Loại bỏ sai sót trong truyền thông bảo tồn
Khi nguồn tin báo chí bị thiếu sót, sai lệch
Vviệc nhanh chóng được lan truyền trên các báo, thậm chí còn được đăng lại
trên nhiều trang nhật ký nhân và mạng xã hội. Ngày m sau, “cá nhám voi”
(whale shark) trthành một trong những tkhóa được dùng nhiều nhất thông qua
trang tìm kiếm trực tuyến Google.
Để kiểm chứng thông tin, một nhóm nghiên cứu viên thuộc trường Đại học Quốc
gia Singapore Đại học Princeton (Hoa Kỳ) đã tiến hành đối chiếu 45 tin, bài
được tìm kiếm trên Google vào ngày 12/02/2012 bằng cách gõ các tkhóa “tin tức
+ nhám voi + Karachi” (news + whale shark + Karachi). Trong skết quả thu
được có 25 tin được lấy từ các báo in quốc gia hoặc quốc tế, 12 tin từ báo mạng, 6
tin từ các đài truyền hình và 2 tin từ các hãng thông tấn.
Nhóm đánh giá những thông tin trên dựa vào hai tiêu cchính: Tính chính xác v
mặt khoa học và tính chất giáo dục bảo tồn. Cơ sở khoa học để đối chiếu các thông
tin cá nhám voi được trích dẫn từ Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) và
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp quốc (FAO).
Sau khi kiểm chứng, nhóm nghiên cứu kết luận chỉ già nửa (46,6%) số bài o
cung cấp thông tin chính xác. Số còn lại đưa tin sai lệch, cho rằng nhám voi là
loài cá lớn nhất hiện còn tồn tại hay nhám voi là loài động vật sống
vùng biển sâu ôn đới…
Bên cạnh đó, chỉ một số ít bài đề cập đến vấn đề bảo tồn nhám voi. Cụ thể,
tổng cộng 22 bài báo (chiếm 48,9%) đưa tin loài này đang bị đe dọa, nhưng chỉ có
6 bài (chiếm 13,3%) nhắc tới nguyên nhân suy giảm số lượng loài. mặc dù
11 bài (chiếm 24,4%) trích dẫn phân loại của IUCN, song chỉ 7 bài (chiếm
15,6%) trích dẫn đúng đây là loài dbị tổn thương (VU) trong Sách đỏ.
Liên quan đến Công ước Buôn n Quốc tế Các loài Động Thực vật Hoang dã
Nguy cấp (CITES), chỉ 2 bài cung cấp thông tin chính xác rằng cá nhám voi đã
được liệt vào Công ước CITES nhưng lại đưa ra nhận định sai.
Trong s10 bài thông tin bsung về nhám voi, chỉ 3 bài các đường
dẫn liên quan 2 i trích dẫn ý kiến của c nhà khoa học nghiên cứu về
nhám voi hoặc cá mập nói chung.
Ngoài ra còn tồn tại nhiều bài báo cung cấp những thông tin cường điệu, phóng
đại kiểu như con người thể mặc nhiên i trên lưng nhám voi…, gây bất
bình trong giới khoa học và bảo tồn bởi những hậu quả khôn lường của nó.
Khi kim chứng độ chính xác của nguồn tin tcác phương tiện thông tin truyền
thống (báo giấy, truyền hình các hãng thông tấn) so với các phương tiện truyền
thông mới (các trang tin điện tử), nhóm nghiên cứu rút ra kết luận chẳng mối
liên htuyến nh nào giữa các loại hình truyền thông và tính chính c của thông
tin cả.
Cần thúc đẩy hợp tác khoa học – báo chí
ràng, thông tin vnhững sự kiện quan trọng như trên thể góp phần đáng kể
vào việc nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo tồn đại dương hiểu biết vhệ
sinh thái cũng như đời sống, tập tính của loài nhám voi, khi chúng được trích
dẫn một cách chính xác đầy đủ. Trong tình huống ngược lại, hậu quả thật khó
lường.
Để tránh hoặc chí ít là hạn chế tình trạng này, nhóm nghiên cứu cho rằng các n
khoa học cần thể hiện vai trò chđộng chỉnh c thông tin sai lệch đã được
công bố. Đối với tin, bài chưa xuất bản, trước khi đăng, các nhà báo nên tham
khảo những tài liệu khoa học và những nguồn đáng tin cậy về mặt khoa học hoặc
xin ý kiến của chính các nhà khoa học để đảm bảo tính chính xác, đầy đủ cho các
sản phẩm báo chí. Về phần mình, các nhà khoa học rất cần cởi mcộng tác với
báo chí bi lẽ truyền thông là một phương tiện hữu dụng, sức lôi kéo, giáo dục
cộng đồng rất lớn.
Trong bối cảnh cuộc đua sống còn của giới khoa học trong việc công bố những
phát hiện mới đang bước vào giai đoạn cam go, khiến đa phần đều không sẵn lòng
bthêm thời gian để chia sẻ thông tin với các phương tiện truyền thông và công
chúng, nhóm nghiên cứu nêu trên khuyến nghị các trường đại học và các thchế
tài chính càng nên ghi nhận đóng góp của giới khoa học đối với hoạt động chia s
thông tin, nhằm thúc đẩy họ tích cực hơn, quan tâm hơn tới hoạt động này.
Xuất phát từ thực tế cộng đồng đang ngày càng thhiện squan m tới các loài
sinh vật như trường hợp của nhám voi cộng với nhận thức về tác động của con
người tới sự thay đổi toàn cầu đang tăng lên rõ rệt, có thể thấy rằng đã đến lúc giới
khoa học cần tích cực chia sẻ thông tin liên quan đến bảo tồn cho cộng đồng. Và
chkhi những nỗ lực hợp tác giữa giới khoa học báo cgia ng mới khả
năng mở đường cho sự ra đời của việc thông tin có trách nhiệm, giúp hạn chế hiện
tượng đưa tin sai lệch hoặc thiếu sót thông tin trong báo chí khoa học.