Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Luận văn Đề tài: Kinh tế học vĩ mô

1 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

MỤC LỤC

MỤC LỤC ................................................................................................................................. 1

Nội dung yêu cầu....................................................................................................................... 3

I. Lời mở đầu............................................................................................................................. 3

II. Nội dung chính ..................................................................................................................... 4

Chương 1: Nền kinh tế Việt Nam với chỉ tiêu xuất nhập khẩu. .......................................... 4

a. Giới thiệu môn học, vị trí môn học trong chương trình học đại học. .......................... 4

b. Giới thiệu chung về nền kinh tế Việt Nam sau thời kì đổi mới đến nay...................... 5

c. Giới thiệu về xuất nhập khẩu, nêu rõ vai trò và tấm quan trọng của XNK. ............... 9

Chương 2: Tìm hiểu kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1995 – 2005.......................................................................................................................................... 18

a. Tìm hiểu và phân tích số liệu về XNK trong giai đoạn 1995 – 2005. Lập bảng thống kê số liệu và vẽ biểu đồ về XNK và tính lượng XK ròng trong giai đoạn này. ...................... 18

b. Những khó khăn và thuận lợi đối với XNK khi nước ta gia nhập WTO. ..................... 22

c. Thống kê đầy đủ các lĩnh vực xuất nhập khẩu chủ yếu của nước ta. ............................ 28

d. Chính phủ đã và đang làm gì để nâng cao cán cân thương mại.................................... 33

III. Kết luận............................................................................................................................. 35

2 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB Nội dung yêu cầu

I. Lời mở đầu

Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu những sự lựa chọn mà các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ và toàn xã hội đưa ra khi trong thực tế họ không thể có mọi thứ như mong muốn.

Theo truyền thống, kinh tế học được chia thành hai nhánh chính: Kinh tế học vi mô và Kinh tế học vĩ mô. Đối với sinh viên thuộc khối kinh tế, đây là các môn học cơ sở, cung cấp khung lí thuyết cho các môn định hướng ngành và kinh tế ngành.

Khóa học về kinh tế học nói chung và kinh tế học vĩ mô nói riêng sẽ giúp bạn hiểu những lực lượng chủ yếu định hình thế giới của chúng ta.

10 nguyên lí về kinh tế học

1. Con người phải đối mặt với sự đánh đổi.

2. Chi phí của 1 thứ là cái bạn phải từ bỏ để có được thứ đó.

3. Con người phản ứng lại các kích thích.

4. Con người hợp lí suy nghĩ tại điểm cận biên.

5. Thị trường luôn là phương thức tốt để tổ chức các hoạt động kinh tế.

6. Đôi khi chính phủ có thể cải thiện được các kết cục của thị trường.

7. Mức sống của mỗi nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa và dịch vụ của chính nước đó.

8. Thương mại sẽ làm cho mọi người đều có lợi.

9. Lạm phát sẽ tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền.

10. Xã hội luôn phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa làm phát và thất nghiệp.

3 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

II. Nội dung chính

Chương 1: Nền kinh tế Việt Nam với chỉ tiêu xuất nhập khẩu.

a. Giới thiệu môn học, vị trí môn học trong chương trình học đại học.

Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái mà chúng ta có thể nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hòa bình. Chúng ta muốn có không khí trong lành và nguồn nước sạch. Chúng ta muốn sống lâu và khỏe. Chúng ta muốn có các trường đại học, cao đẳng và phổ thông chất lượng cao. Chúng ta muốn sống trong các căn hộ rộng rãi và đầy đủ tiện nghi. Chúng ta muốn có thời gian để thưởng thức âm nhạc, điện ảnh, chơi thể thao, đọc truyện, đi du lịch, giao lưu với bạn bè, …

Việc quản lí nguồn lực của xã hội có ý nghĩa quan trọng vì nguồn lực có tính khan hiếm. Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm nhằm thỏa mãn các nhu cầu không có giới hạn của chúng ta một cách tốt nhất có thể.

Chi phí cơ hội của việc thực hiện một hành động là phương án thay thế tốt nhất, hay có giá trị nhất, mà bạn phải từ bỏ để thực hiện hành động đó.

Kinh tế học vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học, nghiên cứu về cách ứng xử nói chung của mọi thành phần kinh tế, cùng với kết quả cộng hưởng của các quyết định cá nhân trong nền kinh tế đó. Loại hình này tương phản với kinh tế học vi mô chỉ nghiên cứu về cách ứng xử kinh tế của cá nhân người tiêu dùng, nhà máy, hoặc một loại hình công nghiệp nào đó.

Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế học vĩ mô hướng vào giải đáp các câu hỏi như: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quy định những thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Thực chất chúng ta khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian khác nhau: hiện tại, ngắn hạn và dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định các biến kinh tế vĩ mô này.

Một trong những thước đo quan trọng nhất về thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia là tổng sản phẩm trong nước (GDP). GDP đo lường tổng sản lượng và tổng thu nhập của một quốc gia. Phần lớn các nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Các nhà kinh tế vĩ mô tìm cách giải thích sự tăng trưởng này. Nguồn gốc của tăng trưởng nhanh hơn các nước khác? Liệu chính sách của chính phủ có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn của một nền kinh tế hay không?

Mặc dù tăng trưởng kinh tế là một hiện tượng phổ biến trong dài hạn, nhưng sự tăng trưởng này có thể không ổn định giữa các năm. Trên thực tế, GDP có thể giảm trong một số thời kì. Những biến động ngắn hạn của GDP được gọi là chu kì kinh doanh. Hiểu biết về chu kì kinh doanh là một mục tiêu chính của kinh tế học vĩ mô. Tại sao các chu kì kinh doanh lại xuất hiện? Các lực lượng kinh tế nào gây ra sự suy giảm tạm thời trong mức sản xuất, các lực lượng nào làm cho nền kinh tế phục hồi? Phải chăng các chu kì kinh doanh gây ra bởi các sự kiện không dự tính được hay chúng bắt nguồn từ các lực lượng nội tại có thể dự tính trước được? Liệu chính sách của chính phủ có thể sử dụng để làm dịu bớt hay triệt tiêu những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế hay không? Đây là những vấn đề lớn đã được đưa ra và ít nhất cũng đã được giải đáp một phần bởi kinh tế học vĩ mô hiện đại.

Tỷ lệ thất nghiệp, một thước đo cơ bản về cơ hội tìm việc làm và hiện trạng của thị trường lao động, cho chũng ta một thước đo khác về hoạt động của nền kinh tế. Sự biến động ngắn

4 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

hạn của tỉ lệ thất nghiệp liên quan đến những dao động theo chu kì kinh doanh. Những thời kì sản lượng giảm thường đi kèm với tăng thất nghiệp và ngược lại. Một mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản đối với mọi quốc gia là đảm bảo trạng tahí đầy đủ việc làm, sao cho mọi lao động sẵn sàng và có khả năng làm việc tại mức tiền lương hiện hành đều có việc làm.

Biến số then chốt thứ ba mà cá nhà kinh tế vĩ mô đề cập đến là lạm phát. Lạm phát là hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới trong những thập kỉ gần đây. Vấn đề đặt ra là điều gì quyết định tỉ lệ lạm phát dài hạn và những dao động ngắn hạn của lạm phát trong một nền kinh tế? Sự thay đổi tỉ lệ lạm phát có liên quan như thé nào đến chu kì kinh doanh? Lạm phát có tác động đến nền kinh tế như thế nào và phải chăng ngân hàng trung ương nên theo đuổi mục tiêu lạm phát bằng không?

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, tất cả các nước trên thế giới đều điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế qua, làm cho việc trao đổi hàng hóa, luân chuyển các yếu tố sản xuất như vốn, lao động và kĩ thuật trên thế giới ngày càng thông thoáng hơn, một vấn đề được kinh tế học vĩ mô hiện đại quan tâm nghiên cứu là cán cân thương mại. Tầm quan trọng của cán cân thương mại là gì điều gì quyết định sự biến động của nó trong ngắn hạn và dài hạn? Để hiểu cán cân thương mại vấn đề then chốt cần nhận thức là mất cân bằng thương mại liên quan chặt chẽ với dòng chu chuyển vốn quốc tế. Nhìn chung, khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế giới bên ngoài so với xuất khẩu, nước đó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra đó bằng cách vay tiền từ thế giới bên ngoài, hoặc phải giảm lượng tài sản quốc tế hiện nắm giữ. Ngược lại, khi xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, thì nước đó sẽ tích tụ thêm tài sản của thế giới bên ngoài. Như vậy, nghiên cứu về mất cân bằng thương mại liên quan chặt chẽ với việc xem xét tại sao các công dân một nước lại đi vay hoặc cho vay các công dân nước khác vay tiền.

Cũng như các lĩnh vực nghiên cứu khác, kinh tế học nói chung và kinh tế học vĩ mô nói riêng có những cách nói và tư duy riêng. Điều cần thiết là phải học được các thuật ngữ của kinh tế học bởi vì nắm dược các thuật ngữ này sẽ giúp cho bạn trao đổi với những người khác về các vấn đề kinh tế một cách chính xác. Việc nghiên cứu kinh tế học có một đóng góp rát lớn vào nhận thức của bạn về thế giới và nhiều vấn đề xã hội của nó. Tiếp cận nghiên cứu với một tư duy mở sẽ giúp bạn hiểu được các sự kiện mà bạn chưa từng biết trước đó.

b. Giới thiệu chung về nền kinh tế Việt Nam sau thời kì đổi mới đến nay.

Trong hai thập niên qua, kể từ khi áp dụng những chính sách cải cách kinh tế toàn diện với nội dung cốt lõi là tự do hóa, ổn định hóa, thay đổi thẻ chế, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa ra nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về tăng trưởng kinh tế. Từ chỗ hầu như không có tăng trưởng, thì ngay sau đổi mới, trong giai đoạn 1986-1990, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi và phát triển, tuy tốc độ chưa cao. Trong nửa đầu những năm 1990, nền kinh tế liên tục tăng tốc. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995 (9,54%), tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã bị sút giảm và xuống mức đáy vào năm 1999 (1999: 4,77%), chủ yếu do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực. Bắt đầu từ năm 2000, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã liên tục cao lên. Với đà tăng trưởng bình quân hàng năm 7,3% như trong suốt giai đoạn từ năm 1990 đến nay, thì tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam sẽ gấp đôi sau khoảng 1 thập kỉ.

5 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, 1986-2007

12

10

8

6

4

2

0

1986

1988

1990

1992

1994

1996

1998

2000

2002

2004

2006

Năm Tỉ lệ

1986 2.8

1987 3.6

1988 6.4.9

1989 4.9

1990 5.1

1991 5.8

1992 8.7

1993 8.1

1994 8.8

1995 9.54

1996 9.3

Năm Tỉ lệ

1997 8.2

1998 5.8

1999 4.8

2000 6.8

2001 6.9

2002 7

2003 7.3

2004 7.7

2005 7.5

2006 8.2

2007 8.5

Ngay sau khi thực hiện Đổi mới, nước ta đã phải vấp phải một thách thức lớn: nền kinh tế bị mất ổn định nghiêm trọng. Giá cả hàng hóa và dịch vụ bắt đầu tăng tốc. Giai đoạn 1986- 1988 là những năm lạm phát phi mã, tỉ lệ lạm phát tăng lên 3 con số (1986: 774,7%; 1987: 360.4%; 1988: 374.4%) với những hậu quả khôn lường: triệt tiêu động lực tiết kiệm và đầu tư, làm đình trệ sự phát triển lực lượng sản xuất, thất nghiệp tăng nhanh, đời sống của đại bộ phận dân cư – đặc biệt là những người làm việc trong bộ máy nhà nước bị suy giảm nghiêm trọng. Năm 1989, với chương trình ổn định mà nội dung chủ yếu là áp dụng chính sách lãi suất thực dương, Việt Nam đã thành công trong việc chặn đứng siêu lạm phát. Song, kết quả này đã không bền vững: lạm phát cao đã quay trở lại trong hai năm sau đó vì thâm hụt ngân sách được duy trì ở mức thấp và đặc biệt đã không tài trợ bằng phát hành tiền; lãi suất thực dương liên tục được cải cách kinh tế và chủ động hội nhập vào nền kinh 6 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

tế khu vực và thế giới đã đưa đến những thành công đáng khích lệ: lạm phát được kiểm soát và kinh tế tăng trưởng cao. Tuy nhiên từ năm 1999, nước ta lại phải đối mặt với một thách thức mới: lạm phát quá thấp đi dùng với đà tăng trưởng kinh tế chậm lại. Với chủ trương kích cầu kịp thời, nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Bước sang năm 2004, lạm phát đột ngột tăng tốc trở thành mối quan tâm chung cho sự phát triển kinh tế ở nước ta: chỉ số giá tiêu dùng tăng 9,5%. Đây là mức tăng giá cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999 tỉ lệ lạm phát vượt ngưỡng do Quốc hội đề ra là 5%. Điều này hoàn toàn nằm ngoài dự kiến của các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế và của mọi người dân.

Tỉ lệ lạm phát hàng năm ở Việt Nam, 1986-2007

900

800

700

600

500

400

300

200

100

0

1986

1988

1990

1992

1994

1996

1998

2000

2002

2004

2006

-100

Năm Tỉ lệ

1986 1988 1987 774.7 360.4 374.4

1989 95.8

1990 36

1991 81.8

1992 37.7

1993 8.4

1994 9.5

1995 16.9

1996 5.7

Năm Tỉ lệ

1997 3.2

1998 7.7

1999 4.2

2000 -1.7

2001 -4

2002 4

2003 3.2

2004 7.7

2005 8

2006 7

2007 12.6

7 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Thực hiên đường lối đổi mới và chính sách đa phương, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, trong những năm qua Việt Nam đã tích cực thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập nền kinh tế đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Việc mở rộng đối tác và thị trường cùng với những thuận lợi do hội nhập kinh tế quốc tế đưa lại, đặc biệt là những thuận lợi do hội nhập kinh tế quốc tế đưa lại, đặc biệt là những ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan, hàng hóa Việt Nam có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới, đồng thời người tiêu dùng Việt Nam có thêm sự lựa chọn hàng hóa đến từ nhiều quốc gia trên thế giới với chất lượng cao hơn và giá rẻ hơn. Bất chấp những khó khăn bỡ ngỡ trong môi trường kinh tế mới, thương mại Việt Nam đã phát triển một cách vững chắc trong quá trình hội nhập. Xét về tổng thể, cả kim ngạch xuất khẩu lẫn nhập khẩu đều liên tục tăng. Xuất khẩu năm 2004 đạt 26,0 tỉ USD gấp 15 lần năm 1990. Trong thời kì 1990-2001, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam tăng 11,5 lần từ 2,75 tỉ USD lên 31,5 tỉ USD. Nhưng, nhìn chung Việt Nam thường có thâm hụt thương mại. Thâm hụt thương mại đã liên tục gia tăng trong những năm vừa qua và được tài trợ bằng nguồn vốn nước ngoài, tạo ra các khoản nợ nước ngoài ngày càng lớn.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đã liên tục tăng (2003 đạt gần 3,2 tỷ USD, 2004 đạt trên 4,5 tỷ USD, 2005 đạt trên 6,8 tỷ USD, 2006 đạt trên 12 tỷ USD, 2007 đạt 21,3 tỷ USD, 7 tháng 2008 đạt 45,3 tỷ USD). Xuất khẩu tăng liên tục với tốc độ cao; tỷ lệ xuất khẩu so với GDP liên tục tăng, đến năm 2007 đã đạt 68,2%. Dự trữ ngoại hối tăng khá (nếu cuối năm 2002 đạt chưa được 3,7 tỷ USD, thì đến cuối 2007 đã lên đến 21 tỷ USD). GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái tăng nhanh (nếu năm 1995 mới đạt 289 USD, năm 2002 mới đạt 440 USD, thì đến năm 2007 đã đạt 835 USD). Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam quý I tăng thấp so với cùng kỳ mấy năm trước, quý II còn tăng thấp hơn, tính chung 6 tháng chỉ tăng 6,5% và cả năm phải có sự phấn đấu quyết liệt mới có thể đạt được mục tiêu tăng 7%. Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao trong năm 2007 (12,63%), tiếp tục tăng cao trong những tháng đầu năm 2008: sau 8 tháng (tức là tháng 8/2008 so với tháng 12/2007) đã tăng tới 21,65%; tính theo năm (tức là tháng 8/2008 so với tháng 8/2007) đã tăng tới 28,32%, bình quân 8 tháng 2008 so với cùng kỳ năm trước đã tăng trên 22,14%. Tính thanh khoản của một số ngân hàng gặp khó khăn… Giá USD tháng 8/2008 so với tháng 12/2007 đã tăng 3,71%. Nhập siêu 8 tháng 2008 đã lên đến 15,97 tỷ USD, cao hơn mức kỷ lục 14,2 tỷ USD trong cả năm 2007…

Đứng trước tình hình trên, Đảng, Nhà nước đã sớm đề ra mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng bền vững. Ngân hàng Nhà nước từ giữa năm 2007 đã đưa ra nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ. Tăng dự trữ bắt buộc từ 5 lên 10% và sau đó đưa tiếp lên 11%. Khống chế tỷ lệ cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ tín dụng, sau đó sửa thành 20% vốn điều lệ theo hướng thắt chặt hơn. Khống chế tốc độ tăng dư nợ tín dụng cả năm không vượt quá 30%. Sớm có biện pháp để dập tắt cơn sốt giá USD trên thị trường tự do; đưa biên độ giao dịch mua bán USD từ ± 1% lên ± 2%… Đặc biệt đã 2 lần đưa lãi suất cơ bản từ 8,75% lên 12% và từ 12% lên 14%… Đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu… Kết quả, tốc độ tăng giá tiêu dùng đã có xu hướng giảm trong vài tháng nay, tính bình quân hai tháng qua chỉ còn tăng 1,36%/tháng, thấp hơn lãi suất huy động tính theo kỳ hạn năm hiện nay. Tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại được cải thiện. Mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm để tạo điều kiện cho sản xuất, xuất khẩu. Nhập siêu giảm dần và ở mức dưới 1 tỷ USD từ tháng 6; cán cân thanh toán tổng thể được bảo đảm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh cả về vốn đăng ký và vốn thực ..

8 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

c. Giới thiệu về xuất nhập khẩu, nêu rõ vai trò và tấm quan trọng của XNK.

Cho đến nay phân tích của chúng ta bỏ qua vai trò quan trọng của thương mại quốc tế. Điều này có thể chấp nhận được đối với một nền kinh tế tương đối đóng cửa – một nền kinh tế ít tham gia vào thương mại quốc tế, nhưng không thích hợp với một nền kinh tế tương đối mở cửa. Độ mở cửa một nền kinh tế thường được tính bằng tỉ trọng của tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP. Nền kinh tế Việt Nam tương đối mở cửa với tổng kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 127% GDP năm 2004.

Thương mại quốc tế có ảnh hưởng quan trọng đến thu nhập quốc dân. Xuất khẩu mở rộng thị trường cho các nhà sản xuất trong nước, trong khi nhập khẩu lại thu hẹp thị trường cho hàng hóa của các nhà sản xuất trong nước. Do đó, xuất khẩu và nhập khẩu ảnh hưởng đến đường tổng chi tiêu theo những cách khác nhau.

Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại.

Đơn vị tính khi thống kê về nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ (Dollar, triệu Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất định. Đôi khi, nếu chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc trọng lượng (cái, tấn, v.v...)

Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá hối đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi.

Mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu của một quốc gia được đo bằng tỷ lệ giữa giá trị nhập khẩu và tổng thu nhập quốc dân.

Vai trò của nhập khẩu

Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.

Nhập khẩu để bổ sung các hàng hóa mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về những hàng hóa mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất: Công cụ lao dộng, đối tượng lao động và lao động. Với cách tác động đó, ngoại thương được coi như một phương pháp sản xuất gián tiếp.

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, vai trò quan trọng của nhập khẩu được thể hiện ở khía các khía cạnh sau đây:

1. Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu, kinh tế theo hướng công nghiệp hóa đất nước

Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi nền kinh tế một cách cơ bản từ lao động thủ công sang lao động bằng cơ khí ngày càng hiện đại hơn.

9 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Kinh tế Việt Nam từ trước đến nay cơ bản xuất phát từ một nền sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định đến năm 2010 tỉ trọng nông nghiệp chiếm 16 – 17%; Công nghiệp chiếm 40 – 41% và Dịch vụ chiếm 42 – 43%. Để thực hiện được chỉ tiêu này nhập khẩu có vai trò rất quan trọng trong việc nhập khẩu công nghệ mới trang bị cho các ngành kinh tế như điện và điện tử, công nghiệpđóng tàu, chế biến dầu khí, chế biến nông sản… từ đó sẽ hướng các ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa.

2. Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định

Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần đảm bảo sự cân đối theo những tỉ lệ nhất định như: Cân đối giẵ khu vực 1 và khu vực 2; giữa tích lũy và tiêu dùng; giữa hàng hóa và lượng tiền trong lưu thông; giữa xuất khẩu với nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế.

Nhập khẩu có tác động rất tích cực thông qua việc cung cấp các điều kiện đầu vào làm cho sản xuất phát triển, mặt khác tạo điều kiện để các quốc gia chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận hưởng được những lợi thế từ thị trường thế giới và khắc phục những mặt mất cân bằng thúc đẩy kinh tế quốc dân phát triển.

3. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân

Nhập khẩu có vai trò làm thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, mà trong nứoc không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ như thuốc chữa bệnh, đồ điện gia dụng, lương thực, thực phẩm,…

Đảm bảo đầu vào cho sản xuất, khôi phục lại những ngành nghề cũ, mở ra những ngành nghề mới tạo nhiều việc làm ổn định cho người lao động, từ đó tăng khả năng thanh toán.

Mặt khác nhập khẩu còn trực tiếp góp phần xây dựng những ngành ngềh sản xuất hàng tiêu dùng, làm cho cả số lượng lẫn chủng loại hàng hóa tiêu dùng tăng, khả năng lựa chọn của người dân sẽ được loại hàng hóa tiêu dùng tăng, khả năng lựa chọn của người dấn sẽ được mở rộng, đời sống ngày càng tăng lên.

4. Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu

Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang và kém phát triển, vì khả năng sản xuất của các quốc gia này còn có hạn. Do vậy, nhiều quan niệm còn cho rằng, đây chính là hiện tượng “lấy nhập khẩu nuôi xuất khẩu” và sự phát triển gia công xuất khẩu ở Trung Quốc, Việt Nam là những minh chứng cụ thể.

Tạo môi trường thuận lợi cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia ra nước ngoài, thong qua quan hệ nhập khẩu cũng như các hình thức thanh toán đòi hỏi kết hợp nhập khẩu với xuất khẩu.

Xuất khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài.

Theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại việt nam 2005, xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ việt nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật

Các nhân tố tác động, Khi các nhân tố liên quan đến chi phí sản xuất hàng xuất khẩu ở trong nước không thay đổi, giá trị xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của nước ngoài và vào

10 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

tỷ giá hối đoái. Thu nhập của nước ngoài tăng (cũng có nghĩa là khi tăng trưởng kinh tế của nước ngoài tăng tốc), thì giá trị xuất khẩu có cơ hội tăng lên. Tỷ giá hối đoái tăng (tức là tiền tệ trong nước mất giá so với ngoại tệ), thì giá trị xuất khẩu cũng có thể tăng nhờ giá hàng tính bằng ngoại tệ trở nên thấp đi.

Xuất khẩu với tăng trưởng kinh tế, Trong tính toán tổng cầu, xuất khẩu được coi là nhu cầu từ bên ngoài (ngoại nhu). Mức độ phụ thuộc của một nền kinh tế vào xuất khẩu được đo bằng tỷ lệ giữa giá trị nhập khẩu và tổng thu nhập quốc dân. Đối với những nền kinh tế mà cầu nội địa yếu, thì xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, nhiều nước đang phát triển theo đuổi chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, vì xuất khẩu phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài, nên để đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững, IMF thường khuyến nghị các nước phải dựa nhiều hơn nữa vào cầu nội địa.

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta đã gia tăng nhanh chóng trong những năm qua.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đã tăng từ 2,4 tỉ USD trong năm 1990 lên trên 5,4 tỉ USD năm 1995, lên gần 14,5 tỉ USD năm 2000, lên gần 32,5 tỉ USD năm 2005, lên trên 39,8 tỉ USD trong năm 2006 và có khả năng đạt 47,5 tỉ USD trong năm 2007.

Tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP cũng tăng nhanh từ 30,8% năm 1999 lên 46,5% năm 2000, lên 61,3% năm 2005, lên 65% năm 2006 và 67% năm 2007 – thuộc loại cao so với các nước (đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN, đứng thứ 5 ở châu á và thứ 8 trên thế giới).

Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người cũng tăng từ 36,4 USD năm 1990, lên 75 USD năm 1995, lên 186,8 USD năm 2000, lên 391 USD năm 2005, lên 473,2 USD năm 2006 và khả năng năm 2007 đạt 557 USD.

Sự tăng tốc của xuất khẩu của Việt Nam do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do mở rộng thị trường xuất khẩu. Vậy từ thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.

Thứ nhất, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ nước ta đã tăng nhanh trong hơn mười năm qua.

Trước đổi mới, Việt Nam chủ yếu có quan hệ buôn bán với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ và một số nước bạn bè có cảm tình với Việt Nam. Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam bước đầu được mở rộng. Nhưng do Việt Nam còn là nền kinh tế thiếu hụt, lại vẫn còn bị bao vây cấm vận, nên số nước và vùng lãnh thổ đầu tư này vẫn còn rất ít và quy mô xuất khẩu của Việt Nam cũng còn rất nhỏ bé.

Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận, giữa Việt Nam và Mỹ thiết lập quan hệ bình thường, Việt Nam gia nhập Hiệp hội Các nước Đông Nam Á, số nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã tăng nhanh.

Đặc biệt, từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và khi Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam. Cũng vì thế mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng.

Thứ hai, trong 200 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam, số đạt trên 100 triệu USD có 28, số đạt trên 500 triệu USD có 16, số đạt trên 1 tỷ USD có 7, đứng đầu là Mỹ, tiếp đến là Nhật Bản, CHND Trung Hoa, Australia, Singapore, Đức, Malaysia, Anh.

11 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Như vậy, bên cạnh việc mở rộng thị trường, theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá, việc xác định các thị trường trọng điểm là hết sức cần thiết để giảm chi phí vận chuyển, tiếp thị quảng cáo...

Tuy nhiên, việc "bỏ trứng vào một giỏ" cũng là điều nên tránh và việc mở rộng thị trường để tăng lượng tiêu thụ, phòng tránh những rủi ro khi xảy ra ở một thị trường nào đó (chẳng hạn như việc kiện bán phá giá).

Thứ ba, trong các thị trường trên có một số thị trường truyền thống, thị trường tiềm năng, thị trường mới, thì kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam còn thấp, như Indonesia, Mông Cổ, các nước Trung Nam Á, (kể cả Ấn Độ), các nước xã hội chủ nghĩa cũ, các nước Mỹ La tinh, các nước châu Phi, các nước Châu Đại Dương (trừ Australia là thị trường lớn).

Thứ tư, trong hơn 200 nước và vùng lãnh thổ có quan hệ buôn bán với Việt Nam, thì: Việt Nam đã có vị thế xuất siêu đối với 159 nước và vùng lãnh thổ, trong đó xuất siêu lớn là Mỹ, Australia, Anh, Philippines, Đức, Bỉ,...

Việt Nam còn ở vị thế nhập siêu đối với 47 nước và vùng lãnh thổ, trong đó nhiều nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Thụy Sĩ, Ấn Độ, Kuwait,...

Theo đó, thì nhập siêu của Việt Nam chủ yếu là ở các thị trường gần, chưa phải là nơi có công nghệ nguồn; còn xuất siêu của Việt Nam lại chủ yếu là ở các thị trường xa, thị trường có công nghệ nguồn.

Vai trò của xuất khẩu

Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng ngoại tệ cho đát nước.

1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước

Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tát yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngán, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến.

Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:

- Xuất khẩu hàng hoá;

- Đầu tư nước ngoài;

- Vay nợ, viện trợ;

- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ;

- Xuất khẩu sức lao động…

Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ… tuy quan trọng, nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kì sau này. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.

12 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Ở Việt Nam, thời kì 1986 – 1990 nguồn thu về xuất khẩu hang hoá đảm bảo trên 75% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu; tương tự thời kì 1991 – 1995 là 66% và 1996 – 2000 là 50% (đó là chưa thống kê nguồn vốn thong qua xuất khẩu dịch vụ).

Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu - nguồn vốn chủ yếu để trả nợ - trở thành hiện thực.

2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển

Cơ cấu sản xuất và tiêu dung trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.

Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh té còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dung nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.

Hai là, coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở:

- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bong, sợi hay thuốc nhuộm, công nghiệp tạo mẫu… Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.

- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.

- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.

- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kĩ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.

- Thông qua xuất khẩu, hang hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.

- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường.

3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân

13 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hang xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu hút hang triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp.

Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô lẫn tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện.

4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta

Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn ccá haọt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta vừa kể lại tạo tiền đề để cho mở rộng xuất khẩu.

Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.

Bảng: Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu trung bình hàng năm(%)

Giai đoạn 1986 – 1990 1991 – 1995 1995 – 2000 2001 - 2005

Nhập khẩu 28,0 17,8 21,6 17,5

Xuất khẩu 8,2 24,3 13,9 18,8

Nguồn Tổng cục thống kê

Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.

Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm:

1. Cán cân thương mại hàng hóa bao gồm: Xuất khẩu và nhập khẩu

2. Cán cân thương mại phi hàng hóa

- Cán cân dịch vụ bao gồm: Vận tải, du lịch và các dịch vụ khác

- Cán cân thu nhập bao gồm: Kiều hối và thu nhập từ đầu tư

3. Các chuyển khoản

Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong tính toán này.

14 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.

Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.

Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán cân thanh toán.

Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh.

Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.

Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.

Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại

Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPM). MPM là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPM bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.

Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.

Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế

15 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối đoái thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam.

Tác động của cán cân thương mại đến GDP

Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế.

Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng

Bảng dưới đây trình bày một nền kinh tế với các bộ phận cấu thành ban đầu như một nền kinh tế đóng, sau đó bổ sung xuất khẩu, nhập khẩu cho nền kinh tế mở. Cột 1 là mức GDP ban đầu trong nền kinh tế đóng. Cột 2 là cầu trong nước bao gồm tổng tiêu dùng (C), đầu tư (I) và mua hàng hóa, dịch vụ của chính phủ (G). Cột 3 là xuất khẩu và vì xuất khẩu phụ thuộc tình hình kinh tế của các nước bạn hàng nên giả định nó không thay đổi. Cột 4 là

16 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

nhập khẩu, nhập khẩu chủ yếu phụ thuộc GDP nên giả định nó luôn bằng 10% GDP. Giá trị xuất khẩu ròng tại cột 5 bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, nó mang giá trị dương nếu xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu và ngược lại, sẽ mang giá trị âm. Sau khi cộng giá trị đóng góp của xuất khẩu ròng vào cầu nội địa để tạo thành tổng chi tiêu và chính là tổng cầu ta được giá trị ghi tại cột 6. Nền kinh tế mở đạt mức cân bằng khi tổng chi tiêu bằng GDP nghĩa là đường tổng chi tiêu cắt đường phân giác OO'(ứng với mức GDP ban đầu là 35 tỷ USD). Đó chính là điểm E trên đồ thị bên phải. Ở điểm này cầu nội địa chỉ có 31,5 tỷ USD nhưng cầu về xuất khẩu ròng (khoảng cách giữa đường C+G+I+X và đường C+G+I) là 3,5 nên tổng chi tiêu là 35 tỷ USD và đúng bằng GDP. Như vậy nền kinh tế mở có thể đạt mức sản lượng cân bằng ở mức xuất khẩu ròng khác 0. Tại điểm có mức xuất khẩu ròng bằng 0 (đường C+G+I cắt đường C+G+I+X), tổng cầu trong nước bằng với tổng cầu và đều bằng 63 tỷ USD. Về phía bên trái điểm này, cầu xuất khẩu ròng luôn dương, tổng cầu nội địa nhỏ hơn tổng chi tiêu và ở bên phải, cầu xuất khẩu ròng luôn âm, tổng cầu nội địa lớn hơn tổng chi tiêu.

Cân bằng trong nền kinh tế mở

GDP ban đầu

Cầu trong nước (C+I+G)

Xuất khẩu (e)

Nhập khẩu (m)

Xuất khẩu ròng (X = e - m)

Tổng chi tiêu (C+I+G+X)

75

67,5

7

7,5

-0,5

67

70

63

7

7

0

63

65

58,5

7

6,5

0,5

59

60

54

7

6

1

55

55

49,5

7

5,5

1,5

51

50

45

7

5

2

47

45

40,5

7

4,5

2,5

43

40

36

7

4

3

39

35

31,5

7

3,5

3,5

35

30

27

7

3

4

31

Số nhân trong nền kinh tế mở

Trong đồ thị trên, độ dốc của đường tổng chi tiêu C+I+G+X nhỏ hơn độ dốc của đường cầu nội địa C+G+I, điều đó là do sự "rò rỉ" qua nhập khẩu. Giả sử nền kinh tế có xu hướng tiêu dùng cận biên MPC là 0,75 thì khi GDP tăng 100 USD, chi cho tiêu dùng tăng 75 USD. Nhưng cũng theo giả định trong ví dụ này, xu hướng nhập khẩu biên MPM là 0,10 (nhập khẩu luôn bằng 10% GDP) nên chi tiêu cho nhập khẩu cũng tăng 10 USD. Do đó chi tiêu cho hàng hóa sản xuất trong nước chỉ còn tăng 65 USD mà thôi. Chính vì thế độ dốc của đường chi tiêu giảm từ 0,75 xuống còn có 0,65. Tác động của "rò rỉ" qua nhập khẩu có tác động mạnh đến số nhân của nền kinh tế. Trong nền kinh tế đóng, số nhân là 1/(1-MPC) còn trong nền kinh tế mở, do sự rò rỉ qua nhập khẩu, số nhân chỉ còn 1/(1-(MPC-MPM)). Khi không có ngoại thương, với MPC bằng 0,75 thì số nhân là 1/(1-0,75) = 4; khi có ngoại thương số nhân chỉ còn 1/(1-(0,75-0,10)) = 2.857. Những nền kinh tế nhỏ hầu hết đều rất mở, do vậy tác động của nhập khẩu đến số nhân của nền kinh tế đặc biệt quan trọng. Từ ví dụ trên có thể dễ dàng suy ra nếu xu hướng nhập khẩu biên là 0,75 thì số nhân là 1 nghĩa là hiệu ứng số nhân đã bị triệt tiêu hoàn toàn bởi rò rỉ qua nhập khẩu.

17 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Chương 2: Tìm hiểu kim ngạch xuất nhập khẩu của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1995 – 2005

a. Tìm hiểu và phân tích số liệu về XNK trong giai đoạn 1995 – 2005. Lập bảng thống kê số liệu và vẽ biểu đồ về XNK và tính lượng XK ròng trong giai đoạn này.

Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu

Tổng số

Chia ra

Nhập siêu (*)

Năm

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Triệu đô la Mỹ

13604,3 18399,4 20777,3 20859,9 23283,5 30119,2 31247,1 36451,7 45405,1 58453,8 69208,2 367809,5

5448,9 7255,8 9185,0 9360,3 11541,4 14482,7 15029,2 16706,1 20149,3 26485,0 32447,1 168090,8

8155,4 11143,6 11592,3 11499,6 11742,1 15636,5 16217,9 19745,6 25255,8 31968,8 36761,1 199718,7

-2706,5 -3887,8 -2407,3 -2107,3 -200,7 -1153,8 -1188,7 -3039,5 -5106,5 -5483,8 -4314,0 -31627,9

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng

Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất, nhập khẩu

40000

35000

30000

25000

20000

XK NK

15000

10000

5000

0

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

18 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Tốc độ tăng trưởng của các thời kì rất cao, thời kì từ 1996 – 2000 tăng gấp gần 3 lần 5 năm trước đó và đạt trên 100 tỉ đôla (tốc độ tăng bình quân mỗi năm la 17,2 5), thời kì 2001 – 2005 tăng hơn 2 lần giai đoạn trước, đạt 241 tỉ đôla (tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 18,2%). Tốc độ phát triển nhập khẩu bình quân của giai đoạn 1991 – 1995 cao nhất đạt 127,3%, tuy nhiên giai đoạn này có kim ngạch chỉ xấp xỉ 1/5 kim ngạch giai đoạn 2001 – 2005. Do tốc độ tăng trưởng ở mỗi thời kì của xuất khẩu và nhập khẩu có sự ngược chiều nhau về xu hướng nên ảnh hưởng tới cân đối thương mại, từ 1996 – 2000 tăng gần gấp 2 lần giai đoạn trước với 9,8 tỉ đôla, giai đoạn hiện nay đạt 19,3 tỉ đôla có nghĩa là tăng gần gấp 2 lần giai đoạn trước. Tuy nhiên tỉ lệ nhập siêu qua từng giai đoạn so với xuất khẩu giảm mạnh, còn 17,4% trong năm 2001 – 2005.

Chỉ số phát triển (Năm trước = 100) - % 134,4 133,2 126,6 101,9 123,3 125,5 103,8 111,2 120,6 131,4 122,5

137,7 135,2 112,9 100,4 111,6 129,4 103,7 116,7 124,6 128,7 118,4

140,0 136,6 104,0 99,2 102,1 133,2 103,7 121,8 127,9 126,6 115,0

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

(*) Xuất khẩu trừ nhập khẩu

Chỉ số xuất, nhập khẩu

160

140

120

100

80

60

40

20

0

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

XK 134.4 133.2 126.6 101.9 123.3 125.5 103.8 111.2 120.6 131.4 122.5

136.6

104

99.2

102.1 133.2 103.7 121.8 127.9 126.6

115

NK 140

19 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Một tồn tại hiện nổi lên trong bối cảnh kinh tế Việt Nam là thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai xuất phát chủ yếu từ thâm hụt cán cân thương mại. Nhập siêu Việt Nam ở vào thực trạng đáng báo động và cần tìm hướng giải quyết.

Cán cân xuất nhập khẩu (còn được gọi là cán cân thương mại) được định nghĩa bằng hiệu số giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu của một nước. Ở nước ta, từ năm 1991 đến nay, cán cân này thường xuyên ở tình trạng âm tức là kim ngạch xuất khẩu thấp hơn kim ngạch nhập khẩu và tình trạng này được gọi là nhập siêu.

Thực chất của nhập siêu chính là việc tiêu dùng quá khả năng của đất nước. Tuy nhiên, nhập siêu vẫn có thể khắc phục được nếu cán cân thanh toán bảo đảm ở mức dương. Cán cân thanh toán bao gồm cán cân thương mại và các phần chênh lệch của xuất nhập khẩu hàng dịch vụ, du lịch, đầu tư, kiều hối, trợ cấp... Như vậy, dẫu cán cân thương mại âm nhưng nếu được bù đắp bởi phần dương của du lịch, kiều hối, đầu tư... thì nền kinh tế hoàn toàn có thể khắc phục được ảnh hưởng của nhập siêu và tự chủ về ngoại tệ.

Thực trạng nhập siêu giai đoạn 1995 - 2005

Thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu giai đoạn 1995 - 2005

Đơn vị: triệu USD

Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Kim ngạch XK 5448,9 7255,8 9185,0 9360,3 11541,4 14482,7 15029,2 16706,1 20149,3 26485,0 32447,1

Kim ngạch NK 8155,4 11143,6 11592,3 11499,6 11742,1 15636,5 16217,9 19745,6 25255,8 31968,8 36761,1

Nhập siêu -2706,5 -3887,8 -2407,3 -2107,3 -200,7 -1153,8 -1188,7 -3039,5 -5106,5 -5483,8 -4314,0

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Nhìn qua số liệu trên, chúng ta có thể thấy tình hình nhập siêu của nước ta trong giai đoạn này là đáng lo ngại. Nhập khẩu luôn cao hơn so với xuất khẩu. Để phân tích nguyên nhân dẫn đến nhập siêu, cần đi vào hai khía cạnh của nhập siêu là kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu.

Cũng có nhiều ý kiến khác cho rằng, tình hình nhập siêu của Việt Nam hiện nay là do việc tiêu dùng quá khả năng của đất nước. Việc người dân tăng cường sử dụng các mặt hàng xa xỉ nhập khẩu như ô-tô, mỹ phẩm, điện thoại di động... trong thời gian qua đã ảnh hưởng mạnh đến trị giá nhập siêu. Việc thu hút đầu tư nước ngoài một cách ồ ạt, không cân nhắc đến chất lượng các dự án đầu tư cũng ảnh hưởng đến nhập siêu...

Có thể còn nhiều ý kiến khác nữa, tuy nhiên có một số vấn đề dễ thấy từ thực trạng nhập siêu nói trên:

Một là, mức nhập siêu tăng mạnh cả về tuyệt đối và tương đối như vậy là quá nhanh, vượt khỏi dự đoán của nhiều chuyên gia.

20 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Hai là, nhập siêu thể hiện khả năng cạnh tranh thấp của hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu được sản xuất trong nước. Điều này thể hiện trước hết là tăng trưởng xuất khẩu của ta chủ yếu tăng về lượng, yếu tố giá trị gia tăng chưa phải là đặc trưng của hàng xuất khẩu. Nhóm hàng nông sản của ta chủ yếu là xuất thô, với giá thấp hơn nhiều so với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực (như với Thái Lan...); các sản phẩm chế biến như dệt may, da giày hàm lượng nguyên liệu nhập khẩu còn quá cao. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ cao quá thấp (4,2% năm 2004, trong khi Trung Quốc là 30%). Việt Nam cần nhập nhiều nguyên phụ liệu, bán thành phẩm bởi vì chất lượng nhóm hàng này được sản xuất trong nước thấp.

Ba là, nhập siêu thể hiện xu hướng đầu tư thay thế nhập khẩu chiếm ưu thế nhưng hiệu quả đầu tư thấp. Trong dài hạn, cán cân thương mại sẽ được cải thiện nếu nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu và cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa tiêu dùng trong nước. Những năm qua, đầu tư và nhập khẩu ở nước ta còn tập trung lớn vào các ngành thay thế nhập khẩu, sử dụng nhiều vốn nhưng nhiều dự án đầu tư mang lại hiệu quả thấp như xi-măng, mía đường, thép, lọc dầu...

Bốn là, nhập siêu thể hiện chậm chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến.

Năm là, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu trong khi khu vực trong nước nhập siêu. Điều này thể hiện gia tăng xu hướng đầu tư thay thế nhập khẩu và yếu kém của khu vực doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Đây là một thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nước ta. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những định hướng cải thiện cán cân thương mại. Yếu tố nước ngoài hết sức quan trọng trong điều chỉnh cán cân thương mại. Đồng thời, cải cách doanh nghiệp trong nước (phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước) theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh để phát triển xuất khẩu và thay thế nhập khẩu cũng là hướng chủ đạo để cải thiện cán cân thương mại.

Sáu là, cán cân thương mại của nước ta trong thời gian qua ít chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái, một yếu tố hết sức cơ bản ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Tuy nhiên thực tế cho thấy, trong những năm qua, việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái ở nước ta ít có ảnh hưởng đến cán cân thương mại.

Nguyên nhân chủ yếu là do một tỷ trọng lớn sản phẩm xuất khẩu của ta là sản phẩm thô (dầu thô, thủy sản, cà phê, gạo, hạt điều, chè...). Sản lượng của các sản phẩm này lệ thuộc khá nhiều vào các điều kiện tự nhiên (trữ lượng tài nguyên, thời tiết, đất đai...), nên về cơ bản ít co giãn về nguồn cung ứng khi có sự thay đổi giá cả tương đối, đặc biệt trong ngắn hạn. Trong khi các sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến thường được coi là nhạy cảm hơn với sự biến động của giá cả tương đối, thì một số sản phẩm có kim ngạch khá như hàng may mặc, giày dép, điện tử, đồ gỗ lại phụ thuộc nặng nề vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, còn các sản phẩm chế biến khác lại chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nên ít khai thác được lợi thế từ sự thay đổi tỷ giá (đặc biệt là trong trường hợp phá giá đồng nội tệ). Về phía nhập khẩu, phần lớn hàng nhập khẩu của ta là máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên liệu và phụ tùng mà sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng được, và do vậy, cũng ít nhạy cảm với những biến động của tỷ giá hối đoái.

Bảy là, điểm đặc biệt là chúng ta đã có xuất siêu với nhiều nước tiên tiến có công nghệ nguồn như Mỹ, Anh, Đức, I-ta-li-a,... Riêng thị trường Mỹ, mức xuất siêu là rất lớn.

21 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

b. Những khó khăn và thuận lợi đối với XNK khi nước ta gia nhập WTO.

Thương mại quốc tế được xem như động lực của tăng trưởng và phát triển, hỗ trợ cho quá trình phân bổ các nguồn lực, nâng cao sản lượng và năng suất lao động dẫn đến việc tăng phúc lợi chung. Tạo điều kiện cho các quốc gia thể hiện lợi thế của mình và trở trở thành công cụ quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu phát triển của quốc gia.

Bên cạnh đó, thương mại quốc tế cũng đặt ra thách thức không nhỏ đối với các nhà sản xuất trong nước vì họ phải đối diện với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Bước đi quan trọng nhất mà Việt Nam cần tiến hành là việc nâng cao khả năng cung của mình trong những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh.

Gia nhập WTO đem lại cả cơ hội lẫn thách thức, đòi hỏi Việt Nam phải sớm triển khai những bước chuẩn bị cần thiết để đảm bảo tối ưu hoá những thuận lợi và giảm thiểu những nguy cơ của việc tham gia vào một nền kinh tế thế giới ngày càng được tự do hoá nhiều hơn.

Cơ hội

Gia nhập WTO sẽ mang đến cho Việt Nam những nguồn lực mới và cơ hội mới để mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá các mối kinh tế-thương mại, tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài... giúp Việt Nam tham gia vào việc xây dựng một hệ thống thương mại đa biên bình đẳng, không phân biệt đối xử và cùng có lợi. Tạo môi trường thông thoáng minh bạch, tuân thủ các nguyên tắc quốc tế.

Việt nam sẽ có cơ hội thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới, được hưởng đối xử bình đẳng và các ưu đãi thương mại cho một nước đang phát triển ở trình độ thấp. Đây là điều kiện hết sức cần thiết để Việt Nam mở rộng xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế nhờ những thành quả của đàm phán giảm thuế và mở cửa thị trường của GATT, tăng cường tiếp cận thị trường của thành viên WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng nông sản và dệt may. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ kéo theo những ảnh hưởng tích cực tới các ngành kinh tế trong nước, mở rộng sản xuất và tạo ra nhiều việc làm.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và đàm phán gia nhập WTO nói riêng đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong cơ cấu tổng thu nhập quốc dân. Cơ cấu kinh tế ngành và vùng đã có sự chuyển biến theo định hướng về lợi thế năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế, hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và khu chế xuất tập trung để hạ thấp giá thành và tạo điều kiện áp dụng khoa học công nghệ hiện đại hơn trong sản xuất và đầu tư.

Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính và cải cách doanh nghiệp nhà nước. Nhiều kết quả đáng khích lệ đã đạt được...Việc ký kết một số điều ước quốc tế quan trọng đã tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản cho việc thực hiện công cuộc đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy kinh tế phát triển và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam tiếp tục khẳng định là một quốc gia ổn định về mặt chính trị và kinh tế, cùng thực hiện các chuẩn mực điều tiết kinh tế chung với cộng đồng quốc tế. Đây là yếu tố không thể thiếu để tạo dựng niềm tin của các nhà đầu tư, thương nhân nước ngoài tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế với Việt Nam.

22 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Thách thức

Bên cạnh những cơ hội, việc gia nhập WTO cũng đặt ra hàng loạt những thách thức cho nền kinh tế xã hội trên các khía cạnh: thất nghiệp gia tăng, phân hoá giàu nghèo trong xã hội... Đặc biệt cạnh tranh trong nhiều ngành dịch vụ quan trọng như bưu chính viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... sẽ tăng đáng kể sau khi gia nhập WTO. Các cuộc cạnh tranh về chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ khốc liệt hơn trong khi năng lực cạnh tranh trong nước còn yếu. Việt Nam phải điều chỉnh hệ thống pháp luật cho phù hợp với các quy định của WTO ở nhiều lĩnh vực khác nhau như thủ tục cấp phép nhập khẩu, kiểm dịch động thực vật, các quy định liên quan đến đầu tư và sở hữu trí tuệ...

Chính sách thuế sẽ phải điều chỉnh theo quy định của WTO, trước hết là thuế xuất nhập khẩu, tiếp đến là các sắc thuế nôị địa. Thuế suất thuế nhập khẩu điều chỉnh theo hướng ngày càng giảm và đảm bảo nguyên tắc MFN (không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác nhau); Bỏ các biện pháp phi thuế, chỉ bảo hộ bằng công cụ thuế. Những điều đó không những có nhiều tác động khác nhau (cả tiêu cực và tích cực) đến môi trường kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN. Các khoản thu từ thuế nhập khẩu chỉ được thu ở mức độ bảo hộ cần thiết, không thu cao nhằm mục đích thu ngân sách. Tương tự, khoản thu phí và lệ phí liên quan đến xuất nhập khẩu, cũng chỉ thu bằng chi phí dịch vụ bỏ ra. Số thu từ thuế nhập khẩu sẽ giảm dần do thực hiện các cam kết, ước tính sẽ giảm khoảng từ 10%-20% số thu hàng năm.

Các nước gia nhập WTO đều phải cam kết “ràng buộc thuế quan”. Mức cam kết này trong một số trường hợp có thể thấp hơn mức thuế đang áp dụng. Vì vậy, nhìn chung, khi gia nhập WTO, các nước đều phải giảm thuế nhiều mặt hàng. Tuy diện mặt hàng phải giảm thuế, mức cắt giảm cũng như thời hạn cắt giảm còn tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể của các nước và khả năng đàm phán, nhưng phải chăng cứ trì hoãn cắt giảm và cắt giảm ít là tốt? là “đàm phán thành công”?. Với một cách nhìn tổng cục vì sự phát triển lâu dài của đất nước trong xu thế bất khả kháng của Hội nhập quốc tế thì cách đàm phán xin gia hạn cắt giảm thiểu chủ động tích cực trong HNQT, chỉ là một cách thể hiện của các quan điểm thiển cận.

Việc áp dụng trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo GATT là một vấn đề mới và phức tạp, triển khai và quản lý còn thiếu kinh nghiệm, đã xuất hiện hiện tượng gian lận thương mại về giá hàng nhập khẩu khá đa dạng, tinh vi nhất là những mặt hàng có thuế suất cao, giá trị lớn. Điều này cho thấy lối tư duy áp đặt giá tính thuế tuy đã lỗi thời và bị phá sản nhưng do ngự trị trong hệ thống quản lý hành chính ở nước ta quá lâu nên đã kìm hãm sự đổi mới của khu vực quản lý nhà nước, làm cho quản lý không theo kịp sự nhạy bén của các đối tượng bị quản lý.

Việt Nam sẽ phải cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế), phải có các cam kết đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tài chính trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc thực hiện các cam kết này đòi hỏi nỗ lực lớn của ngành tài chính nói riêng cũng như các cơ quan quản lý nhà nước. Đặc biệt, trong bối cảnh hệ thống luật pháp, chính sách chế độ quản lý trong nước còn thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Thậm chí, còn nhiều lĩnh vực còn chưa có văn bản quy định như tư vấn môi giới tài chính, tư vấn thuế...

Về phía doanh nghiệp, do còn yếu kém trên nhiều lĩnh vực (chất lượng , thương hiệu sản phẩm, phát triển kênh tiêu thụ và khả năng giải quyết tranh chấp), nên các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức trong việc tìm chỗ đứng trên thị trường hoặc

23 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

phát triển thị phần của mình, nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, trước các sức ép nặng nề của các dòng hàng hoá, dịch vụ, công nghệ, nhân lực và các chấn động khủng hoảng trong khu vực và toàn cầu, nhất là các cuộc khủng hoảng về tài chính tiền tệ gây hiệu ứng lan truyền.

Cải cách và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường mở cửa hội nhập không những là yêu cầu bắt buộc mà còn là đòn bẩy cho kinh tế-xã hội phát triển. Ở Việt Nam cần có đồng thời các chiến lược và các hành động cụ thể để sớm hoàn thiện hệ thống thể chế; nhanh chóng phát triển đồng bộ, đầy đủ hệ thống thị trường, đặc biệt chú trọng thúc đẩy sự phát triển thị trường tài chính và dịch vụ tài chính. Tăng cường năng lực và hiệu lực quản lý của ngành Tài chính: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế hiện hành; nghiên cứu xây dựng một môi trường pháp lý chung chặt chẽ như chế độ quản lý kế toán, chế độ quản lý thanh toán... để ngăn chặn gian lận thương mại; Nâng cao khả năng quản lý đối tượng nộp thuế, tạo điều kiện áp dụng công nghệ hiện đại vào quản lý thuế, thực hiện chuyên môn hoá cao trong các khâu công việc; Củng cố và phát triển hệ thống hải quan Việt Nam về cơ cấu và năng lực tổ chức thực hiện, về mức độ tự động hoá và trang bị các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ theo tinh thần của Luật Hải quan và các cam kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực hải quan vừa tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế, vừa triển khai có hiệu quả công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại.

Chính sách và thực tế chi tiêu của Chính phủ cần phải công khai, minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế. Tăng cường kiểm soát chi, đảm bảo chi NSNN tiết kiệm, hiệu quả. Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, thanh tra tài chính, chế độ báo cáo thông tin, bảo đảm hoạt động kinh doanh phải công khai, minh bạch; Nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính, đảm bảo lành mạnh hoá tài chính và an ninh tài chính quốc gia trong tiến trình hội nhập.

Mặt khác, Nhà nước cần đẩy nhanh việc thực hiện chương trình đổi mới và cải cách DNNN, tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc chuyển hướng kinh doanh đảm bảo tính hiệu quả.

Trong một nền kinh tế mở cửa, hội nhập, cần thiết phải đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở cấp Chính phủ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến ở thị trường ngoài nước để có định hướng chiến lược lâu dài cho các doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược đào tạo dài hạn để có một lực lượng lao động và cán bộ quản lý có trình độ cao thích ứng với đòi hỏi của hội nhập. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về cạnh tranh quốc tế qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và giám sát các hành vi lạm dụng ưu thế trên thị trường. Tăng cường phát triển các mối quan hệ hợp tác liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua các tổ chức hiệp hội, tạo sức mạnh của cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam trong cạnh tranh với đối tác nước ngoài.

Tác động của việc gia nhập WTO tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bao gồm 148 nền kinh tế thành viên chiếm 97% giá trị GDP và 95% giá trị thương mại toàn cầu. Bởi vậy, tổ chức này có thể đem lại nhiều cơ hội phát triển cho các nước thành viên, các nước là thành viên của WTO sẽ có cơ hội gắn kết hơn nữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài nhiều hơn và chung nhất là sử dụng tư cách thành viên của WTO như là sự công nhận chính thức của cộng đồng kinh tế quốc tế v.v...

24 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

1. Khái quát về hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trước “ngưỡng cửa” gia nhập WTO

Theo đánh giá chung, những năm này, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) của Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao và có mức đóng góp quan trọng vào công cuộc “đổi mới kinh tế” của đất nước. Thống kê của Bộ Thương mại cho thấy tổng kim ngạch XNK của cả nước trong các năm 2001 là 31.198 triệu USD; 2002: 36.493 triệu USD; 2003: 45.403 triệu USD; 2004: 57.526 triệu USD. Trong đó, giá trị nhập khẩu (NK) hàng hoá ở Việt Nam luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng giá trị xuất khẩu (XK) và thâm hụt thương mại vẫn tồn tại. Tỷ lệ và giá trị hàng hoá nhập siêu tăng nhanh: Năm 2001: 1.135 triệu USD; 2002: 3.027 triệu USD; 2003: 5.057 triệu USD; bằng 25,03% kim ngạch xuất khẩu; 2004: 5.520 triệu USD bằng 20,6% kim ngạch xuất khẩu. Nếu tính chung giai đoạn 2001-2004, mức nhập siêu bình quân của Việt Nam là 19,14%. Chỉ trong 4 tháng đầu năm 2005, mức nhập siêu của Việt Nam đã là 1.776 triệu USD (bằng 18,2% kim ngạch xuất khẩu).

Điều đáng quan tâm là hiện tượng nhập siêu chủ yếu xuất hiện tại khu vực kinh doanh có 100% vốn trong nước, và được tập trung vào các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu song họ lại phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài nhƯ: dệt may, da giầy, gỗ và các sản phẩm bằng gỗ... Ngoài ra, nhiều mặt hàng tiêu dùng và các mặt hàng trong nước có khả năng sản xuất nhưng vẫn được nhập khẩu.

Từ thực tế trên, cho thấy để cải thiện cán cân thương mại cũng như thu hẹp khoảng cách trong hoạt động XNKcần phải có nhiều giải pháp. Khi chính thức trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có được nhiều lợi ích cả trong hoạt động NK cũng như XK.

2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động XNK

WTO là tổ chức kinh tế đa phương, nhằm thúc đẩy tự do hoá thương mại, hội nhập kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Với một thiết chế tổ chức chặt chẽ, hoạt động theo 5 nguyên tắc: - Thương mại không phân biệt đối xử. - Tạo dựng một nền tảng ổn định cho phát triển thương mại. - Đảm bảo thương mại ngày càng tự do thông qua đàm phán. - Tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. - Dành điều kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển.

Vì vậy, trên phương diện chung khi trở thành thành viên của WTO sẽ tạo cho kinh tế Việt Nam có thế và lực trên trường quốc tế. Việt Nam sẽ có vị thế bình đẳng, được thụ hưởng các quyền lợi của một thành viên đang phát triển trong WTO, cùng các nước đang phát triển xây dựng quy định, luật lệ của WTO, hạn chế được sự áp đặt đơn phương bất bình đẳng của các nước đối với ta về kinh tế, xã hội, lao động, môi trường... Ngoài ra, chúng ta còn được tiếp cận hệ thóng giải quyết tranh chấp thương mại công bằng và hiệu quả của WTO.

Việt Nam là nước đang trong quá trình CNH, HĐH phải nhập khẩu nhiều thiết bị công nghệ, và nguyên liệu đầu vào của mộ số ngành công nghiệp có tỷ trọng lớn trong xuất khẩu như dệt may, điện tử, đồ gỗ, v.v... Đồng thời, lại là một nước công nghiệp có nhiều mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều và thuỷ sản. Do đó, việc tham gia WTO sẽ đem lại cho hoạt động XNK những lợi ích nhất định. Cụ thể là:

Đối với nhập khẩu

Nghiên cứu về tác động của gia nhập WTO đã chỉ ra rằng, việc là thành viên của GATT/WTO có quan hệ chặt chẽ với sự tăng lên đáng kể của nhập khẩu từ các nước công nghiệp, tuy nhiên nghiên cứu cũng không chắc chắn trong trường hợp thành viên là các 25 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

nước đang phát triển. Trên cơ sở phân tích thực tiễn hoạt động XNK Việt Nam thời gian qua, có thể khẳng định với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội nhập hàng hoá có chất lượng và giá cả cạnh tranh, đáng chú ý là khối lượng hàng hoá NK có thể tăng nhưng giá trị kim ngạch NK có thể tăng hoặc tăng không đáng kể.Và người Việt Nam sẽ có lợi trong việc tiêu dùng của mình.

Việc nhập khẩu hàng hoá diễn ra dễ dàng sẽ làm cho hoạt động sản xuất-kinh doanh thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp phải NK công nghệ và nguyên liệu đầu vào.

Tuy nhiên với việc loại bỏ, cắt giảm hàng rào thuế quan theo các cam kết đối với hàng hoá NK theo hạn định của WTO cũng đồng thời làm gia tăng sức cạnh tranh đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong nước khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung còn hạn chế.

Đối với xuất khẩu

Trên thực tế, việc gia nhập WTO thúc đẩy XK quốc gia hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ví như về mặt khách quan có thể bao gồm hai yếu tố sau: - Sự thay đổi các rào cản nước ngoài mà các nhà XK ở nước gia nhập WTO có thể nhận được. - Các nhà XK hoặc là không nhận thấy hoặc là không có khả năng khai thác được lợi thế tiếp cận thị trường tốt hơn ở nước ngoài.

Điều này có thể do thiếu thông tin, do cơ sở hạ tầng đắt đỏ hoặc không hiệu quả ở nước xin gia nhập, hoặc thiếu kinh nghiệm trong việc vận chuyển hàng hoá ra nước ngoài... Mặt khác, về chủ quan việc gia tăng XK trong điều kiện gia nhập WTO còn phụ thuộc vào những bước đi cần thiết mà chính phủ và các doanh nghiệp ở nước xin gia nhập tiến hành.

Trong trường hợp của Việt Nam, những năm qua mặc dù cán cân thương mại chưa được cải thiện hiệu quả, nhập siêu vẫn còn ở mức cao nhưng khả năng XK vẫn chiếm tới 50% GDP và việc thúc đẩy mạnh XK đã và đang có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế.

Hiện tại hàng loạt các mặt hàng chủ lực trong XK của Việt Nam vẫn không ngừng tăng về số lượng và mở rộng quy mô thị trường. Ví như các sản phẩm đồ gỗ XK của nước ta được đánh giá là một trong những nhóm hàng XK có tốc độ tăng trưởng cao và kim ngạch lớn. Trong vài năm gần đây, kim ngạch XK sản phẩm gỗ của Việt Nam tăng trung bình 30%/năm, từ 320 triệu USD năm 2000 lên 1,054 tỷ USD năm 2004 và đạt khoảng 1,6 tỷ USD năm 2005. Với đà tăng trưởng này và xét điều kiện nguyên liệu trong nước hạn chế, Bộ Thương mại chủ trương mở rộng nhập khẩu gỗ từ các thị trường mới có tiềm năng; đồng thời, xem xét khả năng cho phép các doanh nghiệp trong nước có khả năng và có đầu mối được nhập khẩu gỗ để bán cho các nhà sản xuất trực tiếp. Giải pháp này vừa góp phần tạo thị trường gỗ nguyên liệu, mà về lâu dài cũng phù hợp với yêu cầu mở cửa lộ trình gia nhập WTO của nước ta.

Bên cạnh mặt hàng gỗ, các sản phẩm thuỷ sản cũng là một bức tranh khá sáng sủa. Tổng sản lượng thuỷ sản Việt Nam 7 tháng đầu năm 2005 ước tính đạt 1,8 triệu tấn, tăng 7,7% so cùng kỳ năm 2004. Về kinh nghiệm xuất khẩu 7 tháng đầu năm cả nước ước đạt 1.167 triệu USD, tăng trên 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Mặt khác EU cũng công nhận thêm 20 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, nâng tổng số doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường EU lên 170 doanh nghiệp. Có thể nói, triển vọng của xuất khẩu thuỷ sản rất lớn nhất là khi Việt Nam chính thức tham gia WTO.

26 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Mặt hàng gạo cũng đạt mức XK cao. Tính đến thời điểm hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam đã ký hợp đồng XK 3 triệu tấn gạo. Giá gạo XK của Việt Nam hiện vẫn đứng ở mức khá cao so với giá của hồi đầu năm và theo dự báo, mặt hàng này cũng có triển vọng lớn trong thời gian tới.

Như vậy có thể nói hoạt động XK của Việt Nam hiện nay đang nắm giữ những thành quả đáng khích lệ trong lĩnh vực thương mại. Và với đà tăng trưởng như hiện nay thì khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO , chắc chắn khả năng XK của Việt Nam sẽ không ngừng lớn mạnh về cả kim ngạch lẫn quy mô thị trường. Sở dĩ, có thể khẳng định như vậy là vì:

Thứ nhất, khi tham gia WTO Việt Nam có cơ hội mở rộng XK các mặt hàng mà đất nước có thế mạnh, như nông sản, thuỷ sản, may mặc, giầy dép, thủ công mỹ nghệ, các hàng hoá sử dụng nhiều lao động. Trong đó đáng kể là mặt hàng dệt may-một mặt hàng mà hiện tại Việt Nam đang chịu nhiều thiệt thòi do bị bó buộc bới hạn ngcạh vì chưa là thành viên của WTO Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, dù chưa tham gia vào WTO, Việt Nam đã thiết lập khá ổn định sự có mặt đáng nể trong thị trường hàng dệt may toàn cầu. Do vậy, có thể nói sản phẩm dệt may của Việt Nam sẽ góp phần đáng kể vào việc gia tăng thị phần xuất khẩu của Việt Nam khi Việt Nam chính thức tham gia WTO với tư cách thành viên của tổ chức này.

Thứ hai, xuất khẩu của Việt Nam sẽ không bị bó hẹp trong các Hiệp định song phương và khu vực mà sẽ có thị trường toàn cầu.

Các doanh nghiệp và hàng hoá của ta sẽ không bị phân biệt đối xử so với doanh nghiệp và hàng hoá của các nước khác theo điều kiện đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Vì thế, thị trường xuất khẩu của ta sẽ không ngừng mở rộng. Vấn đề lúc này chỉ là việc các doanh nghiệp và sản phẩm hàng hoá của ta phải tự khẳng định được mình trên thị trường thế giới, điều đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành phải có chiến lược hội nhập hiệu quả ngay từ khi Việt Nam chưa là thành viên của WTO.

Thứ ba, hệ thống kinh tế - thương mại dựa trên nguyên tắc chứ không phải là sức mạnh sẽ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh dễ dàng hơn với tất cả các nước thành viên, và Việt Nam sẽ không là ngoại lệ.

WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp tạo điều kiện để các nước nhỏ bảo vệ được lợi ích của mình hoặc có nhiều tiếng nói hơn. Vì vậy, nếu Việt Nam đã là thành viên của WTO thì vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa đã có thể kiện lên WTO để giải quyết; khi đó các phán quyết có thể công bằng hơn so với phán quyết đơn phương của Hoa Kỳ như vừa qua.

Thứ tư, tham gia WTO sẽ góp phần làm cho hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các đối tác kinh doanh yên tâm đầu tư và làm ăn với các doanh nghiệp Việt Nam. Qua đó sẽ tăng khả năng thu hút vốn, công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý và gia tăng thương mại đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Kinh nghiệm ở Trung Quốc cho thấy, sau khi gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài tăng vọt lên 50 tỷ USD.

Nói như vậy, không có nghĩa là việc trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ mở ra một thị trường “lý tưởng” cho thương mại của Việt Nam nói chung và xuất khẩu nói riêng. Mà trên thực tế, sẽ có không ít những thách thức mà cả nền kinh tế và cả lĩnh vực XK phải đối mặt khi tham gia tổ chức này.

27 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

c. Thống kê đầy đủ các lĩnh vực xuất nhập khẩu chủ yếu của nước ta.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu:

Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Crôm Triệu đô la Mỹ 4.5 3.4 2.9 8.1 9.0 1.9

Dầu thô Than đá Nghìn tấn Nghìn tấn 7652.0 2821.0 8705.0 3647.0 9638.0 3454.0 12145.0 3162.0 14881.9 3259.0 15423.5 3251.2 16731.6 4291.6 16876.0 6047.3 17142.5 7261.9 19500.6 11636.1 17966.6 17987.8

3283.0 3029.0 2505.0 2389.0 2357.0 3301.0 2233.0 1668.0 1953.0 1843.0

Thiếc Hàng điện tử, máy tính và linh kiện Tấn Triệu đô la Mỹ 788.6 709.5 605.4 854.7 1062.4 1427.4

Sản phẩm từ plastic Dây điện và cáp điện " " 95.5 129.5 119.6 181.0 143.4 187.7 170.2 291.7 239.2 389.7 357.7 518.2

" " 66.6 129.4 183.3 122.7 237.2 235.2 382.1 158.4 470.9

" " 296.4 765.5 530.0 993.1 978.4 1502.6 1031.0 1450.0 1387.1 1746.2 1471.7 1891.9 1587.4 1975.4 1875.2 2732.0 2691.1 4429.8 3038.8 4772.4 155.4 243.3(*) 2260.5 3609.1

Xe đạp và phụ tùng Ba lô, túi, cặp, ví(*) Giày, dép Hàng dệt, may Hàng mây tre, cói, lá, thảm " 30.8 61.7 48.4 36.8 62.2 92.5 103.1 113.2 141.2 171.7 157.3

" 22.0 30.9 54.4 55.1 83.1 108.4 117.1 123.5 135.9 154.6 255.3

Hàng gốm sứ Hàng sơn mài, mỹ nghệ " 18.7 20.7 43.1 12.9 22.5 36.2 34.0 51.0 59.6 90.5 89.9

Hàng thêu " 20.4 11.0 13.8 35.3 32.6 50.5 54.7 52.7 60.6 91.6 78.4

Hàng rau, hoa, quả Hạt tiêu " Nghìn tấn 56.1 18.0 90.2 25.3 71.2 24.7 52.6 15.1 106.6 34.8 213.1 36.4 344.3 57.0 221.2 78.4 151.5 73.9 177.7 110.5 235.5 109.9

Cà phê Cao su " " 248.1 138.1 283.7 194.5 391.6 194.2 382.0 191.0 482.0 263.0 733.9 273.4 931.1 308.1 722.2 454.8 749.4 432.3 976.2 513.4 912.7 554.1

Gạo Hạt điều nhân " " 1988.0 19.8 3003.0 16.5 3575.0 33.3 3730.0 25.7 4508.3 18.4 3476.7 34.2 3720.7 43.6 3236.2 61.9 3810.0 82.2 4063.1 104.6 5254.8 109.0

28 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

115.1 127.0 86.4 86.8 56.0 78.2 106.1 82.4 46.0 54.7 76.1

" Triệu đô la Mỹ 12.1 10.2 28.8 12.0 11.6 41.7 27.3 21.1 39.9 35.6 25.6

" 59.7 98.4 91.4 82.5 100.9 129.6

Lạc nhân Thịt đông lạnh và chế biến Thực phẩm chế biến từ tinh bột & bột ngũ cốc Sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa " 80.4 191.5 85.9 67.2 34.3 85.3

Đường " 28.9 32.4 9.4 10.7 0.5 0.3

18.8 20.8 32.9 33.0 36.0 55.7 67.9 77.0 58.6 104.3 91.7

Chè Dầu, mỡ động, thực vật Nghìn tấn Triệu đô la Mỹ 30.1 23.5 22.1 36.1 13.7

Gỗ và sản phẩm gỗ " 311.4 343.6 460.2 608.9 1101.7 1561.4

Quế 6.4 2.8 3.4 0.8 3.2 3.5 3.8 5.1 4.9 8.3 8.3

621.4 696.5 782.0 858.0 973.6 1478.5 1816.4

290.9 35.9 68.4 324.7 76.0 92.5 367.7 89.9 89.6 431.7 69.7 60.8 415.5 112.3 107.3 631.4 172.4 76.8 846.2 248.8 139.7 2021.7 715.7 337.5 83.7 2199.6 943.6 333.7 136.3 2408.1 1084.5 491.5 62.5 2732.5 1265.7 608.8 73.9

Nghìn tấn Triệu đô la Mỹ " " "

Hàng thủy sản Trong đó Tôm đông Cá đông Mực đông (*) Số liệu từ năm 2004 bao gồm cả mũ, ô dù.

29 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu:

Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Chiếc 16362 28269 29355 21355 24961 21279

" 252 920 757 1436 3542 5447

Ô tô nguyên chiếc Loại 12 chỗ ngồi trở xuống Loại trên 12 chỗ ngồi " 1996 3066 1161 1006 1059 749

15774 8901 10575 Ô tô tải Ô tô loại khác " " 12223 13048 1066 22168 2115 24911 2526 16094 2819 16445 3915 12334 2749 6981

Triệu đô la Mỹ 296.4 242.6 325.1 402.3 378.2 447.2

" 23.0 37.1 58.0 54.8 87.4

" 32.1 31.4 74.9 57.1 64.0

" 56.8 114.9 128.1 131.9 164.8

" 118.7 197.8 294.2 280.2 254.9 255.8

" 22.6 67.9 86.5 61.4 52.8 63.3

" 13.0 31.9 33.8 568.5 658.2 65.9

" 141.4 206.4 211.2 302.6 378.1 598.2

" 61.7 73.9 86.7 98.9 106.2 130.9

Thiết bị, phụ tùng ngành dệt, may Thiết bị, phụ tùng ngành da, giày Thiết bị, phụ tùng ngành giấy Thiết bị, phụ tùng ngành nhựa Máy và phụ tùng máy XD Máy và phụ tùng máy SX xi măng Máy móc, thiết bị hàng không Máy móc, thiết bị thông tin liên lạc Máy và phụ tùng máy CNTP Linh kiện điện tử, máy tính nguyên chiếc và linh kiện " 892.8 710.1 701.2 1014.1 1349.5 1638.6

5003.2 6852.0 7425.4 8747.3 9083.0 Xăng, dầu các loại Trong đó Nghìn tấn " 5933.1 5960.0 9970.5 9936.4 11047.8 11477.8

" " Xăng Dầu diesel 1043.5 2271.0 1090.1 1081.3 2795.5 3101.8 1201.0 3526.0 1325.0 3478.3 1480.1 4133.2 1731.7 4079.7 2098.3 4434.3 2180.3 4650.3 2604.4 5479.6 2630.1 5876.7

30 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Dầu mazut " 867.5 1072.5 1021.6 1321.0 1878.9 2367.6 2365.9 2582.3 2376.5 2117.9 2199.5

314.7 381.7 243.9 273.0 Dầu hỏa Nhiên liệu máy bay 267.7 387.7 225.4 524.8 259.7 424.6 335.1 418.5 310.9 358.2 425.8 332.8 438.6

19.2 24.3 12.7 11.7 16.6 18.5 Dầu mỡ nhờn " " Triệu đô la Mỹ

Nghìn tấn 2311.0 3448.0 3702.8 3971.3 3288.2 2787.1 2526.7 Phân bón Trong đó: 3820.2 4135.1 4064.8 2915.0

1658.3 1480.0 1356.2 1944.0 1893.0 Phân SA Phân urê " " 436.4 2108.3 390.0 1652.0 549.0 1818.0 509.0 1926.0 671.1 1709.5 731.8 858.4

Phân NPK Phân DAP " " 200.1 591.0 127.0 574.0 275.0 613.0 219.0 767.0 311.6 596.8 169.5 606.3

Phân kali Loại khác " " 411.5 224.0 483.0 62.2 517.0 48.2 662.0 52.1 696.3 79.5 456.5 93.4

1116.2 1786.0 Sắt, thép Trong đó: Phôi thép 1548.5 1400.9 2253.6 2845.0 1227.0 3870.1 1772.0 4945.9 2217.0 4622.8 1855.0 5152.0 2278.3 5495.1 2239.7

Chì " Triệu đô la Mỹ 13.2 11.7 16.6 17.4 34.5 43.4

Đồng Kẽm " " 82.5 36.9 58.5 35.4 109.0 39.3 137.9 44.9 259.6 66.8 340.2 66.0

Nhôm Kính xây dựng " " 140.5 7.6 112.6 4.6 179.3 10.8 247.1 9.3 348.0 8.3 357.4 14.2

Hoá chất Chất dẻo 229.8 278.2 333.1 348.6 " " 322.4 551.0 275.7 530.6 383.4 426.4 613.5 529.0 829.0 703.4 1251.5 921.4 1516.9

Malt Nhựa đường " " 41.1 53.2 35.3 35.7 46.3 64.3 59.5 51.1 56.9 42.0 57.8 39.6

Bông " 90.4 68.2 37.4 41.5 67.6 83,3 115.4 111.6 105.4 191.6 170.0

194.6 " 89.1 237.3 263.0 195.7 192.4 244.5 119.1 228.4 119.0 272.6 158.7 317.5 191.0 384.3 213.2 399.8

143.5 214.5 133.1 243.7 Xơ dệt (Sợi chưa xe) Sợi dệt Thuốc trừ sâu và nguyên liệu Clanke 124.4 635.6 129.8 861.6 126.3 785.8 " Nghìn tấn 100.4 959.3 102.8 1498.6 116.5 3500.5 116.1 4131.1 142.8 4084.4 168.3 4375.5

31 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Triệu đô la Mỹ Giấy các loại 164.2 184.7 232.3 292.6 367.1 411.0

Trong đó

50.8 43.7 55.8 53.1 37.8 47.5 "

58.3 59.5 73.8 90.4 99.3 118.4 "

Giấy Kraft Nguyên, phụ liệu tân dược Nguyên, phụ liệu giày dép 504.2 553.4 641.5 768.7 809.3 843.3 "

221.7 414.3 592.5 710.6 108.6 917.4 761.3 1036.2 880.2 1069.3 1523.1 1264.9 1805.4 1443.7 2066.6 1438.7 2474.2 " "

97.0 100.2 79.9 111.3 88.3 107.6 125.6 145.4 143.4 152.3 163.5 "

Phụ liệu may Vải các loại Nguyên phụ liệu sản xuất thuốc lá Dầu, mỡ động thực vật 89.0 86.2 145.0 166.3 244.2 192.3 "

Bột mỳ 254.2 296.0 151.6 271.0 159.4 86.7 65.6 61.6 52.1 48.2 38.8

Nghìn tấn Triệu đô la Mỹ 77.8 101.3 113.5 125.7 162.8 200.6

Lúa mỳ Sữa và sản phẩm từ sữa 58.7 70.4 63.1 78.8 100.8 140.9 246.7 133.2 170.8 201.2 278.9 "

69.1 206.5 340.4 312.3 262.5 325.0 16.6 328.6 30.5 349.7 39.5 399.7 48.1 427.9 78.0 507.6 85.5 " "

Tân dược Điều hoà nhiệt độ Xe máy (kể cả linh kiện đồng bộ) Trong đó 458.5 472.1 247.2 383.8 502.3 787.0 634.8 422.7 328.7 452.2 541.4 " "

0.3 1.5 1.1 38.2 39.4 65.7 "

Nguyên chiếc Linh kiện CKD, SKD, IKD 786.7 633.3 421.6 290.5 412.8 475.7 "

32 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

d. Chính phủ đã và đang làm gì để nâng cao cán cân thương mại. Để kiểm soát được nhập siêu, hạn chế nhập siêu thì vẫn cần xét trên quan điểm hai mặt của vấn đề là nhập khẩu và xuất khẩu. Hạn chế nhập siêu tức là tăng cường thúc đẩy xuất khẩu và thắt chặt nhập khẩu. 1- Các chính sách tăng cường xuất khẩu Các biện pháp và chính sách xuất khẩu đã được bàn rất nhiều ở các tài liệu, công trình nghiên cứu ở các cấp, chúng tôi chỉ trình bày một số ý kiến tập trung chủ yếu vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu: - Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng gia tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến dựa vào lợi thế lao động và công nghệ để tăng về quy mô, đồng thời nhanh chóng chuyển sang phát triển các ngành sản xuất xuất khẩu dựa vào vốn và kỹ thuật cao để gia tăng giá trị. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, cần tập trung phát triển các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động. Từng bước xây dựng nền tảng để phát triển những ngành kinh tế dựa vào công nghệ cao và tri thức, đặc biệt chú trọng phát triển các ngành dịch vụ như thông tin, tài chính, du lịch, giáo dục và đào tạo. - Giảm chi phí kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Đánh giá lại khả năng cung cấp dịch vụ và mức giá dịch vụ để có hướng giảm bớt chi phí sản xuất nhằm tạo môi trường thuận lợi và giảm chi phí đầu vào, chi phí trung gian cho doanh nghiệp, trước hết là giảm giá các hàng hóa và dịch vụ công có tác động làm tăng chi phí sản xuất của hàng hóa và dịch vụ như giá điện, nước, bưu chính viễn thông, năng lượng, cước phí vận tải, phí dịch vụ bến cảng, sân bay, dịch vụ hành chính. - Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp, trước hết là doanh nghiệp nhà nước. Có chính sách tiếp thêm sức mạnh cho khu vực tư nhân. Trước mắt, cần có chính sách toàn diện tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, xóa bỏ các rào cản hạn chế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm xuất khẩu. Thay bằng việc bán sản phẩm thô, hay hàng gia công rẻ như may mặc, da giày, chúng ta phát triển các sản phẩm đã qua chế biến, tạo dựng thương hiệu cho các sản phẩm gia công đã thâm nhập thành công vào thị trường các nước tiên tiến. Tập trung phát triển một vài sản phẩm mang tính thương hiệu của Việt Nam ở các ngành nghề mà Việt Nam đang có thế mạnh như nông sản, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, may mặc, da giày,.. sau đó phát triển rộng ra các mặt hàng khác. - Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến và quảng bá thương hiệu Việt Nam tại các nước mà hàng Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường để củng cố vị trí sản phẩm, củng cố thương hiệu, từ đó phát triển bền vững sang các thị trường khác. Các cơ quan xúc tiến thương mại cần hoạt động hiệu quả hơn, trợ giúp các doanh nghiệp một cách thiết thực hơn bằng cách gửi thông tin miễn phí hằng tuần, hằng tháng về các nghiên cứu, đặc thù của từng thị trường, các thông tin về hội chợ, triển lãm... đến các doanh nghiệp qua email (hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đều sử dụng email) hoặc có những hình thức hỗ trợ thực sự hiệu quả khác; tránh việc các nghiên cứu về thị trường rất chi tiết của các cơ quan xúc tiến thương mại lại không đến được đúng đối tượng cần sử dụng. - Chính phủ cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận với nguồn vốn hiệu quả hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng và các doanh nghiệp nói chung đang chịu gánh nặng về việc thiếu vốn và phải vay với lãi suất cao của ngân hàng (21%/năm). Nên chăng Chính phủ chỉ đạo ngân hàng đề ra các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu như: tăng biên độ cho vay xuất khẩu, ví dụ trước kia là 30% thì nay tăng lên thành 50% hay giảm mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các quỹ tín dụng phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc cho vay ngoại tệ, bảo đảm chính sách tỷ giá hài hòa với các doanh nghiệp xuất khẩu để nhập nguyên vật liệu đầu vào cho chế biến là hết sức quan trọng. 33 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

Hơn nữa, một vấn đề hiện các doanh nghiệp xuất khẩu đang sử dụng nhiều lao động cũng hay gặp phải đó là tình trạng thiếu lao động được đào tạo, đình công, bãi công ở những ngành nghề nhiều lao động như dệt may, da giày, chế biến thủ công... đang xảy ra trên diện rộng và cần có sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền và các đoàn thể. Vấn đề về điện, nước, kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần được ưu tiên. Tình trạng kết cấu hạ tầng như cảng biển, hệ thống giao thông bị quá tải đã tác động mạnh tới giá thành của sản phẩm. Tình trạng cắt điện thường xuyên dù có hoặc không báo trước đều dẫn đến rất nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp. 2 - Các chính sách quản lý nhập khẩu - Chính phủ sớm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: hoàn thiện danh mục biểu thuế nhập khẩu tương thích với danh mục hải quan của Tổ chức Hải quan thế giới; hoàn thiện các mức thuế suất trong biểu thuế vừa bảo đảm không vi phạm các cam kết quốc tế, vừa bảo đảm yêu cầu bảo hộ; áp dụng trị giá tính thuế theo WTO; đa dạng cách tính thuế nhập khẩu; thực hiện chính sách tự vệ thông qua thuế nhập khẩu; thu hẹp các trường hợp miễn giảm thuế; thay đổi các hình thức nợ thuế hiện nay sang cơ chế tín dụng thông quan và áp dụng các biện pháp chế tài cụ thể; cải cách thủ tục hành chính về thuế xuất nhập khẩu; đổi mới và tăng cường công tác đào tạo và tuyên truyền chính sách thuế xuất nhập khẩu; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật để tổ chức thực hiện tốt chính sách thuế xuất nhập khẩu; hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan tới chính sách thuế xuất nhập khẩu. - Đối với các biện pháp phi thuế quan: việc sử dụng các biện pháp phi thuế quan phải phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập quốc tế; chỉ sử dụng các biện pháp này ở một số lĩnh vực có chọn lọc nhằm di chuyển nguồn lực, cải tiến cơ cấu kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh hay hỗ trợ các lĩnh vực định hướng xuất khẩu. Các biện pháp phi thuế quan cần nhất quán và rõ ràng. Việc thực hiện các biện pháp phi thuế quan cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế quốc tế, như thay thế các biện pháp cấm nhập khẩu bằng các biện pháp quản lý hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu. - Hoàn thiện và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với công nghệ nhập khẩu, sử dụng các tiêu chuẩn về môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn ISO để hạn chế nhập khẩu công nghệ lạc hậu, công nghệ cũ, hàng hóa không sạch. Tích cực hợp tác khu vực nhằm hài hòa hóa tiêu chuẩn. Cần tăng cường bảo hộ nhập khẩu hàng hóa theo tiêu chuẩn và kỹ thuật (được WTO thừa nhận) nhằm hạn chế máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, có tác động không nhỏ đến hiệu quả vay nợ nước ngoài và tính cạnh tranh ngành và sản phẩm hàng hóa Việt Nam. - Hạn chế, quản lý chặt chẽ hàng nhập khẩu, không khuyến khích tiêu dùng hàng xa xỉ thông qua hệ thống ngân hàng không và hạn chế cho vay tiêu dùng những hàng này; quản lý thông qua thuế, phí và các thủ tục nhập khẩu. Ngay cả với các mặt hàng cần thiết cho sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu và phục vụ xuất khẩu, trong từng giai đoạn nhất định (ví dụ từ nay đến cuối năm 2008), các doanh nghiệp sản xuất cần tính toán mức nguyên liệu đủ để sản xuất xuất khẩu, tránh tình trạng nhập khẩu nhiều nguyên liệu làm đẩy mạnh nhập siêu. Bên cạnh các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, để quản lý nhập siêu cần phối hợp đồng bộ các chính sách khác như: cải thiện môi trường đầu tư và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa; đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; đề ra chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu mà vẫn thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển. Như vậy, để giảm nhập siêu không chỉ phải hạn chế nhập khẩu mà đòi hỏi phải nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nhằm gia tăng xuất khẩu. Hay nói cách khác, muốn hạn chế được nhập siêu các cơ quan chức năng phải sử dụng đồng bộ các giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất của nền kinh tế.

34 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2

Trường ĐHHH Bài tập lớn KTVM Khoa KTVTB

III. Kết luận. Nền kinh tế thế giới đang dần dần trở thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi nền kinh tế quốc gia là một đưon vị độc lập, tự chủ nhưng lại là những bộ phận có quan hệ hữu cơ và phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế và khoa học công nghệ. Chính vì vậy, về mặt này hay mặt khác tất cả các quốc gia đều phụ thuộc vào nước ngoài với mức độ khác nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Đối với nước ta, một nước nghèo kém phát triển, nông nghiệp lạc hậu, trang bị kĩ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp, nhưng có những tiềm năng chưa được khai thác. Để đảm bảo đường lối xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học công nghệ với nước ngoài là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp bách.

Trước những biến động kinh tế phức tạp, việc đưa ra những kế sách phù hợp là rất quan trọng. Vấn đề xuất nhập khẩu luôn luôn là vấn đề được chú trọng, không những giúp điều tiết cán cân thanh toán, điều tiết sản xuất trong nước mà còn thể hiện vai trò cũng như vị thế cuả mỗi quốc gia trên thế giới.

35 Sinh viên: Trần Ngọc Thúy Lớp: KTB48 – ĐH2