BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NÔNG VĂN NGOAN
HIÖN T¦îNG SONG NG÷ TRONG V¡N HäC TRUNG §¹I VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NÔNG VĂN NGOAN
HIÖN T¦îNG SONG NG÷ TRONG V¡N HäC TRUNG §¹I VIÖT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9220121
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. GS.TS LÃ NHÂM THÌN 2. TS. NGUYỄN MINH HOẠT
HÀ NỘI - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận án xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng mình. Các dẫn liệu, kết quả nêu
trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công
bố trong công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm
hoàn toàn về công trình nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nông Văn Ngoan
ii
LỜI CẢM ƠN
---------
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến hai thầy giáo là
GS.TS. Lã Nhâm Thìn và TS. Nguyễn Minh Hoạt đã luôn tận tình hƣớng
dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo rất nhiều để tôi hoàn thành luận án này.
Tôi cũng xin cảm ơn những nhận xét, góp ý của các nhà khoa học, của
các thầy cô trong Bộ môn Văn học trung đại Việt Nam, Khoa Ngữ văn, Phòng
Sau Đại học, Ban Giám hiệu Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và thực hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, bạn bè cũng nhƣ
các thầy cô, đồng nghiệp, Lãnh đạo Bộ môn Văn học, Bộ môn Ngôn ngữ,
Khoa Sƣ phạm và Trƣờng Đại học Tây Nguyên nơi tôi đang công tác vì đã
luôn động viên và ủng hộ để tôi hoàn thành công trình này.
Hà Nội, ngày….. tháng …. năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nông Văn Ngoan
iii
Lời cam đoan ............................................................................................................... i Lời cảm ơn ................................................................................................................. ii
Danh mục bảng, sơ đồ ............................................................................................... vi
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI ............................................................................................ 6
1.1. GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ .............................. 6
1.1.1. Khái niệm song ngữ.................................................................................. 6
1.1.2. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học ......................................................... 7
1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI ............... 8
1.2.1. Nghiên cứu đặc điểm văn học trung đại Việt Nam đề cập tới hiện
tƣợng song ngữ ................................................................................................... 8 1.2.2. Nghiên cứu thi pháp văn học trung đại Việt Nam đề cập tới hiện
tƣợng song ngữ ................................................................................................. 14
1.2.3. Nghiên cứu các tác giả sáng tác bằng song ngữ ..................................... 16
1.2.4. Nghiên cứu so sánh hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt
Nam với văn học các nƣớc khu vực văn hóa chữ Hán thời trung đại .................... 20
1.3. CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI ................................................................... 23
1.3.1. Lí thuyết liên ngành ngôn ngữ và văn học ............................................. 23
1.3.2. Lí thuyết liên ngành văn hoá và văn học ................................................ 24
1.3.3. Lí thuyết so sánh văn học ....................................................................... 26
1.3.4. Lý thuyết loại hình học ........................................................................... 26
TIỂU KẾT ................................................................................................................. 28
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ................................................... 29
2.1. CƠ SỞ LỊCH SỬ - XÃ HỘI, TƢ TƢỞNG - VĂN HOÁ - VĂN HỌC CỦA HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ ........................................................................... 29 2.1.1. Tiền đề lịch sử - xã hội ........................................................................... 29 2.1.2. Tiền đề văn hóa, tƣ tƣởng ....................................................................... 32 2.1.3. Tiền đề văn học ...................................................................................... 35
2.2. ĐẶC ĐIỂM HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ................................................................................................................ 38
iv
2.2.1. Tính chất đa thành phần của hiện tƣợng song ngữ ................................. 38
2.2.2. Tính chất bất bình đẳng của hiện tƣợng song ngữ ................................. 41
2.3. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ...................................................... 42 2.3.1. Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV .................................. 42 2.3.2. Giai đoạn văn học từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII ............................. 43 2.3.3. Giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX ........................... 44
2.4. HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VĂN HỌC KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ ....................... 47 2.4.1. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học Nhật Bản ....................................... 47 2.4.2. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học Triều Tiên/Hàn Quốc.................... 48 2.4.3. Đặc điểm chung và riêng của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại các nƣớc khu vực văn hóa chữ Hán .................................................. 51 TIỂU KẾT ................................................................................................................. 53 Chƣơng 3: LOẠI HÌNH TÁC GIẢ SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ....................................................................................... 55 3.1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ LOẠI HÌNH TÁC GIẢ VĂN HỌC ......... 55 3.1.1. Khái niệm loại hình và loại hình tác giả văn học ................................... 55 3.1.2. Các kiểu loại tác giả trong văn học trung đại Việt Nam .............................. 55
3.2. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TÁC GIẢ SONG NGỮ TIÊU BIỂU TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM .................................................................................. 57 3.2.1. Nguyễn Trãi ............................................................................................ 57 3.2.2. Nguyễn Bỉnh Khiêm ............................................................................... 65 3.2.3. Nguyễn Du.............................................................................................. 70 3.2.4. Cao Bá Quát ........................................................................................... 74 3.2.5. Nguyễn Khuyến ...................................................................................... 79 3.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI HÌNH TÁC GIẢ SONG NGỮ .................................. 84 3.4. SỰ ĐA DẠNG VÀ THỐNG NHẤT TRONG NHẬN THỨC VỀ TÌNH TRẠNG SONG NGỮ CỦA KIỂU TÁC GIẢ SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM .......................................................................................... 87 3.4.1. Sự đa dạng trong nhận thức về tình trạng song ngữ của kiểu tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam .............................................. 87 3.4.2. Sự thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ của kiểu tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam .............................................. 96 TIỂU KẾT ................................................................................................................. 99
v
Chƣơng 4: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ DƢỚI GÓC NHÌN CỦA HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM .............................................................................................................. 100 4.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ LOẠI DƢỚI GÓC NHÌN TỪ HIỆN TƢỢNG
SONG NGỮ.............................................................................................................. 100
4.1.1. Sự phát triển thể loại nhìn từ hiện tƣợng song ngữ .............................. 100
4.1.2. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học tiếp thu từ văn học Trung Quốc ..................................................................................................... 103
4.1.3. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học dân tộc hóa ..................... 111
4.1.4. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học nội sinh .......................... 114
4.2. HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ VỚI NGÔN NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ........................................................................................ 121
4.2.1. Quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung
đại Việt Nam từ phƣơng diện ngôn ngữ ......................................................... 121
4.2.2. Vấn đề xử lí các yếu tố ngoại nhập và nội sinh trên phƣơng diện
ngôn ngữ ở hiện tƣợng song ngữ ...................................................................... 124
TIỂU KẾT ............................................................................................................... 146
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 1PL
vi
DANH MỤC ẢNG SƠ ĐỒ
Bảng 3.1.a. Hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Trãi ............... 60
Bảng 3.1.b. Vị trí câu lục ngôn trong số 125 bài thơ Nôm bát cú có xen
câu lục ngôn của Nguyễn Trãi .................................................... 62
Bảng 3.1.c. Số lƣợng câu lục ngôn trong bài bát cú của Nguyễn Trãi .......... 62
Bảng 3.2a. Hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm ........ 67
Bảng 3.2b. Ảnh hƣởng của thi liệu Hán học đối với thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm ................................................................................ 69
Bảng 3.3. Hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Du ................. 73
Bảng 3.4. Hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Cao Bá Quát .............. 77
Bảng 3.5.a. Hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Khuyến ......... 81
Bảng 3.5.b. Yếu tố Hán và Nôm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến ....... 82
Bảng 4.1. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học chức năng ........... 104
Bảng 4.2. Kết quả khảo sát và thống kê sống lƣợng tác phẩm viết bằng
chữ Hán và chữ Nôm ở các thể loại văn xuôi tự sự và trữ tình ... 106
Bảng 4.3. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học nội sinh .............. 116
Bảng 4.4. Khảo sát câu chữ Hán ở thể loại hát nói của Cao Bá Quát....... 120
Sơ đồ 4.1. Sự phát triển của thể loại văn học trung đại Việt Nam nhìn
từ hiện tƣợng song ngữ ............................................................. 102
Sơ đồ 4.2. Sự phát triển của ngôn ngữ văn học trung đại Việt Nam
dƣới góc nhìn hiện tƣợng song ngữ .......................................... 122
vii
DANH SÁCH PHỤ LỤC
STT TÊN PHỤ LỤC
TRANG
1
Phụ lục 1: Khảo sát đặc điểm loại hình tác giả song ngữ trong
văn học trung đại Việt Nam
1PL
Phụ lục 2: Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại hịch và văn tế
4PL
2
Phụ lục 3: Bảng thông kê tác phẩm ở các thể loại cáo, chiếu, biểu
6PL
3
Phụ lục 4: Hiện tƣợng song ngữ ở thể loại thơ kệ
8PL
4
Phụ lục 5: Bảng thống kê tác phẩm ở thể loại tiểu thuyết
5
chƣơng hồi
9PL
Phụ lục 6: Bảng thống kê tác phẩm ở thể loại truyện truyền kỳ
10PL
6
Phụ lục 7: Bảng thống kê tác phẩm ở thể loại ký sự, tùy bút
11PL
7
Phụ lục 8: Hiện tƣợng song ngữ ở thể loại phú
12PL
8
Phụ lục 9: Hiện tƣợng song ngữ ở thể loại truyện thơ
14PL
9
Phụ lục 10: Hiện tƣợng song ngữ ở thể loại ngâm khúc
15PL
10
Phụ lục 11: Bảng thống kê tác phẩm ở thể loại hát nói
16PL
11
Phụ lục 12: Bảng thống kê thành ngữ, tục ngữ và ca dao trong
12
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
17PL
13
Phụ lục 13: Bảng thống kê thi liệu Hán học trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du
21PL
14
Phụ lục 14: Bảng thống kê ảnh hƣởng qua lại giữa cao dao và
Truyện Kiều của Nguyễn Du
24PL
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1.1. Hiện tƣợng song ngữ là hiện tƣợng khá phổ biến trong văn học trung đại của nhiều nƣớc, phƣơng Đông cũng nhƣ phƣơng Tây. Ở phƣơng Đông, các nƣớc nhƣ Triều Tiên/ Hàn Quốc, Nhật Bản cùng với việc sử dụng ngôn ngữ bản địa là việc sử dụng tiếng Hán trong sáng tác văn chƣơng. Ở các nƣớc phƣơng Tây nhƣ Anh, Pháp, Ý, Đức trong văn học trung đại có hiện tƣợng sử dụng tiếng Latinh song hành với ngôn ngữ bản địa. Hiện tƣợng song ngữ cũng đã làm nên đặc điểm riêng của văn học trung đại Việt Nam - thành phần văn học viết gồm hai thành phần văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.
1.2. Nghiên cứu hiện tƣợng song ngữ là nghiên cứu một trong những đặc điểm lớn của văn học trung đại Việt Nam. Từ hiện tƣợng song ngữ có thể hiểu sâu hơn bản chất, quy luật phát triển của văn học Việt Nam thời trung đại từ quan điểm văn học, quan điểm thẩm mĩ đến ngôn ngữ nghệ thuật, bút pháp nghệ thuật…
1.3. Nhiều tác giả văn học trung đại Việt Nam, trong đó có nhiều tên tuổi lớn sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm nhƣ: Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến… Qua hiện tƣợng song ngữ có thể hiểu sâu sắc hơn về các tác giả, tác phẩm cùng vị trí và đóng góp của họ đối với nền văn học nƣớc nhà.
1.4. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam vừa là một hiện tƣợng mang tính đặc thù của văn học dân tộc thời trung đại, vừa mang tính phổ quát, tính quốc tế. Trong bối cảnh văn học các nƣớc khu vực nhƣ Triều Tiên/ Hàn Quốc và Nhật Bản – là các nƣớc chịu ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán trong thời trung đại hay trong lịch sử văn học các nƣớc phƣơng Tây từ sau đế quốc Tây La Mã sụp đổ đến trƣớc thời kỳ Phục hƣng cũng tồn tại hiện tƣợng song ngữ trong văn học. Vì vậy, đề tài luận án góp thêm một cách nhìn về văn học trung đại Việt Nam trong cộng đồng văn học khu vực và quốc tế.
1.5. Đề tài có ý nghĩa thiết thực đối với việc nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại Việt Nam nói chung nhƣ đặc điểm, đặc trƣng của văn học, các vấn đề về thể loại, ngôn ngữ của văn học trung đại Việt Nam cũng nhƣ về các tác gia lớn sáng tác bằng song ngữ ở trƣờng phổ thông, cao đẳng và đại học.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án “Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam” đi theo một trong những hƣớng nghiên cứu phổ biến hiện nay, hƣớng nghiên cứu liên ngành. Luận án đƣợc thực hiện với mục đích là nghiên cứu về hiện tƣợng song ngữ trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Mặt khác, thông qua hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam làm phong phú thêm những hiểu biết nhất định về mối quan hệ giữa hiện tƣợng song ngữ với lực lƣợng sáng tác, thể loại cũng nhƣ ngôn ngữ trong văn học trung đại Việt Nam và hiện tƣợng song ngữ ở một số nƣớc khu vực.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ sau: - Giới thuyết khái niệm song ngữ và hiện tượng song ngữ trong văn học, làm rõ nội hàm của các khái niệm, thuật ngữ này và xem đó là công cụ then chốt trong quá trình khảo sát và nghiên cứu;
- Vận dụng các khái niệm, thuật ngữ song ngữ, song thể ngữ và hiện tượng song ngữ vào nghiên cứu quá trình phát triển của lịch sử văn học trung đại Việt Nam, những đặc điểm, đặc trƣng của văn học liên quan tới hiện tƣợng song ngữ;
- Nghiên cứu cơ sở lịch sử, xã hội, văn hóa tƣ tƣởng, văn học hình
thành nên hiện tƣợng song ngữ;
- Nghiên cứu những đặc điểm, bản chất, quy luật diễn tiến của hiện tƣợng song ngữ trong lịch sử văn học dân tộc, so sánh với hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại của một số nƣớc nhƣ Triều Tiên/Hàn Quốc, Nhật Bản;
- Đặc biệt, chú trọng nghiên cứu các vấn đề liên quan giữa hiện tƣợng song ngữ với tác giả (nhất là tác giả tiêu biểu sáng tác bằng song ngữ), thể loại và ngôn ngữ văn học trong văn học Việt Nam thời trung đại. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng khảo sát của luận án là lịch sử hình thành và phát triển của thành phần văn học chữ Hán và thành phần văn học chữ Nôm trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
Đối tƣợng nghiên cứu cụ thể hơn của đề tài luận án là: - Tác giả của hiện tƣợng song ngữ;
3
- Tác phẩm, thể loại của hiện tƣợng song ngữ; - Ngôn ngữ của hiện tƣợng song ngữ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Phạm vi tư liệu Chúng tôi chủ yếu sử dụng các tác phẩm chữ Hán đã đƣợc dịch, những tác phẩm chữ Nôm đã đƣợc phiên âm của các tác giả viết bằng song ngữ tiêu biểu trong văn học Việt Nam nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát và Nguyễn Khuyến. Ngoài ra, nhiều sáng tác ở các thể loại cả văn học chức năng và văn học nghệ thuật cũng đƣợc khảo sát và nghiên cứu để làm rõ thêm bản chất của hiện tƣợng song ngữ.
3.2.2. Phạm vi khoa học Phạm vi khoa học của đề tài luận án bao gồm: Cơ sở lí thuyết của hiện tƣợng song ngữ; đặc điểm, bản chất; diễn tiến của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam trong bối cảnh văn học khu vực; các tác giả tiêu biểu sáng tác bằng song ngữ; hiện tƣợng song ngữ với thể loại và ngôn ngữ văn học.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu: 4.1. Phương pháp nghiên cứu văn học sử Phƣơng pháp nghiên cứu văn học sử định hƣớng tiếp cận vấn đề nghiên cứu của luận án là lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là một hiện tƣợng lịch sử - xã hội. Nó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhƣng chủ yếu là nguyên nhân lịch sử: sự đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc, quy luật tất yếu của ―nền văn học‖ trẻ chịu ảnh hƣởng từ nền ―văn học già‖; ý thức dân tộc trong lĩnh vực văn hóa, văn học; nhu cầu phát triển văn hóa và xây dựng bộ máy nhà nƣớc phong kiến. Phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng để phân tích các yếu tố lịch sử và sự ảnh hƣởng của nó đến việc hình thành, vận động và phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam theo thời gian lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Văn học – ngôn ngữ - văn
hóa – xã hội học)
Ngày nay, giới nghiên cứu văn học thấy rõ rằng: nghiên cứu văn học không thể tách rời mối quan hệ với văn hóa. Hơn nữa, bối cảnh văn hóa của văn học trung đại có sự khác biệt nhất định so với văn hóa thời hiện đại.
4
Nghiên cứu văn học cũng không thể tách khỏi ngôn ngữ - yếu tố chất liệu của các tác phẩm văn học. Chẳng hạn, khi nhắc đến ―song ngữ‖, ngƣời ta thƣờng nghĩ ngay đến một hiện tƣợng xã hội học, ngôn ngữ học. ―Song ngữ‖ trong văn học có mối quan hệ mật thiết với song ngữ xã hội, và trong các sáng tác văn học song ngữ cũng thể hiện rõ các yếu tố ngôn ngữ học về ngữ âm, từ vựng. Cần có sự hiểu biết về song ngữ xã hội, ngôn ngữ học nếu muốn hiểu sâu hơn về song ngữ trong văn học.
4.3. Phương pháp nghiên cứu so sánh văn học Đây là phƣơng pháp không thể thiếu khi thực hiện đề tài luận án. Khi nói đến so sánh văn học, chúng ta không nên chỉ hiểu đó là so sánh các hiện tƣợng trong một nền văn học, mà còn là so sánh một nền văn học này với một hay nhiều nền văn học khác, hoặc so sánh các hiện tƣợng của các nền văn học khác với nhau. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại là việc sử dụng hai ngôn ngữ Hán và Việt trong sáng tác. Bằng phƣơng pháp so sánh, chúng ta có thể thấy những đặc điểm riêng biệt của từng thành phần văn học Hán và Nôm, trên cơ sở đó tìm ra những sự ảnh hƣởng, giao thoa hai ngôn ngữ trong sáng tác của các tác giả nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến...
4.4. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học Trong nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều công trình văn học sử, cũng đã có một số công trình đi sâu vào một số thể loại, tác giả đƣợc tiếp cận dƣới góc độ của thi pháp học nhƣ đặc trƣng của văn học, thi pháp một số thể loại, quan niệm về con ngƣời, quan niệm về thế giới và một số phƣơng thức nghệ thuật. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học biểu hiện ở nhiều phƣơng diện. Mức độ đậm nhạt của song ngữ cũng biểu hiện khác nhau ở từng thể loại (chẳng hạn văn chính luận sẽ ít chịu ảnh hƣởng từ ngôn ngữ Việt hơn thơ Đƣờng luật). Dựa vào thi pháp học để thấy đƣợc đặc điểm riêng của từng thể loại là một việc làm cần thiết khi nghiên cứu về hiện tƣợng song ngữ trong văn học.
4.5. Phương pháp loại hình Loại hình (tiếng Anh: typological có tự gốc là type, tiếng Pháp typé) là khái niệm chỉ tập hợp những sự vật hiện tƣợng có chung những đặc trƣng cơ bản nào đó. Nghiên cứu theo phƣơng pháp loại hình không đơn giản liệt kê, miêu tả sự tƣơng đồng, giống nhau bề ngoài của các hiện tƣợng văn học. Điều
5
quan trọng hơn nhiều là phải tìm ra đƣợc tính quy luật của sự tƣơng đồng, giống nhau ấy. Phƣơng pháp này đƣợc vận dụng trong việc nghiên cứu loại hình tác giả song ngữ và loại hình các thể loại nhìn từ hiện tƣợng song ngữ.
5. Đóng góp mới của luận án - Chỉ ra những tiền đề lịch sử, xã hội, văn hóa tƣ tƣởng, văn học của hiện
tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam;
- Khái quát đặc điểm và quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ; - Nghiên cứu vấn đề loại hình tác giả song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam;
- Khái quát quá trình phát triển và biểu hiện của hiện tƣợng song ngữ trên
phƣơng diện thể loại và ngôn ngữ;
6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục,
luận án gồm bốn chƣơng:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài Chương 2: Những vấn đề chung về hiện tƣợng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam
Chương 3: Loại hình tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam Chương 4: Một số vấn đề về thể loại và ngôn ngữ dƣới góc nhìn của hiện
tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
6
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ 1.1.1. Khái niệm song ngữ Song ngữ (bilingual) là hiện tƣợng xã hội khá phổ biến nhất là ở thời trung đại. Khái niệm này đƣợc đề cập đến trong khá nhiều tài liệu, chúng tôi xin đƣa ra cách định nghĩa của các nhà ngôn ngữ học tiêu biểu ở một số tài liệu thông dụng trong Ngôn ngữ học.
Diệp Quang Ban định nghĩa về hiện tƣợng song ngữ nhƣ sau: ―Song ngữ (bilingualism): Trong xã hội học, hiện tƣợng sử dụng hai (hay hơn hai) ngôn ngữ ở một cá nhân hay ở một cộng đồng ngôn ngữ, có khi cũng gọi là đa ngữ (multilingualism)‖ [13, tr.437].
Nguyễn Nhƣ Ý định nghĩa trong ―Đại từ điển tiếng Việt‖ về song ngữ ―(Hiện tƣợng, trạng thái) đƣợc sử dụng ngang nhau hai ngôn ngữ trong giao tiếp‖ [162, tr.1451]. Trong ―Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học‖, cũng khái niệm này, tác giả định nghĩa là: ―Sự tinh thông hoàn hảo nhƣ nhau hai ngôn ngữ, sự nắm vững hai ngôn ngữ đƣợc sử dụng trong những điều kiện giao tiếp khác nhau, nhƣ ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ văn học‖ [161, tr. 248]. Tác giả cũng dẫn ra trong cuốn từ điển hai cách định nghĩa khác. Cách thứ nhất, theo Phan Ngọc, hiện tƣợng song ngữ có đƣợc khi ―một ngƣời mà tiếng mẹ đẻ là A, nhờ biết ít nhiều một ngôn ngữ B nên có thể trao đổi với một tộc ngƣời khác chỉ nói ngôn ngữ B. Nhờ biết đƣợc hai ngôn ngữ nhƣ vậy cho nên anh ta đƣợc gọi là một ngƣời song ngữ và sự giao tiếp của anh ta là sự giao tiếp song ngữ‖ [115, tr.249]. Theo Nguyễn Văn Khang, ―song ngữ (bilinguisme) là hiện tƣợng một ngƣời hay một nhóm ngƣời nắm và sử dụng đƣợc hai hệ thống ngôn ngữ độc lập trong các mục đích giao tiếp nhất định‖ [84, tr. 249].
Trong Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, song ngữ là ―hiện
tƣợng sử dụng ngang nhau hai ngôn ngữ trong giao tiếp‖ [122, tr. 848].
Hoàng Quốc trong luận án tiến sĩ về Ngôn ngữ học cho rằng: ―Khái niệm song ngữ, theo cách hiểu chung nhất, đó là hiện tƣợng một ngƣời có thể biết và sử dụng hai hoặc trên hai ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp‖ [126, tr.16].
Trên đây là những định nghĩa về hiện tƣợng song ngữ ở cấp độ khái
7
quát nhất, hay còn gọi là hiện tƣợng song ngữ xã hội. Nhƣng hiện nay song ngữ không chỉ là một hiện tƣợng xã hội, mà còn là một hiện tƣợng tâm lí, bởi tâm lí có tác động đến sự hình thành hệ thống ngôn ngữ khác nhau ở mỗi cá nhân. Trong lĩnh vực ngôn ngữ, hiện tƣợng này đã đƣợc nghiên cứu ở nhiều khía cạnh nhƣ ngôn ngữ học lịch sử, xã hội – ngôn ngữ học, tâm lí ngôn ngữ học, thần kinh – ngôn ngữ học, sƣ phạm – ngôn ngữ học. Song ngữ trong văn học là một thành phần của xã hội – ngôn ngữ học – lĩnh vực nghiên cứu sự tác động của hiện tƣợng song ngữ đến văn hóa – xã hội và việc bảo tồn bản sắc dân tộc. Việc cung cấp các định nghĩa ở cấp độ chung nhƣ trên sẽ mang đến cái nhìn rộng trƣớc khi đi vào một khái niệm hẹp hơn. Chúng tôi đang muốn nói đến ở đây là khái niệm hiện tƣợng song ngữ trong văn học, cụ thể hơn nữa, trong văn học trung đại Việt Nam.
1.1.2. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học Trƣớc hết phải khẳng định rằng, hiện tƣợng song ngữ tuy không còn xa lạ với giới nghiên cứu văn học nhƣng không có nhiều ngƣời đƣa ra một định nghĩa cụ thể về khái niệm này. Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay có thể hiểu ―hiện tƣợng song ngữ‖ ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, ―hiện tƣợng song ngữ‖ là hiện tƣợng trong một nền văn học tồn tại hai (hoặc nhiều) thành phần đƣợc viết bằng những văn tự khác nhau. Theo cách định nghĩa này, các tác giả đã chú trọng vào văn tự - yếu tố quan trọng nhất tạo nên hiện tƣợng song ngữ văn học. Tuy nhiên văn tự chỉ là một thành phần của ngôn ngữ nên khi nghiên cứu, chúng tôi đặt ra yêu cầu cần đi sâu hơn vào nội hàm khái niệm này.
Theo nghĩa rộng, Trần Đình Sử cho rằng tính chất song ngữ không chỉ thể hiện ở hai thành phần văn học Hán và Nôm tách biệt mà còn là ―sự xâm nhập, pha trộn của văn Hán và Nôm‖ [135, tr.135]. Nghĩa là, ngay cả trong một tác phẩm cụ thể đƣợc viết bằng chữ Hán hoặc Nôm cũng đã tồn tại hiện tƣợng song ngữ.
Hiện tƣợng song ngữ cũng có thể hiểu là hiện tƣợng song trùng ngôn
ngữ, văn tự.
Tựu trung lại, chúng tôi cho rằng hiện tƣợng song ngữ trong văn học, với đúng tính chất là sự tồn tại song hành của hai loại ngôn ngữ, đƣợc hiểu là hiện tƣợng văn học sử dụng hai loại văn tự và có sự kết hợp các yếu tố thuộc về văn hóa, văn học, ngôn ngữ nảy sinh trong quá trình tiếp xúc ngôn
8
ngữ giữa hai quốc gia. Trong thời kì trung đại, sự tiếp xúc tiếng Hán và tiếng Việt tạo nên hiện tƣợng song ngữ trong văn học với hai văn tự tƣơng ứng là chữ Hán và chữ Nôm. Chúng tôi không đồng nhất ―song ngữ‖ và ―đa ngữ‖ nhƣ một số cách hiểu ở trên, bởi dựa vào cách hiểu đó sẽ khó phân biệt ―hiện tƣợng song ngữ‖ trong văn học trung đại với tiếng Hán, tiếng Việt và ―hiện tƣợng đa ngữ‖ trong văn học hiện đại (nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX) với sự giao thoa của ba loại ngôn ngữ: tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Pháp.
Nhƣ vậy, có thể hiểu hiện tƣợng song ngữ trong văn học là hiện tƣợng một nền văn học đồng thời đƣợc sáng tác bằng hai ngôn ngữ - ngôn ngữ bản địa và ngôn ngữ tiếp thu từ nƣớc ngoài, từ tộc ngƣời khác. Với văn học trung đại Việt Nam, hiện tƣợng song ngữ thể hiện ở nền văn học cùng một lúc đƣợc sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm.
1.2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI
ĐỀ TÀI
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đã từng đƣợc nói đến trong một số công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Có thể thấy một vài hƣớng nghiên cứu sau đề cập tới hiện tƣợng song ngữ liên quan tới đề tài:
1.2.1. Nghiên cứu đặc điểm văn học trung đại Việt Nam đề cập tới
hiện tƣợng song ngữ
Các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam trung đại nói riêng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm của văn học trung đại Việt Nam. Các công trình dù ít dù nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đã đặt ra vấn đề về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Dƣới đây, chúng tôi xin điểm qua những công trình đáng chú ý có đề cập tới hiện tƣợng song ngữ.
1. Dƣơng Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu khi nhận xét về thành phần văn học viết bằng chữ Hán nhận định: ―Phần phong phú nhất trong Hán văn là tản văn, biền văn và thứ nhất là vận văn (thơ, phú). Trong các thơ văn ấy, những bài hay không phải là hiếm, nhƣng thƣờng hay về từ chƣơng mà kém phần tƣ tƣởng‖ [63, tr. 451]. Ngƣợc lại, khi bàn về văn học viết bằng chữ Nôm, ông nhận xét, ―về Việt văn (văn học sáng tác bằng tiếng Việt – chữ Nôm) tuy về phƣơng diện văn chƣơng không đƣợc xuất sắc
9
nhƣng lại tả rõ tính tình phong tục ngƣời dân nƣớc ta mà lời văn chất phác, giản dị, dùng nhiều tục ngữ thành ngữ, nên đã đƣợc phổ cập trong dân gian và có ảnh hƣởng đến dân chúng‖ [63, tr. 451]. Nhƣ vậy, dù không trực tiếp chỉ ra hiện tƣợng song ngữ, nhƣng Dƣơng Quảng Hàm đã khẳng định rằng có một thành phần văn học viết bằng chữ Nôm tồn tại song song bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán trong văn học trung đại Việt Nam.
2. Kiều Thanh Quế trong cuốn Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam ở Thiên thứ hai Chữ Nôm cho rằng: ―một thứ văn chƣơng chẳng có tính cách phổ thông nhƣ văn chƣơng chữ Hán lại độc thịnh, thì văn học nƣớc nhà làm thế nào phát triển đƣợc?‖ [125, tr. 332]. Tiếp đó, tác giả dẫn truyện ―đến đời Trần, Trần Thủ Độ, nghĩ rằng ―Nƣớc Đại Việt ta, nếu muốn đƣợc lâu dài độc lập, tất không những thoát ly ách đô hộ vật chất của ngƣời tàu mà còn cần phải bỏ cùm xích cái ách đô hộ tinh thần của họ nữa‖. Ý kiến này, trƣớc nhất đƣợc Hàn Thuyên đem ra thi hành bằng cách dùng chữ Nôm làm thơ văn‖ [125, tr.333].
3. Đinh Gia Khánh trong bài viết ―Mười thế kỉ của tiến trình văn học viết‖ mở đầu cuốn Văn học Việt Nam (thế kỉ X – Nửa đầu thế kỉ XVIII) (Nxb Giáo dục, tái bản năm 2002), xuất bản lần đầu tiên năm 1978 do NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp ấn hành, cho rằng: ―văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm có nhiều phần giống nhau trong nội dung phản ánh hiện thực và có những điểm giống nhau trong cách phản ánh hiện thực‖ [85, tr.18]. Nhà nghiên cứu cũng khẳng định hai thành phần này có nhiều chỗ khác nhau, đặc biệt là ―so với văn học chữ Hán thì văn học chữ Nôm có thể phản ánh hiện thực cuộc sống bình thƣờng của nhân dân một cách linh hoạt và cụ thể hơn, có thể xây dựng những hình tƣợng văn học đậm màu sắc dân tộc hơn và do đó dễ thấm sâu hơn vào cảm quan của công chúng‖ [85, tr.18]. Nhƣ vậy, với luận điểm này, Đinh Gia Khánh cũng đã chỉ ra hai thành phần văn học song song tồn tại trong văn học trung đại Việt Nam tức là hiện tƣợng song ngữ.
4. Bài viết của Bùi Duy Tân trên Tạp chí Văn học số 2/1995 với nhan đề “Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học chữ Nôm ở Việt Nam” tạo sự chú ý đối với ngƣời đọc. Mặc dù không nhắc đến khái niệm ―song ngữ‖ nhƣng tác giả đã đƣa ra một cái nhìn tổng quan về ―vấn đề khoa học lớn, quan trọng và thú vị này‖. Bên cạnh việc nêu lên những đặc điểm chính của văn học chữ Hán và chữ Nôm trong văn học trung đại Việt Nam, Bùi Duy Tân không
10
quên nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa hai thành phần và đặt chúng trong tƣơng quan so sánh: ―Đều ít hoặc nhiều chịu ảnh hƣởng của ý thức hệ phong kiến, và đều tiếp nhận đƣợc từ nhân dân, từ văn hóa dân gian những tƣ tƣởng nghệ thuật tiến bộ, lành mạnh‖ [135, tr.14]. Tác giả đã nêu lên những tƣơng đồng giữa hai thành phần văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm: ―Giữa hai thành phần của dòng văn học viết đã có sự thống nhất trên những yếu tố căn bản về thế giới quan, về quan niệm thẩm mỹ, quan niệm về phƣơng pháp sáng tác, cấu trúc thi pháp,... và cả thể loại văn học‖ [135, tr.14-15]. Nhà nghiên cứu cũng đƣa ra cái nhìn tổng quan về những điểm khác nhau của hai thành phần này. Theo đó, ngoài sự khác biệt về văn tự, văn học chữ Hán có những tính chất: giáo huấn và phi ngã, tính bác học cao quý, tính chất quy phạm. Văn học chữ Nôm ít gắn với ―chở đạo‖, gần với đời sống thực, phong phú về tinh thần yêu nƣớc và tinh thần nhân ái. ―Yếu tố trội của văn học Nôm là chủ nghĩa nhân đạo, còn ở văn học chữ Hán thì yếu tố trội là chủ nghĩa yêu nƣớc‖ [135, tr.15]. Dù ông không có những luận giải cụ thể nhƣng đó cũng là những gợi ý quý báu để ngƣời viết triển khai đề tài của mình.
5. Lê Trí Viễn trong Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, nhận định ―từ thế kỷ X – XV là thời kỳ văn học trung đại thƣợng kỳ, còn từ thế kỷ XVI – XIX là văn học trung đại hạ kỳ‖ [156, tr.38-39].
6. Theo Trần Đình Sử, ―cách chia này làm mờ cái mốc thế kỷ XVIII, thời điểm đổi thay quan niệm con ngƣời trong văn học và là thời điểm chín muồi toàn thịnh của các thể loại văn học Nôm‖ [132, tr. 55].
Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam lại khẳng định, ―Nội dung văn học giai đoạn X – XIV là sự hình thành khá hoàn bị các thể loại văn thơ chữ Hán. Và giai đoạn từ thế kỷ XV – đánh dấu sự hình thành và phát triển các thể loại văn học Nôm‖ [132, tr. 55]. Theo ông thì ―tiếng Hán làm công cụ chính trị, tƣ tƣởng, bên cạnh tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ vẫn đƣợc sử dụng trong đời sống hàng ngày. Tình hình đó tạo thành hiện tƣợng song ngữ, văn học song ngữ của thời trung đại Việt Nam, nhƣ của nhiều dân tộc khác‖ [132, tr. 153]. Đây là một nhận định rất đáng lƣu ý khi Trần Đình Sử ngoài việc khẳng định sự tồn tại hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam còn liên hệ với hiện tƣợng này trong văn học trung đại của các dân tộc khác tức là tính khu vực và tính quốc tế của hiện tƣợng song ngữ. Cũng theo Trần Đình Sử thì Phạm Đình Toái đồng tác giả với Lê
11
Ngô Cát, sáng tạo ra Đại Nam quốc sử diễn ca đã nói một ý kiến quan trọng: ―Nƣớc ta ở chếch về phƣơng Nam, tiếng nói khác với Trung Quốc, học sinh, nho giả, dù học tập văn từ của Trung Hoa, mà vẫn nói năng, ca vịnh không rời với tiếng nói của nƣớc mình, đâu lại có thể cứ cho chữ Hán là thanh tao mà trở lại chê quốc âm mình là thô bỉ đƣợc‖ (dẫn theo Trần Đình Sử) [132, tr. 159].
Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam cũng chỉ ra những đặc điểm của văn học trung đại Việt Nam với hai thành phần văn học. Một thành phần văn học viết bằng chữ Hán – một ngôn ngữ vay mƣợn của nƣớc ngoài và thành phần sáng tác bằng tiếng bản địa – tiếng Việt. Ông viết: ―Hai thứ tiếng và hai thành phần văn học đáp ứng hai nhu cầu của đời sống xã hội: Khi bàn đến chính sự, lý tƣởng, lịch sử, luân lý, thơ phú ngƣời ta biểu đạt bằng chữ Hán; khi biểu đạt những cảm xúc hàng ngày, các hiện tƣợng đời sống, ngƣời ta dùng tiếng Nôm, chữ Nôm‖ [132, tr. 154]. Ông nhận xét: ―tiếng Hán đƣợc tiếp thu chủ yếu qua thƣ tịch, kinh sử, văn chƣơng cũng không đủ để diễn đạt các trạng thái đời sống hàng ngày. Do đó việc phát triển tiếng Việt, chữ Nôm, văn học Nôm là một điều tất yếu [132, tr. 154]. Trần Đình Sử lí giải rằng: ―Đó là lí do khiến cho hai thành phần văn học tồn tại song song, không thành phần nào thôn tính đƣợc thành phần nào, mặt khác chúng lại thâm nhập vào nhau. Tất nhiên, chủ yếu là văn học Nôm tiếp thu tiếng Hán, Việt hóa nó để làm phong phú bản thân mình‖ [132, tr. 154]. Từ đó, ông khẳng định: ―Tính chất song ngữ không chỉ thể hiện ở hai dòng văn học Hán và Nôm tách biệt, mà còn thể hiện ở sự xâm nhập pha trộn của văn Hán và Nôm. Có tác phẩm lời văn vừa Hán vừa Nôm. Có tác phẩm Nôm xen câu đối Hán, có tác phẩm nhan đề là Hán mà tác phẩm lại là Nôm‖ [132, tr. 156]. Chúng tôi nhận thấy ý kiến của Trần Đình Sử đã đề cập tới tính chất bất bình đẳng của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
7. Trần Đình Hƣợu cho rằng, ―Bên cạnh xu hƣớng đuổi kịp để có mặt bình đẳng về văn hiến trong văn chƣơng chữ Hán, là một xu hƣớng phát triển chậm hơn; làm văn chƣơng quốc âm. Sử đã chép Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố giỏi làm thơ quốc âm‖ [83, tr.292]. Ở đây, Trần Đình Hƣợu cũng đã gián tiếp khẳng định sự tồn tại song song hai thành phần văn học chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm. Trong đó, văn học chữ Hán đi trƣớc và phát triển nhanh hơn, còn văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc phát triển chậm hơn. Ông cũng khẳng định lại việc Hàn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố giỏi làm thơ Nôm đã đƣợc sử chép lại.
12
8. Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX cho rằng: ―Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX vẫn gồm hai thành phần văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Cả hai đều phát triển hơn trƣớc rất nhiều, đặc biệt là văn học chữ Nôm‖ [103, tr.19]. Ông đặc biệt đề cao văn học viết bằng chữ Nôm: ―Ngày nay nói đến thành tựu của Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, chủ yếu là nói đến thành phần văn học chữ Nôm, mặc dù văn học chữ Hán không phải không có những thành tựu đáng kể‖ [103, tr.19].
Cũng trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX Nguyễn Lộc đặt lại vấn đề: ―Văn học chữ Nôm ít ra đã có từ thời Hàn Thuyên, đời Trần. Đến thời Lê, với sáng tác của Nguyễn Trãi, của Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thiên Nam ngữ lục,... văn học chữ Nôm đã khẳng định đƣợc địa vị của nó trong đời sống văn học dân tộc, và đến thế kỷ XVIII thì nó phát triển rực rỡ‖ [103, tr.19].
9. Trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam tập 1, Nguyễn Đăng Na khi bàn về hệ thống văn tự và ngôn ngữ văn học đã cho rằng: ―Sau thế kỷ X, đất nƣớc độc lập nhƣng Hán học vẫn giữ địa vị quan trọng, Chữ Hán đƣợc dùng làm văn tự chính thức của nhà nƣớc. Văn học chữ Hán đƣợc coi là chính thống, là thành phần chủ yếu‖ [113, tr. 46-47]. Ông khẳng định: ―Chữ Hán có sự cách biệt nhiều với ngôn ngữ đời sống hàng ngày của nhân dân. Hàng nghìn năm Bắc thuộc, ngôn ngữ dân tộc không mất đi. Trƣớc nhu cầu của đời sống xã hội, chữ Nôm ra đời để ghi âm tiếng nói dân tộc‖ [113, tr. 46-47]. Ông nhận định: ―Đây là cuộc cách mạng văn tự, là cái mốc lớn trên con đường tiến lên của lịch sử, thể hiện ý chí tự cƣờng của nƣớc Đại Việt. Từ thời Trần đã khởi phát một phong trào dùng chữ Nôm sáng tác văn học‖ [113, tr. 46-47].
10. Ở cuốn “Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX” (Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012) của Trần Nho Thìn, chúng tôi nhận thấy sự gặp gỡ trong quan niệm về nội dung hai thành phần văn học của ông với Bùi Duy Tân (trong bài viết Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học chữ Nôm ở Việt Nam nói trên). Trần Nho Thìn phân biệt về mặt nội dung hai thành phần văn học chữ Hán và chữ Nôm: ―Trong khi văn học chữ Hán có xu hƣớng thiên về tính quan phƣơng chính thống, thiên về giáo huấn, nói chí tải đạo thì văn học chữ Nôm lại có xu hƣớng thiên về tính dân chủ, thông tục, chứa đựng tinh thần cách tân, chú trọng tính thẩm mĩ‖ [148, tr. 126]. Bên cạnh đó, tác giả cho
13
rằng đối tƣợng của hai thành phần này cũng đƣợc phân biệt khá rõ: ―Nếu văn học chữ Hán bàn nhiều về tƣ tƣởng chính trị, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ thì văn học chữ Nôm lại viết nhiều về ngƣời phụ nữ, về con ngƣời tự nhiên, về con ngƣời nhân bản với quyền sống trần thế, kể cả quyền sống thân xác‖ [148, tr. 126]. Với nhận định này, Trần Nho Thìn giúp ngƣời đọc phân biệt đƣợc một cách dễ dàng hơn về nội dung của văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm.
11. Trong “Giáo trình văn học trung đại Việt Nam”, tập 2, Đinh Thị Khang viết: ―Sự ra đời của thơ văn chữ Nôm bên cạnh thơ văn chữ Hán đã tạo ra hiện tượng song ngữ cho văn học. Đây cũng là đặc điểm phổ biến của các nƣớc chịu ảnh hƣởng văn hóa Hán nhƣ Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản‖ [144, tr. 15]. Tác giả cũng khẳng định: ―Thời trung đại, chúng ta có một dòng văn học chữ Hán, đồng thời cũng có một dòng văn học với chữ viết của chính mình, tạo nên sự hoàn chỉnh, cân bằng và phong phú cho nền văn học dân tộc‖ [144, tr. 15]. Một lần nữa, chúng ta lại thấy thêm một học giả khẳng định có sự liên hệ của hiện tƣợng song ngữ trong văn học các nƣớc chịu ảnh hƣởng của văn hóa Hán.
12. Lã Nhâm Thìn, trong bài viết Nguyễn Du và hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam, khẳng định văn học trung đại Việt Nam có hiện tƣợng song ngữ. Ông cho rằng: ―Với hiện tƣợng song ngữ, không nhất thiết phải toàn bộ xã hội mà có khi chỉ một cá nhân hay một cộng đồng sử dụng cả hai ngôn ngữ. Vì vậy, việc ở Việt Nam trƣớc đây chỉ có tầng lớp trí thức mới đọc và viết bằng Hán ngữ dƣờng nhƣ không ảnh hƣởng tới hiện tƣợng song ngữ trong văn học Việt Nam thời trung đại‖ [154, tr.625]. Điều này càng củng cố thêm cho lập luận về sự tồn tại của hiện tƣợng ―song ngữ‖ thay vì ―song thể ngữ‖ nhƣ có nhà nghiên cứu từng đặt ra.
Có thể thấy rằng, các nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam từ Dƣơng Quảng Hàm, Nguyễn Lộc, Đinh Gia Khánh, Trần Đình Sử, Nguyễn Đăng Na, Trần Đình Hƣợu, Bùi Duy Tân, Lã Nhâm Thìn,….đều khẳng định sự tồn tại của dòng văn học viết bằng ngôn ngữ vay mƣợn là chữ Hán và một dòng văn học khác viết bằng ngôn ngữ dân tộc (tiếng Việt/chữ Nôm) trong văn học trung đại Việt Nam hay nói cách khác là gián tiếp hoặc trực tiếp thừa nhận sự tồn tại của hiện tƣợng song ngữ trong văn học viết từ thế kỷ X đến hết thể kỷ XIX ở nƣớc ta.
14
1.2.2. Nghiên cứu thi pháp văn học trung đại Việt Nam đề cập tới
hiện tƣợng song ngữ
Thi pháp học ở Việt Nam là một bộ môn khoa học có từ hơn bốn mƣơi năm trƣớc. Với nỗ lực không ngừng của các nhà nghiên cứu, thi pháp học ở Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu rất đáng kể. Những công trình nghiên cứu về văn học trung đại Việt Nam theo hƣớng thi pháp học cũng là những công trình có chất lƣợng đƣợc các học giả đánh giá cao. Nghiên cứu những công trình ấy, chúng tôi cũng bắt gặp những nhận định của các nhà nghiên cứu về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
1. Cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc cũng là một công trình nghiên cứu có giá trị về thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Ông cho rằng: ―Nếu nhà thơ không nhạy cảm về mặt này, muốn tận dụng khả năng sẵn có về từ chƣơng học của mình để phá vỡ tính dân dã của nó, bằng cách dùng thể đối chọi quá nhiều, dùng điển tích quá nhiều, và từ Hán – Việt quá nhiều, thì kết quả là bài thơ sẽ mất mĩ cảm‖ [117, tr. 275]. Đó là những nhận định sắc sảo về việc sử dụng các yếu tố Hán và Nôm về ngôn ngữ trong Truyện Kiều của Phan Ngọc.
2. Cùng với Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Trần Đình Sử còn một loạt các công trình nghiên cứu khác về thi pháp. Đáng chú ý trong số này phải kể đến Thi pháp Truyện Kiều. Công trình này đã ít nhiều đề cập đến các yếu tố góp phần tạo nên hiện tƣợng song ngữ ở tác gia Nguyễn Du.
4. Theo Trần Đình Hƣợu, ―việc định hình thể thơ song thất lục bát và dùng nó để viết ngâm khúc, trau chuốt thể thơ lục bát và dùng nó để viết truyện Nôm, lựa chọn ca trù làm các bài hát nói. Có thể coi là con đƣờng tách ra ngoài ảnh hƣởng Trung Quốc, theo đuổi một cái đẹp có tính dân tộc‖ [83, tr.292].
Cũng theo Trần Đình Hƣợu, ―trong sáng tác của các nhà nho, bên cạnh văn, thơ, phú, lục nhiều ngƣời còn trổ tài viết song thất lục bát, hát nói. Nhƣng đối với bản thân những ngƣời đó, văn thơ Nôm cũng chỉ là phần phụ, phần có ý nghĩa mua vui‖ [83, tr.293].
5. Trong cuốn Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhâm Thìn có đề cập tới vấn đề song ngữ từ góc độ thể loại. Đây là một thể loại văn học dân tộc hóa thành công nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Thơ Nôm Đƣờng luật cũng là biểu hiện đầy đủ nhất cả về hình thức và nội dung hiện tƣợng song ngữ. Hay nói cách khác là yếu tố Hán và yếu tố Nôm cả nội dung và nghệ thuật.
15
Cũng trong Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhâm Thìn có những thống kê đáng chú ý: ―Quốc âm thi tập 1 câu khẩu ngữ/203,3 câu thơ; Bạch Vân quốc ngữ thi tập 1 câu khẩu ngữ/116 câu thơ; thơ Bà huyện Thanh Quan 1 câu khẩu ngữ/48 câu thơ; thơ Nguyễn Khuyến 1 câu khẩu ngữ/16,5 câu thơ. Đỉnh cao là thơ Hồ Xuân Hƣơng 1 câu khẩu ngữ/12,7 câu thơ và thơ Tú Xƣơng 1 câu khẩu ngữ trên 12,1 câu thơ‖ [142, tr. 173-174]. Đây chính là một thành tựu của văn học viết bằng chữ Nôm: làm cho văn chƣơng gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của công chúng.
Trong cuốn Phân tích tác phẩm văn học trung đại dưới góc nhìn thể loại, Lã Nhâm Thìn cho rằng, ―Trong giai đoạn đầu, thể loại văn học trung đại Việt Nam là những thể loại tiếp thu từ Trung Quốc. Nhìn ở mặt bằng hay ở đỉnh cao của thể loại, ở sự phong phú đa dạng hay ở sự kết tinh nghệ thuật của thể loại ta cũng đều thấy thực trạng đó‖ [145, tr. 6]. Tiếp đó, nhà nghiên cứu này nhận định: ―Từ thế kỷ XV bên cạnh những thể loại tiếp thu từ nƣớc ngoài đã chính thức xuất hiện thể loại dân tộc hóa thể loại tiếp thu. Đó là thơ Nôm Đƣờng luật. Trên cơ sở thơ Đƣờng luật Trung Quốc, văn học Việt Nam đã dân tộc hóa thành thơ Nôm Đƣờng mang bản chất, chức năng mới của thể loại [145, tr. 6]. Quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam xét đến cùng cũng là sự phát triển của thể loại vì ngôn ngữ văn học bao giờ cũng đi cùng thể loại và mang đặc trƣng của thể loại.
6. Hoàng Hữu Yên trong cuốn Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam khi bàn về khái niệm Truyện Nôm đã có hàm ý phân biệt truyện thơ viết bằng chữ Nôm với truyện thơ viết bằng chữ Hán. Ông nhấn mạnh: ―thể truyện tự sự bằng văn xuôi đều đƣợc viết bằng chữ Hán và cũng thể ấy, bằng văn vần đều đƣợc viết bằng tiếng Việt (chữ Nôm) ngoại trừ trƣờng hợp duy nhất đƣợc viết bằng chữ Hán là Truyện Hương miết hành (Truyện chiếc giày thơm)‖ [163, tr. 232].
7. Nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học trung đại Việt Nam từ trƣớc tới nay đã thu hút đƣợc không ít học giả vì dẫu sao ngôn ngữ cũng là chất liệu tạo thành tác phẩm, là lớp vỏ chứa đựng tƣ tƣởng và ít nhiều thể hiện phong cách nghệ thuật. Nghiên cứu về việc sử dụng ngôn ngữ của những tác giả lớn, có phong cách độc đáo nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, … lại càng là một đề tài thú vị.
Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu nhƣ Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Trần Đình Hƣợu, Hoàng Hữu Yên, Lã Nhâm Thìn và một số nhà nghiên cứu khác nữa
16
khi nghiên cứu những vấn đề về thi pháp, về ngôn ngữ và thể loại cũng có đề cập tới hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. 1.2.3. Nghiên cứu các tác giả sáng tác bằng song ngữ Văn học trung đại Việt Nam có không ít tác giả sáng tác bằng cả hai loại ngôn ngữ Hán và Nôm nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến… Có nhiều công trình nghiên cứu về các tác gia này và có đề cập tới hiện tƣợng song ngữ. Trong luận án này, ngƣời viết tìm hiểu và chú ý đến một số công trình nghiên cứu sau:
1.2.3.1. Về tác gia Nguyễn Trãi 1. Trong Giáo trình Văn học Việt Nam (thế kỉ X-nửa đầu thế kỉ XVIII), Đinh Gia Khánh đã gián tiếp khẳng định Nguyễn Trãi là tác gia sáng tác bằng song ngữ tiêu biểu khi ông khảo cứu song song hai thành phần sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm của Ức Trai tiên sinh. Nhà nghiên cứu này còn nhấn mạnh: ―trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, tính dân tộc đã thể hiện rất rõ ở chỗ phản ánh thiên nhiên của đất nƣớc ta và cuộc sống của ông cha ta. Với thơ Nôm, ông đã có thể phản ánh một cách cụ thể và sinh động hơn thiên nhiên ấy, cuộc sống ấy‖ [85, tr.255].
2. Trần Nho Thìn trong Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX cũng gián tiếp khẳng định Nguyễn Trãi là tác giả có sáng tác bằng song ngữ. Với sáng tác chữ Nôm, nhà nghiên cứu cho rằng: ―nói đến đóng góp nghệ thuật của Nguyễn Trãi, trƣớc hết cần khẳng định thành tựu nghệ thuật của Quốc âm thi tập – tập thơ chữ Nôm dùng tiếng mẹ đẻ để diễn tả nội tâm và phản ánh thế giới‖ [148, tr.357]. Đƣơng nhiên bên cạnh đó tác giả cũng không thể không nhắc tới ―Nguyễn Trãi còn là tác giả có sáng tác bằng chữ Hán‖ [148, tr.361].
3. Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam (tập 1) của Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Lã Nhâm Thìn khẳng định Nguyễn Trãi là một tác gia song ngữ tiêu biểu: ―Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc trên nhiều loại hình văn học, xuất sắc cả trong sáng tác chữ Hán và sáng tác chữ Nôm. Ông là tác giả để lại khối lƣợng tác phẩm lớn với nhiều tác phẩm có giá trị‖ [113, tr.108].
4. Trần Thị Anh trong luận văn thạc sĩ của Khoa Ngữ Văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội năm 2015 với đề tài Hiện tượng song ngữ qua sáng tác Nguyễn Trãi là công trình có tính chất gợi ý để chúng tôi tham khảo cho luận án này. Tác giả Trần Thị Anh đã khái lƣợc một số vấn đề về lí thuyết của hiện
17
tƣợng song ngữ; chỉ ra hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Trãi ở hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ dừng lại ở mức độ một tác giả và cũng chƣa đi đến khái quát đƣợc cơ sở hình thành, bản chất và quá trình phát triển của hiện tƣợng ấy.
1.2.3.2. Về tác gia Nguyễn Du 1. Nguyễn Lộc trong Giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX có nhận xét: ―Nguyễn Du là một nhà thơ đã sử dụng đƣợc nhiều thể tài, thể loại và thể tài, thể loại nào cũng đƣợc dùng đúng chỗ, thành công. Trong thơ chữ Hán của ông có thơ luật và thơ cổ thể. Trong thơ Nôm của ông có cả lục bát và song thất lục bát‖ [100, tr. 504].
2. Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ Truyện Kiều” của Nguyễn Thúy Hồng (Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn, ĐHSPHN, 1995 đã phân tích đặc điểm, tính chất, ý nghĩa và vị trí của hai thành phần từ ngữ trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều. Tác giả cũng tiến hành so sánh sự giống và khác nhau trong phong cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du với các tác giả truyện thơ Nôm trung đại. Trong luận án chúng tôi chú ý đến chƣơng IV về ―Vai trò của hai thành phần từ ngữ Việt và Hán Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều‖.
3. Trần Nho Thìn trong Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã khẳng định: ―Là tác giả tiêu biểu cho giai đoạn thứ hai của văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Du có những đóng góp quan trọng cho tiến trình văn học dân tộc trong cả mảng sáng tác chữ Hán và chữ Nôm‖ [148, tr.502].
4. Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam, tập 2 (Lã Nhâm Thìn, Vũ Thanh đồng chủ biên) cũng trực tiếp khẳng định Nguyễn Du là một tác giả lớn có sáng tác bằng song ngữ khi nhấn mạnh ―sự nghiệp văn chƣơng của Nguyễn Du bao gồm sáng tác chữ Hán và chữ Nôm. Ở lĩnh vực nào, nhà thơ cũng đạt đƣợc những thành tựu to lớn‖ [144, tr.161].
5. Lã Nhâm Thìn, trong bài viết Nguyễn Du và hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam (sách đã dẫn) cho rằng: ―Sáng tác của Nguyễn Du là sự kết tinh tiêu biểu nhất của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Sự kết tinh tiêu biểu này thể hiện qua cả tƣ tƣởng văn học Nguyễn Du và qua cả thành tựu văn học Nguyễn Du‖ [161, tr.630]. Ông cũng nhấn mạnh: ―Hiện tƣợng song ngữ là một đặc điểm lớn của văn học trung đại Việt Nam. Nhiều tài năng văn học lớn là tác giả song ngữ, trong đó Nguyễn Du là tài năng lớn nhất‖ [161, tr.636].
18
1.2.3.3. Về tác gia Nguyễn Khuyến 1. Tảo Trang đã gián tiếp khẳng định Nguyễn Khuyến là tác giả có sáng tác bằng song ngữ trong bài viết ―Nhà thơ kép Hán – Việt‖ dù không trực tiếp dùng khái niệm song ngữ. Học giả cho rằng ―cách dùng sáng tác song hành Việt – Hán hoặc Hán – Việt nhà thơ đã tự cho mình một phƣơng tiện đầy đủ hiệu lực để biểu hiện ý nghĩa tâm hồn mình qua hai thứ tiếng, đảm bảo kết quả hoàn chỉnh hơn‖ [142, tr.354]. Trƣớc đó, nhà nghiên cứu đã phân tích một số tác phẩm là những bài thơ liên kết của Nguyễn Khuyến qua hai dạng Hán và Nôm rất sâu sắc.
2. Nguyễn Lộc thì trực tiếp khẳng định Nguyễn Khuyến là tác giả song ngữ. Cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX có nhận xét về Nguyễn Khuyến: ―Nguyễn Khuyến còn để lại khoảng ba trăm bài thơ chữ Hán và chữ Nôm, trong Quế Sơn thi tập, có bài tác giả làm bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngƣợc lại, có bài ông làm bằng tiếng Việt rồi dịch ra chữ Hán‖ [100, tr.776].
3. Khi viết về Nguyễn Khuyến, một tác gia song ngữ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam, trong cuốn Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng Hữu Yên cho rằng: ―Ở một số đề tài, Nguyễn Khuyến đã viết thành thơ chữ Hán, sau đó lại tự dịch ra thơ Nôm. Vì sao vậy?‖ [163, tr. 220]. Sau đó ông giải thích: ―Chắc chắn không bao giờ cụ Tam Nguyên muốn khoe chữ. Phải chăng vì Nguyễn Khuyến cho rằng thơ chữ Hán ít đƣợc phổ biến sâu rộng, nhà thơ phải có thêm bản Nôm để giãi bày cho nhiều ngƣời hiểu rõ tâm sự uẩn khúc của mình‖ [163, tr. 220].
4. Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam tập 2 cũng trực tiếp khẳng định Nguyễn Khuyến là một tác giả lớn có sáng tác bằng song ngữ. ―Nguyễn Khuyến là một phong cách lớn trong văn học dân tộc, một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật. Ông là một nhà thơ kép Hán – Việt, Việt – Hán hết sức độc đáo‖ [144, tr.365].
5. Trần Nho Thìn trong Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã khẳng định: ―Nguyễn Khuyến viết cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Theo cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm do Nguyễn Văn Huyền, sƣu tầm, biên dịch thì Nguyễn Khuyến để lại 86 bài thơ chữ Nôm, 267 bài thơ chữ Hán, ngót trăm câu đối cả Nôm và Hán, cùng một số bài thơ dịch và ca dao‖ [148, tr.668].
6. Trong cuốn Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Biện Minh Điền
19
dành tới 23 trang viết về ―hiện tƣợng song ngữ và mối quan hệ hai chiều Hán – Việt, Việt – Hán trong sáng tạo ngôn ngữ thơ của Nguyễn Khuyến‖. Theo tác giả, ―hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác Nguyễn Khuyến là một hiện tƣợng đáng đƣợc đặc biệt chú ý‖ bởi theo ông hiện tƣợng song ngữ ở Nguyễn Khuyến không chỉ dừng lại ở việc sáng tác bằng cả hai thứ tiếng Hán và Việt mà còn đặc biệt là ở chỗ Tam Nguyên Yên Đổ sáng tác bằng chữ Hán rồi tự ―dịch‖ sang chữ Nôm hoặc ngƣợc lại từ Nôm sang Hán [46, tr.317]. Nhà nghiên cứu đã đƣa ra những dẫn chứng rất cụ thể và chi tiết của hiện tƣợng này. Tuy nhiên, ông chƣa đi vào lí giải đƣợc nguyên nhân sâu xa của nó mặc dù tác giả có đề cập đến hình thức ngôn ngữ nhƣ là một yếu tố tạo nên hiện tƣợng thú vị này ở Nguyễn Khuyến.
1.2.3.4. Về một số tác gia khác 1. Trong Giáo trình Văn học Việt Nam (thế kỉ X-nửa đầu thế kỉ XVIII), Đinh Gia Khánh dẫn truyện Hồ Quý Ly có sáng tác bằng song ngữ. Theo ông, tác giả thơ Nôm có tiếng vào cuối thế kỉ XIV là Hồ Quý Ly. Việt sử thông giám cương mục (chính biên, q.XI, tờ 3) chép việc Trần Nghệ Tông dùng Hồ Quý Ly làm Đồng bình chƣơng sự đã cho biết Quý Ly làm thơ bằng quốc âm để tạ ơn thƣợng hoàng. Nhƣ vậy, nói Hồ Quý Ly là tác giả có sáng tác bằng song ngữ thì không phải không có cơ sở, dẫu di sản văn chƣơng của Quý Ly bị thất lạc không còn lại đƣợc bao nhiêu.
2. Cũng trong Giáo trình Văn học Việt Nam (thế kỉ X-nửa đầu thế kỉ XVIII), Đinh Gia Khánh đã đề cập đến Lê Thánh Tông là một tác gia có sáng tác bằng song ngữ. ―Lê Thánh Tông viết nhiều tác phẩm Nôm. Thơ Nôm của ông nhiều bài đƣợc chép trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Về biền văn Nôm thì tác phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn có lẽ cũng là của ông‖. Tiếp đó ông cũng giới thiệu thêm ―Lê Thánh Tông để lại nhiều thơ văn chữ Hán. Về văn hiện còn ba tác phẩm là: dụ Khuyến học, phú Lam Sơn Lương Thủy và sách Liệt truyện tạp chí‖ [85, tr.309].
3. Theo Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XVII đến hết thế kỷ XIX thì nguyên nhân vì sao Cao Bá Quát và các tác giả cùng thời với ông chủ yếu sáng tác bằng chữ Hán là vì ―Triều đình nhà Nguyễn ngay từ đầu đã tỏ ra muốn đề cao chữ Hán, nhƣng truyền thống dùng chữ Nôm để sáng tác văn học trong giai đoạn trƣớc, đặc biệt là việc đề cao chữ Nôm dƣới thời Tây Sơn không dễ gì một mai một chiều dập tắt ngay đƣợc‖ [100, tr.555]. Bởi thế, ―cho
20
nên, những năm đầu dƣới triều Gia Long, chữ Nôm vẫn còn đƣợc dùng trong giấy tờ chính quyền, sau mới thay dân bằng chữ Hán, và bên cạnh Nguyễn Công Trứ sáng tác bằng chữ Nôm, Lý Văn Phức cũng sáng tác rất nhiều bằng chữ Nôm‖ [100, tr.555]. Trong khi đó, ―trái lại, Cao Bá Quát bắt đầu sáng tác vào giai đoạn chữ Hán đã thực sự trở lại địa vị độc tôn, không khí sáng tác bằng chữ Hán dƣờng nhƣ bao trùm tất cả, cho nên không những Cao Bá Quát sáng tác chủ yếu bằng chữ Hán mà dƣờng nhƣ tất cả những nhà thơ cùng thế hệ với Cao Bá Quát cũng đều sáng tác chủ yếu bằng chữ Hán‖ [100, tr.556].
4. Lã Nhâm Thìn trong Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam tập 2 cho rằng Hồ Xuân Hƣơng cũng là một tác giả có sáng tác bằng song ngữ. ―Trƣớc đây ngƣời ta chỉ biết đến Hồ Xuân Hƣơng là tác giả thơ Nôm nhƣng từ khi Lưu hương kí đƣợc phát hiện vào năm 1964 thì ngƣời ta còn nói đến nữ sĩ là tác giả của thơ chữ Hán‖ [144, tr.206].
Nhìn chung, có nhiều nghiên cứu về các tác gia văn học trung đại Việt Nam nhất là các tác gia tiêu biểu sáng tác bằng song ngữ nhƣ Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến và nhiều tác gia khác. Những công trình này đã đề cập ít nhiều nội dung của đề tài luận án. Chúng tôi tiếp thu và kế thừa những công trình của Nguyễn Lộc, Đinh Gia Khánh, Trần Nho Thìn, Hoàng Hữu Yên, Lã Nhâm Thìn, Biện Minh Điền, Tảo Trang, Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Anh và một số nhà nghiên cứu khác để ―Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam‖ đƣợc nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống hơn nữa.
1.2.4. Nghiên cứu so sánh hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam với văn học các nƣớc khu vực văn hóa chữ Hán thời trung đại
Thời trung đại, Việt Nam nằm trong khu vực chịu ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán. cũng nhƣ các nƣớc đồng văn nhƣ Triều Tiên/Hàn Quốc và Nhật Bản; Do đó, nghiên cứu văn học Việt Nam trong thế so sánh với văn học các nƣớc này hoặc nghiên cứu nền văn học của Triều Tiên/Hàn Quốc và Nhật Bản thời trung đại cũng đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý theo hƣớng so sánh. Ở đây, chúng tôi chỉ điểm qua các công trình nghiên cứu có đề cập tới hiện tƣợng song ngữ.
1. Đoàn Lê Giang với bài viết Thời trung đại trong văn học các nước khu vực văn hóa chữ Hán đã có một cái nhìn khái quát về nền văn học của các
21
nƣớc Hàn Quốc/ Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam thời trung đại từ đó chỉ ra những điểm chung và riêng của những nền văn học này. Đáng chú ý, về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại, ông cũng khẳng định: ―Trong các nƣớc Đông Á đều có hiện tƣợng song tồn hai thành phần văn học: thành phần viết bằng Hán văn và thành phần viết bằng ngôn ngữ dân tộc‖. Sau đó, tác giả dẫn giải thêm ―có thể kể thêm loại văn trung gian giữa hai loại trên, pha trộn giữa tiếng Hán và tiếng bản địa mà ngƣời Nhật gọi là Hoà Hán hỗn hào. Ở Việt Nam có lẽ cũng có hiện tƣợng đó, chẳng hạn nhƣ bài phú Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông là một loại văn Việt Hán hỗn hào”. Nhƣ vậy, Đoàn Lê Giang cũng khẳng định trong văn học trung đại của Việt Nam và của các nƣớc Đông Á có hiện tƣợng song ngữ.
2. Theo cuốn Văn học sử Hàn Quốc của Ko Mi Sook, Jung Min và Jung Byung Sun (Jeon Hye Kyung và Lý Xuân Chung dịch) thì văn học trung đại Triều Tiên/ Hàn Quốc cũng tồn tại hiện tƣợng song ngữ tức là bao gồm cả văn học chữ Hán và văn học chữ Hàn. ―Ngƣời Hàn Quốc thời trung đại cũng mƣợn chữ Hán dùng làm văn tự để ghi chép và sau đó mƣợn chữ Hán để ghi âm tiếng nƣớc mình, tức chữ Y – Du‖ [134, tr.23]. Nhƣng ― sự ra đời của tác phẩm Huấn dân chính âm của vua Sêjong (Thế Tông) đánh dấu sự ra đời của một hệ thống văn tự có thể ghi chép một cách đầy đủ tiếng Hàn tức là chữ Hangƣl‖ [134, tr. 22]. Nhƣ vậy, ở Hàn Quốc thời trung đại có ba loại văn tự ghi chép đó là chữ Hán, chữ Y – Du và chữ Hàn (Hangƣl). Theo nhóm tác giả này thì ―văn học của Hàn Quốc có thể đƣợc chia ra thành văn học của tầng lớp trên, sáng tác bằng chữ Hán và của tầng lớp dƣới bao gồm cả phụ nữ, sáng tác bằng chữ Hàn‖ [134, tr.24]. Lại thêm một nhận định nữa cho thấy sự bất bình đẳng của hiện tƣợng song ngữ trong văn học Triều Tiên/Hàn Quốc cũng nhƣ ở Việt Nam.
3. Trong cuốn Văn học cổ điển Hàn Quốc – Tiến trình và bản sắc, Phan Thị Thu Hiền đã trực tiếp đề cập tới hiện tƣợng song ngữ trong văn học Korea thời trung đại: ―Tƣơng tự các nƣớc khác ở Đông Á thuộc vùng văn hóa chữ Hán (văn hóa đồng văn) nhƣ Nhật Bản, Việt Nam, ngôn ngữ và văn chƣơng thời trung đại ở Korea mang đặc điểm song ngữ. Đó là sự tồn tại song trùng của ngôn ngữ - văn tự Hán trong tƣ cách yếu tố ngoại nhập và ngôn ngữ - văn tự dân tộc (quốc ngữ) là yếu tố bản địa‖ [65, tr.33-34]. Ở công trình này nhà nghiên cứu còn bàn nhiều đến những vấn đề liên quan
22
đến hiện tƣợng song ngữ nhƣ đặc điểm và tiến trình phát triển của chữ Hán và văn học viết bằng chữ Hán cũng nhƣ đặc điểm và tiến trình phát triển của chữ Hàn và văn học viết bằng chữ Hàn trong văn học cổ điển Hàn Quốc. Luận án sẽ tiếp thu, kế thừa và phát triển những luận điểm này trong khi triển khai nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
4. Nguyễn Nam Trân trong cuốn Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản cho rằng: ―Ngƣời Nhật biết đến tiếng Hán thông qua ngƣời Triều Tiên. Trƣớc khi sáng tạo ra chữ viết của riêng mình, văn học Nhật đã đạt những thành tựu rực rỡ với văn tự vay mƣợn [151, tr.16].
Cũng theo Nguyễn Nam Trân, tác phẩm đầu tiên của văn học Nhật Bản có nhan đề Kojiki (Cổ sự kí). Đây là tập hợp các truyền thuyết dân gian đƣợc bắt đầu biên soạn từ thế kỉ VII nhƣng đến năm 712 mới hoàn thành. Lúc này, ngƣời Nhật chƣa sáng tạo ra hệ thống chữ viết riêng nên viết hoàn toàn bằng chữ Hán, nhƣng có điều đặc biệt trong việc sử dụng chữ Hán ở tác phẩm này đó là sự pha trộn khi thì chữ Hán thuần túy, khi thì mƣợn chữ Hán nhƣ ngữ âm, khi thì mƣợn chữ Hán nhƣ ngữ nghĩa. Sự độc quyền của chữ Hán trong văn học Nhật Bản kết thúc bằng tập thơ Manyoshu (Vạn diệp tập) – đỉnh cao của thơ ca Nhật Bản, ―xứng đáng đƣợc xếp vào những hợp tuyển thơ ca vĩ đại của thế giới‖ [151, tr.22].
5. Trong bài ―Những đặc điểm của văn học Nhật Bản‖ của Shuichi Kato do Nguyễn Thị Khánh dịch thì việc dùng chữ Trung Quốc của ngƣời Nhật để viết ngôn ngữ của chính mình cũng sáng tạo ra một phƣơng pháp đọc thơ và văn xuôi gốc Trung Quốc theo kiểu cách của Nhật. Bằng cách dùng những phƣơng pháp dịch tiếng Trung Quốc, ngƣời Nhật có thể viết thơ và văn xuôi của chính mình bằng ngôn ngữ Trung Quốc. Đồng thời, từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIX văn học Nhật bản cũng đƣợc viết bằng hai ngôn ngữ, Nhật Bản và Trung Quốc (hay ít ra là cách chuyển tiếng Trung Quốc thành tiếng Nhật Bản) và tình trạng văn học song ngữ này tồn tại cho đến cuộc Duy tân Minh Trị (tr.15).
Nhƣ vậy, qua việc điểm các công trình nghiên cứu của các tác giả Đoàn Lê Giang, Phan Thị Thu Hiền, Ko Mi Sook, Jung Min và Jung Byung Sun, Nguyễn Nam Trân và một số nhà nghiên cứu khác, chúng ta thấy rằng, những nghiên cứu so sánh giữa văn học trung đại Việt Nam với văn học các nƣớc chịu ảnh hƣởng của khu vực văn hóa chữ Hán cho thấy một số điểm tƣơng đồng đó là sự tồn tại của hiện tƣợng song ngữ và hiện tƣợng
23
song ngữ của văn học thời trung đại những nƣớc này cũng nhƣ ở Việt Nam đều là song ngữ bất bình đẳng.
Những công trình nghiên cứu chuyên biệt về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam chƣa nhiều, có khi dừng lại trong giới hạn khảo sát hẹp ở một tác giả, một số công trình nghiên cứu khác có đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Nhìn chung, các công trình, bài viết nghiên cứu về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đã mang đến những quan niệm, đánh giá tƣơng đối phong phú, đa chiều. Về cơ bản, những vấn đề đã đƣợc triển khai đó là khái niệm về hiện tƣợng song ngữ, khẳng định về sự tồn tại và tiến trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Những nhận định đó mang ý nghĩa định hƣớng cho ngƣời viết trong quá trình triển khai đề tài để nhìn nhận rõ hơn, hệ thống hơn, toàn diện hơn vấn đề đƣợc nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam vẫn còn là một vấn đề phức tạp, cần đƣợc nghiên cứu chuyên sâu hơn, từ khái niệm, cơ sở hình thành, đặc điểm, quá trình phát triển cũng nhƣ biểu hiện trên phƣơng diện tác giả, thể loại và ngôn ngữ văn học. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam cần đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện hơn nữa. Và đây cũng chính là mục đích, nhiệm vụ chúng tôi đặt ra khi thực hiện luận án.
1.3. CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.3.1. Lí thuyết liên ngành ngôn ngữ và văn học Văn học là nghệ thuật ngôn từ hay nói cách khác ngôn ngữ chính là
chất liệu tạo nên tác phẩm văn học.
Từ góc độ ngôn ngữ chúng ta thấy rằng lịch sử phát triển của tiếng Việt trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và rất phức tạp. Nƣớc ta nằm trong khu vực ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán (Hán tự văn hóa quyển) lại chịu sự đô hộ hàng ngàn năm của phong kiến phƣơng Bắc mà ngƣời Hán là chủ yếu. Từ năm 939, với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền nƣớc ta giành đƣợc độc lập từ tay ngƣời Hán. Các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp tục sử dụng chữ Hán, coi đó là văn tự chính thức của nhà nƣớc. Do đó, chữ Hán đƣợc sử dụng trong tất cả các lĩnh vực của xã hội cũng là điều dễ hiểu. Cùng với sự phát triển của ý thức về quốc gia dân tộc ngày càng cao, độc lập chủ quyền lãnh thổ phải đồng thời độc lập về văn hóa trong đó có văn tự. Thực tiễn lịch sử phát triển của tiếng Việt có sự tiếp xúc văn hóa Việt – Hán. Cha ông ta đã mƣợn chữ Hán để
24
sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói của mình. Tiếng Việt/ chữ Nôm đã tiếp thu các yếu tố Hán Việt và các yếu tố Hán Việt đƣợc Việt hóa để làm phong phú hơn kho từ vựng của mình. Từ đó, cách đọc Hán Việt, một cách đọc chữ Hán riêng của ngƣời Việt đƣợc hình thành. Tiếng Việt/ chữ Nôm có từ khi nào? Đó là một vấn đề đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm và có những giả thuyết khác nhau nhƣng việc dùng chữ Nôm để sáng tác văn chƣơng có thể kể từ thời Hàn Thuyên vào cuối thế kỷ XIII đời nhà Trần. Kể từ đó, bên cạnh thành phần văn học sáng tác bằng chữ Hán có thêm thành phần văn học viết bằng chữ Nôm tức là có hiện tƣợng song ngữ trong văn học.
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là một hiện tƣợng văn học độc đáo và thú vị, vừa có tính đặc thù vừa có tính phổ quát, vừa văn học vừa ngôn ngữ. Hiện tƣợng này diễn ra trong nội tại văn học nhƣng cũng đƣợc hình thành trên những tiền đề ngôn ngữ học, lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học và thẩm mĩ nhất định. Do đó, cần xem xét hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn của liên ngành, đặc biệt ở đây là liên ngành ngôn ngữ và văn học.
1.3.2. Lí thuyết liên ngành văn hoá và văn học Nhƣ đã nói ở trên, hiện tƣợng song ngữ trong văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX mang đậm dấu ấn của văn hóa. Ẩn sâu trong việc sử dụng chữ Hán để sáng tác văn chƣơng là những dấu ấn văn hóa rất sâu đậm của văn hóa Hán và văn hóa Nho giáo. Việc cha ông ta cố gắng tạo ra một loại chữ viết tƣơng tự nhƣ chữ Hán dù phức tạp hơn chữ Hán để ghi âm tiếng Việt không chỉ thể hiện lòng yêu nƣớc và tự hào dân tộc to lớn mà có có những nguyên nhân sâu xa về văn hóa. Bởi thế cho nên không thể tách hiện tƣợng song ngữ ra khỏi những mối liên hệ văn hóa của ngƣời trung đại, những ngƣời vừa là chủ nhân, ngƣời sáng tạo và thụ hƣởng nền văn hóa đó.
A.JA.Gurêvich cho rằng: ―Lòng tin ở những điều nhảm nhí, nào súc vật biết nói, nào ma quỷ vào nhà, nào phép chữa bệnh kì diệu, việc tôn thờ thánh cốt và các vật thiêng khác, việc giải thích các hiện tƣợng xã hội bằng vị trí của những thiên thể và điềm siêu nhiên khác… tất cả những điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên, nếu chúng ta nhớ rằng thời kì này ý thức hệ tôn giáo thống trị‖ [56, tr. 188]. Nhƣ thế, để lí giải các hiện tƣợng văn học nhƣ hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam thì việc tiếp cận từ góc nhìn văn hoá là một trong những hƣớng đi quan trọng.
25
Theo nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, phƣơng pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ văn hoá học lấy con ngƣời làm trung tâm để xây dựng hệ thống vấn đề miêu tả trong tác phẩm. Con ngƣời với tính cách là một thực thể văn hoá bao giờ cũng tồn tại trong ba mối quan hệ căn bản: quan hệ với môi trƣờng tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình. Nhƣng con ngƣời khác với động vật ở chỗ có ý thức, con ngƣời không thể hiện mình một cách bản năng, tự phát trong các quan hệ ứng xử mà luôn lựa chọn các giá trị. Trong tiến trình phát triển của mình, con ngƣời không ngừng tìm kiếm, xác lập nguyên tắc ứng xử trong ba mối quan hệ này. Đến lƣợt mình, các nguyên tắc ứng xử ấy luôn luôn chi phối các phƣơng diện thi pháp của một tác phẩm văn học. Đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hoá học là vận dụng những tri thức về văn hoá để nhận diện và giải mã các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm.
Mặt khác, do các tiền đề triết học của các mối quan hệ văn hoá nói trên cũng thay đổi theo thời gian nên đặc điểm ứng xử của văn hoá cũng thay đổi. Tiếp cận từ góc nhìn văn hoá cũng là điều rất cần thiết khi nghiên cứu hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Sự xuất hiện của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam không chỉ là một hiện tƣợng văn học mà còn là một hiện tƣợng văn hoá, một dấu ấn văn hoá của thời đại đáng lƣu ý. Nếu không có sự ảnh hƣởng của văn hóa và văn học Trung Quốc, nhất là văn hóa tam giáo, văn hóa và văn học dân gian ở các mức độ khác nhau về ngôn ngữ, thể loại và tác gia văn học thì không thể có sự hình thành và phát triển của hiện tƣợng song ngữ nhƣ thế. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm hiểu các mức độ ảnh hƣởng, biểu hiện trên phƣơng diện nào của văn hoá đối với sự hình thành, vận động và phát triển của hiện tƣợng song ngữ. Một trong những gợi ý để lí giải vấn đề trên liên quan đến phƣơng pháp tiếp cận văn hoá trong văn học là ý kiến của Trần Nho Thìn. Nhà nghiên cứu cho rằng phƣơng pháp tiếp cận văn hoá học ƣu tiên cho việc ―phục nguyên không gian văn hoá‖ trong đó tác phẩm văn học ra đời, sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con ngƣời… với các mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, môtíp, hình tƣợng, cảm xúc, ngôn ngữ. Ông nhấn mạnh: ―Một yếu tố thi pháp ra đời trên một nền tảng văn hoá nhất định có thể vƣợt ra các biến cố lịch sử - chính trị mà tồn tại cho đến khi nền tảng văn hoá ấy bị giải thể‖ [150, tr. 9 - 10]. Văn học trung đại hình thành và đƣợc nuôi
26
dƣỡng trong môi trƣờng lịch sử - văn hóa của thời trung đại (cũng là thời phong kiến) mà văn học trung đại hiển nhiên cũng phải chịu áp lực của hai định hƣớng tƣ tƣởng thời đại chủ đạo là nhà nƣớc kéo theo cung đình, vua chúa, quan lại và tôn giáo, giáo hội nhƣ Phật giáo, Nho giáo (Tuy Nho giáo không phải là một tôn giáo đích thực nhƣng ảnh hƣởng của Nho giáo mạnh bằng hoặc có khi mạnh hơn bất cứ một tôn giáo nào). Chính điều này đã ảnh hƣởng, quy định, chi phối đến văn học trung đại từ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, quan niệm thẩm mĩ, nội dung và hình thức nghệ thuật, kiểu tác giả, khuynh hƣớng sáng tác. Tiếp cận nghiên cứu, phê bình văn học dƣới góc nhìn văn hoá hay liên ngành văn hóa và văn học là một hƣớng có nhiều ƣu thế.
1.3.3. Lí thuyết so sánh văn học Theo Nguyễn Văn Dân, ―so sánh văn học ban đầu chỉ là một phƣơng pháp…. Còn trong nghiên cứu văn học, nó là một phƣơng pháp dùng để xác định, đánh giá các hiện tƣợng văn học trong mối quan hệ giữa chúng với nhau‖ [35, tr. 8]. So sánh văn học ra đời trong điều kiện xã hội giao lƣu văn hóa và điều kiện học thuật. Trong đó điều kiện xã hội có ý nghĩa đầu tiên và quyết định.
Ở đề tài luận án này, chúng tôi sử dụng các thao tác so sánh trong việc so sánh hai thành phần sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm của cùng một tác giả. Chẳng hạn, hiện tƣợng song ngữ qua sáng tác của Nguyễn Trãi với Ức Trai thi tập viết bằng chữ Hán và Quốc âm thi tập viết bằng chữ Nôm, hay Bạch Vân am thi tập (chữ Hán) và Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm,… Hoặc so sánh một tác giả này với một tác giả khác. Chẳng hạn, hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Trãi (đƣợc coi là ngƣời mở đầu) với Nguyễn Khuyến (ngƣời khép lại quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ). Hoặc rộng hơn nữa là so sánh hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam với các nƣớc trong khu vực. 1.3.4. Lý thuyết loại hình học Theo Nguyễn Văn Dân, ―về đại thể, trong nghiên cứu so sánh văn học, phƣơng pháp loại hình có thể có hai phƣơng thức áp dụng: Dùng phƣơng pháp loại hình để phân loại các hiện tƣợng văn học, trên cơ sở của việc chứng minh các nhóm hiện tƣợng giống nhau theo một tiêu chuẩn nào đó. Từ những đặc điểm chung của một loạt hiện tƣợng văn học, ta có thể chứng minh cho sự tồn tại của một loại hình văn học nào đó, biện hộ cho quyền tồn
27
tại và hiệu quả thẩm mỹ của nó. Cũng có những công trình kết hợp cả hai phƣơng thức‖[34, tr.294].
Loại hình học (typology) là khái niệm chỉ khoa học nghiên cứu về các loại hình, nhằm giúp cho việc phân tích, phân loại và khái quát đối tƣợng nghiên cứu một cách có cơ sở.
Theo M.B. Khrapchenko, nghiên cứu văn học theo phƣơng pháp loại hình là: ―tìm hiểu những nguyên tắc và những cơ sở cho phép nói tới tính cộng đồng nhất định về mặt văn học – thẩm mĩ, tới việc một hiện tƣợng nhất định thuộc về một kiểu, một loại hình nhất định‖. Trong công trình Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, ông dành hẳn Chƣơng 6 để bàn về Nghiên cứu văn học theo phương pháp loại hình [88, tr.332 – 378]. Ông cũng chỉ rõ những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa phƣơng pháp loại hình và phƣơng pháp so sánh – lịch sử khi cho rằng hai phƣơng pháp này thống nhất nhƣng không đồng nhất với nhau.
Theo Biện Minh Điền, ―nghiên cứu theo phƣơng pháp loại hình không phải giản đơn liệt kê, miêu tả sự tƣơng đồng giống nhau bề ngoài của các hiện tƣợng văn học. Điều quan trong hơn nhiều là phải tìm cho ra đƣợc tính quy luật của sự tƣơng đồng giống nhau ấy… [46, tr.44]. Vì các hiện tƣợng văn học sẽ có những mối liên hệ về nguồn gốc và đặc điểm cơ bản nhất định.
Loại hình học và phƣơng pháp loại hình là một trong những thành tựu quan trọng của các nhà nghiên cứu văn học Xô viết. Ở Việt Nam, loại hình học và phƣơng pháp loại hình trong nghiên cứu văn học đã đƣợc ứng dụng trong một số công trình của Trần Đình Sử, Nguyễn Hữu Sơn, Trần Ngọc Vƣơng và một số nhà nghiên cứu khác.
Loại hình học văn học là khoa học nghiên cứu về cơ chế hình thành và cơ sở tồn tại của một hiện tƣợng hoặc một nhóm hiện tƣợng văn học dựa trên một hệ thống nguyên tắc vừa có tính đặc thù vừa mang tính phổ quát. Lí thuyết loại hình giúp làm rõ đƣợc cơ chế hình thành và cơ sở tồn tại của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
Cùng với loại hình học văn học, vấn đề loại hình học tác giả cũng rất đáng chú ý. Phƣơng pháp loại hình là tiền đề lí luận để ngƣời viết triển khai Chương 3: Loại hình tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
28
TIỂU KẾT
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học là hiện tƣợng sáng tác bằng ngôn ngữ vay mƣợn song song với ngôn ngữ bản địa trong một nền văn học ở cùng một giai đoạn. Văn học trung đại Việt Nam cũng tồn tại hiện tƣợng song ngữ: đó là việc cùng một lúc sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm trong sáng tác.
Có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử văn học trung đại Việt Nam, đặc điểm của văn học trung đại, về thi pháp, về các tác giả, thể loại, ngôn ngữ, nghiên cứu so sánh với các nền văn học khác trong khu vực có đề cập đến những khía cạnh của hiện tƣợng song ngữ ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Nhìn chung, các công trình ấy đều gặp nhau ở mấy điểm: thứ nhất, trong văn học trung đại Việt Nam có sự tồn tại và phát triển song song của hai thành phần văn học là thành phần văn học viết bằng chữ Hán và thành phần văn học viết bằng chữ Nôm; thứ hai, ở các thể loại có tính song ngữ chƣa đƣợc phân tích một cách cụ thể nhƣ một hiện tƣợng vừa có tính đặc thù vừa có tính phổ quát, có quá trình hình thành, phát triển và quy luật vận động biến đổi riêng. Những công trình khảo sát kĩ lƣỡng, công phu về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam nói riêng, có thể mở rộng ra trong bối cảnh văn học các nƣớc chịu ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán trong khu vực và thậm chí trong văn học toàn nhân loại vẫn còn ở phía trƣớc. Điều đó, càng kích thích chúng tôi đi vào đề tài đã chọn
Cơ sở lý thuyết của đề tài, bên cạnh những thành tựu về lý luận và thực tiễn của các đơn ngành nhƣ văn học, ngôn ngữ, so sánh văn học, loại hình học văn học,… còn phải vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành nhƣ liên ngành ngôn ngữ và văn học, liên ngành văn hóa và văn học,…
Trên đây là tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài. Những vấn đề các học giả, các nhà nghiên cứu đã triển khai có liên quan đến hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam, luận án tiếp thu và kế thừa. Cùng với việc vận dụng các phƣơng pháp, các lí thuyết là cơ sở lí luận của đề tài, tổng quan tình hình nghiên cứu chính là nền móng để ngƣời viết xây dựng những ý tƣởng tiếp theo.
29
Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
2.1. CƠ SỞ LỊCH SỬ - XÃ HỘI TƢ TƢỞNG - VĂN HOÁ - VĂN
HỌC CỦA HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ 2.1.1. Tiền đề lịch sử - xã hội Bất kỳ một nền văn học, một trào lƣu, một khuynh hƣớng văn học hoặc một hiện tƣợng văn học nào cũng xuất hiện trong những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam cũng hình thành trong những điều kiện lịch sử - xã hội mà văn học trung đại Việt Nam hình thành, vận động, biến đổi và phát triển.
Cuối thế kỷ thứ X, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, nƣớc ta bƣớc vào một thời kỳ mới – thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài, sau một nghìn năm chịu sự đô hộ của phong kiến phƣơng Bắc. Công cuộc phục hƣng đất nƣớc đƣợc các triều kế tiếp Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần tiến hành với một tinh thần vừa khẩn trƣơng, vừa bền bỉ. Nhiệm vụ lớn lao của suốt bốn thế kỷ này là khẳng định, xây dựng và bảo vệ độc lập dân tộc. Nhiệm vụ ấy chi phối mọi tầng lớp, mọi hoạt động xã hội.
Tuy đã có quốc gia độc lập về chính trị nhƣng mọi thiết chế Nhà nƣớc vẫn ít hoặc nhiều phỏng theo nhà nƣớc phong kiến phƣơng Bắc. Do đó, về văn hoá thì Hán học rất đƣợc coi trọng. Văn học chữ Hán, tức là viết bằng ngôn ngữ vay mƣợn có số lƣợng tác phẩm rất lớn gồm cả văn học chức năng và văn học nghệ thuật.
Nhƣ vậy, nền văn học viết ra đời khi Việt Nam chƣa có chữ viết riêng nên đã dùng chữ Hán để sáng tác, dẫn đến hiện tƣợng sử dụng ngôn ngữ vay mƣợn từ nƣớc ngoài.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam đã biết dựa vào sức mạnh của nhân dân để bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất đất nƣớc, mở mang bờ cõi, xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa. Giai đoạn này ghi dấu sự phát triển của ý thức dân tộc, khẳng định sự độc lập của Đại Việt với phong kiến phƣơng Bắc không chỉ trên phƣơng diện chủ quyền, cƣơng vực lãnh thổ mà còn độc lập trên phƣơng diện văn hóa và phong tục tập quán. Việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học cũng nằm trong quá
30
trình đó. Văn học viết bằng chữ Nôm, tức là sử dụng ngôn ngữ dân tộc, có lẽ ra đời sau văn học chữ Hán gần ba thế kỷ, có thể vào khoảng thế kỉ thứ XIII. Đến thế kỷ XIV, văn học chữ Nôm đã trở thành một thành phần đáng kể trong văn học trung đại Việt Nam. Cho đến thế kỷ XV, văn học chữ Nôm dần dần trở thành một thành phần quan trọng của văn học Việt Nam với những tên tuổi nhƣ Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập, Lê Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức với Hồng Đức quốc âm thi tập. Từ đó, hình thành một hiện tƣợng vừa thú vị nhƣng cũng là đặc trƣng của văn học Việt Nam thời trung đại – hiện tƣợng song ngữ, vừa sử dụng ngôn ngữ vay mƣợn là chữ Hán vừa sử dụng ngôn ngữ dân tộc là chữ Nôm vào sáng tác văn học.
Cùng với những điều kiện về lịch sử - xã hội thì tiền đề chính trị cũng ảnh hƣởng tới sự hình thành, vận động và phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Đặc biệt là các chính sách ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, trƣớc hết và chủ yếu là chính sách coi trọng địa vị chính thống của chữ Hán.
Trong giai đoạn độc lập tự chủ, chế độ phong kiến Việt Nam trải qua mƣời thế kỷ hình thành, phát triển và suy tàn nhƣng chúng ta vẫn giữ đƣợc độc lập dân tộc và bảo tồn đƣợc văn hóa trƣớc âm mƣu tiêu diệt văn hóa và đồng hóa văn hóa thâm độc của kẻ thù đến từ phƣơng Bắc. Thoát khỏi chính sách đồng hóa nhƣng tiếng Việt vẫn chƣa chiếm đƣợc địa vị chính thống của tiếng Hán, chữ Hán. Tiếng Hán, chữ Hán vẫn đƣợc dùng trong công việc giấy tờ hành chính, vẫn là ngôn ngữ trong giáo dục, thi cử và trong sáng tác văn học cũng nhƣ công trình học thuật. Những tác phẩm văn học có giá trị lúc bấy giờ nhƣ Quốc tộ (Vận nƣớc) của thiền sƣ Đỗ Pháp Thuận, bài thơ thần Nam quốc sơn hà (chƣa rõ tên tác giả), Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) của Lý Công Uẩn, Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Bài văn hịch dụ bảo các tỳ tƣớng, quen gọi ngắn gọn là Hịch tướng sĩ) của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi,… đều đƣợc viết bằng chữ Hán.
Chính sách duy trì địa vị chính thống của chữ Hán trải từ triều đại này sang triều đại khác ngoại trừ dƣới triều đại ngắn ngủi của Quang Trung Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn. Thái độ coi trọng chữ Hán đến mức tôn sùng trong nhà trƣờng phong kiến cũng đồng nghĩa với việc tiếng Việt, chữ Nôm bị coi nhẹ. Ở xã hội phong kiến, giai cấp phong kiến trong sử dụng ngôn ngữ vẫn muốn duy trì một sự cách biệt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp bình dân.
31
Do đó mới có những quan niệm dùng chữ Hán mới sang, mới thanh tao, mới là ngƣời biết chữ còn dùng chữ Nôm chẳng qua là lời nói của những ngƣời thấp hèn, dung tục, ―nôm na, mách qué‖ mà thôi.
Tuy nhiên, Chúa Trịnh và giai cấp phong kiến lúc bấy giờ không cấm chữ Nôm mà chỉ cấm một thể loại viết bằng chữ Nôm đó là truyện Nôm. Việc truyện Nôm bị giai cấp phong kiến cấm lƣu truyền có lẽ vì có những nội dung đi ngƣợc với lễ giáo phong kiến. Hầu hết các tác phẩm ở thể loại truyện Nôm đều viết về truyện tài tử, giai nhân; những truyện tình yêu trai gái, phong tình, nhục cảm nên có một thời gian truyện Nôm bị lên án gay gắt, những nhân vật trong truyện Nôm bị giai cấp phong kiến mạt sát. Ngay cả những nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng không phải là ngoại lệ.
Tuy nhiên, trong những giai đoạn lịch sử nhất định, bên cạnh việc duy trì địa vị chính thống của tiếng Hán, chữ Hán, một số triều đại phong kiến Việt Nam cũng có những biểu hiện khuyến khích sử dụng ngôn ngữ dân tộc nhƣ thời Trần Nhân Tông nhà Trần, thời Hồng Đức nhà Hậu Lê và thời Quang Trung nhà Tây Sơn.
Thời nhà Trần, mỗi khi nhà vua có việc bố cáo thiên hạ thì có thông lệ tuyên đọc chiếu chỉ viết bằng chữ Hán xong phải giảng giải lại bằng tiếng Việt, chữ Nôm để cho mọi thần dân có thể hiểu đƣợc.
Dƣới thời Hồng Đức nhà Hậu Lê, Lê Thánh Tông rất khuyến khích việc sáng tác văn học bằng chữ Nôm. Chính bản thân ông và các cận thần còn thành lập tổ chức văn học đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam – Hội Tao Đàn chủ yếu sáng tác bằng tiếng Việt, chữ Nôm với tập thơ tiêu biểu là Hồng Đức quốc âm thi tập – sáng tác của các văn nhân thời Hồng Đức, nhiều ngƣời là thành viên của Hội Tao Đàn.
Tiếng Việt chữ Nôm đƣợc coi trọng và đƣợc đƣa lên địa vị cao là dƣới thời vua Quang Trung. Quang Trung Nguyễn Huệ chủ trƣơng đƣa tiếng Việt, chữ Nôm vào trong công việc giấy tờ hành chính và trong sáng tác văn học. Ông còn cho thành lập viện Sùng Chính nhằm huy động lực lƣợng trí thức nƣớc nhà chuyển dịch tất cả kho thƣ tịch sang chữ Nôm để dùng trong giáo dục và thi cử. Nhƣng chí lớn chƣa thành, anh hùng bạc mệnh, Quang Trung đã ra đi vĩnh viễn trong sự dang dở của những ƣớc mơ, lí tƣởng của ngƣời anh hùng áo vải.
32
2.1.2. Tiền đề văn hóa tƣ tƣởng Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam hình thành
trong sự tồn tại đan xen của văn hoá dân tộc và văn hoá Nho giáo
Quan điểm ―văn dĩ tải đạo‖ (văn là để chở đạo), ―thi dĩ ngôn chí‖ (thơ là dùng để nói chí) vốn là những quan điểm về văn chƣơng của Nho giáo. Trong quá trình truyền bá và ảnh hƣởng vào đời sống chính trị xã hội nƣớc ta, Nho giáo đã đƣợc dân tộc hóa nhiều và những quan điểm về văn chƣơng của Nho giáo cũng vì thế mà bị khúc xạ, hấp thụ những nội dung dân tộc. Quan điểm văn là để chở đạo trong văn học trung đại Việt Nam không vì thế mà chỉ mang những tƣ tƣởng kinh điển của Khổng Mạnh nói chung nữa, thêm vào đó, ―đạo‖ còn là những vấn đề mang tính chất trọng đại của quốc gia, của dân tộc. Ngay từ khi mới ra đời, những tác phẩm đƣợc biết đến đầu tiên của văn học viết đã khẳng định quốc gia dân tộc. Văn học đã cổ vũ sự nghiệp chống ngoại xâm, xây dựng đất nƣớc Việt. Văn học cũng khẳng định và đề cao ý thức dân tộc. Những tác phẩm nhƣ Quốc tộ (Vận nƣớc) của Đỗ Pháp Thuận, Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) của Lý Công Uẩn, Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tƣớng sĩ) của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo và văn chƣơng từ lệnh của Nguyễn Trãi đã phản ánh ý thức về quốc gia, về dân tộc của nhân dân Việt, đạo lí của dân tộc Việt.
Tuy nhiên, quan điểm chính thống của nhà nƣớc phong kiến lại cho rằng ―đạo‖ là phải phù hợp với kinh điển của Nho gia. ―Văn là để chở đạo‖ cho nên những gì không chở đạo, tức không phù hợp với quan điểm văn chƣơng của Nho giáo và do đó không đƣợc coi là văn chƣơng đích thực. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống này chỉ coi những sáng tác văn chƣơng viết về những vấn đề lớn của quốc gia, thơ văn chở đạo, nói chí mới là những sáng tác văn chƣơng đích thực. Còn những áng thơ văn, tiểu thuyết viết về số phận những con ngƣời bình thƣờng, những chuyện đời thƣờng trong cuộc sống bị coi là ―phi kinh‖, ―dị đoan‖ không đƣợc coi là chở đạo và đƣơng nhiên không đƣợc coi là những sáng tác văn chƣơng đích thực.
Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ viết rằng: ―Có ngƣời đem truyện Nôm và những trò thanh sắc, cờ bạc, rủ rê chơi bời thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học liệp thiệp đƣợc ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không hiểu hết đƣợc, câu ca bản đàn thoảng qua ngoài tai rồi lại lờ mờ không hiểu gì cả‖ (dẫn theo Đinh Gia Khánh [85, tr. 27]). Phạm Đình Hổ coi thƣờng
33
truyện Nôm cũng nhƣ những thú rƣợu chè, cờ bạc. Quan điểm của Nho giáo chính thống đã ăn sâu, bén rễ trong tƣ tƣởng của Phạm Đình Hổ nói riêng và tầng lớp trí thức Nho giáo nói chung. Quan điểm ấy cũng vƣợt ra khỏi phạm vi của giới trí thức Nho giáo thâm nhập cả vào đời sống của tầng lớp bình dân. Vì thế mà, đƣơng thời, ngƣời ta truyền nhau câu ca dao: ―Làm trai chớ kể Phan Trần/ Làm gái chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều‖. Truyện Nôm khuyết danh bình dân Phan Trần và Truyện Kiều của Nguyễn Du là những truyện mà nội dung có khi đi ngƣợc lại với lễ giáo phong kiến. Nho giáo là hệ tƣ tƣởng chính thống ―phi kinh‖, ―dị đoan‖ là hai cái mũ đƣợc chụp xuống hai tác phẩm này hẳn cũng không có gì lấy làm lạ. Và nhƣ thế thì dù có là đỉnh cao của thể loại, dù có là ―tập đại thành của thi ca Việt Nam‖, là ―quốc hồn quốc túy‖ nhƣ các nhà nghiên cứu sau này nhận định đi chăng nữa thì lúc bấy giờ, Truyện Kiều cũng không đƣợc coi là một tác phẩm văn chƣơng đích thực. Ngƣời ta còn truyền nhau câu nói của vua Tự Đức lúc sinh thời là: ―Mê gì, mê đánh tổ tôm/Mê ngựa Hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều‖. Ngay cả với một thiên tài cỡ Nguyễn Du với đứa con tinh thần Truyện Kiều của mình, Đại thi hào dân tộc cũng chỉ dám nói ―Lời quê chắp nhặt dông dài/Mua vui cũng đủ một vài trống canh‖. Tự Đức và cả Nguyễn Du đều không coi Truyện Kiều là văn chƣơng đích thực vì văn chƣơng đích thực là phải chở đạo, chở những kinh điển cao quý của Nho gia. Mà theo quan điểm chính thống của Nho gia ―nôm na là cha mách qué‖ thì làm sao văn chƣơng viết bằng chữ Nôm có thể chở đạo đƣợc. Do đó, khi đề cập đến những vấn đề trang nghiêm, trọng đại tất phải dùng chữ Hán. Còn khi giải trí, mua vui thì sáng tác bằng chữ Nôm.
Từ những quan niệm, quan điểm ấy của văn hóa dân tộc và văn hóa Nho giáo ta thấy văn học trung đại Việt Nam tồn tại hai thành phần văn học song song với nhau. Thành phần văn học viết bằng chữ Hán thiên về những vấn đề trọng đại của quốc gia, dân tộc, những nội dung về chở đạo, nói chí. Cùng với đó là thành phần văn học viết bằng chữ Nôm sáng tác chủ yếu để mua vui, giải trí với những nội dung bình thƣờng, thông tục về con ngƣời, về cuộc sống hàng ngày.
Về quan điểm thẩm mĩ, ngƣời trung đại thƣờng quan niệm cái đẹp thiên về cái tao nhã, cao cả. Từ quan niệm không gian cao – thấp; xã hội đẳng cấp, có quý có tiện, có sang có hèn cho nên văn chƣơng cũng hƣớng tới cao cả, tao nhã. Quan niệm ―văn dĩ tải đạo‖, ―thi dĩ ngôn chí‖ thể hiện
34
rất rõ điều đó. Cùng với đó là quan niệm cái đẹp là của thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho cái đẹp. Bởi thế cho nên trong văn học trung đại luôn đầy ắp ―phong, hoa, tuyết, nguyệt‖, ―sơn thủy hữu tình‖.
Văn chƣơng trung đại rất chú ý đến sự hài hòa. Từ quan niệm cái riêng trong cái chung, không coi trọng cá tính, hƣớng tới sự hài hòa, ngƣời trung đại cũng hƣớng tới những đối xứng, song hành trong nghệ thuật để hƣớng tới cái đẹp. Nghệ thuật đối, sóng đôi, hay nghệ thuật tứ bình là tiêu biểu cho quan niệm đó.
Nhìn chung, những quan điểm, quan niệm thẩm mĩ thời trung đại ảnh hƣởng văn hóa Hán và có tác động nhiều đến thành phần văn chƣơng viết bằng chữ Hán hơn thành phần vặn học viết bằng tiếng Việt – chữ Nôm. Những giai đoạn cuối của văn học trung đại khi văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc chiếm ƣu thế, ngôn ngữ văn học tiến gần hơn với ngôn ngữ đời sống những quan niệm thẩm mĩ này không chi phối quá nhiều đến sáng tác văn học nhƣ trƣớc nữa.
Về quan niệm văn học, trong khi quan điểm chính thống cho rằng văn chƣơng viết về những vấn đề lớn lao, trang nghiêm, trọng đại và phải viết bằng chữ Hán mới là văn chƣơng đích thực, nhƣng thực tế văn học thì không chịu theo khuôn khổ quan niệm ấy. Văn học sáng tác bằng chữ Nôm của những tác giả lớn từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Đình Chiểu khi đề cập đến những vấn đề trọng đại liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc, đến đời sống nhân dân, đến đạo lí làm ngƣời nhiều khi đã vƣợt ra ngoài đạo lí của Nho giáo nhất là khi giai cấp phong kiến với hệ tƣ tƣởng chính thống của nó là Nho giáo suy tàn, đi ngƣợc lại với lợi ích của quốc gia, của dân tộc. Văn học sáng tác bằng chữ Nôm không chỉ là sản phẩm của trò tiêu khiển, đùa trăng cợt gió, đối chén họa vần nữa mà còn phản ánh cuộc sống để tham gia phấn đấu cho sự phát triển của các tầng lớp nhân dân, theo đạo lí dân tộc, nhƣ vậy thì văn học Nôm đã thực sự chở đạo.
Văn học chữ Nôm vì sử dụng ngôn ngữ dân tộc, cho nên có thể miêu tả một cách linh hoạt và cụ thể hơn văn học viết bằng chữ Hán khi thể hiện những nét phong phú, mĩ lệ của thiên nhiên nƣớc Việt. Văn học chữ Nôm có thể biểu lộ một cách sâu sắc và tế nhị hơn những khía cạnh độc đáo trong tâm hồn ngƣời Việt. Điều này làm cho văn học Nôm có tính dân tộc đậm đà hơn văn học viết bằng một ngôn ngữ vay mƣợn – chữ Hán. Tính dân tộc này lại càng sắc nét vì văn học Nôm không bị ràng buộc quá khắt khe với học thuật
35
điển phạm nhƣ là văn học chữ Hán. Càng ít bị ràng buộc với học thuật, thì văn học càng xa với giáo điều của Nho giáo. Cho nên nếu nhƣ văn học Nôm vẫn ―chở đạo‖ thì đạo ở đây có khi đã xa với giáo điều của Nho giáo hơn so với văn học viết bằng chữ Hán. Do đó nội dung (tức là đạo) trong văn học Nôm nói chung lại có điều kiện gắn bó hơn với thực tiễn đời sống của nhân dân, của dân tộc, của đất nƣớc. Đó là chỗ khác nhau giữa thơ và phú chữ Nôm với thơ và phú chữ Hán. Đó đặc biệt lại là chỗ khác nhau giữa thể tự sự trong văn học chữ Nôm và thể tự sự trong văn học chữ Hán. Thể tự sự trong văn học chữ Nôm tức là truyện thơ phát triển rất mạnh từ thế kỷ XVIII trở đi và tuy vẫn nói đến lễ giáo, trung hiếu, tiết nghĩa, cƣơng thƣờng nhƣng đồng thời lại đề cập đến những vấn đề thiết thực trong cuộc sống của dân tộc, của nhân dân và lí giải những vấn đề ấy gần với quan điểm của nhân dân.
Quan điểm thẩm mĩ, quan điểm văn học thời trung đại là một nhân tố quan trọng góp phần hình thành hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
2.1.3. Tiền đề văn học Tiền đề ngôn ngữ Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là sản phẩm của quá trình du nhập và sử dụng chữ Hán và quá trình hình thành và phát triển của chữ Nôm. Hai quá trình này không xuất hiện cùng nhau nhƣng đã gặp gỡ nhau từ thế kỷ XIII khi việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học đƣợc sử sách ghi nhận. Dƣới đây là khái lƣợc hai quá trình này.
Quá trình du nhập và sử dụng chữ Hán Quá trình này gắn với vai trò của Sĩ Nhiếp (làm Thái Thú Giao Chỉ vào khoảng 137–226) với tƣ cách là ngƣời đầu tiên tổ chức việc học ở Việt Nam. Tổ Sĩ Nhiếp là ngƣời gốc Hoa nhƣng tị nạn sang Giao Châu, đến ông là 6 đời, có thể xem Sĩ Nhiếp đã ―Nam hóa‖. Thời ông làm Thái thú có nhiều trí thức, nho sĩ Trung Hoa sang lánh nạn, đƣợc ông dung nạp. Ông cùng họ mở trƣờng dạy Thi, Thƣ, Lễ, Nhạc, tiến cử, sử dụng ngƣời hiền tài.
Theo sử sách, vào thời kỳ Bắc thuộc, đã có một ít ngƣời Việt ta giỏi chữ Hán nhƣ Trƣơng Trọng, Lí Cầm, Lí Tiến, Khƣơng Công Phụ. Trong đó, Khƣơng Công Phụ còn có tài văn hay, bài Bạch Vân Chiếu xuân hải phú (Phú mây trắng chiếu bể xuân) đƣợc ngƣời đời Đƣờng tôn làm kiệt tác. Cho đến trƣớc thế kỉ XI, những ngƣời tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam vẫn là các nhà sƣ.
36
Từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại năm 938 của Ngô Quyền, Việt Nam chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc hàng ngàn năm, bƣớc vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự chủ. Nhà nƣớc đã lấy chữ Hán văn ngôn làm ngôn ngữ chính thức trong giao tiếp hành chính, giáo dục, thi cử và đặc biệt là trong sáng tác văn chƣơng. Di sản văn chƣơng trƣớc thời Lí - Trần còn lại đến ngày nay rất ít ỏi. Nên có thể nói văn học trung đại Việt Nam bắt đầu thừ thời Lí – Trần. Văn chƣơng viết bằng chữ Hán thời Lí – Trần chủ yếu là sáng tác của các nhà sƣ, vua, quan, tầng lớp quý tộc và các nhà nho.
Từ thế kỷ XV trở về sau, xã hội phong kiến Vệt Nam tôn sùng Nho giáo. Tuy nhiên, cả ba học thuyết tƣ tƣởng – tôn giáo là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo vẫn luôn ảnh hƣởng tới đời sống tƣ tƣởng, đời sống văn hóa nhất là trong văn chƣơng. Văn học viết bằng chữ Hán không chỉ sử dụng ngôn ngữ, văn tự mà còn chịu ảnh hƣởng sâu sắc của triết học – tôn giáo, văn hóa, thẩm mĩ, thi pháp và thi liệu văn học Trung Quốc.
Quá trình hình thành, phát triển của chữ Nôm và sự xuất hiện của
văn học viết bằng chữ Nôm
Trong bài viết ―Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào?‖ đăng trên Nam Phong tạp chí, Phạm Huy Hổ cho rằng chữ Nôm có từ đời các vua Hùng. Văn Đa cƣ sĩ Nguyễn Văn San lại cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỷ thứ 2. Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ ―bố cái‖ trong danh xƣng ―Bố Cái đại vƣơng‖ do nhân dân Việt Nam suy tôn Phùng Hƣng mà cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hƣng thế kỷ thứ VIII. Ý kiến khác lại dựa vào chữ ―cồ‖ trong quốc hiệu ―Đại Cồ Việt‖ để cho rằng chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng. (Dẫn theo Nguyễn Tài Cẩn [19, tr.19-20]).
Văn học viết Việt Nam ra đời trong thời kỳ phong kiến tự chủ. Những tác phẩm đƣợc biết đến đầu tiên của văn học viết lại viết bằng ngôn ngữ vay mƣợn nƣớc ngoài (tiếng Hán và chữ Hán). Mặc dù có những giả thuyết khác nhau nhƣng các học giả nghiên cứu về vấn đề này đều có chung một nhận định là nƣớc Việt bƣớc vào kỉ nguyên mới mà chƣa có chữ viết để ghi âm tiếng Việt.
Đến thời nhà Trần thì chữ Nôm đƣợc sử dụng để sáng tác văn học. Việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học có ý nghĩa rất lớn, nó không chỉ thể hiện ý thức và niềm tự hào của dân tộc lên cao mà còn khẳng định sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc trong việc thể hiện các
37
giá trị tinh thần của ngƣời Việt trong đó có văn học viết bằng chữ Nôm. Đây cũng là điều kiện cần thiết để hình thành hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Do đó, nghiên cứu sự hình thành, vận động biến đổi và phát triển của hiện tƣợng song ngữ không thể không nghiên cứu quá trình hình thành, vận động biến đổi và phát triển của chữ Nôm trong lịch sử tiếng Việt.
Những điểm tương đồng giữa chữ Hán và chữ Nôm có ảnh hưởng tới
hiện tượng song ngữ
Theo Lã Nhâm Thìn, ―tiếng Việt và tiếng Hán có sự gần gũi tƣơng đồng ở ba phƣơng diện cơ bản nhất: không biến hình, đơn âm và tuyến tính. Thêm vào đó là sự gần gũi về thanh điệu‖ [142, tr.22]. Nhƣ vậy, có thể thấy, ngôn ngữ cũng nhƣ văn tự của ngƣời Hán và ngƣời Việt có sự giao thoa với nhau ở bốn đặc điểm cơ bản. Đây đều là loại hình ngôn ngữ đơn lập không biến hình, đơn âm, có tính tuyến tính và có sự tƣơng đồng nhất định về thanh điệu. Lã Nhâm Thìn cho rằng bốn yếu tố này là điều kiện cơ bản tạo nên hiện tƣợng thơ Nôm Đƣờng luật. Ở mức độ khái quát cao hơn, chúng tôi cho rằng những sự tƣơng đồng đó của ngôn ngữ/văn tự Hán – Việt góp phần tạo nên hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
Đặc điểm tiên quyết của tiếng Hán và tiếng Việt tác động đến hiện tƣợng song ngữ chính là đặc điểm không biết hình của hai loại ngôn ngữ/văn tự này. Trong công trình nghiên cứu Một số vấn đề về chữ Nôm, Nguyễn Tài Cẩn cho rằng: ―Tiếng Triều Tiên, Nhật Bản là những ngôn ngữ có cơ cấu khác xa tiếng Hán. Đây là những ngôn ngữ chắp dính, từ có hình thái, trong từ có sự đối lập giữa căn tố, phụ tố rất rõ. Đây chính là tình hình khách quan đã bắt buộc chữ Triều Tiên và Nhật Bản phải sớm tạo ra một lối ghi chuẩn thống nhất theo hƣớng ngữ âm học cho các yếu tố làm công cụ ngữ pháp trong câu‖ [20, tr.16].
Những sự tƣơng đồng giữa tiếng Việt và tiếng Hán về tiếng đơn âm, tính tuyến tính và thanh điệu cũng nhƣ cách đọc Hán Việt trong tiếng Việt là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ dƣới góc độ ngôn ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Điều này cũng góp phần lí giải vì sao văn học viết bằng chữ Hán lại trội hơn ở các thể loại văn học chức năng và văn xuôi tự sự trữ tình. Trong khi đó, văn học viết bằng chữ Nôm phát triển mạnh ở các thể loại văn học nội sinh. Các thể loại thơ Đƣờng luật và phú phát triển mạnh cả về chữ Hán và chữ Nôm là các thể loại văn học đƣợc dân tộc hóa từ thể loại tiếp thu từ Trung Quốc.
38
Tiền đề thể loại Việc lựa chọn chữ Hán văn ngôn làm ngôn ngữ chính thức trong giao tiếp hành chính, giáo dục, thi cử và sáng tác nghệ thuật dẫn đến việc chúng ta tiếp thu các thể loại văn học của ngƣời Trung Hoa. Trong các thể loại tiếp thu đó có các thể loại văn sử dụng trong giao tiếp hành chính nhƣ hịch, cáo, chiếu, biểu, sử kí, sớ, tấu,…; các thể loại văn chƣơng nghệ thuật nhƣ thơ, phú, từ, truyện,…
Những thể loại văn học đã có sẵn từ Trung Quốc đƣợc ông cha ta tiếp thu một cách xuất sắc với nhiều tác phẩm viết bằng chữ Hán có giá trị ở hầu hết các thể loại. Bên cạnh đó, với sự phát triển ngày càng cao của ý thức dân tộc, nhiều thể loại văn học tiếp thu từ nƣớc ngoài có những tác phẩm viết bằng tiếng Việt/chữ Nôm. Điều đó cho thấy, thể loại cũng là một tiền đề quan trọng góp phần tạo nên hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
2.2. ĐẶC ĐIỂM HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
2.2.1. Tính chất đa thành phần của hiện tƣợng song ngữ Thành phần văn học chữ Hán Sáng tạo ra chữ viết là một trong những sáng tạo vĩ đại nhất của loài ngƣời. Chữ Hán đƣợc ra đời từ một trong những cái nôi văn minh nhân loại, là một trong ba loại chữ viết độc lập, không liên quan đến một truyền thống văn tự nào khác, bên cạnh văn tự cổ Ai Cập ở lƣu vực sông Nin và văn tự Mai-a ở vùng Trung Mĩ. Các loại chữ sau này đều đƣợc sáng tạo dựa trên sự vay mƣợn, mô phỏng ba loại chữ đó. Chữ Hán là thành tựu của chế độ phong kiến Trung Quốc của dân tộc Trung Hoa, đƣợc du nhập vào Việt Nam theo con đƣờng xâm lƣợc. Ngƣời Việt học tiếng Hán từ thời Bắc thuộc, và đến thời độc lập thì đã nắm vững và sử dụng trong nhiều lĩnh vực xã hội.
Các triều đại phong kiến Việt Nam đã lựa chọn chữ Hán là chữ viết chính thức của quốc gia. Nhƣng chữ Hán mà ông cha ta đã lựa chọn là chữ Hán văn ngôn chứ không phải chữ Hán bạch thoại. Chữ Hán văn ngôn đƣợc sử dụng trƣớc thời tự chủ và là tử ngữ còn chữ Hán bạch thoại là sinh ngữ. Đây là một sự lựa chọn khôn ngoan của dân tộc ta, giúp chúng ta miễn nhiễm với quá trình vận động, biến đổi của chữ Hán bạch thoại. Do sử dụng chữ Hán văn ngôn, khi nƣớc nhà độc lập tự chủ, ngƣời Việt vẫn bảo lƣu cách đọc và viết chữ Hán có từ thời Đƣờng, ―vô can‖ với mọi diễn biến của chữ Hán bạch
39
thoại trên đất nƣớc Trung Quốc. Đây là một lợi thế của ngƣời Việt khi sử dụng chữ Hán để sáng tác văn học.
Chữ Hán đƣợc dùng trong thi cử, lựa chọn ngƣời tài giúp nƣớc. Nội dung thi cử lại là sách vở kinh điển Nho giáo nên tầng lớp trí thức phong kiến đã chịu ảnh hƣởng lớn quan niệm về tƣ tƣởng, chính trị, đạo đức, thẩm mĩ và cả thi pháp văn học Trung Hoa. Văn học chữ Hán nói chung có đặc điểm: Một hệ thống thể loại rộng và phong phú bao gồm cả các thể loại văn học chức năng và văn học nghệ thuật nếu xét trên phƣơng diện quy phạm chức năng thể loại; văn học tiếp thu nƣớc ngoài, văn học dân tộc hóa và văn học nội sinh nếu xét trên phƣơng diện nguồn gốc thể loại và cuối cùng, nếu xét về quy phạm lời văn thì bao gồm: biền văn (văn biền ngẫu), vận văn (văn vần) và tản văn (văn xuôi).
Có hai lí do dẫn đến điều này. Thứ nhất, chữ Hán là chữ viết chính thức của triều đình phong kiến, đƣợc sử dụng trong mọi lĩnh vực, từ ghi chép, soạn thảo giấy tờ, thƣ tịch đến sáng tác văn học. Thứ hai, do quan niệm văn, sử, triết bất phân thời trung đại mà tất cả các văn bản chức năng hành chính nhƣ chiếu, biếu, hịch, cáo, tấu,..., chức năng lễ nghi, tôn giáo hay sử kí, triết học, địa lí đều thuộc văn học.
Với lịch sử phát triển hàng mƣời thế kỷ, thành phần văn học chữ Hán có thành tựu rất lớn cả về số lƣợng và chất lƣợng. Nhiều tác phẩm thực sự có giá trị và trƣờng tồn với thời gian nhƣ Nam quốc sơn hà (chƣa rõ tác giả); Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn); Bạch Đằng giang phú (Trƣơng Hán Siêu); Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi); Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ),…
Thành phần văn học chữ Nôm Theo Dƣơng Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu, ―Nhiều ngƣời thấy sử chép: Hàn Thuyên là ngƣời bắt đầu biết làm thơ phú bằng quốc âm, vội cho rằng chữ Nôm cũng đặt ra tự đời ông, nghĩa là vào cuối thế kỷ thứ XIII về đời nhà Trần‖ [58, tr. 100]. Ông cho rằng: ―Đó là một sự sai lầm, vì sử chỉ ghi việc ông làm thơ phú bằng tiếng Nôm, chứ không hề nói ông đã đặt ra chữ Nôm, hoặc chữ Nôm đã đặt ra về đời ông‖ [58, tr. 100]. Sau đó Dƣơng Quảng Hàm giải thích: ―Đành rằng muốn viết văn Nôm tất phải dùng đến chữ Nôm; nhƣng biết đâu chữ ấy lại chả có tự trƣớc đời Hàn Thuyên rồi ƣ? Ta chỉ có thể vin vào việc ấy mà nói rằng chữ Nôm đến cuối thế kỷ XIII đã dùng để viết văn rồi‖ [58, tr. 100].
Nhƣ vậy, từ lúc xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII về đời nhà Trần, văn
40
học viết bằng chữ Nôm đã có một sức lan tỏa lớn, thu hút đƣợc đông đảo đội ngũ sáng tác. Sách sử từng ghi nhận, sau Hàn Thuyên dƣới đời Trần còn có Nguyễn Sĩ Cố, Nguyễn Biểu, Hồ Quý Ly,… có làm thơ quốc âm, đáng tiếc những sáng tác của họ đều không còn nữa.
Sự ra đời của Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đã đánh dấu sự trƣởng thành của văn học Nôm, kể từ đây văn học nƣớc nhà tồn tại song song hai thành phần văn học: văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Sau Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, văn học Nôm xuất hiện nhiều tác giả với nhiều tác phẩm có giá trị lần lƣợt xuất hiện: đầu tiên là Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và các văn nhân thời Hồng Đức; Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm; thơ Nôm của Bà huyện Thanh Quan và Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng; sự xuất hiện của một loạt truyện thơ Nôm; bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm khúc; tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều; hát nói của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát; truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu, cuối cùng là thơ Nôm của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xƣơng đã khép lại lịch sử sáu thế kỷ phát triển của văn học Nôm thời trung đại.
Mối quan hệ giữa văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm Hai thành phần của dòng văn học viết tuy có sự khác nhau về một số phƣơng diện đối tƣợng phản ánh hay phƣơng thức nghệ thuật nhƣng không nên coi trọng thành phần này mà xem nhẹ thành phần kia bởi chúng có mối quan hệ tƣơng hỗ làm nên diện mạo đa dạng mà thống nhất của một thời kì văn học kéo dài cả chục thế kỉ. Sự phát triển song hành của hai thành phần văn học vừa cho thấy gƣơng mặt chung khi tiếp nhận văn hóa ngoại lai vừa làm nên bản sắc riêng của văn học Việt Nam. Đó cũng là quy luật kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại nhƣng không làm tiêu biến những giá trị riêng của dân tộc là hòa nhập nhƣng không hòa tan.
Nếu văn học chữ Hán nhiều hơn văn học chữ Nôm về số lƣợng thì văn học chữ Nôm lại đóng góp nhiều tác phẩm xuất sắc, thậm chí đƣợc đánh giá là kiệt tác của mọi thời đại. Thành phần nào cũng đạt đƣợc những thành tựu có giá trị riêng nhƣng nhìn chung đều nằm trong mạch nguồn là phản ánh truyền thống yêu nƣớc của dân tộc. Tinh thần yêu nƣớc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học, từ những truyền thuyết, những khan - sử thi đƣợc kể truyền miệng cho đến những trƣờng ca của thời hiện đại. Yêu nƣớc không chỉ đƣợc bộc lộ trực tiếp khi có ngoại xâm (thể hiện rõ hơn ở văn học chữ Hán) mà còn
41
thể hiện ở sự trân trọng bản sắc riêng của dân tộc, gìn giữ tiếng nói, và cả những suy nghĩ, tâm lí của con ngƣời thời quá khứ (thể hiện ở văn học chữ Nôm). Đọc ca dao, tục ngữ, ta thêm yêu tiếng Việt, yêu sự mộc mạc chân thành của ngƣời Việt Nam, đó chẳng phải là tình yêu nƣớc xuất phát từ tình yêu với những điều bình dị, thân thuộc hay sao?
Mặt khác, cùng phát sinh, phát triển trong xã hội phong kiến nên hai thành phần văn học dù ít dù nhiều cũng đều chịu ảnh hƣởng từ ý thức hệ của chế độ đó. Hệ quả là ―giữa hai thành phần của dòng văn học viết đã có sự thống nhất trên những yếu tố căn bản về thế giới quan, về quan niệm thẩm mĩ, quan niệm về phƣơng pháp sáng tác, cấu trúc thi pháp... và cả thể loại văn học‖ [57, tr.15]. Đối với các tác giả sáng tác song ngữ nói riêng, hai thành phần văn học cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện đầy đủ, hoàn chỉnh tƣ tƣởng thẩm mĩ của tác giả.
Văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm có sự gắn bó mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Văn học chữ Hán có sự ảnh hƣởng và chi phối văn học chữ Nôm ở nhiều phƣơng diện nhƣng văn học chữ Nôm cũng có sự tác động trở lại, cho dù không thực sự mạnh mẽ. Chúng có quan hệ tƣơng hỗ không thể tách rời. Nếu coi văn học trung đại là một cây đại thụ thì hai thành phần là hai cành đâm về hai hƣớng, tỏa ra nhiều nhánh nhỏ nhƣng cuối cùng đều tụ lại để làm nên hoa thơm trái ngọt của một thời kì văn học viết.
2.2.2. Tính chất bất bình đẳng của hiện tƣợng song ngữ Tính chất bất bình đẳng của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam thể hiện trong quan niệm của Nho giáo chính thống và giai cấp phong kiến. Quan niệm văn chƣơng cao cả với sáng tác chữ Hán và văn chƣơng đời thƣờng, thông tục với sáng tác chữ Nôm.
Văn học chữ Hán chủ yếu thiên về những cái cao cả nhƣ vận mệnh của quốc gia, của dân tộc, đạo lí thánh hiền. Chủ nghĩa yêu nƣớc là nội dung có giá trị hơn cả trong văn học viết bằng chữ Hán.
Trong khi đó, thành phần văn học viết bằng chữ Nôm thƣờng bị giai cấp thống trị coi nhẹ. Ngay cả trong thời kỳ mà văn học Nôm đƣợc triều đình khuyến khích thì văn học chữ Nôm cũng không đƣợc đặt ngang hàng với văn học chữ Hán. Văn học chữ Nôm thiên về những đề tài thông tục, đời thƣờng và chủ nghĩa nhân đạo là giá trị hơn cả.
Tính bất bình đẳng thể hiện ở quan niệm văn học, văn học chữ Hán
42
đƣợc đề cao, đƣợc coi là văn chƣơng chính thống, nội dung và nghệ thuật hƣớng về cái cao cả, bác học, ngƣợc lại, văn học chữ Nôm ở địa vị thấp kém, bị coi là ―nôm na mách qué‖, có tính đời thƣờng, dân dã. Quan niệm này nhƣ một thành trì kiên cố và vững chắc. Nguyễn Du, mặc dù viết nên kiệt tác bất hủ Truyện Kiều bằng chữ Nôm nhƣng vẫn phải giãi bày đó chỉ là việc ―Mua vui cũng đƣợc một vài trống canh‖. Một phần là vì Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm nhƣng phần quan trọng hơn có lẽ là Nguyễn Du muốn tránh đi cái họa bút mực bởi Đoạn trường tân thanh có những nội dung không dễ chấp nhận đối với lễ giáo phong kiến. Vua Quang Trung là ngƣời có ý thức cƣờng dân tộc rất cao, coi trọng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Ông từng đề ra việc thi cử bằng chữ Nôm, lập cả Viện Sùng chính để dịch sách tiếng Hán sang tiếng Nôm, dùng làm tài liệu học tập cho trí thức nhƣng khi viết Cầu hiền chiếu vẫn sử dụng chữ Hán bởi đó là một việc có tính chất trọng đại.
2.3. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA HIỆN TƢỢNG SONG
NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
2.3.1. Giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV Nhờ dùng Hán văn ngôn, ngay từ khi mới hình thành nền văn học viết, chúng ta đã có những tác phẩm có giá trị vƣợt thời gian còn mãi với ngƣời đọc nhƣ Quốc tộ (Vận nƣớc) của Đỗ Pháp Thuận, Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) của Lý Thái Tổ, Bài thơ thần Nam quốc sơn hà (chƣa rõ tên tác giả), Dụ chư tì tướng hịch văn (Hịch tƣớng sĩ) của Trần Quốc Tuấn,…; những bài từ, thơ, phú đƣợc gọi là ―lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu‖ nhƣ Vương Lang quy từ (Bài từ chàng Vƣơng trở về) của Ngô Chân Lƣu, Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều ngắm cảnh Thiên Trƣờng) của Trần Nhân Tông, Ngọc tỉnh liên phú (Phú hoa sen trong giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi, Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) của Trƣơng Hán Siêu,…
Đất nƣớc càng phát triển, ý thức dân tộc càng mạnh, nhu cầu thƣởng thức văn học càng cao. Chữ Hán lúc này không đáp ứng đƣợc tất cả nhu cầu công việc quốc gia và nhất là sáng tác văn học. Hơn nữa, một quốc gia độc lập nhất thiết phải có chữ viết riêng. Nhu cầu bức thiết ấy đã thúc đẩy sự ra đời của chữ quốc ngữ (cũng còn gọi là quốc âm) ở thời trung đại là chữ Nôm, thứ chữ chủ yếu ghi âm tiếng Việt bằng các yếu tố chữ Hán văn ngôn kết hợp với phƣơng thức biểu ý.
43
Đại Việt sử ký toàn thư chép: ―Mùa thu năm Nhâm Ngọ 1282, khi quân Nguyên đang ráo riết chuẩn bị xâm lƣợc nƣớc ta lần thứ 2; bấy giờ có cá sấu đến sông Hồng. Vua sai Thuyên làm văn ném xuống sông, con cá sấu tự nhiên đi mất. Vua xem việc này giống nhƣ việc Hàn Dũ (đời nhà Đƣờng - Trung Quốc), cho đổi họ là Hàn Thuyên‖ [92, tr.48]. Sử sách cũng ghi nhận việc nhiều ngƣời đời Trần bắt chƣớc Hàn Thuyên làm thơ phú quốc âm, gây thành phong trào làm thơ phú và viết văn bằng chữ Nôm. Từ đây, bên cạnh dòng văn học chữ Hán đã có từ thế kỷ X, văn học Việt Nam còn có dòng văn học đƣợc viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Đó là văn học chữ Nôm. Hai dòng văn học chữ Hán và chữ Nôm song song tồn tại tạo nên một hiện tƣợng độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam – hiện tƣợng song ngữ.
Thế kỉ X – XIV là giai đoạn mở đầu của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Ở phạm vi cả nền văn học là sự xuất hiện văn học chữ Nôm bên cạnh văn học chữ Hán. Ở phạm vi cá nhân tác giả là sáng tác của Phật hoàng Trần Nhân Tông, Lí Đạo Tái (Huyền Quang), Mạc Đĩnh Chi. Các tác giả này, bên cạnh sáng tác bằng chữ Hán còn có sáng tác chữ Nôm, nhƣ Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Lí Đạo Tái với Hoa Yên tự phú. Nếu không kể bài thơ Nôm tƣơng truyền gắn với giai thoại Huyền Quang - Điểm Bích thì hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam khởi đầu với thể phú - thể loại tiếp thu từ văn học Trung Quốc và thuộc thể loại văn học nghệ thuật. Đây cũng là thể loại mà ông cha ta đã có những cố gắng trong việc Việt hóa mà Cư trần lạc đạo phú là một trƣờng hợp tiêu biểu.
2.3.2. Giai đoạn văn học từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII Thế kỉ XV – XVII là giai đoạn phát triển nở rộ của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Ở phạm vi cả nền văn học là sự xuất hiện văn học chữ Nôm bên cạnh văn học chữ Hán. Ở phạm vi cá nhân tác giả, tiêu biểu nhất phải nhắc đến Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Các sáng tác chữ Hán của Nguyễn Trãi ở những thể loại văn học chức năng là Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập,…; hay văn học nghệ thuật nhƣ Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục. Trong khi đó, Quốc âm thi tập là sáng tác chữ Nôm nổi tiếng của ông.
Sáng tác chữ Hán của Lê Thánh Tông có nhiều tác phẩm có giá trị cả
44
thơ, phú và văn xuôi. Về thơ, các tập thơ tiêu biểu của Lê Thánh Tông nhƣ: Quỳnh uyển cửu ca, Châu cơ thắng thưởng, Chinh tây kỉ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ súy, Cổ tâm bách vịnh... tất cả khoảng trên 300 bài. Lê Thánh Tông có Lam Sơn Lương Thủy phú, ca tụng ngọn núi và dòng sông ở nơi phát tích của nhà Lê.
Về văn xuôi, Thánh Tông di thảo là một tập truyện kí gồm 19 truyện tƣơng truyền là của vua Lê Thánh Tông? Ngoài những sáng tác bằng chữ Hán, Lê Thánh Tông còn có tập thơ Nôm Hồng Đức quốc âm thi tập và Thập giới cô hồn quốc ngữ văn.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập) bằng chữ Nôm với khoảng 180 bài. Thơ chữ Hán ông còn khoảng 600 bài thơ? Bên cạnh đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia (bi ký) nổi tiếng nhƣ Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh...
Ở phƣơng diện thể loại, giai đoạn này chúng ta đã Việt hóa thành công thể thơ Đƣờng luật. Thế kỷ XV có thể gọi là thế kỷ của Thơ Nôm Đƣờng luật với hai thi tập lớn: Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ở nửa đầu thế kỷ và Hồng Đức quốc âm thi tập của các tác giả thời Hồng Đức ở nửa cuối thế kỷ. Đây là một bƣớc ngoặt lớn trong lịch sử thể loại văn học trung đại Việt Nam. Từ Nguyễn Trãi, thơ Nôm Đƣờng luật đã trở thành một thể loại văn học phát triển mạnh mẽ nhất. Đây cũng là thể loại làm nên danh tiếng ―thi quốc‖ của nƣớc ta. Bởi lẽ, thể loại này tiếp tục phát triển rực rỡ với Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ thế kỷ XVI – thế kỷ XVII, văn học trung đại Việt Nam đã xuất hiện những thể loại văn học nội sinh viết bằng chữ Nôm nhƣ hát nói (hát ca trù, hát ả đào), lời thơ tƣơng đối tự do kết hợp với âm nhạc (Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức Mao), ngâm khúc – gồm khúc vãn, khúc ngâm, viết theo thể song thất lục bát, đôi khi viết theo thể lục bát (Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn của Đào Duy Từ). Đặc biệt đáng chú ý ở giai đoạn này phải kể đến hai tác phẩm diễn ca lịch sử đƣợc viết bằng chữ Nôm có dung lƣợng lớn là Thiên Nam minh giám (936 câu thơ) và Thiên Nam ngữ lục (8.136 câu thơ). 2.3.3. Giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX Thế kỉ XVIII – XIX là giai đoạn phát triển đỉnh cao của hiện tƣợng song ngữ. Ở phạm vi cả nền văn học là văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm đều có những thành tựu lớn, kết tinh văn học đời trƣớc, mẫu mực cho văn học
45
đời sau. Văn học viết bằng chữ Hán với sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học nhƣ tùy bút (Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ), tiểu thuyết chƣơng hồi (Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái), kí (Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác). Thời kì này có sự phát triển mạnh mẽ của những sáng tác văn học viết bằng chữ Nôm với các tác phẩm tiêu biểu nhƣ: Truyện Song Tinh (Nguyễn Hữu Hào), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn; Phan Huy Ích diễn Nôm (?)), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng, Bà Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều (Nguyễn Du).
Ở phạm vi cá nhân tác giả là sáng tác của những tài năng lớn nhƣ Hồ Xuân Hƣơng, Bà Huyện Thanh Quan, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ…, đặc biệt là sáng tác của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Rất đáng lƣu ý ở chặng cuối cùng của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là tác giả Nguyễn Khuyến. Có thể nói, Tam Nguyên Yên Đổ đã khép lại hiện tƣợng song ngữ một cách hết sức độc đáo với nhiều thi phẩm do chính tác giả chuyển dịch từ chữ Hán sang chữ Nôm hoặc ngƣợc lại từ Nôm sang Hán một cách thuần thục và khó phân biệt.
Ở bƣớc nở rộ, ở giai đoạn đỉnh cao, hiện tƣợng song ngữ ghi dấu mốc rực rỡ ở thể loại văn học dân tộc nội sinh là ngâm khúc, truyện thơ, hát nói. Về ngâm khúc phải kể đến những tuyệt tác nhƣ Chinh phụ ngâm khúc - nguyên văn chữ Hán của Đặng Trần Côn, diễn Nôm của Phan Huy Ích (?), Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều… Về truyện thơ, bên cạnh kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du là các tác phẩm Truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu… Về hát nói, phải kể đến những giai tác của Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến…
Đứng về phƣơng diện thể loại văn học của hiện tƣợng song ngữ, ―đến cuối thời kì văn học trung đại Việt Nam, hệ thống thể loại văn học nhƣ cỗ xe tam mã với sự đồng hành của cả thể loại văn học tiếp thu từ nƣớc ngoài, thể loại văn học dân tộc hóa và thể loại văn học nội sinh‖ ([145, tr. 7]). Tuy nhiên, dƣờng nhƣ giữ vị trí ƣu thắng ở giai đoạn này lại là sáng tác văn học chữ Nôm với các thể loại văn học dân tộc hóa và thể loại văn học dân tộc nội sinh.
Điều rất đáng lƣu ý của hiện tƣợng song ngữ ở giai đoạn thế kỉ XVIII - XIX là trong tính chất bất bình đẳng của hiện tƣợng song ngữ, văn học Nôm đã bƣớc vào địa hạt của cái cao cả, lớn lao. Đó là việc Nguyễn Huệ sai ngƣời
46
viết Xuất sư hịch (Hịch xuất quân đánh nhà Trịnh) bằng chữ Nôm. Nhờ ý thức đề cao chữ Nôm với niềm tự hào dân tộc to lớn mà hoàng đế Quang Trung đã đƣa sáng tác chữ Nôm lên một vị trí hết sức trang trọng.
Cuối thế kỉ XIX, giai đoạn cuối cùng của văn học Việt Nam, song văn học còn đƣợc sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm trong sự chi phối của hệ tƣ tƣởng phong kiến và thi pháp văn học trung đại. Kế thừa truyền thống các giai đoạn trƣớc, văn học cuối thế kỷ XIX vẫn bao gồm hai thành phần là thành phần văn học viết bằng chữ Hán và thành phần văn học viết bằng chữ Nôm. Vẫn còn nhiều tác gia chủ yếu sáng tác bằng chữ Hán nhƣ Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn, Miên Thẩm,… Vừa làm thơ chữ Hán lại vừa làm thơ chữ Nôm, cả hai phƣơng diện đều đạt những thành công lớn nhƣ Nguyễn Khuyến. Nguyễn Đình Chiểu, Trần Tế Xƣơng chủ yếu sáng tác bằng chữ Nôm.
Thành tựu văn học chữ Hán trƣớc hết là thơ với Ngư Phong thi tập của Nguyễn Quang Bích, Ngọc Đường thi tập của Nguyễn Xuân Ôn, Quế Sơn thi tập của Nguyễn Khuyến. Ngoài xu hƣớng đạo lý, thơ chữ Hán của các tác giả trên còn chất chứa suy nghĩ trƣớc những biến cải, thăng trầm của thời đại, cảm thán trƣớc thời thế của Nguyễn Thông với Ngọa Du Sào thi tập, Ngọa Du Sào văn tập, Kỳ Xuyên văn sao, Độn Am văn tập, Kỳ Xuyên công độc. Ông là cây bút về thể loại truyện ký lịch sử vừa là một cây bút chính luận sắc sảo, ngụ ngôn thâm thúy. Sau một quá trình lịch sử dài đƣợc mài giũa, ngôn ngữ thơ văn chữ Hán giai đoạn này đã đạt đến trình độ thuần thục. Các bản điều trần của Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Xuân Ôn,… đều có lập luận chặt chẽ, giọng văn hùng hồn. Thơ chữ Hán của Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Khuyến đều rất mẫu mực.
Thành phần văn học chữ Nôm vẫn tiếp tục đƣợc duy trì, phát triển với những tác gia nhƣ Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xƣơng, Chu Mạnh Trinh, Dƣơng Khuê,… Các truyện thơ Nôm lục bát nhƣ Truyện Lục Vân Tiên, Truyện Dương Từ - Hà Mậu và Truyện Ngư – Tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu đều bám sát những vấn đề về chính trị, xã hội, đạo đức của thời đại. Những tác phẩm diễn ca lịch sử (khuyết danh) theo thể lục bát và song thất lục bát nhƣ Hà thành chính khí ca, Hà thành thất thủ ca, Vè thất thủ kinh đô dài hàng trăm câu đã tập trung phản ánh những biến cố lịch sử lớn đƣơng thời. Ngoài các thể loại
47
dài hơi, bề thế, bản sắc văn học Nôm giai đoạn này thực sự đƣợc khẳng định bởi hàng trăm bài thơ Nôm Đƣờng luật của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xƣơng, Chu Mạnh Trinh,… Đây là giai đoạn thể hiện rõ nét sự vận động, phát triển theo chiều hƣớng dân tộc hóa, đa dạng hóa của ngôn ngữ văn học. Vận dụng, chắt lọc và nâng cao ngôn ngữ thông dụng của lời ăn tiếng nói hàng ngày, đó là nguồn cội thành công về phƣơng diện ngôn ngữ của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xƣơng, Dƣơng Lâm, Dƣơng Khuê, Chu Mạnh Trinh…
Đáng chú ý, nửa cuối thế kỷ XIX còn có một thành phần văn học viết bằng tiếng Pháp. Tuy nhiên, thành phần văn học này không có vị trí, thành tựu đáng kể, không ảnh hƣởng tới diện mạo, đặc điểm của văn học trung đại Việt Nam nên luận án không khảo sát.
2.4. HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VĂN HỌC KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ
Nhƣ đã nói ở trên, hiện tƣợng song ngữ là hiện tƣợng khá phổ biến trong văn học trung đại của nhiều nƣớc trên thế giới. Ở các nƣớc phƣơng Tây nhƣ Anh, Pháp, Ý, Đức trong văn học trung đại có hiện tƣợng sử dụng tiếng Latinh song hành với ngôn ngữ bản địa. Ở phƣơng Đông, các nƣớc nhƣ Triều Tiên/ Hàn Quốc, Nhật Bản cùng với việc sử dụng ngôn ngữ bản địa là việc sử dụng tiếng Hán trong sáng tác văn chƣơng. Nhật Bản là quốc gia lƣu giữ đƣợc đầy đủ nhất tƣ liệu về văn học viết bằng ngôn ngữ bản địa (tiếng Nhật) với các thể loại nhƣ thơ tanka, choka, sedonka từ thế kỷ VI - VII), ngay sau đó là Triều Tiên với những bài Hương ca/Hyangga trƣớc thế kỷ X.
Tuy nhiên, hiện tƣợng song ngữ ở các nƣớc phƣơng Tây và các khu vực khác trên thế giới chúng tôi chƣa đƣợc khảo cứu một các căn kẽ nên sẽ không trình bày ở luận án này. Dƣới đây, tác giả luận án sẽ khái quát những vấn đề cơ bản về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại các nƣớc phƣơng Đông, những nƣớc đồng văn cùng nằm trong khu vực ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán (Hán tự văn hóa quyển).
2.4.1. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học Nhật ản Văn học Nhật Bản thời trung đại cũng có hai thành phần nhƣ văn học Việt Nam và Hàn Quốc, những nƣớc cùng chịu ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán. Trong văn học Nhật Bản thời kỳ trung đại, ngoài thành phần văn học
48
viết bằng ngôn ngữ vay mƣợn là chữ Hán còn có thành phần văn học viết bằng bản ngữ là chữ Kana.
Thời trung đại trong lịch sử văn học Nhật Bản gồm hai thời kỳ: trung cổ và trung thế. Trong cả hai thời kỳ này, văn học chữ Hán đƣợc sáng tác bởi chủ yếu là tầng lớp quý tộc. Thời kỳ trung thế, tầng lớp Võ sĩ đạo (Samurai) có những đóng góp lớn với thể loại quân ký. Văn học chữ Hán ở Nhật Bản thời Heian trong các thế kỷ IX-XII chủ yếu là các sáng tác của giới quý tộc Heian với các bài ca Sabara và Kagura - uta; truyện cổ tích và truyền thuyết dân gian trong Konjaku Monogatari (Kim tích vật ngữ, khoảng năm 1120) và Kokon Chomonshū (Cổ kim trứ văn tập).
Văn học viết bằng chữ Hán để lại nhiều tác phẩm có giá trị nhƣ Hogen Monogatari (Bảo Nguyên vật ngữ), Heiji monogatari (Bình Trị vật ngữ) và Heike monogatari. Lực lƣợng sáng tác chủ yếu của thành phần văn học này là tầng lớp Võ sĩ đạo (Samurai) và những ngƣời thuộc tầng lớp trên của xã hội.
Trong khi đó, thành phần văn học viết bằng tiếng Nhật, chữ Kana chủ yếu lại là các sáng tác văn học của các tầng lớp dƣới và phụ nữ có đẳng cấp hạn hẹp. Những thành tựu của thành phần văn học này phải kể đến hợp tuyển Kokin Wakashū (Cổ kim Hòa ca tập, năm 905 hay 914 niên đại Engi) hay còn gọi là Kokinshū (Cổ kim tập); tiểu thuyết Taketori Monogatari (Trúc thủ vật ngữ, tức ―chuyện ông già đốn trúc‖), Ise Monogatari (Y Thế vật ngữ, ―truyện Ise‖ đầu thế kỷ X) và đạt đỉnh cao với Genji Monogatari (Nguyên Thị vật ngữ, khoảng 1004-1011); nhật ký với Tosa Nikki (Thổ Tá nhật ký, 935) và tùy bút với Makura no Soshi (Chẩm thảo tử, ―sách gối đầu‖ 936 hay 1001?). Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Nhật Bản cũng là song ngữ bất bình đẳng nhƣ trong văn học trung đại Việt Nam và Hàn Quốc. Chữ Hán là văn tự chính thức còn chữ Nhật là Kana, loại chữ viết chỉ dành cho phụ nữ và những tầng lớp dƣới. Chữ Hán chỉ dành cho tầng lớp quý tộc và tầng lớp Samurai. Vì vậy văn học Nhật Bản có thể đƣợc chia ra thành văn học của tầng lớp trên, sáng tác bằng chữ Hán và của tầng lớp dƣới bao gồm cả phụ nữ, sáng tác bằng chữ Kana.
2.4.2. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học Triều Tiên/Hàn Quốc Bởi yếu tố lịch sử nên hiện nay Triều Tiên và Hàn Quốc là hai quốc gia
49
khác nhau về thể chế chính trị trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, ở thời trung đại, Triều Tiên về cơ bản là một quốc gia thống nhất bên cạnh những giai đoạn bị phân chia thành ba nƣớc là Bách Tế, Tân La và Cao Ly. Nhƣng cái tên quốc tế đƣợc dùng phổ biến nhất là Korea. Do đó, ở phần này, chúng tôi gọi chung văn học Triều Tiên/ Hàn Quốc là văn học Korea. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Korea xuất hiện muộn hơn nhiều so với văn học Nhật Bản và Việt Nam. Văn học trung đại Korea bao gồm văn học chữ Hán và văn học chữ Hàn. Riêng văn học chữ Korea lại gồm hai thành phần: văn học bằng chữ Ydu và văn học bằng chữ Hangul. Chữ Ydu là kiểu chữ mƣợn tiếng Hán để ghi âm tiếng Hàn còn chữ Hangul là chữ Hàn do ngƣời Korea sáng tạo ra (vào khoảng cuối tháng 12 năm 1443, hoặc tháng 1 năm 1444, ấn bản năm 1446, trong một tài liệu có tựa Huấn dân chính âm) với vai trò quan trọng của vua Sêjong (Thế Tông (1418 - 1450)). Nhƣ vậy, văn học trung đại Korea đƣợc sáng tác bằng ba loại văn tự là chữ Hán, chữ Ydu, chữ Hangul (chữ Hàn). Tuy nhiên, chữ Ydu lúc đầu đƣợc sử dụng trong phạm vi khá rộng nhƣng sau đó chỉ đƣợc dùng trong các giấy tờ công và tƣ còn ―về mặt văn học mà nói, chữ Ydu chỉ xuất hiện trong các bài ca dân gian (hƣơng ca) của Shilla và Koryo mà thôi, còn các tác phẩm văn học bằng chữ Ydu hầu nhƣ không có‖[134, tr.22]. Vì thế, văn học trung đại Korea, trong thực tế là nền văn học song ngữ với việc sử dụng cùng một lúc cả chữ Hán và chữ Hangul.
Hiện tƣợng song ngữ chỉ xuất hiện từ giai đoạn Trung kỳ trung đại trong văn học Korea. Giai đoạn này văn học chữ Hán rất phát triển nhất là văn học chức năng. Những tác phẩm sử học đƣợc viết bằng chữ Hán để ca tụng triều đại Lý và để củng cố lòng trung thành của sĩ dân đối với triều đình: Thái Tổ thực lục, Triều Tiên vương triều thực lục, Xuân thu quán, Cao Ly sử… Văn học nghệ thuật viết bằng chữ Hán của ngƣời Triều Tiên nổi tiếng nhất là bộ Đông văn tuyển (Dongmun son) do Từ Cƣ Chính/ So Ko-jong biên tập hoàn thành vào năm 1478.
Bên cạnh đó, văn học viết bằng chữ Hàn (Hangul) cũng đạt đƣợc những thành tựu rất đáng kể. Hai thể thơ dân tộc nội sinh là Sijo/ Thời điệu và Kasa/ Ca từ đều xuất hiện vào cuối giai đoạn Cao Ly/ Koryo (Sơ kỳ trung đại), nhƣng phải đến giai đoạn Triều Tiên/ Choson (Trung kỳ trung đại) mới thực sự phát triển. Kasa (ca từ) có thể coi nhƣ một loại từ khúc của ngƣời Triều Tiên. Nhà thơ kasa nổi danh nhất giai đoạn này là Trịnh Triệt/ Chong
50
Chol (1536-1593), tác giả của những bài kasa bất hủ: Quan Đông biệt khúc, Tư mỹ nhân khúc, Tục mỹ nhân khúc… Thể thơ tiêu biểu nhất cho tâm hồn dân tộc Triều Tiên là sijo/ thời điệu, với tên tuổi của các nhà thơ: Lý Hoảng/ Yo Hwang (1501-1570), Lý Nhĩ/ Yi I (1536-1584), Phác Nhân Lão/ Pak Il-lo (1561-1643), Thân Khâm/ Sin Hum (1566-1628), và nhất là nữ sĩ Hoàng Chân Y/ Hwang Chin Y(1506-1544) và nhà thơ Doãn Thiện Đạo/ Yun Son- do (1587-1671), hai thi sĩ đã đƣa thể thơ này lên đến đỉnh cao.
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học Korea hậu kỳ trung đại diễn ra khá sôi nổi. Văn học viết bằng ngôn ngữ bản địa với các thể thơ sijo/ thời điệu và kasa/ ca từ thay đổi theo hƣớng tăng cƣờng tính hiện thực, thể hiện những rung cảm chân thực trong lòng ngƣời, nhất là về tình yêu, và cả những khát khao tính dục. Các nhà thơ tiêu biểu là: Kim Thiên Trạch/ Kim Chon-taek, Kim Thọ Trƣờng/ Kim Su-jang và cả một số ngƣời xuất thân từ ca kỹ - những ―Kỹ sinh‖ theo cách gọi Triều Tiên. Tiểu thuyết chữ Hán Hậu kỳ trung đại có những thay đổi quan trọng. Chịu ảnh hƣởng của tƣ tƣởng thực học (sirhak), tiểu thuyết chữ Hán tăng cƣờng tính hiện thực, sử dụng loại Hán văn giản dị, hƣớng vào việc phê phán tính chất ăn bám của tầng lớp ―Lƣỡng ban‖, tiêu biểu là Hứa Sinh truyện, Hổ Sất Lưỡng ban truyện, Mẫn Ông truyện của Phác Chi Nguyên/ Pak Chi-won. Tiểu thuyết viết bằng chữ Hangƣl xuất hiện từ cuối thời Trung kỳ trung đại với tác phẩm đầu tiên là Hồng Cát Đồng truyện (Hong Kil-tong chon) của Hứa Quân/ Huh Gyun (1569-1618) và tác phẩm gây đƣợc tiếng vang lớn là tiểu thuyết thần tiên Cửu vân mộng của Kim Vạn Trùng/ Kim Man-jung (1637-1692). Tuy nhiên phải đến Hậu kỳ trung đại thì tiểu thuyết bằng tiếng Hàn mới thực sự nở rộ: Tường Hoa Hồng Liên truyện, Thẩm Thanh truyện, Ngọc lâu mộng, Thục Hương truyện … Theo Đoàn Lê Giang, ―tác phẩm đƣợc yêu thích nhất là tiểu thuyết kỹ nữ Xuân Hương truyện. Các truyện trên đều có chủ đề phê phán xã hội, phê phán sự kỳ thị giàu nghèo, sang hèn, ca ngợi tình yêu tự do. Văn học chữ Hàn Hậu kỳ trung đại của Korea chứng kiến sự lên ngôi của một thể loại văn học diễn xƣớng có tính chất đại chúng rõ nét là thể hát kể pansori, tức là ―ca truyện‖ theo cách gọi của ngƣời Triều Tiên. Pansori là một loại truyện kể xen kẽ với thơ đƣợc ngâm kể kèm theo điệu bộ, tiêu biểu là các tác phẩm: Truyện nàng Xuân Hương (phỏng theo tiểu thuyết cùng tên), Truyện nàng Shim Cheong, Truyện Heung Boo v.v‖ [54, tr.90].
51
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Korea cũng là song ngữ bất bình đẳng. Chữ Hán là văn tự chính thức còn chữ Hàn là Am - gƣl (chữ phụ), chữ Hán là ―chân thƣ‖ còn chữ Hàn là ―ngạn văn‖ (chữ viết trong dân gian). ―Chữ Hàn đƣợc sử dụng nhiều trong tiểu thuyết, ca từ, thƣ từ, nhật ký, tức những thứ đƣợc coi là giá trị thấp và không chính thức. Vì vậy, văn học Korea có thể đƣợc chia ra thành văn học của tầng lớp trên, sáng tác bằng chữ Hán và của tầng lớp dƣới bao gồm cả phụ nữ, sáng tác bằng chữ Hàn‖ [134, tr. 24].
Theo Phan Thị Thu Hiền thì ―song trùng ngôn ngữ - văn tự tác động nhiều mặt đến tiến trình cũng nhƣ bản sắc của một nền văn học‖ [65, tr.51] trong đó có văn học Korea.
Trong phần lớn thời trung đại Korea, khi các nhà văn lớn sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Hàn thì thƣờng tác phẩm viết bằng chữ Hán chủ yếu gắn với những thể loại, đề tài, cảm hứng từ thơ ca cổ điển Trung Quốc, thƣờng nói về những vấn đề quốc gia, dân tộc, nói chí, chở đạo. Trong khi đó, văn học chữ Hàn thƣờng gắn với các thể loại, đề tài, cảm hứng từ văn học dân gian, thể hiện phƣơng diện xúc cảm, cá nhân, bình dị, thƣờng nhật. Quan hệ giữa thành phần văn học chữ Hán và văn học chữ Hàn ban đầu ƣu thế nghiêng tuyệt đối về chữ Hán. Về sau có sự giao thoa hơn và ngày càng chuyển hóa đảo ngƣợc thành vai trò thống lĩnh của văn học viết bằng ngôn ngữ bản địa.
2.4.3. Đặc điểm chung và riêng của hiện tƣợng song ngữ trong văn
học trung đại các nƣớc khu vực văn hóa chữ Hán
Các nƣớc chịu ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán đều có hiện tƣợng song tồn hai thành phần văn học: thành phần viết bằng Hán văn và thành phần viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Ở Việt Nam là văn học học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm, ở Korea là văn học chữ Hán và văn học viết bằng chữ Ydu và chữ Hàn (Hangul), trong văn học Nhật Bản là chữ Hán và chữ Kana.
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại của Việt Nam, Korea và Nhật Bản là song ngữ bất bình đẳng. Ở Việt Nam, khi viết về những đề tài cao cả, tao nhã ngƣời ta thƣờng dùng chữ Hán còn khi viết về những đề tài bình dị, đời thƣờng thƣờng dùng chữ Nôm. Trong khi đó ở Korea, song ngữ trong văn học trung đại Korea cũng là song ngữ bất bình đẳng. Chữ Hán là văn tự chính thức còn chữ Hàn là Am - gƣl (chữ phụ), chữ Hán là ―chân thƣ‖ còn
52
chữ Hàn là ―ngạn văn‖ (chữ viết trong dân gian). ―Chữ Hàn đƣợc sử dụng nhiều trong tiểu thuyết, ca từ, thƣ từ, nhật ký, tức những thứ đƣợc coi là giá trị thấp và không chính thức. Ở văn học Nhật Bản, chữ Kana lại để dành riêng cho phụ nữ, đặc biệt là nữ sĩ cung đình. Trong khi đó, trí thức nam giới thƣờng dùng chữ Hán để sáng tác.
Về chủ thể sáng tạo, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam ghi nhận nhiều tác giả vừa sáng tác bằng ngôn ngữ vay mƣợn (chữ Hán) vừa sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm) nhƣ Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến. Thậm chí có ngƣời sáng tác bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm, nhƣ Đinh Nhật Thận với Thu dạ lữ hoài ngâm, Nguyễn Khuyến với hơn chục bài thơ kiểu nhƣ vậy. Từ đó, có thể thấy, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là song ngữ song hành đến ngôn ngữ liên văn bản. Trong khi đó, ở văn học Korea và Nhật Bản thời trung đại hiện tƣợng này không nổi bật vì chữ Y du ở Korea và chữ Kana ở Nhật Bản lại là chữ viết dành riêng cho các nữ sĩ
Về thể loại, văn học trung đại Việt Nam có sự tiếp thu các thể loại văn học chức năng từ Trung Quốc rất mạnh mẽ hơn hẳn Korea và Nhật Bản. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học tiếp thu cũng xuất hiện, nhiều khi sáng tác chữ Nôm còn nhiều hơn sáng tác chữ Hán ở các thể loại tiếp thu nhƣ hịch và văn tế. Văn học chức năng Nhật Bản có nhiều tác phẩm nổi tiếng viết bằng chữ Hán nhƣ Cổ sự ký (Kojiki), Nhật Bản thư kỷ (Nihonshogi), Đại kính (Okagami) của Nhật Bản. Văn học Korea có Tam quốc sử ký, Tam quốc di sử đều viết bằng chữ Hán.
Văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam chủ yếu viết bằng chữ Hán ngoại trừ Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi. Trong khi đó, văn xuôi tự sự viết bằng chữ kana rất phát triển. Từ thế kỷ X đã xuất hiện Truyện Genji monogatari, một loại văn xuôi nghệ thuật hoàn chỉnh, thậm chí có ý kiến còn coi nó là tiểu thuyết tâm lý trƣờng thiên sớm nhất thế giới. Thể loại ―monogatari‖ (truyện kể) vừa có những sáng tác bằng chữ Kana của nữ sĩ cung đình vừa có sáng tác bằng chữ Hán của tầng lớp Samurai. Còn văn học Korea, ngƣời ta vẫn coi Hồng Cát Đồng truyện (Hong Kil-tong chon) của Hứa Quân/ Huh Gyun (1569-1618) là tiểu thuyết đầu tiên bằng tiếng Hàn trƣớc đó chỉ có văn xuôi tự sự bằng chữ Hán.
53
Trên phƣơng diện ngôn ngữ, các yếu tố Hán về ngôn ngữ nhƣ chữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học xuất hiện với tần suất đậm đặc trong văn học trung đại Việt Nam hơn là văn học trung đại Nhật Bản và Korea. Trong khi đó, yếu tố dân tộc về ngôn ngữ nhƣ khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ và ca dao trong văn học mỗi nƣớc đều có những đặc sắc rất riêng.
TIỂU KẾT
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đƣợc hình thành trên những cơ sở lịch sử, xã hội, văn hóa, tƣ tƣởng, thẩm mĩ, văn học và ngôn ngữ học nhất định. Trƣớc hết là sự ra đời chính thức của nền văn học viết vào khoảng thế kỷ X sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra một thời kỳ độc lập lâu dài cho dân tộc. Vì chƣa có chữ viết riêng hoàn chỉnh và thống nhất nên cha ông ta phải mƣợn chữ Hán trong hành chính và trong sáng tác văn học. Văn học viết bằng chữ Nôm ra đời muộn hơn văn học viết bằng chữ Hán khoảng hai thế kỷ nhƣng đã nhanh chóng bắt rễ sâu trong đời sống văn học và nhanh chóng phát triển ngang hàng với văn học chữ Hán. Từ thế kỷ XV trở đi, hai thành phần văn học viết bằng ngôn ngữ vay mƣợn là chữ Hán và ngôn ngữ bản địa là chữ Nôm song song tồn tại, tạo thành hiện tƣợng song ngữ rất độc đáo và tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam.
Trong tiến trình phát triển của văn học trung đại Việt Nam, hiện tƣợng song ngữ vừa mang tính chất đa thành phần, vừa mang tính chất bất bình đẳng. Tính chất đa thành phần cho thấy sự đa dạng và phong phú của nền văn học với văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm cũng nhƣ mối quan hệ ảnh hƣởng giữa hai chiều Hán Nôm và ngƣợc lại. Trong khi đó, tính chất bất bình đẳng của hiện tƣợng song ngữ trong văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX lại cho thấy một quan niệm văn chƣơng của ngƣời trung đại khi chỉ coi văn chƣơng chữ Hán là văn chƣơng đích thực, văn chƣơng chính thống cao cả. Còn thơ văn viết bằng chữ Nôm lại không đƣợc coi trọng, văn chƣơng thông tục, đời thƣờng thậm chí đã có lúc bị triều đình phong kiến cấm đoán ở một thể loại. Nhƣng vƣợt lên trên tất cả, văn học chữ Nôm vẫn phát triển không ngừng bên cạnh văn học viết bằng chữ Hán và đạt đƣợc những thành tựu rực rỡ vào những giai đoạn sau, đánh dấu sự ƣu thắng của văn học dân tộc viết bằng chữ Nôm.
54
Quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có lẽ chỉ nên tính từ thời điểm việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học đƣợc sử sách chép lại là vào năm 1282 khi Nguyễn Thuyên làm văn tế Nôm đuổi cá sấu và mở ra một trào lƣu sáng tác văn học bằng chữ Nôm thời bấy giờ. Trƣớc đó, văn học nƣớc ta chỉ sáng tác chủ yếu bằng chữ Hán. Văn học viết bằng chữ Nôm bắt đầu có bƣớc nhảy vọt từ thế kỷ XV với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và sau đó là Hồng Đức quốc âm thi tập của các tác giả thời Hồng Đức. Đến thế kỷ XVI, Bạch Vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện nhƣng văn học chữ Nôm có phần chững lại, dù trong thế kỉ XVII thơ Nôm Trịnh phủ khá dồi dào về số lƣợng. Trong khi đó, giai đoạn này văn học chữ Hán vẫn rất phát triển. Từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của văn học chữ Nôm với sự ra đời của các thể loại thuần dân tộc nhƣ truyện thơ, ngâm khúc và hát nói. Văn học chữ Nôm đã chiếm ƣu thế so với văn học chữ Hán.
Hiện tƣợng song ngữ là một hiện tƣợng vừa mang tính độc đáo, đặc thù nhƣng cũng vừa mang tính phổ quát. Không chỉ văn học Việt Nam thời trung đại tồn tại hiện tƣợng song ngữ mà hiện tƣợng này cũng xuất hiện trong văn học các nƣớc phƣơng Tây thời trung đại nhƣ Anh, Pháp, Ý, Đức,…. Văn học các nƣớc trong khu vực chịu ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán nhƣ Korea và Nhật Bản cũng tồn tại việc sáng tác văn học bằng ngôn ngữ vay mƣợn (chữ Hán) bên cạnh sáng tác bằng ngôn ngữ bản địa. Điều này cho thấy rằng, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam cũng tƣơng đồng trong bối cảnh văn học khu vực và văn học thế giới.
55
Chƣơng 3: LOẠI HÌNH TÁC GIẢ SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
3.1. GIỚI THUYẾT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ LOẠI HÌNH TÁC
GIẢ VĂN HỌC
3.1.1. Khái niệm loại hình và loại hình tác giả văn học Khái niệm loại hình Theo Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, trong so sánh văn học, ―loại hình chỉ một nhóm nhà văn, một nhóm tác phẩm hoặc yếu tố (chủ đề, đề tài, thể loại, nhân vật) có những đặc trƣng chung nhƣng xuất hiện tại các nƣớc khác nhau‖ [64, tr.182]. Cũng theo công trình này, ―loại hình học là ngành nghiên cứu những điểm tƣơng đồng, những điểm khác biệt và biến đổi cùng các nguyên nhân và ý nghĩa của chúng. Loại hình học có hai phân nhánh là chủ đề học và văn loại học‖ [64, tr.182].
Loại hình tác giả văn học Theo Từ điển thuật ngữ văn học ―về thực chất, tác giả văn học là ngƣời làm ra cái mới, ngƣời sáng tạo ra các giá trị văn học mới. (…) Tác giả văn học đƣợc nhận ra trong bối cảnh của quá trình văn học, là ngƣời có đƣợc bản sắc riêng trong vô vàn mối ảnh hƣởng‖ [64, tr.289].
Theo Lại Nguyên Ân, ―khái niệm tác giả có thể tƣơng ứng với các khái
niệm về cá tính sáng tạo, phong cách (phong cách cá nhân)‖ [8, tr. 295].
Lí thuyết loại hình học tác giả đƣợc chúng tôi vận dụng để đặt ra vấn về
loại hình tác giả song ngữ trong luận án này.
3.1.2. Các kiểu loại tác giả trong văn học trung đại Việt Nam Tác giả là ngƣời sáng tạo ra những giá trị văn học. Ứng với một kiểu văn học trong lịch sử thì có một kiểu tác giả đã sáng tác ra kiểu văn học ấy. Văn học dân gian không có tác giả cá nhân vì nó là những sáng tác tập thể và truyền miệng. Trong khi đó, ở văn học viết, tác giả đƣợc chú ý coi trọng bởi các vấn đề về niên đại, bản quyền, cá tính, phong cách,…
Lịch sử văn học đã biết đến những kiểu tác giả khác nhau. Khi nhắc đến chủ nghĩa cổ điển, ngƣời ta hình dung một con ngƣời lí trí, thích mức độ, ƣa tao nhã, cao thƣợng, tri thức uyên bác; còn lãng mạn là một kiểu tác giả
56
mơ màng, giàu tƣởng tƣợng; trái lại, các nhà văn hiện thực thƣờng ghi chép tƣ liệu đời sống; nhà văn cách mạng lại dùng ngòi bút nhƣ một thứ vũ khí để thay đổi chế độ xã hội.
Các nhà nghiên cứu văn học trung đại từ lâu đã chú ý đến kiểu tác giả văn học trung đại. Riptin đã nhận xét: ―Ý thức công thức, khuôn sáo làm cho kiểu tác giả này rất khó sử dụng các chi tiết đời sống mới và các chi tiết nghệ thuật bất ngờ‖ (dẫn theo Trần Đình Sử) [132, tr.112]. Ông cũng nói tác giả trung đại là ngƣời xem sáng tác là việc quan trọng, thành kính, không làm việc đùa. Tác giả trung đại rất ít hƣớng tới việc tạo ra những cốt truyện mới, khác thƣờng, họ chủ yếu cố gắng có cách truyền đạt mới, một cốt truyện đã có sẵn nhƣ trƣờng hợp Truyện Kiều của Nguyễn Du đƣợc sáng tạo lại dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
Việc phân chia loại hình tác giả chỉ mang tính chất tƣơng đối. Tuy nhiên, loại hình tác giả cũng phải dựa trên những tiêu chí nhất định. Chúng ta có thể thấy cùng một loại hình tác giả sẽ có những đặc điểm chung nhất định chẳng hạn nhƣ: quan điểm sáng tác (có thể là phát ngôn trực tiếp hoặc toát lên từ ý nghĩa khách quan của tác phẩm); trong quan điểm sáng tác bao gồm cả quan điểm thẩm mĩ; khuynh hƣớng nội dung cảm hứng; nghệ thuật thể hiện và phong cách nghệ thuật (nếu có).
Tác giả văn học trung đại Việt Nam có lẽ xuất hiện cùng lúc với sự ra đời của văn học viết dân tộc bằng chữ Hán. Là một trong những nƣớc chịu ảnh hƣởng của khu vực văn hóa chữ Hán, đƣơng nhiên tác giả văn học trung đại mang bóng dáng, dấu vết của nền văn hóa này.
Ở thời trung đại, khái niệm ―văn‖ đƣợc hiểu theo cả hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, ―văn‖ đƣợc hiểu là chỉ toàn bộ nền văn hóa (văn hiến, văn minh); thứ hai là dùng để chỉ hình thức, chỉ cái đẹp. Theo nghĩa hẹp, ―văn‖ là để chỉ văn học nói riêng nhƣ bây giờ. Theo Trần Đình Sử: ―Khi làm văn theo chức trách, tác giả bao giờ cũng cung kính, nghiêm trang, tuân theo quy tắc, luật lệ. Khi làm thơ văn cho mình và bạn bè họ lại có thể vui đùa ngông ngạo, nghịch ngợm, suồng sã. Do đó khi nói tới kiểu tác giả trung đại Việt Nam là chủ yếu nói tới kiểu tác giả theo nghĩa hẹp‖ [132, tr. 115].
Các tác giả trong văn học trung đại Việt Nam cũng đã phát biểu ý kiến của họ về nhà văn, nhà thơ. Theo Phƣơng Lựu, ―từ thế kỷ X đến thế kỷ XII ý
57
kiến về nhà văn còn sơ sài. Chỉ vào hai thế kỷ XVIII – XIX sau này mới có nhiều ngƣời bàn đến nhà văn nhƣ: Nhữ Bá Sĩ, Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Lê Quý Đôn, …‖ [105, tr.156].
Theo Trần Đình Sử có hai kiểu tác giả trong văn học học trung đại Việt Nam là kiểu tác giả thơ và kiểu tác giả văn khi xét văn thơ nhƣ là hai thành phần chủ yếu của nền văn học dân tộc. Trong khi đó, Đỗ Thu Hiền trong bài viết Các loại hình tác giả trong văn học thời Lý - Trần đã chỉ ra ―bốn kiểu loại hình tác giả trong văn học Việt Nam thời Lý – Trần là: nhà sƣ; vua, quý tộc, võ tƣớng, nhà nho và các loại khác không nói rõ ở đây‖ [157, tr.383].
Theo Biện Minh Điền, ―loại hình tác giả là tập hợp những tác giả có cùng những đặc điểm loại hình nào đó, hoặc là cùng khuynh hƣớng sáng tác, quan điểm, xu hƣớng thẩm mĩ; hoặc là cùng phƣơng thức, thể loại sáng tác,…‖[46, tr.95]. Trong luận án này, chúng tôi cũng xét văn học trung đại Việt Nam ở hai thành phần: thành phần văn học viết bằng ngôn ngữ vay mƣợn (chữ Hán) và thành phần viết bằng ngôn ngữ dân tộc (tiếng Việt – chữ Nôm). Loại hình tác giả hay kiểu tác giả ở đề tài nghiên cứu này là kiểu tác giả song ngữ tức là vừa sáng tác bằng chữ Hán vừa sáng tác bằng chữ Nôm trong sự nghiệp sáng tác văn học. Cũng theo Biện Minh Điền thì văn học trung đại Việt Nam có 735 tác giả viết bằng chữ Hán và chữ Nôm viết về nhiều môn loại khác nhau, bao gồm thi văn, sử truyện, bút ký, phiên dịch,…
Cũng cần lƣu ý rằng, việc phân chia loại hình tác giả chỉ mang ý nghĩa tƣơng đối vì mỗi một loại hình tác giả đều là khách thể của những hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định. Tác giả là con ngƣời chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử và trong tổng hòa các mỗi quan hệ xã hội nên các mối quan hệ và những sự chi phối này chằng chéo nhau. Một tác giả này vừa có thể vừa thuộc loại hình tác giả này vừa có thể thuộc loại hình tác giả khác. Chẳng hạn nhƣ Trần Nhân Tông vừa có thể đƣợc xếp vào loại hình vua, quan, quý tộc vừa có thể xếp vào loại hình tác giả tăng lữ hoặc loại hình tác giả song ngữ cũng không sai.
3.2. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TÁC GIẢ SONG NGỮ TIÊU BIỂU
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
3.2.1. Nguyễn Trãi 3.2.1.1. Những yếu tố về thời đại, gia đình, cuộc đời và con người
có ảnh hưởng tới sáng tác bằng song ngữ
Về thời đại, Nguyễn Trãi sinh năm 1380 mất năm 1442. Ông sống và
58
hoạt động trong giai đoạn giao thời của các triều đại, là nhân chứng của việc triều Hồ thay nhà Trần, ngƣời trải qua hai mƣơi năm dƣới ách thống trị của giặc Minh, cũng là một trong những ngƣời kiến tạo nền thái bình cho triều đại nhà Hậu Lê sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi. Nguyễn Trãi là một ngƣời văn tài, võ lƣợc, lúc nào cũng bừng bừng khát vọng cống hiến cho dân cho nƣớc. Ông lại là ngƣời tinh tế, nhạy cảm và giàu sức sáng tạo. Do đó, bối cảnh thời đại cũng là yếu tố tác động đến sáng tác văn chƣơng của Nguyễn Trãi trong vấn đề lựa chọn thể loại và ngôn ngữ. Điều này góp phần lí giải hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ của Ức Trai tiên sinh.
Về gia đình, Nguyễn Trãi xuất thân là nhà nho, đƣợc đào tạo một cách bài bản trong nhà trƣờng phong kiến; gia đình có truyền thống khoa bảng và truyền thống văn chƣơng, nhiều ngƣời đỗ đạt cao và làm quan to trong triều. Nguyễn Trãi từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) và làm đến chức Nhập nội hành khiển. ―Ông Nguyễn Trãi tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả” [32, tr. 192]. Về bên nội, Nguyễn Thuyên (tức Hàn Thuyên) là một trong những ngƣời đầu tiên có công dùng chữ Nôm trong sáng tác thơ cách luật. Cha của Nguyễn Trãi cũng là một nhà thơ lớn cuối thời Trần. Về bên ngoại Nguyễn Trãi có Trần Quang Khải không những là vị tƣớng đảm lƣợc, một anh hùng dân tộc mà còn là một thi sĩ tài hoa. Ông ngoại là Trần Nguyên Đán không những là vị quan Tƣ Đồ uyên thâm, liêm chính mà còn là một nhà thơ nổi tiếng lúc bấy giờ. Chính những truyền thống tốt đẹp, vẻ vang cả dòng họ nội và ngoại đã đƣợc Nguyễn Trãi tiếp thu học hỏi để từ đó hoàn thiện nhân cách và đồng thời Nguyễn Trãi đã góp phần làm vẻ vang thêm truyền thống cao quý đó. Đó là nguồn cội ảnh hƣởng đến những sáng tác bằng song ngữ của Nguyễn Trãi.
Về cuộc đời, con người, Nguyễn Trãi có một chặng đƣờng học hành, đỗ đạt và ra làm quan để thi hành lý tƣởng tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ, lý tƣởng kinh bang tế thế, trí quân trạch dân của một nhà Nho hành đạo. Đồng thời, trong cuộc đời mình, ông cũng có những khoảng thời gian gắn bó sâu sắc với nhân dân của một nhà Nho có tƣ tƣởng thân dân, một nhà Nho ẩn dật sống gần những con ngƣời bình thƣờng, lam lũ. Tinh thần dân tộc và tƣ tƣởng thân dân thấm đậm trong con ngƣời Nguyễn Trãi. Ông là một ngƣời anh hùng dân tộc rong ruổi khắp đất nƣớc đánh giặc, một vị quan thanh liêm, cần mẫn vì sự nghiệp lo cho dân cho nƣớc. Ông cũng có khoảng thời gian ẩn
59
dật ở Côn Sơn khi không đƣợc thời để thực hiện ƣớc mơ, lý tƣởng. Trong những ngày sống với cảnh ―Góc thành Nam lều một gian - No nƣớc uống, thiếu cơm ăn‖ bấm chí, chờ thời trƣớc lúc tham gia khởi nghĩa Lam Sơn hay những ngày ẩn cƣ tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi có điều kiện sống gần dân. Chính điều này đã góp phần đƣa nhà thơ có ý thức dân tộc, có tƣ tƣởng thân dân sâu sắc tới sự lựa chọn chữ Nôm để sáng tác thơ ca.
Về tư tưởng, quan điểm văn chương. Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ thể là Nho giáo Khổng Mạnh đƣợc kế thừa và phát triển ở đời Tống với Trình Di, Trình Hạo và Chu Đôn Di. Với Nguyễn Trãi, ―nhân‖, ―nghĩa‖ không đơn thuần là những phẩm chất cơ bản của ngƣời kẻ sĩ quân tử nữa mà là ―việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trƣớc lo trừ bạo‖. Đồng thời, Nguyễn Trãi cũng chịu ảnh hƣởng sâu sắc của những quan điểm văn chƣơng của Nho giáo nhất là quan điểm ―văn dĩ tải đạo‖ ―thi dĩ ngôn chí‖ của Tống Nho.
Quan niệm ―Văn dĩ tải đạo‖, tức là văn chƣơng phải phải chở đạo thánh
hiền theo quan điểm nho giáo. Trong bài thơ Nôm, Bảo kính cảnh giới (bài 5), Nguyễn Trãi viết:
Văn chương chép lấy đòi câu thánh, Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung. Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược, Có nhân, có trí, có anh hùng.
―Đạo trung‖ ở đây là đạo trung dung của Nho giáo – tức là thiết lập một trật tự xã hội hài hoà, không cực đoan (không cực tả cũng không cực hữu), lấy sự khoan hoà làm trọng.
Có lẽ đây là căn cơ của việc ông dùng chữ Hán để sáng tác khi đề cập đến những vấn đề trọng đại mang tính quốc gia, những nội dung mang tính cao cả, tao nhã.
Nguyễn Trãi có tƣ tƣởng thân dân sâu sắc. Trong thơ văn ông đậm đầy lòng thƣơng dân, yêu dân, trọng dân (Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền/Cành bắc cành nam một cội nên) và ơn dân (Ăn lộc biết ơn kẻ cấy cày). Ông khẳng định nhân dân là lực lƣợng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự hƣng vong của triều đại, đất nƣớc: ―Phúc chu thủy tín dân do thủy‖ (Lật thuyền mới biết dân nhƣ nƣớc).
60
3.2.1.2. Đóng góp của Nguyễn Trãi đối với hiện tượng song ngữ
trong văn học trung đại Việt Nam
Bảng 3.1.a. Hiện tượng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi sáng tác cả bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm. Ở cả hai thành phần này, ông đều có những tác phẩm có giá trị với những thể loại khác nhau ở cả văn học chức năng và văn học nghệ thuật. Bảng 3.1 dƣới đây là kết quả khảo sát và thống kê số lƣợng tác phẩm của Nguyễn Trãi theo thể loại ở cả sáng tác chữ Nôm và chữ Hán.
STT THỂ LOẠI Số lƣợng khảo sát Tỉ lệ (%)
SÁNG TÁC CHỮ HÁN Số lượng 01 01 01 01 01 62 01 01 105 01 SÁNG TÁC CHỮ NÔM Số lượng 0 0 0 0 0 0 0 0 254 0 Tỉ lệ (%) 0 0 0 0 0 0 0 0 70,8 0 01 01 01 01 01 62 01 01 359 01 100 100 100 100 100 100 100 100 29,2 100
1 Cáo 2 Chiếu 3 Biểu 4 Địa chí Lục 5 6 Thƣ 7 Văn bia Truyện 8 9 Thơ 10 Phú Nguyễn Trãi là tác giả song ngữ tiêu biểu nhất ở chặng đƣờng đầu tiên trong quá trình hình thành và phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Những đóng góp của Nguyễn Trãi đối với hiện tƣợng song ngữ trong văn học nƣớc nhà đƣợc ghi nhận trên cả hai phƣơng diện nội dung, tƣ tƣởng, đề tài, chủ đề và phƣơng diện hình thức nghệ thuật. Trần Thị Anh đã có một luận văn thạc sĩ viết về ―Hiện tƣợng song ngữ qua sáng tác Nguyễn Trãi‖. Dƣới đây, chúng tôi khái quát về những đóng góp của Nguyễn Trãi đối với hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
Trên phƣơng diện nội dung, sáng tác chữ Hán của Nguyễn Trãi thƣờng hƣớng về những vấn đề trọng đại, quốc sự với tiếng nói đề cao chính nghĩa, đề cao dân tộc trong các tác phẩm thuộc thể loại văn học chức năng nhƣ Bình Ngô
61
đại cáo, Quân trung từ mệnh tập,…; trong khi văn chƣơng nghệ thuật của Nguyễn Trãi là bức tranh thiên nhiên hoành tráng, kì vĩ cộng hƣởng với cảm hứng về đất nƣớc, quê hƣơng trong thơ Ức Trai thi tập và Chí Linh sơn phú và hồi ức về những ngƣời thân yêu nhƣ ông ngoại Trần Nguyên Đán trong Băng Hồ di sự lục, ngƣời cha Nguyễn Phi Khanh trong Truyện Nguyễn Phi Khanh. Trong khi đó, sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Trãi lại thiên về cái đời thƣờng, bình dị của thiên nhiên, của cuộc sống nơi thôn quê đậm đà chất dân tộc trong Quốc âm thi tập. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, nội dung tƣ tƣởng trong sáng tác Nguyễn Trãi không thể hiện một cách đơn thuần nhƣ thế trong từng thành phần riêng mà đó là sự thể hiện phức hợp các nội dung tƣ tƣởng ấy trong ảnh hƣởng qua lại của hai thành phần sáng tác. Ta vẫn thấy những nội dung chính thống và những bức tranh thiên nhiên đậm chất Đƣờng thi trong thơ Nôm và ngƣợc lại thiên nhiên, danh lam thắng cảnh không phải là những thứ mơ hồ, ƣớc lệ từ văn học Trung Quốc mà nó gắn với những địa danh cụ thể, chân thực của đất nƣớc nhƣ Bạch Đằng, Thần Phù, núi Dục Thúy,… Trong thơ chữ Hán của Ức Trai, bức tranh thiên nhiên rất ít màu ƣớc lệ mà thấm đƣợm sự bình dị, thân thƣơng của quê hƣơng làng cảnh Việt Nam.
Trên phƣơng diện nghệ thuật, các sáng tác bằng chữ Hán với các thể loại vay mƣợn, bên cạnh tính quy phạm của thể loại Nguyễn Trãi vẫn thể hiện đƣợc những dấu ấn của riêng mình, văn chính luận với nghệ thuật luận chiến tài tình, sắc sảo Nguyễn Trãi đã nâng tầm của các thể loại du nhập này. Bình Ngô đại cáo đƣợc coi là ―thiên cổ hùng văn‖, là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc; Quân trung từ mệnh tập đƣợc đánh giá là ―có sức mạnh nhƣ mƣời vạn quân‖.
Song hành cùng với tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập là tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập. Đây là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Trãi đối với hiện tƣợng song ngữ trên phƣơng diện thể loại thơ Nôm Đƣờng luật. Thơ Nôm Đƣờng luật của ông thể hiện một sự cách tân, sự sáng tạo, sự phá cách rất độc đáo. Thơ Đƣờng luật vốn quy định rất chặt chẽ về số câu, số chữ, niêm, luật, nhịp,… Nhƣng dƣờng nhƣ không một khuôn khổ nào có thể gò bó một tài năng thơ Nôm nhƣ Nguyễn Trãi. Thơ Nôm của ông có nhiều bài thất ngôn xen lục ngôn, thậm chí xen ngũ ngôn. Nhịp thơ cũng có sự phá cách từ nhịp 4/3 của thơ Đƣờng luật quen thuộc sang nhịp ¾ của hai câu thất ngôn trong thơ song thất lục bát.
Theo khảo sát của chúng tôi ở tập thơ Quốc âm thi tập với 254 bài thơ
62
trong đó có 207 bài thơ bát cú, 46 tứ tuyệt và một bài thơ Trâu trong nghiên gồm 6 câu. Trong số 207 bài bát cú thì có đến 125 bài có xen câu lục ngôn chiếm tỉ lệ khoảng 60,3 %, đây là một tỉ lệ rất cao. Nó cho thấy sự nỗ lực sáng tạo, cách tân của Nguyễn Trãi đối với một thể loại có nguồn gốc nƣớc ngoài. Hai bài thơ khác trong số 207 bài bát cú này có xen hai câu ngũ ngôn là Thuật hứng bài 8 và Bảo kính cảnh giới bài 55. Vị trí của của các câu lục ngôn trong những bài bát cú cũng mang tính ổn định tƣơng đối cao. Khảo sát dƣới đây về vị trí câu lục ngôn trong số 125 bài thơ Nôm bát cú có xen câu ngôn của Nguyễn Trãi sẽ cho thấy rõ điều đó: Bảng 3.1.b. Vị trí câu lục ngôn trong số 125 bài thơ Nôm bát cú có xen câu lục ngôn của Nguyễn Trãi
VỊ TRÍ CÂU 1 2 3 4 5 6 7 8 TẦN SỐ XUẤT HIỆN 38 27 33 39 39 40 25 35 TỈ LỆ (%) 30,4 21,6 26,4 31,2 31,2 32 20 28
Cũng trong quá trình khảo sát 125 bài bát cú này, chúng tôi nhận thấy hình nhƣ Nguyễn Trãi thử để câu lục ngôn ở nhiều vị trí khác nhau, số câu lục ngôn trong bài bát cú thay đổi từ 1 câu cho đến 7 câu, cụ thể nhƣ sau: Bảng 3.1.c. Số lượng câu lục ngôn trong bài bát cú của Nguyễn Trãi
PHÂN LOẠI BÀI
Bài 1 câu lục ngôn Bài 2 câu lục ngôn Bài 3 câu lục ngôn Bài 4 câu lục ngôn Bài 5 câu lục ngôn Bài 6 câu lục ngôn Bài 7 câu lục ngôn SỐ LƢỢNG (bài) 49 42 19 5 5 3 2 TỈ LỆ (%) 39,2 33,6 15,2 4 4 2,4 1,6
63
Hai khảo sát trên cho chúng ta thấy rằng: vị trí của các câu lục ngôn rải đều và không cho thấy sự chênh lệch quá lớn nhƣng cũng có thể thấy câu lục ngôn vần xuất hiện nhiều hơn ở vị trí các câu 1, câu 4, câu 5 và câu 6. Điều này cho thấy Nguyễn Trãi đã thực sự tìm tòi, sáng tạo và có những cách tân nghệ thuật thuật táo bạo ở thể thơ Đƣờng luật viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Sự táo bạo, mạnh mẽ, quyết liệt trong việc cách tân thể loại này còn đƣợc Nguyễn Trãi thể hiện ở những bài thơ bát cú có từ năm đến bảy câu lục ngôn (10 bài). Chẳng hạn nhƣ hai bài thơ Thuật hứng bài 22 và Tự thán bài 40 dƣới đây:
Chụm tự nhiên một tấm lều, Qua ngày tháng lấy đâu nhiều. Gió tịn rèm thay chổi quét, Trăng kề cửa kéo đèn khêu. Cơm ăn chẳng quản dưa muối, Áo mặc nài chi gấm thêu. Tựa gốc cây ngồi hóng mát, Lều hiu ta hãy một lều hiu.
(Thuật hứng bài 22)
Ngủ thì nằm, đói lại ăn, Việc vàn ai hỏi áo bô cằn. Tranh giăng vách nài chi bức, Đình thưởng sen năng có gian. Vườn quạnh dầu chim kêu hót, Cõi trần có trúc dừng ngăn. Già vuỗn lấy rượu phù khoẻ, Hoạ lại quên lòng khó khăn.
(Tự thán bài 40)
Những bài này tuy số lƣợng không nhiều nhƣng có thể nói, nó thể hiện sự đổi mới, sự sáng tạo của nhà thơ, ngƣời anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi trên phƣơng diện một thể loại văn học. Sự thay đổi về số chữ, luật, niêm, nhịp so với thơ Đƣờng luật của những bài thơ này, chúng ta có thể gọi nó một cái tên khác thay vì gọi thơ thất ngôn bát cú Đƣờng luật xen lục ngôn, nên chăng gọi nó là thơ lục ngôn xen thất ngôn thì đúng hơn – Thơ Nôm lục ngôn xen thất ngôn của Nguyễn Trãi. Đây phải chăng là đóng góp quan trọng của Nguyễn Trãi, nhà ―khai sơn phá thạch‖ cho một thể loại văn học dân tộc hóa thể loại
64
tiếp thu, mở đƣờng cho sự phát triển của thơ Nôm trong văn học trung đại Việt Nam nói chung và khởi đầu hoàn hảo cho hiện tƣợng song ngữ nói riêng. Kể từ đây, thơ Nôm và văn học Nôm có vị trí không hề kém cạnh thơ chữ Hán và văn học chữ Hán cả về số lƣợng và chất lƣợng.
Đóng góp vào sự nghiệp phát triển nền văn hóa, văn học dân tộc của Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở đó. Trong thời đại mà Nguyễn Trãi đã sống từng xảy ra các cuộc giao lƣu văn hóa. Vì thế ngôn ngữ tiếng Việt trong lúc vẫn giữ vững cấu trúc ngữ pháp và vốn từ vựng cơ bản thì tiếng Hán cũng xâm nhập vào nhiều. Đó có lẽ cũng không phải là một điều khó hiểu. Nhƣng có một điều đáng nói là ông cha ta đã biết sử dụng những tinh hoa ấy để làm cho tiếng Việt càng đẹp càng phong phú thêm. Và điều đó phải kể đến công lao của Nguyễn Trãi. Ông đã từng cố gắng Việt hóa những từ vay mƣợn. Chẳng hạn câu ―Quân tử cố cùng‖ (nghĩa là ngƣời quân tử biết bền vững ngay trong lúc khốn cùng) thì trong thơ ông lại viết:
Khó bền mới phải người quân tử Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu. ` (Trần tình bài 7)
Trong Quốc âm thi tập có rất nhiều bài thơ viết ít nhiều có thể cách tự do. Trong những bài thơ tám câu hoặc bốn câu, mà câu trúc đối xứng thì câu lục ngôn (6 chữ) xen kẽ với thất ngôn (7 chữ). Chẳng hạn nhƣ bài Bảo kính cảnh giới bài số 43 dƣới đây:
Rồi, hóng mát thuở ngày trường, Hòe lục đùn đùn, tán rợp trương. Thạch lựu hiên, còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Lao xao chợ cá, làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve, lầu tịch dương. Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng, Dân giàu, đủ khắp, đòi phương.
Nhờ sự xen kẽ này mà nó nhấn mạnh đƣợc ý tình tạo cảm giác đột
ngột. Trong bài Cây chuối, Nguyễn Trãi viết:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm Đầy buồng lạ, màu thâu đèm Tình thư một bức phong còn kín Gió nơi đâu gượng mở xem.
65
Cũng vì tạo đƣợc sự xen kẽ mà thơ ông có cấu trúc âm thanh nhịp điệu tƣơng đối tự do. Thơ Nôm của Ức Trai không hề đơn điệu mà phù hợp với tâm hồn ngƣời Việt, cảm xúc chân chất, hồn nhiên nhƣng lại vô cùng sâu sắc. Nguyễn Trãi đã đánh dấu một bƣớc phát triển quan trọng của văn học chữ Nôm. Thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ ấy, Nguyễn Trãi đúc hết những tinh hoa văn hóa dân tộc cho đất nƣớc.
Theo Lã Nhâm Thìn, trong ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi, ―thành phần ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ đời sống ngày một gia tang, thành phần ngôn ngữ ngoại nhập và ngôn ngữ sách vở ngày một thuyên giảm‖ [142, tr.202]. Trong đó, ―bộ phận ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ đời sống chiếm vị trí quan trọng nhất‖. Một trong những công lao to lớn của Nguyễn Trãi là đã nâng ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ đời sống thành ngôn ngữ văn học. Sự bổ sung và kết hợp của ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ đời sống tuân theo một xu hƣớng vận động: giản dị, dễ hiểu, gần với đời sống.
Mặc dù trƣớc Nguyễn Trãi, Nguyễn Thuyên, Trần Nhân Tông, Nguyễn Biểu, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Hồ Quý Ly đều có sáng tác bằng song ngữ. Nhƣng cứ liệu và di sản để lại của họ là rất ít ỏi. Phải đến Nguyễn Trãi, hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ Hán – Nôm mới thực sự hình thành với những tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm có giá trị. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, đóng góp của Nguyễn Trãi đối với hiện tƣợng song ngữ là vô cùng quan trọng. Ông là ngƣời mở đƣờng, ngƣời đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
3.2.2. Nguyễn Bỉnh Khiêm 3.2.2.1. Những yếu tố về thời đại, gia đình, cuộc đời và con người
có ảnh hưởng tới sáng tác bằng song ngữ
Về thời đại, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là ngƣời chứng kiến cảnh tranh giành quyền lực trong tông thất nhà Hậu Lê. Hết vua quỷ Lê Uy Mục bạo ngƣợc lại đến vua lợn Lê Tƣơng Dực dâm bôn. Trƣớc khi ra ứng thí và làm quan dƣới triều Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống ẩn cƣ một thời gian mấy mƣơi năm. Đến năm 44 tuổi, sau khi Thái Tổ Mạc Đăng Dung phế bỏ nhà Lê lập ra nhà Mạc, ông đã ra ứng thí, thi đỗ trạng nguyên và làm quan với nhà Mạc. Ông cũng là nhân chứng của một giai đoạn lịch sử đầy hỗn loạn, chiến tranh chết chóc với các sự kiện tiêu biểu nhƣ Nguyễn Hoàng cát cứ Đàng trong, nhà Lê trung hƣng, nhà Mạc chạy
66
lên Cao Bằng rồi thời đại của vua Lê chúa Trịnh. Điều thú vị là ông cũng chính là ngƣời góp phần kiến tạo nên những sự kiện đó với tài tiên tri của mình. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng xuất hiện trên chính trƣờng và văn đàn trong bối cảnh giao thời giữa hai triều đại Hậu Lê và nhà Mạc. Yếu tố giao thời ấy là đặc trƣng về thời đại xuất hiện tác giả song ngữ tiêu biểu sẽ đƣợc chúng tôi trình bày trong phần Đặc điểm loại hình tác giả song ngữ.
Về gia đình, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân là một nhà nho, gia đình có nhiều ngƣời đỗ đạt cao và làm quan to trong triều. Cha của ông là Nguyễn Văn Định, một ngƣời nổi tiếng hay chữ nhƣng chƣa hiển đạt trên con đƣờng khoa cử. Mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là bà Nhữ Thị Thục. Bà là con gái của Nhữ Văn Lan, tiến sĩ triều Lê Thánh Tông. Bà là ngƣời phụ nữ có bản lĩnh khác thƣờng, học rộng biết nhiều lại giỏi tƣớng số và lí học. Bản thân Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi thi đỗ Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (tức trạng nguyên) khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dƣới triều Mạc, ông đƣợc phong tƣớc Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Với truyền thống khoa bảng của gia đình, bản thân lại là ngƣời đƣợc học hành bài bản và đỗ đạt cao, những yếu tố về xuất thân đó đã ảnh hƣởng đến việc sáng tác bằng song ngữ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Về cuộc đời, con người, trƣớc khi ra ứng thí và làm quan dƣới triều Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống ẩn cƣ một thời gian mấy mƣơi năm cùng bạn bè đọc sách, ngâm thơ. Sau khi đỗ đạt, ra làm quan, đƣợc thời ―xuất thế‖ Nguyễn Bỉnh Khiêm từng đem quân đi đánh dẹp khắp nơi để mang thái bình đến muôn dân nhƣ một nhà nho hành đạo. Nhƣng khi mất thời ―xử thế‖ ông dâng sớ xin chém mƣời tám lộng thần, không đƣợc chấp nhận ông đã cáo quan về quê dạy học, làm thơ, trở thành một nhà nho ẩn dật với biệt hiệu Bạch Vân cƣ sĩ, học trò tôn xƣng là Tuyết Giang phu tử. Thời kì dùi mài kinh sử trƣớc khi đi thi, ra làm quan với nhà Mạc, hay khi cáo quan về ẩn cƣ tại quê nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm có điều kiện sống cuộc đời nơi thôn dã và gắn bó với ngƣời dân. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc Bạch Vân cƣ sĩ sáng tác thơ bằng chữ Nôm và thơ Nôm của ông vừa bình dị vừa triết lí sâu sắc.
Về tư tưởng, quan niệm văn chương nghệ thuật, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hiện tƣợng phức tạp khi trong tƣ tƣởng của ông luôn có sự tồn tại của
67
ba học thuyết tƣ tƣởng và tôn giáo là Nho, Phật và Đạo. Quan niệm văn chƣơng của ông mang tính triết lí và giáo huấn cao. Đây là một điểm đáng chú ý trong sự thay đổi quan niệm về văn chƣơng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi từ trƣớc đến nay, khi viết về những đề tài trang nghiêm, trang trọng và tao nhã, những vấn đề về nói chí, chở đạo, giáo huấn ngƣời ta thƣờng sáng tác bằng chữ Hán, giờ đây ông lại viết bằng cả chữ Nôm.
3.2.2.2. Đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với hiện tượng song
ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại chi hậu thế khoảng 180 bài thơ viết bằng chữ Nôm, khoảng 800 bài thơ viết bằng chữ Hán và nhiều sấm kí khác. Sáng tác văn chƣơng của ông có một phong cách riêng rất độc đáo – phong cách triết gia.
Bảng 3.2a dƣới đây là kết quả khảo sát và thống kê số lƣợng tác phẩm theo thể loại ở cả thành phần sáng tác bằng chữ Hán và sáng tác bằng chữ Nôm của Bạch Vân cƣ sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bảng 3.2a Hiện tượng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm
STT THỂ LOẠI
1 Ký 2 Văn bia 3 Văn tế Thơ 4 Phú 5 SỐ LƢỢNG KHẢO SÁT 62 02 01 960 01 SÁNG TÁC CHỮ HÁN Số lƣợng 62 02 01 800 0 Tỉ lệ (%) 100 100 100 81,6 0 SÁNG TÁC CHỮ NÔM Số lƣợng 0 0 0 180 01 Tỉ lệ (%) 0 0 0 19,4 100
(Nguồn: Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập, Nxb Văn học, 2014).
Từ kết quả khảo sát có thể thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một tác gia song ngữ tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam. Ông sáng tác rất nhiều bằng chữ Hán với khoảng 800 bài thơ, 62 câu sấm ký, 02 bài văn bia, 1 bài văn tế. Ở địa hạt chữ Nôm ông chỉ đứng sau Nguyễn Trãi về số lƣợng tác phẩm ở thể loại thơ với khoảng 180 bài so 254 bài.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngƣời kế thừa và phát triển sự nghiệp sáng tác bằng song ngữ của Nguyễn Trãi ở giai đoạn mở đầu. Sáng tác bằng song ngữ
68
Hán Nôm sau Nguyễn Trãi và trƣớc Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có tác gia Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, phần sáng tác bằng chữ Nôm của Lê Thánh Tông vẫn chƣa xác định đƣợc đầy đủ, rõ ràng. Do đó, ở công trình này, chúng tôi tạm xếp Nguyễn Bỉnh Khiêm ở vị trí kế tục và phát triển sự nghiệp sáng tác bằng song ngữ của Nguyễn Trãi.
Điểm dễ nhận thấy nhất trong những đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với hiện tƣợng song ngữ đó là ông đã để lại một di sản văn chƣơng rất đồ sộ. Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập. Trong khi đó số lƣợng đơn vị tác phẩm trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập là khoảng 180 bài. Tác phẩm đƣợc đánh giá là một sự kế thừa và tiếp nối xứng đáng tập thơ Nôm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ở nửa đầu thế kỷ XV, đồng thời đánh dấu một bƣớc phát triển mới trên hành trình hoàn thiện của văn học viết Việt Nam bằng chữ Nôm.
Cũng giống nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngƣời đóng góp số lƣợng sáng tác chữ Nôm đáng kể với khoảng 180 bài thơ trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Đây cũng là tập thơ thể hiện những sự khác biệt nhất định đối với thể loại tƣơng ứng tiếp thu từ thơ Đƣờng luật. Những sự khác biệt đó là câu lục ngôn xen thất ngôn, luật, niêm và nhịp thơ nhƣ đã phân tích ở phần tác gia Nguyễn Trãi.
Bên cạnh đó, hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh
Khiêm có một số điểm khác đáng chú ý:
Thứ nhất, trong thơ chữ Hán, tính dân tộc thể hiện ở chỗ ông thƣờng vƣợt ra ngoài ―phong cách cao quý‖ của văn chƣơng bác học, để miêu tả một cách phong phú và đa dạng thiên nhiên đất nƣớc và cuộc sống của dân tộc ta, hay nói cách khác là bên cạnh những hình ảnh mang tính chất ƣớc lệ tƣợng trƣng của văn học trung đại nói chung, Bạch Vân am thi tập còn miêu tả một cách chân thực và sinh động thiên nhiên đất nƣớc và cuộc sống của ngƣời Việt. Chẳng hạn khi tả về cây bên cạnh những hình ảnh quen thuộc của thơ ca trung đại nhƣ tùng, cúc, trúc, mai, lan, liễu, hạnh, hòe, quỳ,… còn có chanh, cam, cau, mía,…
Thứ hai, ông viết văn tế bằng chữ Hán. Văn tế là một thể loại văn học chức năng mang tính lễ nghi, tập tục có nguồn gốc từ Trung Quốc. Vậy thì việc Nguyễn Bỉnh Khiêm viết văn tế bằng chữ Hán phải không có gì là lạ mới đúng. Thế nhƣng, theo chúng tôi khảo sát, văn học trung đại Việt Nam chỉ ghi
69
nhận hai bài văn tế viết bằng chữ Hán. Một bài là của Lƣỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi viết về một vị công chúa khi đi sứ với bốn chữ nhất (-) đã trở thành một giai thoại văn học nổi tiếng và một bài nữa chính là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đây rõ ràng là một sự khác biệt so với quy luật phát triển của thể loại văn tế.
Thứ ba, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp thu ảnh hƣởng của thi liệu Hán học và thi liệu văn học dân gian. Văn học dân gian là yếu tố dân tộc nên ở đây chúng tôi chỉ phân tích những ảnh hƣởng của yếu tố ngoại lai trong Bảng 3.2b dƣới đây. Bảng 3.2b Ảnh hưởng của thi liệu Hán học đối với thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm STT
THƠ NÔM NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1
Vời vợi xuân xanh nữa tiên, Già càng khỏe, khó càng bền.
(Thơ chữ Nôm: Bài 7)
THI LIỆU HÁN HỌC Trượng phu vi chí, cùng đương ích kiên, lão đương ích tráng (Kẻ trƣợng phu lập chí, lúc cùng càng phải bền vững, lúc già càng phải hang khỏe)
2 Bạch câu quá khích
(Bóng ngựa vụt qua khe cửa)
Tuổi đà ngoại tám mươi già, Thoăn thoắt xem bằng bóng ngựa qua. (Thơ chữ Nôm: Bài 16)
3 Hậu sinh khả úy (Luận ngữ) (Kẻ sinh sau là đáng sợ) Dẫu thấy hậu sinh thì dễ sợ, Sừng kia chẳng mọc, mọc hơn tai.
(Thơ chữ Nôm: Bài 43)
4
Cáo đội oai hùm mà nát chúng, Ruồi nương đuôi kí luống khoe người. (Thơ chữ Nôm: Bài 99)
Thương dăng phụ kí vĩ nhi chi thiên lý (Con nhặng xanh bám vào đuôi con ngựa ký mà đi đƣợc tới ngàn dặm)
Một đóng góp lớn, đóng góp riêng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là ông đã dùng chữ Nôm để triết lí và phản ánh thế sự. Thơ Nôm của Trạng Trình phản ánh cuộc đời dƣới lăng kính của một bậc hiền triết đạo cao đức trọng. Những biến đổi về cuộc đời và con ngƣời, đặc biệt là các giá trị đạo đức đƣợc nhà
70
thơ thể hiện mang tính chất ―thanh nghị‖ (vừa nghị luận, vừa phê phán) và giàu tính triết lí.
Nhìn chung, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một tác gia sáng tác bằng song ngữ tiêu biểu. Những đóng góp đối với hiện tƣợng song ngữ là tích cực và rất quan trọng. Nếu Nguyễn Trãi là ngƣời đặt nền móng cho sự phát triển vững chắc và mạnh mẽ của hiện tƣợng song ngữ thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngƣời xây những viên gạch thành bức tƣờng để đƣa hiện tƣợng song ngữ lên đỉnh cao trong thơ văn và thời đại của Nguyễn Du sau đó.
3.2.3. Nguyễn Du 3.2.3.1. Những yếu tố về thời đại, gia đình, cuộc đời và con người
có ảnh hưởng tới sáng tác bằng song ngữ
Về thời đại, Đại thi hào Nguyễn Du sinh ra trong thời đại có nhiều biến động dữ dội (cuối thế kỉ XVIII — đầu thế kỉ XIX). Xã hội phong kiến Việt Nam đã đi đến hồi kết của sự khủng hoảng, bƣớc vào giai đoạn suy vong. Nền kinh tế hàng hóa phát triển cho thấy sức mạnh của đồng tiền, cũng nhƣ tƣ tƣởng phóng khoáng của tầng lớp thị dân. Đồng tiền và quyền lực chi phối các giá trị của cuộc sống, trở thành một trong những nguyên nhân để vua quan tranh giành quyền lợi, chém giết lẫn nhau. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra liên tiếp, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn ―Một phen thay đổi sơn hà‖. Sau đó, phong trào Tây Sơn thất bại, chế độ phong kiến triều Nguyễn đƣợc thiết lập. Đại thi hào đã sống qua ba thời đại: Lê – Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn, trải qua những cuộc binh biến tàn khốc của các tập đoàn phong kiến và các cuộc khởi nghĩa đòi quyền sống của tầng lớp nông dân. Ông đã chứng kiến tận mắt cảnh bãi bể hóa nƣơng dâu, cảnh sống xa hoa, trụy lạc cũng nhƣ sự thống trị của giai cấp phong kiến, cảnh đau khổ vì nghèo đói, cảnh đày đọa và những áp bức bất công với đại đa số quần chúng nhân dân…
Chính những thay đổi kinh thiên động địa của lịch sử cũng khiến cuộc đời Nguyễn Du nhiều chao đảo, khi nƣơng nhờ anh trai cùng cha khác mẹ Nguyễn Khản, khi nƣơng nhờ anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn, khi lên Thái Nguyên, lúc về Thái Bình, khi ở Hà Tĩnh.... Những năm tháng lênh đênh với thời cuộc, với cuộc sống gian nan của chính mình cũng nhƣ chứng kiến cuộc sống của nhân dân, nhất là chứng kiến những nhiễu nhƣơng của xã hội khiến ông không khỏi giật mình thảng thốt: ―Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng‖. Đó chính là tiền đề, là vốn sống
71
quan trọng để ông phát huy tài năng thiên bẩm của mình sáng tạo nên những tác phẩm văn học có giá trị. Đặc biệt, những ngày tháng của ―mƣời năm gió bụi‖ sống gắn bó với ngƣời dân, ông có dịp học hỏi, thu lƣợm đƣợc nhiều vốn kinh nghiệm, ngôn ngữ dân gian. Đây là tri thức quý báu để góp phần tạo nên cốt cách riêng của nhà đại thi hào, ông đã thổi hồn thơ lục bát của dân tộc đạt đến trình độ tuyệt mỹ qua tác phẩm Truyện Kiều và các sáng tác chữ Nôm khác.
Về gia đình, Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765) tại phƣờng Bích Câu, thành Thăng Long (Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống nho học, khoa bảng và văn học. Ông từng làm quan đến chức Hữu tham tri bộ Lễ, có cha là Nguyễn Nghiễm và anh cả là Nguyễn Khản đều từng là Tể tƣớng trong triều. Đây là nhân tố có ảnh hƣởng lớn đến những sáng tác của ông viết bằng chữ Hán. Thân mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần - con gái thứ ba của một vị quan nhỏ coi việc sổ sách kế toán dƣới trƣớng Nguyễn Nghiễm, ngƣời xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn (nay là Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Bà là một phụ nữ nết na, thông minh, xinh đẹp và cũng là một ngƣời phụ nữ tài năng về văn chƣơng, nhất là văn học dân gian, lại là con gái vùng Kinh Bắc nên có nhiều ảnh hƣởng đến tâm hồn Nguyễn Du từ những ngày thơ bé. Đây có lẽ là một trong những yếu tố cơ bản có tác động đến những vần thơ của Tố Nhƣ viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình – tiếng Việt/chữ Nôm.
Về cuộc đời, con người Nguyễn Du có gần hai mƣơi năm bôn tẩu khắp trong Nam ngoài Bắc trƣớc khi ra làm quan với nhà Nguyễn. Đặc biệt là khoảng thời gian ―Mƣời năm gió bụi‖ (Thập tải phong trần) của cuộc đời mình đƣợc ông nhắc đến trong thơ.
Hơn mƣời năm chìm nổi long đong ở đất Bắc cũng là quãng thời gian Nguyễn Du sống gần gũi với nhân dân và thấm thía bao nỗi ấm lạnh của kiếp ngƣời, đặc biệt là ngƣời dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày... Những gì Nguyễn Du chứng kiến đã gieo vào tâm hồn ông những trải nghiệm quý báu trong tƣ tƣởng cũng nhƣ tình cảm. Và ở một phƣơng diện nào đó, có thể nói, chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã đem đến cho ông những tháng ngày từng trải, với vốn sống phong phú, góp phần đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du. Và đây cũng chính là yếu tố quan trọng dẫn đến trong thơ văn của nhà đại thi hào mang đậm dấu ấn lời ăn tiếng nói hàng ngày của ngƣời bình dân.
72
Về tư tưởng, quan niệm văn chương nghệ thuật, Nguyễn Du trƣớc hết là một nhà nho. Do đó, những tƣ tƣởng, quan niệm về văn chƣơng của Nho giáo chắc chắn có tác động đến việc lựa chọn sáng tác bằng song ngữ trong sự nghiệp công trình của Tố Nhƣ. Ông cũng là nhà nho có tƣ tƣởng thân dân sâu sắc. Những sáng tác của ông thƣờng thể hiện rất chân thực cuộc sống của nhân dân, ở ―những điều trông thấy‖ là cái nhìn rất nhân đạo, nhân văn. Đó cũng là cội rễ của tƣ tƣởng thân dân, của sự kết hợp lời ăn tiếng nói của nhân dân với ngôn ngữ bậc thầy ở một tác gia vĩ đại trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh mà tục gọi là Truyện Kiều. Câu cuối của tác phẩm này cũng để lại cho chúng ta nhiều suy nghĩ:
―Lời quê chắp nhặt dông dài Mua vui cũng đƣợc một vài trống canh‖ Một quan niệm văn chƣơng rất khiêm xƣng. Nguyễn Du coi Truyện Kiều chỉ là những lời của ngƣời nhà quê góp nhặt, tiêu khiển mà không coi đó là văn chƣơng đích thực. Đó là sự ―giả trang‖, ―mƣợn giọng‖ để tránh đi cái họa bút mực của một bậc đại nho dƣới thời phong kiến. Bên cạnh đó, ở đây còn một ý nghĩa nữa: Nguyễn Du viết Truyện Kiều là muốn hƣớng tới cả ngƣời đọc bình dân (ngƣời quê), cho nên ông viết chữ Nôm.
3.2.3.2. Đóng góp của Nguyễn Du đối với hiện tượng song ngữ trong
văn học trung đại Việt Nam
Nguyễn Du là tác giả song ngữ tiêu biểu nhất ở chặng đƣờng phát triển đến đỉnh cao của văn học Việt Nam trung đại nói chung và hiện tƣợng song ngữ nói riêng. Về số lƣợng, sáng tác văn học chữ Hán của ông có khoảng 252 đơn vị tác phẩm; sáng tác chữ Nôm có một truyện thơ có dung lƣợng lớn (Truyện Kiều - 3254 câu), hai bài văn tế (Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ - 98 câu; Văn tế thập loại chúng sinh - 184 câu), một bài thơ lục bát (Thác lời trai phường nón - 48 câu). Tất cả đều xứng đáng đƣợc xếp vào hàng kiệt tác. Trong đó, Truyện Kiều - tập đại thành của thi ca trung đại Việt Nam là đóng góp hết sức quan trọng của Nguyễn Du đối với hiện tƣợng song ngữ.
Kết quả khảo sát và thống kê số lƣợng tác phẩm theo thể loại ở cả sáng
tác chữ Hán và sáng tác chữ Nôm đƣợc trình bày trong Bảng 3.3 dƣới đây.
73
Bảng 3.3. Hiện tượng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Du
STT THỂ LOẠI
1 Thơ Đƣờng luật 2 Thơ cổ thể 3 Thơ lục bát 4 Thơ song thất lục bát 5 Văn tế 6 Truyện thơ SỐ LƢỢNG KHẢO SAT 246 03 01 01 01 01 SÁNG TÁC CHỮ HÁN Tỉ lệ Số (%) lƣợng 98,8 246 1,2 03 0 0 0 0 0 0 0 0 SÁNG TÁC CHỮ NÔM Tỉ lệ Số (%) lƣợng 0 0 0 0 100 01 100 01 100 01 100 01
Các sáng tác bằng chữ Hán là thơ, trong đó, đáng lƣu ý thơ cổ thể chỉ có ba bài là Long thành cầm giả ca, Thái Bình mại ca giả và Sở kiến hành. Thơ Đƣờng luật chiếm hầu hết thơ chữ Hán với 246/249 bài. Trong số này, đáng chú ý có những đề tài ông viết liên tục nhiều bài thơ nhƣ: Thương Ngô trúc chi ca (11 bài), Mộng đắc thái liên (5 bài), Tạp ngâm (4 bài), Biệt Nguyễn đại lang (3 bài),…
Các sáng tác bằng chữ Nôm số lƣợng đơn vị tác phẩm tuy không nhiều nhƣng dung lƣợng rất lớn (3584 câu). Bao gồm các thể loại truyện thơ với Truyện Kiều (3254 câu chiếm 90,7 %), văn tế với Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ (98 câu chiếm 2,7 %), thơ lục bát với Thác lời trai phường nón (48 câu chiếm 1,5 %), thơ song thất lục bát với Văn tế thập loại chúng sinh (184 câu chiếm 5,1 %).
Nói đến hiện tƣợng song ngữ trong Truyện Kiều tức là nói đến yếu tố Hán và yếu tố Nôm về ngôn ngữ ở tác phẩm này. Chúng ta đều biết rằng, Truyện Kiều là một tác phẩm văn chƣơng có sự kết hợp hài hòa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Ngôn ngữ bác học là yếu tố Hán với việc sử dụng chữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học đạt đến độ thuần thục và điêu luyện. Yếu tố Hán làm cho tác phẩm của Nguyễn Du trở nên diễm lệ, trang trọng và tao nhã. Trong khi đó, ngôn ngữ bình dân là yếu tố Nôm mà với từ Việt, khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Việc sử dụng với số lƣợng nhiều và sáng tạo thi liệu của văn học dân gian làm cho Truyện Kiều trở thành một tác phẩm vừa dung dị, mộc mạc gần với tâm hồn của quảng đại quần chúng nhân dân (xem Phụ lục 10 và Phụ lục 11).
74
Hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Du còn đáng chú ý ở thể loại văn tế. Văn tế là một thể loại văn học chức năng có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tuy nhiên, qua khảo sát chúng tôi thấy rằng thể loại văn tế trong văn học trung đại Việt Nam chủ yếu đƣợc viết bằng chữ Nôm. Có lẽ vì thể loại này ban đầu đƣợc sử dụng để khóc ngƣời chết mà ngƣời Việt không thể khóc bằng tiếng Hán đƣợc nên phải viết bằng chữ Nôm. Vả lại từ Việt thƣờng mang sắc thái biểu cảm, gần gũi, thân mật hơn so với từ Hán Việt. Thứ hai, khi văn tế không dùng cho mục đích khóc ngƣời chết mà để khóc ngƣời sống thì nó lại mang tính chất trào lộng thì lại vẫn viết bằng chữ Nôm.
Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh) là bài văn tế đƣợc dùng để tế cô hồn trong lễ Vu Lan cùng với Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ dài 98 câu. Điều này chúng tỏ, với một tài năng lớn, uyên bác nhƣ Nguyễn Du chữ Nôm vẫn có thể đi vào địa hạt của văn học chức năng một cách xuất sắc và tài tình đến thế.
Có thể nói, Nguyễn Du có đóng góp rất quan trọng đối với hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định tài năng của một bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ, dùng chữ Nôm để tự sự và trữ tình. Ông cũng khẳng định đƣợc tài năng văn chƣơng viết bằng ngôn ngữ dân tộc đƣợc thể hiện rất thành công ở một thể loại văn học chức năng đó là văn tế. Nguyễn Du chính là ngƣời đƣa hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam phát triển đến đỉnh cao.
3.2.4. Cao Bá Quát 3.2.4.1. Những yếu tố về thời đại, gia đình, cuộc đời và con người
có ảnh hưởng tới sáng tác bằng song ngữ
Về thời đại, Cao Bá Quát sinh ra và lớn lên trong buổi triều đình nhà Nguyễn đã đi vào giai đoạn ổn định và phát triển. Triều đình nhà Nguyễn với tƣ cách là triều đại thay thế nhà Nguyễn Tây Sơn đã thi hành nhiều chính sách đi ngƣợc lại với những thành tựu đƣợc triều đại Tây Sơn đặc biệt là hoàng đế Quang Trung gây dựng. Trong đó, việc coi trọng chữ Hán và xem nhẹ chữ Nôm có lẽ là một tác nhân ảnh hƣởng đến văn học đƣơng thời trong đó có sáng tác của Cao Bá Quát. Đây có thể là nguyên nhân chính của việc lựa chọn chữ Hán trong hầu hết các sáng tác của Chu Thần tiên sinh.
75
Về gia đình, Cao Bá Quát (1809 – 1855), tên chữ là Chu Thần, hiệu là Cúc Đƣờng và Mẫn Hiên, ngƣời làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống về nghề y nhƣng không đỗ đạt gì. Nhƣng thân phụ là Cao Bá Tham muốn các con của mình sau này sẽ là những bậc hiền thần, nên đã đặt tên cho hai ngƣời con sinh đôi của mình là Cao Bá Đạt và Cao Bá Quát. Bản thân ông là một ngƣời nổi tiếng thông minh, văn hay chữ tốt từ lúc nhỏ. Việc đƣợc học hành bài bản lại văn hay chữ tốt có tác động đến việc lựa chọn chữ Hán là văn tự sáng tác chủ yếu trong sự nghiệp văn chƣơng của ông.
Về cuộc đời, con người, Cao Bá Quát, ngay từ ngày còn nhỏ đã nổi tiếng thông minh, học giỏi. Ông đậu cử nhân năm 1831 nhƣng thi Hội nhiều lần đều không đỗ. Theo Nguyễn Lộc, ―những năm đeo đẳng việc thi cử, Cao Bá Quát sống thiếu thốn, chật vật. Bài Tài tử đa cùng phú phản ánh khá rõ quãng đời này của tác giả‖[100, tr.552]. Bài phú chính là thành công lớn nhất của tài năng văn chƣơng Cao Bá Quát, về khả năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc, đƣợc ghi bằng chữ Nôm. Cuộc sống long đong kéo dài suốt nhiều nhiều năm, ông có dịp gần gũi, cảm và thấu hiểu với cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, với văn chƣơng bình dân viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Đây có lẽ cũng là nguồn cảm hứng để ông sáng tác những bài hát nói. Số lƣợng các sáng tác bằng chữ Nôm của Cao Bá Quát không nhiều nhƣng chỉ với thể hát nói và bài phú Tài tử đa cùng cũng có thể xếp Cao Bá Quát với tƣ cách là một trong những tác giả song ngữ tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam.
Tư tưởng, quan niệm văn chương nghệ thuật của Cao Bá Quát đƣợc thể hiện trực tiếp bằng cách nghị luận về các tác phẩm văn chƣơng. Đôi khi lại đƣợc ông thể hiện một cách dán tiếp thông qua việc xây dựng những hình tƣợng nghệ thuật. Liên quan đến vấn đề song ngữ là những lời bàn của ông về mối quan hệ giữa văn chƣơng và quốc ngữ (chữ Nôm). Trong ―Đệ bát tài tử Hoa tiên ký diễn âm hậu tự‖, quan điểm của Cao Bá Quát thực rõ ràng về quốc ngữ. Ông viết: ―Sống ở đất này, có thể bỏ đƣợc tiếng quốc ngữ không? Không bỏ đƣợc. Đọc sách quốc ngữ, có thể bỏ đƣợc Truyện Hoa tiên và Kim Vân Kiều không? Không bỏ đƣợc. Ôi, ngƣời xƣa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp, cốt để chắp lòng nối cánh cho văn chƣơng của ta, mà lại coi thƣờng đƣợc sao?‖ [95, tr.1684].
76
Một mặt ông thận trọng suy nghĩ: ―Than ôi, lấy quốc ngữ làm văn chƣơng thì ta chƣa dám, nhƣng lấy văn chƣơng mà coi quốc ngữ thì ta có phần tán thành‖ [124, tr.1684]. Nhƣng mặt khác ông đã thấy quá trình văn Nôm phát triển: ―Nƣớc ta từ sau Hàn Thuyên, các tác gia mọc lên nhƣ rừng: Ôn Nhƣ Hầu làm thơ cổ khuôn mẫu ngang với Thiếu Lăng; Bằng quận công đặt điệu cung từ, giong ruỗi không nhƣờng Hán Nguỵ; đến nhƣ văn hay của truyện khúc nay ta đã đƣợc thấy Hoa Tiên và Kim Vân Kiều. Nhƣ vậy chỉ coi quốc ngữ là quốc ngữ thì hai cuốn truyện này không có cũng đƣợc, nhƣng nếu phải cần tiến lên, tìm cách làm cho rõ thế nào là văn chƣơng của ta, thì các bạn cùng yêu văn với ta nghĩ sao đây?‖ [124, tr.1685] thì có vẻ nhƣ ông còn lƣỡng lự. Thế nghĩa là lấy văn chƣơng mà đánh giá quốc ngữ thì ông có phần tán thành, bởi vì đã có Hoa Tiên và Kim Vân Kiều làm chứng. Nhƣng lấy quốc ngữ làm văn chƣơng thì ông vẫn cẩn trọng. Vả chăng sáng tác văn chƣơng bằng quốc ngữ đối với Cao là khó, là ―chƣa dám chăng?‖
Có thể khẳng định rằng, mặc dù ―chƣa dám‖ viết văn chƣơng chữ Nôm đã hạn chế sáng tác chữ Nôm của nhà thơ, song quan niệm thích tự do, trọng cá tính sáng tạo là nhân tố cơ bản làm nên giá trị tƣ tƣởng và nghệ thuật của thơ Cao Bá Quát. Nhìn chung, quan niệm văn chƣơng của Cao Bá Quát về cơ bản là quan niệm văn học nho gia.
3.2.4.2. Đóng góp của Cao Bá Quát đối với hiện tượng song ngữ
trong văn học trung đại Việt Nam
Sáng tác văn chƣơng của Cao Bá Quát bị thất lạc nhiều, hiện còn khoảng 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong số này về chữ Nôm, có 16 bài hát nói, 14 bài thơ Đƣờng luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lƣợng thơ nhiều hơn, đƣợc tập hợp trong các tập: Cao Bá Quát thi tập; Cao Chu Thần di thảo; Cao Chu Thần thi tập; Mẫn Hiên thi tập.
Dƣới đây là Bảng 3.4 về thống kê số lƣợng tác phẩm theo thể loại cả sáng tác chữ Hán và chữ Nôm của Cao Bá Quát (nguồn Cao Bá Quát toàn tập, tập 1 và tập 2).
77
Bảng 3.4. Hiện tượng song ngữ trong sáng tác của Cao Bá Quát
STT THỂ LOẠI SỐ LƢỢNG KHẢO SÁT
1 Thơ 2 Ký 3 Truyện 4 Hát nói 5 Câu đối Phú 6 1.353 11 10 16 04 01 SÁNG TÁC CHỮ HÁN Tỉ lệ Số (%) lƣợng 99 1.339 100 11 100 10 0 0 25 1 0 0 SÁNG TÁC CHỮ NÔM Tỉ lệ Số (%) lƣợng 1 14 0 0 0 0 100 16 75 3 100 01
Kết quả khảo sát cho thấy Cao Bá Quát không phải là một tác giả song ngữ tiêu biểu vì có một sự chênh lệch rất lớn về số lƣợng đơn vị tác phẩm viết bằng chữ Hán và số lƣợng tác phẩm viết bằng chữ Nôm. Điều này cũng không lấy gì làm lạ khi ông sinh ra và lớn lên lúc nhà Nguyễn mới thiết lập lại địa vị thống trị sau khi để giang sơn rơi vào tay nhà Tây Sơn. Mà chúng ta đều biết rằng nhà Tây Sơn chủ trƣơng dùng chữ Nôm nên nhà Nguyễn không muốn ngƣời trong nƣớc nhớ về triều đại cũ nên tìm mọi cách hạn chế việc sử dụng chữ Nôm và coi trọng chữ Hán.
So với các nhà thơ khác, Cao Bá Quát là ngƣời sử dụng khá nhiều loại thơ cổ thể trƣờng thiên. Đối với ông, thể tài này tƣơng đối tự do và có dung lƣợng lớn, thích hợp với những tứ thơ hào mại, sảng khoái. Nhà thơ cũng sử dụng nhiều thể thơ Đƣờng luật. Ở thể loại này ta thấy nhiều khi một đề tài ông phải làm đến năm ba bài thơ Đƣờng luật. Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy nhiều bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát có tiêu đề rất dài nhƣ: ―Chí nhật hốt ức niên tiền Phạm Đôn Nhân dữ Hà Các Lão sổ công dạ chƣớc liên cú, nhục kí tệ sở. Hất kim phủ sự khái vãng tâm nhƣ hà dã? Hệ chi dĩ thi, dụng chí cựu hảo‖ (Ngày đông chí bỗng nhớ năm trƣớc Phạm Đôn Nhân cùng Hà Các Lão và các bạn đêm uống rƣợu mỗi ngƣời một câu ghép thành thơ, nhã ý gửi đến tệ sở. Đến nay công việc vỗ về bất đắc dĩ đã qua, lòng sao đây? Lấy thơ để gắn bó liên hệ, dụng tâm với mối giao hảo cũ), ―Khách phục hữu thỉnh canh phú giả. Niệm tự đắc cấm hậu, khôn ƣ thử vật giả, mỹ nhật y tịch tuần vi lãm
78
phận, thậm chi bất khả ƣ đôn dã. Trung dạ ngẫu dịch chính mông chi chỉ, hốt cảm thử vật, ninh phi trợ ngã thâm giả, triếp phục hô nhi dữ chi. Nhân dĩ miễn tha, diệc liêu dĩ cảnh ngã dã‖ (Khách lại có lời mời làm thêm bài thơ khác. Nhớ lại từ sau khi đƣợc vào nhà giam, rất khốn khổ về ―cái của nợ‖ ấy – nó làm lãng phí ngày đêm. Xem cái phận mình vì trái khuôn phép triều đình, rất biết không còn gì để nói nữa. Nửa đêm ngẫu nhiên tìm ra đầu mối, chính là đội ơn chiếu chỉ (nhà vua), bỗng nhiên có cảm về cái vật này. Thà rằng không ai giúp ta trong lúc tối tăm này bèn gọi mà cho quách nó đi thay vì khích lệ nó, song cũng là tạm thời cảnh tỉnh cho ta vậy‖,… Tính chất ―kể sự‖, dùng chữ Hán để tự sự bằng thơ đƣợc thể hiện ngay trên tiêu đề bài thơ.
Đó là một biểu hiện về sự phong phú, dồi dào trong cảm xúc của nhà thơ nhƣng đồng thời cũng cho thấy, thể thơ Đƣờng luật gò bó đến mức có thể mô hình hóa, công thức hóa không thể giải tỏa hết đƣợc hồn thơ và nỗi lòng của một nhà thơ lớn nhƣ Cao Bá Quát.
Mảng thơ văn viết bằng chữ Nôm, nhƣ đã đề cập ở trên gồm có 16
bài hát nói, thơ Đƣờng luật 14 bài, 03 câu đối và 01 bài phú Tài tử đa cùng.
Đáng chú ý trong số này là bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh
khốn cùng). Một bài phú mang tính chất tự trào, tự thuật, trào lộng rất thú vị.
Mở đầu là lời tự thuật: Có một người: Khổ dạng trâm anh; Nết na chương phủ. Hoi miệng sữa tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân, Dương! Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, lời khí khái hẹn hò Y, Phó. Nghiêng gợn sóng vẽ vời điển tịch, nét nhạn điểm lăn tăn! Bút vén mây dìu dặt văn chương, vòng thuyền khuyên lỗ chỗ.
Kết thúc bằng tự trào:
Vậy có lời nôm dặn bảo thế gian rằng: Đừng thấy người bạch diện thư sinh; Mà cười rằng “đa cùng tài tử”.
Phú là một thể loại văn học nghệ thuật tiếp thu từ Trung Quốc. Đặc trƣng của phú về nội dung là ―phô bày, tả vật, nói chí‖ với tính chất tán tụng là chủ yếu. Về nghệ thuật là đặc trƣng ―phô trƣơng văn vẻ‖ với thủ pháp khoa trƣơng, phóng đại và gọt giũa câu từ. Tuy nhiên, khi vào Việt Nam, phú đã
79
vận động biến đổi đặc trƣng tán tụng này và đƣợc đƣa vào thể hiện một số nội dung tự trào, tự thuật nhƣ Cư trần lạc đạo phú (Phú ở cõi trần vui với đạo) của Trần Nhân Tông, Phú hỏng thi, Phú thầy đồ dạy học của Trần Tế Xƣơng, thậm chí dùng để phê phán, tố cáo nhƣ Phú kể tội giặc Pháp của Phạm Quang Nghị. Những bài phú có những nội dung mang tính tự trào, tự thuật, trào lộng, phê phán hay tố cáo thƣờng đƣợc viết bằng chữ Nôm. Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát cũng vì thế mà nằm chung trong quy luật này. Ngƣợc lại, những bài phú mang tính chất tán tụng thƣờng đƣợc viết bằng chữ Hán nhƣ Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) của Trƣơng Hán Siêu, Chí Linh sơn phú (Chùm phú về núi Chí Linh) của các văn thần đời Lê Thái Tổ,…
Nhƣ vậy, Cao Bá Quát có những đóng góp nhất định và làm phong phú thêm hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Thơ chữ Hán của ông mang tính ―kỉ sự‖, dùng chữ Hán để tự sự bằng thơ. Trong khi đó, chữ Nôm ông dùng để ―tự tình‖ khi viết phú và hát nói.
3.2.5. Nguyễn Khuyến 3.2.5.1. Những yếu tố về thời đại, gia đình, cuộc đời và con người
có ảnh hưởng tới sáng tác bằng song ngữ
Về thời đại, Nguyễn Khuyến sinh ra, lớn lên và đặc biệt là làm quan, sáng tác văn chƣơng trong bối cảnh xã hội buổi giao thời. Nhà Nguyễn từng bƣớc nhƣợng bộ và cuối cùng dâng nƣớc ta cho thực dân Pháp. Nƣớc ta trở thành một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến. Dƣới xã hội đó, những giá trị văn hóa truyền thống vẫn chƣa hoàn toàn mất đi nhƣng cũng đã xuất hiện những cái mới, nhất là các giá trị văn hóa phƣơng Tây. Đây có thể là một trong những yếu tố tạo nên hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ ở Nguyễn Khuyến. Trong đó, sáng tác chữ Hán vẫn thiên về những giá trị đạo đức truyền thống và đƣợc thể hiện chủ yếu ở mảng thơ trữ tình còn sáng tác chữ Nôm thiên về phản ánh những nhố nhăng, kệch cỡm của cái mới với những vần thơ hiện thực trào phúng.
Về gia đình, Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), lúc nhỏ tên là Nguyễn Thắng sinh tại làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Ðịnh, lớn lên sống ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, không đỗ đạt gì. Cha ông là Nguyễn Tông Khởi thi đỗ ba khoa tú tài nên còn gọi là Mền Khởi. Bản thân Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một ngƣời thông minh, hiếu học, đƣợc đào tạo bài bản trong nhà trƣờng
80
phong kiến. Sau đó, Nguyễn Khuyễn từng đỗ đầu ba kỳ thi Hƣơng, thi Hội và thi Đình nên còn đƣợc gọi với cái tên Tam nguyên Yên Đổ. Ông làm quan hơn mƣời năm dƣới triều Tự Đức, trải qua nhiều chức vụ nhƣ Toản tu Quốc sử quán, Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, Bố chính Quảng Ngãi,… Nguồn gốc xuất thân là một trong những nhân tố có tác động đến việc sáng tác bằng song ngữ ở Nguyễn Khuyến.
Về cuộc đời, con người, Nguyễn Khuyến là một môn sinh xuất sắc của nhà trƣờng phong kiến, một nhà nho ƣu tú về phẩm hạnh cũng nhƣ về học vấn nhƣng ông cũng là nạn nhân của tƣ tƣởng Nho giáo khi nó đã lâm vào tình trạng phá sản. Cuộc đời ông là một bi kịch – bi kịch giữa lí tƣởng và hiện thực. Trong khi lí tƣởng mà Nguyễn Khuyến đeo đuổi là lí tƣởng trị nƣớc an dân, trí quân, trạch dân, kinh bang tế thế của một nhà nho hành đạo, nhƣng hiện thực đất nƣớc lại không cho phép ông có thể thi triển những lí tƣởng ấy. Trong ông luôn diễn ra nỗi mặc cảm về sự bất lực, mặc cảm trƣớc trách nhiệm đối với đất nƣớc, dân tình của một trí thức chân chính, luôn trăn trở về sự lỗi thời của vai trò mình đang sắm. Điều này có tác động tới việc lựa chọn sáng tác song ngữ của Nguyễn Khuyến.
Về tư tưởng, quan niệm văn chương nghệ thuật, Nguyễn Khuyến là một nhà nho, một ngƣời đƣợc đào tạo bài bản trong nhà trƣờng nho học và đỗ đạt cao. Vì thế, tƣ tƣởng Nho giáo ăn sâu và bén rễ trong Nguyễn Khuyến. Do đó, thơ văn chữ Hán của Nguyễn Khuyến cho thấy một sự uyên thâm Hán học với nhiều điển tích, điển cố và thi liệu văn học Trung Quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Nguyễn Khuyến lại có đƣợc phần lớn cuộc đời gắn bó với nông thôn và ngƣời nông dân nên ông cũng có tƣ tƣởng thân dân rất sâu sắc. Đó cũng là lí do, sáng tác của Tam nguyên Yên Đổ rất giàu lời ăn tiếng nói của ngƣời thôn quê trong sáng tác bằng chữ Nôm.
3.2.5.2. Đóng góp của Nguyễn Khuyến đối với hiện tượng song ngữ
trong văn học trung đại Việt Nam
Quế sơn thi tập có khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ông viết bằng chữ Nôm rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó để xác định bài nào dịch từ Hán sang Nôm và ngƣợc lại, vì chúng đều rất điêu luyện.
Trong thành phần thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng
81
vừa là nhà thơ trữ tình, thấm đậm tƣ tƣởng Lão Trang và triết lý Đông Phƣơng. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên hai lĩnh vực sáng tác Hán và Nôm, Nguyễn Khuyến đều thành công.
Dƣới đây là Bảng 3.5 thống kê số lƣợng tác phẩm theo thể loại của
Nguyễn Khuyến cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm.
Bảng 3.5.a. Hiện tượng song ngữ trong sáng tác của Nguyễn Khuyến
SÁNG TÁC CHỮ HÁN SÁNG TÁC CHỮ NÔM STT THỂ LOẠI
1 Thơ Đƣờng luật 2 Văn tế 3 Hát nói 4 Câu đối Phú 5 Tự dịch từ Hán sang Nôm và ngƣợc lại Số lƣợng 24 0 0 02 0 Tỉ lệ (%) 3,3 0 0 3,6 0 Số lƣợng 200 0 0 13 0 Tỉ lệ (%) 66,7 0 0 23,2 0 Số lƣợng 100 01 03 43 01 Tỉ lệ (%) 33,3 100 100 76,8 100
Nguyễn Khuyến là tác giả song ngữ tiêu biểu ở chặng đƣờng kết thúc văn học trung đại Việt Nam. Ông cũng là tác giả kép lại hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ Hán – Nôm của nền văn học chịu ảnh hƣởng của ý thức hệ giai cấp phong kiến và thi pháp văn học trung đại. Bởi cùng thời với Tam nguyên Yên Đổ có Nguyễn Đình Chiểu ở trong Nam và Trần Tế Xƣơng ở ngoài Bắc là những thi sĩ tiêu biểu của hai dòng chủ lƣu của văn học thời đại ông: Khuynh hƣớng văn học yêu nƣớc chống Pháp và khuynh hƣớng hiện thực, trào phúng. Hai tác giả này, một ngƣời có một sáng tác bằng chữ Hán (Nguyễn Đình Chiểu với bài Điếu Phan Thanh Giản) còn ngƣời kia không để lại sáng tác nào bằng chữ Hán. Đóng góp đầu tiên phải kể đến là số lƣợng tác phẩm của Nguyễn Khuyến với khoảng 200 bài thơ viết bằng chữ Hán và khoảng 100 bài thơ viết bằng chữ Nôm. Bên cạnh đó còn có khoảng 24 bài thơ đƣợc viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và dịch ngƣợc lại chƣa thể phân biệt đƣợc vì nó cho thấy sự thuần thục đến điêu luyện của tài năng thơ Nguyễn Khuyến. Cùng với đó, Nguyễn Khuyến có một số lƣợng đáng kể các câu đối vừa Hán vừa Nôm và cả câu đối đƣợc viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm và dịch
82
ngƣợc lại ở một thể loại mà ông đƣợc đánh giá là ―cự phách nhất‖ trong văn học trung đại Việt Nam. Thứ hai, theo Xuân Diệu trong Các nhà thơ cổ điển Việt Nam thì ―Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm‖ [36, tr.174]. Đó cũng là một trong những đóng góp quan trọng của Tam nguyên Yên Đổ đối với hiện tƣợng song ngữ. Trong chùm ba bài thơ thu này, Nguyễn Khuyến đã sử dụng ngôn ngữ dân tộc viết nên ba bức tranh mùa thu tuyệt đẹp vừa mang đặc trƣng chung của mùa thu trong thi ca trung đại nói chung nhƣng cũng rất chân thực, sinh động, rất Việt Nam. Dƣới đây là bảng phân tích yếu tố Hán và Nôm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến.
Bảng 3.5.b. Yếu tố Hán và Nôm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến
Yếu tố Hán
Thu vịnh
Yếu tố Nôm Thu điếu
Thu ẩm
- Nhan đề: Thu vịnh, thu điếu thu ẩm -> những thi đề quen thuộc của thơ ca trung đại - Thi liệu (những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca trung đại) + Thu thiên (trời thu)
Trời thu xanh ngắt
Hoa năm ngoái
Trời thu xanh ngắt Ao thu lạnh lẽo Lá vàng
Trời thu xanh ngắt Làn ao lóng lánh
Ngỗng nƣớc nào
Đóm lập lòe
Màu khói nhạt Bóng trăng loe
Song thƣa để mặc bóng trăng vào
+ Thu thủy (nƣớc thu) Nƣớc biếc + Thu hoa (hoa thu) + Thu diệp (lá thu) + Thu điểu (chim mùa thu) + Thu sƣơng (sƣơng thu) Tầng khói phủ + Thu nguyệt (trăng thu) + Thảo đƣờng (nhà cỏ)
+ Ngâm ông (nhà thơ) Nhân hứng cũng
Năm gian nhà cỏ thấp le te
83
Yếu tố Hán
Yếu tố Nôm Thu điếu
Thu ẩm
Thu vịnh vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào
+ Ngƣ ông (ông chài)
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đƣợc Cá đâu đớp động dƣới chân bèo
Độ năm ba chén đã say nhè
+ Túy ông (ngƣời uống rƣợu) - dấu ấn Đƣờng thi + Luật, niêm đối + Bút pháp lấy động tả tĩnh - Ngôn ngữ: Sử dụng điển cố Đào Tiềm
- Sử dụng chữ Nôm: vừa bình dị, vừa trau chuốt, điêu luyện
Chùm thơ thu nói riêng và thơ Nôm Nguyễn Khuyến nói chung cho thấy tiếng Việt/chữ Nôm trong thơ ông vừa bình dị, vừa trau chuốt, điêu luyện. Thứ ba, đóng góp của Nguyễn Khuyến đối với hiện tƣợng song ngữ chính là những tác phẩm song ngữ Hán – Nôm liên hoàn. Ông sáng tác bằng chữ Hán rồi tự mình dịch ra chữ Nôm hoặc ngƣợc lại. Một dạng diễn ngôn với hai hình thức diễn đạt. Khi nghiên cứu về vấn đề này, Biện Minh Điền cho rằng ―hiện tƣợng song ngữ trong sáng tác Nguyễn Khuyến là một hiện tƣợng đáng đƣợc đặc biệt chú ý‖ bởi theo ông hiện tƣợng song ngữ ở Nguyễn Khuyến không chỉ dừng lại ở việc sáng tác bằng cả hai thứ tiếng Hán và Việt mà còn đặc biệt là ở chỗ ―Tam nguyên Yên Đổ sáng tác bằng chữ Hán rồi tự ―dịch‖ sang chữ Nôm hoặc ngƣợc lại từ Nôm sang Hán‖ [45, tr.317]. Đúng là so với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du thì Nguyễn Khuyến có điều đặc biệt hơn. Nguyễn Khuyến không chỉ đơn thuần dùng song ngữ Hán và Nôm trong sáng tác mà còn sáng tác bằng chữ Hán rồi tự ―dịch‖ sang chữ Nôm hoặc ngƣợc lại. Số tác phẩm này không phải chỉ dăm bài mà đến ngót ba chục (24 bài thơ và 02 câu đối). Rõ ràng đây không phải là tác giả ngẫu hứng làm chơi mà phải xuất phát từ ý thức thẩm mĩ, xuất phát từ tƣ tƣởng và quan niệm văn chƣơng của ông.
84
Nguyễn Khuyến là ngƣời khép lại nền văn học chịu ảnh hƣởng của ý thức hệ phong kiến và thi pháp văn chƣơng thời trung đại trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông cũng là ngƣời kết thúc cho hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ. Điều đáng chú ý trong sự nghiệp văn chƣơng của Nguyễn Khuyến là những sáng tác song ngữ liên văn bản. Nhƣng dù là sáng tác chữ Hán hay chữ Nôm, ngôn ngữ thơ của ông đều rất điêu luyện, trau chuốt mà vẫn gần gũi, bình dị.
3.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA LOẠI HÌNH TÁC GIẢ SONG NGỮ Loại hình tác giả song ngữ với xuất thân nho học và khoa bảng Một điều dễ nhận thấy là hầu hết các tác giả sáng tác bằng song ngữ đều xuất thân trong gia đình có truyền thống nho học, khoa bảng, có truyền thống thi thƣ. Bản thân họ là các nhà nho, đƣợc đào tạo một cách bài bản trong nhà trƣờng phong kiến, nhiều ngƣời đỗ đạt cao và làm quan trong triều nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến.
Trong số này, tiêu biểu có thể kể đến Nguyễn Trãi từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) và làm đến chức Nhập nội hành khiển. Ông cũng xuất thân trong gia đình có truyền thống yêu nƣớc và truyền thống văn học. Cụ tổ nhiều đời là Nguyễn Bặc là một danh tƣớng dƣới triều Đinh Tiên Hoàng; Một ngƣời khác trong dòng tộc là Nguyễn Thuyên, ngƣời khởi xƣớng phong trào sáng tác thơ ca bằng quốc âm (chữ Nôm); Ông ngoại Nguyễn Trãi là Đại tƣ đồ Trần Nguyên Đán cũng là thi sĩ nổi tiếng cuối triều Trần.
Nguyễn Bỉnh Khiêm từng thi đỗ Trạng nguyên và làm quan đến tƣớc Trình quốc công. Ông chịu ảnh hƣởng nhiều từ bên ngoại đặc biệt là về lí học. Ông ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Tiến sĩ Nhữ Văn Lan và mẹ ông là Nhữ Thị Thục là những ngƣời giỏi lí học đƣơng thời.
Nguyễn Du làm quan đến chức Hữu tham tri bộ Lễ, có cha là Nguyễn Nghiễm và anh cả là Nguyễn Khản đều từng là Tể tƣớng trong triều. Gia tộc của Nguyễn Du – họ Nguyễn là Tiên Điền nổi tiếng là gia tộc có truyến thống khoa bảng và truyền thống văn học.
Nguyễn Khuyến đƣợc học hành bài bản trong nhà trƣờng phong kiến,
thi đỗ Tam nguyên và cũng làm nhiều chức quan to trong triều,…
Loại hình tác giả song ngữ gắn với bối cảnh lịch sử, xã hội buổi
giao thời
Nhiều tác giả sáng tác bằng song ngữ đều sống và hoạt động trong giai đoạn giao thời của các triều đại; Giai đoạn kiến tạo, xây dựng và phát triển đất
85
nƣớc hoặc triều đại phong kiến sau những năm chống ngoại xâm hoặc nội loạn và ngƣợc lại.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), là nhân chứng của việc Hồ Quý Ly thoán ngôi, ngƣời trải qua hai mƣơi năm dƣới ách thống trị của giặc Minh, cũng là một trong những ngƣời kiến tạo nền thái bình sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là ngƣời chứng kiến cảnh tranh giành quyền lực trong tông thất nhà Hậu Lê. Hết vua quỷ Lê Uy Mục bạo ngƣợc lại đến vua lợn Lê Tƣơng Dực dâm bôn. Và sau khi Thái Tổ Mạc Đăng Dung phế bỏ nhà Lê lập ra nhà Mạc, ông đã ra làm quan với nhà Mạc. Trong số các tác giả sáng tác bằng song ngữ, Nguyễn Du (1766 – 1820) có lẽ là ngƣời chứng kiến sự thay tên đổi chủ của giang sơn, đất nƣớc một cách ghê gớm nhất. Phong trào Tây Sơn đã quét sạch tập đoàn Lê, Trịnh nhƣng Tây Sơn cũng nhanh chóng sụp đổ để nhƣờng chỗ cho nhà Nguyễn.
Trong khi đó, Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) lại là nhân chứng của một triều đại phong kiến đang đi vào con đƣờng sụp đổ, nƣớc ta rơi vào tay giặc Pháp xâm lƣợc ở những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Khi ấy nƣớc ta trở thành nƣớc thuộc địa nửa phong kiến. Đấy là một xã hội chƣa định hình; chế độ phong kiến đang lụi tàn dần còn xã hội tƣ bản thì cũng chƣa rõ rạng. Một buổi giao thời với những giá trị truyền thống đang lùi vào dĩ vãng thay vào đó là những giá trị mới đến theo những kẻ xâm lƣợc mà chƣa đƣợc chấp nhận trong ngày một ngày hai. Và đó cũng là nguồn cơn của thơ trào phúng Nguyễn Khuyến.
Loại hình tác giả song ngữ gắn với kiểu nhà nho hành đạo và nhà
nho ẩn dật
Các tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đều có một chặng đƣờng học hành, đỗ đạt và ra làm quan để thi hành lý tƣởng tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ, lý tƣởng kinh bang tế thế, trí quân trạch dân của một nhà Nho hành đạo. Đồng thời, trong cuộc đời họ cũng có những khoảng thời gian gắn bó sâu sắc với nhân dân của một nhà Nho có tƣ tƣởng thân dân, một nhà Nho ẩn dật sống gần những con ngƣời bình thƣờng, lam lũ.
Một ngƣời anh hùng dân tộc rong ruổi khắp đất nƣớc đánh giặc, một vị quan thanh liêm, cần mẫn vì sự nghiệp lo cho dân cho nƣớc nhƣ Nguyễn Trãi cũng có khoảng thời gian ẩn dật ở Côn Sơn khi không đƣợc thời để thực hiện ƣớc mơ, lý tƣởng.
86
Một Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm đi đánh dẹp khắp nơi để mang thái bình đến muôn dân và cũng chính con ngƣời ấy khi dâng sớ xin chém mƣời tám lộng thần không đƣợc chấp nhận đành cáo quan về quê sống cuộc đời ẩn dật, dạy học, làm thơ mà ngƣời đời thƣờng biết tới những cái tên nhƣ Bạch Vân cƣ sĩ hay Tuyết Giang phu tử.
Nguyễn Du lại có gần hai mƣơi năm bôn tẩu khắp trong Nam ngoài Bắc trƣớc khi ra làm quan với nhà Nguyễn. Nguyễn Khuyến đỗ đạt cao, đƣợc ngƣời đời gọi là Tam nguyên Yên Đổ cũng có hơn mƣời năm làm quan và khó khăn lắm trong quyết định cáo quan về ở ẩn khi đang ở đỉnh cao danh vọng.
Với Nguyễn Khuyến, cái đáng chú ý không phải là làm quan mà là từ quan. Ông có một khoảng thời gian rất lâu (khoảng hai mƣơi lăm năm) sống ở nông thôn và gắn bó với ngƣời nông dân. Điều này, tác động đến việc lựa chọn sáng tác song ngữ Hán – Nôm của loại hình tác giả này.
Loại hình tác giả song ngữ với tƣ tƣởng quan điểm nghệ thuật của
nho gia
Về tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của các tác giả sáng tác bằng song ngữ trong văn học Việt Nam thời trung đại, trƣớc hết là tƣ tƣởng và quan niệm nghệ thuật của Nho gia. Dẫu rằng Nho – Phật – Đạo là các học thuyết tƣ tƣởng và tôn giáo chi phối mạnh mẽ đời sống xã hội và đời sống văn học nhƣng Nho giáo mới chính là học thuyết ăn sâu bén rễ lâu nhất và có ảnh hƣởng lớn nhất. Ta thấy, trong giai đoạn đầu của văn học từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, hệ tƣ tƣởng Phật giáo là ý thức hệ của giai cấp phong kiến và chi phối các sáng tác văn học. Giai đoạn này xuất hiện một vài cái tên sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm nhƣ Hàn Thuyên, Trần Nhân Tông, Huyền Quang Lý Đạo Tái,… Nhƣng sau đó Phật giáo không còn ảnh hƣởng nhiều nhƣ giai đoạn này nữa, thay vào đó là Nho giáo. Nho giáo trở thành độc tôn trong một thời gian rất dài hàng mấy thế kỷ.
Nho giáo ảnh hƣởng đến nƣớc ta chủ yếu là Tống Nho. Các nhà nho đời Tống đã khái quát nên những quan niệm về văn chƣơng mà nó theo mãi trong đời sống văn học của ngƣời Việt. Quan niệm ―Văn dĩ tải đạo‖, ―Văn dĩ quán đạo‖, ―Thi dĩ ngôn chí‖ trở thành những luận đề trong sáng tác văn học, là mục đích của việc sáng tác văn chƣơng và cũng là đề tài của kiểu tác giả nhà nho. Họ sáng tác bằng chữ Hán, các tác phẩm viết bằng chữ Hán mới là
87
tác phẩm văn chƣơng đích thực, còn những sáng tác bằng chữ Nôm không phải là văn chƣơng đích thực hoặc văn chƣơng tầm thƣờng chỉ mang tính chất giải trí, mua vui. Nhà nho quan niệm văn chƣơng phải chở đạo, nói chí, phải viết về thánh nhân, quân tử mới là văn chƣơng cao cả, tao nhã còn văn chƣơng viết về những chuyện nhỏ nhặt, vụn vặt (tiểu thuyết), văn chƣơng viết về phong tình, nhục cảm là văn chƣơng thấp hèn, tầm thƣờng. Do đó, văn học chữ Hán đƣợc chú ý, coi trọng, ngƣợc lại sáng tác văn học bằng chữ Nôm không đƣợc coi trọng. Thậm chí, dƣới những triều đại của những vị vua anh minh, tiến bộ nhƣ Lê Thánh Tông, sáng tác chữ Nôm đƣợc khuyến khích nhƣng cũng chỉ để ngâm vịnh. Cho nên ―Hồng Đức quốc âm thi tập‖ của Lê Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức không đƣợc ngƣời đời và các học giả đánh giá cao. Hay dƣới triều đại Tây Sơn của Quang Trung Nguyễn Huệ, chữ Nôm đã đứng trƣớc cơ hội trở thành ngôn ngữ chính thức trong hành chính và trong xã hội mà một vị cận thần của nhà vua nhƣ Ngô Thì Nhậm lại không có một công trình nghệ thuật nào sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc – chữ Nôm. Rõ ràng, tƣ tƣởng, quan niệm văn chƣơng Nho giáo chính là nguồn gốc sâu xa của hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam.
Nhƣ vậy, loại hình tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là kiểu tác giả sáng tác bằng hai ngôn ngữ khác nhau là chữ Hán và chữ Nôm trong sự nghiệp sáng tác của mình. Việc xác định tác giả đó có phải là tác giả song ngữ tiêu biểu hay không không hoàn toàn phụ thuộc vào số lƣợng đơn vị tác phẩm của hai thành phần ngôn ngữ sáng tác có nhiều và ngang bằng nhau hay không mà phụ thuộc vào giá trị tƣ tƣởng, nội dung và nghệ thuật của hai thành phần sáng tác ấy. Cùng với đó, các đặc điểm về nguồn gốc, xuất thân; về thời đại; về cuộc đời hoạt động và về tƣ tƣởng, quan niệm văn chƣơng của các tác giả này phải nổi bật. Thực tế, văn học trung đại Việt Nam đã cho thấy rõ điều đó (xem Phụ lục 1).
3.4. SỰ ĐA DẠNG VÀ THỐNG NHẤT TRONG NHẬN THỨC VỀ TÌNH TRẠNG SONG NGỮ CỦA KIỂU TÁC GIẢ SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
3.4.1. Sự đa dạng trong nhận thức về tình trạng song ngữ của kiểu
tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học
88
trung đại Việt Nam đã sản sinh ra nhiều tác giả song ngữ tiêu biểu với những nhận thức khác nhau về tình trạng song ngữ, quan điểm nghệ thuật và cá tính sáng tạo. Dƣới đây, chúng tôi tạm gọi những tác giả ấy dựa trên những đặc điểm sáng tác song ngữ của họ.
3.4.1.1. Nguyễn Trãi với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - chính luận Nguyễn Trãi là nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc, là một thi nhân hữu tài, hữu tình nên chắc hẳn yếu tố trữ tình trong các sáng tác của ông cả về chữ Hán lẫn chữ Nôm là điều không cần phải bàn cãi. Văn chƣơng chữ Hán của ông với áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của lịch sử dân tộc, Quân trung trừ mệnh tập có sức mạnh nhƣ mƣời vạn quân cũng đủ tỏ rõ sức mạnh chính trị toát lên từ văn chƣơng của Ức Trai. Cái chúng ta cần làm rõ ở đây còn lại là thơ quốc âm của ông có thể hiện những quan điểm chính trị hay không nữa mà thôi? Câu trả lời là có và có nhiều nữa là khác. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có nhiều bài thơ thể hiện quan điểm văn chƣơng phục vụ cho mục đích chính trị nhƣ bài thơ Bảo kính cảnh giới bài 5 dƣới đây:
Văn chương chép lấy, đòi câu thánh, Sự nghiệp tua gìn, phải đạo trung.
(Bảo kính cảnh giới bài 5)
Sách Trung dung có câu: ―trí, nhân, dũng tam giả thiên hạ tri đạt đức dã‖ (trí, nhân, dũng là ba cái đức thông thƣờng của con ngƣời. Ở đây quan điểm chính thống về quan điểm chức năng chở đạo của văn chƣơng đã đƣợc Nguyễn Trãi thể hiện ngay trong thơ Nôm. Đạo trung dung của thánh hiền nhằm thiết lập một trật tự xã hội hài hòa, không cực đoan, không cực tả cũng không cực hữu, lấy sự khoan hòa làm trọng.
Văn chƣơng là phải trực tiếp tham gia vào sự nghiệp ―trừ độc‖ (bọn xâm lƣợc) cứu nƣớc, cứu dân, ―trừ tham‖ và ―trừ bạo ngƣợc‖ ám chỉ bọn lộng thần, quyền thần vì chân lí lẽ phải:
Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược, Có nhân có trí có anh hùng.
(Bảo kính cảnh giới bài 5)
Hay:
Trí qua mười mới khả rằng nên, Ỷ lấy nho, hầu đấng hiền.
89
Đao bút phải dùng tài đã vẹn, Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên. Vệ Nam mãi mãi ra tay thước, Điện Bắc đà đà yên phận tiên.
(Bảo kính cảnh giới bài 56)
―Đao bút‖ là đao nhỏ dùng để khắc chữ lên thẻ tre; Chỉ thƣ: ghi chép
sách vở thừa chỉ mệnh vua hết sức chuyên cần; thƣớc là tài năng văn chƣơng/ tay thầy thƣớc thợ (ngƣời rất giỏi, có tài năng). Nguyễn Trãi muốn nói một ngƣời tài năng với một ngọn bút chuyên cần có thể bảo vệ mặt nam, giữ yên mặt bắc mà làm nên sự nghiệp nhƣ Tiêu Hà thời Hán Cao Tổ vậy.
Chớ cậy sang mà ép nề, Lời chăng phải, vưỡn khôn nghe. Co que thay bấy ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi trái hòe! Hai chữ công danh chăng cảm cốc, Một trường ân oán những hăm he. Làm người mựa cậy khi quyền thế, Có thuở bàn cờ tốt đuổi xe. (Trần tình bài 8)
Một bài thơ vừa mang tính thời sự vừa mang sức mạnh của chân lí. Thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng thể hiện hình ảnh con ngƣời với trách nhiệm công dân bên cạnh con ngƣời đời thƣờng. Con ngƣời ấy bao giờ cũng gắn bó với thiên nhiên, quê hƣơng, đất nƣớc, với nhân dân, với cuộc đời. Cũng vì thế mà lúc còn trẻ tuổi, lúc ra giúp nƣớc cũng nhƣ lúc phải đi ở ẩn, Nguyễn Trãi chƣa bao giờ quên nỗi ―tiên ƣu‖, lo trƣớc thiên hạ. Ông từng khẳng định trong thơ chữ Hán rằng ―nhân sinh thức tự đa ƣu hoạn‖ (ngƣời đời biết chữ thì lo nghĩ nhiều). Ta thƣờng gặp trong thơ ông những nỗi lo (ƣu):
Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
(Thơ Nôm – Thuật hứng, bài 5)
Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa, Vui, sơ chẳng quản đeo âu.
(Thơ Nôm – Ngôn chí, bài 18)
90
Nhƣ vậy có thể thấy rằng, sự nghiệp sáng tác bằng song ngữ của Nguyễn Trãi vừa mang yếu tố trữ tình vừa mang yếu tố chính luận rất sâu sắc.
3.4.1.2. Nguyễn Bỉnh Khiêm với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - triết lí Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngƣời nổi tiếng về triết học, đặc biệt là về Lí học. Ngay cả sách vở nƣớc Trung Hoa cùng từng ghi nhận ―An Nam lí học hữu Trình Tuyền‖ tức là về lí học nƣớc Nam có Trình Tuyền hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nói đến văn chƣơng của ông ngƣời ta cũng hay chú ý đến nội dung triết học và lí học và gọi ông là ―nhà thơ triết lí‖.
Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, tất cả những sự vật hiện tƣợng quen thuộc của cuộc sống hàng ngày đều đƣợc nhìn dƣới góc độ triết lí. Phƣơng pháp của nhà lí học nổi tiếng Trình Tuyền hầu là nhìn tất cả mọi sự vật hiện tƣợng từ gần đến xa, từ nhỏ đến lớn, từ quen thuộc đến xa lạ, từ cụ thể đến trừu tƣợng, từ bình thƣờng đến qúy hiếm. Bởi thế mới có nhiều giai thoại về những lời sấm kí của ông rất nổi tiếng và có tác động đến thời cuộc. Chẳng hạn xung quanh câu sấm kí ―Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân‖ mà cụ gửi gắm đến Nguyễn Hoàng cũng là kết quả của sự quan sát nhƣ thế. Khi ấy, Nguyễn Hoàng, con thứ của Nguyễn Kim đang trong tình thế nguy hiểm cử ngƣời đến hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình nhìn hòn non bộ rồi thấy đàn kiến di chuyển trật tự theo một phƣơng mà cụ phán nhƣ thế. Nguyễn Hoàng hiểu ý xin chị gái nói với Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa phía trong Hoành Sơn (Đèo Ngang) mà làm nên cơ nghiệp.
Tƣ tƣởng triết học ảnh hƣởng đến thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu là học thuyết Âm Dƣơng. Ta thấy trong văn chƣơng của ông nhắc đến những vấn đề có tính hai mặt đối lập. Chẳng hạn nhƣ danh/hƣ, dữ/lành, khen/chê, vắn/dài, họa/phúc, nhọn/cùn, giàu/nghèo, vinh/nhục, đƣợc/thua. Luận điểm triết học này chính là sản phẩm của quy luật tƣơng sinh tƣơng khắc của học thuyết âm dƣơng, trong âm có dƣơng, cùng tất biến, biến tất thông vậy. Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Bỉnh Khiêm không ít lần nhắc đến luận điểm này:
Bát quái tượng suy thiên vãng phục, Sổ thanh quyên nghiệm thế hung suy.
(Thơ chữ Hán – Trung Tân quán ngụ hứng)
(Tƣợng của tám quẻ suy biết sự đi và sự trở lại của trời, Vài tiếng đỗ quyên đủ chiêm nghiệm về điều thịnh suy ở đời) Hay bài Độc Chu Dịch hữu cảm dƣới đây cũng vậy:
91
Cơ ngẫu tòng lai danh cánh hư, Âm dương tiêu trưởng nghiệm thừa trừ.
(Thơ chữ Hán - Độc Chu Dịch hữu cảm)
Những bài thơ chỉ rõ quy luật biến dịch trong cuộc đời và những bài thơ khuyên răn là một phần quan trọng trong sự nghiệp sáng tác song ngữ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm Thế nhất trị nhất loạn, Thời hữu khuất hữu thân, cho nên không có một sự thịnh mãn nào là vĩnh cửu và do vậy ngƣời ta nên giữ lấy đạo, giữ lấy sự chân chất, không nên ―sinh sự‖, hãy ―vô vi‖, yên phận. Chẳng hạn nhƣ bài thơ Nôm số 75 dƣới đây:
Hễ kẻ trêu ngươi, kẻ phải lo, Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho. Tay kia khéo nắm còn khi mở, Miệng nọ hay cười có lúc ho. Có thuở được thời, mèo đuổi chuột, Ðến khi thất thế, kiến tha bò. Ðược thua sau mới ăn năn lại, Vô sự chăng hơn có sự ru.
(Thơ Nôm, bài 75)
Hay bài thơ Nhân tình thế thái bài 20 hay còn có một tên gọi thƣờng gặp khác - Thói đời dƣới đây lại càng chứng tỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ triết lí sâu sắc:
Thế gian biến đổi vũng nên đồi, Mặn lạt chua cay lẫn ngọt bùi. Còn bạc còn tiền còn đệ tử, Hết cơm hết gạo hết ông tôi. Xưa nay vẫn trọng người chân thực, Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi. Ở thế mới hay người thế bạc, Giàu thì tìm đến, khó tìm lui.
(Nhân tình thế thái bài 20)
Triết lí về thói đời xấu xa trong xã hội phong kiến đã đƣợc ông thể hiện rất chân thực và sâu sắc. Đồng thời, thơ ông cũng nêu cao đạo lí của nhân dân để giáo huấn, giáo dục con ngƣời hƣớng tới một xã hội tốt đẹp hơn của một bậc thầy vĩ đại – Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.
92
3.4.1.3. Nguyễn Du với kiểu tác giả song ngữ trữ tình – tự sự Tại Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề ―Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du: Di sản và các giá trị xuyên thời đại‖, tác giả Lã Nhâm Thìn có một bài viết đáng chú ý Nguyễn Du và hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam mà ở phần Tổng quan tình hình nghiên cứu chúng tôi đã từng đề cập. Ở bài viết này nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đã khái lƣợc những vấn đề cơ bản về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam nhƣ khái niệm, diễn biến, đặc điểm của hiện tƣợng song ngữ cũng nhƣ đóng góp của Nguyễn Du đối với hiện tƣợng song ngữ trong văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỷ thứ XIX. Nhƣng với việc chỉ dừng lại ở một tác gia Nguyễn Du nên bài viết chƣa đi đến việc gọi tên cho tác giả này trong một loại hình tác giả với nhận thức đa dạng về hiện tƣợng song ngữ.
Việc tạm xếp Nguyễn Du vào kiểu loại hình tác giả song ngữ trữ tình – tự sự có thể không khiến nhiều nhà nghiên cứu hài lòng. Nhƣng có thể thấy, với Nguyễn Trãi nét lớn trong sáng tác song ngữ của ông là những áng văn chính luận và văn chƣơng trữ tình nên tạm gọi là trữ tình – chính luận; Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm nội dung trữ tình - triết lí, giáo huấn mang đậm nét hơn cả; trong khi đó ở Nguyễn Khuyến là những sáng tác song ngữ đƣợc dịch qua dịch lại giữa văn bản chữ Hán và văn bản chữ Nôm trên cả hai phƣơng diện trữ tình - trào phúng.
Trong Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam tập 2, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Nƣơng: ―Những điều ông kể về tâm tƣ, cuộc sống của mình đều bắt nguồn từ hiện thực song đã đƣợc sáng tạo lại để mang theo nhiều thông điệp của ngƣời nghệ sĩ‖ [146, tr.166]. Quả đúng nhƣ vậy. Ba tập thơ chữ Hán của ông là thơ trữ tình nhƣng đồng thời cũng là những câu chuyện kể. Truyện Kiều và những sáng tác chữ Nôm khác cũng là tự sự bằng thơ.
Ta thấy trong thơ văn của Thanh Hiên thi sĩ rất nhiều ―những điều trông thấy mà đau đớn lòng‖ nhƣ trong những bài thơ nhƣ Thái Bình mại ca giả (Ngƣời hát rong ở Thái Bình), Sở kiến hành (Những điều trông thấy), Độc Tiểu Thanh kí (Đọc chuyện nàng Tiểu Thanh) và đặc biệt là Truyện Kiều.
Với Độc Tiểu Thanh kí, bài thơ là câu chuyện về cuộc đời tài hoa bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh. Tác phẩm đã dung nạp cả sự bao la, mênh mênh, cao cả của trái tim nhân đạo Nguyễn Du bằng việc khóc cho nàng Tiểu Thanh nói riêng và khóc cho những kiếp ngƣời tài hoa mệnh bạc nói chung cộng thêm đó là tƣ tƣởng nhân văn sâu sắc qua tiếng khóc của mình cho chính cuộc đời mình với một câu hỏi đau đáu ngàn đời:
93
Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Không biết ba trăm năm lẻ nữa, Ngƣời đời ai khóc Tố Nhƣ chăng?) Truyện Kiều là câu chuyện về tài tử giai nhân nhƣng trƣớc hết tác phẩm là sự lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên thân phận con ngƣời. Xã hội phong kiến Trung Quốc dƣới triều đại Minh Thế Tông Gia Tĩnh với đủ mọi hạng ngƣời từ sai nha, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh cho đến Tổng đốc trọng thần, tất cả đã bộc lộ sự thối nát, đê tiện của xã hội ấy. Bên cạnh đó, thế lực đồng tiền cũng đƣợc coi là một thế lực hắc ám, đƣa đẩy cuộc đời của nàng Kiều đến mƣời lăm năm lƣu lạc với biết bao tủi nhục ―thanh lâu hai lƣợt thanh y hai lần‖. Những câu thơ ám ảnh chúng ta nhƣ: Một ngày lạ thói sai nha, Làm cho khốc hai chẳng qua vì tiền.
(Truyện Kiều, 597 - 598)
Hay câu:
Tính bài lót đó luồn đây, Có ba tram lạng việc này mới xuôi.
(Truyện Kiều, 611 - 612)
Những câu Kiều của Nguyễn Du dù cách mấy trăm năm vẫn văng vẳng đâu đây, vẫn nóng bỏng tính chất thời sự cho đến hôm nay, ngày mai và cả rất nhiều ngày sau nữa.
Ta thấy Đoạn trường tân thanh là một câu chuyện về nàng Kiều tài sắc vẹn toàn, trọng tình trọng nghĩa với khát vọng tình yêu, hạnh phúc mãnh liệt vƣợt ra khỏi phạm vi đạo đức của lễ giáo phong kiến và Từ Hải ―một đấng anh hùng‖, chọc trời, khuấy đất với khát vọng tự do và công lí đi ngƣợc lại thậm chí muốn lật đổ xã hội phong kiến.
Với những minh chứng ở trên, chúng tôi đi tới một lập luận tạm gọi
Nguyễn Du là kiểu tác giả song ngữ trữ tình – tự sự.
3.4.1.4. Nguyễn Khuyến với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - trào
phúng, liên văn bản
Nhƣ đã nói ở phần Tác gia song ngữ tiêu biểu, cái đáng chú ý trong sự nghiệp sáng tác song ngữ của Nguyễn Khuyến đó là những sáng tác ―liên văn bản Hán – Nôm‖. Tức là ông việc ông sáng tác bằng chữ Hán rồi
94
Bài thơ chữ Hán Bùi viên cựu trạch ca song hành cùng với bài thơ
tự mình dịch ra chữ Nôm hoặc ngƣợc lại còn gọi là ―một nội dung hai hình thức‖. Một điều dễ nhận thấy trong số 18 bài thơ ―liên văn bản‖ này phần lớn là thơ trữ tình. Bên cạnh đó là một số lƣợng khá đáng kể thơ trào phúng. Sự kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp trữ tình và trào phúng là một trong những thành công nghệ thuật trong thơ văn Nguyễn Nguyễn Khuyến. Và thơ trữ tình bằng chữ Hán với Nguyễn Khuyến dƣờng nhƣ không thể hiện hết đƣợc ý nghĩa tâm hồn cũng nhƣ cảm xúc của tác giả nói riêng và ngƣời Việt nói chung. Nhƣng ở chiều ngƣợc lại, giải thích sao với việc ông tự sáng tác bằng chữ Nôm rồi lại tự mình dịch ra chữ Hán? Ông muốn lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân (tiếng Việt/chữ Nôm) vốn không đƣợc coi trọng trong văn chƣơng chính thống đi vào văn chƣơng bác học hay vì muốn thể hiện sự uyên bác, điêu luyện của mình trong việc sử dụng cả hai ngôn ngữ hoặc một lí do nào khác nữa chăng? Có lẽ cần đi vào phân tích văn bản của một số bài thơ nhƣ thế để có câu trả lời. Nôm Trở về vườn cũ cho thấy một sự độc đáo lạ.
Bùi Viên ngô cựu trạch Tứ thập niên kim nhật phú quy lai Tùng tùng, cúc cúc, mai mai Phiêu nhiên hữu khâu, hác, lâm, tuyền chi dật thú. (Vƣờn Bùi nơi nhà cũ của ta, Bốn mƣơi năm, nay mới ngâm ngợi bài thơ ―quay về‖. Đây tùng, đây cúc, đây mai, Phới phới thú ẩn dật nơi núi khe rừng suối).
Trong khi bài thơ chữ Hán bắt đầu bằng bốn câu rất hàm súc với câu từ cô đọng, trau chuốt gợi nhiều hình ảnh đẹp mang tính ƣớc lệ và điển tích Quy khứ lai từ nổi tiếng thì bài thơ Nôm lại cho thấy một bối cảnh rất chân thực và sinh động.
Vườn Bùi chốn cũ, Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây. Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây, Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế.
Từ ―lụ khụ‖ gợi hình già nua, chậm chạp, gợi cảm giác mệt mỏi chán nản nhƣng hình ảnh ―mấy chồi cây‖ rất sinh động do đó cả đoạn thơ tạo thành một khung cảnh xanh tƣơi mà yên tĩnh rất lí tƣởng với việc ẩn dật.
Có tài liệu cho rằng bài thơ này Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán
95
trƣớc sau đó tác giả tự dịch ra chữ Nôm. Theo chúng tôi, điều này không chắc chắn. Ta thấy rằng cả hai bài đều viết theo thể hát nói, giọng thơ khoáng đạt, giọng điệu vui buồn lẫn lộn, vui vì đƣợc trở về quê hƣơng nơi vƣờn cũ, buồn vì bất lực trƣớc thời cuộc.
Một bài thơ song ngữ khác cũng rất tiêu biểu của Nguyễn Khuyến đó là Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư viết bằng chữ Hán và bài thơ Khóc bạn bằng chữ Nôm có lẽ đƣợc tác giả viết sau bài chữ Hán. Bài thơ sau thể hiện nỗi đau đớn, xót xa đến uất nghẹn và một sức truyền cảm mới so với bài thơ chữ Hán.
Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Hai chữ ―bác Dƣơng‖ nghe thân thiết làm sao và phép lặng xuất hiện nhƣ một biện pháp nghệ thuật chủ đạo để diễn tả nỗi đau mất mát ngƣời thân. Những từ láy ―man mác‖, ―ngậm ngùi‖ lại góp phần thể hiện nỗi đau vô hạn khi mất đi một ngƣời tri âm, tri kỷ. Ở bài thơ chữ Hán, tuy không có đƣợc cảm xúc nhƣ bài thơ Nôm nhƣng tài năng của Nguyễn Khuyến vẫn cho thấy sự cung kính của ông với Dƣơng Khuê và nỗi đau buồn vô hạn khi mất bạn thân.
Dĩ hĩ Dương đại niên, Vân thụ tâm tâm huyền. (Thôi thế là xong, bác Dƣơng cao tuổi, Nhìn trời mây, cây cối, lòng những bùi ngùi) ―Đại niên‖ (bậc cao niên) là lời tôn xƣng, dù Nguyễn Khuyến hơn tuổi Dƣơng Khuê; ―vân thụ‖ (trời mây cây cối) là điển tích rút ra từ thơ Đỗ Phủ nhớ Lý Bạch ―mộ vân xuân thụ‖ (mây chiều cây xuân) thƣờng dùng để tả tình bạn mong nhớ nhau. Theo nhà nghiên cứu Vũ Thanh, ―Nguyễn Khuyến còn có thơ trào phúng viết bằng chữ Hán. Thơ chữ Hán thích hợp hơn cho sự hƣớng nội, cho việc biểu hiện những cái sâu lắng, kín đáo trong tâm hồn nhà thơ. Nguyễn Khuyến đã đem đến cho thơ chữ Hán giai đoạn này một sắc điệu mới: âm điệu chủ yếu vẫn là hƣớng nội, trữ tình nhƣng đã có sự kết hợp trào phúng, đặc biệt ở những bài thơ sau đó đƣợc chính nhà thơ dịch sang chữ Nôm, nhƣ chùm bài về Ông phỗng đá,…[144, tr.371].
Những sáng tác song ngữ trữ tình và trào phúng Hán – Nôm, một ―nội
96
dung‖ hai ―hình thức của Nguyễn Khuyến nhƣ đã nêu ở trên đƣợc một số nhà nghiên cứu gọi là sáng tác ―liên văn bản‖. Tức là cùng một nội dung tƣ tƣởng và cảm hứng nhƣng trên cả hai ngôn ngữ Hán và Nôm, Nguyễn Khuyến đều rất thành công. Mỗi bản đều đƣa đến cho độc giả những cảm nhận riêng về nội dung tƣ tƣởng và cảm xúc thẩm mĩ. Bởi lẽ đó, chúng tôi xếp Nguyễn Khuyễn với kiểu tác gia song ngữ trữ tình – trào phúng.
3.4.2. Sự thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ của
kiểu tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam
3.4.2.1. Đối với văn học chữ Hán Theo quan điểm của nho gia, văn chƣơng đƣợc chia làm hai loại: văn chƣơng cao cả, tao nhã và văn chƣơng tầm thƣờng. Văn chƣơng cao cả, tao nhã mới là văn chƣơng đích thực. Do đó, quan điểm này ảnh hƣởng tới các tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Đối với văn học chữ Hán, các tác giả song ngữ trong văn học Việt Nam quan niệm văn chƣơng đích thực là ―văn là để chở đạo‖ của bậc thánh nhân, ―thơ là để nói chí‖ của ngƣời quân tử.
Tuy nhiên, văn học trung đại Việt Nam không chỉ đề cấp đến những nội dung mà kinh điển Nho giáo thƣờng nhấn mạnh, mà lại còn chủ yếu lí giải những vấn đề trọng đại mà thiết thực của dân tộc ta. Những nội dung về tam cƣơng, ngũ thƣờng, tam tòng, tứ đức của nho gia rất mờ nhạt trong văn học dân tộc trong khi đó chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa nhân đạo lại tô thắm cho văn chƣơng nƣớc Việt thêm đẹp, thêm tƣơi. Những tác phẩm của các tác giả song ngữ là những kết tinh của thời đại đồng thời cũng là tấm gƣơng phản chiếu một cách chân thực thời đại ấy. Về sáng tác chữ Hán đó là Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Chí Linh sơn phú, Ức Trai thi tập,… của Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV; Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ XVI; Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du cuối thế ky XVIII đầu thế kỷ XIX; Quế Sơn thi tập và nhiều câu đối của Nguyễn Khuyến ở nửa cuối thế kỷ XIX.
Quan điểm chính thống coi văn chƣơng viết về số phận những con ngƣời bình thƣờng, những chuyện phong tình nhục cảm hoặc chứa đựng những tƣ tƣởng, quan điểm mà Nho gia cho là ―phi kinh‖, là văn chƣơng tầm thƣờng, không phải là văn chƣơng đích thực. Thậm chí những tác phẩm loại này bị gạt ra khỏi lĩnh vực văn học. Quan điểm này cũng ảnh hƣởng tới nhận thức của các tác gia song ngữ trong sáng tác văn chƣơng nói chung và văn học chữ Hán nói riêng. Họ tƣơng đối dè dặt khi viết về những vấn đề này.
97
Đặc biệt là vấn đề tình cảm trai gái trong thơ văn chữ Hán rất hiếm thấy. Trong khi đó, văn học Nôm viết nhiều về số phận những con ngƣời bình thƣờng, những chuyện phong tình nhục cảm.
Nguyễn Trãi có những bài thơ viết về tình cảm trai gái rất tình tứ:
Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng. Ngoài ấy dù còn áo lẻ Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng.
(Tích cảnh, bài 10)
Với Văn chiêu hồn, Thác lời trai phường nón, Văn tế Trường Lưu nhị nữ và đặc biệt với kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ viết về về số phận những con ngƣời bình thƣờng, những chuyện phong tình nhục cảm mà văn chƣơng của ông còn chứa đựng những tƣ tƣởng đi ngƣợc lại tƣ tƣởng chính thống. Ông đã xây dung hình tƣợng nhân vật Thúy Kiều và Từ Hải mà giai cấp phong kiến không ƣa một chút nào. Tất nhiên với những tác gia lớn nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến thì không một khuôn khổ nào có thể gò bó đƣợc hoàn toàn cá tính sáng tạo của họ. Họ bị chi phối là một chuyện nhƣng với những tƣ tƣởng lớn, tài năng lớn, tình cảm lớn họ vẫn bƣớc qua lằn ranh của những sự ràng buộc về tƣ tƣởng đó. Chúng ta vẫn thấy trong sáng tác chữ Hán của Ức Trai, của Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến viết về số phận những con ngƣời bình thƣờng, đặc biệt là số phận ngƣời phụ nữ, về ―những điều trông thấy mà đau đớn lòng‖. Những bài thơ Khuê tình (Nỗi lòng ở chốn phòng khuê) của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sở kiến hành (Những điều trông thấy) của Nguyễn Du là những bài nhƣ thế.
3.4.2.2. Đối với văn học chữ Nôm Quan điểm văn chƣơng của Nho giáo là ―văn là để chở đạo‖, ―thơ là để nói chí‖ nhƣ đã nói ở trên. Mà Nho giáo lại là ý thức hệ của Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam trong phần lớn thời gian lịch sử thời trung đại bắt đầu thừ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX. Trƣớc đó, xã hội phong kiến nƣớc ta chịu sự chi phối của tƣ tƣởng Phật giáo dƣới thời Lí và thời Trần. Do đó, những gì không chở đạo, nói chí, tức là không phù hợp với kinh điển Nho gia, thì coi nhƣ là không phải văn chƣơng đích thực đƣợc. Quan điểm chính thống của Nhà nƣớc phong kiến nhìn chung không đề cao văn học viết bằng chữ Nôm, nhất là thể loại truyện thơ Nôm.
98
Chúng tôi xin dẫn lại sự việc Phạm Đình Hổ đã viết trong Vũ trung Tùy bút rằng ―Có ngƣời đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc, rủ rê chơi bời thì bịt tai lại không muốn nghe. Ta lại học liệp thiệp đƣợc ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không hiểu hết đƣợc, câu ca bản đàn thoáng qua ngoài tai rồi lại lờ mờ không hiểu gì cả‖ [85, tr.27]. Đó là vì Phạm Đình Hổ coi thƣờng truyện Nôm thành thử xếp nó ngang hàng với thói trai gái, cờ bạc vậy. Hay đến một ông vua giỏi văn chƣơng nhƣ Tự Đức còn coi đam mê Truyện Kiều nhƣ một thói hƣ tật xấu nhƣ việc đánh bài tổ tôm và cảnh lên xe xuống ngựa của các quan ông, và cả các ―quan bà‖. Từ đó có thể thấy quan điểm chính thống của Nhà nƣớc phong kiến có ảnh hƣởng tới nhận thức của kiểu tác giả song ngữ về văn học Nôm. Điều này làm cho các tác giả có phần dè dặt hơn trong sáng tác văn chƣơng viết bằng chữ Nôm dẫn tới số lƣợng đơn vị tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc ít hơn đáng kể so với sáng tác viết bằng chữ Hán.
Tuy nhiên, thực tế phát triển của văn học và quan điểm chi phối đến nền văn học ấy đôi khi không đồng hành cùng với nhau, thậm chí đi ngƣợc hƣớng. Văn học viết bằng chữ Nôm từ Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập; Nguyễn Bỉnh Khiêm với Bạch Vân quốc ngữ thi tập; Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều và Văn chiêu hồn; Nguyễn Khuyến với Tam Nguyên Yên Đổ quốc ngữ thi tập vẫn luôn đề cập đến những vấn đề ―đạo‖ và ―chí‖, những vấn đề lớn lao, trọng đại nhƣ Tổ quốc, dân tộc, nhân dân, anh hùng, đạo lí,....
Quan điểm chính thống của giai cấp phong kiến chƣa bao giờ coi trọng văn học Nôm mặc dù chữ Nôm đƣợc coi trọng ở nhiều giai đoạn của lịch sử. Văn học Nôm bị coi là ―phi kinh‖, ―dị đoan‖ nhƣ đã nói ở trên. Thậm chí đôi khi còn bị mạt sát ―nôm na là cha mách qué‖, bị cấm đoán. Điều này có ảnh hƣởng tới suy nghĩ, nhận thức của các tác giả song ngữ hay không? Câu trả lời không thể nói là không.
Vậy thì tại sao Nguyễn Trãi vẫn có đến 254 bài thơ chữ Nôm; Nguyễn Bỉnh Khiêm 180 bài; Nguyễn Du có Truyện Kiều, Văn chiêu hồn, Thác lời trai phường nón, Văn tế Trường Lưu nhị nữ; Nguyễn Khuyến có khoảng 100 bài thơ Nôm? Đó là vì tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ, với ngôn ngữ dân tộc, cộng thêm năng lực sáng tạo dồi dào mà có, mà làm để mua vui chăng? Có lẽ không chỉ thế. Đó là cả một sự quyết tâm theo đuổi sự sáng tạo, cách tân đối với thể thất ngôn nhƣ của Nguyễn Trãi; sự kiên trì kế thừa của Nguyễn Bỉnh Khiêm; sự đau đớn của Nguyễn Du và sự mày mò của Nguyễn Khuyến. Nhƣng tất cả đều cho thấy những sự dụng công, dụng tâm đến khổ não, đến lao lực tột độ mới sản sinh ra
99
những đứa con tinh thần của mình. Nhƣ thế há chỉ để mua vui, thù tạc? Không! Đó là một sự thừa nhận coi văn học Nôm là văn chƣơng đích thực, là tiếng nói phản ánh cuộc sống, con ngƣời và tâm hồn ngƣời Việt của các ông mà với văn học viết bằng chữ Hán họ chƣa thấy đƣợc thỏa mãn.
TIỂU KẾT
Có nhiều quan niệm khác nhau về kiểu tác giả, loại hình tác giả trong văn học trung đại Việt Nam nhƣ: loại hình tác giả văn, loại hình tác giả thơ; loại hình tác giả nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử; loại hình tác giả thiền sƣ, vua quan, quý tộc, võ tƣớng,… Loại hình tác giả song ngữ đƣợc đƣa ra dựa trên những lập luận nhƣ thế.
Loại hình tác giả song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có những đặc điểm chung về nguồn gốc xuất thân, về thời đại, về cuộc đời hoạt động và về tƣ tƣởng, quan niệm văn chƣơng nghệ thuật. Có nhiều tác giả sáng tác bằng song ngữ tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam nhƣ: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát và Nguyễn Khuyến. Mỗi một tác giả có những nét riêng đóng góp vào hiện tƣợng song ngữ nói riêng và lịch sử văn học dân tộc nói chung. Từ biểu hiện của hiện tƣợng song ngữ ở các tác giả, có thể thấy hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đi từ song ngữ song hành Hán – Nôm đến song ngữ ―liên văn bản‖ Hán – Nôm.
Từ những nghiên cứu về đặc điểm loại hình tác giả song ngữ cũng nhƣ khảo sát sự nghiệp sáng tác bằng song ngữ của một số tác gia tiêu biểu, chúng ta có thể thấy một ―sự đa dạng và thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam‖. Trong khi sự đa dạng đƣa đến những kiểu tác giả song ngữ khác nhau: Nguyễn Trãi với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - chính luận; Nguyễn Bỉnh Khiêm với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - triết lí; Nguyễn Du với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - tự sự và Nguyễn Khuyến với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - trào phúng, liên văn bản. Trong khi đó, sự thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ ở cả hai loại hình diễn ngôn (sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm) của các tác giả song ngữ cho thấy: không có bên trọng bên khinh; không có bên dồn hết tâm huyết, bên làm chơi chơi; không có bên chỉ biết vọng ngoại, bên hƣớng về dân tộc; bên có những kiệt tác, bên cũng có những tác phẩm có giá trị. Các tác giả song ngữ đều coi sáng tác chữ Hán và chữ Nôm là văn chƣơng đích thực, đều có những sự dụng công nghệ thuật trong đó.
100
Chƣơng 4: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ DƢỚI GÓC NHÌN CỦA HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
4.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ LOẠI DƢỚI GÓC NHÌN TỪ HIỆN
TƢỢNG SONG NGỮ
4.1.1. Sự phát triển thể loại nhìn từ hiện tƣợng song ngữ Sự phát triển thể loại nhìn từ hiện tƣợng song ngữ có thể chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu chủ yếu là các thể loại tiếp thu nƣớc ngoài (chủ yếu là Trung Quốc). Đây là giai đoạn có tính chất mở đầu đặt nền móng vững chắc và toàn diện cho văn học Việt Nam thời trung đại. Do chƣa có một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh nên cha ông ta đã lấy chữ Hán làm ngôn ngữ chính thức trong giao tiếp hành hành chính, giáo dục, khoa cử,… Chữ Hán có hai loại là văn ngôn và bạch thoại . Văn ngôn là tử ngữ, dùng trong văn viết đọc theo âm Hán – Việt. Cách viết và âm đọc của văn ngôn đƣợc bảo lƣu từ thời Đƣờng. Cho nên dùng văn ngôn vừa dễ đọc vừa không bị phụ thuộc vào quá trình phát triển ngôn ngữ của ngƣời Trung Hoa. Trong khi đó, bạch thoại lại là sinh ngữ, dùng trong giao tiếp, phát âm theo lối phát âm của ngƣời Hán. Nếu dùng bạch thoại, chúng ta luôn bị phụ thuộc vào ngƣời Trung Hoa về cách phát âm và trƣờng ngữ nghĩa bởi hai lẽ. Một là, cách phát âm của ngƣời Hán và ngƣời Việt khác nhau vì cấu tạo bộ vị phát âm của hai tộc ngƣời Hán – Việt không giống nhau. Hai là, trƣờng ngữ nghĩa luôn biến chuyển theo thời gian và không gian. Do đó, nếu dùng bạch thoại sẽ gặp phải những khó khăn trong việc phát âm và phụ thuộc vào sự thay đổi trƣờng ngữ nghĩa của ngƣời Trung Quốc. Đây là một lựa chọn thông minh và hợp lí của ông cha ta. Với chữ Hán văn ngôn, chúng ta dùng để tiếp thu và chế tác các thể loại văn học chức năng hành chính, chức năng lễ nghi, chức năng tôn giáo, chức năng tập tục,…nhƣ các thể chiếu, hịch văn, lộ bố, biểu, tấu, sớ, điều trần, tế văn, thần phả, kệ, trƣớng, đối, văn bia, sử kí,… Nhờ dùng chữ Hán văn ngôn, ngay từ khi văn học viết Việt Nam mới ra đời chúng ta đã có những tác phẩm văn chƣơng bất hủ nhƣ bài thơ ―thần‖ Nam quốc sơn hà, Quốc tộ, Thiên đô chiếu, Phạt Tống lộ bố văn, Dụ chư tỳ tướng hịch văn; có những tác phẩm văn xuôi có giá trị nhƣ Thiền uyển tập anh ngữ lục, Khóa hư lục, Việt điện u linh tập, Đại Việt sử kí; có những bài từ, bài
101
thơ, bài phú hay nhƣ nƣớc chảy, đẹp nhƣ gấm thêu nhƣ Vương lang quy từ, Thiên Trường vãn vọng, Bạch Đằng giang phú,...
Giai đoạn tiếp theo là sự tồn tại song song của các thể loại tiếp thu với thể loại dân tộc hóa. Nếu nhƣ giai đoạn đầu thể loại văn học trung đại Việt Nam gắn với việc sử dụng chữ Hán văn ngôn thì giai đoạn thứ hai này thể loại văn học trung đại Việt Nam gắn với việc sử dụng chữ Nôm. Chữ Nôm ra đời từ rất sớm, có thể từ thế kỉ X – XI hoặc trƣớc nữa. Chúng đƣợc hoàn thiện dần trở thành một hệ thống tƣơng đối hoàn chỉnh và đến cuối thế kỉ XIII, theo ghi nhận của sử sách chữ Nôm đã đƣợc ngƣời Việt dùng để sáng tác văn chƣơng nghệ thuật. Nhờ có chữ Nôm, các tác gia thế kỉ XIII – XV đã Việt hóa thành công hai thể loại văn học tiếp từ nƣớc ngoài là thơ Đường luật và phú. Ngƣời có công đầu trong việc này là Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên) và Phật hoàng Trần Nhân Tông. Tuy nhiên, cho đến hiện nay chúng ta vẫn chƣa tìm thấy thơ Nôm Đƣờng luật của Hàn Thuyên. Riêng Trần Nhân Tông đã để lại bài phú Nôm Cư trần lạc đạo. Việc dùng chữ Nôm vào sáng tác văn học là một bƣớc ngoặt lớn, đánh dấu sự trƣởng thành của ý thức dân tộc, của nền văn học dân tộc. Từ đây, bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán văn ngôn còn có dòng văn học viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ dân tộc. Hai dòng văn học chữ Hán và chữ Nôm song song tồn tại, nƣơng tựa vào nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau tạo nên sự hoàn chỉnh, phong phú và toàn diện cho văn học trung đại Việt Nam.
Giai đoạn cuối cùng, những thể loại văn học nội sinh phát triển mạnh mẽ. Giai đoạn này chữ Nôm phát triển với vị trí ƣu thắng, ngôn ngữ văn học tiếng Việt trƣởng thành vƣợt bậc. Cùng với vốn từ Hán – Việt đã đƣợc Việt hóa và sử dụng thuần thục nhƣ tiếng Việt, thì những lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động đã đi vào văn học, hòa vào hệ thống ngôn ngữ thơ ca tiếng Việt. Xu hƣớng này làm giảm dần những quy phạm mang tính ƣớc lệ do tiếp thu từ văn hóa Hán khiến ngôn ngữ văn học trở nên uyển chuyển, mềm mại, giàu sức biểu cảm và gần với hiện thực cuộc sống. Có thể nói, suốt gần mƣời thế kỉ văn học trung đại, chƣa bao giờ ngôn ngữ văn học lại đƣợc dân tộc hóa, dân chủ hóa nhƣ giai đoạn này. Văn học chữ Hán vẫn trên đà phát triển, đặc biệt là văn xuôi tự sự. Thơ chữ Hán ngày càng nhiều tác phẩm có giá trị. Nội dung văn học không chỉ thiên về ―chở đạo‖, ―nói chí‖ nhƣ những giai đoạn trƣớc mà còn viết về cảm nhận mang đậm dấu ấn cá
102
nhân, viết về hiện thực cuộc sống của các tầng lớp nhân dân nhƣ các sáng tác chữ Hán của Nguyễn Cƣ Trinh, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Mạc Thiên Tích,… Văn học chữ Nôm chƣa bao giờ nở rộ nhƣ giai đoạn này. Thơ luật Đƣờng có ―Bà chúa thơ Nôm‖ Hồ Xuân Hƣơng, Bà huyện Thanh Quan,…Truyện Nôm có Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào, Truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu,... Khúc ngâm song thất lục bát nở rộ với các bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm của Phan Huy Ích (?), (hoặc Đoàn Thị Điểm (?)), Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân, Thu dạ lữ hoài ngâm của Đinh Nhật Thận, Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ,… Thơ hát nói thì ngày càng ổn định và phát triển tới đỉnh cao với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Bá Xuyến,… Phú Nôm và diễn ca lịch sử vẫn tiếp tục trên đà phát triển. Đến nửa cuối thế kỉ XIX văn học càng tiến gần hơn với hiện thực cuộc sống cả về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu nhƣ các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xƣơng.
Có thể mô hình hóa quá trình phát triển của thể loại văn học trung đại
Thể loại nội sinh
Thể loại tiếp thu
Thể loại tiếp thu
Thể loại tiếp thu
Thể loại dân tộc hóa
Thể loại dân tộc hóa
Phú Nôm
Phú Nôm
Thơ Nôm Đƣờng luật
Thơ Nôm Đƣờng luật
Truyện thơ Nôm Đƣờng luật
Sơ đồ 4.1. Sự phát triển của thể loại văn học trung đại Việt Nam nhìn từ hiện tượng song ngữ
Việt Nam dƣới góc nhìn từ hiện tƣợng song ngữ ở Sơ đồ 4.1 dƣới đây:
Ở sơ đồ trên, chúng tôi đã kế thừa và bổ sung sơ đồ phát triển của thể loại văn học trung đại Việt Nam của nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn. Ở đây, tác giả luận án đã đưa phú Nôm vào trong nhóm các thể loại giao thoa giữa thể loại văn
103
học dân tộc hóa với thể loại văn học tiếp thu và thể loại truyện thơ Nôm Đường luật vào nhóm các thể loại giao thoa giữa thể loại văn học dân tộc hóa với thể loại văn học nội sinh.
4.1.2. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học tiếp thu từ văn
học Trung Quốc
4.1.2.1. Hiện tượng sáng tác bằng chữ Hán với văn học chức năng ―Quan niệm văn dĩ tải đạo‖, ―văn dĩ minh đạo‖, ―văn dĩ quán đạo‖, ―thi dĩ ngôn chí‖ là những quan niệm thơ ca cổ điển của Nho gia Trung Quốc. Những quan niệm này ảnh hƣởng sâu rộng đến nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ phong kiến kể cả ở Việt Nam. Có căn cứ nói vua Đại Thuấn bốn nghìn năm trƣớc đã nêu ra công thức này. Nhƣng đáng tin cậy nhất là thời Chiến Quốc (475 - 221 Trƣớc Công nguyên.), sách ―Tả truyện‖ có ghi rõ: ―Thi dĩ ngôn chí‖ - thơ để nói chí, nhƣ thế là thiên về mặt biểu đạt thế giới chủ quan của thi nhân. Thi dĩ ngôn chí không phải là nguyên lí về bản chất và chức năng xã hội chung của thơ văn, mà chỉ là một mệnh đề về đặc trƣng thể loại của thơ ca. Chính vì thế các học phái khác cũng tán thành công thức này. Trang Chu có nói ―thi dĩ đạo chí‖ (Thiên hạ), ―đạo‖ là động từ, cũng nhƣ ―ngôn‖. Không nên có sự liên hệ đồng đẳng giữa Thi dĩ ngôn chí với ―văn dĩ tải đạo‖ hoặc thậm chí cho rằng Thi dĩ ngôn chí chỉ là biểu hiện của tinh thần ―văn dĩ tải đạo‖ vào thơ ca. Bởi vì ―văn dĩ tải đạo‖ xuất hiện sau gần 15 thế kỉ - vào đời Tống. Đây là một nguyên lí về bản chất và chức năng xã hội của văn học rất phiến diện, tiêu cực và sai lầm. ―Văn‖ ở đây chỉ là văn chính luận. ―Đạo‖ là ―lí học‖ của Tống Nho, kết tinh một cách hữu cơ những mặt tiêu cực của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Và văn "chở" cái đạo có sẵn nhƣ ―xe chở vật‖, nghĩa là hoàn toàn tách rời giữa nội dung và hình thức. Tƣơng ứng với tinh thần ―Văn dĩ tải đạo‖ trong lí luận thơ ca, là quan niệm của Hoàng Đình Kiên đời Tống chịu nhiều ảnh hƣởng trực tiếp của lí học Tống Nho, chủ trƣơng thơ ca phải ―lấy lí làm chủ‖.
Văn học trung đại Việt Nam vay mƣợn ngôn ngữ (chữ Hán), thể loại và những thi liệu từ văn học Trung Quốc và lẽ dĩ nhiên chịu ảnh hƣởng sâu sắc những quan niệm về văn chƣơng của nền văn học đó. Bởi thế, văn học Việt Nam về cơ bản cũng là một nền văn học chở đạo, nói chí. Trong đó, văn học thể hiện những chức năng ngoài văn học rất phổ biến nhƣ: chức năng tôn giáo: Thơ thiền (kệ - giải thích, tuyên truyền triết lí đạo Phật); Chức năng sử
104
học: Những truyện ghi chép lịch sử (Đại Việt sử ký, Đại Việt sử ký toàn thư); Chức năng xã hội: Chiếu (thiên tử thƣờng dùng chiếu để ban bố mệnh lệnh); Biểu (thần tử gửi cho vua chúa trình bày sự việc, ý kiến, đề nghị, cảm ơn); Hịch (do vua chúa, tƣớng lĩnh cổ động, thuyết phục, kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài).
Bảng 4.1 dƣới đây là kết quả khảo sát và thống kê số lƣợng tác phẩm ở
các thể loại văn học chức năng.
Bảng 4.1. Hiện tượng song ngữ ở các thể loại văn học chức năng
SÁNG TÁC CHỮ HÁN SÁNG TÁC CHỮ NÔM STT THỂ LOẠI SỐ LƢỢNG KHẢO SÁT
Số lƣợng Số lƣợng Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%)
100 5 0 0 5 1 Biểu
100 1 0 0 1 2 Cáo
100 12 0 0 12 3 Chiếu
41,7 5 7 58,3 12 4 Hịch
98,4 62 01 1,6 63 5 Thƣ
18,2 02 09 81,8 11 6 Văn tế
53,6 15 13 46,4 28 7 Kệ
Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết các thể loại văn học chức năng đều đƣợc viết bằng chữ Hán nhƣ: biểu, cáo, chiếu, thƣ (xem Phụ lục 2, 3 và 4). Trong số này, đáng chú ý nhất là thể cáo chỉ xuất hiện duy nhất một tác phẩm đó là Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Điều này có nghĩa là quy phạm về thể loại cáo không cho phép nó lần thứ hai xuất hiện nhƣ là một bản tuyên ngôn độc lập của lịch sử dân tộc vì điều kiện lịch sử xã hội không cho phép.
Thể loại biểu đƣợc viết hoàn toàn bằng chữ Hán. Biểu là thể loại thần tử làm để dâng lên các bậc vua chúa cho nên phải trang trọng, cung kính. Chữ Nôm không thích hợp trong việc này vì tính chất bình dị, thông tục của nó. Trong khi đó, thƣ là một thể loại dễ dùng vì có thể diễn tả những cảm xúc khác nhau với những đối tƣợng khác nhau. Nhƣng trong khảo sát 63 bức thƣ thì 62 bức trong đó nằm trong tập Quân trung từ mệnh tập – một tập văn chính luận của Nguyễn Trãi. Những bức thƣ trong tập này là thƣ từ Nguyễn
105
Trãi thay mặt Lê Lợi viết gửi cho tƣớng tá, ngụy quan, ngụy quân nhà Minh do đó không thể viết chữ Nôm vì ngƣời Trung Quốc không biết chữ ta hoặc vì tính chất quan trọng thực hiện những nhiệm vụ quân sự, chính trị khác. Chỉ có một bức thƣ viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Đình Chiểu là Ký bào đệ thơ đƣợc viết trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX khi văn học chữ Nôm đang thắng thế và bức thƣ lại gửi cho một ngƣời thân trong gia đình.
Thể loại hịch ghi nhận sự tồn tại các tác phẩm viết bằng chữ Hán ở giai đoạn đầu nhƣ Thảo Ma Sa động hịch của Lý Càn Đức, Phạt Tống lộ bố văn của Lý Thƣờng Kiệt, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn. Về sau, có thêm Xuất sư hịch của Ngô Thì Nhậm và Hịch bình Tây sát tả của Trần Tấn và Đặng Nhƣ Mai. Trong giai đoạn cuối của văn học Việt Nam trung đại, hịch chủ yếu đƣợc viết bằng chữ Nôm nhƣ Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây, Hịch đánh chuột,… (xem phụ lục 2)
Thể loại kệ chủ yếu đƣợc viết bằng chữ Hán ở giai đoạn đầu nhất là trong giai đoạn cực thịnh của Phật giáo Đại Việt (khoảng từ thế kỉ X – XI). Tuy nhiên, từ nửa cuối thế kỉ XVI trở về sau đã xuất hiện thêm nhiều bài kệ viết bằng chữ Nôm của Trần Thị Ngọc Am đƣợc ghi chép lại trong Chuyết Chuyết thiền sư ngữ lục.
Văn tế cũng là một thể loại văn học chức năng đƣợc sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên, số tác phẩm văn tế viết bằng chữ Nôm vƣợt trội hơn hẳn so với tác phẩm viết bằng chữ Hán (xem phụ lục 2).
Dƣơng Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu cho rằng: ―Văn tế là bài văn đọc lúc tế ngƣời chết (cũng có khi để tế sống) để kể tính nết, công đức của ngƣời ấy và bày tỏ tấm lòng kính trọng và thƣơng tiếc của mình‖ [63, tr.131].
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, trong văn học trung đại Việt Nam, thể loại văn học chức năng chủ yếu sử dụng chữ Hán. Về nội dung, văn học viết bằng chữ Hán thƣớng hƣớng về những nội dung cao cả, những vấn đề trọng đại, mang tính chất tao nhã, trang trọng. Về hình thức nghệ thuật đáng chú ý là sắc thái biểu cảm của từ Hán Việt nghiêng về cổ kính, trang trọng.
4.1.2.2. Hiện tượng sáng tác bằng chữ Hán ở các thể loại văn học
nghệ thuật
Thể loại văn xuôi tự sự Các thể loại văn xuôi tự sự bằng chữ Hán trong văn học Việt Nam thời trung đại ra đời từ khá sớm, ngay từ những thời kỳ đầu khi mới giành đƣợc
106
độc lập, khi việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học còn chƣa bắt đầu. Các tác phẩm thuộc loại hình tự sự bằng văn xuôi chủ yếu viết bằng chữ Hán. Trong nhóm này, thể loại truyện truyền kỳ viết bằng chữ Hán khá phát triển. Những tác phẩm đƣợc biết đến nhiều nhất ở thể loại này là Thánh Tông di thảo (tƣơng truyền là của Lê Thánh Tông?), Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm đều đƣợc viết bằng chữ Hán.
Trong khi Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi là tác phẩm truyền kỳ duy nhất viết bằng chữ Nôm. Cần lƣu ý Tân biên truyền kỳ mạn lục không phải là một sáng tác văn học mà là một cuốn ―giải âm‖ kiểu nhƣ phiên dịch là chủ yếu. Dù sao tác phẩm cũng cho thấy khả năng dùng chữ Nôm để chuyển dịch một tác phẩm văn xuôi tự sự. Các tác phẩm thuộc loại hình tự sự bằng văn xuôi cũng chủ yếu xuất hiện nhiều trong khoảng từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVII
Đến thế kỷ XVIII, bên cạnh loại hình văn xuôi tự sự chữ Hán là loại hình
tự sự văn vần viết bằng chữ Nôm với sự phát triển của thể loại truyện thơ.
THỂ LOẠI STT
Trong khi đó, các thể loại trữ tình nghệ thuật nhƣ thơ và phú, nhất là thơ có số lƣợng rất lớn. Và đáng chú ý ở hai thể loại này lại tồn tại song ngữ Hán – Nôm trong việc sáng tác, tạo thành một hiện tƣợng rất độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam. Bảng 4.2. Kết quả khảo sát và thống kê sống lượng tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm ở các thể loại văn xuôi tự sự và trữ tình SỐ LƢỢNG KHẢO SÁT 06 SÁNG TÁC CHỮ NÔM Tỉ lệ (%) 16,7 SÁNG TÁC CHỮ HÁN Tỉ lệ (%) 83,3 Số lƣợng 05 Số lƣợng 01 1 Truyện truyền kỳ
2 Ký sự, tùy bút 08 08 100 0 0
3 Tiểu thuyết chƣơng hồi 06 06 100 0 0
4 Phú 32 23 71,9 09 28,1
5 Thơ Rất lớn Rất lớn Rất lớn
Kết quả khảo sát cho thấy các thể loại văn xuôi tự sự tiếp thu từ Trung Quốc chủ yếu đƣợc viết bằng chữ Hán ngoại trừ tác phẩm Tân biên Truyền kỳ mạn lục đƣợc Nguyễn Thế Nghi dịch ra chữ Nôm. Điều này cho
107
thấy, việc sử dụng chữ Nôm trong một văn bản đồ sộ đến 17 hồi nhƣ Hoàng Lê nhất thống chí là rất khó khăn bởi cha ông ta dùng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt (chữ Nôm) bằng cách phức tạp hóa chữ Hán. Đây chính là một điểm hạn chế không nhỏ của việc sử dụng chữ Nôm để sáng tác các tác phẩm dài hơi (xem các phụ lục 5, 6, 7). Các thể loại trữ tình nghệ thuật Trong khi đó, các thể loại trữ tình trong văn học nghệ thuật nhƣ thơ, phú tồn tại song song các tác phẩm văn học chữ Hán và sáng tác chữ Nôm. Ở thể loại phú, có đến 09 bài phú Nôm trong tổng số bài khảo sát chiếm khoảng 28,1%. Số bài phú viết bằng chữ Hán có thể nhiều hơn con số 23 bài và tỉ lệ khoảng trên 71, 9%. Trong khi đó, ở thể loại thơ, con số này là rất lớn vì Việt Nam vốn đƣợc mệnh danh là ―thi quốc‖.
Có thể đi lí giải việc sáng tác bằng chữ Hán là chủ yếu ở các thể loại văn xuôi tự sự chứ không phải chữ Nôm là vì chữ Nôm về cơ bản là loại hình ghi âm kết hợp với phƣơng thức biểu ý tiếng Việt bằng chữ Hán (đọc theo âm Hán – Đƣờng) và bộ chữ Hán. Lối ghi âm này không thật chuẩn xác bởi hệ thống âm vị tiếng Hán không hoàn toàn trùng với hệ thống âm vị tiếng Việt. Một chữ Nôm có thể đọc đƣợc nhiều âm khác nhau và ngƣợc lại, một âm tiếng Việt có thể ghi bằng nhiều chữ Nôm khác nhau. Bởi vậy, chữ Nôm khó phát huy tác dụng trong lĩnh vực văn xuôi. Hơn thế nữa, văn xuôi thời trung đại không có dấu ngắt câu kể cả viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm đi chăng nữa.
Trong khi đó, các thể loại trữ tình nghệ thuật nhƣ thơ, phú nhờ những quy định chặt chẽ về cấu trúc của từng thể trên ba bình diện: số lƣợng âm tiết trên một câu, niêm và vần, thanh và điệu nên ngƣời đọc dễ định hƣớng trong cách ngắt câu, trong cách tìm âm đọc. Do đó, chữ Nôm phát huy đƣợc hiệu quả ở các thể loại này. Đặc biệt là thể loại thơ Đƣờng luật và phú. Dƣới đây, chúng tôi trình bày về hiện tƣợng song ngữ ở thể loại phú còn ở thơ Đƣờng luật sẽ nghiên cứu riêng trong một mục khác.
Theo Trần Đình Sử: ―Tính chất chung của phú là ca ngợi. Thể loại phú trong văn học Việt Nam cũng thế. Có hai loại phú – phú phúng gián và tỏ chí. Phú phúng gián là thể loại viết cho vua, ngợi ca cuộc sống vƣơng giả, để ngụ ý khen chê kín đáo‖ [132, 267].
108
Bài phú đầu tiên trong văn học Việt Nam thời trung đại là Ngọc tỉnh liên phú (Phú bông sen trong giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi, hình thức cổ kính, thuộc loại tụng phú (phú ca ngợi). Theo Quần hiền phú tập và Công dư tiệp kí, năm 1304, Mạc Đĩnh Chi đỗ đầu khoa thi Hội, nhƣng khi vào yết kiến, vua Trần Anh Tông thấy ông dung mạo xấu xí không muốn lấy đỗ trạng nguyên. Mạc Đĩnh Chi làm bài Ngọc tỉnh liên phú, gửi gắm chí mình dâng lên vua Trần. Vua xem rồi khen hay và để ông đứng đầu bảng nhƣ cũ. Từ đó ông đƣợc tin dùng.
Anh cũng là người quân tử ưa hoa sen đó chăng? Ta có giống hoa lạ trong ống áo này. Chẳng phải như đào trần lý tục; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy. Câu kỷ phòng tăng khó sánh; mẫu đơn đất Lạc nào tày. Giậu Đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh Quân lan khó sánh thay! Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa đây.
(Ngọc tỉnh liên phú – Mạc Đĩnh Chi, bản dịch) Dùng hình tƣợng bông sen quý, Mạc Đĩnh Chi cố ý đề cao ngƣời có phẩm chất trác việt, khí tiết cƣơng trực, không quỵ luỵ cầu danh lợi tầm thƣờng. Ngƣời đọc nhận ra sự quý giá của bông sen, cũng là cảm nhận đƣợc phẩm chất cao khiết của tác giả.
Các bài phú chữ Hán đời Trần, nói chung làm theo Hán phú: ngợi ca danh thắng, võ công, ngầm ý khuyên vua. Cảm hứng ngợi ca sự nghiệp thống nhất của đất nƣớc rất rõ. Trảm xà kiếm phú (Phú kiếm chém rắn) của Sử Hy Nhan đƣợc coi nhƣ một hiện tƣợng văn học đặc sắc, gây ấn tƣợng mạnh mẽ cho ngƣời đọc. Nội dung bài phú chia làm hai phần. Phần đầu, tác giả ca ngợi vẻ đẹp, tác dụng của thanh kiếm đối với việc tạo lập cơ nghiệp nhà Hán. Phần sau, mƣợn lời nhân vật khác bàn về thái bình và chiến tranh, tác giả ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị của triều Trần. Cho dù ca ngợi của Sử Hy Nhan có hơi quá, song bài phú đã thể hiện một cách sâu sắc và mới mẻ lòng yêu nƣớc gắn với lòng yêu hoà bình, chuộng chính nghĩa của tác giả:
Ôi, thánh triều ta, sung thượng văn học Thiên hạ nhất thống, thái bình thịnh trị Nếu có kiếm ni, dung đến làm chi.
(Trảm xà kiếm phú – Sử Hy Nhan, bản dịch) Với Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng), Trƣơng Hán Siêu
109
đã thể hiện rất rõ hai đặc trƣng cơ bản về nội dung và nghệ thuật của thể loại phú đó là: phô bày, tả vật, nói chí và phô trƣơng văn vẻ. Về nội dung, tráng chí bốn phƣơng đƣợc vẫy vùng thỏa mãn với các địa danh ở Trung Quốc cũng nhƣ những danh thắng và di tích lịch sử của đất Việt. Bài phú cũng thể hiện niềm tự hào dân tộc về chiến công thời đại và rút ra những giá trị triết lí sâu sắc: triết lí về đạo đức và lòng nhân trong việc trị nƣớc:
Giặc tan muôn thuở thăng bình Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
(Bạch Đằng giang phú – Trƣơng Hán Siêu, bản dịch) Thiên thu giám phú (Phú về gƣơng soi ngàn năm) của Phạm Mại lại lấy
gƣơng nhà Đƣờng mà nhắc vua:
Ấy xưa đế đình, Có chàng Cửu Linh. Ấp ôm trung nghĩa, Ngậm nhả tinh anh. Thấu suốt lẽ đời trị loạn; cảm thông tính sự hiền lành, Bèn soạn chép chuyện hung phế; nêu gương nọ thật rành rành. (Thiên thu giám phú – Phạm Mại, bản dịch) Bài phú kể về chuyện Trƣơng Cửu Linh, một nhà thơ nổi tiếng thời Đƣờng Huyền Tông, đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức tể tƣớng dâng lên nhà vua mƣời chƣơng sách ghi chép những việc có tính chất răn giới để khuyên can vua, gọi là Thiên thu kim giám lục. Nhiều bài phú đời Trần còn lấy sử sách Trung Quốc làm đề tài nhƣ Quan Chu nhạc phú (Phú xem nhạc nhà Chu) của Nguyễn Nhữ Bật, Bàn Khê điếu hoàng phú (Phú câu ngọc huỳnh ở Bàn Khê) của Trần Công Cẩn, Thang bàn phú (Phú cái chậu của vua Thang, chƣa rõ tác giả),… Bên cạnh những bài phú viết về các vị vua, trong văn học Việt Nam thời trung đại cũng có một số lƣợng không nhỏ các bài phú do vua ra đề để quần thần làm nhƣ chùm Diệp mã nhi phú (Phú con ngựa lá) của Nguyễn Phi Khanh và Đoàn Xuân Lôi, các bài Chí Linh sơn phú (Phú núi Chí Linh) của Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình Tuấn Du. Đáng chú ý là các bài phú ca ngợi võ công của dân tộc nhƣ Bạch Đằng giang phú (phú sông Bạch Đằng) của Trƣơng Hán Siêu, Xương Giang phú (Phú thành Xƣơng Giang) của Lý Tử Tấn Thiên Hưng trấn phú (Phú trấn Thiên Hƣng) của Nguyễn Bá Thông, …
110
Nội dung triết lý nghị luận trong thể phú thƣờng ngắn gọn và nằm ở
đoạn cuối của bài; nhƣng cũng đôi khi đƣợc phân bố trong toàn bài. Giọng triết luận luôn thống nhất với phong cách thể phú. Phú thƣờng miêu tả, tự sự với khoa trƣơng phóng đại. Các nhà làm phú đã học đƣợc phép khoa trƣơng theo lối ngợi ca, tán tụng suy tôn. Khoa trƣơng ở phú là thậm xƣng và ví von với những gì tuyệt đối. Nguyên tắc ―không có gì bằng và lối so sánh chồng chất tầng tầng lớp lớp giữ vai trò quyết định‖ [132, 271].
Giọng triết luận của thể loại phú biểu hiện ở hình thức vấn đáp văn xuôi thời Tiên Tần nhất là trong thời Chiến Quốc, thời đại mà các nhà du thuyết thể hiện tài năng thuyết khách của mình. Tuyến trần thuật đƣợc chuyển từ một nhân vật sang nhiều nhân vật tạo thành hình thức đối thoại. Chẳng hạn nhƣ trong bài Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) của Trƣơng Hán Siêu:
Giang biên phụ lão, Vị ngã hà cầu. Hoặc phù lê trượng, Hoặc trạo cô châu. Ấp dư nhi ngôn viết: “Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa, Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã”. (Bên sông bô lão hỏi, Hỏi ý ta sở cầu. Có kẻ gậy lê chống trƣớc, Có ngƣời thuyền nhẹ bơi sau. Vái ta mà thƣa rằng: ―Đây là chiến địa buổi Trùng Hƣng nhị thánh bắt Ô Mã, Cũng là bãi đất xƣa, thuở trƣớc Ngô chúa phá Hoằng Tháo‖.)
(Phú sông Bạch Đằng – Trƣơng Hán Siêu) Vì thế, giọng triết luận của phú chữ Hán có đặc điểm bàn cao luận rộng (―cao đàm khoát luận‖) và là một đặc trƣng của thi pháp thể loại phú nói chung và thể loại phú trong văn học Việt Nam thời trung đại nói riêng.
Trong khi đó, các bài phú Nôm lại thƣờng mang giọng điệu tự thuật, tự trào. Nhất là tiếng cƣời tự trào đã in vào lịch sử văn học dân tộc một ấn tƣợng nổi bật ở thể phú Nôm với những tác phẩm phú Nôm tiêu biểu nhƣ Tịch cư ninh thể phú (Nguyễn Hãng), Hàn nho phong vị phú (Nguyễn Công Trứ), Tài
111
tử đa cùng phú (Cao Bá Quát), Phú thầy đồ và Phú hỏng thi khoa Canh Tý (Trần Tế Xƣơng). Lấy ra một vài câu trong Hàn nho phong vị phú chẳng hạn là có thể thấy ngay sự hài hƣớc tràn trên câu chữ: Bốn vách tường mo; Ba gian nhà cỏ. Đầu kèo mọt tạc vẽ sao; Trước cửa nhện giăng màn gió. Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng; Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ. Đầu giường tre, mối giũi quanh co; Góc tường đất, giun đùn lố nhố. Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô; Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.
(Nguyễn Công Trứ) Giọng điệu tự thuật đƣợc thể hiện ở một bài phú rất độc đáo của Phật hoàng Trần Nhân Tông – Cư trần lạc đạo phú. Bài phú này đã vƣợt ra khỏi những quy phạm về nội dung và nghệ thuật của thể loại phú nói chung. Nó khẳng định sự cố gắng, tìm tòi, cách tân, Việt hóa một thể loại có nguồn gốc từ Trung Quốc này. Cư trần lạc đạo phú chia làm 10 hội (tƣơng đƣơng 10 phần khác nhau) gieo vần khác nhau ở mỗi hội và kết thúc bằng một bài thơ kệ. Cư trần lạc đạo phú cùng với Đắc phú lâm tuyền thành đạo ca (Trần Nhân Tông) và Vịnh Hoa Yên tự phú (Huyền Quang) tạo thành bộ ba tác phẩm phú viết bằng ngôn ngữ dân tộc tiêu biểu dƣới triều đại nhà Trần.
Nhƣ vậy, qua phân tích một số tác phẩm thuộc thể loại phú, chúng ta một lần nữa khẳng định lại rằng phú là một thể loại trữ tình tiếp thu từ Trung Quốc thể hiện rất sâu sắc hiện tƣợng song ngữ. Thông thƣờng những bài phú viết bằng chữ Hán thƣờng mang tính chất tán tụng với giọng điệu tụng ca hoặc giọng điệu triết luận. Trong khi đó, những bài phú viết bằng chữ Nôm thƣờng có giọng tự trào, tự thuật. Với những điểm nổi bật đó của thể loại phú, chúng tôi mạnh dạn xếp nó vào nhóm các thể loại văn học dân tộc hóa sẽ đƣợc trình bày tiếp ở dƣới đây.
4.1.3. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học dân tộc hóa Ở phần trên, chúng tôi đã xếp phú Nôm cùng với thơ Nôm Đƣờng luật
112
và truyện thơ Nôm Đƣờng luật là các thể loại văn học dân tộc hóa. Tuy nhiên, phú Nôm đã phân tích, trình bày ở phần Hiện tượng song ngữ Hán – Nôm ở các thể loại trữ tình nghệ thuật cho nên chúng tôi không trình bày phú Nôm ở đây nữa.
4.1.3.1. Thơ Nôm Đường luật Thơ Nôm Đƣờng luật là một thể loại có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam, là một hiện tƣợng độc đáo và tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam, là sản phẩm của sự giao thoa giữa thể loại văn học tiếp thu nƣớc ngoài (Trung Quốc) và đƣợc viết bằng ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm). Bên cạnh các thể thơ dân tộc nhƣ song thất lục bát, lục bát thơ Nôm Đƣờng luật có những đóng góp lớn đối với sự phát triển của văn học dân tộc.
Lã Nhâm Thìn trong cuốn Thơ Nôm Đường luật đã khảo cứu một cách tỉ mỉ, đầy đủ và hệ thống về hiện tƣợng độc đáo này. Tác giả đã phân tích một cách sâu sắc và thuyết phục về những điều kiện cho sự hình thành và phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ các yếu tố về ngôn ngữ, thể loại, những tiền đề về lịch sử xã hội, tƣ tƣởng, văn hóa, thẩm mĩ. Ông đã dành phần lớn trang viết để bàn về hệ thống đề tài chủ đề; hệ thống hình tƣợng và ngôn ngữ nghệ thuật cũng nhƣ hệ thống kết cấu của thơ Nôm Đƣờng luật. Công trình này ít nhiều đề cập đến hiện tƣợng song ngữ dù đây không phải là mục tiêu nghiên cứu chính của tác giả. Ở luận án này, chúng tôi tiếp tục kế thừa và phát triển những kết quả nghiên cứu liên quan đến hiện tƣợng song ngữ ở thể loại đƣợc coi là nhập tịch này. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam trên bình diện lớn là bộ phận văn học sáng tác bằng chữ Hán (ngôn ngữ vay mƣợn) và bộ phận văn học sáng tác bằng tiếng Việt - chữ Nôm (ngôn ngữ bản địa) còn ở bình diện nhỏ hơn ở thể loại, ngôn ngữ hay một tác phẩm chính là sự tồn tại của yếu tố Hán và yếu tố Nôm trên một chỉnh thể nhất định. Yếu tố Hán gồm chữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học. Còn yếu tố Nôm gồm chữ Nôm, ngôn ngữ đời sống và thi liệu văn học dân gian.
Về phƣơng diện nội dung, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, thơ Nôm Đƣờng luật thể hiện những nội dung không giống nhau. Nội dung của văn học đƣợc thể hiện tập trung thông qua hệ thống đề tài, chủ đề. Những đề tài, chủ đề mang yếu tố Hán thƣờng thiên về cái cao cả, tao nhã trong khi đó những đề tài, chủ đề mang yếu tố Nôm thƣờng thiên về cái đời thƣờng, bình dị, đậm chất dân tộc.
113
Về phƣơng diện nghệ thuật, thơ Nôm Đƣờng luật có những đặc điểm riêng về hệ thống hình tƣợng và ngôn ngữ nghệ thuật cũng nhƣ hệ thống kết cấu rất đặc trƣng của thể loại.
Hiện tƣợng song ngữ hay nói cách khác là yếu tố Hán và yếu tố Nôm trong hệ thống hình tƣợng của thơ Nôm Đƣờng luật đƣợc thể hiện trong ―những hình tƣợng là ƣớc lệ nghệ thuật có sẵn trong tƣ tƣởng, quan niệm và những hình tƣợng là ƣớc lệ nghệ thuật của quan hệ đời sống‖ [142, tr. 144]. Hệ thống thứ nhất là biểu hiện của yếu tố Hán giữ vai trò chủ yếu trong thơ Nôm Đƣờng luật trƣớc nửa đầu thế kỷ XVIII. Hệ thống thứ hai là biểu hiện của yếu tố Nôm có vị trí quan trọng trong văn học từ nửa sau thế kỷ XVIII.
Về ngôn ngữ, các yếu tố Hán về ngôn ngữ nhƣ nhƣ chữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học mà Lã Nhâm Thìn gọi là ―thành phần ngôn ngữ ngoại nhập và ngôn ngữ sách vở ngày một thuyên giảm‖ [142, tr.202]. Trong khi đó, yếu tố Nôm về ngôn ngữ nhƣ từ Việt, ngôn ngữ đời sống và thi liệu văn học dân gian có xu hƣớng ngày càng tăng. Từ đó, ông đƣa ra kết luận: ―Điều đó chứng tỏ thành phần ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ đời sống có đủ khả năng – phản ánh và thẩm mĩ – để thay thế dân thành phần ngôn ngữ ngoại nhập và ngôn ngữ sách vở‖ [143, tr.202]. Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy rằng, trong quá trình phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật, yếu tố Hán và yếu tố Nôm về ngôn ngữ phải hài hòa với nhau. Vừa có ngôn ngữ ngoại nhập và ngôn ngữ sách vở cho câu thơ, bài thơ thêm trang trọng, tao nhã nhƣng không quá cầu kỳ, khó hiểu, vừa có ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ dân tộc cho bài thơ gần gũi, bình dị mà không thô tục.
Về kết cấu, thơ Nôm Đƣờng luật cũng nhƣ thơ Đƣờng luật có hai thể phổ biến hơn cả là thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt. Trong khi một bài thơ tứ tuyệt thƣờng có kết cấu từng câu một là khai – thừa – chuyển – hợp hoặc kiểu kết cấu theo mô hình 2-2 thì một bài bát cú lại có những kiểu kết cấu là đề - thực – luận – kết, tiền giải – hậu giả hay kết cấu theo mô hình 4 -4. Tuy nhiên, trong văn học trung đại Việt Nam ghi nhận những trƣờng hợp thể thất ngôn bát cú và thể thất ngôn tứ tuyệt có những bài biến thể một câu lục ngôn, hai câu lục ngôn thậm chí ba câu lục ngôn nhƣ trong thơ Nguyễn Trãi. Đây là một hiện tƣợng độc đáo và hết sức thú vị. Và cũng là một sáng tạo của cha ông ta làm cho thơ Đƣờng luật Nôm trở nên dân tộc hơn. Bên cạnh sự phá cách với câu thơ lục ngôn, cách ngắt nhịp 3/4 ở khá nhiều câu thơ cũng là một biểu hiện dân tộc hóa một thể loại văn học tiếp thu nƣớc ngoài.
114
4.1.3.2. Truyện thơ Nôm Đường luật Quá trình tiếp thu văn hóa và văn học chữ Hán giúp cha ông ta nhận ra nhiều điều. Chữ Hán vốn là một thứ ngôn ngữ vay mƣợn nƣớc ngoài. Với truyền thống yêu nƣớc và ý thức dân tộc các thế hệ ngƣời Việt luôn cố gắng tìm tòi, sáng tạo hoặc Việt hóa các yếu tố ngoại lai. Chúng ta đã thành công rực rỡ với hiện tƣợng thơ Nôm Đƣờng luật. Trƣớc đó, vào khoảng thế kỷ XIII, khi việc dùng chữ Nôm vào sáng tác văn học, có lẽ một số ngƣời cũng đã cố gắng làm điều tƣơng tự đối với thể phú nhƣng không thành công. Những bài phú Nôm của Trần Nhân Tông, Huyền Quang Lý Đạo Tái,… có những cách thể hiện mới lạ. Sau này, vào thế kỷ XVIII – XIX, hậu bối của các vị ấy cũng cho ra đời nhiều bài phú Nôm nhƣng chừng ấy là không đủ để chứng tỏ rằng phú Nôm là một thể loại nữa đƣợc dân tộc hóa thành công. Nền văn học dân tộc tiếp tục chứng kiến một nỗ lực nữa trong việc dân tộc hóa thể loại truyện thơ bằng cách diễn đạt những câu chuyện trong lịch sử hay trong dân gian bằng thơ Đƣờng luật hoặc những bài thơ Đƣờng luật liên hoàn viết bằng chữ Nôm hay còn gọi là truyện thơ Nôm Đƣờng luật.
Chúng tôi cho rằng, truyện thơ Nôm Đƣờng luật là sản phẩm của sự giao thoa giữa các thể loại văn học nội sinh và yếu tố tiếp thu nƣớc ngoài. Quá trình Việt hóa thể loại thơ Đƣờng luật ở phƣơng thức tự sự hoặc là tự sự bằng thơ Đƣờng luật với ngôn ngữ dân tộc. Quá trình này gặp rất nhiều khó khăn bởi thơ Đƣờng luật là một thể loại rất cô đọng và súc tích với những quy định rất chặt chẽ thậm chí đến mức mô hình hóa. Do đó, dù theo cách nào cũng khó có thể mang lại thành công. Tuy nhiên, với những nỗ lực của mình, ông cha ta cũng kịp để lại những truyện thơ Đƣờng luật dù ít ỏi nhƣ Truyện Vương Tường, Lâm tuyền kì ngộ, Tô công phụng sứ,… Đó là minh chứng của sự tìm tòi, sáng tạo của văn nhân đất Việt.
Con số ba tác phẩm ít ỏi cũng đồng nghĩa nỗ lực này đã không mang lại thành công. Nguyên nhân của sự không thành công này đến từ những quy định rất chặt chẽ về luật thơ của thơ Đƣờng luật. Chặt chẽ đến mức mô hình hóa. Các thủ pháp thơ Đƣờng luật thƣờng chú trọng tả cảnh ngụ tình, ý tại ngôn ngoại, dồn nén cảm xúc và đặc biệt rất kiệm chữ (thất ngôn tứ tuyệt có 28 chữ, thất ngôn bát cú có 56 chữ). Do đó, thơ Nôm Đƣờng luật không phù hợp để tự sự (yếu tố cơ bản của truyện).
4.1.4. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học nội sinh Quá trình tiếp thu văn hóa và văn học chữ Hán giúp cha ông ta nhận ra
115
nhiều điều. Chữ Hán vốn là một thứ ngôn ngữ vay mƣợn của nƣớc ngoài. Với truyền thống yêu nƣớc và ý thức dân tộc các thế hệ ngƣời Việt luôn cố gắng tìm tòi, sáng tạo hoặc Việt hóa các yếu tố ngoại lai. Chúng ta đã thành công rực rỡ với hiện tƣợng thơ Nôm Đƣờng luật. Một thể loại có sự tiếp thu nƣớc ngoài là yếu tố Đƣờng luật kết hợp với yếu tố dân tộc là tiếng Việt – chữ Nôm. Trƣớc đó, vào khoảng thế kỷ XIII, khi việc dùng chữ Nôm vào sáng tác văn học, có lẽ một số ngƣời cũng đã cố gắng làm điều tƣơng tự đối với thể phú nhƣng không thành công. Những bài phú Nôm của Trần Nhân Tông, Huyền Quang Lý Đạo Tái,… có những cách thể hiện mới lạ. Sau này vào thế kỷ XVIII – XIX, hậu bối của các vị ấy cũng cho ra đời nhiều bài phú Nôm nhƣng chừng ấy là không đủ để chứng tỏ rằng phú Nôm là một thể loại nữa đƣợc dân tộc hóa thành công. Nền văn học dân tộc tiếp tục chứng kiến một nỗ lực nữa trong việc dân tộc hóa thể loại truyện thơ bằng cách diễn đạt những câu chuyện trong lịch sử hay trong dân gian bằng thơ Đƣờng luật hoặc những bài thơ Đƣờng luật liên hoàn viết bằng chữ Nôm. Con số ba tác phẩm ít ỏi là Truyện Tô Công phụng sứ, Truyện Vương Chiêu Quân và Truyện lâm tuyền kỳ ngộ cũng đồng nghĩa nỗ lực này thất bại nhƣ đã nói ở trên.
Sự vận động và phát triển không ngừng nghỉ của văn học cũng đồng nghĩa các thế hệ nhà văn, nhà thơ phải suy nghĩ và sáng tạo. Đầu thế kỷ XVIII, Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào ra đời. Sau đó, một loạt truyện thơ viết bằng chữ Nôm cả bình dân và bác học cũng xuất hiện đánh dấu sự ra đời, phát triển rực rỡ và có những tác phẩm đạt đến đỉnh cao của thể loại truyện thơ Nôm hay gọi tắt là truyện Nôm nhƣ Truyện Kiều của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Tiếp đến, khoảng những năm 40 của thế kỷ XVIII, Đặng Trần Côn cho ra đời Chinh phụ ngâm kéo theo sự xuất hiện của bảy bản dịch và phỏng dịch tác phẩm này. Điều đó đã mở ra một khuynh hƣớng văn học mới và một thời đại mới trong văn học viết bằng chữ Nôm. Cùng với sự xuất hiện của Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân, và các khúc ngâm khác ở thế kỷ XIX nhƣ Thu dạ lữ hoài ngâm của Đinh Nhật Thận, Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ, Quả phụ ngâm và Bần nữ thán (chƣa rõ tên tác giả), thể loại ngâm khúc đã đứng vững và tạo đƣợc thành tựu lớn về nội và nghệ thuật thể hiện trong lịch sử văn học nƣớc nhà với tƣ cách là thể loại thuần dân tộc. Cùng với truyện thơ và ngâm khúc, hát nói cũng là một thể loại thuần túy dân tộc nằm trong quá trình hình thành các thể loại văn học nội sinh đó.
116
Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại văn học nội sinh không còn nổi bật nhƣ các thể loại tiếp thu nƣớc ngoài hay thể loại dân tộc hóa nữa. Lúc này, văn học chữ Nôm đang rất phát triển và chiếm ƣu thế hơn hẳn so với văn học chữ Hán. Biểu hiện của hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại khác nhau cũng không giống nhau. Bảng 4.3 dƣới đây là kết quả khảo sát và thống kê các số lƣợng tác phẩm của các thể loại văn học nội sinh là truyện thơ, ngâm khúc và hát nói ở cả thành phần văn học viết bằng chữ Hán và thành phần văn học viết bằng chữ Nôm.
Bảng 4.3. Hiện tượng song ngữ ở các thể loại văn học nội sinh
STT THỂ LOẠI SỐ LƢỢNG KHẢO SÁT
1 Truyện thơ 2 Ngâm khúc 3 Hát nói 15 07 14 SÁNG TÁC CHỮ HÁN Số lƣợng 01 02 0 Tỉ lệ (%) 6,7 22,2 0 SÁNG TÁC CHỮ NÔM Số lƣợng 14 05 14 Tỉ lệ (%) 93,3 77,8 100
Dƣới đây sẽ khảo sát, phân tích hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại cụ thể. 4.1.4.1. Truyện thơ Sự vận động và phát triển không ngừng nghỉ của văn học cũng đồng nghĩa các thế hệ nhà văn, nhà thơ phải suy nghĩ và sáng tạo. Từ đầu thế kỷ XVIII, Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào ra đời. Sau đó, một loạt truyện thơ viết bằng chữ Nôm cả bình dân và bác học cũng xuất hiện đánh dấu sự ra đời, phát triển rực rỡ và có những tác phẩm đạt đến đỉnh cao của thể loại truyện thơ Nôm hay gọi tắt là truyện Nôm nhƣ Truyện Kiều của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Theo Hoàng Hữu Yên, ―chúng ta ghi nhận rằng thể truyện tự sự bằng văn xuôi đều đƣợc viết bằng chữ Hán, và cũng thể ấy bằng văn vần đều đƣợc viết bằng chữ Nôm. Do đó khi nói truyện văn vần (truyện thơ) túc là đã bao hàm loại truyện này là truyện Nôm‖ [163, tr.232]. Về cơ bản, chúng tôi cũng nhất trí với nhận định này của Hoàng Hữu Yên. Theo khảo sát, tác giả luận án nhận thấy chỉ có một tác phẩm tự sự văn vần viết bằng chữ Hán đó là tác phẩm Hương miệt hành (xem Phụ lục 7). Lâu nay, ngƣời ta vẫn cho rằng Hương miệt hành là truyện thơ viết bằng chữ Hán có lẽ vì yếu tố tự sự, cốt truyện của nó. Nhƣng thiết nghĩ, trong văn học trung đại, tên tác phẩm thƣờng
117
hay gắn liền với thể loại. Có lẽ chữ ―hành‖ ở đây có ý chỉ thể loại của tác phẩm này? Đây là một tác phẩm viết theo thể hành chăng?
Truyện Nôm là loại hình tự sự bằng thơ dùng ngôn ngữ văn tự dân tộc- chữ Nôm để sáng tác. Truyện Nôm có thể chia thành hai tiểu loại nhỏ là truyện thơ Đƣờng luật (nhƣ Truyện Vương Tường, Lâm tuyền kì ngộ, Truyện Tô Công phụng sứ,…); Truyện thơ lục bát: chiếm đa số, có giá trị lớn (nhƣ Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên,..).
Về nội dung, truyện Nôm bình dân thể hiện quan niệm đạo đức, mơ ƣớc bình dân, đề cao tình nghĩa ngƣời với ngƣời, khẳng định quan điểm ―ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác‖. Ở nhóm này, những truyện tiêu biểu có thể kể đến nhƣ: Truyện Phạm Tải – Ngọc Hoa, Truyện Tống Trân – Cúc Hoa, Truyện Phạm Công – Cúc Hoa, Truyện Thạch Sanh, Truyện trê cóc… Truyện Nôm bình dân thƣờng khuyết tên tác giả, cốt truyện lấy từ truyện dân gian. Trong khi đó, những truyện Nôm bác học nhƣ: Truyện Kiều, Truyện Phan Trần, Truyện Sơ kính tân trang, Truyện Lục Vân Tiên,… có tên tác giả, cốt truyện thƣờng lấy từ truyện cổ hoặc tiểu thuyết Trung Quốc đƣợc phát triển sáng tạo. Tuy nhiên vẫn có một số tác phẩm do tác giả tự xây dựng cốt truyện (nhƣ Truyện Sơ kính tân trang – Phạm Thái, Truyện Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu,..). Nội dung truyện Nôm bác học thƣờng khẳng định lễ giáo phong kiến, đề cao tình yêu tự do, giải phóng tình cảm con ngƣời, mang ý nghĩa nhân sinh cao đẹp.
Về nghệ thuật, truyện thơ Nôm đƣợc viết bằng hai thể thơ là thể thơ bát cú Đƣờng luật (nhiều bài liên hoàn) và thể thơ lục bát. Trong khi thể thơ Đƣờng luật là một yếu tố ngoại nhập, mang đậm dấu ấn văn hóa Hán thì thể lục bát là một thể thơ của dân tộc. Truyện thơ viết bằng chữ Hán chỉ có duy nhất một mình Truyện hương miết hành. Truyện thơ Nôm viết bằng thể Đƣờng luật không nhiều chỉ có ba truyện là Truyện Vương Chiêu Quân, Truyện Tô Công phụng sứ và Truyện lâm tuyền kỳ ngộ. Còn phần lớn truyện Nôm viết bằng thể lục bát bao gồm cả truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học.Điều này cho thấy, ở thể loại truyện Nôm cho thấy sự ƣu thắng của yếu tố Nôm của ngôn ngữ dân tộc.
Về ngôn ngữ, các yếu tố Hán về ngôn ngữ nhƣ từ Hán Việt, điển cố và thi liệu Hán học vẫn chi phối nhiều đến sáng tác truyện Nôm đặc biệt là ở nhóm truyện Nôm bác học. Ở chiều ngƣợc lại, các yếu tố Nôm về ngôn
118
ngữ nhƣ từ Việt, ngôn ngữ đời sống và thi liệu văn học dân gian lại ảnh hƣởng sâu đậm hơn trong truyện Nôm bình dân. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa hai yếu tố này ở nhiều tác phẩm rất chặt chẽ, hài hòa, tạo nên những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao, đặc biệt là Truyện Kiều, đỉnh cao của thể loại truyện Nôm – tập đại thành của thi ca Việt Nam (xem phụ lục 13, 14).
4.1.4.2. Ngâm khúc Về khái niệm ngâm khúc, có lẽ Dƣơng Quảng Hàm là ngƣời đƣa ra sớm nhất. Trong Việt Nam văn học sử yếu, ông cho rằng: ―Ngâm là một bài văn vần tả những tình cảm ở trong lòng, thứ nhất là những tình buồn sầu, đau, thƣơng. Các khúc ngâm trong ta vẫn làm theo thể song thất lục bát‖ [58, tr. 302]. Sau Dƣơng Quảng Hàm có rất nhiều ngƣời nữa đã đƣa ra những nhận định về thể loại ngâm khúc. Về thể loại này cũng đã có ít nhất hai luận án tiến sĩ nghiên cứu của Ngô Văn Đức với đề tài ―Ngâm khúc – quá trình hình thành phát triển và đặc trƣng thể loại‖ và Đào Thị Thu Thủy với đề tài ―Khúc ngâm song thất lục bát những chặng đƣờng phát triển nghệ thuật‖. Tuy nhiên, những công trình này không nhắc đến vấn đề hiện tƣợng song ngữ vì đây không phải là mục tiêu nghiên cứu của những luận án đó.
Qua khảo sát các tác phẩm ở thể loại ngâm khúc thì có bảy tác phẩm ở thể loại này trong văn học trung đại Việt Nam, chủ yếu đƣợc sáng tác trong các thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX, các khúc ngâm ở thế kỷ XX không nằm trong đối tƣợng nghiên cứu của luận án nên không tiến hành khảo sát (xem phụ lục 10). Một điều đáng chú ý là trong số bảy khúc ngâm này thì có một tác phẩm đƣợc tác giả sáng tác và sau đó có một phong trào diễn Nôm nó đó là Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn. Các bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm khúc sau này chỉ có một bản có giá trị nghệ thuật cao, đƣợc nhiều ngƣời biết đến là bản diễn Nôm của bà Đoàn Thị Điểm hoặc của ông Phan Huy Ích (?).Vì lí do gì mà cùng một tác phẩm đƣợc viết bằng chữ Hán lại có nhiều bản dịch nó ra ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm)? Điều đầu tiên, ai cũng thừa nhận rằng Chinh phụ ngâm khúc là một tác phẩm thể hiện một khuynh hƣớng mới trong văn học, mang dấu ấn thời đại rõ nét và có nghệ thuật điêu luyện. Nhƣng cái quan trọng hơn, theo Nguyễn Lộc thì ―Chinh phụ ngâm là một tác phẩm viết bằng chữ Hán giữa một thời đại mà chữ Nôm đang phát triển, nhiều ngƣời không bằng lòng với nguyên tác của nó, đã tìm cách dịch nó ra tiếng nói dân tộc để mọi ngƣời có thể thƣởng thức dễ dàng‖ [100, tr. 154-155].
119
Bên cạnh đó, Tác phẩm Thu dạ lữ hoài ngâm của Đinh Nhật Thận cũng đƣợc sáng tác bằng nguyên văn chữ Hán theo thể song thất lục bát, sau đó tác phẩm đƣợc chính tác giả diễn Nôm cũng theo thể song thất lục bát, tạo nên nét đặc sắc riêng, trở thành một hiện tƣợng song ngữ độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam. Đinh Nhật Thận sáng tác bằng chữ Hán rồi sau đó tự mình dịch ra chữ Nôm vì cớ gì? Phải chăng nhà thơ muốn khoe cái tài của mình ở cả văn chƣơng chữ Hán vốn đƣợc coi là văn chƣơng sách vở, cao quý và cả văn chƣơng viết bằng ngôn ngữ dân tộc vốn nôm na đời thƣờng? Hay bản chữ Hán ông không thật hài lòng vì chƣa diễn tả đƣợc đúng cái ý, cái tình với bao nhiêu tâm sự chất chứa? Có lẽ là cả hai.
4.1.4.3. Hát nói Hát nói là một thể thi ca dân tộc, đƣợc sinh ra từ bộ môn nghệ thuật ca trù và trở thành một thể loại văn học dân tộc độc đáo trong nền văn học Việt Nam nói chung, văn học chữ Nôm nói riêng. Trần Đình Hƣợu trong Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại cho rằng: ―Sau truyện Nôm, hát nói là một thành tựu mới của văn học dân tộc. Hát nói tiếp nối các vấn đề của ngâm khúc và truyện Nôm một cách khác, cũng phản ánh tính không trọn vẹn sự phát triển đô thị của nƣớc ta‖ [83, tr. 323].
Khi sáng tác ra một bài hát nói tác giả không nhằm thuyết giáo hay giảng về một triết lý nào đó. Văn chƣơng hát nói không nhằm mục đích ―văn dĩ tải đạo‖ mà thƣờng sáng tác và biểu diễn theo lối tức tịch (ngay tại chiếu hát – sáng tác rồi hát luôn) nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu giải trí. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, các nhà thơ xƣa, tuy bề ngoài tả cuộc sống an nhàn, tự tại, hƣởng lạc nhƣng trong lòng vẫn canh cánh một nỗi lòng với nhân dân, đất nƣớc.
Qua khảo sát 14 bài hát nói, kết quả cho thấy trong bài hát nói thƣờng hay có 2 câu thơ bằng chữ Hán mƣợn của ngƣời xƣa hoặc do chính tác giả làm ra viết theo thể ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Còn về cơ bản, thơ hát nói là một thể thơ dân tộc nhất trong các thể loại văn học nội sinh. Hát nói ―sử dụng tiếng thô, tiếng tục, tiếng lóng trong sinh hoạt hàng ngày, tạo ra giọng sống động, pha tạp vừa chữ, vừa nôm, vừa thanh, vừa tục‖ [132, tr. 191].
Thành công nhất ở thể loại hát nói trong văn học Việt Nam thời trung đại, không ai khác chính là Nguyễn Công Trứ với 81 bài. Bên cạnh đó, những cái tên nhƣ Nguyễn Bá Xuyến (23 bài), Cao Bá Quát (16 bài), Nguyễn Khuyến (9 bài), Dƣơng Khuê (13 bài), Chu Mạnh Trinh (3 bài),… cũng rất
120
nổi bật (Số lƣợng thống kê theo Tuyển tập hát nói do Nguyễn Đức Mậu sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu). Dù không hoàn toàn đồng nhất nhƣng cũng có thể chỉ ra đƣợc những điểm chung ở những con ngƣời này. Đó là những con ngƣời có tài, có khí phách hay là những con ngƣời tài tử mà theo Trần Đình Sử, thì tài tử không phải là ngƣời tài theo quan niệm thông thƣờng, mà là kẻ lấy ngông làm tài, tài thoát ra thói tục, vì vậy mà nó gắn rất chặt với tài tình. Trần Đình Hƣợu lại gọi là ―đa tài và thị tài‖.
Hát nói cùng với truyện Nôm và ngâm khúc, là ba thể loại do tự thân nền văn học dân tộc sản sinh ra trên cơ sở vận động, biến đổi và phát triển của ba thể thơ vừa có nguồn gốc ngoại nhập là thơ Đƣờng luật, vừa thuần túy dân tộc là thơ song thất lục bát và lục bát của bộ phận văn học viết bằng chữ Nôm. Bảng 4.2 dƣới đây sẽ thống kê số lƣợng câu trong bài hát nói của Cao
Bá Quát và các câu viết bằng chữ Hán trong các bài đó.
Bảng 4.4. Khảo sát câu chữ Hán ở thể loại hát nói của Cao Bá Quát
STT Tên bài Các câu viết bằng chữ Hán
Trải khắp đường đời Thanh nhàn là lãi
Bà Nguyễn Thị Kim
Núi cao trăng sáng 1 Thế sự phù trầm 2 Hơn nhau một chữ thì 3 Phận hồng nhan có mong manh 4 Nhân sinh thấm thoắt 5 Nghĩ đời mà chán 6 Nghĩ tiếc cho ai 7 Nhớ giai nhân 8 9 Tự tình 10 Mấy khi gặp gỡ 11 12 13 May rủi 14 15 Hàn Tín 16 Tài hoa là nợ Số lƣợng câu trong bài 12 15 11 11 11 11 11 12 11 11 11 15 11 11 11 11 1,3,5,6 1,9 5,6,8 1 1,5,6 1,2,5,10 1,5,6 5,6 1,5,6 1,5,6,9 1,5,6 1,2,9,10 Không có 5,6 4,5,6 5,6
121
Mặc dù số lƣợng sáng tác ở thể loại hát nói của Cao Bá Quát không nhiều (chỉ 16 bài) nhƣng qua đây cũng có thể hiểu thêm về tính cách và con ngƣời của ông. Kết quả khảo sát cho thấy, trong tổng số 16 bài thơ hát nói có 02 bài 15 câu; 02 bài 12 câu và 12 bài còn lại 11 câu; 10/16 bài có câu đầu tiên viết bằng chữ Hán; 11/16 bài các câu 5 và 6 đều viết bằng chữ Hán; 01 bài không có câu nào và 01 bài chỉ có 01 câu viết bằng chữ Hán.
Những câu viết bằng chữ Hán trong hát nói của Cao Bá Quát không phải là biểu hiện của hiện tƣợng song ngữ mà là dấu vết sự ảnh hƣởng của văn học nƣớc ngoài ở thể loại hát nói cũng giống nhƣ các thể loại văn học nội sinh khác. Cùng với truyện Nôm và ngâm khúc, hát nói là một trong ba thể loại viết bằng thơ đặc trƣng nhất của khu vực văn học chữ Nôm.
4.2. HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ VỚI NGÔN NGỮ TRONG VĂN
HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
4.2.1. Quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam từ phƣơng diện ngôn ngữ
Trong cuốn Phân tích tác phẩm văn học trung đại dưới góc nhìn thể loại, Lã Nhâm Thìn cho rằng, ―Lịch sử văn học trung đại Việt Nam, ở những vấn đề cơ bản nhất, ở những quy luật cơ bản nhất chính là lịch sử phát triển thể loại văn học. Những vấn đề về nội dung, về nghệ thuật của văn học không nằm ngoài thể loại văn học. Số phận lịch sử của các thể loại văn học phản ánh con đƣờng phát triển của văn học‖ [145, tr. 5]. Quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam xét đến cùng cũng là sự phát triển của thể loại vì ngôn ngữ văn học bao giờ cũng đi cùng thể loại và mang đặc trƣng của thể loại.
Có thể khái quát sự phát triển hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam nằm trong hai quy luật lớn. Quy luật thứ nhất, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam ở phƣơng diện ngôn ngữ đi từ sáng tác chữ Hán là chủ yếu, tiếp đến là sử dụng chữ Nôm trong sáng tác cuối cùng là việc sáng chữ Nôm giữ vai trò ƣu thế; Quy luật thứ hai, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam ở phƣơng diện ngôn ngữ đi từ yếu tố Hán với ngôn ngữ sách vở, bác học, đậm tính chất tao nhã, uyên bác đến yếu tố Nôm với ngôn ngữ càng gần đời sống, tự nhiên bình dị.
Quy luật thứ nhất, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam ở phƣơng diện ngôn ngữ đi từ sáng tác chữ Hán là chủ yếu, tiếp đến là sử dụng chữ Nôm trong sáng tác cuối cùng là việc sáng chữ Nôm giữ vai trò ƣu thế.
122
Có thể khái quát quá trình phát triển của ngôn ngữ văn học trung đại
Việt Nam qua sơ đồ dƣới đây:
Sơ đồ 4.2. Sự phát triển của ngôn ngữ văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn hiện tượng song ngữ
Trong giai đoạn đầu, ngôn ngữ của văn học trung đại Việt Nam là chữ Hán, một ngôn ngữ mà cha ông ta đã vay mƣợn từ Trung Quốc. Chúng ta đã mƣợn từ văn học Trung Quốc bao gồm ngôn ngữ văn xuôi (tản văn), văn vần (vận văn) và văn biền ngẫu (biền văn) trong sáng tác các thể loại văn học viết bằng chữ Hán. Trong văn xuôi chữ Hán, các thể loại truyện ký, quái, lục phát triển với các tác phẩm tiêu biểu nhƣ Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên, Lĩnh Nam trích quái của Trần Thế Pháp, Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Đại Việt sử kí của Lê Văn Hƣu,… Sáng tác bằng văn biền ngẫu (câu văn đối nhau thành từng cặp), có khi tản văn pha biền văn cũng để lại nhiều tác phẩm có giá trị nhƣ Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bạch Đằng giang phú của Trƣơng Hán Siêu, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn, Biểu tạ ơn của Nguyễn Trãi,… Ngôn ngữ văn vần đặc biệt rất phát triển với rất nhiều thi tập chữ Hán viết theo thể thơ Đƣờng luật và thơ cổ phong.
Từ thế kỷ cuối thế kỷ XIII, bên cạnh ngôn ngữ vay mƣợn từ nƣớc ngoài là chữ Hán trong sáng tác văn học đã xuất hiện việc sử dụng chữ Nôm (một loại ngôn ngữ ghi âm tiếng Việt) vào sáng tác văn chƣơng mà ngƣời khởi xƣớng và có nhiều đóng góp nhất chính là Nguyễn Thuyên với thơ Nôm Đƣờng luật hay còn gọi là thơ Hàn luật. Kể từ đây, văn chƣơng nƣớc Việt đã hình thành thêm một bộ hận sáng tác nữa viết bằng tiếng Việt, chữ Nôm bên cạnh các sáng tác bằng chữ Hán có từ trƣớc đó. Các thể loại đầu tiên viết bằng chữ Nôm là văn tế với Văn tế cá sấu của Nguyễn Thuyên, phú Nôm cũng có nhiều tác phẩm đáng chú ý là bài phú Ở cõi trần vui với đạo (Cƣ trần lạc đạo phú) của Trần Nhân Tông có kết cấu không giống với một
123
bài phú thông thƣờng theo quy phạm thể loại của Trung Quốc. Có lẽ, Thƣờng hoàng Trần Nhân Tông, Đệ nhất tổ của Thiền phái Trúc lâm Yên Tử đã cố gắng Việt hóa thể loại phú Trung Quốc nhƣng không thành công. Tuy nhiên, văn học dân tộc xuất hiện một thể loại dân tộc hóa thể loại tiếp thu. Đó là thơ Nôm Đƣờng luật. Trên cơ sở thơ Đƣờng luật Trung Quốc, văn học Việt Nam đã Việt hóa thành thơ Nôm Đƣờng luật mang bản chất, chức năng mới của thể loại. Quá trình dân tộc hóa này thành công tới mức: ―khác với tất cả những thể loại ngoại nhập khác, thơ Nôm Đƣơng luật không là kiều báo nước ngoài mang quốc tịch Việt. Cái nguồn gốc ngoại lai của nó trở nên rất thứ yếu, đến mức văn học dân tộc quên cấp cả thị thực nhập cảnh và thơ Nôm Đƣờng luật mặc nhiên đứng cùng hàng với lục bát, song thất lục bát – những thể loại thuần túy dân tộc‖ [142, tr. 51].
Từ thế kỷ XVI – thế kỷ XVII, khi văn học trung đại Việt Nam xuất hiện những thể loại văn học nội sinh thì cũng là lúc ngôn ngữ dân tộc, chữ Nôm khẳng định đƣợc vị trí của mình và chiếm ƣu thế trong các thể loại văn học. Các thể loại văn học viết bằng chữ Nôm nhƣ hát nói (hát ca trù, hát ả đào), lời thơ tƣơng đối tự do kết hợp với âm nhạc (Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức Mao), ngâm khúc – gồm khúc vãn, khúc ngâm, viết theo thể song thất lục bát, đôi khi viết theo thể lục bát (Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn của Đào Duy Từ), truyện thơ viết theo thể lục bát (Truyện Song Tinh của Nguyễn Hữu Hào). Đến thế kỷ XVIII – Thế kỷ XIX, những thể loại văn học nội sinh đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật hết sức rực rỡ: ngâm khúc với bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm của Phan Huy Ích, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều; truyện thơ với kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu… hát nói với nhiều bài nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ. Điều đó chứng tỏ rằng trong giai đoạn cuối của văn học trung đại, chữ Nôm đã hoàn thiện và giữ vị trí ƣu thắng trong nền văn học dân tộc.
Quy luật thứ hai, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam ở phƣơng diện ngôn ngữ đi từ yếu tố Hán với ngôn ngữ sách vở, bác học, đậm tính chất tao nhã, uyên bác đến yếu tố Nôm với ngôn ngữ càng gần đời sống, tự nhiên bình dị.
Ở giai đoạn đầu của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam, giữ vai trò trung tâm là yếu tố Hán với ngôn ngữ sách vở, bác học, đậm tính chất tao nhã, uyên bác. Trong đó, ngôn ngữ văn học là chữ Hán với sự
124
xuất hiện với tần xuất dày đặc các điển tích, điển cố và thi liệu Hán học. Tiếp đến là sự đan xen giữa yếu tố Hán với ngôn ngữ sách vở, bác học, đậm tính chất tao nhã, uyên bác và yếu tố Nôm với ngôn ngữ càng gần đời sống, tự nhiên bình dị. Sự đan xen giữa hai yếu tố này thể hiện ở nhiều thể loại những đáng chú ý nhất là trong thơ Nôm Đƣờng luật.
Ở giai đoạn cuối, yếu tố Nôm với ngôn ngữ càng gần đời sống, tự nhiên bình dị thắng thế với ngôn ngữ trong các sáng tác của Nguyễn Khuyến và đặc biệt là Trần Tế Xƣơng. Đây cũng là cơ sở quan trọng cho sự hình thành văn học hiện thực và văn học trào phúng trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.
4.2.2. Vấn đề xử lí các yếu tố ngoại nhập và nội sinh trên phƣơng
diện ngôn ngữ ở hiện tƣợng song ngữ
4.2.2.1. Ngôn ngữ Hán trong văn học trung đại Việt Nam Việc sử dụng chữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học trong tác phẩm văn chƣơng, thƣờng đƣợc xem là thành phần ngôn ngữ bác học. Điều này đã trở thành một truyền thống của văn học trung đại. Ở đây, khi tìm hiểu ngôn ngữ Hán trong sáng tác văn chƣơng, chúng tôi cũng sẽ lấy những khảo sát từ nghiên cứu trƣờng hợp (case study) Truyện Kiều của Nguyễn Du. Vì dẫu sao, Truyện Kiều cũng thuộc hàng kiệt tác, là sự kết tinh tiêu biểu, là đỉnh cao và bao trùm hơn tất cả các tác phẩm khác về nhiều phƣơng diện.
Trƣớc tiên là về chữ Hán trong Truyện Kiều, với địa vị kiệt tác số một văn học dân tộc, đƣơng nhiên đã có nhiều công trình nghiên cứu tác phẩm này đặc biệt liên quan đến phƣơng diện ngôn ngữ. Dƣới đây là một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học.
Nguyễn Lộc cho rằng trong 3254 câu lục bát của Truyện Kiều đƣợc tạo thành từ thì có 3412 từ, trong đó có 1310 từ Hán Việt chiếm 38,4% còn từ thuần Việt là 2102 chiếm 61,6% [100, tr. 446].
Phan Ngọc lại cho rằng: trong Truyện Kiều có tất cả 891 lƣợt từ, trong
đó có 645 từ Hán Việt và 32 thành ngữ bốn âm tiết [117, tr. 282].
Nhƣ vậy, chúng ta thấy rằng từ Hán Việt chiếm một tỉ lệ khá cao trong tác phẩm. Điều này cho thấy, tính chất bác học, cao cả, tao nhã của ngôn ngữ Truyện Kiều. Nguyễn Du đã có sự trau chuốt về mặt sử dụng ngôn từ. Sự vận dụng khéo léo từ Hán Việt ở từng vị trí khác nhau trong câu làm cho tác phẩm vừa dễ đọc, dễ hiểu, vừa trang trọng, tao nhã nhƣng cũng gần gũi, giản dị.
Về điển cố, theo thống kê của Đào Thản, Truyện Kiều đã có 46 lần
125
mƣợn chữ trong Kinh thi, 50 lần mƣợn chữ trong các kinh truyện khác, 68 lần mƣợn điển tích trong truyện thần tiên và 21 lần mƣợn điển tích trong sách Phật giáo [117, tr. 365]. Nhƣ vậy, chúng ta nhận thấy rằng, điển cố xuất hiện rất nhiều trong Truyện Kiều và với những vị trí khác nhau. Điều này cho thấy Nguyễn Du là một nhà bác học thông kim bác cổ, hiểu biết sâu sắc về thơ ca Việt Nam cũng nhƣ Trung Hoa. Đồng thời, việc khéo léo sử dụng điển cố để mang lại hiệu quả nghệ thuật cao, nhất là sử dụng điển cố nhiều vừa cho thấy sự súc tích trong diễn đạt của tác phẩm vừa cho thấy sự sùng cổ của tác giả, một vẻ đẹp của văn chƣơng trung đại, cũng là vẻ đẹp của Truyện Kiều.
Về thi liệu Hán học, nhƣ đã nói ở trên, Truyện Kiều đã vay mƣợn từ thi liệu Hán học khá nhiều. Với 46 lần mƣợn thơ trong Kinh thi, 50 lần trong các kinh truyện khác. Ở đây, chúng tôi còn thống kê đƣợc Nguyễn Du đã mƣợn ý thơ của các tác giả khác trong văn học Trung Quốc 14 lần (Xem Phụ lục 10).
Một điểm dễ nhận thấy từ bảng thống kê đó là Nguyễn Du chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ những tên tuổi lớn của Đƣờng thi nhƣ Lý Bạch, Bạch Cƣ Dị, Vƣơng Bột, Vƣơng Duy, Thôi Hộ……. Đây cũng là một điều dễ hiểu bởi thơ Đƣờng là đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc, một thi tài nhƣ Nguyễn Du hẳn phải thâm nhập rất sâu lĩnh vực này.
4.2.2.2. Ngôn ngữ dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam Việc sử dụng lớp từ Việt và ngôn ngữ văn học dân gian nhƣ thành ngữ, tục ngữ, ca dao, sử dụng khẩu ngữ, thƣờng đƣợc xem là thành phần ngôn ngữ bình dân. Phần này, cũng nhƣ nghiên cứu trƣờng hơp (case study ), chúng tôi tập trung khảo sát Truyện Kiều của Nguyễn Du. Một tác phẩm đủ dài để có thể dung chứa trong đó cả lớp từ Việt và ngôn ngữ văn học dân gian, ngôn ngữ đời sống vừa phong phú, đa dạng đồng thời vừa rất sâu sắc.
Trong Truyện Kiều, ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày hay ngôn ngữ đời sống giữ một phần quan trọng, trong đó có thành ngữ. Tác phẩm có 3254 câu lục bát thì có đến 435 lần thành ngữ đƣợc sử dụng chiếm tỉ lệ 13,3%. Điều đó góp phần tạo nên sự đồng cảm sâu sắc mãnh liệt, rộng khắp của Truyện Kiều trong đời sống tinh thần của nhân dân, đồng thời làm ngời sáng chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm này.
Ngoại trừ 47 thành ngữ Hán nguyên, chúng tôi đã xếp vào phần yếu tố Hán nên không nghiên cứu ở đây. Còn lại 388 thành ngữ Hán Việt và Việt Hán sẽ là đối tƣợng nghiên cứu trong phần yếu tố Nôm về ngôn ngữ trong Truyện Kiều.
126
Thành ngữ Hán Việt thƣờng đƣợc dùng trong các văn cảnh có tính chất trang trọng của tác phẩm, nhân vật hƣớng đến đối tƣợng bằng tình cảm thiêng liêng quý mến.
Ở chuỗi thứ nhất, gồm bốn thành ngữ, đều dùng cho Kim Trọng trong lúc
tƣởng nhớ và khao khát của một ―kẻ thiên tài‖ đối với một ―ngƣời quốc sắc‖.
Chuỗi thứ hai nằm trong đoạn Từ Hải gặp Thúy Kiều. Cả chuỗi này có tám thành ngữ Việt Hán đƣợc sử dụng ở cuộc gặp ―trai anh hùng, gái thuyền quyên‖, cả Kiều và Từ Hải đều dành cho nhau một ―biệt nhãn‖, một bên là cái thế hào kiệt, một bên là tuyệt đại mĩ nhân. Trong cuộc gặp này, hai ngƣời không chỉ tỏ tình mà còn tỏ ý, tỏ chí. Tình thâm, ý trọng, chí cả. Một đoạn thơ có 64 câu với 15 thành ngữ vừa Việt Hán là Hán nguyên, không có thành ngữ Việt tự tạo. Đây là đoạn thơ có sắc thái trang trọng nhất trong tác phẩm Truyện Kiều.
Thành ngữ Việt Hán có sức tác động nội tại lớn, đƣợc dùng để phản ánh những xung đột mạnh trong tâm trạng và những thay đổi đột ngột trong diễn biến các sự kiện. Những thành ngữ nhƣ ―đất bằng nổi sóng‖ (1405), ―Phách lạc hồn siêu‖ (1823), ―Hồn siêu phách lạc‖ (2363), ―hồn kinh phách rời‖ (1405) là những khoảnh khắc trên hành trình số phận của nhân vật.
Thành ngữ tiếng Việt tự tạo thƣờng dùng những hình tƣợng có kích
thƣớc lớn (trời, đất, vực, bể…) để nói lên sự xa xôi cách trở:
Dặm ngàn, nước thẳm, non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
(Truyện Kiều 1255-1256)
Hay:
Chân trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
(Truyện Kiều 1255-1256) Trong hai câu thơ trên, Kiều hiện lên nhỏ bé và trôi dạt giữ chốn trời đất bao la không có gì bám víu, đó là nỗi bi thƣơng lớn của kiếp ngƣời. Trong Truyện Kiều ta bắt gặp rất nhiều câu nhƣ vậy.
Cũng do ý nghĩa đƣợc tạo từ mối liên tƣởng rộng nên thành ngữ Việt – Hán thƣờng đƣợc dùng trong những văn cảnh giàu suy tƣ, chuỗi suy tƣ đầu tiên là của Kim Trọng về Thúy Kiều sau khi từ biệt nàng ở hội Đạp Thanh, chuỗi suy tƣ thứ hai là của Kiều trong đoạn ―những nỗi lòng tê tái‖. Điều này
127
tạo nên một hiệu quả đặc biệt, tác động mạnh vào tƣ tƣởng ngƣời đọc, đƣa đến một sự cảm thông sâu sắc.
Nhƣ vậy, với việc sử dụng 388 thành ngữ Hán Việt, Việt Hán và thành ngữ Việt tự tạo đan cài nhau, Truyện Kiều đã đạt đến độ thăng hoa về sử dụng ngôn ngữ, một sự kết hợp tuyệt vời giữa triết lý và cảm xúc, giữa tự sự và trữ tình, giữa bình dân và bác học, giữa tính dân tộc, tính nhân dân và nhân loại.
Truyện Kiều của Nguyễn Du xuất hiện không nhiều tục ngữ, vì tục ngữ có tính khái quát triết lí chỉ phù hợp với việc đúc kết các bài học có tính chân lí phổ quát. Trƣờng hợp dƣới đây chẳng hạn:
Đem người đẩy xuống giếng khơi, Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay.
(Truyện Kiều.1181-1182)
Nhắc đến câu ―nói lời phải giữ lấy lời‖. Hay:
E thay những dạ phi thường, Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông.
(Truyện Kiều. 1485-1486)
Sông sâu còn có kẻ dò, Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
(Tục ngữ) Thành ngữ thƣờng xuất hiện một lần ở một số đoạn thơ có yêu cầu tổng kết, khái quát về một đoạn đƣờng đời hay một số phận nhân vật. Dƣới đây là câu thành ngữ ―ma đƣa lối, quỷ dẫn đƣờng‖ đƣợc Nguyễn Du thay đổi đi chút ít:
Ma dẫn lối quỷ đem đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
(Truyện Kiều.2665-2666) Ngoài ra tục ngữ tập trung nhiều hơn ở đoạn đối thoại ―sâu sắc nƣớc đời‖ giữa Thuý Kiều và Hoạn Thƣ. Tuy nhiên, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng tục ngữ cũng rất linh hoạt. Khi thì ông để nguyên tục ngữ trong một câu lục hoặc câu bát nhƣng cũng có lúc lại sử dụng một cách rất sáng tạo mà ngƣời đọc vẫn biết đƣợc câu tục ngữ mà ông đang nói đến. Chẳng hạn:
Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Truyện Kiều.1815-1816)
128
Câu trên làm chúng ta liên tƣởng đến câu tục ngữ ―miệng nam mô
bụng một bồ dao găm‖.
Truyện Kiều tuy dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Quốc nhƣng đọc Truyện Kiều chúng ta vẫn thấy rất gần gũi, rất Việt Nam. Đó là vì ảnh hƣởng của thơ ca dân gian và ngôn ngữ văn học dân tộc. Chúng tôi thống kê đƣợc khoảng 82 câu đƣợc tác giả rút ra từ trong ca dao. Tuy nhiên, ca dao trong Truyện Kiều đƣợc nhà thơ sử dụng với tƣ cách nhƣ một chất liệu nghệ thuật chứ không phải nhƣ những trích dẫn. Ông dùng một cách sáng tạo, linh hoạt phù hợp với phong cách chung của nhà thơ trong tác phẩm. Ngôn ngữ bình dân đem đến cho văn học viết bằng chữ Nôm một phong vị dân tộc đậm đà, một tính chất bình dị dân dã mà văn học viết bằng chữ Hán không thể nào có đƣợc (Xem Phụ lục 11).
Ngôn ngữ đời sống là ngôn ngữ giao tế dùng trong cuộc sống hàng ngày hay còn gọi là khẩu ngữ. Trong các tác phẩm văn chƣơng viết bằng ngôn ngữ dân tộc thì lời ăn tiếng nói hàng ngày cũng đƣợc đƣa vào tác phẩm bởi xét đến cùng văn học chính là phản ánh cuộc sống của nhân dân, ngôn ngữ nhân dân. Phần này, chúng tôi kế thừa những khảo sát của tác giả Lã Nhâm Thìn về thể loại dân tộc hóa – thơ Nôm Đƣờng luật. Vì thơ là dạng cơ bản nhất và cũng điển hình nhất của việc sử dụng ngôn ngữ đời sống. Bên cạnh đó, chúng tôi mở rộng khảo sát ra hai thể thơ thuần dân tộc khác là thể thơ song thất lục bát với thể loại ngâm khúc và thể thơ lục bát với thể loại truyện Nôm bác học.
Trong Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhâm Thìn thống kê đƣợc: ―Quốc âm thi tập 1 câu khẩu ngữ/203,3 câu thơ; Bạch Vân quốc ngữ thi tập 1 câu khẩu ngữ/116 câu thơ; thơ Bà huyện Thanh Quan 1 câu khẩu ngữ/48 câu thơ; thơ Nguyễn Khuyến 1 câu khẩu ngữ/16,5 câu thơ. Đỉnh cao là thơ Hồ Xuân Hƣơng 1 câu khẩu ngữ/12,7 câu thơ và thơ Tú Xƣơng 1 câu khẩu ngữ trên 12,1 câu thơ‖ [142, tr. 173-174].
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng tôi cũng thống kê đƣợc khẩu ngữ xuất hiện 429 lần trong tổng số 3254 câu thơ tức là khoảng 1 khẩu ngữ/13,1 câu thơ. Đây là một tỉ lệ khá cao, khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong việc đƣa ngôn ngữ đời sống vào thể loại truyện thơ tự sự. Nguyễn
129
Du đã phát huy khả năng biểu cảm của loại từ ngữ này. Ông tạo nên những câu thơ (có cấu tạo hoàn toàn bằng khẩu ngữ) chẳng hạn: Này chồng này mẹ này cha, Này là em ruột này là em dâu.
(Truyện Kiều. 2981-2982) Khẩu ngữ có ƣu thế trong việc bộc lộ trực diện, cụ thể tƣ tƣởng, tình cảm của các nhân vật. Nó đƣợc sử dụng tập trung trong ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật đặc biệt là nhân vật trong bối cảnh mang tính kịch rất cao.
Kết quả thống kê cho thấy các nhân vật thuộc tuyến hiện thực nhƣ Thuý Kiều, Tú Bà, Hoạn Thƣ,… thƣờng dùng nhiều khẩu ngữ có tính dân dã. Chẳng hạn trong lời nói của Tú Bà:
Dạy rằng con lạy mẹ đây, Dạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.
(Truyện Kiều. 951-952)
Hay:
Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
(Truyện Kiều. 975-976) Trong bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm khúc của Phan Huy Ích (?), dù xuất hiện không nhiều (chỉ 7 lần trong 412 câu thơ) khoảng 1 câu khẩu ngữ/ 58,8 câu thơ nhƣng cũng cho thấy rằng lời ăn tiếng nói của nhân dân đã thực sự đi vào tác phẩm văn học ngay cả với một tác phẩm chuyển dịch từ một nguyên bản viết bằng chữ Hán.
Từ những thống kê này, chúng ta thấy rằng, thành phần ngôn ngữ đời sống có trong hầu hết các sáng tác văn chƣơng viết bằng tiếng Việt, chữ Nôm và dần dần có vị trí quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ thể loại. Ngôn ngữ đời sống làm cho tác phẩm văn chƣơng không những không trở nên xa lạ mà còn mang đến cho văn học tính chất dung dị, đời thƣờng, đôi khi thông tục nhƣ chính bản thân cuộc sống của nhân dân.
4.2.2.3. Mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc Xét chiều ảnh hưởng từ Hán sang Việt Tính song ngữ trong văn học không chỉ biểu hiện ở việc sử dụng song song hai loại ngôn ngữ mà có khi còn đƣợc thể hiện ở quan niệm về sự kết hợp hai ngôn ngữ trong cùng một tác phẩm. Phần này, cũng nhƣ nghiên cứu trƣờng
130
hơp (case study ), chúng tôi tập trung khảo sát Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Một tập thơ Nôm có số lƣợng bài lớn nhất (254 bài thơ) đủ để cho thấy mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc.
Về từ ngữ Tính song ngữ về mặt từ ngữ trong Quốc âm thi tập thể hiện ở việc Nguyễn Trãi đã tiếp nhận từ Hán để làm giàu vốn ngôn ngữ dân tộc. Trong tác phẩm iết bằng chữ Nôm của tác giả, ta thấy sự cẩn trọng khi sử dụng từ ngữ Hán, chứng tỏ ở ngƣời viết có sự nhận thức rõ ràng ranh giới giữa ―làm giàu‖ và ―đánh mất‖ bản sắc ngôn ngữ Việt. Nguyễn Trãi hạn chế sử dụng từ Hán Việt trong thơ Nôm là bởi ý thức giữ gìn ngôn ngữ dân tộc. Ông từng viết trong Dư địa chí: ―Người trong nước không được bắt chước ngôn ngữ và y phục các nước Ngô, Chiêm… để làm loạn phong tục trong nước‖. Tác giả rất cẩn trọng khi sử dụng ngôn ngữ ngoại nhập. Không tính các từ đƣợc Việt hóa lâu đời, chỉ khi có dụng ý miêu tả một cảnh thiên nhiên trang trọng, thi vị hoặc trƣờng hợp phải sử dụng những khái niệm của Nho giáo hay để giữ nhịp điệu cho câu thơ ta mới thấy Nguyễn Trãi sử dụng từ Hán. Điều này thể hiện rất rõ sự trân trọng ngôn ngữ dân tộc ở Ức Trai, nhất là trong điều kiện Hán học đang thịnh và bản thân ông lại là ngƣời có học vấn uyên thâm.
Từ Hán đƣợc Nguyễn Trãi sử dụng bao gồm cả từ đơn âm và đa âm. Việc sử dụng những từ đơn âm Hán tạo nên những cặp từ đối lập Hán-Việt trong Quốc âm thi tập nhƣ trì/ao, nguyệt/trăng, vọng/quên, phạp/thiếu, phong/gió,... Với mỗi hoàn cảnh khác nhau, nhà thơ lại có sự lựa chọn từ ngữ riêng. Khi ngâm vịnh, thƣởng gió ngắm trăng – những giây phút thi vị, nhà thơ sẽ dùng từ Hán:
Trì thanh cá lội in vầng nguyệt
(Bảo kính cảnh giới, bài 38 – Nguyễn Trãi)
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
(Thuật hứng, bài 14 – Nguyễn Trãi)
Nguyệt mọc đầu non kình dội tiếng
(Ngôn chí, bài 18 – Nguyễn Trãi)
Nƣớc dƣỡng cho thanh, trì thƣởng nguyệt
(Ngôn chí, bài 3 – Nguyễn Trãi)
Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh
(Bảo kính cảnh giới, bài 31 – Nguyễn Trãi)
131
Đời phạp văn chƣơng uổng mấy danh
(Mạn thuật, bài 9 – Nguyễn Trãi) Còn trong những cảnh sinh hoạt đời thƣờng dân dã, Nguyễn Trãi sẽ sử
dụng từ Việt:
Ao quan thả gửi hai bè muống
(Thuật hứng, 23 – Nguyễn Trãi)
Chim bắt trong rừng, cá bắt ao
(Tự thán, bài 19 – Nguyễn Trãi)
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
(Thủ vĩ ngâm – Nguyễn Trãi)
Quê cũ nhà ta thiếu của nào Rau trong nội, cá trong ao
(Mạn thuật, bài 13 – Nguyễn Trãi) Có những trƣờng hợp trong cùng hoàn cảnh, tác giả sử dụng cả hai loại
từ đơn âm Hán và Việt, có lẽ để đảm bảo yếu tố nhịp điệu cho câu thơ:
Trì cỏ đƣợc câu ngâm gió
(Mạn thuật, bài 1 – Nguyễn Trãi) Nhịp điệu cũng ảnh hƣởng đến việc lựa chọn từ ngữ khi mà cùng một ý
thơ, khi thì dùng ―trăng‖, khi thì dùng ―nguyệt‖:
Thƣởng mai về đạp bóng trăng
(Ngôn chí, bài 15 – Nguyễn Trãi)
Tìm mai theo đạp bóng trăng
(Tự thán, bài 7 – Nguyễn Trãi)
Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn
(Thuật hứng, bài 15 – Nguyễn Trãi) Khi thể hiện những khái niệm, phạm trù Nho giáo nhƣ đạo quân thân, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung hiếu, thiên mệnh,... Nguyễn Trãi cũng dùng từ Hán Việt:
Nợ quân thân chƣa báo đƣợc Hài hoa còn bợn dặm thanh vân
(Ngôn chí, bài 11 – Nguyễn Trãi)
Khó bền mới phải ngƣời quân tử Mạnh gắng thì nên kẻ trượng phu
(Trần tình, bài 7 – Nguyễn Trãi)
132
Quân tử thánh hiền lòng tựa nƣớc Càng già càng ngẫm của bùi ngon
(Bảo kính cảnh giới, bài 55 – Nguyễn Trãi)
Bui một tấm lòng trung liễn (lẫn) hiếu
(Thuật hứng, bài 24 – Nguyễn Trãi) Với từ đa âm mang ý nghĩa ƣớc lệ, tƣợng trƣng, Nguyễn Trãi muốn mƣợn nội dung nhƣng không muốn dùng từ Hán Việt, tác giả đã Việt hóa những từ ngữ, khái niệm đó bằng nhiều cách. Khi thì đảo trật tự từ: tuyết án – án tuyết, hằng sản – sản hằng:
Án tuyết mƣời thu uổng độc thƣ
(Mạn thuật, bài 14 – Nguyễn Trãi)
Ngày tháng kê khoai những sản hằng
(Mạn thuật, bài 1 – Nguyễn Trãi) ―Án tuyết‖ vốn là ―tuyết án‖ - chỉ án đọc sách, xuất phát từ điển Tôn Khang đời Tấn, nhà nghèo không có đèn để học, đêm thƣờng nhờ đến ánh sáng của tuyết để đọc sách. ―Sản hằng‖ tức là ―hằng sản‖ – chỉ của cải, sản vật thƣờng có. Hai khái niệm đã đƣợc Nguyễn Trãi Việt hóa bằng cách đảo trật tự từ.
Bên cạnh cách đảo trật tự từ, Nguyễn Trãi đã phỏng dịch từ ngữ khiến thi liệu Hán trở nên gần gũi với nhân dân ta. Đó là trƣờng hợp các cặp từ: quyền môn -cửa quyền, phù vân – mây nổi, hồng nhan – má đỏ, đơn tâm – lòng son, án thƣ – án sách, tứ dân – bốn dân, thanh sử - sử xanh, hồng quần – quần đỏ... Khái niệm ―hành chỉ‖, ―xuất xử‖ rất quen thuộc của Nho giáo đƣợc dịch thành ―đi nghỉ‖, ―gánh‖ (ra gánh vác việc đời), ―lui‖ (lui về ở ẩn):
Làm ngƣời chẳng có đức cùng tài Đi nghỉ đều thì kém hết hai Hiểm hóc cửa quyền chăng lọt lẫn Thanh nhàn án sách hãy đeo đai
(Ngôn chí, bài 5 – Nguyễn Trãi)
Gánh, khôn đƣơng quyền tƣớng phủ Lui, ngõ đƣợc đất nho thần
(Trần tình, bài 1 – Nguyễn Trãi) Có đôi câu ta lại thấy tác giả không Việt hóa mà sử dụng nhiều từ Hán:
133
Trông cửa ngọc, vân yên cách Giãi lòng đơn, nhật nguyệt thâu
(Trần tình, bài 4 – Nguyễn Trãi) Việc sử dụng từ Hán Việt khiến câu thơ trang trọng, hàm súc, mang dáng hình văn chƣơng bác học, nhƣng khi mật độ chữ Hán trong một câu thơ quá nhiều sẽ mang đến sự cầu kì, kiểu cách, khó hiểu. Điều đó phần nào cho thấy sự lúng túng của tác giả trong việc dùng từ, chứng tỏ sự ảnh hƣởng của chữ Hán ở thời kì đầu của văn học chữ Nôm. Sự ảnh hƣởng đó rõ nét hơn khi tìm hiểu vốn thi liệu Hán học trong Quốc âm thi tập.
Về thi liệu Hán học ―Thi liệu Hán học‖ đƣợc dùng để chỉ những thành ngữ, điển tích, điển cố, danh ngôn, những ý thơ đẹp, hình ảnh ƣớc lệ của văn chƣơng Hán – đƣợc coi là chuẩn mực văn chƣơng cổ. Tính quy phạm và ƣớc lệ của văn học trung đại dẫn đến việc sử dụng nhiều thi liệu Hán học ngay cả trong những sáng tác viết bằng chữ Nôm.
Ở Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã lấy ý thành ngữ ―Quân tử cố cùng‖ (ngƣời quân tử bền vững ngay trong lúc khó khăn nhất) trong Luận ngữ để viết nên câu thơ:
Quân tử hãy lăm bền chí cũ
(Ngôn chí, bài 17 – Nguyễn Trãi)
Khó bền mới phải người quân tử
(Trần tình, bài 7 – Nguyễn Trãi)
Thành ngữ ―Biến bạch dĩ vi hắc‖ (biến bạc thành đen) đƣợc Nguyễn
Trãi dịch để dùng trong thơ Nôm:
Ghê thế biến bạc làm đen
(Tức sự, bài 2 – Nguyễn Trãi) Thành ngữ ―Thủ khẩu như bình‖ (Giữ miệng nhƣ giữ bình) vào thơ
Nôm thành:
Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ
(Mạn thuật, bài 12 – Nguyễn Trãi) Hay câu thơ quen thuộc ―Làm biếng ngồi ăn lở núi non‖ đƣợc lấy ý từ
thành ngữ ―Tọa thực sơn băng‖ (Ngồi ăn núi lở).
Từ câu chữ Hán ―Thần tâm như thủy, thần môn như thị‖ (Lòng của
134
thần trong nhƣ nƣớc, cửa nhà thần mở rộng nhƣ cửa chợ, ai đến cũng đƣợc), Nguyễn Trãi vận dụng mà viết thành:
Quân tử thánh hiền lòng tựa nước
(Bảo kính cảnh giới, bài 55 – Nguyễn Trãi)
Phú quý chẳng ham thanh tựa nước
(Ngôn chí, bài 21 – Nguyễn Trãi)
Quan thanh bằng nước, nhà bằng khánh
(Tự thuật, bài 6 – Nguyễn Trãi) Quốc âm thi tập cho thấy khả năng Việt hóa thi liệu Hán học của Nguyễn Trãi nhuần nhuyễn đến mức ở một số trƣờng hợp ta khó có thể biết đƣợc ý thơ đƣợc lấy từ điển tích. Câu thơ ―Cày ăn đào uống yên đòi phận‖’ (Tự thán, bài 32) là một ví dụ. Cụm từ ―cày ăn đào uống‖ xuất phát từ một câu trong Nhạc phủ - bài ―Kích nhƣỡng ca‖: ―Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực‖ (đào giếng để uống, cày ruộng để ăn). Có những câu thơ, đọc lên ta chỉ thấy tâm sự thi nhân mà không hề thấy bóng dáng của điển:
Nghìn dặm xem mây nhớ quê Chẳng chờ cởi ấn gượng xin về.
(Bảo kính cảnh giới, bài 28 – Nguyễn Trãi) Câu thơ đầu gợi nhớ đến Địch Nhân Kiệt đời Đƣờng làm quan ở Tinh Châu, lên núi Thái Hàng, quay lại nhìn thấy đám mây trắng, nói với tả hữu rằng: ―Nhà cha mẹ ta ở dƣới ấy‖ rồi ngậm ngùi giờ lâu. Đọc thơ, ta chỉ thấy tấm lòng đau đáu nhớ về chốn quê nhà của tác giả mà dƣờng nhƣ quên đi điển tích.
Những hình ảnh ƣớc lệ nhƣ vườn lan cúc, ba dãy cúc xuất phát từ chữ của Đào Tiềm: ―tam kính cúc‖ (chỉ nơi ẩn dật); dặm thanh vân, dặm mây xanh xuất phát từ ―đƣờng thanh vân‖ (chỉ con đƣờng làm quan); áng mận đào (chỉ nơi cửa quyền, quyền quý) xuất phát từ câu ―Thiên hạ đào lí tất tại công môn‖ (đào lí trong thiên hạ ở trong nhà cửa ông cả) gắn với danh nhân Địch Nhân Kiệt đời Đƣờng,... cũng xuất hiện trong khá nhiều bài thơ:
Hẹn này nỡ phụ ba đường cúc
(Tự thán, bài 37 – Nguyễn Trãi)
Hài hoa còn bợn dặm thanh vân
(Ngôn chí, bài 11 – Nguyễn Trãi)
135
Chân mềm ngại bƣớc dặm mây xanh
(Bảo kính cảnh giới, bài 31 – Nguyễn Trãi)
Mấy phen lần bƣớc dặm thanh vân
(Bảo kính cảnh giới, bài 38 – Nguyễn Trãi)
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào
(Mạn thuật, bài 13– Nguyễn Trãi)
Những màng lẩn quất vườn lan cúc Ắt ngại lanh chanh áng mận đào
(Thuật hứng, bài 7 – Nguyễn Trãi) Việc sử dụng thi liệu Hán một cách đậm đặc cho thấy tinh thần sùng cổ và tính hàm súc, ý tại ngôn ngoại trong thơ Nôm Ức Trai. Một mặt, nó chứng minh quy luật về tính quy phạm của văn học trung đại, mặt khác, việc dùng hình thức, chất liệu Việt để truyền tải nội dung Hán cho thấy ý thức giữ gìn và làm giàu ngôn ngữ dân tộc ở Nguyễn Trãi. Đó là đóng góp không nhỏ của tác giả Quốc âm thi tập về mặt ngôn ngữ, văn học đối với văn hóa dân tộc nói chung.
Hiện tượng lặp vần Do ảnh hƣởng từ thi pháp Hán, trong một số bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi có hiện tƣợng lặp vần – hiện tƣợng các chữ gieo vần lặp lại cả phần âm và phần vần Theo Nguyễn Tài Cẩn, ―Trong truyền thống thơ Hán, mặt văn tự có thể nói là có phần mạnh hơn mặt ngữ âm... cho nên xem vẫn quan trọng hơn đọc... Phải chăng vì những lí do như vậy nên các nhà thơ Hán tự cho phép mình được gieo những vần hoàn toàn đồng âm, miễn là về mặt văn tự, chúng viết thành những chữ khác nhau‖. Còn ―Ở tiếng Việt, thơ ca đi theo một khuynh hướng nặng về âm, hai chữ gieo vẫn thường đồng vận chứ chứ không được phép có cả phụ âm đầu giống nhau, ngay cả những trường hợp chúng dị nghĩa‖ [19, tr.83-85]. Chẳng hạn:
Liêm cần tiết cả tua hằng nắm Trung hiếu niềm xƣa mựa nỡ đời Con cháu chớ hiềm sớm tối ngặt Thi thƣ thực ấy báu nghìn đời.
(Ngôn chí, bài 9 – Nguyễn Trãi)
Việc lặp lại chữ ―đời‖ ở câu 6 và câu 8 của bài thơ đi ngƣợc lại
136
quy luật về vần của thơ Việt – hai chữ gieo vần thƣờng đồng vận chứ không đƣợc phép có cả phụ âm đầu giống nhau. Theo khảo sát của chúng tôi, trong 254 bài thơ Nôm (không kể một bài Thủ vĩ ngâm có câu đầu và cuối giống nhau) có 7 bài có hiện tƣợng lặp vần, chiếm 3,1 %. Ngoài bài Ngôn chí 9 trên, các bài có hiện tƣợng này là:
Bài 38 (Trần tình 2): câu 4, 6 lặp chữ ―chăn‖ Bài 50 (Thuật hứng 5): câu 1, 2 lặp chữ ―thông‖ Bài 84 (Tự thán 14): câu 1, 4 lặp chữ ―dài‖ Bài 112 (Tự thuật 1): câu 1, 8 lặp chữ ―hay‖ Bài 127 (Tự giới): câu 1, 8 lặp chữ ―dung‖ Bài 165 (Bảo kính cảnh giới 38): câu 1, 8 lặp chữ ―vân‖ Nhƣ vậy, phải chăng có hiện tƣợng lặp vần là bởi sự ảnh hƣởng của thi pháp Hán. Trong số các tác giả song ngữ, không chỉ Nguyễn Trãi chịu ảnh hƣởng từ thi pháp Hán dẫn đến hiện tƣợng lặp vần trong thơ Nôm mà còn có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến.
Xét chiều ảnh hưởng từ Việt sang Hán Thơ chữ Hán trong văn học trung đại Việt Nam có rất nhiều thi tập. Nguyễn Trãi không phải là ngƣời sáng tác thơ chữ Hán nhiều nhất. Nhƣng xét trên nhiều phƣơng diện, Nguyễn Trãi vẫn là một đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam, ngay cả trong thơ chữ Hán. Ở những đỉnh cao luôn có sự kết tinh và bao trùm của nhiều giá trị. Bởi lẽ đó, chúng tôi tập trung khảo sát Ức Trai thi tập với 105 của Nguyễn Trãi. Với số lƣợng bài thơ nhƣ vậy, có lẽ Ức Trai thi tập đủ để cho thấy mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc.
Ngôn ngữ Việt, trong sự tiếp xúc với ngôn ngữ Hán có lịch sử lâu đời, một nền ―văn học già‖ của khu vực và thế giới tất yếu sẽ ảnh hƣởng mạnh đến những nền ―văn học trẻ‖ hơn, và chiều ngƣợc lại – ảnh hƣởng từ ngôn ngữ Việt sang Hán sẽ yếu hơn. Qua khảo sát của chúng tôi, tuy không nhiều ―yếu tố Nôm‖ ở Ức Trai thi tập nhƣ Quốc âm thi tập nhƣng tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi vẫn cho thấy chiều ảnh hƣởng từ Việt sang Hán các phƣơng diện: từ ngữ, thi liệu, gieo vần.
Từ ngữ Trong Ức Trai thi tập, có nhiều từ ngữ Hán đã đƣợc Nguyễn Trãi Việt
137
hóa để phù hợp với tƣ duy ngƣời Việt. Một số từ không có trong các từ điển Hán nhƣng lại có trong thơ Nguyễn Trãi. Chẳng hạn, trong câu:
Nhàn lai vô sự bất thanh nga (Khi nhàn thì không gặp việc gì là không ngâm nga)
(Hý đề - Nguyễn Trãi) Từ ―thanh nga” vốn không có trong từ điển mà đƣợc Nguyễn Trãi ghép từ hai từ đơn ―thanh‖ (trong, vắng lặng) và ―nga‖ (ngâm nga) để thành từ ghép với nghĩa tổng hợp ―ngâm nga một cách thanh nhã‖.
Cũng để phù hợp với tƣ duy ngôn ngữ ngƣời Việt, Nguyễn Trãi đã chuyển đổi trật tự của khá nhiều từ tiếng Hán. Ngữ pháp Hán quy định cấu tạo của một từ là ―định ngữ - trung tâm ngữ‖ trong khi tiếng Việt ngƣợc lại ―trung tâm ngữ - định ngữ‖. Tuy nhiên, trong một số bài thơ Nguyễn Trãi đã dùng lối tƣ duy của ngƣời Việt để tạo từ Hán. Chẳng hạn, từ ―xuân mộ‖ (cuối xuân) của tiếng Hán đƣợc đổi thành ―mộ xuân‖ (bài ―Mộ xuân tức sự‖), từ ―tiền niên‖ (năm trƣớc) đƣợc đổi thành ―niên tiền‖. Từ ―Đông hải‖ (biển Đông) đã đƣợc đổi lại thành ―hải Đông‖ trong câu thơ:
Trực giá kình nghê khóa hải Đông (Thẳng cƣỡi kình nghê vƣợt biển Đông)
(Quá hải – Nguyễn Trãi)
Từ ―nguyệt dạ‖ (đêm trăng) đƣợc đổi thành ―dạ nguyệt‖:
Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình (Trong đêm trăng, ngƣời ở đất khách lâu năm thấy lòng kinh sợ)
(Thôn xá thu châm – Nguyễn Trãi) Những nỗ lực Việt hóa của Nguyễn Trãi về mặt từ ngữ đã chứng tỏ sự ảnh hƣởng ngƣợc lại của tiếng Việt với tiếng Hán và hơn hết ta thấy ở đó là ý thức dân tộc của một ―nghệ sĩ lớn‖.
Thi liệu Văn chƣơng của tiền nhân với những ƣớc lệ, khuôn khổ đƣợc xem nhƣ mẫu mực của văn chƣơng. Ta hiểu vì sao Lƣu Hiệp trong cuốn sách nổi tiếng ―Văn tâm điêu long‖ lại viết: ―Văn thánh nhân trang nhã, tráng lệ vốn đã đẹp lại thực vậy. Đạo trời tuy khó nghe nhưng ta vẫn có thể đo và nhìn. Văn chương là cái ta có thể thấy, lẽ nào ta lại không nghĩ đến? Việc
138
căn cứ vào thánh nhân để diễn đạt ngôn ngữ lầ điều nên làm trong văn chương vậy‖ [67, tr.23-24]. Tƣởng rằng đó là quy tắc bất di bất dịch, nhƣng không, với thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, ta vẫn thấy sự phá cách trong tƣ tƣởng thẩm mĩ. Tùng, cúc, trúc, mai cũng đôi lần phải nhƣờng chỗ cho những cây cỏ bình dị, đậm chất quê của phƣơng Nam.
Bông hoa xoan tím mộc mạc nơi vƣờn nhà bỗng đẹp đến nao lòng trong
làn mƣa bụi mùa xuân:
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai (Khắc khoải quyên kêu xuân đã muộn Hoa xoan mƣa nhẹ nở đầy sân)
(Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)
Bông hoa xoan nhỏ bé nhƣ dồn nén bao bí ẩn của mùa xuân, của một tâm hồn thi sĩ. Trong tiếng cuốc kêu khắc khoải, hoa xoan chọn cách lặng lẽ tỏa hƣơng khoe sắc, nhƣng trong cái lặng lẽ đó ta nhƣ nghe thấy vị tiếc nuối thấm dần từng câu chữ. Bông hoa bình dị đi vào văn chƣơng cũng đong đầy những tâm trạng. Xuân qua, hè đến, sẽ chẳng còn gì níu kéo nhung nhớ của thi nhân ngoài màu hoa, sắc hoa quen thuộc nơi sân nhà.
Cách gieo vần ―Phong cách Việt Nam‖ (Nguyễn Tài Cẩn) trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi – hay nói cách khác là sự ảnh hƣởng từ ngôn ngữ Việt đến thơ chữ Hán – còn thể hiện ở cách gieo vần. Một số bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có cách gieo vần lạ, rất ít bắt gặp trong thơ Đƣờng – đƣợc coi là mẫu mực thơ ca. Việc Việt hóa cách gieo vần trong Ức Trai thi tập thể hiện ở chỗ, các từ ―qua‖ (vƣợt qua), ―ma‖ (mài), ―đa‖ (nhiều), ―’hà‖ (sao), ―ba‖ (sóng), ―nga‖ (ngâm nga) thuộc vận bộ ca với nguyên âm rộng, dòng sau không bao giờ gieo vần với vận bộ ma với nguyên âm hẹp, dòng trƣớc, nhƣ ―hoa‖ (bông hoa), ―gia‖ (nhà), ―trà‖ (chè), ―gia‖ (thêm), ―xà‖ (rắn). Nhƣng tiếng Việt không có sự phân biệt nguyên âm vận bộ ca và ma mà tất cả đều đọc theo một nguyên âm ―a‖ duy nhất. Chính vì thế nếu xét theo vần tiếng Việt thì việc gieo vần với nhứng từ ở hai nhóm trên là không sai. Theo thống
139
kê của Nguyễn Tài Cẩn và Vũ Đức Nghiệu, có 7 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có cách gieo vần đó. Bài Quá Thần Phù hải khẩu là một ví dụ:
Thần phù hải khẩu dạ trung qua Nại thử phong thanh nguyệt bạch hà Giáp ngạn thiên phong bài ngọc duẩn Trung lưu nhất thủy tẩu thanh xà Giang sơn như tạc anh hùng thệ Thiên địa vô tình sự biến đa Hồ Việt nhất gia kim hạnh đổ Tứ minh tòng thử tức kình ba.
Các từ qua, hà, đa, ba ở trên thuộc bộ ca, không gieo với xà thuộc bộ ma. Một số bài thơ khác cũng xuất hiện hiện tƣợng này là Loạn hậu cảm tác (các chữ gieo vần là qua, hà, đa, kha), hay trong bài Thanh minh, các từ qua, ma trong thơ Hán không gieo với các từ hoa, gia, nhƣng theo vần Việt thì đọc lên nghe rất hài hòa:
Nhất tòng luân lạc tha hương khứ, Khuất chỉ thanh minh kỉ độ qua. Thiên lí phần uynh vi bái tảo, Thập niên thân cựu tận tiêu ma. Sạ tình thiên khí mô lăng vũ, Quá bán xuân quang tê cú hoa. Liêu bả nhất bôi hoàn tự cưỡng Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.
Nhƣ vậy, thơ chữ Hán Nguyễn Trãi đã thể hiện sự phá cách trong quan điểm thẩm mĩ của thi nhân. Trong một thời kì Hán học thịnh đạt, việc vƣợt ra ngoài khuôn khổ mẫu mực, dù ở phƣơng diện từ ngữ, thi liệu, cách gieo vần, dù ở một số bài cũng cho thấy sự chuyển biến lớn của ngôn ngữ dân tộc. Nó nhƣ báo hiệu về một sự vƣơn mình mạnh mẽ của tiếng Việt trong văn học sau một thời gian dài lặng lẽ dƣới cái bóng khổng lồ của ngôn ngữ ngoại nhập.
Ngôn ngữ bác học Ngôn ngữ bác học là việc sử dụng chữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học
140
trong tác phẩm văn chƣơng. Nó đã trở thành một truyền thống của văn học trung đại. Ở đây, chúng tôi cũng sẽ lấy những khảo sát từ Truyện Kiều của Nguyễn Du vì dẫu sao, Truyện Kiều cũng thuộc hàng kiệt tác, là đỉnh cao và bao trùm hơn tất cả các tác phẩm khác.
Trƣớc tiên là về chữ Hán trong Truyện Kiều, với địa vị của Truyện Kiều trong lòng văn học dân tộc, đƣơng nhiên đã có nhiều công trình nghiên cứu tác phẩm này đặc biệt liên quan đến phƣơng diện ngôn ngữ. Dƣới đây chúng tôi xin dẫn một vài kết quả nghiên cứu.
Nguyễn Lộc cho rằng trong 3254 câu lục bát của Truyện Kiều đƣợc tạo thành từ 3412 từ trong đó có 1310 từ Hán Việt chiếm 38,4% còn từ thuần Việt chiếm 2102 từ (61,6%) [100, tr. 446].
Phan Ngọc lại cho rằng: trong Truyện Kiều có tất cả 891 lƣợt từ, trong
đó có 645 từ Hán Việt và 32 thành ngữ bốn âm tiết [117, tr. 282].
Nguyễn Thúy Hồng còn có một bảng thống kê, khảo sát và phân loại khá tỉ mỉ. Theo đó, Truyện Kiều có 114 từ đơn chiếm 8,7%, còn từ ghép là 1196 chiếm 91,3% có 291 từ ở vị trí đầu câu (22,2%), 546 từ ở vị trí giữa (41,7%), còn vị trí cuối là 473 từ (49,6%) [75, tr. 78].
Nhƣ vậy, chúng ta thấy rằng từ Hán Việt chiếm một tỉ lệ cao trong tác phẩm. Điều này cho thấy, tính chất bác học, cao cả, tao nhã của ngôn ngữ tác phẩm. Nguyễn Du đã có sự trau chuốt về mặt sử dụng ngôn từ. Sự vận dụng khéo léo từ Hán Việt ở từng vị trí khác nhau trong câu làm cho tác phẩm vừa dễ đọc, dễ hiểu, vừa trang trọng, tao nhã nhƣng cũng gần gũi giản dị.
Về điển cố, theo thống kê của Đào Thản, Truyện Kiều đã có 46 lần mƣợn chữ trong Kinh thi, 50 lần mƣợn chữ trong các kinh truyện khác, 68 lần mƣợn điển tích trong truyện thần tiên và 21 lần mƣợn điển tích trong sách Phật giáo [117, tr. 365]. Nhƣ vậy, chúng ta nhận thấy rằng, điển cố xuất hiện rất nhiều trong Truyện Kiều và với những vị trí khác nhau. Điều này cho thấy Nguyễn Du là một nhà bác học thông kim bác cổ, hiểu biết sâu sắc về thơ ca Việt Nam cũng nhƣ Trung Hoa. Đồng thời khéo léo sử dụng điển cố để mang lại hiệu quả nghệ thuật cao, nhất là sử dụng điển cố nhiều vừa cho thấy sự súc tích trong diễn đạt của tác phẩm nhƣng cũng cho thấy sự sùng cổ của tác giả, một vẻ đẹp của văn chƣơng trung đại, cũng là vẻ đẹp của Truyện Kiều.
141
Về thi liệu Hán học, nhƣ đã nói ở trên, Truyện Kiều đã vay mƣợn từ thi liệu Hán học khá nhiều. Với 46 lần mƣợn thơ trong Kinh thi, 50 lần trong các kinh truyện khác. Ở đây, chúng tôi còn thống kê đƣợc Nguyễn Du đã mƣợn ý thơ của các tác giả khác trong văn học Trung Quốc 14 lần (Xem Phụ lục 15).
Một điểm dễ nhận thấy từ bảng thống kê đó là Nguyễn Du chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ những tên tuổi lớn của Đƣờng thi nhƣ Lý Bạch, Bạch Cƣ Dị, Vƣơng Bột, Vƣơng Duy, Thôi Hộ……. Đây cũng là một điều dễ hiểu bởi thơ Đƣờng là đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc, một thi tài nhƣ Nguyễn Du hẳn phải thâm nhập rất sâu lĩnh vực này.
Ngôn ngữ bình dân Ngôn ngữ bình dân trong văn học trung đại Việt Nam thể hiện ở việc sử dụng lớp từ thuần Việt và ngôn ngữ văn học dân gian nhƣ thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Phần này, chúng tôi chỉ khảo sát Truyện Kiều của Nguyễn Du. Một tác phẩm đủ dài để có thể dung chứa trong đó cả lớp từ thuần Việt và ngôn ngữ văn học dân gian vừa phong phú, đa dạng nhƣng cũng rất sâu sắc.
Trong Truyện Kiều, ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày hay ngôn ngữ đời sống giữ một phần quan trọng trong đó có thành ngữ. Tác phẩm có 3254 câu lục bát thì có đến 435 lần thành ngữ đƣợc sử dụng chiếm tỉ lệ 13,3%. Điều đó góp phần tạo nên sự đồng cảm sâu sắc mãnh liệt, rộng khắp của Truyện Kiều trong đời sống tinh thần của nhân dân, đồng thời làm ngời sáng chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm này.
Ngoại trừ 47 thành ngữ Hán nguyên chúng tôi đã xếp vào phần Yếu tố Hán không nghiên cứu ở đây. Còn lại 388 thành ngữ Hán Việt và Việt Hán sẽ là đối tƣợng nghiên cứu trong phần yếu tố Nôm về ngôn ngữ trong Truyện Kiều.
Thành ngữ Hán Việt thƣờng đƣợc dùng trong các văn cảnh có tính chất trang trọng của tác phẩm, nhân vật hƣớng đến đối tƣợng bằng tình cảm thiêng liêng quý mến.
Ở chuỗi thứ nhất, gồm bốn thành ngữ, đều dùng cho Kim Trọng trong lúc
tƣởng nhớ và khao khát của một ―kẻ thiên tài‖ đối với một ―ngƣời quốc sắc‖.
Chuỗi thứ hai nằm trong đoạn Từ Hải gặp Thúy Kiều. Cả chuỗi này có tám thành ngữ Việt Hán đƣợc sử dụng ở cuộc gặp này cả Kiều và Từ Hải đều dành cho nhau một ―biệt nhãn‖, một bên là cái thế hào kiệt, một bên là tuyệt đại mĩ nhân. Trong cuộc gặp này, hai ngƣời không chỉ tỏ tình mà còn tỏ ý, tỏ chí. Tình thâm, ý trọng chí cả. Một đoạn thơ có 64 câu với 15 thành ngữ vừa
142
Việt Hán là Hán nguyên, không có thành ngữ Việt tự tạo. Đây là đoạn thơ có sắc thái trang trọng nhất trong tác phẩm Truyện Kiều.
Thành ngữ Việt Hán có sức động nội tại lớn đƣợc dùng để phản ánh những xung đột mạnh trong tâm trạng và những thay đổi đột ngột trong diễn biến các sự kiện. Những thành ngữ nhƣ ―đất bằng nổi sóng‖ (1405), ―Phách lạc hồn siêu‖ (1823), ―Hồn siêu phách lạc‖ (2363), ―hồn kinh phách rời‖ (1405) là những khoảnh khắc đặc biệt của tác giả.
Thành ngữ tiếng việt tự tạo thƣờng dùng những hình tƣợng có kích
thƣớc lớn (trời, đất, vực, bể…) để nói lên sự xa xôi cách trở:
Dặm ngàn, nước thẳm, non xa, Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
(Truyện Kiều 1255-1256)
Hay:
Chân trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
(Truyện Kiều 1255-1256) Trong hai câu thơ trên, Kiều hiện lên nhỏ bé và trôi dạt giữ chốn trời đất bao la không có gì bán víu đó là nỗi bi thƣơng lớn của kiếp ngƣời. Trong Truyện Kiều ta bắt gặp rất nhiều câu nhƣ vậy.
Cũng do ý nghĩa đƣợc tạo từ mối liên tƣởng rộng nên thành ngữ Việt – Hán thƣờng đƣợc dùng trong những văn cảnh giàu suy tƣ, chuỗi suy tƣ đầu tiên là của Kim Trọng về Thúy Kiều sau khi từ biệt nàng ở hội Đạp Thanh, chuỗi suy tƣ thứ hai là của Kiều trong đoạn những nỗi lòng tê tái. Điều này tạo nên một hiệu quả đặc biệt, tác động mạnh vào tƣ tƣởng ngƣời đọc đƣa đến một sự cảm thông sâu sắc.
Nhƣ vậy, với việc sử dụng 388 thành ngữ Hán Việt, Việt Hán và thành ngữ Việt tự tạo đan cài nhau. Truyện Kiều đã đạt đến độ thăng hoa về sử dụng ngôn ngữ, một sự kết hợp tuyệt vời giữa triết lý và cảm xúc, giữa tự sự và trữ tình, giữa bình dân và bác học, giữa tính dân tộc, tính nhân dân và nhân loại.
Truyện Kiều của Nguyễn Du ít xuất hiện tục ngữ vì tục ngữ có tính khái quát triết lí chỉ phù hợp với việc đúc kết các bài học có tính chân lí phổ quát. Trƣờng hợp dƣới đây chẳng hạn:
143
Đem người đẩy xuống giếng khơi, Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay.
(Truyện Kiều.1181-1182)
Nhắc đến câu ―nói lời phải giữ lấy lời‖. Hay:
E thay những dạ phi thường, Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông.
(Truyện Kiều. 1485-1486)
Sông sâu còn có kẻ dò, Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
(Tục ngữ) Tục ngữ thƣờng xuất hiện một lần trong tác phẩm ở một số đoạn thơ có yêu cầu tổng kết, khái quát về một đoạn đƣờng đời hay một số phận nhân vật. Dƣới đây là câu tục ngữ ―ma đƣa lối, quỷ dẫn đƣờng‖ đƣợc Nguyễn Du thay đổi đi chút ít.
Ma dẫn lối quỷ đem đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
(Truyện Kiều.2665-2666) Ngoài ra tục ngữ tập trung hơn ở đoạn đối thoại ―sâu sắc nƣớc đời‖ giữa Thuý Kiều và Hoạn Thƣ. Tuy nhiên, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng tục ngữ cũng rất linh hoạt. Khi thì ông để nguyên tục ngữ trong một câu lục hoặc câu bát nhƣng cũng có lúc lại sử dụng một cách rất sáng tạo mà ngƣời đọc vẫn biết đƣợc câu tục ngữ mà ông đang nói đến. Chẳng hạn:
Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Truyện Kiều.1815-1816)
Hay:
Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
(Truyện Kiều. 753-754)
Câu trên làm chúng ta liên tƣởng đến câu tục ngữ ―miệng nam mô
bụng một bồ dao găm‖, còn Nước chảy hoa trôi ở câu tục ngữ ―nƣớc chảy, hoa trôi, bèo dạt‖.
144
Truyện Kiều tuy dựa trên cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Quốc nhƣng đọc Truyện Kiều chúng ta vẫn thấy rất gần gũi, rất Việt Nam. Đó là vì ảnh hƣởng của thơ ca dân gian và ngôn ngữ văn học dân tộc. Chúng tôi, thống kê đƣợc khoảng 82 câu trong Truyện Kiều có mối quan hệ với ca dao. Tuy nhiên, ca dao trong Truyện Kiều đƣợc nhà thơ sử dụng với tƣ cách nhƣ một chất liệu nghệ thuật chứ không phải nhƣ những trích dẫn. Ông dùng một cách sáng tạo, linh hoạt phù hợp với phong cách chung của nhà thơ trong tác phẩm.
Ngôn ngữ bình dân đem đến cho văn học viết bằng chữ Nôm một phong vị dân tộc đậm đà, một tính chất bình dị dân dã mà văn học viết bằng chữ Hán không thể nào có đƣợc (Xem Phụ lục 14).
Ngôn ngữ đời sống Ngôn ngữ đời sống là ngôn ngữ giao tế dùng trong cuộc sống hàng ngày hay còn gọi là khẩu ngữ. Trong các tác phẩm văn chƣơng viết bằng ngôn ngữ dân tộc thì lời ăn tiếng nói hàng ngày cũng đƣợc đƣa vào tác phẩm bởi xét đến cùng văn học chính là phản ánh cuộc sống của nhân dân, ngôn ngữ nhân dân. Phần này, chúng tôi kế thừa những khảo sát của tác giả Lã Nhâm Thìn về thể loại dân tộc hóa – thơ Nôm Đƣờng luật. Vì thơ là dạng cơ bản nhất và cũng điển hình nhất của việc sử dụng ngôn ngữ đời sống. Bên cạnh đó, chúng tôi mở rộng khảo sát ra hai thể thơ thuần dân tộc khác là thể thơ song thất lục bát với thể loại ngâm khúc và thể thơ lục bát với thể loại truyện Nôm bác học.
Trong Thơ Nôm Đường luật, Lã Nhâm Thìn thống kê đƣợc: ―Quốc âm thi tập 1 câu khẩu ngữ/203,3 câu thơ; Bạch Vân quốc ngữ thi tập 1 câu khẩu ngữ/116 câu thơ; thơ Bà huyện Thanh Quan 1 câu khẩu ngữ/48 câu thơ; thơ Nguyễn Khuyến 1 câu khẩu ngữ/16,5 câu thơ. Đỉnh cao là thơ Hồ Xuân Hƣơng 1 câu khẩu ngữ/12,7 câu thơ và thơ Tú Xƣơng 1 câu khẩu ngữ trên 12,1 câu thơ‖ [142, tr. 173-174].
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng tôi cũng thống kê đƣợc khẩu ngữ xuất hiện 429 lần trong tổng số 3254 câu thơ tức là khoảng 1 khẩu ngữ/13,1 câu thơ. Đây là một tỉ lệ khá cao, khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong việc đƣa ngôn ngữ đời sống vào thể loại truyện thơ tự sự. Nguyễn Du đã phát huy khả năng biểu cảm của loại từ ngữ ngữ này. Ông tạo nên những câu thơ (có cấu tạo hoàn toàn bằng khẩu ngữ) chẳng hạn:
145
Này chồng này mẹ này cha, Này là em ruột này là em dâu.
(Truyện Kiều. 2981-2982) Khẩu ngữ có ƣu thế trong việc bộc lộ trực diện, cụ thể tƣ tƣởng, tình cảm của các nhân vật. Nó đƣợc sử dụng tập trung trong ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật đặc biệt là nhân vật trong bối cảnh mang tính kịch rất cao.
Kết quả thống kê cho thấy các nhân vật thuộc tuyến hiện thực nhƣ Thuý Kiều, Tú Bà, Hoạn Thƣ,… thƣờng dùng nhiều khẩu ngữ có tính dân dã. Chẳng hạn trong lời nói của Tú Bà:
Dạy rằng con lạy mẹ đây, Dạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.
(Truyện Kiều. 951-952)
Hay:
Cớ sao chịu tốt một bề, Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
(Truyện Kiều. 975-976) Việc sử dụng khẩu ngữ giúp tác phẩm bớt đi sự cầu kỳ của ngôn ngữ từ chƣơng, sách vở. Ngoài ra, khẩu ngữ làm cho một số đoạn trong Truyện Kiều mang đậm tính kịch.
Trong bản diễn Nôm Chinh phụ ngâm khúc của Phan Huy Ích (?), dù xuất hiện không nhiều (chỉ 7 lần trong 412 câu thơ) khoảng 1 câu khẩu ngữ/ 58,8 câu thơ cũng cho thấy rằng lời ăn tiếng nói của nhân dân đã thực sự đi vào tác phẩm văn học ngay cả với một tác phẩm chuyển dịch từ một nguyên bản viết bằng chữ Hán.
Từ những thống kê này, chúng ta thấy rằng, thành phần ngôn ngữ đời sống có trong hầu hết các sáng tác văn chƣơng viết bằng tiếng Việt, chữ Nôm và dần dần có vị trí quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ thể loại. Ngôn ngữ đời sống làm cho tác phẩm văn chƣơng không những không trở nên xa lạ mà còn mang đến cho văn học tính chất dung dị, đời thƣờng, đôi khi thông tục nhƣ chính bản thân cuộc sống của nhân dân.
146
TIỂU KẾT
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam thể hiện sâu sắc trên phƣơng diện thể loại và phƣơng diện ngôn ngữ. Sự phát triển thể loại nhìn từ hiện tƣợng song ngữ có diễn tiến: từ các thể loại tiếp thu với ngôn ngữ Hán, qua thể loại dân tộc hóa với việc sử dụng tiếng Việt – chữ Nôm, đến thể loại văn học nội sinh với vị trí ƣu thắng của tiếng Việt – chữ Nôm. Hiện tƣợng song ngữ ở các thể loại viết bằng văn biền ngẫu gồm hịch và văn tế trong khi các thể loại văn biền ngẫu khác nhƣ biểu, chiếu, cáo đƣợc viết hoàn toàn bằng chữ Hán. Ở thể loại văn xuôi, hiện tƣợng song ngữ xảy ra ở thể loại truyện truyền kỳ còn các thể loại văn xuối khác đƣợc viết bằng chữ Hán. Hiện tƣợng song ngữ phát triển mạnh mẽ nhất ở thể loại văn vần nhƣ thơ, phú, truyện thơ và ngâm khúc. Trong đó, thơ là thể loại biểu hiện rõ nhất và mạnh nhất của hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ Hán Nôm với sự hình thành và phát triển của thơ Nôm Đƣờng luật - thể loại dân tộc hóa thành công nhất trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Quá trình vận động và phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam trong ở giai đoạn cuối đánh dấu sự phát triển của các thể loại văn học nội sinh nhƣ truyện thơ, ngâm khúc và hát nói. Ở các thể loại này, chữ Nôm đã hoàn toàn chiếm ƣu thế, các tác phẩm viết bằng chữ Hán rất ít, nhất là ở thể loại tự sự bằng văn vần nhƣ thể loại truyện thơ. Đồng thời ở các tác phẩm sáng tác bằng chữ Nôm thì những từ Hán Việt cũng xuất hiện với một tần số không nhiều.
Trên phƣơng diện ngôn ngữ, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có sự tồn tại song song giữa ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm). Các yếu tố ngôn ngữ Hán bao gồm từ ngữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học. Trong khi đó, ngôn ngữ dân tộc với khẩu ngữ, tục ngữ, thành ngữ và ca dao. Các yếu tố Hán và Nôm về ngôn ngữ không chỉ tồn tại độc lập nhau mà còn có sự tác động ảnh hƣởng lẫn nhau. Tất nhiên ảnh hƣởng theo chiều từ Hán sang Nôm vẫn mạnh mẽ hơn so với chiều ngƣợc lại từ Nôm sang Hán.
147
KẾT LUẬN
1. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là một hiện tƣợng vừa có tính đặc thù vừa có tính phổ quát. Hiện tƣợng song ngữ là một trong những đặc trƣng tiêu biểu của văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, hiện tƣợng này cũng mang tính phổ quát, vì ở văn học các nƣớc trong khu vực chịu ảnh hƣởng của văn hóa chữ Hán nhƣ Triều Tiên/ Hàn Quốcvà Nhật Bản cũng có hiện tƣợng vừa sáng tác bằng ngôn ngữ vay mƣợn (chữ Hán) vừa sáng tác bằng ngôn ngữ bản địa (chữ Ydu, Hangul ở Hàn Quốc/Triều Tiên, chữ Kana trong văn học Nhật Bản). Cần lƣu ý rằng, ngôn ngữ vay mƣợn (chữ Hán) là tử ngữ tức là chữ Hán văn ngôn chứ không phải là một sinh ngữ (chữ Hán bạch thoại). Tƣơng tự nhƣ thế, ở một số nƣớc phƣơng Tây nhƣ Anh, Pháp, Ý, Đức,… cũng có hiện tƣợng vay mƣợn tiếng Latinh (cũng là một tử ngữ) để sáng tác văn học bên cạnh ngôn ngữ bản địa. Nghiên cứu về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam chƣa thật nhiều và cũng chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống và toàn diện hiện tƣợng song ngữ.
2. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam đƣợc hình thành trên những cơ sở lịch sử, xã hội nhất định, đó là lịch sử hình thành văn học viết bằng chữ Hán khi nƣớc nhà bƣớc vào thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài. Niềm tự hào và ý thức dân tộc của con dân một nƣớc có truyền thống văn hóa và truyền thống lịch sử đã thôi thúc các thế hệ cha ông sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học từ thế kỷ XIII. Đây cũng là dấu mốc thời gian của sự xuất hiện hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Hiện tƣợng này dựa trên những tiền đề về tƣ tƣởng, văn hóa và thẩm mĩ mang ảnh hƣởng của Nho giáo, của xã hội phong kiến, của ý thức dân tộc. Những chính sách về ngôn ngữ của các triều đại phong kiến trong việc duy trì địa vị độc tôn và chính thống của chữ Hán cũng nhƣ chính sách khuyến khích sử dụng chữ Nôm và coi trọng chữ Nôm của một số triều đại trong lịch sử cũng là một yếu tố góp phần cho sự tồn tại song song của cả hai bộ phận văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm. Cùng với đó, bản thân chữ Nôm, trong quá trình vận động và phát triển cũng cho thấy những ƣu điểm và hạn chế trong quá trình sáng tác. Do đó, mặc dù với tƣ cách là ngôn ngữ của dân tộc nhƣng chữ Nôm cũng không thể đủ sức đánh bật chữ Hán để thay vào vị
148
trí độc tôn và chính thống đó. Tuy nhiên chữ Nôm cũng chiếm đƣợc những ƣu thế nhất định trong giai đoạn cuối với sự xuất hiện của những thể loại văn học nội sinh. Bất kỳ một hiện tƣợng nào cũng có quá trình hình thành, vận động, biến đổi và phát triển với những quy luật riêng của nó. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là song ngữ bất bình đẳng. Khi viết về những vấn đề lớn lao, về quốc gia, về dân tộc, ―chở đạo‖, ―nói chí‖, những đề tài cao cả, tao nhã ngƣời ta thƣờng sử dụng chữ Hán. Trong khi đó, ngƣời ta thƣờng lựa chọn chữ Nôm để viết về những vấn đề giản dị, thông tục, đời thƣờng. Văn học sáng tác bằng chữ Hán đƣợc coi trọng và mang tính chính thống. Ngƣợc lại, văn học chữ Nôm có khi bị coi nhẹ, thậm chí có khi không đƣợc coi là những sáng tác văn chƣơng đích thực mà sáng tác chỉ để giải trí, mua vui. Tuy nhiên, với những tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,… văn học sáng tác bằng chữ Nôm vẫn đƣợc coi là những sáng tác văn chƣơng đích thực. Những tác giả này luôn có một sự tìm tòi sáng tạo, cách tân và dụng tâm sâu sắc ở những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Nhiều tác phẩm của họ đƣợc liệt vào hàng kiệt tác.
Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn mở đầu, từ thế kỷ X – XIV với các sáng tác bằng chữ Hán văn ngôn là chủ yếu. Đến cuối thế kỉ XIII, lịch sử văn học đã ghi nhận việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn chƣơng. Kể từ đây, văn học Việt Nam trung đại Việt Nam tồn tại song song hai bộ phận văn học: một bộ phận viết bằng ngôn ngữ vay mƣợn là chữ Hán và một bộ phận viết bằng ngôn ngữ dân tộc là chữ Nôm. Giai đoạn hai, từ thế kỷ XV – XVII, đây là giai đoạn phát triển nở rộ của hiện tƣợng song ngữ với việc Việt hóa thành công thể thơ Đƣờng luật. Giai đoạn này cũng xuất hiện của nhiều thi tập lớn viết bằng chữ Nôm nhƣ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi; Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và các văn nhân thời Hồng Đức; Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Giai đoạn cuối, từ thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX, đây là giai đoạn phát triển đỉnh cao của hiện tƣợng song ngữ với sự ƣu thắng của tiếng Việt, chữ Nôm.
3. Trong các mối quan hệ ảnh hƣởng qua lại, hiện tƣợng song ngữ thể hiện rõ nhất ở loại hình tác giả. Trong văn học trung đại Việt Nam có một loại
149
hình tác giả vừa sáng tác bằng chữ Hán vừa sáng tác bằng tiếng Việt – chữ Nôm. Tiêu biểu trong số này phải kể đến những tên tuổi nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến. Tác giả song ngữ có những đặc điểm nhƣ: Loại hình tác giả song ngữ với xuất thân nho học và khoa bảng; Loại hình tác giả song ngữ gắn với bối cảnh lịch sử, xã hội buổi giao thời; Loại hình tác giả song ngữ gắn với kiểu nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật; Loại hình tác giả song ngữ với tƣ tƣởng, quan điểm nghệ thuật của nho gia. Nghiên cứu về loại hình tác giả song ngữ còn cho thấy sự đa dạng và thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam. Sự đa dạng đem đến nhiều kiểu tác giả trong loại hình tác giả song ngữ nhƣ: Nguyễn Trãi với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - chính trị; Nguyễn Bỉnh Khiêm với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - triết lí; Nguyễn Du với kiểu tác giả song ngữ trữ tình – tự sự và Nguyễn Khuyến với kiểu tác giả song ngữ trữ tình – trào phúng, liên văn bản. Trong khi đó sự thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ cho thấy các tác giả coi sáng tác chữ Hán và chữ Nôm đều là sáng tác nghệ thuật đích thực.
4. Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam còn biểu hiện trên phƣơng diện thể loại và ngôn ngữ. Trên phƣơng diện thể loại, hiện tƣợng song ngữ xuất hiện ở cả văn học chức năng và văn học nghệ thuật với mức độ và quy mô không giống nhau. Ở văn học chức năng, có hiện tƣợng song ngữ chủ yếu ở thể loại hịch, văn tế và kệ. Trong khi đó, các thể loại văn học chức năng khác nhƣ cáo, chiếu, biểu, văn sách, điều trần, tấu, sớ,… hầu hết đƣợc sáng tác bằng chữ Hán. Ở các thể văn xuôi tự sự chỉ duy nhất Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi là đƣợc ông dịch ra chữ Nôm từ tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ còn lại đều đƣợc sáng tác bằng chữ Hán. Ở các thể loại trữ tình nghệ thuật, thơ Nôm Đƣờng luật nổi lên nhƣ một hiện tƣợng mạnh mẽ nhất với những thành tựu rực rỡ cả về nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh đó, hiện tƣợng song ngữ xuất hiện ở thể loại phú, một thể loại cũng đƣợc Việt hóa khá thành công. Các thể loại văn học nội sinh nhƣ diễn ca lịch sử, truyện thơ, ngâm khúc, hát nói đều có biểu hiện của hiện tƣợng song ngữ. Ở phƣơng diện ngôn ngữ, hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam vừa có sự tồn tại độc lập của ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc nhƣng đồng thời hai ngôn ngữ này cũng có mối quan hệ qua lại với nhau.
150
5. Từ những nghiên cứu về hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có thể mở ra những hƣớng nghiên cứu mới, đề tài mới. Ví dụ nhƣ các vấn đề riêng về hiện tƣợng song ngữ của một tác giả cụ thể, một thể loại cụ thể hoặc một nhóm tác giả, nhóm thể loại hay một giai đoạn văn học. Cũng có thể hƣớng đến nghiên cứu so sánh giữa hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam với các nƣớc trong khu vực hoặc thậm chí khái quát lên thành một hiện tƣợng mang tầm thế giới cũng không phải không có cơ sở.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG Ố CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nông Văn Ngoan (2016), ―Đặc trƣng thi pháp thể loại phú trong văn học
Việt Nam thời trung đại‖, Tạp chí khoa học, Trƣờng Đại học Tây Nguyên
(16), tr. 73 -76.
2. Nông Văn Ngoan (2017), ―Hiện tƣợng sáng tác bằng song ngữ của một
số tác gia tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam‖, Tạp chí khoa học,
Trƣờng Đại học Tây Nguyên (23), tr. 117-119.
3. Nông Văn Ngoan (2017), ―Thể loại văn học trung đại Việt Nam nhìn từ
hiện tƣợng song ngữ‖, Kỉ yếu hội thảo Nghiên cứu sinh, Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội, tr. 108 -112.
4. Nông Văn Ngoan (2018), ―Hiện tƣợng song ngữ trong văn học Nhật
Bản thời trung đại Việt Nam‖, Tạp chí khoa học, Trƣờng Đại học Tây
Nguyên (28), tr. 115-118.
5. Nông Văn Ngoan (2018), ―Loại hình tác giả song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam‖, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (405), tr. 83-86.
6. Nông Văn Ngoan (2018), ―Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung
đại các nƣớc Việt Nam, Triều Tiên/ Hàn Quốc và Nhật Bản dƣới góc
nhìn so sánh‖, Tạp chí Nghiên cứu văn học (3), tr.98-108.
7. Nông Văn Ngoan (2018), ―Chính sách ngôn ngữ của nhà nƣớc phong
kiến Việt Nam nhìn từ hiện tƣợng song ngữ‖, Tạp chí khoa học, Trƣờng
Đại học Sƣ phạm Hà Nội (1), tr.74-80.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đào Duy Anh (1974), Từ điển Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, H.
2. Đào Duy Anh (1975), Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Nxb
Khoa học xã hội, H.
3. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán – Việt, Nxb Văn hóa thông tin, H.
4. Đào Duy Anh (2007), Khảo luận về Truyện Kiều, Nxb Văn hóa thông
tin, H.
5. Trần Thị Anh (2015), Hiện tượng song ngữ qua sáng tác Nguyễn Trãi,
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
6. Aristote, Lƣu Hiệp (1999), Nghệ thuật thi ca (Lê Đăng Bảng, Thành Thế
Thái Bình,… dịch), Văn tâm điêu long (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, H.
7. Nguyễn Quang Ân, Vũ Ngọc Khánh (biên soạn) (1995), Kho tàng truyện
truyền kì Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, H.
8. Lại Nguyên Ân (1997), Các thể tài chức năng trong văn học trung đại
Việt Nam, Tạp chí Văn học (số 1), Hà Nội, tr. 57-60.
9. Lại Nguyên Ân (1997), Các thể tài trước thuật và sáng tác nghệ thuật ở
văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Văn học (số 4), Hà Nội, tr. 18-20.
10. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Lại Nguyên Ân (2002), Từ điển Văn học Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội.
12. Bakhtin M., (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, (Phạm Vĩnh Cƣ
dịch), Bộ văn hóa thông tin và thể thao, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, H.
13. Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục
Việt Nam, H.
14. Phan Kế Bính (1930), Việt Hán văn khảo, Trung Bắc tân văn, H.
15. Phan Kế Bính (1992), Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
16. Lại Ngọc Cang (1964), Khảo thích và giới thiệu Chinh phụ ngâm, Nxb
Văn học, H.
153
17. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, H.
18. Bùi Hạnh Cẩn (Biên dịch và chú thích) (1995), 192 bài thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, Nxb Văn hóa – Thông tin, H.
19. Nguyễn Tài Cẩn, (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc
Hán Việt, Nxb Khoa học Xã hội, H.
20. Nguyễn Tài Cẩn (1985), Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, H.
21. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, H.
22. Nguyễn Tài Cẩn (2008), Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua “Thu dạ
lữ hoài ngâm”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Lê Ngọc Cầu – Phan Ngọc (1974), Nội dung xã hội mĩ học tuồng đồ,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Phạm Tú Châu (2007), Hoàng Lê nhất thống chí, văn bản tác giả và
nhân vật, Nxb Khoa học xã hội, H.
25. Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên) (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm - Danh nhân
văn hoá, Bộ văn hoá thông tin và thể thao xuất bản, H.
26. Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ
biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, H.
27. Nguyễn Huệ Chi (2013), Văn học cổ cận đại Việt Nam - Từ góc nhìn văn
hóa đến các mã nghệ thuật, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.
28. Hà Nhƣ Chi (1994), Việt Nam thi văn giảng luận, tái bản, Nxb Đồng Tháp.
29. Trần Bá Chí (2006), Về sách Thánh Tông di thảo, Tạp chí Hán Nôm, (số
6), Tr.21-26.
30. Nguyễn Thị Chiến (1995), Giá trị nhân văn và nghệ thuật trong hình
tượng người phụ nữ của truyện Nôm, Nxb Văn hóa, H.
154
31. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới, (Phạm Vĩnh Cƣ, Nguyễn Xuân Giáo, Lƣu Huy Khánh, Nguyên Ngọc,
Vũ Đình Phòng, Nguyễn Văn Vỹ dịch, (Sách tái bản), Nxb Đà Nẵng.
32. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, H.
33. Phan Trần Chúc (1944), Văn chương quốc âm về thế kỷ XIX, Nxb Đời mới, H.
34. Nguyễn Văn Dân (1998), Lí luận so sánh văn học, Nxb Khoa học Xã hội, H.
35. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học Xã hội, H.
36. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, H.
37. Nguyễn Du (1985), Truyện Kiều, in lần thứ bảy, Nguyễn Thạch Giang (Khảo
đính và chú giải), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.
38. Nguyễn Du (1996), Nguyễn Du toàn tập, (Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng
Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Văn
học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H.
39. Nguyễn Du (2003), Về tác gia và tác phẩm, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn
và biên soạn, Nxb Văn học, H.
40. Nguyễn Dữ, (1971), Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn học, H.
41. Lƣơng Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc (1987), Những khúc
ngâm chọn lọc, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.
42. Phan Cự Đệ (1974-1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội.
43. Phan Cự Đệ - Trần Đình Hƣợu - Nguyễn Trác - Nguyễn Hoành Khung -
Lê Chí Dũng - Hà Văn Đức (2001), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb
Giáo dục, H.
44. Vũ Phƣơng Đề (2001), Công dư tiệp ký (Đoàn Thăng dịch, Trần Nghĩa
giới thiệu), Nxb Văn học, H.
45. Biện Minh Điền (2008), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
46. Biện Minh Điền (2015), Loại hình văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại
học Vinh, Nghệ An.
155
47. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề (1994), Việt Nam ca trù biên khảo, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
48. Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục (Phạm Trọng Điềm dịch), Nxb
Văn hóa - Thông tin, H.
49. Lê Quý Đôn (2007), Đại Việt thông sử (Ngô Thế Long dịch), Nxb Văn
hóa - Thông tin, H.
50. Hà Minh Đức (chủ biên) (2001), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn
học, Nxb Khoa học xã hội, H.
51. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.
52. Ngô Văn Đức (2001), Ngâm khúc – Quá trình hình thành, phát triển và
thi pháp thể loại, Nxb Thanh niên, H.
53. Đoàn Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, ĐHQG TP.HCM.
54. Đoàn Lê Giang (2006), ―Thời trung đại trong trong văn học các nƣớc
khu vực văn hóa chữ Hán‖, Tạp chí Nghiên cứu văn học (12), tr.86-105.
55. Nguyễn Thạch Giang (chủ biên) (2004), Tinh tuyển Văn học Việt Nam,
Tập 5, Quyển 1, Nxb Khoa học xã hội, H.
56. Nguyễn Thạch Giang (chủ biên) (2004), Tinh tuyển Văn học Việt Nam,
Tập 5, Quyển 2, Nxb Khoa học xã hội, H.
57. Trần Văn Giáp (1984), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - nguồn tư liệu văn
học, sử học Việt Nam (Thư tịch chí Việt Nam), Nxb Văn hóa, H.
58. Trần Văn Giáp (1996), Nhà sử học Trần Văn Giáp: Tuyển tập, Nxb
Khoa học xã hội, H.
59. Trần Văn Giáp (2000), Lược truyện các tác gia Việt Nam (Sách tái bản),
Nxb Văn học, H.
60. Nguyễn Thiện Giáp, (2006), Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử, https://ngonngu.net/csnn_cacthoiki_ntgiap/172.
156
61. A.Ja Gurevich (1998), Các phạm trù văn hóa Trung cổ, (Hoàng Ngọc Hiến
dịch), Nxb Giáo dục, H.
62. Dƣơng Quảng Hàm (1943), Việt Nam thi văn hợp tuyển, tái bản, Nxb
Hội Nhà văn, H.
63. Dƣơng Quảng Hàm (1950), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia giáo
dục tái bản, H.
64. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, H.
65. Phan Thị Thu Hiền (2017), Văn học cổ điển Hàn Quốc – tiến trình và
bản sắc, Nxb Khoa học xã hội, H.
66. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trƣờng viết văn
Nguyễn Du, H.
67. Lƣu Hiệp (1997), Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, Nxb Văn học, H.
68. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá, … (Chủ biên) (2004), Từ
điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, H.
69. Phạm Thị Ngọc Hoa (2012), Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi
– Quan điểm thẩm mỹ và phương thức nghệ thuật, Luận án tiến sĩ Ngữ
văn, Học viện Khoa học xã hội, H.
70. Kiều Thu Hoạch (2007), Truyện Nôm – Lịch sử phát triển và thi pháp
thể loại, Nxb Giáo dục, H.
71. Kiều Thu Hoạch (2010), Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Văn học, H.
72. Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án (1972), Tang thương ngẫu lục, Nxb Văn học, H.
73. Phạm Đình Hổ (2001), Vũ trung tùy bút, Nxb Văn học, H.
74. Nguyễn Quang Hồng (2008), Khái luận văn tự học – Chữ Nôm, Nxb
Giáo dục, H.
75. Nguyễn Thuý Hồng (1995), Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong ngôn
ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học
Sƣ phạm Hà Nội.
157
76. Đoàn Tử Huyến (chủ biên) (2008), Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử,
Nxb Nghệ An.
77. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb
Khoa học xã hội, H.
78. Cù Hựu, Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăn tân thoại (Phạm Tú Châu dịch),
Truyền kì mạn lục (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch), Nxb Văn học, H.
79. Lê Thị Hƣơng (2009), Bạch Vân quốc ngữ thi tập: Đặc điểm nội dung và
nghệ thuật, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
80. Hồ Xuân Hƣơng (1987), Thơ, Nxb Văn học, H.
81. Đinh Thị Thanh Hƣơng (2007), Để dạy và học tốt tác phẩm văn chương
(phần trung đại), Nxb Đại học Sƣ phạm, H.
82. Trần Đình Hƣợu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
tập 1 Nxb Giáo dục, H.
83. Trần Đình Hƣợu (2007), Trần Đình Hượu tuyển tập, tập 1 Nxb Giáo
dục, H.
84. Nguyễn Văn Khang (2013), Giáo trình Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Giáo
dục Việt Nam, H.
85. Đinh Gia Khánh (chủ biên) – Bùi Duy Tân – Mai Cao Chƣơng (1998), Văn học
Việt Nam (Thế kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, H.
86. Đinh Gia Khánh (2009), Điển cố văn học, Nxb Văn học, H.
87. Nguyễn Văn Huyền sƣu tầm, biên dịch, giới thiệu (1984), Nguyễn
Khuyến tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội, H.
88. M.B. Khrapchenko (1979), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học, (Lê Sơn và Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, H.
89. Trần Trọng Kim (2003), Việt Nam sử lược, Nxb Văn học, H.
90. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb Văn hóa thông tin, H.
91. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,
Nxb Khoa học xã hội, H.
158
92. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, Nxb Khoa
học xã hội, H.
93. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận (1990), Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, H.
94. Đặng Thanh Lê (1992), Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong
mối quan hệ khu vực, Tạp chí Văn học, (số 1), tr. 2-8.
95. Đặng Thanh Lê (1995), ―Tiếp cận một số vấn đề tiếp nhận ngôn ngữ và tƣ
tƣởng triết học Trung Quốc thời kì trung đại‖, Tạp chí Văn học, (2), tr. 9-11.
96. V.I. Lênin (1960), Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, Nxb Sự thật, H.
97. La Kim Liên (2005), Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi trong dòng thơ
Nôm Đường luật Việt Nam thời trung đại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
98. Ngô Sĩ Liên (1976), Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, H.
99. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố trong
Truyện Kiều, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
100. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu
thế kỉ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.
101. Nguyễn Lộc (1982), Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, H.
102. Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du, con người và cuộc đời, Nxb Đà Nẵng.
103. Nguyễn Lộc, (tái bản 2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII –
hết thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục, H.
104. Phƣơng Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học
trung đại Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, H.
105. Phƣơng Lựu (Chủ biên) (2002), Lí luận văn học, tái bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
106. Phƣơng Lựu (2002), Từ so sánh văn học đến thi học so sánh, Nxb Giáo
dục, H.
107. Đặng Thai Mai (1992): Giảng văn Chinh phụ ngâm, Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội.
159
108. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Những bài giảng về tác gia văn học (3 tập),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
109. Trần Quang Minh – Đinh Thị Khang (1998), Đoàn Thị Điểm – Nguyễn
Gia Thiều, Nxb Giáo dục, H.
110. Nguyễn Đăng Na (1998), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Nxb
Giáo dục, H.
111. Nguyễn Đăng Na (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam tập 3, Nxb Khoa
học Xã hội, H.
112. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đường giải mã Văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục, H.
113. Nguyễn Đăng Na (Chủ biên), Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang (2012),
Văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb Đại học sƣ phạm, H.
114. Nhiều tác giả (1966), Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (1765-
1965), Nxb Khoa học xã hội, H.
115. Nhiều tác giả (2001), Nguyễn Bỉnh Khiêm – về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, H.
116. Phan Ngọc (2000), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb
Thanh niên, H.
117. Phan Ngọc (2003) Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
118. Nguyễn Bích Ngô dịch (1993), Thánh Tông di thảo, NXB Văn học, Hà Nội.
119. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tái bản,
Nxb Đồng Tháp.
120. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn học, H.
121. Nguyễn Thị Nƣơng (2010), Con người Nguyễn Du qua thơ chữ Hán,
Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội.
122. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm
Từ điển học.
160
123. Phan Diễm Phƣơng (1998), Lục bát và song thất lục bát, Nxb Khoa học
Xã hội, H.
124. Cao Bá Quát (2012), Cao Bá Quát toàn tập, Tập 2, (Mai Quốc Liên
chủ biên tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.
125. Kiều Thanh Quế (1969), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, Nxb Hoa tiên.
126. Hoàng Quốc (2009), Những đặc trưng ngôn ngữ học xã hội của hiện tượng
song ngữ, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Trƣờng Đại học An Giang.
127. Lê Quýnh (1993), Bắc hành tùng ký (Hoàng Xuân Hãn dịch), Nxb Thuận
Hóa, Huế.
128. Đặng Đức Siêu (2009), Giáo trình Ngữ văn Hán Nôm, 2 tập, Nxb Đại
học sƣ phạm, H.
129. Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn và giới thiệu (2006), Cao
Bá Quát – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, H.
130. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, H.
131. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lƣu Oanh (2005), So sánh văn học –
nghiên cứu và triển vọng, Nxb Đại học sƣ phạm, H.
132. Trần Đình Sử (2005), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
133. Trần Đình Sử (2007), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, H.
134. Ko Mi Sook, Jung Min, Jung Byung Sul (2006), Văn học sử Hàn Quốc
từ cổ đại đến cuối thế kỉ XIX (Jeon Hye Kyung - Lí Xuân Chung biên
dịch và giới thiệu), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
135. Bùi Duy Tân (1995), Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn
học chữ Nôm ở Việt Nam, Tạp chí Văn học, (số 2), tr. 12-15, H.
136. Trần Thị BăngThanh (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam tập 4, Nxb
Khoa học Xã hội, H.
137. Vũ Thanh (1994), ―Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện
ngắn truyền kỳ Việt Nam‖, Tạp chí Văn học, (6), tr. 25.
138. Vũ Thanh (Tuyển chọn và giới thiệu) (1999), Nguyễn Khuyến về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo dục, H.
161
139. Vũ Thanh (2006), ―Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyện truyền
kỳ Đông Á‖, Bài viết tham dự Hội thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong
bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế, Viện Văn học Việt Nam
và Viện Harvard-Yenching Hoa Kỳ tổ chức.
140. Vũ Thanh (2010), ―Tiến trình truyện kỳ ảo Việt Nam những năm cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX‖, Bài viết tham dự Hội thảo khoa học quốc tế
Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ
Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc (từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX), Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh) và Quỹ Giao lƣu quốc tế Nhật Bản tổ chức.
141. Vũ Thanh (2012), Truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam, Đề tài khoa học và
công nghệ cấp Bộ, Tài liệu lƣu giữ tại phòng Tƣ liệu khoa Ngữ văn,
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội. 227. Thánh Tông di thảo, Việt Nam kỳ
phùng sự lục, Điểu thám kỳ án (2008) (Nguyễn Bích Ngô, Phan Văn
Các, Nguyễn Thị Thảo dịch), Nxb Văn học, H.
142. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, H.
143. Lã Nhâm Thìn (2002), Bình giảng thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, H.
144. Lã Nhâm Thìn – Vũ Thanh (Đồng Chủ biên), Đinh Thị Khang, Trần Thị
Hoa Lê, Nguyễn Thị Nƣơng, Nguyễn Thanh Tùng (2015), Giáo trình văn
học trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.
145. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
từ góc nhìn thể loại, Nxb Đại học Sƣ phạm, H.
146. Lã Nhâm Thìn (2015), Nguyễn Du và hiện tượng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam (Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Kỷ niệm 250 năm sinh Đại
thi hào Nguyễn Du), Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, H.
147. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, H.
148. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ X đến hết thế kỷ
XIX, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.
162
149. Trần Nho Thìn (2011), Tiếp cận tác phẩm trong chương trình phổ thông
trung học có liên quan đến văn hoá chính trị cổ trung đại, Tài liệu tập
huấn phát triển chuyên môn giáo viên trƣờng trung học phổ thông
chuyên, môn Ngữ văn, H.
150. Bùi Đức Tịnh (2005), Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy
đến cuối thế kỷ XIX, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
151. Nguyễn Nam Trân (2011), Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, Nxb
Giáo dục Việt Nam, H.
152. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (2004), Tinh tuyển
Văn học Việt Nam tập 1,2,3,4,5, Nxb Khoa học Xã hội, H.
153. Hoàng Tuệ (2009), Hoàng Tuệ tuyển tập, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
154. Tổ Văn học dân gian và Văn học trung đại, Khoa Ngữ Văn, Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội (2016), Hợp tuyển công trình nghiên cứu văn học
dân gian và văn học trung đại Việt Nam Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
155. Đoàn Thị Thu Vân (Chủ biên) (2009), Văn học trung đại Việt Nam (thế
kỷ X – cuối thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục Việt Nam, H.
156. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, H.
157. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Loại hình học tác giả văn học - nhà nho tài tử
và văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
158. Trần Ngọc Vƣơng (Chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX
– những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, H.
159. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến
hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, H.
160. Trần Tế Xương tác phẩm và lời bình (2007), (Tuấn Thành – Anh Vũ
tuyển chọn), Nxb Văn học, H.
161. Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học, Nxb Giáo dục, H.
162. Nguyễn Nhƣ Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
163
163. Hoàng Hữu Yên (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Đại học sƣ phạm, H.
164. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb
Thanh Niên, H.
165. Lê Thu Yến (2001), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ
người đời sau, Nxb Giáo dục, H.
166. Lê Thu Yến (2002), Nhà văn trong nhà trường - Nguyễn Du, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
TIẾNG ANH
167. Peter H. Lee (1981), Anthology of Korean Literature from early times to the
nineteenth century, University of Hawaii Press.
TIẾNG PHÁP
168. A. Jeanroy – A. Puech (1907), Histoire de la littérature latine, Le -
Livre, Sablons, France.
1PL
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM LOẠI HÌNH TÁC GIẢ SONG
NGỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Tác giả
Tiêu chí Đặc điểm
Nguyễn Trãi
Nguyễn Du
Nguyễn Khuyến
Lê Thánh Tông
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Cao Bá Quát
Trần Nhân Tông
X X X X X
X X X X X
Loại hình tác giả song ngữ gắn với xuất thân nho học và truyền thống khoa bảng
X X X X X
thân Xuất gia trong đình có truyền thống học, nho khoa bảng, truyền có thống thi thƣ Là các nhà nho, đƣợc đào tạo một bài cách trong bản nhà trƣờng phong kiến, nhiều ngƣời đỗ đạt và giữ chức vụ cao trong triều sống và hoạt trong động đoạn giai giao thời của các triều đại Loại hình tác giả song ngữ
2PL
X X X X X
gắn với bối cảnh lịch sử, xã hội buổi giao thời
X X X X X
Loại hình tác giả song ngữ gắn với kiểu nhà nho hành đạo và kiểu nhà nho ẩn dật X X X X X
Giai đoạn kiến tạo, xây dựng và phát đất triển hoặc nƣớc triều đại phong kiến sau những năm chống ngoại xâm nội hoặc và loạn ngƣợc lại Có một chặng đƣờng học hành, đỗ đạt và ra làm quan để thi hành lý tƣởng tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ, lý tƣởng kinh bang tế thế, trí quân trạch dân của một nhà Nho hành đạo Có những khoảng thời gian gắn bó sâu sắc với nhân dân của
3PL
X X X X X X
một nhà Nho có tƣ tƣởng thân dân, một nhà Nho ẩn dật sống những gần ngƣời con bình thƣờng, lam lũ Tƣ tƣởng và quan niệm nghệ thuật của Nho gia Tƣ tƣởng thân dân sâu sắc
X X X X X X X
Loại hình tác giả song ngữ gắn với tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của nho gia
4PL
PHỤ LỤC 2: HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ Ở THỂ LOẠI HỊCH VĂN TẾ
Hịch viết bằng chữ Hán Hịch viết bằng chữ Nôm
STT Thể loại Tên tác phẩm Tên tác giả Tên tác phẩm Tên tác giả
1 Hịch Lý Càn Đức
2 Hịch Lý Thƣờng Kiệt
3 Hịch Trần Quốc Tuấn
Thảo Ma Sa động hịch [108, tr.37] Phạt Tống lộ bố văn [108, tr.33] Dụ chư tỳ tướng hịch văn [108, tr.44]
Hịch Xuất sư hịch Ngô Thì Nhậm 4
5 Hịch Nguyễn Hữu Chỉnh Phạm Nhƣ Xƣơng
Hịch bình Tây sát tả Trần Tấn, Đặng Nhƣ Mai 6 Hịch
7 Hịch Khuyết danh
8 Hịch
9 Hịch Nguyễn Đình Chiểu Trƣơng Định
10 Hịch Hịch đánh Trịnh Hịch văn thân Quảng Nam Hịch Lãnh Cồ Lãnh Cồ Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây Hịch đánh chuột Hịch Trương Định Hịch Quản Định
11 Văn tế Văn tế cá sấu Hàn Thuyên
12 Văn tế Trần Duệ Tông
13 Văn tế Văn tế Trương Phạm Thái Văn tế Nguyễn Bích Châu
5PL
Hịch viết bằng chữ Hán Hịch viết bằng chữ Nôm
STT Thể loại Tên tác phẩm Tên tác giả Tên tác giả
Tên tác phẩm Quỳnh Như
Văn tế chị 14 Văn tế Nguyễn Hữu Chỉnh
Lê Ngọc Hân 15 Văn tế
Nguyễn Du 16 Văn tế
17 Văn tế Bôn tang cáo văn Ngô Thì Nhậm
18 Văn tế
19 Văn tế
Nguyễn Kiều Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu 20 Văn tế
Văn tế Quang Trung Văn tế thập loại chúng sinh Văn tế Đoàn Thị Điểm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Văn tế Trương Định Văn tế nghĩa dân trận vong lục tỉnh
6PL
PHỤ LỤC 3: BẢNG THỐNG KÊ CÁC TÁC PHẨM Ở CÁC THỂ LOẠI
CÁO, CHIẾU, BIỂU
Viết bằng chữ Hán
STT Thể loại
Tên tác phẩm Tên tác giả
Viết bằng chữ Nôm Tên Tên tác tác giả phẩm
1 Cáo Nguyễn Trãi
2 Chiếu Lý Công Uẩn
3 Chiếu Lý Phật Mã
4 Chiếu Lý Phật Mã
5 Chiếu Lý Càn Đức
6 Chiếu Khuyết danh
7 Chiếu Nguyễn Trãi
8 Chiếu Nguyễn Trãi
9 Chiếu Nguyễn Trãi Bình Ngô đại cáo [141, tr.146] Thiên đô chiếu [108, tr.29] Bình Nùng chiếu [108, tr.31] Xá thuế chiếu [108, tr.32] Lâm chung di chiếu [108, tr.38] Thiện nhượng chiếu [108, tr.42] Cầu hiền tài chiếu [81, tr.216] Cấm đại thần tổng quản cập chư viện sảnh cục đẳng quant ham đãi chiếu [81, tr.216] Mệnh Tư Tề nhiếp sự chiếu [81, tr.216
10 Chiếu Tức vị chiếu
11 Chiếu Cầu hiền chiếu
12 Chiếu Đại nguyên soái Tổng quốc chính Bình vương kính thư Ngô Thì Nhậm Ngô Thì Nhậm Ngô Thì Nhậm
7PL
Viết bằng chữ Hán
STT Thể loại
Tên tác phẩm Tên tác giả
Viết bằng chữ Nôm Tên Tên tác tác giả phẩm
vu La Sơn phu tử văn kỷ thanh chiếu
13 Chiếu Hàm Nghi đế chiếu Nguyễn Phúc Ƣng Lịch
14 Biểu Lý Càn Đức
15 Biểu Trần Khâm
16 Biểu Đoàn Nhữ Hài
17 Biểu Nguyễn Trãi
16 Biểu Thỉnh hoàn Vật Dương, Vật Ác nhị động biểu Từ nhập cận biểu Nghĩ Anh Tông hoàng đế tạ Thượng hoàng biểu Gián nghị đại phu kiêm tri tam quán sự tạ biểu Di biểu Hoàng Diệu
8PL
PHỤ LỤC 4: HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ Ở THỂ LOẠI THƠ KỆ
Viết bằng chữ Hán Viết bằng chữ Nôm
STT Giai đoạn văn học Tên tác phẩm Tên tác giả Tên tác giả
Tên tác phẩm 1 Thế kỷ X Nguyên hỏa Ngô Chân Lƣu
2 Thế kỷ XI Thị đệ tử Nguyễn Vạn Hạnh
Đáp Lý Thái Tông 3 Thế kỷ XI Lâm Khu tâm nguyện chi vấn
4 Thế kỷ XI Thủy hỏa Lâm Khu
5 Thế kỷ XI Thị tịch Đàm Khí
6 Thế kỷ XI Tâm không Mai Trực
7 Thế kỷ XI Cảm hoài Vƣơng Hải Thiềm
8 Thế kỷ XI Sinh, lão, bệnh, tử Lý Ngọc Kiều
9 Thế kỷ XI Đáp Từ Đạo Hạnh Kiều Trí Huyền
10 Thế kỷ XI Thất châu Từ Lộ
11 Thế kỷ XI Hữu, không Từ Lộ
12 Thế kỷ XI Vấn Kiều Trí Huyền Từ Lộ
13 Thế kỷ XI Thị tịch cáo đại chúng Từ Lộ
14 Thế kỷ XI Sắc, không Lê Thị Ỷ Lan
15 Thế kỷ XI Hoa điệp Nguyễn Giác Hải
Thế kỉ 16 XVI
Trần Thị Ngọc Am 13 bài kệ bằng chữ Nôm
9PL
PHỤ LỤC 5: BẢNG THỐNG KÊ TÁC PHẨM Ở THỂ LOẠI
TIỂU THUYẾT CHƢƠNG HỒI
Viết bằng chữ Hán Viết bằng chữ Nôm
STT Giai đoạn văn học Tên tác phẩm Tên tác giả Tên tác phẩm Tên tác giả
Hoan Châu ký Nguyễn Cảnh Thị 1
2 Nguyễn Khoa Chiêm
3 Ngô gia văn phái Cuối XVII – đầu XVIII Thế kỷ XVIII Cuối XVIII – đầu XIX Nam triều công nghiệp diễn chí Hoàng Lê nhất thống chí
4 Đầu XIX Đào hoa mộng ký Tiên Phong Lê Đình?
5 Cuối XIX
Ngô Giáp Đậu 6 Cuối XIX – đầu XX Việt Lam xuân thu Vũ Xuân Mai? Hoàng Việt long hưng chí
10PL
PHỤ LỤC 6: BẢNG THỐNG KÊ TÁC PHẨM Ở THỂ LOẠI
TRUYỆN TRUYỀN KỲ
Viết bằng chữ Hán Viết bằng chữ Nôm STT Giai đoạn văn học Tên tác phẩm Tên tác giả Tên tác phẩm Tên tác giả
Thánh Tông di thảo Lê Thánh Tông
1 Cuối XV Cuối XVI
Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ 2
Nguyễn Thế Nghi Tân biên Truyền kỳ mạn lục
3 Cuối XVIII
Vũ Trinh 4
5 Phạm Quý Thích Cuối XVIII – đầu XIX Cuối XVIII – đầu XIX Truyền kì tân phả Đoàn Thị Điểm Lan Trì kiến văn lục Tân truyền kì lục
11PL
PHỤ LỤC 7: BẢNG THỐNG KÊ TÁC PHẨM Ở THỂ LOẠI
KÝ SỰ, TÙY BÚT
Viết bằng chữ Hán
STT Giai đoạn văn học Tên tác phẩm Tên tác giả
Viết bằng chữ Nôm Tên Tên tác tác giả phẩm
1 Thượng kinh ký sự Lê Hữu Trác
2 Bắc hành tùng ký Lê Quýnh
3 Vũ trung tùy bút Phạm Đình Hổ
4 Tang thương ngẫu lục Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án
5 Công dư tiệp ký Vũ Phƣơng Đề
6 Hải trình chí lược Phan Huy Chú
7 Lý Văn Phức Tây hành kiến văn kỷ lược
8 Tây hành nhật ký Phạm Phú Thứ Cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX Cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX Cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX Cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX Cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX Cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX Cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX Cuối thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX
12PL
PHỤ LỤC 8: HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ Ở THỂ LOẠI PHÚ
STT Thể loại
Viết bằng chữ Hán Tên tác phẩm Tên tác giả Viết bằng chữ Nôm Tên tác giả Tên tác phẩm
Vân Lý Đạo Tái 1 Phú
Trần Khâm 2 Phú Vịnh Yên tự phú Cư trần lạc đạo phú
3 Phú
4 Phú Mạc Đĩnh Chi Trƣơng Hán Siêu
5 Phú Phạm Mại
6 Phú
7 Phú Sử Hy Nhan
8 Phú Ngọc tỉnh liên phú Bạch Đằng giang phú Thiên thu giám phú Cảnh Tinh phú Đào Sƣ Tích Trảm xà kiếm phú Thiên Hưng trấn phú
9 Phú Diệp mã nhi phú
10 Phú Diệp mã nhi phú
11 Phú
12 Phú
13 Phú Nguyễn Bá Thông Đoàn Xuân Lôi Nguyễn Phi Khanh Nguyễn Pháp Nguyễn Nhữ Bật Trần Công Cẩn
14 Phú Nguyễn Trãi
15 Phú Nguyễn Mộng Tuân Cần chính lâu phu Quan Chu nhạc phú Bàn Khê điếu huỳnh phú Chí Linh sơn phú Chí Linh sơn phú
13PL
STT Thể loại
Viết bằng chữ Nôm Tên tác giả Tên tác phẩm
Phú 16 Viết bằng chữ Hán Tên tác phẩm Chí Linh sơn phú
Phú Lam Sơn phú 17
Phú Nghĩa kỳ phú 18 Tên tác giả Trần Thuấn Du Nguyễn Mộng Tuân Nguyễn Mộng Tuân
Lý Tử Tấn Phú 19
Lý Tử Cấu Phú 20
Phú 21 Xương Giang phú Tam ích hiên phú Lam Sơn Lương Thủy phú
22 Phú Nhạc Dương lâu phú
Phú 23 Lê Thánh Tông Đoàn Nguyên Tuấn Bùi Dƣơng Lịch
Ngô Thì Trí Phú 24
Ngô Thì Chí Phú 25 Kỳ giang kiều phú Đăng Ải Vân sơn phú Tục Thiên Thai phú
Tây Phú 26 Nguyễn Huy Lƣợng
Phạm Thái Phú 27
Phú 28
tử Bá Phú 29
Phú 30 Tụng Hồ phú Chiến Tụng Tây Hồ phú Trương Lưu hầu phú Phú tài đa cùng Phú kể tội giặc Pháp Nguyễn Hữu Chỉnh Cao Quát Phạm Văn Nghị
14PL
STT Thể loại
Viết bằng chữ Hán Tên tác phẩm Tên tác giả Viết bằng chữ Nôm Tên tác giả
31 Phú
hỏng Tế 32 Phú
Tế 33 Phú Tên tác phẩm Phú ông đồ ngông Phú thi Phú thầy đồ dạy học Nguyễn Khuyến Trần Xƣơng Trần Xƣơng
15PL
PHỤ LỤC 9: HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ Ở THỂ LOẠI TRUYỆN THƠ
STT Thể loại
Tên tác giả Viết bằng chữ Nôm Tên tác giả Tên tác phẩm
1 Viết bằng chữ Hán Tên tác phẩm Truyện thơ Hương miệt hành Khuyết danh
2 Truyện thơ
3 Truyện thơ Truyện Song Tinh Phạm Tải – Ngọc Hoa
Thạch Sanh 4 Truyện thơ
Trê cóc 5 Truyện thơ
6 Truyện thơ
7 Truyện thơ
Tống Trân – Cúc Hoa Phạm Công – Cúc Hoa
Nhị độ mai 8 Truyện thơ
9 Truyện thơ Nguyễn Hữu Hào Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Khuyết danh Dƣơng Minh Đức Thị Khuyết danh Khuyết danh
Phạm Thái 10 Truyện thơ
Âm Nguyễn Cấp 11 Truyện thơ
12 Truyện thơ
13 Truyện thơ Nguyễn Đình Chiểu
14 Truyện thơ Nguyễn Đình Chiểu
15 Truyện thơ Nguyễn Đình Chiểu
Phương Hoa Sơ kính tân trang Quan Thị Kính Truyện Kiều Nguyễn Du Truyện Lục Vân Tiên Truyện Dương Từ - Hà Mậu Truyện Ngư – Tiều y thuật vấn đáp
16PL
PHỤ LỤC 10: HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ Ở THỂ LOẠI NGÂM KHÚC
STT Thể loại
Viết bằng chữ Hán Tên tác phẩm Tên tác giả Viết bằng chữ Nôm Tên tác giả
1 Ngâm khúc Chinh phụ ngâm Đặng Trần Côn Phan Huy Ích
2 Ngâm khúc Tên tác phẩm Diễn Nôm Chinh phụ ngâm khúc Cung oán ngâm khúc
Ai tư vãn 3 Ngâm khúc
4 Ngâm khúc Quả phụ ngâm
Bần nữ thán 5 Ngâm khúc
6 Ngâm khúc Nguyễn Gia Thiều Lê Ngọc Hân Khuyết danh Khuyết danh Đinh Nhật Thận Thu dạ lữ hoài ngâm
Thu dạ lữ hoài ngâm Tự tình khúc Cao Bá Nhạ 7 Ngâm khúc Đinh Nhật Thận
17PL
PHỤ LỤC 11: BẢNG THỐNG KÊ TÁC PHẨM Ở THỂ LOẠI HÁT NÓI
Viết bằng chữ Nôm xen hai câu chữ Hán Giai đoạn STT văn học Tên tác phẩm Tên tác giả
1 Đầu thế kỷ XIX Tự tình Cao Bá Quát
2 Đầu thế kỷ XIX Hơn nhau một chữ thì Cao Bá Quát
3 Đầu thế kỷ XIX Phận hồng nhan có mong manh Cao Bá Quát
4 Đầu thế kỷ XIX Nhân sinh thấm thoắt Cao Bá Quát
5 Đầu thế kỷ XIX Ngày tháng thanh nhàn Nguyễn Công Trứ
6 Đầu thế kỷ XIX Kiếp nhân sinh Nguyễn Công Trứ
7 Đầu thế kỷ XIX Chơi xuân kẻo hết xuân đi Nguyễn Công Trứ
8 Đầu thế kỷ XIX Trần ai ai dễ biết ai Nguyễn Công Trứ
9 Cuối thế kỷ XIX Hồng hồng, tuyết tuyết Dƣơng Khuê
10 Cuối thế kỷ XIX Hương Sơn phong cảnh Chu Mạnh Trinh
11 Cuối thế kỷ XIX Hỏi phỗng đá Nguyễn Khuyến
12 Cuối thế kỷ XIX Duyên nợ Nguyễn Khuyến
13 Cuối thế kỷ XIX Chơi chùa Thầy Nguyễn Thƣợng Hiền
14 Cuối thế kỷ XIX Hát cô đầu Trần Tế Xƣơng
18PL
PHỤ LỤC 12: THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VÀ CA DAO
TRONG QUỐC ÂM THI TẬP
STT TỤC NGỮ THÀNH NGỮ
CA DAO QUỐC ÂM THI TẬP
1
- Ở đấng thấp thì nên đấng thấp Đen gần mực, đỏ gần son Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng (Bảo kính cảnh giới - bài 21)
2
- Ở bầu thì dáng ắt nên tròn Xấu tốt thì đều rắp khuôn
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
(Bảo kính cảnh giới - bài 21) - Ngoài năm mƣơi tuổi ngoài chƣng thế Ắt đã tròn bằng nƣớc ở bầu
(Trần tình- bài 4)
3
- Lận đận nhà giàu no bữa cám Bạn bè kẻ trộm phải ăn đòn
(Bảo kính cảnh giới - bài 21) Ở gần nhà giàu đau răng ăn cám Ở gần kẻ trộm ốm lƣng chịu đòn
4
- Tay ai thì lại làm nuôi miệng Làm biếng ngồi ăn lở núi non
(Bảo kính cảnh giới - bài 22)
Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. - Miệng ăn núi lở - Xƣa đà có câu truyền bảo Làm biếng hay ăn lở núi non
(Dạy con trai)
5 Lên non mới biết non cao
- Có con mới biết ơn cha nặng Dừng lộc thì hay nghĩa chúa nhiều
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy (Bảo kính cảnh giới - bài 37)
- Bất nhân vô số nhà hào phú Của ấy nào ai từng đƣợc chầy
(Bảo kính cảnh giới - bài 44)
7
-Nên thợ nên thầy vì có học No ăn no mặc bởi hay làm
6 Của làm ra để trên gác/ của cờ bạc để ngoài sân/ của phù vân để ngoài ngõ - Không thầy đố mày làm nên - Có làm thì mới có ăn (Bảo kính cảnh giới - bài 46)
19PL
STT TỤC NGỮ THÀNH NGỮ
QUỐC ÂM THI TẬP
- Nếu có ăn thời có lo Chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho CA DAO Không dƣng ai dễ đem phần đến cho
(Ngôn chí - bài 19)
8
- Nhiều thốt đã thành nhiều sự lỗi Ít ăn thì phải ít ngƣời làm
(Bảo kính cảnh giới - bài 47)
- Nhọc nhằn ai chớ còn than thở Ăn có dừng thì việc có dừng - Nói dai, nói dài, nói dại. - Bớt tiền thì bớt cù lao Bớt ăn bớt uống thì tao bớt làm.
(Bảo kính cảnh giới - bài 54)
9
- Bể truyền bia miệng kiếp nào mòn Cao thấp cùng xem việc mất còn
(Bảo kính cảnh giới - bài 55)
- Trăm năm bia đá thì mòn Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ - Chỉnh vàng chẳng tiếc, danh thì tiếc Bia đá hay mòn, nghĩa chẳng mòn
(Tự thán- bài 17)
10
- Thƣơng cá thác vì câu uốn lƣỡi Ngẫm ruồi nào chết bát mồ hòn
(Bảo kính cảnh giới - bài 55)
- Cá chết vì câu, ruồi chết vì mật
- Miệng ngƣời nhƣ mật mùi qua ngọt Đạo thánh bằng tơ mối hãy dài
(Tự thán- bài 21)
11
- Cơm ăn dầu có dƣa muối Áo mặc nài chi gấm thêu
(Thuật hứng - bài 22). - Ăn lấy chắc, mặc lấy bền
-Bữa ăn dầu có dƣa muối Áo mặc nài chi gấm là
(Ngôn chí- bài 3)
12
- Con sâu bỏ rầu nồi canh
- Chẳng ngừa nhỏ âu nên lớn Nên có sâu thì bỏ canh (BKCG- bài 9) - Chúa đàn nẻo khẻo tan con nghé 13 - Xảy đàn tan nghé.
20PL
STT TỤC NGỮ THÀNH NGỮ
QUỐC ÂM THI TẬP
Hòn đất hầu làm mất cái chim
(Bảo kính cảnh giới - bài 23)
14
- Tay chân dầu đứt bề khôn nối Xống áo chẳng còn mô dễ xin
(Bảo kính cảnh giới - bài 15). CA DAO - Đất bụt mà ném chim trời Chim thì bay mất đất rơi xuống chùa - Anh em nhƣ thể tay chân Rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần.
15
- Dễ hay ruột bể sâu cạn Khôn biết lòng ngƣời ngắn dài
- Bể sâu còn có kẻ dò Lòng ngƣời nham hiểm ai đo cho cùng.
(Ngôn chí - bài 5) - Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn Lòng ngƣời quanh tựa nƣớc non quanh
(Bảo kính cảnh giới - bài 9)
16
- Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền Cành Bắc cành Nam một cõi nên
(Bảo kính cảnh giới - bài 15)
17
- Ở ngọt thì hơn nhiều kẻ trọng Qúa chua liền úng có ai màng
(Bảo kính cảnh giới - bài 20) - Con một mẹ, hoa một chùm Yêu nhau nên nữa phải đùm lấy nhau. - Qúa mù ra mƣa, quá chua ra úng.
18
- Co que thay bấy ruột ốc Khúc khuỷu làm chi trái hòe - Quanh co ruột ốc.
(Trần tình - bài 8)
19
- Làm ngƣời mựa cậy khi quyền thế Có thuở bàn cờ tốt đuổi xe - Lạc nƣớc, tốt đuổi xe.
(Trần tình - bài 8)
20
- Giàu ngƣời họp, khó ngƣời tan Hai ấy hằng lề sự thế gian - Giàu ngƣời tới, khó ngƣời lui. (Bảo kính cảnh giới - bài 12)
21 - Có đức hơn có tài. - Làm lành mới cậy chớ làm dữ Có đức thì hơn nửa có tài
21PL
STT TỤC NGỮ THÀNH NGỮ
CA DAO
QUỐC ÂM THI TẬP (Tự thán – bài 22)
22
- Gạch quẳng nào bày mấy ngọc Sừng hằng những nọc qua tai - Sừng mọc qúa tai.
(Tự thán - bài 22)
23
- Khôn chẳng đã bề khôn thật Trăm khéo nào qua chƣớc khéo đầy
(Bảo kính cảnh giới - bài 44) - Khôn ngoan chẳng lọ thật thà Dẫu là vụng dại cũng là đàn ông.
24
- Thế sự nào ai hay buộc bện Sen nào có bén trong lầm - Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn (Thuật hứng – bài 25)
25
- Có của bo bo hằng chực của Oán ngƣời nơm nớp những âu ngƣời
(Bảo kính cảnh giới - bài 11)
26
- Phú quý thì nhiều kẻ đến chen Uốn đòi thế thái tính chƣa quen
(Bảo kính cảnh giới - bài 13)
-Yêu trọng ngƣời dƣng là của ai Thƣơng vì thân thích nghĩa chân tay
(Bảo kính cảnh giới - bài 18)
- Của mình thì giữ bo bo Của ngƣời thì thả cho bò nó ăn - Bần cƣ trung thị vô nhân vấn Phú tại sơn lâm hữu khách tầm - Ngƣời dƣng có ngãi ta đãi ngƣời dƣng Chị em bất ngãi ta đừng chị em
27
- Nhiều thốt đã đành nhiều sự lỗi Ít ăn thì lại ít ngƣời làm - Nói dai, nói dài, nói dại - Ăn ít làm ít (Bảo kính cảnh giới - bài 47)
28
- Giàu nhiều của con chẳng có Sống hơn ngƣời mệnh khó khăn - Một mặt ngƣời bằng mƣời mặt của (Bảo kính cảnh giới - bài 48)
29
- Ngọc lành nào có tơ vết Vàng thực âu chi lửa thiêu
(Tự thuật - bài 5) - Thực vàng chẳng phải thau đâu Đừng đem thử lửa mà đau
22PL
STT TỤC NGỮ THÀNH NGỮ
QUỐC ÂM THI TẬP CA DAO
30
- Hay văn hay võ thì dùng đến Chẳng đã khôn ngay khéo đầy
(Mạn thuật - bài 3)
31
- Lòng ngƣời tựa mặt ai ai khác Sự thế bằng cờ bƣớc bƣớc nghèo.
(Mạn thuật - bài 10). lòng vàng. - Ngọc càng mài càng sáng Vàng càng luyện càng trong - Khôn ngoan chẳng lọ thật thà Lƣờng thƣng tráo đấu chẳng qua đong đầy. - Nhìn mặt mà bắt hình dong Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon.
23PL
PHỤ LỤC 13:
BẢNG THỐNG KÊ THI LIỆU HÁN HỌC TRONG TRUYỆN KIỀU
STT Thơ mƣợn từ thi liệu Hán học Truyện Kiều
1
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. (Truyện Kiều. 619-620) Thùy ngân thốn thảo tâm, Báo đắc tâm xuân huy. (Ai bảo tấm lòng nhỏ mọn nhƣ tấc cỏ Mà lại có thể báo đáp ánh sáng tháng ba mùa xuân)
(Thơ Mạnh Dao, đời Đường)
2 Thực là tài tử giai nhân Chân Trần còn có Châu Trần nào hơn (Truyện Kiều.1458-1459)
Từ Châu cổ Phong huyện, Hữu thôn viết Châu Trần. Nhất thôn duy lưỡng tính, Thế thế vị hôn nhân. (Huyện Phong xƣa ở đất Từ Châu Có một thôn gọi là Châu trần Một thôn chỉ có hai họ Đời đời làm thông gia với nhau)
(Thơ Bạch Cư Dị)
3
Sông tần một giải xanh xanh, Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan. (Truyện Kiều. 1501-1502)
Vị Thành triêu vũ ấp thanh trần, Thách xá thanh thanh liễu sắc tân. Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, Tây xuất Dương Quan vô cố nhân. (Đất Vị Thành mƣa sớm làm ẩm bụi trong Chốn quán trọ xanh xanh màu cây liễu thắm Khuyên ngƣời hãy uống cạn chén rƣợu này Đi về phía Tây ra khỏi Dƣơng Quan Sẽ không còn ai là bạn cũ)
(Thơ Vương Duy, đời Đường)
4 Trước sau nào thấy bóng người, Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.
24PL
Thơ mƣợn từ thi liệu Hán học
STT
Truyện Kiều Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. (Truyện Kiều 2747-2748)
Nhân diện bất tri hà xứ xứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong. (Năm ngoái hôm nay trong cổng này Mặt ngƣời và hoa đào màu hồng ánh lẫn nhau Nay mặt ngƣời không biết đã đi đâu Chỉ có hoa đào vẫn cƣời với gió đông nhƣ cũ)
(Thơ Thôi Hộ)
5 Chi nghênh nam bắc điểu Diệp tống vảng lai phong (Cành đón những con chim từ nam và bắc tời Lá đƣa những ngọn gió qua lại) Dập dìu lá gió cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh. (Truyện Kiều. 1231-1232)
(Thơ Tiết Đào)
Mỹ nhân tiếu khiên châu bạc Giao chỉ hồng cận thị thiếu gia (Ngƣời đẹp liền cƣời, kéo rèm chân nhìn ra Trỏ lầu hồng ở phía xa đó là nhà em) 6
Đêm ngày lòng những giận long, Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên. (Truyện Kiều.1568-1569)
(Thơ Lý Bạch)
7
Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một tài đành họa hai. (Truyện Kiều 27-28)
Bắc phương hữu giai nhân, Tuyệt thế nhi độc lập. Nhất cố khuynh nhân thành. Tái cố khuynh nhân quốc. (Phƣơng bắc có ngƣời đẹp Hơn hết đời mà đứng một mình Một lần nhìn làm nghiêng đổ thành của ngƣời Hai lần nhìn làm nghiêng đổ nƣớc của ngƣời)
(Thơ Lý Diên Niên)
25PL
Thơ mƣợn từ thi liệu Hán học STT
Quế phách sơ sinh, thu lộ vi (Mặt trăng đầu tháng sƣơng mùa thu nhỏ hạt) 8 (Thơ Vương Duy, đời Đường)
Vọng hạnh màu nghi thu thủy (Trông con ngƣời ngỡ làn nƣớc thu)
Truyện Kiều Mơ màng phách quế hồn mai, Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa. (Truyện Kiều 2711-2712) Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. (Thơ Viên Giốc) 10
Thư hương kiếm khí câu linh lạc (Mùi hƣơng của sách, cải khí của kiếm đều tan tác) 11 (Thơ Lâm Cảnh Hy)
Vật hoán tinh di kỳ độ thu (Vật đổi sao dời mấy độ thu)
(Thơ Vương Bột, đời Đường) 12
(Truyện Kiều 619-620) Nghĩ rằng cũng mạch thư hương, Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh. (Truyện Kiều 1061-1062) Dẫu rằng vật đổi sao dời, Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh. (Truyện Kiều 3087-3088)
13 Lão nhân du hí như đồng tử Bất chiết mai chi, chiết quất chi (Ngƣời già chơi nhởn nhơ nhƣ trẻ con Không bẻ cành mai mà lại bỏ cành quýt) Đào tiên đã bén tay phàm, Thì vin cành quýt cho cam sự đời. (Truyện Kiều 833-834) (Tô Đông Pha)
14
Thuyền tình vừa ghé đến nơi, Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ. (Truyện Kiều 69-702)
Thạnh thượng ma ngọc trâm Ngọc trâm vị thành trung ương chiết Tỉnh thượng văn ngân bình Ngân bình vị thượng, ty thằng tuyệt (Mài trâm ngọc trên đá Trâm chƣa thành nửa chừng đã gãy Kéo bình bạc trên giếng Bình bạc chƣa lên, dây tơ đứt)
(Thơ Cố Huống)
26PL
PHỤ LỤC 14: BẢNG THỐNG KÊ ẢNH HƢỞNG QUA LẠI
GIỮA CA DAO VÀ TRUYỆN KIỀU
STT 1
Ca dao Tiễn đưa một chén rượu nồng, Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng đứt đôi.
Hay:
Truyện Kiều Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường. (Truyện Kiều.1525-1526)
2
Rắp mong treo ấn, từ quan Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua. Vầng trăng ai xẻ làm đôi Đường trường ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo Thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
(Ca dao)
3
(Truyện Kiều. 2939-2940) Sầu đong càng lắc càng đầy Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
(Truyện Kiều)
Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nở bay qua vườn hồng Ai đi muôn dặm non sông Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy. Cộng với một câu thơ trong
kinh thi: ―Nhất nhật bất kiến nhƣ tam thu hề‖ (Một ngày không thấy xem bằng ba thu).
4
Chờ người quốc sắc thiên tài, Mặt trong hoa ổi, mặt ngoài hoa tre. (Ca dao)
5
Yêu nhau chẳng ngại đường xa, Đã vàng cũng quyết, phong ba cũng liều. (Ca dao)
6
Sông sâu biển thẳm dễ dò, Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
(Ca dao)
7 Người quốc sắc, kẻ thiên tài Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. (Truyện Kiều. 163-164) Đã gần chi có điều xa, Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều. (Truyện Kiều. 1365- 1366) E thay những dạ phi thường, Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông. (Truyện Kiều. 1485- 1486) Xót người tựa cửa hôm mai, Thức khuya dậy sớm chuyên cần,
27PL
STT
Truyện Kiều Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Ca dao Quạt nồng, ấp lạnh giữ phần làm con. (Ca dao)
8
Chén ngà sánh giọng quỳnh tương, Mời chàng nho sĩ văn chương bước vào. (Ca dao)
(Truyện Kiều.1043-1044) Chén hà sánh giọng quỳnh tương, Giải là hương lộn, bình gương bóng lồng. (Truyện Kiều.453-454)
9
Xắn tay mở khóa động đào, Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-thai. Ra tay mở khóa động đào, Thực tiên thì được bước vào chơi tiên. (Ca dao)
(Truyện Kiều.391-392)
10
Bạc sao bạc chẳng vừa thôi Để cho nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
(Ca dao)
(Truyện Kiều.753-754) 11 Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa. Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mạc biết là về đâu? Buồn trông chênh chếch sao mai. Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ? Buồn trông con nhện giăng tơ, Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai? (Ca dao)
(Truyện Kiều.147-150)
12
Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Mẹ già một nắng hai sương Chị đi một bước trăm đường xót xa Cậy em em ở lại nhà. (Ca dao)
(Truyện Kiều. 723-724)