
không còn nằm trong cơ chế rút nước của tháp nhưng do thành phần cấu tạo đặc biệt nên
tự thân chúng cũng nhanh khô ráo.
Vì vậy, các mảnh vỡ của gạch dù nằm ngoài trời nhiều năm vẫn không bị mục rả.
Liên quan đến hiện tượng tháp Chăm mau khô ráo sau những cơn mưa, nhà nghiên cứu
Trần Kỳ Phương cho rằng chỉ mỗi tường tháp được xây bằng gạch nguyên vẹn, phần bên
trong, giữa hai lớp tường “thường xây độn bằng gạch vụn được kết chặt lại bằng dầu
Rái”. Nếu đúng như vậy thì nước mưa không thể thấm sâu vào thân tháp do dầu rái ngăn
chận được nước. Như vậy, sau cơn mưa nước sẽ truyền theo thành tháp và rút xuống chân
tháp khiến tháp nhanh chóng khô ráo. Một lý do khác nữa là kết cấu móng của tháp gồm
đá tổ ong, sỏi, cát, tức toàn những vật liệu rút nước nhanh. Có lẽ do những điều trên đây
mà tháp Chăm mau khô và không bị rêu bám?
Điều dễ nhận thấy là những viên gạch tháp Chăm như được dán chặt vào nhau vì
giữa chúng không có một đường lằn chứng tỏ có sự diện diện của vôi vữa. Đến nay người
ta vẫn chưa biết rõ về chất kết dính này? Thành phần của nó gồm những gì? Phương thức
tạo ra nó như thế nào? Khi dùng kỹ thuật “dán” chặt những viên gạch lại bằng chất kết
dính thì, ngoài mục đích làm tháp vững chắc người ta còn có mục đích gì khác? Vì sao
phải cần loại hỗn hợp kết dính này mà không dùng vôi vữa để xây tháp? Người ra đoán
rằng thành phần chính của hỗn hợp kết dính đó là dầu Rái. “Về kỹ thuật xây dựng đền
tháp, xưa kia, người Champa đã dùng một loại nhựa cây, mà cư dân địa phương ngày nay
gọi là dầu Rái, tên khoa học là Dipterocarpus Alatus Roxb để kết dính những viên gạch
lại với nhau trong kết cấu tường tháp. Cây dầu Rái được trồng thành rừng tại miền Trung,
thân cây tròn và thẳng, loại nhựa cây này có thể khai thác hàng năm với dung lượng lớn,
có độ kết dính rất chặt và bền, hoàn toàn không thấm nước. Nhựa cây này rất dễ xử dụng,
đem trộn dầu Rái với đất sét khô hay bột gạch, chúng sẽ tạo thành một loại vữa dễ khô
cứng dưới nắng”.