấu hàng xuất khẩu đã chuyển dịch tương đối
hợp lí, phù hợp với tình hình chuyển biến trong nước. Điều này góp phần thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu tăng nhanh cả về khối lượng và kim ngạch; mặt khác
đã có tác động trở lại sản xuất của Việt Nam, giúp sản xuất có hiệu quả, có
định hướng, phù hợp hơn với nguồn lực trong nước. Trong giai đoạn này cơ
cấu xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thuỷ sản tăng giảm theo từng năm. Năm
2001 tỷ trọng ngành này chiếm 24,3% giảm xuống 20,5% vào năm 2006,
nhưng đã tăng lên 24,9% năm 2007 và 25,8% năm 2008. Tỷ trọng ngành này
tăng cao trong 2 năm gần đây là do một số mặt hàng nông lâm thuỷ sản bán
được với giá cao trong thời gian qua. Nhóm hàng khoáng sản và nhiên liệu đã
64
liên tục giảm trong giai đoạn này, từ kim ngạch 21,6% năm 2001 xuống còn
19,5% năm 2007 và 18,9% năm 2008. Điều này cho thấy chính sách giảm xuất
khẩu sản phẩm thô, đặc biệt là khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên đang được
thực hiện một cách đúng đắn. Nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ
thì ngày một tăng cao, từ tỷ trọng 33,9% năm 2001 lên tới 36,1% năm 2006 và
38,5% năm 2008 [1]. Đây là một tín hiệu đáng mừng và rất phù hợp với quá
trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam.
- Các mặt hàng truyền thống tiếp tục phát triển, cơ cấu xuất khẩu
chuyển dịch theo hƣớng khai thác ngày càng hiệu quả các lợi thế so sánh
trong nƣớc.
Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam như gạo, thuỷ sản, cà
phê, thủ công mỹ nghệ, dầu thô, dệt may, giầy dép... tiếp tục phát triển cả về
lượng lẫn về chất. Chúng ngày càng khẳng định được vị trí trong xuất khẩu
của Việt Nam trên thị trường quốc tế: hạt tiêu đứng thứ nhất thế giới, cà phê,
gạo, hạt điều giữ vị trí thứ hai, cao su đứng thứ tư. Đặc biệt là các mặt hàng
như dầu thô, dệt may, giầy dép, thuỷ sản đã mở rộng được nhiều thị trường kể
cả các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản với kim ngạch xuất
khẩu không ngừng tăng.
Lợi thế của Việt nam về tài nguyên, đất đai, lao động là cơ sở giúp hàng
hoá Việt Nam chiếm lĩnh thị trường thế giới và có thể cạnh tranh với hàng hoá
từ các nước khác. Các mặt hàng có hàm lượng lao động cao như dầu thô, dệt
may, sản phẩm gỗ ... vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam. Mặt khác, lợi thế này còn giúp giải quyết khá tốt các vấn đề xã
hội như công ăn việc làm, phát triển nông thôn... ở nước ta.
- Nhiều mặt hàng xuất khẩu mới có hàm lƣợng chế biến, hàm lƣợng
công nghệ cao, tạo ra nhiều giá trị gia tăng xuất hiện
Trong những năm qua rất nhiều mặt hàng mới tham gia vào hoạt động
xuất khẩu. Mặc dù kim ngạch của chúng chưa cao nhưng tiềm năng phát triển
của các mặt hàng này được đánh giá là rất lớn. Những mặt hàng xuất khẩu mới
đều có hàm lượng chế biến khá cao và tốc độ tăng trưởng nhanh như sản phẩm
gỗ, sản phẩm cơ khí, phần mềm, hoá phẩm tiêu dùng, các sản phẩm du lịch.
Trong những năm tới khi thị trường xuất khẩu ổn định hơn, kim ngạch của
chúng nhất định sẽ gia tăng lớn hơn và kéo theo sự phát triển của các ngành
65
công nghiệp liên quan khác. Đây chính là nhân tố quan trọng đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại
hoá.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự cân đối với cơ cấu thị trƣờng xuất
khẩu.
Trong chiến lược và đề án phát triển xuất khẩu, Chính phủ đều xác định
rõ thị trường mục tiêu tương ứng với từng sản phẩm. Trên cơ sở đó, cơ cấu
hàng xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng phù hợp với từng thị trường. Nhờ
vậy chất lượng hàng hoá ngày càng được nâng cao, dần dần khẳng định được
vị trí của mình trên thị trường các nước, nhất là thị trường các nước phát triển
(EU, Nhật Bản, Hoa Kì). Bên cạnh đó lợi dụng quá trình chuyển giao công
nghệ sản xuất từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển như Việt
Nam. Chúng ta đã sản xuất được những mặt hàng có hàm lượng công nghệ
tương đối cao và xuất ngược trở lại các nước phát triển như điện tử và linh
kiện máy tính, phần mềm... Mối quan hệ hài hoà giữa cơ cấu hàng xuất khẩu
và cơ cấu thị trường xuất khẩu góp phần tăng tính bền của cơ cấu xuất khẩu, là
cơ sở đẩy mạnh cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam.
- Tận dụng đƣợc những ƣu đãi những nguyên tắc hành xử giữa các
thành viên của WTO để nâng cao cạnh tranh và chuyển dịch cơ cấu hàng
xuất khẩu.
Hai năm sau khi trở thành thành viên của WTO, hàng hoá của chúng ta
đã được cạnh tranh bình đẳng với hàng hoá của các nước khác đặc biệt là
Trung Quốc. Đồng thời hàng hoá Việt Nam có thể tiếp cận với nhiều thị
trường hơnnhất là thị trường của các nước thành viên của WTO nhờ việc loại
bỏ được hàng rào thuế quan và việc được hưởng các nguyên tắc đối xử bình
đẳng (nguyên tắc tối huệ quốc MFN, nguyên tắc đối xử quốc gia NT...). Do
vậy các mặt hàng trước đây từng bị đối xử bất công như bị đánh thuế chống
bán phá giá, bị trả lại do không đảm bảo an toàn vệ sinh nay đã có cơ hội gia
tăng kim ngạch xuất khẩu mạnh mẽ. Ví dụ như dệt may kim ngạch năm 2008
đạt 9,1 tỷ USD tăng 1,5 lần so với năm 2006 và tăng 4,6 lần so với năm 2001,
và đây cũng là con số cao nhất của ngành dệt may trong cả giai đoạn nghiên
cứu. Tương tự là mặt hàng thuỷ sản, kim ngạch năm 2008 đạt 4,56 tỷ USD
66
tăng 1,35 lần so với 2006 và cũng là mức cao nhất trong vòng 8 năm qua [1,2].
Kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng các mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp và thủ
công mỹ nghệ tăng nhanh do chúng ít phải chịu các rào cản bảo hộ. Nước ta đã
sản xuất được những sản phẩm xuất khẩu mới có hàm lượng chế biến tương
đối cao như sản phẩm gỗ, sản phẩm cơ khí, điện tử và linh kiện máy tính. Bên
cạnh đó, nhóm các mặt hàng nông lâm thuỷ sản, ngoài các mặt hàng thô sơ chế
xuất khẩu quen thuộc của Việt Nam, chúng ta đã xuất khẩu một số mặt hàng
đã qua chế biến như cà phê rang xay, thuỷ sản sấy khô và đóng hộp... và nhiều
mặt hàng khác.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu thích ứng ngày càng cao hơn
với nhu cầu trên thị trƣờng thế giới
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của ta có nhiều mặt hàng bước đầu đã được
thị trường thế giới chấp nhận và ưa chuộng: thuỷ sản, hạt tiêu, hạt điều, thủ
công mỹ nghệ... Một số mặt hàng xuất khẩu mới cũng đã có được thị trường
tiêu thụ như: sản phẩm cơ khí, hoá phẩm tiêu dùng, phần mềm... Những kết
quả khả quan trên cho thấy chúng ta đã đi đúng hướng và chắc chắn với đà
thay đổi và phát triển như hiện nay thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ mang về
một nguồn lợi đáng kể cho đất nước.
2. Những hạn chế còn tồn tại
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hoá diễn ra còn chậm chƣa có tính đột
phá
Trong giai đoạn này, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ
nghệ có tăng nhưng biên độ tăng không cao và chưa tạo được sự thay đổi đáng
kể trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chúng ta cũng ghi nhận sự gia
tăng nhanh của nhóm mặt hàng chế biến nhưng chúng vẫn còn ở dạng gia công
xuất khẩu hoặc là các mặt hàng có hàm lượng lao động cao như: dệt may, giày
dép, sản phẩm gỗ...
Dù đã có nhiều thay đổi nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn
dựa trên những lợi thế so sánh vốn có của đất nước như lợi thế về đất đai, tài
nguyên thiên nhiên... trong khi các lợi thế này đang dần dần giảm sút. Chúng
ta đã có những chính sách tích cực để thu hút vốn FDI đầu tư vào Việt Nam và
trong những năm qua Việt Nam thu hút được hàng chục tỷ USD vốn FDI mỗi
67
năm. Nhưng do nhiều nguyên nhân, chúng ta đã không tận dụng được một
cách triệt để nguồn vốn này, không thể biến những nguồn lực bên ngoài đó
thành nguồn lực bên trong tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu và chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu. Điều này cho thấy chúng ta cần phải siết chặt hơn nữa quá trình
giám sát và thực hiện các dự án FDI, để không lãng phí bất kì một nguồn lực
nào thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu còn chƣa hợp lý, chủng loại hàng hoá còn
đơn điệu, ít xuất hiện những mặt hàng mới có đóng góp đáng kể vào kim
ngạch xuất khẩu
Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam còn khá khiêm tốn về chủng loại, ít sản
phẩm đạt được mức độ chuẩn hoá cao, và phù hợp với từng thị trường nhất
định. Nguyên nhân chính đó là: xuất khẩu các mặt hàng thô sơ chế là loại hàng
khó có thể tạo ra sự thay đổi và khác biệt. Bên canh đó hàng năm chúng ta đều
có thêm vài chục mặt hàng mới xuất khẩu (2001: 23 mặt hàng, 2002: 23 mặt
hàng, 2003: 24 mặt hàng) nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng kim ngạch xuất
khẩu rất nhỏ (từ 0,04 – 0,06%), hầu như không có tác động đến cơ cấu hàng
xuất khẩu [11].
- Cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu phát triển theo bề
rộng chứ chƣa đi vào chiều sâu
Trong những năm qua, Việt Nam vẫn chỉ chú trọng vào việc gia tăng khối
lượng, trị giá và số lượng các mặt hàng xuất khẩu mà chưa thực sự quan tâm
đến hiệu quả xuất khẩu của những mặt hàng này. Trong các sản phẩm được
xuất khẩu liệu giá trị thực mà nước ta thu được về là bao nhiêu? Do đó, giá trị
thực của hàng hoá xuất khẩu, nguồn lợi thực sự mà nước ta thu được từ hoạt
động xuất khẩu mới là điều chúng ta phải lưu tâm.
Hơn nữa, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang trải rộng trên nhiều
mặt hàng, chứ chưa đi sâu vào gia tăng giá trị, tăng hàm lượng chế biến, hàm
lượng công nghệ, hàm lượng vốn, hàm lượng chất xám của các sản phẩm.
Những sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu vẫn là dệt may,
dầu thô, nông sản chưa qua chế biến hoặc chế biến chưa sâu. Do đó các sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam không đạt hiệu quả cao và không có ảnh hưởng
quan trọng đến thị trường thế giới.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu còn dựa vào nhập khẩu nhiều, dẫn tới tình
68
trạng thâm hụt cán cân thƣơng mại trong nhiều năm
Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn phải nhập khẩu nguyên liệu
đầu vào (nguyên phụ liệu của ngành dệt may, giày dép, gỗ...). Đây là một vấn
đề nan giải đối với xuất khẩu nước ta. Trong khi Việt Nam chuyên xuất khẩu
hàng thô sơ chế – nguyên liệu đầu vào của nhiều ngành chế biến khác thì hàng
năm chúng ta phải nhập khẩu hàng tỷ USD nguyên vật liệu để sản xuất hàng
xuất khẩu.
Bảng 10: Tình hình nhập siêu của Vịêt Nam giai đoạn 2001 - 2007
Đơn vị: triệu USD
Tổng xuất Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Nhập siêu nhập khẩu
2001 31189 15027 16162 1135
2002 36406 16706 19700 2994
2003 45402 20476 25226 5050
2004 58456 26503 31953 5450
2005 69442 32442 37000 4558
2006 84015 39605 44410 4805
2007 109217 48387 60830 12443
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2005; Bộ Công Thương, Báo
cáo của Bộ Công Thương năm 2006, 2007.
Suốt 7 năm qua cán cân thương mại của Việt Nam luôn trong tình trạng
nhập siêu, thậm chí nhập siêu ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của kim
ngạch xuất khẩu. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu tăng trên 29,5% so với năm
2007, và nhập siêu giảm ước đạt 17 tỷ USD với tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu là
27%, giảm so với năm 2007 (năm 2007 là 29,1%) [2]. Nếu chúng ta không kịp
thời phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong nước cung cấp nguyên vật liệu
cho sản xuất hàng xuất khẩu thì sẽ khó chấm dứt tình trạng thâm hụt cán cân
thương mại. Điều này ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán quốc tế và tình
trạng ổn định của nền tài chính quốc gia.
- Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu chƣa căn cứ nhiều vào những dự
69
báo biến động của thị trƣờng thế giới
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu chưa bám sát tín hiệu của thị trường thế giới,
dẫn đến sản phẩm làm ra không bán được hoặc tiêu thụ được nhưng không
được giá (điển hình là mặt hàng gạo). Năng lực cạnh tranh của nhiều hàng hoá
chưa đáng kể về năng suất, kiểu dáng, mẫu mã, giá thành... nên khó cạnh tranh
được với hàng hoá của nước khác. Việc đầu tư vào khâu tiêu thụ sản phẩm
chưa thoả đáng như xúc tiến thương mại, mở các trung tâm thương mại, kho
70
ngoại quan nước ngoài.
CHƢƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Dự báo chuyển dịch cơ cáu xuất khẩu Việt Nam trong thời gian tới
1. Dự báo nền kinh tế thế giới đến năm 2020
Dự báo về tình hình kinh tế thế giới giai đoạn 2011 – 2020, các tổ chức
nghiên cứu kinh tế và các chuyên gia trên thế giới đều thống nhất nhận định
rằng nền kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng lạc quan.
GDP
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), khối lượng GDP thế
giới sẽ tăng khoảng 1,4 lần, từ mức 32 nghìn tỷ USD hiện nay lên tới 42
nghìn tỷ vào năm 2010 và 53 nghìn tỷ USD vào năm 2020 (tính theo giá năm
2000). Theo dự báo của cơ quan dự báo kinh tế Anh (EIU), đến năm 2020,
qui mô nèn kinh tế toàn cầu năm 2020 so với năm 2005 sẽ tăng khoảng 66%
(với tốc độ tăng trung bình mỗi năm khoảng 3,5%/năm - chỉ tiêu này năm
2005 là 4,8%, năm 2006 là 5,4%. Còn theo Hội đồng tình báo quốc gia Mỹ
(NIC) qui mô nền kinh tế thế giới sẽ tăng 80% so với năm 2000, thu nhập
bình quân đầu người của cả thế giới sẽ tăng hơn 50% (năm 2004,GDP bình
quân đầu người toàn thế giới, theo giá thực tế là 6393 USD, còn theo sức
mua tương đương là là 8760 USD, riêng 55 nước và vùng lãnh thổ có thu
nhập cao theo cách phân loại của Liên Hợp Quốc: 30970USD, còn 60 nước
có thu nhập thấp (trong đó có Việt Nam) là 2260 USD).
Thƣơng mại thế giới
Thương mại thế giới giai đoạn 2011 – 2020 tăng nhanh, đạt tốc độ 7,5% sẽ
chiếm 45% GDP. Giá trị xuất khẩu của toàn thế giới từ mức 9000 tỷ USD
năm 2005 sẽ tăng lên 20.000 tỷ USD (gần bằng 410 lần trị giá xuất khẩu của
Việt Nam năm 2007) [22].
Đầu tƣ
Đầu tư từ năm 2011 đến năm 2020 sẽ tếp tục gia tăng luồng vốn giữa các
71
quốc gia, đặc biệt là FDI. Dự báo FDI toàn cầu hàng năm trong thời kì 2007
– 2011 sẽ đạt 1,5 nghìn tỷ USD (mức trung bình thời kì 2002 – 2006 là 843
tỷ USD). Ngoài ra, đầu tư gián tiếp cũng sẽ tăng, chủ yếu vào thị trường
chứng khoán của nước ngoài. Nguồn vốn ODA cũng sẽ tăng. Các nước thành
viên EU đã đồng ý tăng ODA từ 0,39% thu nhập quốc gia mỗi nước lên
0,56% năm 2010 và 0,7% thu nhập quốc gia của 15 nước thành viên ban đầu
như đã cam kết nhằm đạt mục tiêu hỗ trợ của Liên Hợp Quốc (tuy tỉ lệ phần
trăm ODA so với thu nhập quốc gia của các nước thành viên là không lớn,
nhưng đến năm 2015, thu nhập quốc gia của các nước EU đã lớn hơn rất
nhiều, nên giá trị tuyệt đối của ODA năm 2015 lớn hơn nhiều so với ODA
của năm 2005). Quá trình chuyển giao công nghệ của các quốc gia gia tăng,
các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia (TNC) sẽ tăng thêm không chỉ về số
lượng mà cả qui mô [22].
Dịch chuyển trung tâm kinh tế
Thế giới phát triển theo chiều hướng đa cực, song Hoa Kì vẫn tiếp tục giữ vị
trí dẫn đầu. Đến năm 2004, Hoa Kì đứng thứ nhất về tổng GDP (11668 tỷ
USD, chiếm 28,5% GDP toàn thế giới), về GDP bình quân đầu người theo
sức mua tương đương 39710 USD, xuất khẩu đạt 819 tỷ USD chiếm 9,05%
trị giá xuất khẩu toàn thế giới. Nhưng với sự phát triển kinh tế của nhiều
quốc gia trên thế giới khoảng cách giữa Hoa Kì với các nước đứng thứ hai,
thứ ba, thứ tư sẽ thu hẹp lại. Chẳng hạn nếu so sánh GDP, thì GDP của Trung
Quốc sẽ đứng thứ hai, tiếp theo là Ấn Độ (GDP của Ấn Độ năm 2020 sẽ bằng
40% GDP của Hoa Kì, còn hiện nay mới chỉ bằng 27%) [22]. Các nước đang
phát triển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Các
hoạt động kinh tế thế giới dần chuyển sang khu vực Châu Á, đặc biệt là Đông
Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), biến khu vực này thnàh một trung
tâm kinh tế thế giới bên cạnh những nền kinh tế đã phát triển như Bắc Mỹ
(chủ yếu là Mỹ), EU,...
Toàn cầu hoá
Quá trình toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ và thiệt thực hơn. Quá trình
này không chỉ góp phần làm cho tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát
triển nhanh hơn, luồng vốn đầu tư, hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia, giữa
các khu vực nhiều hơn, đa dạng hơn… mà còn là quá trình di chuyển lao
72
động giữa các quốc gia, các khu vực diễn ra nhiều hơn. Đặc biệt là từ các
nước đang phát triển (trong đó các quốc gia khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương- khu vực có nguồn lực dồi dào nhất trên thế giới) sang các nước
OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) do lao động di chuyển dễ
dàng hơn, dân số thế giới tăng chậm lại, nhưng vẫn tăng khoảng 1 tỷ người
(chủ yếu ở các nước đang phát triển). Các liên kết kinh tế song phương, khu
vực và đa phương tiếp tục mở rộng và trở thành một trong những nhân tố chủ
yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế và khu vực, như: EU, ASEAN, ASEAN+3,
hay Liên minh các nước Nam Mỹ (UNAUR) mới thành lập cách đây không
lâu...
Khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ ngày càng khẳng định vai trò là một trong những lực
lượng sản xuất. Xây dựng và phát triển kinh tế tri thức tiếp tục trở thành ưu
tiên trong chính sách phát triển của nhiều nước, đặc biệt là các nước phát
triển. Với các nước phát triển, khoa học công nghệ trở thành nhân tố chính
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động. Các nước này
cũng từng bước nâng cao vai trò của khoa học và công nghệ hơn trong tăng
trưởng kinh tế và tăng năng suất lao động. Hoạt động R&D trên thế giới phát
triển mạnh mẽ.
Đồng tiền quốc gia
Đồng USD dần dần mất vị thế độc tôn. Các đồng tiền Euro, Yên Nhật…
sẽ có vị thế lớn hơn trong quan hệ thanh toán quốc tế và đầu tư. Nhiều nước
trong khu vực cũng đang muốn noi gương cá nước Châu Âu để dùng một
đồng tiền chung thống nhất như EURO, nhưng có lẽ đến năm 2020 chưa
thành hiện thực. Những vấn đề năng lượng, lương thực, môi trường tiếp tục
là vấn đề cần cả thế giới góp công, góp của để giảm bớt những khó khăn luôn
tiềm ẩn hạn chế tăng trưởng, ảnh hưởng đến đời sống của con người.
Nhìn chung, giai đoạn 2011 - 2020, dự báo kinh tế thế giới có những đặc
điểm nổi bật sau: Thứ nhất, toàn cầu hoá thế giới ngày càng mạnh mẽ. Thứ
hai, các liên kết kinh tế song phương và đa phương tiếp tục được mở rộng,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Thứ ba, khoa học –
công nghệ ngày càng khẳng định vai trò là một trong những lực lượng sản
xuất trực tiếp quan trọng nhất của nền kinh tế thế giới. Thứ tư, kinh tế thế
73
giới vẫn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn như sự phát triển quá nóng của các
nền kinh tế đang phát triển, cầu năng lượng tăng tác động tiêu cực đến dự trữ
tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống. Thứ năm, hoạt động kinh tế thế
giới dần chuyển sang khu vực Châu Á đặc biệt là Đông Nam Á, biến khu vực
này thành một trung tâm kinh tế thế giới mới bên cạnh nhưng nền kinh tế đã
phát triển mạnh như Mỹ, EU và Nhật Bản. Thứ sáu, các nước đang phát triển
ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thế
giới [22].
2. Tác động của kinh tế thế giới tới chiến lƣợc phát triển kinh tế của Việt Nam
- Đối với tăng trƣởng kinh tế
Theo dự báo của EIU, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn
2006 – 2010 đạt 7%, so với mức trung bình của thế giới là 4%. Tuy nhiên,
trong giai đoạn tiếp theo (2011-2020), nếu không có những chính sách kinh
tế mang tính đột phá mạnh thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được
dự báo là sẽ sụt giảm đáng kể. Do vậy, mức tăng trưởng kinh tế trung bình
của Việt Nam từ năm 2006 – 2020 sẽ đạt 5,4%, mặc dù cao hơn mức trung
bình của khu vực Châu Á, nhưng vẫn đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ và
Pakixtan [22]. Trong giai đoạn 2011 – 2020, tình hình kinh tế thế giới diễn
biến thuận chiều cùng với những bước chuyển mình quan trọng của nội tại
nền kinh tế các cơ chế chính sách của Nhà nước tập trung phát triển kinh tế,
Việt Nam sẽ có những bước phát triển đáng kể, đạt được một vị thế thoả
đáng trong khu vực.
- Đối với thƣơng mại
Trong giai đoạn 2011 – 2020, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế từng
quốc gia nói riêng phát triển là cơ hội tốt cho xuất khẩu của Việt Nam do cầu
đối với hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam sẽ tăng lên. Bên cạnh đó, thị trường
tiềm năng của hàng xuất khẩu Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, xuất khẩu Việt
Nam sẽ gặp phải sức ép cạnh tranh không nhỏ từ các nước ASEAN và các
nước láng giềng trong khu vực Châu Á. Trong điều kiện hàng hoá Việt Nam
chưa đủ năng lực cạnh tranh, việc mất thị trường “sân nhà” hoàn toàn có thể
xảy ra. Đặc biệt, với xu hướng hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao ngày
càng chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu hàng hoá các nước, Việt
Nam với trình độ khoa học - công nghệ đi sau các nước sẽ gặp rất nhiều khó 74
khăn. Trong khuôn khổ WTO, với việc còn bị coi là nền kinh tế phi thị
trường trong vòng 12 năm sau khi gia nhập (2001 - 2019), Việt Nam chắc
chắn sẽ gặp bất lợi hơn so với các nước khác trong các tranh chấp thương
mại được giải quyết theo quy định của WTO.
- Đối với các ngành kinh tế
Nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 sẽ chịu tác động của kết quả
vòng đàm phán Doha. Thời điểm kết thúc của vòng đàm phán này vẫn chưa
xác định được, tuy nhiên, chắc chắn là kết quả của nó sẽ tác động chủ yếu
theo hướng bất lợi cho nông nghiệp Việt Nam.
Trong lĩnh vực công nghiệp, theo xu hướng phát triển của khoa học -
công nghệ trên thế giới, tỉ lệ các ngành công nghiệp chế tác trong nền kinh tế
Việt Nam sẽ tăng lên. Bên cạnh đó, xu hướng dịch vụ ngoại biên chuyển
công nghệ ra nước ngoài cũng tác động tích cực đến công nghiệp Việt Nam,
biến Việt Nam thành cơ sở sản xuất lắp ráp cho các nước phát triển, giống
như Trung Quốc và Ấn Độ hiện nay.
Trong lĩnh vực dịch vụ sẽ có thêm nhiều loại hình dịch vụ mới trong các
lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tham
gia rất nhiều vào lĩnh vực này, do đó, ngành dịch vụ Việt nam sẽ phát triển
rất mạnh, đa dạng về sản phẩm, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế
Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
- Dự báo chuyển dịch cơ cấu Việt Nam thời gian tới
Theo như dự báo trên, nền kinh tế thế giới trong những năm tới sẽ có
những chuyển biến tích cực. Điều này góp phần ảnh hưởng không nhỏ tới sự
phát triển của nền kinh tế Việt nam. Đồng nghĩa với việc xuất khẩu và
chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu nước nhà sẽ có những bước tiến mới trong quá
trình phát triển. Do đó, cơ cấu hàng xuất khẩu giai đoạn 2011 - 2020 cần
được đổi mới theo các hướng chủ yếu sau đây:
- Trước mắt huy động mọi nguồn lực để có thể đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công
ăn việc làm, thu ngoại tệ.
- Đồng thời gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị
gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và
75
tri thức cao, tiếp tục giảm dần tỷ trọng hàng thô.
- Mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu từng thị trường.
- Chú trọng việc gia tăng các hoạt động dịch vụ.
Do đó, chúng ta có các định hướng phát triển cho từng nhóm hàng xuất khẩu
như sau:
3.1. Đối với nhóm nguyên liệu và khoáng sản Theo dự báo, kim ngạch nhóm hàng khoáng sản năm nay sẽ giảm 5,97 tỷ
USD, tương đương giảm 50,2% so với năm 2008 và chỉ còn giữ tỷ trọng
8,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân do giá xuất khẩu than
đá, dầu thô không còn cao như năm 2008 và chúng ta cũng phải giữ lại một
lượng lớn dầu thô để phục vụ sản xuất trong nước [2].
Theo Đề án xuất khẩu 2006 – 2010 của Bộ Thương mại, nhóm hàng nhiên
liệu, khoáng sản với 2 mặt hàng chủ yếu là dầu thô và than đá giảm mạnh từ
21% năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô bắt
đầu giảm mạnh từ năm 2009 trở đi do sản lượng khai thác được sẽ dành một
phần để phục vụ sản xuất của nhà máy lọc dầu trong nước. Theo kế hoạch dự
kiến, lượng dầu thô xuất khẩu năm 2009 là 16 triệu tấn, năm 2010 còn 15,6
triệu tấn. Mức giá dự tính sẽ vẫn dao động ở mức cao, trung bình khoảng 54
USD/ thùng (tương đương với khoảng 400 USD/tấn). Với mức giá dự tính
này năm 2009 dự kiến chỉ đạt gần 6,3 tỷ USD và nămm 2001 chỉ còn 6,1 tỷ
USD [6].
- Dầu thô
Có thể nói, năm 2008 là năm cuối cùng chúng ta xuất khẩu toàn bộ dầu thô
khai thác được. Từ năm 2009, một phần đáng kể dầu thô khai thác ở mỏ Bạch
Hổ sẽ dành cho nhà máy lọc dầu Dung Quất, vận hành vào năm 2009. Trong
giai đoạn đầu, nhà máy Dung Quất sẽ sử dụng toàn bộ dầu thô Bạch Hổ, sau
đó sẽ sử dụng 85% dầu Bạch Hổ và 15% dầu nhập khẩu từ Trung Đông. Nếu
vận hành thành công, trong năm 2009, nhà máy Dung Quất sẽ sử dụng
khoảng 4 triệu tấn dầu (khoảng 60% công suất thiết kế) và 6,5 triệu tấn trong
76
năm 2010 [21].
Theo kế hoạch của Bộ Công thương, lượng dầu thô xuất khẩu năm 2008 là
14,5 triệu tấn và bắt đầu giảm từ năm 2009 xuống còn 12 triệu tấn. Tương
đương với việc giảm kim ngạch từ 11,3 tỉ USD năm 2008 xuống còn 7,2 tỉ
USD năm 2009 và 6,6 tỉ USD năm 2010. Mức giá dự tính sẽ dao động ở mức
trung bình khoảng 70 - 80 USD/ thùng, thấp hơn 22 USD/ thùng so với giá
bình quân xuất khẩu năm 2008.
- Than đá
Mặt hàng than đá kim ngạch cũng sẽ giảm dần do chủ trương hạn chế xuất
khẩu tài nguyên của Nhà nước. Theo kế hoạch dự kiến, xuất khẩu than đá sẽ
giảm xuống còn 9 triệu tấn năm 2009 và năm 2010 còn 8 triệu tấn. Dự kiến
kim ngạch năm 2009 là 366 triệu USD, năm 2010 chỉ còn 325 triệu USD.
Nhóm hàng duy nhất tăng trong các loại khoáng sản và nhiên liệu là
quặng và một số loại khoáng sản chế biến chủ yếu bao gồm các loại quặng
sắt, đồng, bôxit nhôm. Dự đoán trong giai đoạn 2006 – 2010 qui mô xuất
khẩu các mặt hàng này tăng bình quân 28,1%/ năm và đạt khoảng 55 triệu
USD vào năm 2010.
3.2. Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản
Tại hội nghị tổng kết công tác ngành Công thương vừa được tổ chức tại
Hà Nội, hoạt động xuất khẩu năm 2009 được đánh giá là sẽ gặp nhiều khó
khăn do những biến động thị trường và sản xuất trong nước. Trong đó, ảnh
hưởng lớn nhất tới xuất khẩu trong năm nay là nhóm hàng khoảng sản và
nông lâm thuỷ sản. Theo đó, năm 2009 được dự báo là kim ngạch nông lâm
thuỷ sản sẽ giảm 628 triệu USD, tương đương giảm 4,8% so với năm 2008.
Trong đó mặt hàng gạo sẽ giảm 32,8% về trị giá, cà phê giảm 4,5%, cao su,
hạt tiêu, nhân điều không tăng đột biến. Chỉ riêng thuỷ sản vẫn giữ tỷ trọng
cao nhất trong nhóm này với mức tăng 11,8% [2].
Cũng theo dự tính của Bộ Công Thương, nhóm hàng nông lâm thuỷ sản
sẽ giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu hàng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam từ
24,9% năm 2007 xuống còn 13,7% năm 2010.
- Gạo
Dự kiến xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ dao động ở mức khoảng 3,5 - 4,5
triệu tấn/ năm trong giai đoạn 2008 – 2010 với kim ngạch xuất khẩu khoảng 77
2,3 - 3 tỉ USD/ năm [26]. Xuất khẩu gạo giai đoạn này gặp nhiều thuận lợi về
giá và không gặp khó khăn về thị trường do diện tích canh tác trên toàn thế
giới có xu hướng ngày càng bị thu hẹp, tình hình bão lụt, hạn hán xảy ra ở
nhiều nơi trên thế giới, nguồn cung không đáp ứng đủ cầu. Tuy nhiên, việc
mở rộng diện tích canh tác lúa gạo trong thời gian tới là khó do xu hướng đô
thị hóa, công nghiệp hoá ở các địa phương trong cả nước, đây cũng là xu
hướng chung trên thế giới.
Để đạt được mục tiêu đề ra ở trên đối với xuất khẩu mặt hàng này cần chú
trọng khai thác khâu chuyển đổi cơ cấu giống với việc thâm canh các giống
lúa cho năng suất và chất lượng cao. Chú trọng các giống lúa đặc sản được
thị trường nhập khẩu ưa thích. Thị trường xuất khẩu gạo trong giai đoạn 2008
– 2010 vẫn chủ yếu hướng tới các nước Châu Á, Châu Phi. Ngoài ra, để đa
dạng hoá thị trường có thể hướng tới khai thác thị trường Nhật Bản, Trung
Quốc, Australia và New Zealand.
Dự tính sản lượng gạo chế biến sẽ đạt 32 triệu tấn, chiếm 90% tổng sản
lượng gạo năm 2010 và 39 triệu tấn năm 2020, trong đó có 4 triệu tấn dành
cho xuất khẩu mỗi năm [26]. Để gia tăng sản xuất trong nước và nâng cao chất
lượng gạo xuất khẩu, cần phải trang bị hệ thống máy sấy tiên tiến và máy xay
xát liên hợp cỡ lớn có bộ phận phân loại hạt.
- Cà phê
Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà phê trong năm
2009 ước đạt 980 nghìn tấn với giá trung bình khoảng 1.800 USD/tấn. Tương
đương với kim ngạch 1,764 tỉ USD, giảm 8,6% về lượng và giảm 17,4% về
trị giá so với năm 2008. Năm 2008, ngành cà phê Việt Nam xuất khẩu đạt
954 nghìn tấn với kim ngạch 1,95 tỷ USD, giảm 22,4% về lượng nhưng vẫn
tăng 2,1% về trị giá so với năm 2007 [24].
Phấn đấu kim ngạch của mặt hàng này đến năm 2010 đạt trên 2,2 tỉ USD
và tăng trưởng bình quân 4.9%/ năm, mỗi năm xuất khẩu được 900 nghìn đến
1,1 triệu tấn, với mức giá khoảng 2.000 USD/tấn. Tuy nhiên, hiện nay, việc
mở rông diện tích để tăng lượng hàng xuất khẩu là khó, vì vậy khả năng gia
tăng giá trị trên một đơn vị sản phẩm xuất khẩu là điều phải tính đến do
78
chúng ta còn chủ yếu xuất khẩu cà phê dạng hạt sơ chế [24].
- Thuỷ sản
Dự kiến đến năm 2010 thuỷ sản đạt kim ngạch 4 - 5 tỷ USD và mỗi năm
tăng hơn 200 triệu USD [6]. Danh mục sản phẩm xuất khẩu và hàm lượng chế
biến của thuỷ hải sản không ngừng tăng trong thời gian qua. Từ chỗ chủ yếu
xuất khẩu sản phẩm đông lạnh, đễ nay đã sản xuất được nhiều mặt hàng ăn
sẵn. Tuy nhiên so với sản phẩm xuất khẩu của các nước xuất khẩu thuỷ sản
trên thế giới hay so các sản phẩm có nguồn gốc từ thuỷ sản bày bán trong các
siêu thị ở thị trường nước ngoài có thể thấy tiềm năng đẩy mạnh xuất khẩu
thuỷ hải sản chế biến sâu còn rất lớn.
Tuy tổng sản lượng thuỷ sản năm 2008 ước đạt 4,58 triệu tấn, tăng 9,2%
so với năm 2007, mức cao nhất từ trước tới nay. Nhưng theo dự báo của Hiệp
hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Vasep), kim ngạch tăng
trưởng năm 2009 sẽ giảm khoảng 15 – 20% so với năm 2008 [6].
Nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút này được Vasep cho là do
khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới nên những khó khăn về
tín dụng, tỷ giá hối đoái, nhu cầu tiêu dùng sẽ tác động mạnh đến thương mại
thuỷ sản năm 2009. Đặc biệt, các thị trường truyền thống của thuỷ sản Việt
Nam là Eu, Mỹ, Nhật Bản có khả năng giảm nhiều nhất, khoảng 15-20%.
Nhiều nhà nhập khẩu bị ngân hàng siết tín dụng nên không có khả năng thanh
toán để nhập những đơn hàng mới.
Trong đó, 2 mặt hàng chủ lực của ngành thuỷ sản Việt Nam là tôm và
cá basa sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất. Mới đây, việc Nga áp lệnh cấm nhập khẩu
cá tra, cá basa của Việt Nam từ ngày 20/12/2008, vì một số tiêu chuẩn kĩ
thuật như sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam bị nhiễm vi sinh, lẫn tạp
chất và lớp mạ băng dày hơn yêu cầu. Việc này khiến cho xuất khẩu cá tra sẽ
càng khó khăn hơn. Ngoài ra, mặt hàng tôm hiện chiếm khoảng 40% kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nhưng lại đang phải cạnh tranh quyết
liệt với sụ giảm giá của tôm vanamei trên thị trường nên xuất khẩu tôm cũng
sẽ giảm ít nhất 20%.
- Cao su
Xét theo triển vọng cung cầu cao su tự nhiên thế giới, tăng trưởng kim
79
ngạch xuất khẩu cao su Việt Nam giai đoạn 2000 – 2007, dự báo giai đoạn
2007 - 2010 phát triển cao su của Việt Nam có thể đạt tốc độ cao, khoảng
26%/năm. Đồng thời kim ngạch đạt 2.786 triệu USD vào năm 2010. Tuy
nhiên, trong giai đoạn 2010 – 2015, do hạn chế về diện tích trồng cao su và
giới hạn về khả năng tăng sản lượng nên dự báo tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ chậm lại và đạt 12,5%/năm. Kim ngạch
xuất khẩu cao su của Việt Nam cũng được nâng lên 5.020 triệu USD vào năm
2015 [20].
Trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tình hình suy thoái kinh tế
toàn cầu, cấu trúc thị trường sẽ có thay đổi. Do đó, để phát triển xuất khẩu,
ngành cao su Việt Nam cần phải tái cấu trúc lại các sản phẩm và thị trường.
Đây là giải pháp căn bản để đối phó với thị trường của một ngành cao su đã
hội nhập quốc tế nhiều năm qua. Tạo ra cơ cấu mới phù hợp với thị trường
nội địa và xuất khẩu, phải lấy hiệu quả kinh tế làm trung tâm với đòn bẩy
quyết định là công nghệ tiên tiến.
Trong xuất khẩu, cao su Việt Nam cần phải tăng giá trị gia tăng, với cơ
cấu mặt hàng mới nhằm giảm lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Cần
hướng tới các thị trường có giá trị gia tăng cao như Mỹ, Nhật Bản và các
nước Châu Âu, hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô.
- Nhân điều
Việt Nam hiện là một trong những nước có sản lượng điều lớn nhất thế
giới. Những năm gần đây xuất khẩu điều nhân tăng khá cao, dự kiến kim
ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010 [6]. Phẩm cấp và chất
lượng của hạt điều Việt Nam ngày càng được nâng cao và được thế giới ưa
chuộng. Hướng phát triển trong thời gian tới là tập trung qui hoạch và cải tạo
lại các vườn điều, tăng đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích.
Thị trường xuất khẩu tiếp tục khai thác trong giai đoạn tới là Hoa Kì, Hà
Lan, Australia, Anh và Canada.
3.3. Nhóm hàng công nhiệp và thủ công mỹ nghệ
Tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng này có xu hướng tăng mạnh do có
điều kiện để mở rộng qui mô sản xuất, phát triển thị trường mới, mặt hàng
80
mới, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng nhờ đổi mới công nghệ. Theo dự
kiến nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có tốc độ tăng trưởng
lớn nhất đạt 36,3%/năm [6].
- Dệt may
Theo Đề án “Đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu hàng hoá giai
đoạn 2009 – 2010” của Bộ Công Thương đã xác định dệt may là một trong
những ngành xuất khẩu chủ lực. Mặc dù ngành công nghiệp này đang hứng
chịu những tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu.
Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của ngành này đạt 9,108 tỷ USD, tăng
17,5% so với năm 2007, đóng góp quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế và
giải quyết công ăn việc làm của một lực lượng lớn lao động [2]. Song năm
2009 – 2010, dự báo tỷ lệ tăng trưởng có xu hướng thực sự khó khăn.
Theo Hiệp hội Dệt may, xuất khẩu ngành công nghiệp dệt may đạt khoảng
9,5 tỷ USD năm 2009, tăng 5% so với năm 2008 [2]. Song tại Đề án “Đẩy
mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu hàng hoá giai đoạn 2009 – 2010”, Bộ
Công Thương đã đề ra mục tiêu phấn đấu kim ngạch xuất khẩu dệt may năm
2009 là 10,5 tỷ USD. Và đến năm 2010 sẽ đạt kim ngạch 11,9 tỷ USD với tốc
độ tăng trưởng bình quân khoảng 15%/ năm. Theo đó, một loạt các mục tiêu
và giải pháp cụ thể đối với một số thị trường trọng điểm được đề ra, trước
mắt là thị trường Hoa Kì, EU và Nhật Bản.
Đối với thị trường Hoa Kì, mục tiêu là đạt kim ngạch khoảng 6 tỷ USD
vào năm 2010, nâng tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu của nước này lên trên 6%
(xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 vào Hoa Kì chỉ chiếm 5% kim ngạch
nhập khẩu của nước này). Đối với thị trường EU, phấn đấu kim ngạch xuất
khẩu đạt trên 2,2 tỷ USD năm 2010, nâng tỷ lệ xuất khẩu lên 1,4% kim ngạch
nhập khẩu của khu vực này (xuất khẩu dệt may năm 2008 của Việt Nam vào
EU chỉ chiếm 1% kim ngạch nhập khẩu). Năm 2008, EU bãi bỏ kim ngạch
dệt may cho Trung Quốc. Do vậy, Bộ Công Thương cần nghiên cứu tác động
của thị trường EU khi Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch để giúp các doanh
nghiệp định hướng mặt hàng và nước xuất khẩu để có thể nâng cao cạnh
tranh. Đối với thị trường Nhật Bản, từ năm 2009, hàng dệt may của ta xuất
khẩu sang Nhật được hưởng mức thuế 0% theo Hiệp định đối tác kinh tế toàn
81
diện Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) được kí kết tháng 4 năm 2008. Các
doanh nghiệp Việt Nam có thể phải sử dụng nguồn nguyên phụ liệu nội địa
hoặc được nhập khẩu từ Nhật Bản hoặc các nước ASEAN để được hưởng
mức thuế này. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này có thể phấn
đấu đạt khoảng 1,1 tỷ USD vào năm 2010, nâng tỷ lệ xuất khẩu lên 3% kim
ngạch nhập khẩu của nước này (xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật Bản năm
2008 chỉ chiếm 2,8% kim ngạch nhập khẩu nước này). Ngoài các thị trường
trọng điểm xuất khẩu dệt may nêu trên, Bộ Công Thương cũng nhấn mạnh
đến các thị trường khác như: Canada, Hàn Quốc, Australia và các thị trường
nhỏ lẻ nhưng đóng vai trò là trung tâm mua sắm của các khu vực như Hồng
Kông, Singapore, Thuỵ Sỹ, Anh... [24].
- Giày dép
Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu giầy dép đứng thứ 4 trên thế giới.
Đây là ngành đạt kim ngạch xuất khẩu lớn. Với những đóng góp đáng kể vào
việc giải quyết công ăn việc làm, giày dép được xác định là mặt hàng có
nhiều khả năng để gia tăng kim ngạch xuất khẩu thông qua mở rộng sản xuất,
đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và tăng cường hàm lượng giá trị tạo mới
của sản phẩm xuất khẩu bằng cách tập trung đầu tư vào khâu thiết kế kiểu
dáng, tạo mẫu sản phẩm… Xuất khẩu nhóm mặt hàng giày dép dự kiến sẽ đạt
kim ngạhc 5,6 tỷ USD vào năm 2010, tăng bình quân 11,9%/năm [25].
Thị trường xuất khẩu tiềm năng của nhóm mặt hàng này là các nước phát
triển có sức mua lớn như Mỹ, Eu, Canada, Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc,
Australia. Bên cạnh đó có thể khai thác các thị trường có sức mua không lớn
nhưng chấp nhận hàng hoá phù hợp với năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp Việt Nam như Inđônêxia, Maliaxia, Trung Đông, Châu Phi, Nam Á,
Nga, các nước Đông Âu cũ…
Tuy nhiên, ngành giầy dép Việt Nam vẫn còn những vấn đề còn tồn đọng
cần giải quyết như: gia công xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn, chưa chủ động
được nguồn nguyên liệu, công tác thiết kế, xúc tiến thương mại và quảng bá
thương hiệu trong và ngoài nước chưa được đẩy mạnh.
- Điện tử và linh kiện máy tính
Trong nhiều năm qua, xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
82
của nước ta không ngừng tăng mạnh. Bộ Công Thương cho biết, năm 2008
xuất khẩu sản phẩm điện tử và linh kiện máy tính đạt kim ngạch 2,7 tỷ USD,
tăng 25,3% so với năm 2007. Chúng ta phấn đấu đến 2010 kim ngạch xuất
khẩu đạt 5 tỷ USD, tăng bình quân 32,6%/năm giai đoạn 2008 – 2010 [24].
Theo đánh giá đây là mặt hàng có nhiều khă năng tạo sự tăng trưởng đột
biến trong thời gian tới và rất có thể với những định hướng phát triển phù
hợp thì đây sẽ là mặt hàng tạo kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam vì
những lí do cơ bản sau:
- Thứ nhất, trong những năm gần đây, làn sóng đầu tư nước ngoài vào lĩnh
vực điện, điện tử và sản xuất linh kiện máy tính ở Việt Nam đã tăng mạnh
với nhiều dự án đầu tư rất lớn như dự án đầu tư sản xuất máy in của tập đoàn
Canon, dự án đầu tư sản xuất chip điện tử của tập đoàn Intel (1 tỉ USD), dự
án của tập đoàn Nidec, Nhật Bản sản xuất đầu đọc quang học và mô tơ siêu
nhỏ (1 tỉ USD), dự án của tập đoàn Foxcon (Đài Loan) sản xuất linh kiện
điện tử (1 tỉ USD)… và nhiều dự án đầu tư khác của các công ty vệ tinh của
các tập đoàn lớn đã có hoạt động tại Việt Nam.
- Thứ hai, đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Malaixia, Thái Lan và
Trung Quốc, tuy nhiên, lợi thế về nhân công đã và đang có sự chuyển dịch từ
Malaixia và Thái Lan sang Việt Nam. Trong khi đó tại các nước như Trung
Quốc, Malaixia… giá thuê đất, giá nhân công tăng. Vì vậy, Việt Nam trở nên
có lợi thế riêng. Riêng đối với Trung Quốc, bên cạnh lợi thế của Việt Nam về
giá nhân công thì sự phát triển kinh tế được coi là quá nóng của nước này
cũng đang tạo ra sự chuyển dịch đầu tư của các tập đoàn điện tử lớn của thế
giới sang Việt Nam.
- Thứ ba, về nhu cầu thị trường thế giới đối với mặt hàng điện tử và linh kiện
máy tính có thể coi là khổng lồ và đầy tiềm năng.
Về thị trường xuất khẩu, hiện nay ta đang xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu
sang các nước ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc, Hoa Kì. Trong thời gian tới
có thể nhắm tới Trung Quốc, Hồng Kông, EU (nhất là Đức) và đặc biệt là các
nước thành viên mới của EU như Hungary, Ba Lan, Cộng hoà Séc và
Slovakia.
83
- Sản phẩm gỗ
Mặt hàng đồ gỗ đã khẳng định được vị trí vững chắc trong cơ cấu xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam trong những năm gần đây, với kim ngạch xuất
khẩu năm 2008 ước đạt 2,8 tỷ USD, tăng 16,5% so với năm 2007. Chúng ta
phấn đấu năm 2010 xuất khẩu sản phẩm gỗ sẽ đạt kim ngạch 3,6 tỷ USD,
tăng bình quân 14,4%/năm [26].
Đây là mặt hàng có thị trường lớn, khả năng cạnh tranh và chất lượng sản
phẩm đáp ứng được yêu cầu của nhà nhập khẩu song khó khăn cơ bản vẫn là
nguồn nguyên liệu nhập khẩu và khả năng đáp ứng được những đơn hàng lớn
còn hạn chế. Do vậy, nếu có thể khắc phục được những hạn chế này, mặt
hàng gỗ sẽ còn có thể gia tăng qui mô xuất khẩu cạnh tranh trong thời gian
tới.
- Hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN)
Theo đánh giá của Hiệp hội xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam, ngành này đã
có bước phát triển tích cực trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt khoảng 15%/ năm. Riêng 2 tháng đầu năm 2009 đạt 29 triệu USD.
Hiện cả nước có khoảng 2.000 làng nghề, thu hút 1,4 triệu lao động và 1.000
doanh nghiệp (DN) chuyên sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ [26].
Mục tiêu của ngành thủ công mỹ nghệ (TCMN) là đạt kim ngạch 1,5 tỷ
USD vào năm 2010. Trong bối cảnh khó khăn như hiện nay chúng ta càng
cần nhanh chóng tìm giải pháp cho viẹc duy trì và phát triển sản xuất hàng
TCMN [26].
II. Đề xuất đối với Nhà nƣớc
1. Giải pháp đổi mới cơ chế hoạt động xuất khẩu
Để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu việc đổi mới
hoàn thiện cơ chế quản lí hoạt động xuất khẩu là cần thiết và cần có sự tương
thích với nền kinh tế mở và xu thế tự do hoá thương mại.
Về chủ thể quản lí: Chúng ta cần đổi mới bộ máy quản lí xuất khẩu cũng
như hoạt động thương maị theo hướng gọn nhẹ và tạo được sự phối hợp nhịp
nhàng giữa các bộ phận trong đó. Năm 2007, Bộ Thương mại và Bộ Công
nghiệp đã hợp nhất thành Bộ Công Thương. Đây là một sự chuyển biến đúng
đắn. Sáp nhập hai Bộ sẽ giúp cho công tác kế hoạch hoá và thực hiện các 84
chính sách phát triển thương mại đặc biệt là xuất khẩu theo sát và thống nhất
với kế hoạch và chính sách. Trong thời gian tới Chính phủ cần xây dựng
được chương trình hành động thống nhất giữa các bộ ngành quản lí liên quan,
tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn về các qui định, định hướng phát triển. Bên
cạnh đó, chúng ta nên phát huy chức năng của các Hiệp hội ngành hàng và
xây dựng hiệp hội ngành hàng mới.
Về đối tượng quản lí: hiện nay, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đã được
mở rộng cho các thương nhân hợp pháp, họ được tự do kinh doanh tất cả
những mặt hàng mà pháp luật không cấm (Nghị định 12/2006/NĐ - CP ngày
23/ 01/ 2006). Qua quá trình này chúng ta thấy, các doanh nghiệp tư nhân
đang phải chịu thiệt thòi so với các doanh nghiệp Nhà nước vì các hợp đồng
lớn, các hợp đồng trả nợ đều do các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện. Môi
trường cạnh tranh còn chưa thực sự bình đẳng. Do vậy, thời gian tới chúng ta
cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tư nhân được cạnh
tranh một cách công bằng với các doanh nghiệp quốc doanh như tổ chức đấu
thầu giành các hợp đồng lớn
Các công cụ quản lí xuất khẩu phải đảm bảo đáp ứng được những cam kết
của Việt Nam với thế giới đồng thời có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu những
sản phẩm có hàm lượng chế biến cao. Cần phải xác định thị trường trọng
điểm, thị trường ưu tiên vì trong điều kiện kinh tế của chúng ta hiện nay kinh
tế còn kém phát triển, thiếu vốn, qui mô sản xuất nhỏ… Các thị trường nên
được chọn làm thị trường ưu tiên đó là: những thị trường có khả năng thanh
toán cao, nhiều khả năng cung cấp yếu tố vật chất kỹ thuật cho CNH - HĐH
đất nướcnhư Hoa Kì, Eu, Nhật Bản…
2. Các giải pháp phát triển khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ là yếu tố hết sức quan trọng trong đẩy mạnh xuất
khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu. Chỉ có đầu tư vào xuất khẩu chúng ta
mới có được cơ cấu xuất khẩu hiện đại, phù hợp với yêu cầu của thị trường
thế giới. Chính sách về khoa học công nghệ cần dựa trên những đặc điểm chủ
85
yếu của nước ta như: lực lượng lao động dồi dào, chi phí lao động rẻ, nguồn
nguyên liệu sản xuất tương đối lớn. Để phát triển xuất khẩu bằng khoa học
công nghệ chúng ta cần chú ý những điểm như sau:
- Chúng ta cần hoàn thiện môi trường pháp lí cho việc phát triển khoa học
công nghệ qua các văn bản luật điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp hoạt động
khoa học công nghệ và các qui định thi hành luật. Nhà nước cần sớm ban
hành luật chuyển giao công nghệ theo đó đảm bảo nội dung đầy đủ, thông
thoáng và có tính cởi mở (bởi khoa học công nghệ luôn biến đổi một cách
nhanh chóng, nếu luật của chúng ta không theo kịp thì sẽ bị lạc hậu và không
có ý nghĩa áp dụng). Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần ban hành các luật bổ
sung, hỗ trợ cho luật Sở hữu trí tuệ, luật Chuyển giao công nghệ như luật
Thuế, luật Đầu tư, luật Thương mại, luật Doanh nghiệp, luật Hải quan…
Bên cạnh việc ban hành luật, Nhà nước cần nâng cao năng lực thực thi
hành luật. Thực thi luật Sở hữu trí tuệ, luật Chuyển giao công nghệ trong điều
kiện hiện nay còn chịu sự chi phối trực tiếp của các cam kết với WTO. Vì
vậy Nhà nước nên sớm có qui định về thực thi sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ, các chế định trong giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ
(nguyên tắc đối xử quốc gia trong tố tụng, thẩm quyền của toà án dân sự và
toà án kinh tế, các biện pháp khẩn cấp, tạm thời, tố tụng…) và cùng với các
chế tài (khung hình phạt, mức phạt, biện pháp xử phạt…). Phân định rõ chức
năng, thẩm quyền của các cơ quan thực thi như toà án nhân dân, thanh tra, uỷ
ban nhân dân, quản lí thị trường, công an kinh tế, hải quan …
- Đồng thời chúng ta phải có đầu tư hợp lí một phần ngân sách cho hoạt
động phát triển khoa học công nghệ. Đó là đầu tư, hỗ trợ cho các hoạt động
sáng tạo và hoàn thiện công nghệ, mua sáng chế, thiết kế công nghệ tiên tiến
và các hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học ứng dụng. Nhà nước
cần có biện pháp, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhất là các
doanh nghiệp lớn đầu tư tập trung cho hoạt động R & D. Các doanh nghiệp
vì mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng bỏ ra chi phí đủ lớn để phát triển các công
nghệ sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu thị
trường thế giới. Nhà nước cũng phải ban hành qui định xác lập quyền sở hữu
các tài sản trí tuệ, quyền định đoạt các tài sản này để bảo vệ quyền lợi hợp
86
pháp của các doanh nghiệp và các trung tâm nghiên cứu (viện nghiên cứu,
trường đại học). Đây cũng là cơ sở để thị trường công nghệ ở Việt Nam ra
đời, giúp các doanh nghiệp trao đổi, mua bán, tăng cường giúp các doanh
nghiệp áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật, nâng cao tỉ lệ sản xuất và
xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu. Phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế đòi hỏi có những giải pháp hệ thống, đồng bộ và tổng thể,
trong đó phải xác định được những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, trọng
điểm cần được ưu tiên thực hiện.
- Cần phải đào tạo nguồn nhân lực có cơ sở vững chắc từ những bậc học
dưới. Cần có những đổi mới về cơ sở vật chất kỹ thuật, nội dung và phương
pháp dạy, học theo hướng gắn với nhu cầu thực tế của thị trường lao động
trong nước và quốc tế. Mở rộng việc dạy và nâng cao chất lượng dạy, học
ngoại ngữ, ngay từ cấp giáo dục phổ thông, hướng tới đạt được mục tiêu sau
khi tốt nghiệp phổ thông trung học, phần lớn học sinh có thể sử dụng ngoại
ngữ trong giao tiếp thông thường hoặc theo học tiếp ở trình độ cao hơn bằng
ngoại ngữ.
- Phát triển nguồn nhân lực có trọng điểm cần ưu tiên các nhóm nhân lực cốt
yếu. Thứ nhất là đội ngũ giảng viên, giáo viên các cấp phải được đảm bảo về
chuyên môn, nghiệp vụ, có đạo đức. Đồng thời họ phải là những người có
lương tâm nghề nghiệp, đủ năng lực tạo ra sự cải biến trong chất lượng giáo
dục. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu thực tế của xây dựng đất nước,
hội nhập quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, chúng ta cần phát triển đội ngũ
chuyên gia tư vấn, hoạch định chính sách trong các lĩnh vực kinh tế, tài
chính, thương mại, ngân hàng, pháp lí… Đội ngũ này cần phải tinh thông
nghiệp vụ, am hiểu sâu rộng kiến thức và thực tiễn quốc tế nhằm đảm bảo
cho việc xây dựng và thực thi chính sách có tính khả thi cao. Như vậy, các
chính sách mới ra đời mới có thể thích ứng với tình hình quốc tế không
ngừng biến đổi, nhằm kịp thời làm tăng làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh
tế Việt Nam và các doanh nghiệp nước ta trên trường quốc tế. Ngoài ra, đội
87
ngũ doanh nhân và quản trị doanh nghiệp cũng cần được đào tạo một cách
bài bản và chuyên nghiệp. Đội ngũ này phải có bản lĩnh vững vàng, giỏi về
nghiệp vụ quản lí, đồng thời am hiểu luật kinh doanh quốc tế để có thể giúp
Việt Nam cạnh tranh được trên trường quốc tế mà không bị bất lợi. Cần phải
nhanh chóng đào tạo được đội ngũ lãnh đạo, giám đốc điều hành (CEO),
chuyên gia quản lí cho các doanh nghiệp để có thể đáp ứng được yêu cầu của
xu thế mới. Một đội ngũ không thể thiếu và cần được đào tạo đó là những đội
ngũ kĩ sư, công nhân kĩ thuật trình độ cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Có như thế
mới có thể đáp ứng được nhu cầu áp dụng khoa học kĩ thuật máy móc hiện
đại ngày nay của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Cuối cùng, để có được đội ngũ lao động, nguồn nhân lực tốt cho nền kinh tế
thì yếu tố mở rộng hợp tác đào tạo quốc tế, đa dạng hoá phương thức kinh
doanh liên kết với nước ngoài là không thể thiếu. Chúng ta nên mạnh dạn đầu
tư thuê giảng viên giỏi cũng như những chuyên gia giỏi của nước ngoài. Điều
này nhằm đào tạo nguồn nhân lực trong nước một cách có chất lượng cao
hơn, khiến cho nguồn nhân lực nước ta không bị bỡ ngỡ với công nghệ hiện
đại, xu hướng mới của nền kinh té thế giới, đặc biệt thông qua các nước phát
triển đi trước.
4. Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu
Bên cạnh các giải pháp vừa nêu thì giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp
xuất khẩu là giải pháp thiết thực và trực tiếp nhất cho quá trình chuyển dịch
cơ cấu xuất khẩu ở nước ta. Để đẩy nhanh quá trình này các doanh nghiệp
cần phải tham gia sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng chế
biến, hàm lượng vốn và công nghệ cao. Các doanh nghiệp mới là người trực
tiếp và thực sự thực hiện cải biến cơ cấu hàng xuất khẩu. Các giải pháp hỗ trợ
doanh nghiệp xuất khẩu được chia làm 2 nhóm chính:
- Nhóm giải pháp hỗ trợ tài chính
Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ thương mại đối với doanh nghiệp xuất
khẩu nhưng cũng phải chú ý trong khuôn khổ của WTO cho phép. Các chính
sách tài trợ thương mại có thể là Nhà nước bảo lãnh trước ngân hàng cho nhà
xuất khẩu, Nhà nước bảo lãnh trước khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu thực
hiện cấp cho nhà nhập khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cấp tín dụng cho
88
doanh nghiệp xuất khẩu trong nước (gồm cả doanh nghiệp vốn trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) với lãi suất ưu đãi. Đồng thời tạo
điều kiện cho các ngân hàng thương mại phát triển các dịch vụ thanh toán
quốc tế dưới hình thức cấp tín dụng cho doanh nghiệp như thư tín dụng, bao
thanh toán factoring, forfaiting. Khi gia nhập WTO chúng ta đã cam kết bãi
bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu phi nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu nông
nghiệp. Ngoại trừ bảo lưu 2 hình thức trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp mà
WTO dành cho các nước đang phát triển gồm xúc tiến thương mại và ưu đãi
cước phí vận tải hàng xuất khẩu. Vì vậy Việt Nam cần tận dụng những hình
thức hỗ trợ được phép, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Bên cạnh đó, tỷ giá hối đoái cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến thành quả của quá trình xuất khẩu. Khi đồng nội tệ (VNĐ) mất giá so với
đồng ngoại tệ, hàng xuất khẩu trở nên rẻ tương đối so với hàng nội địa ở
nước ngoài. Nhờ vậy, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu đồng thời hạn chế nhập
khẩu, tăng đầu tư nước ngoài vào trong nước. Trên thế giới đã có nhiều nước
thực hiện chính sách phá giá hối đoái thành công, đó là Ấn Độ, Đài Loan….
Tuy nhiên Nhà nước cũng cần cân nhắc những bất lợi mà phá giá tiền tệ gây
ra như uy tín quốc gia suy giảm, mất cân đối cán cân thanh toán quốc tế.
Hiện nay, thuế xuất khẩu của Việt Nam đối với hầu hết các mặt hàng
bằng 0, trừ những sản phẩm không qua chế biến. Thuế nhập khẩu đối với
những hàng hoá là tư liệu sản xuất hàng xuất khẩu cùng có mức thuế suất rất
thấp. Nhà nước cần liệt kê những mặt hàng thuộc diện chuyển đổi cơ cấu
trong thời gian tới và đưa vào danh sách cần đặc biệt ưu tiên trong miễn,
giảm và hoàn thuế.
- Nhóm giải pháp hỗ trợ và xúc tiến xuất khẩu
Hoạt động xúc tiến xuất khẩu phải được tiến hành cả ở doanh nghiệp và
cả trên phương diện quốc gia. Trong đó, hoạt động xúc tiến ở cấp doanh
nghiệp là các hoạt động như: quảng cáo bán hàng ra nước ngoài, cử cán bộ ra
nước ngoài nghiên cứu thị trường hàng hoá, thương nhân và chính sách nhập
khẩu của nước ngoài, lập văn phòng đại diện ở nước ngoài và ở các trung tâm
thương mại quốc tế. Để thúc đẩy công tác xúc tiến của doanh nghiệp, Nhà
nước cũng cần tham gia vào quá trình này. Nhà nước thiết lập mạng lưới xuất
89
khẩu quốc gia, nâng cao năng lực hỗ trợ thương mại của hệ thống cơ quan đại
diện thương mại (cung cấp thông tin thương mại về thị trường xuất khẩu,
phối hợp tổ chức các sự kiện thương mại), củng cố và kiện toàn các cơ quan
thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài với nhiệm vụ nắm bắt tình hình
thương mại của từng nước…Chính phủ cũng cần có những biện pháp đơn
giảm hoá thủ tục hành chính và quản lí xuất nhập cảnh để thuận lợi cho việc
đi lại của các thương nhân Việt Nam và nước ngoài.
5. Thu hút vốn đầu tƣ cho quá trình đổi mới cơ cấu hàng xuất
khẩu.
Để thay đổi cơ cấu sản xuất nói chung và cơ cấu hàng xuất khẩu nói
riêng, cần phải có đầu tư. Vì vậy, trong những năm qua, Nhà nước đã ban
hành rất nhiều chế độ, chính sách để khuyến khích đầu tư, bao gồm cả đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất hàng
xuất khẩu.
5.1. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đầu tƣ trực tiếp vào sản xuất phục vụ xuất khẩu. Đây là khối doanh nghiệp có vốn lớn, công nghệ cao nên sản phẩm sản
xuất ra có tỷ lệ chất xám lớn. Do đó, hàng hoá sẽ dễ dàng xâm nhập vào các
thị trường đòi hỏi chất lượng cao, lợi nhuận tăng lên tương ứng.
- Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền xuất
khẩu hàng hoá như thương nhân Việt Nam.
Hiện nay, doanh nghiệp FDI đã được phép xuất khẩu và nhận uỷ thác
xuất khẩu hàng hoá không phụ thuộc vào nội dung của giấy phép đầu tư trừ
các mặt hàng nhạy cảm như: gạo, động vật rừng, đá quý... Nếu hàng nhập
khẩu dùng để phục vụ cho xuất khẩu, cũng được xét vào diện trên. Tuy
nhiên, Bộ Công thương nên bàn bạc với các Bộ, ngành hữu quan để quyết
định cụ thể về phạm vi kinh doanh xuất nhập khẩu của khối FDI.
- Các ưu đãi dành cho sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu phải được
minh bạch hoá một cách tối đa, áp dụng bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư
và phổ biến rộng rãi tới mọi chủ thể đầu tư tiềm năng.
- Song song với việc dành ưu đãi cho đầu tư, cần hết sức chú ý ổn định
90
môi trường đầu tư.
Bên cạnh việc ban hành các chính sách khuyến khích thì việc duy trì một
môi trường đầu tư ổn định nhằm tạo tâm lý tin tưởng cho nhà đầu tư mang ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Là nước
đang phát triển, đang ở trong quá trình chuyển đổi, lại thiếu kinh nghiệm xử
lý các vấn đề kinh tế vĩ mô, cơ chế chính sách của ta không thể tránh khỏi
việc phải điều chỉnh, bổ sung vào lúc này hay lúc khác. Vấn đề đặt ra là phải
làm sao để các nhà đầu tư thông cảm với những khó khăn của chúng ta và
khẳng định với họ nguyên tắc đã được đề cập trong Luật Đầu tư Nước ngoài:
nếu sự thay đổi của quy định pháp luật làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu
tư thì Nhà nước sẽ có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của
nhà đầu tư. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể duy trì được lòng tin của
nhà đầu tư nước ngoài, mới có thể thu hút được nguồn vốn FDI cần thiết cho
phát triển sản xuất và xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh về thu hút
FDI đang diễn ra hết sức gay gắt.
Do đó, trong thời gian tới đây, quá trình xem xét điều chỉnh luật pháp về
đầu tư nước ngoài nên chuyển trọng tâm từ “ưu đãi” sang “ổn định, minh
bạch và hài hoà quyền lợi”.
5.2. Tập trung nguồn lực để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME- Small and medium enterprises). Trong những năm qua, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong
đó đa số là các SME, đã đóng góp tích cực vào hoạt động xuất khẩu. Để
khuyến khích tính năng động của khu vực này, nhất là SME có tham gia xuất
khẩu hoặc đối với một số mặt hàng cần khuyến khích sản xuất, xuất khẩu,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy chế giao cho các tỉnh thành tự đứng ra
thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME. Tuy nhiên, tiềm lực tài chính ở
các nơi này là có hạn, lại không đồng đều. Nếu mỗi tỉnh thành đều phải tự
tìm nguồn để thành lập quỹ cho riêng mình thì hiệu quả thực tế sẽ không cao
do nguồn lực bị dàn trải. Đó là chưa kể SME ở những tỉnh có hoàn cảnh khó
khăn sẽ ở vào thế bất lợi hơn so với SME ở những tỉnh có tiềm năng. Vấn đề
tín dụng cho doanh nghiệp nói chung và cho SME nói riêng hiện nay đang là
vấn đề hết sức bức xúc. Vì vậy, nên có một cơ chế tập trung nguồn lực để
91
thành lập một quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME tại Trung ương. Quỹ này sẽ có
đại lý là chi nhánh các quỹ hỗ trợ phát triển hoặc tổ chức tín dụng được thành
lập ở địa phương. Khi có nhu cầu, mọi “đại lý” đều có thể tiếp cận với nguồn
lực tập trung, hiệu quả thực tiễn sẽ cao hơn, SME tại tất cả các tỉnh cũng ở
vào thế bình đẳng hơn.
5.3. Tiếp tục thực thi chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nƣớc.
Doanh nghiệp Nhà nước chiếm số lượng lớn trong toàn bộ các loại
hình doanh nghiệp và được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước. Tuy nhiên,
trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp Nhà nước làm ăn liên tục
thua lỗ, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách Nhà nước không tương xứng với những
gì Nhà nước bỏ ra. Hơn nữa, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đòi hỏi doanh
nghiệp Nhà nước phải có những thay đổi thích ứng phù hợp với xu thế hội
nhập.
Trước tình hình trên, Nhà nước đã triển khai thực hiện chính sách cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhưng hiệu quả đạt được không cao. Vì
vậy, các giải pháp cần thực hiện triệt để là:
- Đối với những doanh nghiệp lớn, có vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước thì doanh nghiệp sẽ chia sẻ quyền sở hữu và
nắm cổ phần khống chế. Biện pháp này mang lại nhiều lợi ích, đó là: giảm
gánh nặng vốn cho ngân sách Nhà nước, tăng tinh thần trách nhiệm cho
người lao động (do bán cổ phần cho họ).
- Còn với những doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ không thể khắc
phục nổi thì Nhà nước nên trực tiếp bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp.
5.4. Thu hút vốn đầu tƣ trong dân.
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của ngành thương mại nói chung và cho
quá trình đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu nói riêng là rất lớn nhưng khả năng
đáp ứng lại có hạn. Hiện nay, nguồn vốn trong dân còn khá nhiều nhưng
chưa được huy động cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh. Những giải
92
pháp đặt ra là:
- Một là, phát triển thị trường chứng khoán và phải có cách thức quản
lý nghiệp vụ thị trường này nhằm cung cấp thông tin cho người dân và doanh
nghiệp, hoặc khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.
- Hai là, thúc đẩy người dân đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực sản xuất -
kinh doanh để thu lợi nhuận.
III. Giải pháp đối với doanh nghiệp
Không chỉ Nhà nước cần có biện pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất
khẩu mà ngay cả doanh nghiệp cũng cần phải có định hướng rõ ràng. Định
hướng này giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể dễ dàng bắt nhịp với
xu hướng thị trường và tận dụng có hiệu quả những biện pháp hỗ trợ của Nhà
nước. Để cơ cấu hàng xuất khẩu có những chuyển biến tích cực trong thời
gian tới, doanh nghiệp cần xác định cho mình định hướng rõ ràng, thực hiện
các hoạt động đầu tư hợp lí và có mục tiêu xác định.
1. Thay đổi quan điểm, chiến lƣợc kinh doanh trong thời kì hội
nhập
Gia nhập WTO đã đánh một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong nước ngày càng khắc nghiệt. Các
doanh nghiệp phải thay đổi để có thể cạnh tranh được với sự xâm nhập của
các doanh nghiệp nước ngoài vốn rất mạnh về tiềm lực kinh tế và kinh
nghiệm kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay, thay đổi cách nghĩ, chiến lược
kinh doanh là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Họ cần đặt
hoạt động của mình hướng về thị trường, hướng về khách hàng: bán những
thứ thị truờng cần chứ không phải bán những gì mình có. Hàng hoá sản xuất
phải đạt mục tiêu đảm bảo chất lượng, thoả mãn nhu cầu khách hàng bằng
việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lí chất lượng hàng hoá.
Hơn nữa, quản trị doanh nghiệp trong tình hình mới cũng đòi hỏi các
nhà quản trị có tầm nhìn rộng hơn, linh hoạt hơn, phản ứng nhanh hơn với
những diễn biến phức tạp liên tục của thị trường. Các nhà quản trị nên lưu ý
những tín hiệu do Nhà nước phát ra thông qua chính sách, chiến lược phát
93
triển để tận dụng được những ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Qua đó, doanh nghiệp tăng hiệu quả sản xuất, hiệu quả xuất khẩu và tối đa
hoá lợi nhuận. Trên thực tế, việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng đã qua
chế biến sâu, các mặt hàng có hàm lượng vốn và công nghệ cao đem lợi
nhuận trực tiếp về cho doanh nghiệp.
2. Đầu tƣ vào khoa học công nghệ, hoạt động nghiên cứu (R&D) và
nguồn nhân lực
Các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là còn ở trình độ khoa học công
nghệ thấp, máy móc thiết bị lạc hậu, cũ kĩ. Do đó, sản phẩm sản xuất ra còn
chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Qua thực tế đó cho thấy phát
triển công nghệ là nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp. Vì vòng đời sản
phẩm ngày càng rút ngắn và liên tục thay đổi, nhu cầu của khách hàng cũng
trở nên đa dạng và khắt khe hơn, cạnh tranh gay gắt buộc các doanh nghiệp
đua nhau hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã. Để có thể làm được điều
này, các doanh nghiệp buộc phải thay đổi công nghệ của mình, áp dụng công
nghệ mới theo kịp với xu hướng chung của thế giới. Doanh nghiệp cần dành
ra một khoản nhất định cho việc nghiên cứu, tìm tòi, nâng cao chất lượng, cải
tiến mẫu mã hàng hoá, đồng thời nhập khẩu công nghệ kĩ thuật mới từ nước
ngoài. Bên cạnh đó, ứng dụng thương mại điện tử vào quá trình kinh doanh
cũng là một yếu tố cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Nó giúp cho
quá trình giao dịch của doanh nghiệp với đối tác, với khách hàng thuận tiện
hơn và tiết kiệm chi phí. Doanh nghiệp có thể ứng dụng thương mại điện tử
bằng cách: lập website riêng nếu doanh nghiệp đủ tiềm lực tài chính hoặc
tham gia vào “Hệ thống thư viện Catalogue doanh nghiệp và sản phẩm hàng
hoá trên thị trường Việt Nam” do phòng Công nghiệp và Thương mại Việt
Nam - VCCI và Bộ Văn hoá thông tin phối hợp thành lập. Ngoài ra, doanh
nghiệp có thể kinh doanh trực tuyến từ doanh nghiệp tới khách hàng B2C qua
chương trình cầu nối thương mại điện tử của VIETTRADE, hoặc tham gia
sàn giao dịch thương mại điện tử www.vnemart.com của VCCI.
Trong xu thế hiện nay, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp chủ yếu dựa
vào việc tạo ra các đầu vào cao cấp và chuyên ngành. Đó là, tính độc đáo của
94
sản phẩm và công nghệ, cơ sở hạ tầng hiện đại, lao động có tay nghề và trình
độ cao. Trong đó, lao động là yếu tố quan trọng, có tính quyết định đến các
đầu vào khác. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải là người chủ động trong hoạt
động đầu tư nguồn nhân lực cho đơn vị mình. Vì chỉ chính doanh nghiệp mới
hiểu rõ đặc thù cũng như những kĩ năng mà người lao động của mình cần có.
Nhà nước chỉ có thể hỗ trợ phần nào về mặt cơ chế chính sách để tạo ra sự
thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể đào tạo nguồn nhân lực
cho mình bằng cách mời chuyên gia có trình độ về giảng dạy hoặc cử các cán
bộ có năng lực đi học để bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ.
Hiện nay, trình độ kỹ thuật, công nghệ của Việt Nam còn lạc hậu so với
thế giới từ 10 - 20 năm. Phần lớn các doanh nghiệp được trang bị máy móc
thiết bị có nguồn gốc từ Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, các nước
ASEAN, Bắc Âu và các nước khác thuộc các thế hệ khác nhau. Đó là một
trong những nguyên nhân làm cho chất lượng sản phẩm - dịch vụ thấp và
không ổn định. Hơn nữa, công nghệ thấp cũng làm cho doanh nghiệp khó
khăn trong việc tái đầu tư nâng cao công nghệ và mở rộng sản xuất, gia công
chế biến. Điều đó tất yếu sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên
thương trường, khiến cho giá trị kinh tế thu về ngày càng thấp.
Chính vì thế, các việc cần phải làm ngay là:
- Phát triển mạnh hình thức chuyển giao công nghệ từ DCs (nước phát
triển – developed countries) sang LDCs (nước kém phát triển - less
developed countries) và không nhất thiết phải là những máy móc thiết bị hiện
đại, tối tân mà cốt yếu là phải phù hợp với trình độ, khả năng sản xuất trong
nước.
- Nhanh chóng triển khai công tác đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với
quá trình hội nhập quốc tế, nâng cao tay nghề cho người lao động, nhằm
thích ứng với việc đổi mới công nghệ hiện đại.
3. Nâng cao chất lƣợng hàng xuất khẩu
Trong quá trình đổi mới, chất lượng hàng xuất khẩu là một đòi hỏi
khách quan bức bách, là mục tiêu có ý nghĩa chiến lược, đồng thời là phương
95
tiện cơ bản để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội được đúng hướng,
vững chắc và đạt hiệu quả cao. Vì vậy, trong thời gian tới cần có các giải
pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, cụ thể như sau:
3.1. Đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại sản phẩm.
Đây là một việc làm thiết thực, cần phải hành động ngay vì:
- Một mặt, nhằm thoả mãn nhu cầu, đáp ứng thị hiếu của các khu vực
khác nhau trên thế giới.
- Mặt khác, trên thương trường quốc tế, cạnh tranh là điều khó tránh
khỏi giữa các nước, các doanh nghiệp xuất khẩu về cơ cấu mặt hàng, chất
lượng và giá cả sản phẩm, nhất là trong điều kiện hội nhập ngày nay. Trong
thời gian qua, hàng hoá của Việt Nam liên tục phải chịu sức ép từ phía hàng
Trung Quốc trên cùng một thị trường xuất khẩu do chất lượng tốt hơn, giá cả
rẻ hơn, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú.
Trước tình hình trên, những biện pháp cần phải thực thi là:
Phải có sự phối hợp giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhằm thu thập
thông tin, hỗ trợ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu, đáp ứng thị hiếu, khả
năng thu nhập của khách hàng, phong tục tập quán ở các thị trường mà Việt
Nam dự định thâm nhập. Qua đó, phát triển mạnh các loại hình dịch vụ hỗ trợ
cho xuất khẩu.
Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp đòi hỏi Nhà nước phải “cung cấp
đầy đủ thông tin” cho họ. Thực ra, cái mà doanh nghiệp cần không phải là
thông tin mà là kết quả phân tích thông tin. Các câu hỏi mà doanh nghiệp
thường xuyên đặt ra là: nên trồng dứa hay trồng sắn, nên đầu tư vào nước quả
hay mỳ ăn liền, nếu cần xuất khẩu chôm chôm thì tìm khách hàng ở đâu, giá
cà phê liệu sang năm sẽ lên hay xuống... Đấy là những câu hỏi không đúng
địa chỉ. Địa chỉ đúng phải là các công ty chuyên phân tích thông tin và làm
dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh loại hình dịch vụ trên còn
chưa phát triển, Nhà nước có thể cố gắng làm thay thế để đáp ứng nhu cầu
bức xúc của các doanh nhân. Tuy nhiên, việc làm thay đó không thể kéo dài
bởi sẽ gây tâm lý ỷ lại từ phía doanh nghiệp, tư duy kinh doanh thụ động, chờ
đợi thông tin, chờ đợi khách hàng sẽ ngày càng phát triển. Biện pháp tốt nhất
96
là có chính sách khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt
động xuất khẩu, kể cả mở cửa thị trường cho các công ty cung ứng dịch vụ
nước ngoài để nhanh chóng phát triển các loại hình dịch vụ này.
Xây dựng mạng lưới vệ tinh cung cấp nguyên vật liệu, bán thành
phẩm. Đặc biệt cần chú ý đến nguồn nguyên liệu tại chỗ với giá rẻ, rủi ro ít
hơn để thay thế nguyên vật liệu nhập khẩu.
Cần quan tâm đến chiến lược hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh,
nghiên cứu sản phẩm của đối thủ, từ chỗ học tập kinh nghiệm đến việc đổi
mới, khác biệt hoá sản phẩm.
3.2. Hàng hoá sản xuất ra phải phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và đảm bảo vệ sinh an toàn.
Một điều dễ nhận thấy là hàng xuất khẩu của Việt Nam rất khó xâm
nhập vào những thị trường “khó tính” như EU, Nhật Bản, Mỹ... do chưa đáp
ứng được tiêu chuẩn của các thị trường này. Nếu hàng của ta có khả năng tiêu
thụ tốt ở nhóm thị trường này thì giá trị thu về sẽ lớn hơn rất nhiều; thị
trường được mở rộng, ổn định; vị thế cạnh tranh trên trường quốc tế ngày
càng được củng cố thông qua sự tín nhiệm của khách hàng, khối lượng hàng
xuất khẩu tăng; mặt khác sẽ tránh bị kiện tụng, hàng hoá bị trả lại gây thiệt
hại cho cả doanh nghiệp, người tiêu dùng và Nhà nước.
Các giải pháp cần thiết là:
Chất lượng sản phẩm tạo ra phải được bảo đảm trong suốt chu trình
sống của sản phẩm, với sự đóng góp của tất cả các yếu tố có liên quan, chứ
không phải chỉ do kiểm tra mà có.
Áp dụng hệ thống quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng vào các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu và các tổ chức khác. Coi
đó là công cụ quản lý không thể thiếu được nhằm thoả mãn nhu cầu người
tiêu dùng, để bán được sản phẩm và dịch vụ, để đạt được sự tín nhiệm của
khách hàng, để hỗ trợ phát triển sản xuất và xuất khẩu.
Bảo đảm an toàn thực phẩm
Đây là vấn đề mới nổi lên trong thời gian gần đây và có thể ảnh hưởng
97
nghiêm trọng đến xuất khẩu nông thuỷ sản của ta, đặc biệt là thuỷ sản. Nếu
không giải quyết vấn đề này một cách quyết liệt và triệt để thì hậu quả sẽ rất
lớn, hàng Việt Nam sẽ bị mất uy tín trên nhiều thị trường chính.
Một số giải pháp chủ yếu là:
- Nghiêm cấm sử dụng các loại kháng sinh, hoá chất trong danh mục
cấm sử dụng của Bộ Thuỷ sản và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
trong tất cả các khâu từ nhập khẩu, sản xuất cho đến lưu thông, bảo quản và
vận chuyển sản phẩm.
- Các cơ quan Hải quan, Biên phòng cần tăng cường kiểm tra, kiểm
soát ở các cửa khẩu đối với loại hàng này.
- Các nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được các
tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm.
4. Tăng cƣờng hoạt động nghiên cứu thị trƣờng và xúc tiến xuất
khẩu
Nghiên cứu thị trường là hoạt động quan trọng và cơ bản để xác định
nhu cầu của khách hàng, quy mô và đặc tính của thị trường, mối tương quan
giữa doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh, và hàng hoá. Từ đó, lựa chọn
thị trường mục tiêu và xây dựng chiến lược marketing phù hợp (chính sách
4P). Hoạt động này của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn đang còn
yếu. Doanh nghiệp của ta thu thập thông tin về thị trường nước ngoài chủ yếu
thông qua Internet, các đại diện thương mại của Việt Nam tại nước ngoài.
Các nguồn tin này thường khá chung chung và khó xác định được tính chân
thực của chúng. Vì vậy, doanh nghiệp cần tăng cường hoạt động nghiên cứu
thị trường bằng cách đầu tư cho hoạt động này, đào tạo một đội ngũ chuyên
phụ trách về vấn đề này có khả năng và trình độ ngoại ngữ, nếu tốt hơn thì có
thể thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài làm đầu mối cho nghiên cứu
thị trường nước sở tại.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần có chính sách xúc tiến xuất khẩu phù
hợp. Khi doanh nghiệp đã có được sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường
thì cần phải có hoạt động xúc tiến để khách hàng biết đến và sản phẩm được
tiêu thụ. Tuỳ vào tính chất của sản phẩm và mức độ xuất hiện trên thị trường
98
mà chúng ta có những chính sách xúc tiến khác nhau cho phù hợp. Doanh
nghiệp có thể tham gia xúc tiến xuất khẩu dưới nhiều hình thức như đại diện
thường trú, văn phòng liên lạc, đại diện uỷ thác, công ty liên doanh... Nhưng
trong điều kiện hiện nay doanh nghiệp nên chú ý tới trưng bày sản phẩm tại
các trung tâm thương mại của Việt Nam đặt tại nước ngoài, tham gia các hội
chợ triển lãm thương mại...
Xúc tiến xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng
cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh
nghiệp, đảm bảo thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu của đất nước, mở
rộng thị trường xuất khẩu nhằm quảng bá sản phẩm và khẳng định vị thế của
hàng xuất khẩu Việt Nam trên trường quốc tế.
Ở cấp doanh nghiệp (vi mô), hoạt động xúc tiến xuất khẩu gồm:
- Đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các
thay đổi trong sản xuất và kinh doanh, tiến hành quảng cáo để bán hàng ra
nước ngoài.
- Trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua
hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm.
- Cử các đoàn cán bộ ra nước ngoài nghiên cứu thị trường hàng hoá,
thương nhân và chính sách nhập khẩu của nước mua hàng.
- Chủ động lo tìm bạn hàng, thị trường, lo tổ chức sản xuất và xuất
khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ
quan quản lý Nhà nước.
- Đặc biệt chú trọng giữ “chữ tín” trong kinh doanh để duy trì chỗ
đứng trên thị trường.
- Phối hợp với nhau trong việc đi tìm và quan hệ với bạn hàng.
- Lập văn phòng đại diện ở nước ngoài hay ở các trung tâm thương
99
mại quốc tế lớn.
KẾT LUẬN
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, bị chi
phối bởi cơ cấu của ngành kinh tế khác và nó được nghiên cứu dưới nhiều
tiêu thức, quan điểm khác nhau. Trong điều kiện tự do hoá thương mại và
bên cạnh đó cũng để chuẩn bị tiền đề đưa Việt Nam cơ bản trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020, đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có định hướng
chiến lược và chính sách đổi mới cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì vậy, đổi mới cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu sẽ
đóng góp một phần lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung.
Đề tài “Xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam
trong thời gian tới” đã cố gắng phân tích, luận giải các nội dung nhằm mục
đích đổi mới cơ cấu để phát huy lợi thế cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Từ lý luận, thực trạng và triển vọng về thị trường của Việt Nam trên con
đường tự do hoá thương mại, đề tài đã chỉ ra những tồn tại, cơ hội, thách thức
cần phải giải quyết trên con đường phát triển để tiến tới một nền kinh tế hàng
hoá hướng mạnh vào xuất khẩu, ngày càng nâng cao khả năng xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam ra thị trường khu vực và thế giới.
Mặc dù Việt Nam đã gia nhập WTO nhưng thời gian chính thức trở
thành thành viên của tổ chức này là mới (chỉ có 2 năm). Những gì tác động
của WTO cũng như việc gia nhập tổ chức này đối với cải biến hàng xuất
khẩu chưa đáng kể và cũng chưa có gì rõ rệt. Trong thời gian tới chuyển
Tuy nhiên, khoảng cách giữa mong muốn và khả năng, giữa mục
tiêu và kết quả, giữa lý thuyết và thực tế lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc
không ít vào cách tiếp cận và giải quyết vấn đề đang đặt ra cho quá
trình phát triển kinh tế nói chung và sản xuất, xuất khẩu hàng hoá nói
riêng của Việt Nam từ nay đến năm 2010. Hy vọng rằng, Việt Nam với
những tiềm năng dồi dào sẵn có cả về đất đai, điều kiện tự nhiên và
nguồn lao động, với định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng
và Nhà nước trong việc tăng cường, phát huy nội lực, chúng ta có trong
100
dịch cơ cấu xuất khẩu sẽ ngày càng theo hướng tích cực hơn.
tay một lực lượng ngành hàng hùng hậu, đa dạng, đủ sức cạnh tranh
trên trường quốc tế.
101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban nghiên cứu & dự báo thị trường- Viện nghiện cứu thương mại, Báo
cáo tổng kết đánh giá 10 năm (2001 – 2010) thực hiện chiến lược xuất
nhập khẩu và xây dựng chiến lược phát triển xuất nhập khẩu trong 10
năm iếp theo (2011 – 2020).
2. Bộ Công Thương, Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch năm 2008 và kế hoạch năm 2009 của ngành công thương.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 12 và cả
năm 2008, các giải pháp cần triển khai thực hiện trong quí I, 2009.
4. Bộ Công Thương (2000), Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kì 2001 –
2010
5. Bộ Công Thương (2006), Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 –
2010.
6. Bộ Công Thương (2008), Kế hoạch phát triển xuất khẩu 2008.
7. Bộ Công Thương , Báo cáo Thương mại (các năm 2001, 2002, 2003,
2004, 2005, 2006, 2007).
8. TS. Trần Văn Hoà, TS. Nguyễn Văn Tuấn (2007), Giáo trình Thương mại
quốc tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
9. GS.TS Bùi Xuân Lưu, PGS.TS Nguyễn Hữu Khải (2006), Giáo trình
Kinh tế ngoại thương, NXB Lao động – xã hội.
10. .PGS., TS. Đặng Thị Loan, GS. TSKH Lê Du Phong, PGS. TS. Hoàng
Văn Hoa (2006), Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới 1986 – 2006: Thành
tựu và những vấn đề đặt ra, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
11. PGS.TS Nguyễn Hữu Khải, ThS. Đào Ngọc Tiến, ThS. Vũ Thị Hiền
(2007), Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, NXB Thống
kê, Hà Nội.
12. GS.,TS.Nguyễn Văn Thường, Gs. TSKH Lê Du Phong (2006), Tổng kết
kinh tế Việt Nam2001 – 2005:Lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội.
13. Trung tâm thông tin Kinh tế - Thương mại, Bộ Công Thương (2008), Tạp
102
chí Ngoại thương số 1,3,4+5 năm 2008.
14. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám Thống kê 2006, NXB Thống kê,
Hà Nội.
15. Lưu thị Anh Vân (2003), Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB
Thống kê, Hà Nội.
16. Văn kiện Đại hội Đảng IX, X.
17. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Tạp
chí những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới số 2 (142) 2008.
18. Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp, Bộ Công nghiệp,
Tuần tin chiến lược, chính sách công nghiệp số 12/2007, chuyên đề: Công
nghiệp phụ trợ.
19. Viện nghiên cứu Chiến lược, chính sách công nghiệp, Bộ Công thương,
Tuần tin công nghiệp – Thương mại Việt Nam số 08 từ ngày 18/ 02/ 2008.
Các website
20. http://www.agro.gov.vn
http://www.agro.gov.vn/news/newsDetail.asp?targetID=13428
http://www.agro.gov.vn/news/newsdetail.asp?targetID=12151
http://www.agro.gov.vn/news/newsdetail.asp?targetID=12688
21. http://ngoaithuong.vn
http://ngoaithuong.vn/news/tinchuyende/1202/1/print.html
http://ngoaithuong.vn/news/tinmoi/tinxuatnhapkhau/849_co_cau_thi_truong
_xuat_khau_nam_2009.html
22. http://www.gso.gov.vn
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=393&idmid=3&ItemID=7638
http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=393&idmid=3&ItemID=7636
23. http://www.tapchicongsan.org.vn
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&news_ID=51050908
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=14331554&news_ID=3
11049915
103
24. http://www.tinthuongmai.vn/
http://www.tinthuongmai.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/2/ContentID/634
79/Default.aspx
http://www.tinthuongmai.vn/Trangchu/VN/tabid/66/CatID/111/ContentID/6
3409/Default.aspx
25. http://www.lefaso.org.vn
http://www.lefaso.org.vn/default.aspx?portalid=1&tabid=18&itemid=1099
26. http://www.tinkinhte.com
http://www.tinkinhte.com/nd5/detail/cong-nghiep/dien-tu-ban-dan/giai-phap-
day-manh-xuat-khau-hang-dien-tu-va-linh-kien-may-tinh-den-nam-
2010/22320.136138.html
http://www.tinkinhte.com/nd5/viewsubject/tong-hop-thong-tin-du-bao-kinh-
te-2009/kim-ngach-xuat-khau-ca-phe-nam-2009-se-giam/26477.s_33.1.html
http://www.tinkinhte.com/nd5/viewsubject/tong-hop-thong-tin-du-bao-
kinh-te-2009/kim-ngach-xuat-khau-ca-phe-nam-2009-se-
104
giam/26477.s_33.1.html