i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Thái Bùi Hải An

ii

MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan i

Mục lục ii

Danh mục các chữ viết tắt vi

Danh mục các bảng, biểu vii

Danh mục các hình vẽ, đồ thị viii

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1

2. Mục đích nghiên cứu 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

4. Phương pháp nghiên cứu 3

5. Những điểm mới của luận án 4

6. Kết cấu của luận án 6

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu 7

1.1 Các công trình nghiên cứu liên quan 7

1.1.1 Các công trình nghiên cứu nước ngoài 7

1.1.2 Các công trình nghiên cứu trong nước 9

1.1.3 Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu khoa học 13

1.2 Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 15

1.3 Các câu hỏi nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu 16

Kết luận chương 1 18

Chương 2: Một số vấn đề lý luận về đại lý hải quan và quản lý đại

lý hải quan 20

2.1 Những vấn đề lý luận về đại lý hải quan 20

2.1.1 Khái niệm đại lý hải quan 20

2.1.2 Những đặc trưng cơ bản của đại lý hải quan 23

2.1.3 Vai trò của đại lý hải quan 28

2.2 Những vấn đề lý luận về quản lý đại lý hải quan 33

iii

2.2.1 Khái niệm quản lý đại lý hải quan 33

2.2.2 Sự cần thiết khách quan phải quản lý đại lý hải quan 35

2.2.3 Nội dung quản lý đại lý hải quan 37

2.2.4 Các phương pháp và công cụ quản lý đại lý hải quan 44

2.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý đại lý hải quan 49

2.3 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của các nước và bài học cho

Việt Nam 51

2.3.1 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của Hải quan Philipin 51

2.3.2 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của Hải quan Nhật Bản 53

2.3.3 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của Hải quan Hoa Kỳ 57

2.3.4 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của Hải quan Australia 59

2.3.5 Bài học kinh nghiệm rút ra cho quản lý đại lý hải quan ở Việt

Nam 61

Kết luận chương 2 63

Chương 3: Thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời

gian qua 65

3.1 Quá trình hình thành và phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam 65

3.1.1 Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 65

3.1.2 Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2014 67

3.2 Thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua 76

3.2.1 Thực trạng định hướng sự phát triển của đại lý hải quan 77

3.2.2 Thực trạng tạo lập môi trường cho sự phát triển của đại lý hải

quan 78

3.2.3 Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý đối với đại lý hải quan 86

3.2.4 Thực trạng kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý hải quan 89

3.2.5 Thực trạng điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan 92

3.3 Đánh giá thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian

qua 94

3.3.1 Những kết quả đạt được 94

iv

3.3.2 Những hạn chế của quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam 100

3.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế về phát triển đại lý hải quan và

quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua 108

Kết luận chương 3 119

Chương 4: Một số giải pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan ở

Việt Nam 121

4.1 Định hướng phát triển đại lý hải quan và những yêu cầu đặt ra đối

với quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam 121

4.1.1 Mục tiêu phát triển của Hải quan Việt Nam và định hướng phát

triển đại lý hải quan Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa hải quan 121

4.1.2 Quan điểm quản lý và những yêu cầu đặt ra đối với quản lý đại

lý hải quan ở Việt Nam 123

4.2 Một số giải pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam 126

4.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập môi trường cho sự phát

triển của đại lý hải quan 126

4.2.2 Tập trung đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho nhân viên đại lý

hải quan 129

4.2.3 Triển khai thực hiện có hiệu quả chế độ ưu tiên hải quan đối với

đại lý hải quan đủ điều kiện 133

4.2.4 Sớm thành lập Hiệp hội đại lý hải quan Việt Nam 138

4.2.5 Tổ chức bộ máy quản lý đại lý hải quan theo hướng hiện đại,

chuyên nghiệp 142

4.2.6 Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ và hiệu quả trong quản lý

đại lý hải quan 145

4.2.7 Áp dụng đồng bộ và hiệu quả các phương pháp quản lý và công

cụ quản lý đại lý hải quan 147

4.2.8 Tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức hải quan quốc tế 148

Kết luận chương 4 149

KẾT LUẬN 151

v

Danh mục công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án 154

Danh mục tài liệu tham khảo 155

Phụ lục 1 163

Phụ lục 2 166

vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt AEO :

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN :

Hiệp hội giao nhận và đại lý hải quan Australia CBFCA :

Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới Hoa Kỳ CBP :

Hiệp hội đại lý hải quan Nhật Bản JCBA :

Thành phố TP :

Hệ thống thông tin tình báo hải quan VCIS :

: VNACCS Hệ thống thông quan hàng hóa tự động

WCO : Tổ chức Hải quan thế giới

WTO : Tổ chức thương mại thế giới

XNK : Xuất nhập khẩu

vii

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Trang

Bảng 3.1: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2007 68

Bảng 3.2: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2010 70

Bảng 3.3: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2012 71

Bảng 3.4: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2013 73

Bảng 3.5: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2014 74

Bảng 3.6: Tốc độ tăng đại lý hải quan giai đoạn 2010-2014 76

Bảng 3.7: Số lượng đại lý hải quan ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014 98

Bảng 3.8: Các công việc đại lý hải quan thực hiện theo hợp đồng đại

lý hải quan ký với chủ hàng 103

Bảng 3.9: Những khó khăn đại lý hải quan thường gặp trong quá

trình làm thủ tục hải quan 106

viii

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Trang

Đồ thị 3.1: Tổng số tờ khai XNK và số lượng tờ khai do đại lý hải

quan khai, ký tên, đóng dấu giai đoạn 2010-2014 75

Đồ thị 3.2: Tình hình thực hiện nộp báo cáo hoạt động cho cơ quan

hải quan của các đại lý hải quan 90

Đồ thị 3.3: Số lượng đại lý hải quan ở Việt Nam giai đoạn 2010-

2014 99

Đồ thị 3.4: Tỷ lệ tham gia đào tạo nghiệp vụ khai hải quan của các

đại lý hải quan ở Việt Nam 105

Đồ thị 3.5: Khảo sát ý kiến đồng ý thành lập Hiệp hội đại lý hải quan

ở Việt Nam 118

Sơ đồ 4.1: Vai trò của Hiệp hội đại lý hải quan Việt Nam 140

Sơ đồ 4.2. Mô hình quản lý đối với đại lý hải quan ở Việt Nam 143

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công

nghệ thông tin, phân công lao động quốc tế ngày càng cao và sâu sắc, tính chất

toàn cầu hóa trong sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày càng mạnh mẽ, dẫn đến

lưu lượng hàng hóa mua bán, trao đổi qua lại giữa các quốc gia cũng tăng lên

một cách nhanh chóng. Điều này cũng có nghĩa khối lượng hàng hóa xuất nhập

khẩu mỗi ngày một tăng, với nhiều chủng loại hàng hóa và nhiều loại hình xuất

nhập khẩu khác nhau, đòi hỏi việc làm thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất nhập

khẩu cũng phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu chung.

Khi làm thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, người làm

thủ tục hải quan phải am hiểu pháp luật hải quan và các luật pháp liên quan như

chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa, chính sách thuế, các quy định về vận tải

quốc tế, các điều kiện về thanh toán quốc tế, về giao hàng, các quy định về xuất

xứ hàng hóa, trị giá tính thuế, xác định mã số hàng hóa, các quy định về thương

mại quốc tế… Người làm thủ tục hải quan càng chuyên nghiệp, tinh thông

nghiệp vụ thì việc làm thủ tục hải quan càng được thực hiện nhanh chóng, chính

xác, tạo thuận lợi cho cả cơ quan hải quan lẫn chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập

khẩu. Chính vì vậy, nhằm đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh, các chủ hàng

hóa xuất khẩu, nhập khẩu, thay vì trực tiếp làm thủ tục hải quan, sẽ ủy quyền cho

một bên thứ ba, hiểu biết và nắm rõ về pháp luật hải quan, được gọi là đại lý làm

thủ tục hải quan (Customs Broker), thay mặt mình thực hiện thủ tục hải quan với

cơ quan hải quan.

Ở Việt Nam, hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan (sau đây gọi là đại lý

hải quan) bắt đầu hình thành từ những năm 90 của thế kỷ trước và được điều

chỉnh hoạt động dựa trên cơ sở Pháp lệnh Hải quan năm 1990. Thời gian đầu, đại

lý hải quan hoạt động một cách tự phát, đơn thuần là hoạt động theo ủy quyền

của chủ hàng hóa xuất nhập khẩu. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập và hiện đại hóa

hải quan, cùng với sự ra đời của Luật Hải quan năm 2001, hoạt động đại lý hải

2

quan đã được ghi nhận về địa vị pháp lý cũng như được quy định cụ thể hơn về

quyền và trách nhiệm của người khai hải quan và đại lý hải quan. Mặc dù đã có

những văn bản pháp lý quy định và hướng dẫn cụ thể, tạo điều kiện cho sự phát

triển của đại lý hải quan, nhưng đại lý hải quan ở Việt Nam vẫn hoạt động chưa

đúng với ý nghĩa của nó. Các đại lý hải quan hoạt động còn manh mún, tự phát

và chưa thực sự là “cánh tay nối dài” hỗ trợ cho công tác quản lý của cơ quan hải

quan.

Trước yêu cầu hội nhập, quản lý đại lý hải quan là một trong những nội

dung then chốt cần được cải cách, hiện đại hóa để vừa tạo thuận lợi cho hoạt

động thương mại quốc tế, vừa góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Do đó

xu hướng quản lý đại lý hải quan là vừa phải khuyến khích phát triển vừa phải

định hướng phát triển theo hướng chuyên nghiệp và hiệu quả. Mạng lưới đại lý

hải quan phát triển mạnh sẽ làm tăng hiệu quả quản lý của cơ quan hải quan,

giúp cơ quan hải quan nói riêng và cơ quan quản lý nhà nước nói chung thực

hiện chức năng quản lý các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chặt chẽ,

tập trung và dễ dàng áp dụng các phương tiện và phương pháp quản lý hải quan

hiện đại, triển khai nhanh chóng các văn bản pháp luật, quy trình nghiệp vụ và

khoa học kỹ thuật hiện đại ứng dụng trong quá trình thông quan hàng hóa xuất

nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu không được quản lý bài bản, khoa học và hợp lý, sẽ

xảy ra tình trạng đại lý hải quan phát triển tự phát, hoạt động kém chuyên

nghiệp, không đồng bộ, dẫn đến quản lý phức tạp hơn.

Vì vậy, việc đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan ở

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, góp phần tạo thuận lợi

cho các tổ chức và cá nhân hoạt động kinh doanh XNK hàng hóa, đồng thời hỗ

trợ tích cực cho cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà

nước về hải quan. Xuất phát từ lí do đó, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài

“Quản lý đại lý làm thủ tục hải quan ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu luận án nhằm mục đích sau:

3

- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đại lý hải quan và quản lý đại lý

hải quan.

- Đánh giá thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua.

- Đưa ra các giải pháp tăng cườngquản lý đại lý hải quan nhằm thúc đẩy

sự phát triển của đại lý hải quan và đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của nhà nước

đối với đại lý hải quan.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là đại lý hải quan và quản lý đại lý hải

quan, trong đó quản lý đại lý hải quan bao gồm quản lý đại lý hải quan và quản

lý hoạt động của đại lý hải quan. Việc nghiên cứu đại lý hải quan và quản lý đại

lý hải quan được đặt trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan ở Việt Nam để phân

tích, đánh giá và bình luận, bởi tiến trình hiện đại hóa hải quan tất yếu đòi hỏi

phải phát triển đại lý hải quan và quản lý đại lý hải quan.

Luận án tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của đại lý

hải quan cũng như quản lý đại lý hải quan của Việt Nam từ năm 2001 - khi Luật

Hải quan được ban hành và lần đầu tiên ghi nhận địa vị pháp lý của đại lý hải

quan trong văn bản luật - cho đến hết năm 2014.

Phạm vi nghiên cứu của luận án chủ yếu là đánh giá thực trạng quản lý đại

lý hải quan ở Việt Nam dựa trên các nội dung quản lý đại lý hải quan, trong đó

lồng ghép các phương pháp quản lý, công cụ quản lý trong các nội dung quản lý

đại lý hải quan để phân tích và đánh giá.

Để có số liệu phục vụ nghiên cứu, luận án tập trung nghiên cứu chủ yếu

về hoạt động quản lý đại lý hải quan của cơ quan Hải quan và nghiên cứu một số

đại lý hải quan điển hình tại Hà Nội, Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh kể từ năm

2005, khi hoạt động đại lý hải quan phát triển.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu và phù hợp với đối tượng, phạm

vi nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

4

- Phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp: Phương pháp này được vận

dụng chủ yếu nhằm xem xét, hệ thống hóa và tóm tắt những kết quả nghiên cứu

có liên quan tới đề tài luận án.

- Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp và phân tích, thống kê: Thông qua

các phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và

xâu chuỗi thành từng nhóm vấn đề; được phân tích, khái quát hóa để xây dựng

khung phân tích theo yêu cầu của đề tài luận án.

- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để so sánh, đối

chiếu giữa quy định pháp luật và các nội dung khác với thực tế thực hiện theo

yêu cầu của đề tài luận án.

- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình: Thông qua nghiên cứu

trường hợp điển hình ở một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm

cho Việt Nam.

- Phương pháp điều tra khảo sát: Phương pháp này được sử dụng để khảo

sát tình hình hoạt động của các đại lý hải quan, các doanh nghiệp kinh doanh

XNK và cơ quan hải quan để nắm bắt thực trạng hoạt động đại lý hải quan hiện

nay cũng như quan điểm quản lý của cơ quan hải quan.

- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng để tham vấn ý

kiến của các chuyên gia, nhà quản lý, đồng nghiệp trong nước và ngoài nước về

những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án.

Ngoài các phương pháp nghiên cứu trên, quá trình thực hiện đề tài luận án

cũng dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, quan điểm duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luôn dựa trên

các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh

tế - xã hội.

5. Những điểm mới của luận án

Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa lý luận về đại lý hải quan và quản lý

đại lý hải quan. Trong đó, luận án khẳng định đại lý hải quan là “người” thay

mặt chủ hàng hoá xuất nhập khẩu thực hiện trách nhiệm của người khai hải quan

5

và thực hiện các công việc khác về thủ tục hải quan theo thoả thuận trong hợp

đồng. Quản lý đại lý hải quan là sự tác động của cơ quan quản lý nhà nước đến

đại lý hải quan và hoạt động của đại lý hải quan bằng các phương pháp quản lý

và công cụ quản lý nhất định nhằm đạt được các mục tiêu nhất định.

Thứ hai, luận án đưa ra một số kết luận đánh giá mang tính khoa học, góp

phần tạo luận cứ về lý luận và thực tiễn cho việc quản lý đại lý hải quan. Luận án

xác định các nội dung quản lý đại lý hải quan cụ thể gồm năm nội dung chính:

Định hướng sự phát triển của đại lý hải quan; Tạo lập môi trường cho sự phát

triển của đại lý hải quan; Tổ chức bộ máy quản lý đối với đại lý hải quan; Thực

hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý hải quan; và Điều chỉnh hoạt động

của đại lý hải quan.

Thứ ba, luận án cho rằng điểm mạnh của quản lý đại lý hải quan ở Việt

Nam thời gian qua là đã xây dựng được khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của

đại lý hải quan, xác định rõ thẩm quyền của cơ quan hải quan trong tổ chức quản

lý nhà nước đối với đại lý hải quan. Với tư cách quản lý nhà nước về đại lý hải

quan, ngành Hải quan đã có chỉ đạo đúng hướng, quan tâm và mong muốn phát

triển nhanh đại lý hải quan để hỗ trợ cơ quan hải quan nhiều hơn trong quá trình

cải cách, hiện đại hóa hải quan. Tuy nhiên, điểm hạn chế của quản lý đại lý hải

quan ở Việt Nam hiện nay là chưa thúc đẩy được sự phát triển của đại lý hải

quan theo định hướng phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh cải cách và hiện

đại hóa hải quan; hoạt động đại lý hải quan chưa đảm bảo độ tin cậy cho các

doanh nghiệp kinh doanh XNK; trình độ quản lý và khả năng thích ứng của đại

lý hải quan còn thấp, chưa thể hiện tính chất chuyên nghiệp và chuyên môn hóa

cao; chưa thiết lập được mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và cộng

đồng đại lý hải quan.

Thứ tư, luận án chỉ rõ nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trong phát

triển đại lý hải quan và quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua là do

quy mô của các doanh nghiệp kinh doanh XNK ở Việt Nam chủ yếu là doanh

nghiệp vừa và nhỏ nên chưa có thói quen sử dụng dịch vụ đại lý hải quan và

thường tự làm thủ tục hải quan để tiết kiệm chi phí; một số quy định trong các

6

văn bản pháp luật về đại lý hải quan chưa đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng hoặc

chưa phù hợp với thực tiễn; công tác tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng

nghiệp vụ cho các nhân viên đại lý hải quan chưa đáp ứng tốt yêu cầu cải cách

và hiện đại hóa hải quan; cơ chế hỗ trợ và phối kết hợp giữa cơ quan hải quan và

các đại lý hải quan chưa thường xuyên và hiệu quả; chưa có Hiệp hội đại lý hải

quan đại diện tiếng nói chung của các đại lý hải quan và là đầu mối liên hệ giữa

các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng đại lý hải quan; việc kiểm tra, giám

sát hoạt động đại lý hải quan chưa thường xuyên, xử lý các hành vi vi phạm pháp

luật của đại lý hải quan chưa kịp thời.

Thứ năm, luận án đã đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm tăng cường

quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa hải quan, trong

đó đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập môi trường cho sự phát triển

của đại lý hải quan; Tập trung đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho nhân viên đại

lý hải quan; Triển khai thực hiện có hiệu quả chế độ ưu tiên hải quan đối với đại

lý hải quan đủ điều kiện; Đề xuất thành lập Hiệp hội đại lý hải quan Việt Nam

trong thời gian sớm nhất; Tổ chức bộ máy quản lý đại lý hải quan theo hướng

hiện đại, chuyên nghiệp; Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ và hiệu quả

trong quản lý đại lý hải quan; Áp dụng đồng bộ và hiệu quả các phương pháp và

công cụ quản lý đại lý hải quan; và Tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức

hải quan quốc tế.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung

luận án được kết cấu thành 4 chương:

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu.

Chương 2: Một số vấn đề lý luận về đại lý hải quan và quản lý đại lý hải

quan.

Chương 3: Thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua.

Chương 4: Một số giải pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan ở Việt

Nam.

7

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1 Các công trình nghiên cứu liên quan

Trong thời gian qua, đã có một số công trình, bài viết trong và ngoài nước

liên quan đến đề tài luận án hoặc liên quan đến các nội dung nghiên cứu của đề

tài được công bố trên các tạp chí khoa học, tạp chí chuyên ngành, các báo cáo

trình bày tại hội thảo khoa học, các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn thạc sỹ,

các tin bài được đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Cụ thể

như sau:

1.1.1 Các công trình nghiên cứu nước ngoài

- The Broker Management handbook, by the U.S. Customs and Border

Protection (CBP) (2002), là cẩm nang quản lý đại lý hải quan của Hải quan Hoa

Kỳ. Tài liệu đã đề cập đến quy trình kiểm tra, cấp phép cho đại lý hải quan cũng

như các quy định về hủy bỏ, bãi miễn, đình chỉ việc cấp phép hay giấy phép. Bên

cạnh đó là các quy định khác về quản lý đại lý hải quan như quản lý rủi ro, giám

sát tuân thủ của đại lý hải quan, quản lý tài khoản của đại lý hải quan…

- Customs Act 1901 of Australia (amendments up to Act No. 67, 2002)

(Reprinted on 25 September 2002) là cuốn sách về Luật Hải quan Australia năm

1901 (bổ sung, sửa đổi năm 2002), trong đó có Phần XI của Luật quy định về đại

lý hải quan và nhân viên đại lý hải quan. Cụ thể đó là các nội dung về quyền và

nghĩa vụ của đại lý hải quan, việc cấp phép đại lý hải quan, gia hạn giấy phép đại

lý, điều kiện, thủ tục đăng ký và xin cấp phép hành nghề nhân viên đại lý hải

quan. Phần cuối đề cập các nội dung liên quan đến Hội đồng tư vấn cấp phép đại

lý hải quan quốc gia.

- Becoming a customs broker in Australia, by the Customs Brokers &

Forwarders Council of Australia Inc. (CBFCA), là tài liệu nghiên cứu của Hội

đồng các nhà giao nhận và đại lý hải quan của Australia(CBFCA). Trong đó

CBFCA hướng dẫn một số thủ tục cho các cá nhân muốn trở thành nhân viên đại

lý hải quan, như phải tham gia các khóa đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ hải

8

quan và tham dự kỳ thi quốc gia tổ chức vào tháng 10 hàng năm. Để có chứng

chỉ đào tạo nghiệp vụ hải quan, các cá nhân có nhu cầu có thể nộp đơn đăng ký

tham gia khóa đào tạo do CBFCA tổ chức, định kỳ vào tháng 2 và tháng 7 hàng

năm.

- Customs modernization handbook, by Luc De Wuf & José B. Sokol,

publication of World Bank (2005), là cuốn sổ tay về hiện đại hóa hải quan, trong

đó có đề cập đến các vấn đề như: chiến lược hiện đại hóa hải quan, khung pháp

lý cho hoạt động hải quan, quản lý rủi ro trong bối cảnh quản lý hải quan hiện

đại... Tài liệu cũng nghiên cứu một số trường hợp điển hình về cải cách, hiện đại

hóa hải quan của một số quốc gia, rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời chỉ ra

một số vấn đề ảnh hưởng tới sự hài hòa hóa hoạt động hải quan.

- Customs brokerage law of Japanvà Customs broker law of Korea

(2009), là tập hợp các văn bản luật về Đại lý hải quan của Nhật Bản và Hàn

Quốc. Trong đó Luật Đại lý hải quan của Nhật Bản quy định các nội dung như

việc cấp phép, đăng ký, kinh doanh đại lý hải quan, cấp thẻ nhân viên đại lý hải

quan, trách nhiệm của đại lý hải quan cũng như các điều khoản về xử lý vi phạm

nếu các cá nhân và tổ chức vi phạm các điều khoản quy định của Luật Đại lý hải

quan. Luật nhân viên đại lý hải quan tại Hàn Quốc được ban hành với mục đích

xác định vai trò pháp lý của nhân viên đại lý hải quan, nhằm tạo thuận lợi cho

người khai hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan, góp phần vào sự phát

triển của nền kinh tế.

- Licensing of Customs brokers in Canada, Canada Border Services

Agency (2008), là bản ghi nhớ của Hải quan Canada đề cập đến các quy định về

cấp phép cho đại lý hải quan ở Canada. Đó là các quy định về nộp đơn xin cấp

phép, quy trình cấp phép, phí cấp phép cũng như gia hạn giấy phép… Bản ghi

nhớ cũng đưa ra điều kiện đối với các cá nhân muốn trở thành nhân viên đại lý

hải quan tại Canada. Phần cuối của bản ghi nhớ là mẫu đơn xin cấp phép đại lý

hải quan và bảng hỏi dành cho các đại lý hải quan.

- Review of Customs broker licensing, management and regulations,

publication of USAID (2009), là nghiên cứu của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa

9

Kỳ (USAID) trong dự án hỗ trợ Chính phủ Israel và Palestine về tạo thuận lợi

hóa cho thương mại. Trong đó có đề cập các nội dung liên quan đến cấp phép

cho nhân viên đại lý hải quan và quản lý đại lý hải quan của Israel và Palestine,

đề xuất chương trình hành động và khung quản lý tuân thủ cho quản lý đại lý hải

quan.

1.1.2 Các công trình nghiên cứu trong nước

- Đề tài NCKH cấp Bộ năm 2009 “Sử dụng đại lý hải quan trong hoạt

động xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay” do ThS Ngô Minh Hải, Vụ Giám sát

quản lý, Tổng cục Hải quan chủ trì thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu thực trạng

hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam và thực tiễn sử dụng đại lý hải quan trong

hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ ra những bất cập

trong việc tổ chức cũng như đăng ký hoạt động của đại lý hải quan và đề xuất

một số giải pháp để phát triển và phát huy tác dụng của việc sử dụng đại lý hải

quan trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam.

- Đề tài NCKH cấp Học viện năm 2007 “Quản lý dịch vụ khai hải quan

trong tiến trình hiện đại hóa hải quan” do TS Nguyễn Thị Thương Huyền, Khoa

Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính chủ trì thực hiện. Đề tài đã nghiên cứu lý

luận chung về quản lý đối với dịch vụ khai hải quan trong tiến trình hiện đại hóa

hải quan, thực trạng quản lý đối với dịch vụ khai hải quan trong tiến trình hiện

đại hóa hải quan và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý đối với

dịch vụ khai hải quan trong tiến trình hiện đại hóa hải quan.

- Luận văn Thạc sỹ năm 2011 “Phát triển đại lý hải quan trong điều kiện

hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam” của tác giả Cù Thị Quỳnh Hoa. Luận văn

đã nghiên cứu các vấn đề lý luận về đại lý hải quan trong điều kiện hội nhập kinh

tế quốc tế, kinh nghiệm phát triển và quản lý đại lý hải quan của một số nước

trên thế giới. Đồng thời luận văn đánh giá thực trạng hoạt động và công tác quản

lý đại lý hải quan ở Việt Nam, đề xuất một số giải pháp phát triển đại lý hải quan

trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.

- Luận văn Thạc sỹ năm 2012 “Phát triển dịch vụ đại lý hải quan ở Việt

Nam - Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp” của tác giả Đào Duy Tám. Luận

10

văn đã nghiên cứu các vấn đề lý luận về phát triển dịch vụ đại lý hải quan, kinh

nghiệm phát triển đại lý hải quan của một số nước trên thế giới, rút ra bài học

kinh nghiệm cho phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam. Từ thực tiễn phát triển

dịch vụ đại lý hải quan ở Việt Nam, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả sử dụng đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian tới.

- Luận văn Thạc sỹ năm 2014 “Pháp luật về đại lý hải quan và thực tiễn

áp dụng tại Việt Nam” của tác giả Lương Thị Hòa. Luận văn đã nghiên cứu

những vấn đề lý luận về đại lý hải quan, pháp luật về đại lý hải quan ở Việt Nam

và thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp hoàn

thiện pháp luật về đại lý hải quan ở Việt Nam.

- Hội thảo khoa học năm 2005 “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại

lý hải quan” do Khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính tổ chức. Hội thảo

đã bàn đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về đại lý hải quan để có sự thống

nhất trong nhận thức về địa vị pháp lý của đại lý hải quan cũng như những lợi

ích mà đại lý hải quan mang lại. Bên cạnh đó, hội thảo đã trao đổi những nội

dung công việc cần phải làm khi triển khai đại lý hải quan trong quá trình hiện

đại hóa ngành hải quan, đề xuất cơ chế triển khai đảm bảo thực hiện và cơ chế

giám sát, quản lý khoa học và phù hợp. Các ý kiến tại hội thảo đều thống nhất

rằng, đại lý làm thủ tục hải quan là một loại dịch vụ thương mại đặc biệt, được

vận hành trong một môi trường pháp lý nhất định và chịu sự điều chỉnh của

nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

- Hội thảo năm 2010“Khai thuê Hải quan hiện hành tại Nhật Bản” do

Hiệp hội Khai thuê Hải quan Nhật Bản phối hợp với Tổng cục Hải quan tổ chức.

Tại hội thảo, các chuyên gia từ Nhật Bản đã giới thiệu về Luật Đại lý hải quan

của Nhật Bản, cũng như hoạt động quản lý đại lý hải quan tại Nhật Bản như việc

cấp phép, đăng ký, kinh doanh đại lý hải quan, cấp thẻ nhân viên đại lý hải

quan...

- Dự án hỗ trợ của Cơ quan Phát triển Na Uy (NORAD) và Tổ chức Hải

quan thế giới (WCO) về lĩnh vực Đại lý hải quan và quan hệ đối tác (thuộc dự án

Xây dựng năng lực Hải quan cho các thành viên của WCO giai đoạn 2012-

11

2015). Đây là dự án hỗ trợ Hải quan Việt Nam về xây dựng năng lực quản lý hải

quan hiện đại theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trong đó có cấu phần về cấp

phép cho đại lý hải quan. Dự án vẫn đang trong quá trình thực hiện và chưa có

báo cáo kết quả cuối cùng.

- Bài viết “Chuẩn hóa đại lý hải quan” của tác giả Hải Bằng đăng trên

Tạp chí Đầu tư Chứng khoán, số 13/2006. Bài viết cho rằng hoạt động đại lý hải

quan ở Việt Nam vẫn mang tính tự phát, hoạt động chưa đúng nghĩa của nó. Vì

vậy, cần phải có một quy chế pháp lý riêng cho hoạt động đại lý hải quan, trong

đó bao hàm các quy định về quản lý nhà nước đối với loại hình dịch vụ đặc thù

này.

- Bài viết “Quản lý đại lý làm thủ tục hải quan còn nhiều trăn trở” của

tác giả Nguyễn Thị Thương Huyền đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế

toán, số 11/2007. Bài viết đã sơ lược quá trình hình thành và phát triển đại lý hải

quan, thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam. Bên cạnh việc đưa ra

những kết quả đạt được của quản lý đại lý hải quan, tác giả đã chỉ ra những tồn

tại và nguyên nhân của công tác quản lý dịch vụ đại lý hải quan và đề xuất một

số định hướng hoàn thiện.

- Bài viết “Quy định về đại lý làm thủ tục hải quan” của tác giả Nguyễn

Viết Trường đăng trên Tạp chí Thương mại, số 10/2008. Bài viết giới thiệu các

quy định pháp luật hiện hành về đại lý hải quan và nhân viên đại lý hải quan. Tác

giả khẳng định thông qua đại lý hải quan để thay đổi nhận thức, phong cách làm

việc của cơ quan hải quan, đáp ứng yêu cầu áp dụng thủ tục hải quan điện tử và

hiện đại hóa thủ tục hải quan, thúc đẩy các dịch vụ liên quan đến thủ tục hải

quan.

- Bài viết “Nâng cao hiệu quả của đại lý làm thủ tục hải quan trong giai

đoạn hiện nay” của tác giả Vũ Văn Ninh đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tài

chính Kế toán, số 3/2011. Bài viết chỉ ra nguyên nhân của việc hoạt động đại lý

hải quan hiện nay chưa thực sự hiệu quả. Dự báo nhu cầu sử dụng đại lý hải

quan ngày càng tăng cao, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

12

quả hoạt động của đại lý hải quan, đem lại thuận lợi cho các doanh nghiệp XNK,

góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

- Bài viết “Đại lý làm thủ tục hải quan – Lợi ích thiết thực đối với doanh

nghiệp kinh doanh XNK” của tác giả Thái Bùi Hải An đăng trên Tạp chí Nghiên

cứu Tài chính Kế toán, số 02/2014. Bài viết đã chỉ ra những lợi ích khi doanh

nghiệp kinh doanh XNK sử dụng dịch vụ đại lý hải quan, cũng như những lợi ích

mà đại lý hải quan thu được khi được doanh nghiệp tín nhiệm sử dụng dịch vụ.

- Bài viết “Hiệp hội đại lý làm thủ tục hải quan – Giải pháp quản lý hữu

hiệu đối với hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan hiện nay” của tác giả Thái

Bùi Hải An đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 7/2014. Tác giả

đã đề xuất việc thành lập Hiệp hội đại lý hải quan đại diện cho cộng đồng các đại

lý hải quan, bảo vệ quyền lợi cho các đại lý hải quan và là kênh kết nối thông tin

giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các đại lý hải quan. Đây sẽ làm một trong

những giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước

đối với các đại lý hải quan.

- Bài viết “Đại lý hải quan” của tác giả Phan Công Sơn đăng tại website

Trường Hải quan Việt Nam (http://truonghaiquan.edu.vn/vi/dao-tao-dai-ly-khai-

hai-quan.nl173.html). Trong bài viết, tác giả đã nêu ra các vấn đề như: Đại lý hải

quan là gì? Khác biệt của nó so với dịch vụ khai thuê hải quan? Làm thế nào để

“cánh tay nối dài” thực sự “dài”? Những vướng mắc, bất cập mà đại lý hải quan

đang đối mặt khi hoạt động; Vai trò của công tác đào tạo trong việc tạo sức bật

cho đại lý hải quan?...

- Các bài viết của tác giả Ngọc Linh đăng trên báo Hải quan online: “Đại

lý hải quan: Bao giờ mới phát” (http://www.baohaiquan.vn/Pages/Dai-ly-thu-

tuc-hai-quan-Bao-gio-moi-phat.aspx), “Đã đến lúc thành lập Hiệp hội đại lý hải

quan?” (http://www.baohaiquan.vn/Pages/Da-den-luc-thanh-lap-hiep-hoi-dai-ly-

hai-quan.aspx). Tác giả đã đưa ra số liệu thống kê của ngành Hải quan trong 6

tháng đầu năm 2012và cho rằng với tỷ lệ như vậy khó có thể nói đại lý hải quan

đã làm tròn vai trò là “cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan. Bài viết đã chỉ ra

một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên và trích lời một chuyên gia của

13

WCO cho rằng: “Để phát triển được hệ thống đại lý hải quan phải hiểu tính chất,

ngành nghề kinh doanh của đại lý hải quan để xác định lợi ích chính của họ trong

giao dịch. Từ đó, các cơ quan quản lý phải sáng tạo ra lợi ích cho đại lý hải

quan”. Vì vậy, việc thành lập Hiệp hội đại lý hải quan là thực sự cần thiết và sẽ

giúp cho việc cơ cấu và cải thiện đối thoại giữa hai bên doanh nghiệp đại lý và

cơ quan Hải quan.

- Các bài viết của tác giả Thu Hòa đăng trên báo Hải quan online:“Đại lí

hải quan yếu thế trước dịch vụ khai thuê” (http://www.baohaiquan.vn/

Pages/Dai-li-hai-quan-khong-canh-tranh-noi-voi-dich-vu-khai-thue.aspx), Đại lý

hải quan -cần thiết khi triển khai VNACCS/VCIS” (http://www.baohaiquan.

vn/Pages/Dai-ly-hai-quan-can-thiet-khi-trien-khai-VNACCS-VCIS.aspx). Tác

giả đã nêu trường hợp các đại lý hải quan ở Bình Dương, mặc dù được Cục Hải

quan Bình Dương hỗ trợ, tạo thuận lợi về nhiều mặt, nhưng phần nhiều đại lý hải

quan hoạt động vẫn không hiệu quả, không cạnh tranh nổi với dịch vụ khai thuê

hải quan. Chính vì vậy, bên cạnh kiến nghị cần có chế tài, xử lý các doanh

nghiệp làm dịch vụ hải quan nhưng không có giấy phép và không được công

nhận đại lý hải quan để tạo thuận lợi cho đại lý hải quan phát triển, tác giả đưa ra

ý kiến của một số Cục Hải quan cũng như chuyên gia của WCO về việc thành

lập Hiệp hội đại lý hải quan nhằm tạo cơ chế hỗ trợ, tăng cường vai trò của các

doanh nghiệp đại lý thành viên, hỗ trợ các đại lý hoạt động, tăng niềm tin đối với

doanh nghiệp hoạt động XNK về đại lý hải quan.

1.1.3 Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu khoa học

Các công trình nghiên cứu khoa học thu thập được đã giải quyết được các

vấn đề sau:

- Đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về đại lý hải quan như nêu khái

niệm về đại lý hải quan theo quy định pháp luật của một số quốc gia Hoa Kỳ,

Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc… và Việt Nam, của một số từ điển và chuyên gia.

Bên cạnh nêu khái niệm, các công trình còn đề cập đến đặc điểm đại lý hải quan,

phân loại đại lý hải quan, vai trò của đại lý hải quan trong hoạt động xuất khẩu,

nhập khẩu hàng hóa cũng như bàn tới địa vị pháp lý của đại lý hải quan ở cả góc

14

độ kinh tế và pháp luật, theo quan điểm chung của quốc tế, pháp luật của một số

quốc gia và pháp luật Việt Nam. Thực tiễn phát triển đại lý hải quan ở một số

nước trên thế giới cũng được một số công trình, tác giả nghiên cứu.

- Đã cho thấy một số bất cập trong việc tổ chức và phát triển đại lý hải

quan ở Việt Nam thời gian qua và nguyên nhân của những bất cập đó. Tuy

nhiên, những bất cập này chỉ ở góc độ phát triển đại lý hải quan, chưa đứng ở

góc độ quản lý đại lý hải quan. Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng hoạt động

đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua có quy mô nhỏ, hiệu quả thấp. Phần lớn

các đại lý hải quan chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò, vị trí của mình

nên chưa có đầu tư cho hoạt động đại lý hải quan, các đại lý hải quan hoạt động

theo kiểu giúp chủ hàng khai báo và chuẩn bị bộ hồ sơ hải quan là chủ yếu.

- Đã gợi mở được một số quan điểm và định hướng phát triển đại lý hải

quan ở Việt Nam. Các ý kiến đều thống nhất, phát triển đại lý hải quan trong giai

đoạn hiện nay là cần thiết. Đại lý hải quan được coi là một cầu nối quan trọng

giữa doanh nghiệp xuất nhập khẩu với cơ quan hải quan. Sự phát triển đại lý hải

quan ở Việt Nam sẽ đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa hải quan và nâng cao hiệu

quả quản lý hải quan, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp XNK và cho toàn xã

hội. Một số công trình cũng chỉ ra xu hướng sử dụng đại lý hải quan trong hoạt

động XNK thời gian tới rất phát triển. Sở dĩ có xu hướng đó là do sự phát triển

tự do hóa thương mại và phân công lao động xã hội diễn ra ngày một sâu rộng

hơn.

- Trong các giải pháp phát triển đại lý hải quan, các công trình đều đưa ra

kiến nghị về việc hoàn thiện cơ sở pháp lý trong việc tổ chức hoạt động và quản

lý đại lý hải quan ở Việt Nam, tập trung các giải pháp như: Cụ thể hóa về điều

kiện kinh doanh dịch vụ đại lý hải quan và các điều kiện hành nghề trong lĩnh

vực đại lý hải quan; Quy định về thủ tục, hồ sơ đăng ký kinh doanh dịch vụ đại

lý hải quan; Quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ pháp lý của đại lý hải quan,

của chủ hàng…

Do những hạn chế nhất định về thời gian hoặc do giới hạn đối tượng

nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có công trình khoa học

15

nào đi sâu nghiên cứu vấn đề quản lý đại lý hải quan trong bối cảnh hiện đại hóa

hải quan ở Việt Nam.

Ngoài ra, còn một số vấn đề bỏ ngỏ và tranh luận như sau:

- Phần lớn các nghiên cứu chưa có, chưa xây dựng hoặc đã xây dựng

nhưng chưa đầy đủ khung lý luận toàn diện về đại lý hải quan và quản lý đại lý

hải quan. Có nghiên cứu chưa thống nhất khái niệm đại lý hải quan. Có nghiên

cứu cho rằng đây là dịch vụ khai thuê hải quan. Các nghiên cứu mới chỉ dừng lại

ở góc độ phản ánh, phân tích, luận giải ban đầu những quy định chung về hoạt

động đại lý hải quan, chưa có công trình nghiên cứu khoa học mang tính lý luận

và thực tiễn chuyên sâu tiếp cận toàn diện ở góc độ quản lý đại lý hải quan, đi

sâu phân tích và luận giải về các nội dung quản lý đại lý hải quan, các phương

pháp quản lý, công cụ quản lý đại lý hải quan trong giai đoạn hiện nay.

- Chưa phân tích, lý giải sâu những nguyên nhân tại sao đại lý hải quan ở

Việt Nam hiện nay vẫn chưa phát triển được. Việc nhìn nhận, đánh giá những

bất cập, hạn chế của hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam còn chưa thống nhất.

Một số công trình đã chỉ ra được hạn chế trong quá trình phát triển đại lý hải

quan, nhưng chưa nói đến quy mô phát triển, điều kiện phát triển, những nhân tố

ảnh hưởng, đặc biệt là sự quản lý của các cơ quan Nhà nước tới sự phát triển của

đại lý hải quan ở Việt Nam.

- Một số nghiên cứu đưa ra quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển

đại lý hải quan cũng như một số giải pháp quản lý đại lý hải quan nhưng chưa

đặt trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan ở Việt Nam.

1.2 Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Qua nghiên cứu các công trình thu thập được, NCS nhận thấy các tài liệu

thống nhất việc hình thành và phát triển mạng lưới đại lý hải quan chuyên nghiệp

là mô hình thích hợp để hỗ trợ doanh nghiệp XNK làm tốt nhiệm vụ khai báo và

làm thủ tục hải quan, có tác dụng thúc đẩy quá trình cải cách thủ tục hải quan,

hiện đại hóa công tác quản lý hải quan theo hướng chính quy, hiện đại, phù hợp

với yêu cầu hài hòa hóa thủ tục hải quan với các nước trong khu vực và trên thế

giới. Nhìn tổng quan, các công trình nghiên cứu đều có liên quan đến nội dung

16

nghiên cứu của đề tài luận án về đại lý hải quan và quản lý đại lý hải quan. Mặc

dù có một số công trình, tài liệu trùng tên với luận án, nhưng chưa có công trình

nào tiếp cận về đại lý hải quan dưới hai góc độ quản lý đại lý hải quan và quản lý

hoạt động đại lý hải quan. Các công trình ít tiếp cận ở góc độ quản lý, đặc biệt là

các phương pháp quản lý và công cụ quản lý đại lý hải quan.

Từ những kết quả nghiên cứu nói trên, đặc biệt là từ những vấn đề còn bỏ

ngỏ và tranh luận, đồng thời xuất phát từ quan điểm nghiên cứu khoa học vừa

mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển, đã đặt ra những vấn đề NCS cần tiếp

tục nghiên cứu như sau:

- Làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm đại lý hải quan và quản lý đại lý hải

quan; Phân tích những nội dung cơ bản của quản lý đại lý hải quan và những

nhân tố ảnh hưởng tới quản lý đại lý hải quan.

- Trên cơ sở bám sát những nội dung cơ bản của quản lý đại lý hải quan,

xem xét, đánh giá thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay, trong đó chỉ rõ những phương pháp quản lý, công cụ quản lý đại lý hải

quan đã và đang được sử dụng.

- Trên cơ sở đánh giá những hạn chế, bất cập của hoạt động quản lý đại lý

hải quan và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó, nghiên cứu các quan

điểm quản lý và định hướng phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam trong thời

gian tới.

- Nhằm tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của đại lý hải quan

về cả phương diện quy mô và hiệu quả hoạt động, nghiên cứu những giải pháp

tăng cường quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam và luôn đặt trong bối cảnh hiện

đại hóa hải quan.

1.3 Các câu hỏi nghiên cứu và giả thiết nghiên cứu

Để giải quyết toàn diện, thấu đáo những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu,

NCS đưa ra các câu hỏi nghiên cứu sau:

1. Những vấn đề lý luận cơ bản về đại lý hải quan và quản lý đại lý hải

quan trong tiến trình hiện đại hóa hải quan?

17

2. Quản lý đại lý hải quan bao gồm những nội dung cơ bản gì và phải dựa

trên những phương pháp, công cụ quản lý nào để đạt hiệu quả tối ưu trong quản

lý?

3. Những đặc thù cơ bản của quá trình hình thành và phát triển đại lý hải

quan ở Việt Nam đã tác động như thế nào tới hoạt động quản lý đại lý hải quan ở

Việt Nam trong thời gian qua?

4. Thực trạng quản lý đại lý hải quan hiện nay ở Việt Nam? Những hạn

chế, bất cập của quá trình quản lý đại lý hải quan? Nguyên nhân của những hạn

chế, bất cập đó?

5. Quan điểm quản lý và định hướng phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam

trong thời gian tới như thế nào?

6. Để thúc đẩy đại lý hải quan phát triển cũng như nâng cao hiệu quả quản

lý đại lý hải quan ở Việt Nam cần có những giải pháp tăng cường quản lý đại lý

hải quan như thế nào?

Những câu hỏi nghiên cứu nêu trên được NCS đặt trên các giả thiết

nghiên cứu sau:

- Những vấn đề lý luận cơ bản về đại lý hải quan và quản lý đại lý hải

quan ở Việt Nam hiện đã có nhưng chưa được làm sáng tỏ và chưa được hệ

thống hóa đầy đủ.

- Đại lý hải quan ở Việt Nam được hình thành và phát triển từ những năm

90 của thế kỷ trước, được ghi nhận chính thức về địa vị pháp lý kể từ khi Luật

Hải quan năm 2001 được ban hành và đi vào đời sống kinh tế - xã hội, nhưng

còn chưa phát triển xứng tầm với tiềm năng.

- Khung pháp lý về quản lý đại lý hải quan đã được xây dựng và từng

bước được hoàn thiện nhưng vẫn còn có những khoảng trống pháp lý chưa được

quy định điều chỉnh. Vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập cả trong quá trình

phát triển, hoạt động cũng như quản lý đại lý hải quan thời gian qua.

- Đại lý hải quan được ví như “cánh tay nối dài” của cơ quan hải quan

nhưng chưa thực sự hỗ trợ hiệu quả cho cơ quan hải quan thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về hải quan.

18

- Hiện nay đã có một số định hướng và giải pháp phát triển đại lý hải quan

ở Việt Nam, tuy nhiên chưa đầy đủ, chưa gắn với nhiệm vụ cải cách, hiện đại

hóa của ngành Hải quan.

Kết luận chương 1

1. NCS đã thống kê, tổng hợp và phân tích tóm lược một số công trình

nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan tới đề tài nghiên cứu. NCS nhất

trí với hầu hết các công trình nghiên cứu và nêu ra một số vấn đề còn bỏ ngỏ và

tranh luận như sau: Chưa có công trình nghiên cứu khoa học mang tính lý luận

và thực tiễn chuyên sâu tiếp cận toàn diện về đại lý hải quan, quản lý đại lý hải

quan, nghiên cứu nội dung quản lý đại lý hải quan và các phương pháp quản lý,

công cụ quản lý được sử dụng trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan ở Việt Nam;

Việc nhìn nhận, đánh giá những bất cập, hạn chế của hoạt động đại lý hải quan ở

Việt Nam còn chưa thống nhất, chưa chỉ ra đầy đủ nguyên nhân của những bất

cập, hạn chế đó; Một số nghiên cứu đưa ra quan điểm, định hướng và giải pháp

phát triển đại lý hải quan nhưng chưa đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã

hội và chưa gắn với tiến trình hiện đại hóa hải quan của Việt Nam.

2. Xuất phát từ quan điểm nghiên cứu khoa học vừa mang tính kế thừa

vừa mang tính phát triển, luận án đã đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên

cứu, cụ thể là: Làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm đại lý hải quan và quản lý đại

lý hải quan; Phân tích những nội dung cơ bản của quản lý đại lý hải quan và

những nhân tố ảnh hưởng tới quản lý đại lý hải quan; Đánh giá thực trạng quản

lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua, chỉ ra những phương pháp quản lý,

công cụ quản lý đại lý hải quan đã và đang được sử dụng hiện nay tại Việt Nam;

Trên cơ sở đánh giá những hạn chế của hoạt động quản lý đại lý hải quan ở Việt

Nam và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó, Luận án đưa ra quan điểm

quản lý và định hướng phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam trong thời gian tới,

đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan gắn với tiến trình hiện

đại hóa hải quan ở Việt Nam.

19

3. Để giải quyết toàn diện, thấu đáo những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu,

NCS đã đưa ra 6 câu hỏi nghiên cứu kèm các giả thiết nghiên cứu. Các câu hỏi

và giả thiết nghiên cứu chủ yếu xoay quanh mong muốn làm sáng tỏ những vấn

đề lý luận về đại lý hải quan và quản lý đại lý hải quan, đánh giá thực trạng quản

lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua, trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm

quản lý và định hướng phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam và đề xuất các giải

pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam trong bối cảnh cải cách,

hiện đại hóa hải quan.

Đây là những vấn đề chủ yếu để NCS thực hiện và việc trả lời cho các câu

hỏi trên sẽ là những nội dung được trình bày trong Chương 2, Chương 3 và

Chương 4 dưới đây của Luận án.

20

Chương 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

ĐẠI LÝ HẢI QUAN VÀ QUẢN LÝ ĐẠI LÝ HẢI QUAN

2.1 Những vấn đề lý luận về đại lý hải quan

2.1.1 Khái niệm đại lý hải quan

Nền kinh tế ngày càng phát triển, các hoạt động thương mại diễn ra càng

phong phú và đa dạng. Trong thương mại quốc tế, nhu cầu mua bán, giao nhận

vận tải hàng hoá của các tổ chức, cá nhân hết sức đa dạng và cũng có nhiều

doanh nghiệp giao nhận vận tải, bảo hiểm… cung cấp các sản phẩm dịch vụ của

mình ra thị trường. Người có nhu cầu sử dụng các sản phẩm loại này, đặc biệt là

các tổ chức kinh tế lớn, mặc dù luôn nhận được thông tin về các doanh nghiệp

cung cấp, nhưng họ không thể đánh giá hết khả năng của nhiều doanh nghiệp có

cùng một loại sản phẩm để lựa chọn doanh nghiệp cung cấp tốt hơn hoặc cùng

một sản phẩm của những doanh nghiệp có uy tín trên thị trường, sản phẩm nào

có mức phí rẻ hơn, phù hợp hơn, chính vì vậy đã xuất hiện các nhà môi giới, các

nhà đại lý làm thay những việc đó cho họ.

Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, mỗi

người, mỗi doanh nghiệp nên tập trung kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà mình

có thế mạnh, có chi phí thấp, để tối đa hóa lợi nhuận. Sự xuất hiện nhiều ngành

nghề mới đã cho phép xã hội phát triển tốt hơn, nhưng các ngành nghề này lại có

mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Những người

trung gian xuất hiện trong sản xuất, lưu thông hàng hóa vừa giải quyết những

vướng mắc phát sinh, vừa tạo điều kiện cho sản xuất tiêu dùng phát triển. Mặt

khác, do chuyên môn hóa nên các nhà trung gian sẽ xây dựng cho mình một hệ

thống các mối quan hệ chuyên sâu, thu thập cho mình nhiều kiến thức, kinh

nghiệm quý báu mà các nhà sản xuất kinh doanh không thể có được. Đại lý

chính là một trong những hình thức trung gian thương mại như vậy.

Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định về đại lý như sau: “Các

hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các

21

giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm

hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán

hàng hóa và đại lý thương mại” [50, Điều 3]; “Đại lý thương mại là hoạt động

thương mại theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân

danh chính mình mua bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ

của bên giao đại lý để nhận thù lao” [50, Điều 166]. Như vậy, đại lý thương mại

không chỉ liên quan đến hoạt động mua bán đơn thuần mà còn bao gồm cả hoạt

động cung ứng các dịch vụ kèm theo theo (như dịch vụ trong các lĩnh vực vận

tải, bảo hiểm, giao nhận hàng hóa, làm thủ tục hải quan, giám định hàng hóa…).

Đại lý thương mại là bên thứ ba, hỗ trợ hoạt động thương mại của các bên còn

lại được nhanh chóng, thuận lợi và phát triển.

Trong lĩnh vực hải quan, trách nhiệm pháp lý của bên thứ ba đã được ghi

nhận tại Công ước quốc tế về Đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan (hay còn

gọi là Công ước Kyoto sửa đổi) mà Việt Nam đã ký kết gia nhập từ năm 2008.

Theo đó, “Luật pháp quốc gia phải quy định những điều kiện trong đó một người

có thể hoạt động vì và thay mặt cho một người khác trong quan hệ với cơ quan

Hải quan và phải định rõ trách nhiệm của bên thứ ba đó về các khoản thuế hải

quan và thuế khác cũng như về bất cứ hành vi vi phạm nào”. [19, Chuẩn mực

8.2]. Theo định nghĩa của Công ước Kyoto, bên thứ ba là bất cứ người nào giao

dịch trực tiếp với cơ quan hải quan, vì lợi ích và thay mặt cho một người khác,

liên quan đến việc xuất khẩu, nhập khẩu, vận chuyển hay lưu kho hàng hóa. Bên

thứ ba có thể là đại lý hải quan, người giao nhận hàng, người vận chuyển đa

phương thức… và họ có thể thay mặt chủ sở hữu hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

(sau đây gọi là chủ hàng) thực hiện một hoặc một số giao dịch với cơ quan hải

quan. Khi tham gia hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, chủ hàng phải thực hiện thủ

tục hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải theo quy định của luật pháp

quốc gia. Chủ hàng có thể tự mình thực hiện thủ tục hải quan hoặc ủy quyền cho

một bên thứ ba thực hiện các công việc liên quan tới thủ tục hải quan với cơ

quan hải quan. Bên thứ ba thường được chủ hàng sử dụng nhiều nhất là đại lý

hải quan.

22

Do tập quán thương mại khác nhau, nên tên gọi đại lý hải quan ở mỗi

quốc gia cũng khác nhau. Đại lý hải quan theo thuật ngữ tiếng Anh là “Customs

Broker” (người môi giới hải quan). Ở Inđônêxia, được gọi là “công ty môi giới

hải quan”, Philippin là “môi giới hải quan”, Trung Quốc là “xí nghiệp khai thuê

hải quan”, Nhật Bản là “môi giới hải quan”, Hàn Quốc là “công ty môi giới hải

quan”, Pháp là “đơn vị được chấp nhận làm người ăn hoa hồng về hải quan”,

Hoa Kỳ là “người môi giới hải quan”,… và ở Việt Nam được gọi là “đại lý làm

thủ tục hải quan”.

Như vậy, có nhiều cách cách hiểu và tiếp cận khác nhau về “đại lý hải

quan”. NCS sẽ tiếp cận thuật ngữ “đại lý hải quan” theo tinh thần của Công ước

Kyoto sửa đổi. Theo đó, NCS cho rằng: đại lý hải quan là “người” thay mặt chủ

hàng hoá xuất nhập khẩu thực hiện trách nhiệm của người khai hải quan và thực

hiện các công việc khác về thủ tục hải quan theo thoả thuận trong hợp đồng.

Quan điểm này của NCS cũng hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật

Việt Nam về đại lý hải quan, được ghi nhận tại Điều 1 Nghị định số

14/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2011 của Chính phủ quy định về điều kiện đăng ký

và hoạt động đại lý hải quan: Đại lý hải quan là thương nhân thay mặt người có

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (gọi chung là chủ hàng) thực hiện trách nhiệm

của người khai hải quan theo quy định của Luật Hải quan và thực hiện các công

việc khác về thủ tục hải quan theo thỏa thuận trong hợp đồng [15, Điều 1]. Quan

điểm đại lý hải quan là người khai hải quan cũng đã được ghi nhận đầy đủ tại

khoản 14 Điều 4 Luật Hải quan năm 2014 [53, Điều 4, Khoản 14], đồng thời tại

khoản 1 Điều 5 Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày 30/01/2015 của Bộ trưởng

Bộ Tài chính quy định chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan;

cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan; trình tự, thủ tục công

nhận và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan cũng đã khẳng định: Đại lý hải

quan là doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện theo quy định, thay mặt người có

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (gọi chung là chủ hàng) thực hiện việc khai hải

quan; nộp, xuất trình bộ hồ sơ hải quan có liên quan đến lô hàng xuất khẩu, nhập

khẩu theo quy định và thực hiện toàn bộ hoặc một phần các công việc liên quan

23

đến thủ tục hải quan theo thỏa thuận trong hợp đồng ký với chủ hàng [10, Điều

5].

2.1.2 Những đặc trưng cơ bản của đại lý hải quan

Với tư cách là trung gian thương mại, đại lý hải quan mang đầy đủ các

đặc điểm của các đại lý thương mại thông thường. Bên cạnh đó, đại lý hải quan

còn có những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, đại lý hải quan là doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện.

Đại lý hải quan là một doanh nghiệp kinh doanh bởi đại lý hải quan thực

hiện dịch vụ đại lý hải quan nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho doanh

nghiệp. Nói đại lý hải quan là doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện là do có các

quy định của pháp luật về điều kiện hành nghề của đại lý hải quan. Các điều kiện

đó bao gồm: điều kiện về pháp lý (trình tự đăng ký kinh doanh, giấy phép hoạt

động của đại lý hải quan, chứng chỉ hành nghề của nhân viên đại lý hải quan…),

điều kiện về nhân lực (có nhân viên được cấp chứng chỉ hành nghề đại lý hải

quan), điều kiện về vật lực (cơ sở hạ tầng), điều kiện về nguồn lực tài chính (vốn

tối thiểu hoặc tiền đặt cọc, bảo lãnh), điều kiện về phương tiện, kỹ thuật quản lý,

điều kiện về lưu giữ sổ sách, hệ thống chứng từ, kế toán… Cùng với các điều

kiện của đại lý hải quan là những điều kiện mang tính nhà nghề của nhân viên

đại lý hải quan - người trực tiếp thực hiện hành vi làm thủ tục hải quan cho từng

lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Đó là các điều kiện về thể chất, tư chất; điều kiện

về năng lực pháp luật và năng lực hành vi; điều kiện về bằng cấp, trình độ

chuyên môn; điều kiện về kinh nghiệm công tác…

Với tư cách là một loại hình kinh doanh có điều kiện, trình tự và thủ tục

đăng ký xin cấp phép đại lý hải quan cũng được quy định chặt chẽ hơn, thẩm

định kỹ càng hơn. Chẳng hạn, theo Luật khai thuê hải quan của Nhật Bản, một tổ

chức kinh doanh muốn thực hiện dịch vụ đại lý hải quan phải có giấy phép của

Tổng cục Hải quan. Sau khi doanh nghiệp có đơn đề nghị, Tổng cục Hải quan

Nhật Bản sẽ tiến hành kiểm tra một số điều kiện như thế mạnh, uy tín, khả năng

thực hiện các hoạt động dịch vụ đại lý hải quan, tính cần thiết và khối lượng

công việc liên quan để tiến hành cấp phép. Nhân viên của đại lý hải quan muốn

24

được hành nghề dịch vụ đại lý hải quan phải trải qua kỳ thi tuyển quốc gia do

Hải quan Nhật Bản tổ chức và cấp chứng chỉ [62], [80].

Theo pháp luật Hải quan của Hoa Kỳ, các hiệp hội, tổ chức muốn được

cấp phép làm đại lý hải quan phải có ngành nghề kinh doanh liên quan đến lĩnh

vực hải quan và có ít nhất một nhân viên thuộc tổ chức đó trực tiếp làm dịch vụ

đại lý hải quan. Nhân viên đại lý hải quan phải là công dân Hoa Kỳ, tuổi từ 21

trở lên, phải trải qua một bài kiểm tra viết đạt từ 75% trở lên về các kiến thức

luật, các quy định liên quan đến hải quan, kế toán, lưu giữ sổ sách và các vấn đề

khác liên quan đến hoạt động XNK do cơ quan Hải quan Hoa Kỳ tổ chức [84].

Theo quy định của pháp luật Hải quan Việt Nam, doanh nghiệp muốn

kinh doanh dịch vụ đại lý hải quan phải lập hồ sơ đề nghị công nhận đủ điều kiện

làm đại lý hải quan gửi Tổng cục Hải quan. Những người làm việc tại đại lý hải

quan có trình độ cao đẳng kinh tế, luật, kỹ thuật trở lên, sau khi tham gia kỳ thi

cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan do Tổng cục Hải quan tổ chức, được cấp

Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan và được đại lý hải quan đề nghị sẽ được

Tổng cục Hải quan cấp mã số nhân viên đại lý hải quan. Mã số nhân viên được

ghi trên Thẻ nhân viên đại lý hải quan và được sử dụng trong thời gian hành

nghề khai hải quan của nhân viên đại lý hải quan. [10], [53].

Thứ hai, đại lý hải quan là “người” cung ứng dịch vụ thương mại trong

lĩnh vực XNK hàng hóa.

Đại lý hải quan là một loại hình dịch vụ đặc thù gắn liền với hoạt động

XNK hàng hóa, vì vậy, hoạt động đại lý hải quan cũng chỉ phát sinh trực tiếp

hoặc liên quan đến hoạt động XNK, trong đó chủ thể của hoạt động này là chủ

hàng hóa XNK và đại lý hải quan. Hoạt động đại lý hải quan cũng giống như các

hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại khác, theo đó quá trình phát sinh, thay

đổi và chấm dứt hoạt động được tuân thủ và áp dụng theo luật Thương mại quốc

gia. Bên cạnh đó, đại lý hải quan có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người làm

dịch vụ được quy định trong Luật Thương mại, cụ thể có quyền ký hợp đồng với

chủ hàng, được hưởng thù lao do chủ hàng thanh toán cũng như phải chịu sự

kiểm tra, giám sát của chủ hàng trong phạm vi trách nhiệm của mình.

25

Hoạt động đại lý hải quan phát sinh sau khi chủ hàng và đại lý hải quan

thỏa thuận, ký kết hợp đồng đại lý. Thông qua hợp đồng này, các bên thỏa thuận,

giao kết các quyền, nghĩa vụ và công việc phải làm của mỗi bên trên cơ sở tuân

thủ pháp luật. Để thực hiện các công việc được ủy quyền đã thỏa thuận trong

hợp đồng, đại lý hải quan có quyền yêu cầu chủ hàng cung cấp đầy đủ, chính xác

các chứng từ và thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của từng lô

hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Đại lý hải quan có nghĩa vụ thực hiện các công việc

liên quan đến thủ tục hải quan như đã thỏa thuận trong hợp đồng đại lý; đồng

thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp thực hiện không

đúng những công việc được ủy quyền, không khai đúng những thông tin và

chứng từ liên quan đến lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu do chủ hàng cung cấp.

Điều này đã thể hiện rõ đặc trưng của đại lý hải quan là một đại lý cung ứng dịch

vụ thương mại mang tính chuyên nghiệp, nhà nghề, hoạt động trên nguyên tắc

đại diện, chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi được ủy quyền.

Thứ ba, đại lý hải quan hoạt động với tư cách là người khai hải quan.

Đại lý hải quan thay mặt chủ hàng thực hiện việc khai hải quan và một số

công việc liên quan đến thủ tục hải quan, khi đó đại lý hải quan được coi như

hoạt động với tư cách là người khai hải quan. Người khai hải quan là người cung

cấp thông tin, dữ liệu cho cơ quan hải quan về đối tượng đang làm thủ tục hải

quan. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người khai hải quan bao gồm: chủ

hàng hóa; chủ phương tiện vận tải; người điều khiển phương tiện vận tải; đại lý

hải quan, người khác được chủ hàng hóa, chủ phương tiện vận tải ủy quyền thực

hiện thủ tục hải quan [53, Điều 4, Khoản 14]. Đại lý hải quan, với tư cách là

người khai hải quan, thay mặt chủ hàng thực hiện một số công việc liên quan đến

thủ tục hải quan như: khai hải quan; nộp hoặc xuất trình bộ hồ sơ hải quan có

liên quan đến lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu; thực hiện toàn bộ hoặc một phần

các công việc liên quan đến thủ tục hải quan theo thỏa thuận trong hoạt động ký

với chủ hàng, gồm: xuất trình hàng hóa để cơ quan hải quan kiểm tra theo quy

định của pháp luật; vận chuyển, làm thủ tục hải quan đưa vào, đưa ra khu vực

giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; cung cấp dịch vụ tư

26

vấn về thủ tục hải quan và quản lý thuế cho chủ hàng; nộp thuế và thực hiện các

nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; thực hiện thủ tục miễn thuế,

xét miễn thuế, hoàn thuế, xét hoàn thuế, giảm thuế, xét giảm thuế, không thu

thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; thực hiện các quyết định xử phạt vi

phạm hành chính của cơ quan hải quan;…

Bên cạnh đó, đại lý hải quan cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của

người khai hải quan theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, theo quy định của

pháp luật Hải quan Việt Nam, đại lý hải quan có quyền yêu cầu cơ quan hải quan

hướng dẫn về thủ tục hải quan, thủ tục thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập

khẩu, kỹ thuật trong việc kết nối mạng với cơ quan hải quan, cung cấp các quy

định mới của pháp luật về hải quan và tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng pháp

luật về hải quan; yêu cầu cơ quan hải quan kiểm tra lại thực tế hàng hóa đã kiểm

tra, nếu không đồng ý với quyết định của cơ quan hải quan trong trường hợp

hàng hóa chưa được thông quan; sử dụng hồ sơ hải quan để thông quan hàng

hóa, vận chuyển hàng hóa, thực hiện các thủ tục có liên quan với các cơ quan

khác theo quy định của pháp luật; khiếu nại, tố cáo hành vi trái pháp luật của cơ

quan hải quan, công chức hải quan; yêu cầu bồi thường thiệt hại do cơ quan hải

quan, công chức hải quan gây ra… Đại lý hải quan cũng có các nghĩa vụ như:

khai hải quan và làm thủ tục hải quan theo quy định của pháp luật hải quan; cung

cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu liên quan đến chủ hàng hoặc các lô

hàng do đại lý hải quan đứng tên trên tờ khai hải quan theo yêu cầu của cơ quan

hải quan; chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự xác thực của nội dung đã khai

và các chứng từ đã nộp, xuất trình; thực hiện quyết định và yêu cầu của cơ quan

hải quan trong việc làm thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; nộp thuế

và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; chịu trách

nhiệm thực hiện các quyết định kiểm tra, thanh tra thuế của cơ quan hải quan.

Thứ tư, đại lý hải quan thay mặt cơ quan Hải quan thực hiện một số hành

vi quản lý nhà nước về hải quan đối với chủ hàng.

Thực tiễn hoạt động đại lý hải quan ở các nước trên thế giới cho thấy, hầu

hết hàng hóa XNK đều làm thủ tục hải quan thông qua đại lý hải quan. Đại lý hải

27

quan được coi là đối tác của cơ quan hải quan nhằm giúp cơ quan hải quan thực

hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tránh

gian lận thương mại. Cụ thể, đại lý hải quan được cơ quan hải quan ủy quyền

thay mặt cơ quan hải quan thực hiện một số hành vi quản lý nhà nước về hải

quan đối với chủ hàng, như yêu cầu chủ hàng cung cấp đầy đủ, chính xác các

chứng từ, thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng xuất

khẩu, nhập khẩu; kiểm tra bộ hồ sơ hải quan; lưu giữ một số chứng từ thuộc hồ

sơ hải quan đối với trường hợp hàng hóa được thông quan trước; nộp hồ sơ hải

quan sau; lưu giữ hồ sơ phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan… Với tư

cách này, đại lý hải quan giúp cơ quan hải quan quản lý doanh nghiệp, hướng

dẫn, kiểm tra doanh nghiệp tuân thủ pháp luật hải quan, làm cho môi trường hải

quan trong sạch, minh bạch hơn. Do đó, đại lý hải quan được ví như “cánh tay

nối dài” của cơ quan hải quan.

Thứ năm, đại lý hải quan chịu sự giám sát và quản lý của cơ quan hải

quan.

Pháp luật và thực tiễn hoạt động quản lý đại lý hải quan ở các nước trên

thế giới cho thấy, cơ quan hải quan là đơn vị giám sát, quản lý hoạt động của các

đại lý hải quan. Cơ quan hải quan quản lý hoạt động của các đại lý hải quan

thông qua quản lý việc đăng ký, công nhận đại lý hải quan, quản lý việc cấp hoặc

trực tiếp cấp thẻ nhân viên đại lý, tổ chức thi chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan.

Trong quá trình giám sát hoạt động của các đại lý hải quan, cơ quan hải quan có

thể tổ chức khen thưởng đối với các đại lý hải quan chấp hành tốt, có thành tích

tốt trong việc thực hiện pháp luật hải quan cũng như có quyền quyết định việc

tạm dừng hoặc chấm dứt hoạt động của đại lý hải quan khi đại lý hải quan đó có

hành vi vi phạm các quy định của pháp luật hải quan.

Như vậy, với những đặc trưng cơ bản trên có thể thấy, đại lý hải quan là

doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện, hoạt động trong lĩnh vực XNK hàng hóa

với tư cách là người khai hải quan. Hoạt động của đại lý hải quan chịu sự điều

chỉnh của pháp luật với những quy định cụ thể mang tính chuyên nghiệp, nhà

nghề. Hoạt động đại lý hải quan là một hoạt động kinh tế, vì vậy nhất thiết phải

28

có sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan hải quan thay mặt Nhà

nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan đối với đại lý hải quan.

Quản lý đại lý hải quan bao gồm quản lý đại lý hải quan và quản lý hoạt động

của đại lý hải quan.

2.1.3 Vai trò của đại lý hải quan

Khi hoạt động hiệu quả, đại lý hải quan sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho

các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu mà còn cho cả cơ quan Hải quan,

cơ quan quản lý nhà nước về hải quan, và lợi ích cho sự phát triển kinh tế - xã

hội. Cụ thể như sau:

2.1.3.1 Vai trò của đại lý hải quan đối với các doanh nghiệp xuất khẩu,

nhập khẩu

Thứ nhất, đại lý hải quan giúp cho các doanh nghiệp XNK thông quan

nhanh hàng hóa, tránh được những sai sót, vi phạm trong quá trình làm thủ tục

hải quan.

Đại lý hải quan với những nhân viên chuyên nghiệp, có hiểu biết sâu rộng

về hệ thống pháp luật, thành thạo trong công việc, sử dụng những thiết bị hiện

đại và được cơ quan hải quan tin tưởng sẽ giúp cho việc thông quan hàng hóa

không những nhanh chóng, chính xác mà còn tiết kiệm được thời gian làm thủ

tục, tránh việc sửa chữa hồ sơ hải quan nhiều lần, nhờ vậy hàng hóa được thông

quan nhanh hơn, đảm bảo tiến độ của quá trình sản xuất, kinh doanh của các

doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy nhiều khi việc thiếu sót các chứng từ thường

dẫn đến phát sinh chi phí rất lớn như tiền lưu kho bãi, lưu tàu, chậm trễ trong

thanh toán, giao hàng…[18]. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp không nắm vững

chuyên môn nghiệp vụ về phân loại hàng hóa, xác định trị giá hải quan, các quy

định về chính sách thuế, chính sách mặt hàng… sẽ dẫn đến khả năng doanh

nghiệp áp mã, áp giá cho hàng hóa XNK không chính xác, nhất là trong cơ chế

doanh nghiệp tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm như hiện nay,

sự nhầm lẫn đó sẽ mang lại những thiệt hại đáng tiếc cho doanh nghiệp.

Thứ hai, đại lý hải quan phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

giảm chi phí đầu tư do tinh giản được bộ máy, tiết kiệm chi phí quản lý.

29

Khi sử dụng đại lý hải quan, các doanh nghiệp sẽ không mất chi phí hình

thành và vận hành bộ máy nhân sự chuyên đảm trách việc làm thủ tục hải quan

[22]. Chi phí này tương đối lớn và thường không thực sự hiệu quả đối với các

doanh nghiệp có hoạt động XNK không thường xuyên, kim ngạch hàng hóa

XNK thấp, trong khi vẫn phải trả lương cho các nhân viên và các chi phí khác để

vận hành bộ máy. Mặt khác, doanh nghiệp không phải bỏ chi phí đầu tư trang

thiết bị, phương tiện hiện đại phục vụ cho việc làm thủ tục hải quan, nhất là khi

tiến hành thủ tục hải quan điện tử, chi phí này lại càng tăng cao. Qua đó, các

doanh nghiệp có thể tiết kiệm đuợc chi phí đầu tư nhằm tăng cường năng lực

cạnh tranh trên thị trường [22].

Thứ ba, giảm được mối quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp XNK và

công chức hải quan nên giảm được các chi phí mang tính tiêu cực.

Qua việc sử dụng đại lý hải quan, doanh nghiệp XNK không phải tiếp xúc

trực tiếp với các công chức hải quan, do đó không có cơ hội xảy ra tình trạng

một số doanh nghiệp lợi dụng mối quan hệ quen thân để phục vụ lợi ích nhóm,

hoặc công chức hải quan sách nhiễu, tiêu cực trong khi làm thủ tục hải quan cho

doanh nghiệp. Đồng thời góp phần ngăn hiện tượng một số công chức hải quan

bị thoái hóa, biến chất, thông đồng, tiếp tay cho doanh nghiệp trốn thuế, gian lận

thương mại [28]. Bên cạnh đó, giảm được tiếp xúc trực tiếp giữa doanh nghiệp

XNK và công chức hải quan sẽ giảm được các chi phí và thời gian để thực hiện

thủ tục hải quan, như chi phí thời gian đi lại, chờ đợi…

2.1.3.2 Vai trò của đại lý hải quan đối với cơ quan hải quan

Thứ nhất, tạo thuận lợi cho việc làm thủ tục hải quan.

Do đội ngũ nhân viên đại lý hải quan có chuyên môn sâu trong lĩnh vực

hải quan, có kinh nghiệm thực tế, đã trải qua đào tạo về nghiệp vụ, nắm vững

pháp luật về hải quan nên bộ hồ sơ hải quan do các đại lý hải quan nộp/xuất trình

thường đầy đủ và hợp lệ hơn do các chủ hàng XNK tự thực hiện. Công chức hải

quan sẽ không phải mất nhiều thời gian và công sức để kiểm tra độ chính xác

trong khai báo của đại lý hải quan [32]. Bên cạnh đó, việc giảm được các sai sót

trong việc làm thủ tục hải quan dẫn đến việc ít phải xử lý vi phạm hay giải quyết

30

khiếu nại, tiết kiệm được nhiều thời gian và nhân lực, công chức hải quan có thể

chuyển sang thực hiện công việc của các khâu nghiệp vụ khác, áp dụng được các

phương pháp quản lý hải quan tiên tiến và hiện đại.

Thứ hai, tránh tình trạng ùn tắc, tạo ra sự thông thoáng tại các địa điểm

làm thủ tục hải quan.

Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển, khối lượng hàng hóa

XNK ngày càng tăng, nhu cầu thông quan, giải phóng nhanh hàng hóa tại các địa

điểm làm thủ tục hải quan ngày càng cấp thiết. Trong khi bộ máy nhân sự của cơ

quan hải quan không thể tăng kịp thời để đáp ứng yêu cầu công việc, nếu các

doanh nghiệp XNK tự đứng ra làm thủ tục hải quan sẽ dẫn đến khả năng xảy ra

tình trạng ùn tắc, quá tải tại các địa điểm làm thủ tục hải quan [18], [22]. Giả sử

mỗi đại lý hải quan đại diện làm thủ tục hải quan cho khoảng từ 100 đến 1000

khách hàng, với hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao, thủ tục hải quan đối

với hàng hóa XNK của các doanh nghiệp này sẽ được thực hiện chính xác hơn,

nhanh hơn, thay vì cũng với số lượng doanh nghiệp đó tự làm thủ tục hải quan

tại cơ quan hải quan, do đó sẽ giảm tình trạng ùn tắc và tạo sự thông thoáng tại

các địa điểm làm thủ tục hải quan, giảm khối lượng công việc tại các địa điểm

làm thủ tục hải quan.

Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho hiện đại hóa công tác quản lý hải

quan.

Như đã nói ở trên, quan hệ thương mại, đầu tư giữa các nước ngày càng

phát triển, kéo theo đó là lượng hành khách, hàng hóa, hành lý, phương tiện vận

tải ra vào một quốc gia cũng tăng mạnh. Hải quan các nước đều đứng trước yêu

cầu phải nhanh chóng hiện đại hóa hệ thống khai báo hải quan bằng cách ứng

dụng những tiến bộ mới nhất của công nghệ thông tin [22]. Do việc làm thủ tục

hải quan đã được tập trung về một số đầu mối là đại lý hải quan nên dễ thực hiện

việc kết nối mạng máy tính giữa các đại lý này với cơ quan hải quan. Mặt khác,

một trong những lợi thế của các đại lý hải quan là do được chuyên môn hóa cao

nên có thể dễ dàng áp dụng các kỹ thuật mới của công nghệ thông tin vào hoạt

động tác nghiệp. Như vậy, các đại lý hải quan đã được đào tạo về nghiệp vụ hải

31

quan, được trang bị phương tiện hiện đại sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan

hải quan trong công tác quản lý, như nhanh chóng triển khai thực hiện thủ tục hải

quan điện tử, thuận lợi trong thu thập thông tin, phân loại doanh nghiệp XNK và

thực hiện kỹ thuật quản lý rủi ro trong kiểm tra, giám sát hải quan, góp phần

thực hiện thành công nhiệm vụ hiện đại hóa hải quan.

Thứ tư, giúp cơ quan hải quan tinh giản được bộ máy nhưng vẫn đạt hiệu

quả quản lý cao, triển khai các chủ trương, chính sách một cách thuận lợi và

nhanh chóng.

Từ khi có sự tham gia của đại lý hải quan, quá trình làm thủ tục hải quan

cho hàng hóa XNK được nhanh chóng, thuận lợi hơn. Nhờ vào sự chuyên nghiệp

của đội ngũ nhân viên đại lý hải quan, các tờ khai do đại lý hải quan chuẩn bị

thường ít mắc sai sót hơn các tờ khai do chủ hàng thực hiện. Từ đó tốc độ thông

quan hàng hóa được đẩy nhanh hơn, năng suất làm việc của công chức hải quan

cũng tăng lên. Đặc biệt khi áp dụng hệ thống khai hải quan điện tử, đại lý hải quan

sẽ là đầu mối quan trọng nhập dữ liệu với tính đầy đủ, chính xác cao nhất, từ đó

giảm thiểu được công việc của các công chức hải quan trong khâu tiếp nhận và xử

lý tờ khai. Vì thế chủ trương tinh giản bộ máy nhà nước của cơ quan hải quan được

thực hiện có hiệu quả hơn. Mặt khác, việc triển khai các văn bản hay chính sách

mới của cơ quan hải quan cho các đầu mối đại lý hải quan cũng thuận lợi hơn

trước. Trong trường hợp phát hiện ra những nội dung bất hợp lý, không phù hợp

với thực tế, đại lý hải quan có thể đại diện cho các doanh nghiệp đề xuất, phản

ánh với cơ quan hải quan để nhanh chóng bổ sung, chỉnh sửa [22], [32].

Thứ năm, hỗ trợ cơ quan hải quan trong hoạt động ngăn ngừa tiêu cực,

buôn lậu, gian lận thương mại và trốn thuế.

Đại lý hải quan trên cơ sở theo dõi thường xuyên sự di chuyển của hàng

hóa xuất nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh thông qua việc làm thủ

tục hải quan cho khách hàng, đồng thời với sự hợp tác chặt chẽ với cơ quan hải

quan về mặt nghiệp vụ, có thể phát hiện sớm những hành vi vi phạm pháp luật,

cung cấp cho cơ quan hải quan những thông tin cần thiết nhằm kịp thời ngăn

chặn những hành vi đó. Các đại lý hải quan cũng nhận thức rõ nhiệm vụ vừa

32

phải bảo vệ lợi ích chính đáng của khách hàng để thu phí, vừa phải tuân thủ và

chịu trách nhiệm trước pháp luật về dịch vụ do mình cung cấp, nên đại lý hải

quan sẽ khai đủ và chính xác với cơ quan hải quan theo lượng hàng hóa thực tế

[18], [32]. Vì vậy, với việc thực hiện thủ tục hải quan thông qua đại lý hải quan

sẽ làm giảm cơ hội cho một số doanh nghiệp XNK cố tình vi phạm pháp luật

hoặc thực hiện hành vi buôn lậu, gian lận thương mại. Kinh nghiệm ở các nước

có hoạt động đại lý hải quan phát triển cho thấy hiện tượng đại lý hải quan thông

đồng với doanh nghiệp để gian lận thương mại, trốn thuế thường xảy ra rất ít.

2.1.3.3 Vai trò của đại lý hải quan đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

Như đã phân tích ở trên, việc làm thủ tục hải quan thông qua các đầu mối

là đại lý hải quan sẽ giúp giảm thời gian thông quan, tăng khối lượng lưu thông

hàng hóa, thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển, tăng cường hoạt động giao

lưu, trao đổi kỹ thuật - công nghệ với các nước trên thế giới, từ đó thúc đẩy nền

kinh tế phát triển.

Đối với xã hội, phát triển dịch vụ đại lý hải quan đồng nghĩa với việc phát

triển thị trường dịch vụ phong phú, đa dạng hơn. Người sử dụng dịch vụ có thể

lựa chọn bất kỳ loại hình dịch vụ nào phù hợp với nhu cầu cá nhân. Như vậy, với

những doanh nghiệp XNK muốn tiết kiệm thời gian, chi phí cho việc làm thủ tục

hải quan sẽ mong muốn lựa chọn dịch vụ đại lý hải quan chuyên nghiệp và hoàn

hảo. Các đại lý hải quan phải có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị

trường, từ đó kích thích thị trường dịch vụ ngày càng hoàn thiện hơn.

Phát triển đại lý hải quan còn góp phần làm giảm tình trạng thất nghiệp do

cơ hội việc làm tăng lên, việc lựa chọn công việc sẽ đa dạng hơn. Những cá nhân

được đào tạo về ngành luật, kinh tế hoặc kỹ thuật, khi được đào tạo thêm về

nghiệp vụ hải quan, đều có thể tham gia kỳ thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải

quan để được cấp mã số hoặc thẻ nhân viên đại lý hải quan, trở thành người khai

hải quan chuyên nghiệp [18]. Mặt khác, do các đại lý hải quan luôn nắm vững

các quy định hiện hành, tinh thông về nghiệp vụ mà việc triển khai các cơ chế,

chính sách pháp luật của nhà nước được thực hiện đúng đắn hơn, góp phần nâng

cao tính tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, nhất là pháp luật hải quan [18].

33

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để cạnh tranh được trên thị

trường quốc tế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ngoài việc chú trọng đầu tư

cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cần phải quan tâm nâng cao chất lượng các

dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Vì vậy, việc phát triển đại lý hải quan không những

làm tăng cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp này mà còn giúp làm tăng tỷ lệ thu

nhập trong ngành dịch vụ, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế.

Từ những phân tích trên có thể thấy đại lý hải quan đã và đang đóng một

vai trò quan trọng, không chỉ mang lợi ích xã hội nói chung và cho doanh nghiệp

XNK nói riêng mà còn giúp cho hoạt động quản lý nhà nước của ngành Hải quan

thêm thuận lợi, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

2.2 Những vấn đề lý luận về quản lý đại lý hải quan

2.2.1 Khái niệm quản lý đại lý hải quan

Quản lý là một tất yếu khách quan của mọi quá trình lao động xã hội, bất

kể hình thái kinh tế - xã hội nào. Nếu không thực hiện các chức năng và nhiệm

vụ quản lý, không thể thực hiện được các quá trình hợp tác lao động, sản xuất,

không thể khai thác, sử dụng có hiệu quả các yếu tố của lao động sản xuất. Quản

lý cần thiết đối với mọi phạm vi hoạt động trong xã hội, từ mỗi đơn vị sản xuất

kinh doanh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, từ một gia đình, một đơn vị dân cư

đến một quốc gia và những hoạt động trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Quản lý

chính là yếu tố quyết định nhất cho sự phát triển của quốc gia và các tổ chức.

Quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt

Nam hiện nay đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hoạt động quản

lý. Bên cạnh những cơ hội đó là những thách thức lớn do sức ép cạnh tranh ngày

càng tăng trên cả thị trường trong và ngoài nước. Quá trình hội nhập kinh tế đòi

hỏi phải nâng cao trình độ quản lý và hình thành một cơ chế quản lý phù hợp để

phát triển một cách hiệu quả và bền vững.

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm quản lý. Tiếp cận theo vai

trò quản lý là cách tiếp cận mới đối với lý thuyết quản lý, thu hút được sự chú ý

của cả các nhà nghiên cứu lý luận và các nhà thực hành. Đó là cách tiếp cận bằng

34

cách quan sát những điều thực tế các nhà quản lý làm và từ các quan sát như thế

đi tới những kết luận xác định hoạt động (hoặc vai trò) quản lý là gì. Theo đó có

thể hiểu quản lý là tổng thể các hình thức và phương pháp tác động lên một hệ

thống quản lý, đảm bảo cho hệ thống đó tồn tại và hoạt động phù hợp với quy

luật có liên quan, nhằm thực hiện những lợi ích của con người. Hay có thể hiểu

theo cách khác, quản lý là sự tác động có chủ đích, có tổ chức của chủ thể quản

lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các

tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện

biến động của môi trường. [29], [30], [32], [37], [45].

Một cách tổng quát, có thể đưa ra cách tiếp cận về quản lý đại lý hải quan

như sau: Quản lý đại lý hải quan là sự tác động của cơ quan quản lý nhà nước

đến đại lý hải quan và hoạt động của đại lý hải quan bằng các phương pháp

quản lý và công cụ quản lý nhất định nhằm đạt được các mục tiêu nhất định.

Theo quan điểm tiếp cận này, quản lý đại lý hải quan được thực hiện bởi

các cơ quan quản lý nhà nước, nếu giới hạn trong phạm vi quản lý về mặt nghiệp

vụ thì đại lý hải quan chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan hải quan. Đối tượng

của quản lý bao gồm chủ thể và hoạt động của chủ thể, hay nói cụ thể hơn, đối

tượng của quản lý đại lý hải quan bao gồm đại lý hải quan và hoạt động của

chính đại lý hải quan đó. Như vậy, quản lý đại lý hải quan và quản lý hoạt động

của đại lý hải quan là hai mặt của một vấn đề thống nhất không thể tách rời.

Từ khái niệm quản lý đại lý hải quan có thể thấy quản lý đại lý hải quan là

sản phẩm chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước, nhưng lại xuất phát từ cơ

sở khách quan đó là hệ thống các quy luật như các quy luật kinh tế (quy luật

cung – cầu, quy luật giá trị, quy luật giá cả…), các quy luật tổ chức và tâm lý xã

hội (quy luật tâm lý cá nhân, quy luật tâm lý tập thể và xã hội…); đồng thời cũng

dựa trên cơ sở khách quan khác là thực trạng phát triển của hoạt động đại lý hải

quan của quốc gia.

Quản lý đại lý hải quan được xét trên hai phương diện cơ bản: quản lý đại

lý hải quan và quản lý hoạt động của đại lý hải quan. Trên phương diện thứ nhất,

quản lý đại lý hải quan chính là quản lý về điều kiện thành lập, hoạt động, chấm

35

dứt, giải thể… của đại lý hải quan. Xét trên phương diện thứ hai, quản lý hoạt

động đại lý hải quan là quản lý việc thực hiện cung cấp dịch vụ khai hải quan

cho chủ hàng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ với tư cách là người khai hải

quan của đại lý hải quan.

Thông qua các phương pháp, công cụ quản lý đại lý hải quan, các cơ quan

quản lý nhà nước có thể thực hiện được chủ trương hướng dẫn, điều tiết và kích

thích các đại lý hải quan phát triển cả về số lượng và quy mô, chất lượng dịch

vụ, hướng tới mục tiêu do các cơ quan này đề ra. Các phương pháp mà cơ quan

quản lý nhà nước sử dụng để quản lý đại lý hải quan bao gồm các phương pháp

hành chính, kinh tế và giáo dục, khuyến khích. Các công cụ mà cơ quan quản lý

nhà nước sử dụng để quản lý đại lý hải quan chính là các kế hoạch, chính sách,

chế độ hạch toán, chế độ kiểm tra đối với các chủ thể của hoạt động đại lý hải

quan.

Để quản lý đại lý hải quan có hiệu quả, phải gắn chặt với cơ cấu tổ chức

của các cơ quan quản lý nhà nước và chất lượng cán bộ của các cơ quan này. Các

yếu tố đó cùng tác động lên hoạt động của các đại lý hải quan. Khi tính chất và

quy mô của các đại lý này thay đổi thì cơ chế quản lý cũng sẽ phải thay đổi theo

đối tượng cho phù hợp, và như vậy sẽ tác động làm cơ cấu bộ máy của các cơ

quan quản lý nhà nước được cải cách và đổi mới phù hợp. Cán bộ quản lý cũng

phải được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao cả về trình độ và chuyên môn để đáp ứng

cơ chế quản lý mới, nội dung và yêu cầu quản lý mới.

Tóm lại, quản lý đại lý hải quan chính là sự kết hợp mọi nỗ lực chung của

mọi bộ phận trong cơ quan quản lý về hải quan và sử dụng tốt nhất các nguồn

lực của tổ chức để đạt tới mục tiêu chung của tổ chức một cách khôn khéo và có

hiệu quả nhất. Quản lý đại lý hải quan phải trả lời các câu hỏi: “Phải đạt mục tiêu

nào?”, “Phải đạt mục tiêu như thế nào và bằng cách nào?”, “Đạt được mục tiêu,

kết quả của quản lý để làm gì?”…

2.2.2 Sự cần thiết khách quan phải quản lý đại lý hải quan

Bước vào thế kỷ XXI, thế giới đã và đang thay đổi nhanh chóng, sâu sắc

và phức tạp với những mối quan hệ kinh tế vượt qua biên giới quốc gia, vươn tới

36

quy mô toàn cầu, đạt trình độ và chất lượng mới, đặt ra những cơ hội và thách

thức to lớn đối với từng quốc gia. Các quốc gia trên thế giới đều phải tiến hành

cải cách thể chế kinh tế, chính trị, xã hội để có thể bắt nhịp với tốc độ phát triển

kinh tế - xã hội toàn cầu. Yêu cầu khách quan về phát triển kinh tế - xã hội của

quốc gia, cụ thể là sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại, yêu cầu cải cách

hành chính của Nhà nước và yêu cầu hội nhập, thực hiện các cam kết quốc tế đã

đặt các ngành kinh tế nói chung và hải quan nói riêng trước yêu cầu phải cải

cách theo hướng hiện đại hóa.

Hiện đại hóa hải quan được coi là quá trình tất yếu của hoạt động quản lý

hải quan hiện đại. Với vai trò là “người gác cửa của nền kinh tế”, cơ quan hải

quan cần phải tiến hành hiện đại hóa để đảm bảo quyền lợi của quốc gia mình

trong quá trình hội nhập.

Đại lý hải quan là một sự phát triển khách quan trong hoạt động thương

mại bởi sự thuận tiện và những lợi ích cụ thể, rõ ràng do chính hoạt động của

loại hình dịch vụ này mang lại. Phát triển đại lý hải quan là yêu cầu tất yếu của

tiến trình hiện đại hóa hải quan, bởi bản thân hoạt động này có những vai trò hết

sức to lớn đối với chính hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa cũng như đối

với chính hoạt động quản lý nhà nước về hải quan của bản thân cơ quan hải

quan. Hoạt động đại lý hải quan là một hoạt động trong nền kinh tế, vì vậy nhất

thiết cơ quan nhà nước phải quản lý hoạt động của đại lý hải quan. Đặc biệt

trong tiến trình hiện đại hóa hải quan, các đại lý hải quan có vị thế hết sức quan

trọng và trên thực tế được hình tượng hóa là “cánh tay nối dài” của cơ quan hải

quan. Để phát huy được những thế mạnh của hoạt động đại lý hải quan cũng như

củng cố vị thế của các tổ chức thực hiện hoạt động này trong tiến trình hiện đại

hóa hải quan, tất yếu phải tăng cường quản lý đối với đại lý hải quan.

Đứng ở góc độ quản lý nhà nước, nếu quản lý đại lý hải quan chuyên

nghiệp và hiệu quả sẽ giúp cơ quan hải quan nói riêng và cơ quan quản lý nhà

nước nói chung thực hiện chức năng quản lý hoạt động xuất nhập khẩu cũng như

quản lý các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chặt chẽ, tập trung, góp

phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Nếu không quản lý đại lý hải quan khoa học và

37

hợp lý, sẽ xảy ra tình trạng đại lý hải quan phát triển tự phát, hoạt động không

chuyên nghiệp, không đồng bộ, làm cho hoạt động quản lý nhà nước đối với đại

lý hải quan trở nên phức tạp hơn.

Việc tăng cường quản lý đối với đại lý hải quan là nhằm mục tiêu hình

thành và phát triển đội ngũ đại lý hải quan chuyên nghiệp, lành nghề, thực sự là

cầu nối giữa cơ quan hải quan và doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo thuận lợi cho

hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nói cách khác, thiết lập và

đưa hoạt động đại lý hải quan vào quản lý theo đúng pháp luật là một trong

những nội dung cơ bản góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ hiện đại hóa hải

quan.

2.2.3 Nội dung quản lý đại lý hải quan

2.2.3.1 Định hướng sự phát triển của đại lý hải quan

Bất kỳ một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nào, định hướng phát triển

luôn được coi là nền tảng cơ bản của quá trình quản lý. Định hướng phát triển

đúng đắn sẽ là chìa khóa thành công cho những hoạt động quản lý tiếp theo.

Định hướng phát triển cho biết mục tiêu hoạt động của tổ chức đó trong một thời

kỳ và một điều kiện nhất định. Vì vậy, để quản lý đại lý hải quan trong tiến trình

hiện đại hóa hải quan, trước hết phải định hướng sự phát triển của đại lý hải quan

phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tiến trình hiện đại hóa hải

quan nói riêng, phù hợp với thông lệ chung của quốc tế. Định hướng sự phát

triển của đại lý hải quan trong tiến trình hiện đại hóa hải quan là xác định con

đường và hướng hoạt động của đại lý hải quan nhằm đạt tới một mục tiêu nhất

định, căn cứ vào các đặc điểm kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Đại

lý hải quan phải được định hướng hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, hiệu

quả và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan.

Nội dung của định hướng sự phát triển của đại lý hải quan bao gồm việc

các cơ quan quản lý nhà nước xác định mục tiêu phát triển dài hạn cho đại lý hải

quan, tiếp theo là xác định mục tiêu trong từng thời kỳ, đồng thời xác định thứ tự

ưu tiên cho các mục tiêu và xác định giải pháp để thực hiện các mục tiêu đã đề

ra. Phạm vi của định hướng phát triển bao gồm cả định hướng sự phát triển của

38

đại lý hải quan và định hướng sự phát triển của hoạt động đại lý hải quan. Định

hướng phát triển đại lý hải quan thể hiện qua việc các cơ quan quản lý nhà nước

xây dựng và ban hành chiến lược phát triển đại lý hải quan cho từng giai đoạn,

cụ thể thành các kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch ngắn hạn nhằm

phát triển đại lý hải quan cho từng thời kỳ, quy hoạch mạng lưới đại lý hải quan

phát triển phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình cải cách,

hiện đại hóa hải quan. Cơ sở pháp lý của quản lý đại lý hải quan là hệ thống các

văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của loại hình dịch vụ đặc thù này. Nội

dung của hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan

tập trung vào các vấn đề cơ bản sau: Điều kiện kinh doanh dịch vụ đại lý hải

quan, quy định về trách nhiệm của đại lý hải quan, điều kiện và trách nhiệm của

nhân viên đại lý hải quan, quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà

nước đối với các đại lý hải quan trong việc cấp phép kinh doanh cho các thương

nhân, trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát khi các đại lý hải quan đi vào hoạt

động, trách nhiệm trong phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước để tiến

hành kiểm tra định kỳ hoặc bất thường đối với các đại lý hải quan. Thông qua hệ

thống các văn bản pháp luật về quản lý đại lý hải quan, các cơ quan quản lý nhà

nước có thể hoạch định, định hướng, ràng buộc và điều tiết hoạt động của đại lý

hải quan.

Tóm lại, định hướng sự phát triển của đại lý hải quan nhằm đưa đại lý hải

quan phát triển theo một quỹ đạo nhất định. Các cơ quan quản lý nhà nước phải

có tầm nhìn chiến lược, nghiên cứu kỹ tình hình thực tế, đặt quản lý đại lý hải

quan trong bối cảnh kinh tế - xã hội để đề ra các mục tiêu phát triển phù hợp,

tránh những mục tiêu phát triển quá xa vời, khó có thể đạt được hoặc những mục

tiêu không thống nhất, không nhất quán, dễ bị thay đổi trong thời gian ngắn.

2.2.3.2 Tạo lập môi trường cho sự phát triển của đại lý hải quan

Môi trường cho sự phát triển của đại lý hải quan là tập hợp các yếu tố, các

điều kiện tạo nên sự tồn tại và phát triển của đại lý hải quan, cụ thể đó là các môi

trường kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý, công nghệ, đối ngoại… Đại lý hải quan

chỉ có thể phát triển nếu có một môi trường ổn định, thuận lợi và bình đẳng. Từ

39

đó đòi hỏi các cơ quan quản lý phải phân tích, đánh giá, dự báo những biến động

của môi trường để có những chính sách phù hợp trong từng điều kiện cụ thể.

Đại lý hải quan là một loại hình cung ứng dịch vụ thương mại và cũng

giống như các hoạt động dịch vụ khác, đều phải được vận hành trong một môi

trường pháp lý nhất định, cụ thể đó là môi trường pháp lý đầu vào (quy định điều

kiện về đại lý hải quan, trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh đại lý hải quan); môi

trường pháp lý hoạt động (quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của đại lý hải

quan) và môi trường pháp lý đầu ra (quy định việc chấm dứt hoạt động của đại lý

hải quan). Với cách thức tiếp cận vấn đề như vậy, đại lý hải quan sẽ tồn tại trong

một môi trường pháp lý rộng lớn và chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp

luật khác nhau [32, tr.26]. Quản lý đại lý hải quan tức là thiết lập môi trường

pháp lý cho đại lý hải quan, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đại lý

hải quan. Cụ thể như sau:

- Tạo lập môi trường pháp lý đầu vào của đại lý hải quan: Xuất phát từ

tính chất, đặc điểm của đại lý hải quan liên quan đến rất nhiều chính sách, pháp

luật quốc gia và quốc tế, do vậy đòi hỏi người làm thủ tục hải quan phải am hiểu

chính sách và pháp luật về nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ đó đặt ra yêu cầu về

tính chuyên nghiệp, nhà nghề và chuyên môn hóa của đại lý hải quan. Sự quy

định của pháp luật về điều kiện hành nghề đại lý hải quan xuất phát từ những yêu

cầu này của hoạt động đại lý hải quan. Những điều kiện đó bao gồm: Điều kiện

về pháp lý (giấy phép hoạt động của doanh nghiệp, chứng chỉ hành nghề của

nhân viên trực tiếp thực hiện khai và làm thủ tục hải quan do cơ quan quản lý

nhà nước cấp); Điều kiện về nhân lực (con người); Điều kiện về vật lực (cơ sở hạ

tầng); Điều kiện về nguồn lực tài chính (vốn tối thiểu hoặc tiền đặt cọc, bảo

lãnh): Điều kiện về phương tiện, kỹ thuật quản lý; Điều kiện về lưu giữ sổ sách,

hệ thống chứng từ, kế toán;…

Song hành với các điều kiện của đại lý hải quan là những điều kiện mang

tính nhà nghề của nhân viên đại lý hải quan – người trực tiếp thực hiện hành vi

làm thủ tục hải quan cho từng lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu – đó là điều kiện về

thể chất, tư chất; điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi; điều kiện

40

về bằng cấp, trình độ chuyên môn; điều kiện về kinh nghiệm công tác;…

- Tạo lập vị thế pháp lý của đại lý hải quan: Quá trình hoạt động (vận

hành) của đại lý hải quan sẽ làm nảy sinh mối quan hệ giữa chủ hàng với đại lý

hải quan và giữa đại lý hải quan với cơ quan hải quan, do vậy việc quy định cụ

thể vị thế pháp lý của các chủ thể này trên cơ sở xác định các quyền và nghĩa vụ

pháp lý của họ là hết sức cần thiết.

Việc xem xét vị thế pháp lý của đại lý hải quan cần nhìn nhận trên nhiều

phương diện khác nhau: Đại lý hải quan với tư cách là người làm thuê (người

nhận làm dịch vụ); Đại lý hải quan với tư cách là người khai hải quan; Đại lý hải

quan với tư cách thay mặt cho cơ quan hải quan thực hiện một số công việc của

hải quan với chủ hàng.

- Tạo lập môi trường pháp lý đầu ra của đại lý hải quan: Đại lý hải quan

cũng giống như các hoạt động dịch vụ thương mại khác, luôn tồn tại trong một

phạm vi thời gian và không gian nhất định của môi trường cạnh tranh, vì vậy, có

thể bị giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật giải thể và phá sản

doanh nghiệp. Ngoài môi trường pháp lý chung đó, đại lý hải quan sẽ phải chấm

dứt tư cách pháp lý của mình khi có các hành vi vi phạm pháp luật về điều kiện

và hoạt động đại lý hải quan, chẳng hạn: không còn đáp ứng được các điều kiện

là đại lý hải quan; thông đồng với chủ hàng để vi phạm pháp luật về hải quan:

không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của đại lý hải quan theo quy định của pháp

luật; không chấp hành hoặc chấp hành không đúng các quyết định xử phạt của cơ

quan hải quan khi có hành vi vi phạm pháp luật về hải quan; không thông báo

trước cho cơ quan hải quan các thay đổi về tên, địa chỉ đại lý hải quan nhằm mục

đích buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; cho mượn danh nghĩa trong hoạt

động đại lý hải quan;…

Thông thường việc chấm dứt hoạt động của đại lý hải quan liên quan trực

tiếp đến tư cách pháp lý của các nhân viên đại lý hải quan. Vấn đề đặt ra cho tạo

lập môi trường pháp lý đầu ra của đại lý hải quan, khi đại lý hải quan chấm dứt

hoạt động thì có đương nhiên làm chấm dứt tư cách pháp lý của nhân viên đại lý

hải quan đó không và họ có bị thu hồi thẻ nhân viên đại lý hải quan không, họ

41

còn được tiếp tục hành nghề không,…

2.2.3.3 Tổ chức bộ máy quản lý đối với đại lý hải quan

Để đảm bảo chất lượng của hoạt động đại lý hải quan, phát huy vai trò

cũng như quyền tự chủ của các đại lý hải quan, một trong những nội dung hết

sức quan trọng của quản lý nhà nước đối với đại lý hải quan là tổ chức bộ máy

quản lý đối với đại lý hải quan. Cụ thể đó là thực hiện việc phân cấp quản lý đối

với các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: cơ quan chịu trách nhiệm

quản lý thống nhất đại lý hải quan, cơ quan cấp phép hoạt động kinh doanh dịch

vụ đại lý hải quan, cơ quan có trách nhiệm tổ chức kiểm tra, giám sát hoạt động

đại lý hải quan, xử lý vi phạm đối với các đại lý hải quan vi phạm pháp luật hải

quan… Tiếp theo là xác định chức năng, nhiệm vụ cho từng cấp quản lý cũng

như xác định mối liên hệ, phối kết hợp trong công việc, nhằm tạo sự phối hợp

nhịp nhàng, hiệu quả trong quản lý đại lý hải quan.

Tổ chức bộ máy quản lý đối với đại lý hải quan còn là xây dựng cơ chế

phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với cộng đồng các doanh nghiệp làm

đại lý hải quan để thực hiện mục tiêu phát triển đại lý hải quan theo những định

hướng nhất định. Sự phối hợp phải thể hiện ở cả hai phía, mang tính tương hỗ

lẫn nhau: Cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là cơ quan hải quan tư vấn về nghiệp

vụ, tạo thuận lợi trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ làm thủ tục

hải quan cho nhân viên đại lý hải quan; hỗ trợ kỹ thuật kết nối với các cơ quan

quản lý nhà nước trong việc khai hải quan và thực thi chế độ báo cáo, nghĩa vụ

tài chính; cập nhật, cung cấp cho đại lý hải quan những thông tin về sự thay đổi

trong chính sách, luật lệ của của Chính phủ, của các Bộ ngành chức năng. Đại lý

hải quan hỗ trợ cơ quan hải quan trong công tác quản lý nghiệp vụ, chống buôn

lậu, gian lận thương mại, chống thất thu thuế cho Ngân sách nhà nước thông qua

việc kiểm tra, giám sát, theo dõi thường xuyên hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,

phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh…

Một trong những tổ chức hỗ trợ cơ quan hải quan trong việc quản lý đại lý

hải quan là Hiệp hội đại lý hải quan. Đây là tổ chức thương mại được thành lập

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đại lý hải quan, động viên đại lý hải

42

quan tham gia phát triển thương mại, tuyên truyền, phổ biến các quy định của

pháp luật hải quan. Hiệp hội đại lý hải quan sẽ phát huy vai trò tạo ra một kênh

thông tin phản hồi đáng tin cậy trong quá trình thực thi pháp luật hải quan đối

với cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời tăng khả năng tự kiểm soát tính tuân

thủ pháp luật lẫn nhau của các thương nhân hoạt động trong lĩnh vực đại lý hải

quan.

2.2.3.4 Thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý hải quan

Để đảm bảo định hướng chuẩn cho các hoạt động dịch vụ thương mại nói

chung và dịch vụ đại lý hải quan nói riêng, cũng như thiết lập, duy trì một trật tự

nhất định trong quá trình hoạt động của các đại lý hải quan, cần thực hiện kiểm

tra, giám sát các hoạt động đại lý hải quan, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật

của đại lý hải quan, của nhân viên đại lý hải quan. Đây cũng chính là một trong

những nội dung cơ bản của quản lý đại lý hải quan.

Kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý hải quan là các biện pháp nghiệp

vụ do cơ quan hải quan thực hiện nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật hải quan

của đại lý hải quan. Thực tiễn hoạt động quản lý đại lý hải quan ở các nước trên

thế giới cho thấy, cơ quan hải quan cần duy trì sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ

hoạt động của các doanh nghiệp làm dịch vụ đại lý hải quan. Mục đích của kiểm

tra, giám sát hoạt động đại lý hải quan nhằm nắm bắt, phản ánh và đánh giá đúng

đắn về việc chấp hành pháp luật và tuân thủ các quyết định quản lý của đại lý hải

quan, qua đó kịp thời chấn chỉnh hoặc áp dụng các biện pháp quản lý phù hợp,

giúp các đại lý hải quan khắc phục những tồn tại, hạn chế để nâng cao hiệu quả

kinh doanh; đồng thời, giúp các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện những yếu

kém trong quản lý hoạt động kinh doanh của các đại lý hải quan. Kiểm tra, giám

sát hoạt động của đại lý hải quan còn nhằm xác định nguyên nhân, trách nhiệm

của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và xử lý theo thẩm quyền hoặc

kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, xử lý.

Nội dung chính của nghiệp vụ kiểm tra, giám sát hoạt động đại lý hải

quan bao gồm:

- Kiểm tra, giám sát tư cách pháp lý của đại lý hải quan. Cơ quan hải quan

43

quản lý hoạt động của các đại lý hải quan thông qua việc đăng ký kinh doanh

dịch vụ đại lý hải quan. Tuy nhiên, việc đăng ký kinh doanh dịch vụ đại lý hải

quan ở đây được hiểu là nhằm tạo ra sự phối hợp về mặt nghiệp vụ với cơ quan

hải quan chứ không phải là đăng ký kinh doanh một lần nữa.

- Kiểm tra việc lưu giữ hồ sơ, chứng từ liên quan đến các lô hàng xuất

nhập khẩu của các đại lý hải quan. Đại lý hải quan có trách nhiệm lưu giữ các hồ

sơ, chứng từ liên quan trong một thời hạn nhất định, và phải xuất trình đầy đủ

khi cơ quan hải quan có yêu cầu. Công ước Kyoto đã khuyến nghị về khoảng

thời gian này thường không quá 5 năm.

- Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật hải quan của đại lý hải quan

và nhân viên đại lý hải quan. Khi phát hiện đại lý hải quan hoặc nhân viên đại lý

hải quan có hành vi vi phạm pháp luật hải quan, cơ quan hải quan có thể đề xuất,

kiến nghị cơ quan quản lý các hình thức xử lý vi phạm. Hình thức xử lý vi phạm

đối với đại lý hải quan có thể là tạm ngừng hoặc hủy bỏ quyền kinh doanh đại lý

hải quan. Hình thức xử lý vi phạm đối với nhân viên đại lý hải quan có thể là xử

lý theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính hoặc thu hồi mã số nhân viên đại lý

hải quan.

2.2.3.5 Điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan

Quá trình thực hiện nghiệp vụ kiểm tra, giám sát hoạt động đại lý hải quan

giúp cơ quan hải quan kịp thời phát hiện những sơ hở, bất cập trong chính sách,

pháp luật và cơ chế quản lý đối với các đại lý hải quan, từ đó kiến nghị với các

cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những biện pháp khắc phục, hoàn thiện; bên

cạnh đó tăng cường thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của các đại

lý hải quan; khuyến khích việc chia sẻ, nhân rộng những kinh nghiệm tốt, mô

hình kinh doanh có hiệu quả giữa các đại lý hải quan. Như vậy, dựa vào kết quả

kiểm tra, giám sát đại lý hải quan và thông qua các phương pháp quản lý, công

cụ quản lý, cơ quan hải quan sẽ điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan.

Việc điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan được thể hiện thông qua việc

căn cứ vào định hướng quản lý đại lý hải quan, cơ quan Hải quan sẽ thực hiện rà

soát, điều chỉnh hoặc ban hành Chiến lược phát triển đại lý hải quan cho từng

44

giai đoạn, cụ thể thành các Kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn phát triển,

quản lý đại lý hải quan cho từng thời kỳ, quy hoạch mạng lưới đại lý hải quan

phát triển phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình cải cách,

hiện đại hóa hải quan. Điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan còn được thể hiện

thông qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt

động của đại lý hải quan để đạt được những mục tiêu nhất định. Mặt khác, điều

chỉnh hoạt động đại lý hải quan cũng nhằm xử lý những tình huống mới nảy sinh

mà bản thân kế hoạch phát triển đại lý hải quan chưa lường hết được, tận dụng

các thời cơ, khai thác các tiềm năng chưa được sử dụng để nâng cao hiệu quả

hoạt động của đại lý hải quan.

Quá trình điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan phải tuân thủ những

nguyên tắc sau [37]:

- Chỉ điều chỉnh khi thấy thật sự cần thiết để đảm bảo hiệu quả hoạt động

của đại lý hải quan.

- Điều chỉnh đúng mức độ, tránh tùy tiện, tránh gây tác dụng xấu.

- Phải xem xét kỹ đến các hậu quả của việc điều chỉnh.

- Tùy điều kiện mà kết hợp các phương pháp điều chỉnh cho phù hợp.

Quá trình điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan có thể dẫn đến sự thay đổi

trong một số hoạt động của đại lý hải quan, chẳng hạn có thể điều chỉnh sai lệch

thông qua chức năng tổ chức như phân công lại công việc, tăng cường nhân viên

phụ trách quản lý đại lý hải quan, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhân viên đại

lý hải quan, xử lý vi phạm hành chính những đại lý hải quan hoặc nhân viên đại

lý hải quan vi phạm pháp luật hải quan… Mặt khác, hoạt động kiểm tra, giám sát

đại lý hải quan có thể chỉ ra rằng các mục tiêu, kế hoạch phát triển đại lý hải

quan không còn phù hợp với điều kiện tình hình hiện tại, trong trường hợp này,

điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan dẫn đến việc sửa đổi các mục tiêu phát triển

cho phù hợp.

2.2.4 Các phương pháp và công cụ quản lý đại lý hải quan

2.2.4.1 Các phương pháp quản lý đại lý hải quan

Phương pháp quản lý đại lý hải quan là tổng thể những cách thức tác động

45

có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý để

đạt được các mục tiêu đề ra, hay nói cụ thể hơn, đó là việc cơ quan quản lý nhà

nước áp dụng hài hòa các phương pháp quản lý đại lý hải quan (bao gồm phương

pháp hành chính, phương pháp kinh tế và phương pháp giáo dục) tác động đến

đại lý hải quan và hoạt động đại lý hải quan nhằm đạt được các mục tiêu đề ra

[31, tr.79], [37, tr.133].

Phương pháp hành chính trong quản lý đại lý hải quan là cách thức tác

động trực tiếp của cơ quan quản lý đến đại lý hải quan bằng các quyết định dứt

khoát mang tính chất bắt buộc trong khuôn khổ luật pháp, đòi hỏi đại lý hải quan

phải chấp hành nghiêm chỉnh, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời, thích đáng.

Phương pháp hành chính tác động vào đại lý hải quan theo hai hướng: tác động

về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của đại lý hải quan. Theo

hướng tác động về mặt tổ chức, cơ quan quản lý ban hành các văn bản quy định

về trình tự đăng ký kinh doanh, cấp phép hoạt động đại lý hải quan, quy định về

điều kiện để trở thành đại lý hải quan, điều kiện làm nhân viên đại lý hải quan…

Theo hướng tác động điều chỉnh hành động của đại lý hải quan, cơ quan quản lý

quy định những công việc đại lý hải quan được thực hiện, quyền và nghĩa vụ của

đại lý hải quan, đồng thời ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với

các trường hợp vi phạm theo quy định, đảm bảo đại lý hải quan hoạt động nhịp

nhàng và đúng hướng, tạo thuận lợi cho phát triển thương mại.

Phương pháp quản lý hành chính được dùng để điều chỉnh các hành vi của

đại lý hải quan mà hậu quả của nó có thể gây ra thiệt hại cho cộng đồng, cho Nhà

nước. Trong trường hợp những hành vi này diễn ra khác với ý muốn của cơ quan

quản lý, có thể gây ra những nguy hại nghiêm trọng cho xã hội thì cơ quan quản

lý sẽ sử dụng phương pháp cuỡng chế để đưa hành vi đó tuân theo một chiều

hường nhất định, trong khuôn khổ chính sách, pháp luật về kinh tế.

Phương pháp kinh tế là cách thức tác động gián tiếp của cơ quan quản lý

lên đại lý hải quan thông qua các lợi ích kinh tế bằng việc sử dụng các đòn bẩy

kinh tế để cho đại lý hải quan tự giác, chủ động lựa chọn phương án hoạt động

có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ. Hay nói cách khác, cơ quan

46

quản lý dùng lợi ích vật chất để kích thích tính tích cực của các đại lý hải quan

tham gia vào hoạt động kinh tế.

Phương pháp kinh tế có vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý đại

lý hải quan. Phương pháp kinh tế tác động thông qua các lợi ích kinh tế, tạo ra sự

quan tâm vật chất thiết thân của cả đại lý hải quan và chủ hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu, tạo ra động lực kinh tế trực tiếp khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong

mỗi đối tượng quản lý. Đặc điểm của phương pháp kinh tế là tác động đến đại lý

hải quan không phải bằng cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra

mục tiêu nhiệm vụ phải đạt, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, các

phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Chẳng

hạn, cơ quan hải quan có quy định không có sự phân biệt về quản lý đối với tờ

khai do chủ hàng khai và tờ khai do đại lý hải quan thay mặt chủ hàng khai. Có

thể thấy đây là phương pháp quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao

hiệu quả kinh tế. Phương pháp này mở rộng quyền hoạt động cho các đại lý hải

quan, đồng thời cũng tăng trách nhiệm kinh tế của họ.

Phương pháp kinh tế được dùng khi cần điều chỉnh các hành vi không có

nguy cơ gây hậu quả xấu cho cộng đồng, cho Nhà nước hoặc chưa đủ điều kiện

để áp dụng phương pháp hành chính cưỡng chế. Trên thực tế, có những hành vi

mà nếu không có sự điều chỉnh của Nhà nước, sẽ không diễn ra theo chiều

hướng có lợi cho Nhà nước và cho cộng đồng, nhưng cũng không có nghĩa là sẽ

gây ra những thiệt hại cần phải điều chỉnh tức thời bằng phương pháp hành

chính.

Phương pháp giáo dục là các cách thức tác động của cơ quan quản lý vào

nhận thức và tình cảm của đại lý hải quan nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực

và nhiệt tình của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ. Phương pháp giáo dục mang

tính thuyết phục cao, không dùng sự cưỡng chế, không dùng lợi ích vật chất mà

là tạo ra sự nhận thức về tính tất yếu khách quan để đại lý hải quan tự giác thi

hành nhiệm vụ. Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục và kích thích

tinh thần. Tính thuyết phục làm cho đại lý hải quan phân biệt được phải – trái,

đúng – sai, lợi – hại… để hành động cho phù hợp.

47

Phương pháp giáo dục cần được áp dụng trong mọi trường hợp và phải

được kết hợp với hai phương pháp hành chính và kinh tế để nâng cao hiệu quả

của hoạt động quản lý. Sở dĩ như vậy là do, việc sử dụng phương pháp hành

chính hay kinh tế để điều chỉnh các hành vi của đại lý hải quan suy cho cùng vẫn

là tác động bên ngoài, và do đó không triệt để, toàn diện. Một khi không có

những ngoại lực này nữa, đại lý hải quan rất có thể lại có nguy cơ không tuân thủ

cơ quan quản lý. Hơn nữa, bản thân phương pháp hành chính hay kinh tế cũng

phải qua hoạt động thuyết phục, giáo dục thì mới truyền tới được đối tượng quản

lý, giúp họ cảm nhận được áp lực hoặc động lực, biết sợ thiệt hại hoặc muốn có

lợi ích, từ đó tuân theo những mục tiêu quản lý do Nhà nước đề ra. Vì vậy,

phương pháp giáo dục cần được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác một

cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng, vừa sâu sắc đến từng đối tượng

quản lý, có tác dụng giáo dục rộng rãi trong tập thể.

Các hình thức của phương pháp giáo dục gồm có: (i) Sử dụng các phương

tiện thông tin đại chúng, các hình thức truyền thông trong tổ chức, như các tài

liệu, chương trình huấn luyện, tuyên truyền…; (ii) Thông qua các đoàn thể xã

hội (Công đoàn, Hiệp hội…) và thông qua các sinh hoạt, các hoạt động cộng

đồng trong tổ chức.

2.2.4.2 Các công cụ quản lý đại lý hải quan

Công cụ quản lý đại lý hải quan là những phương tiện mà cơ quan quản lý

sử dụng nhằm định hướng, khuyến khích và phối hợp hoạt động của đại lý hải

quan để hướng tới mục tiêu nhất định [31, tr.122]. Cũng như phương pháp quản

lý đại lý hải quan, công cụ quản lý đại lý hải quan giúp cho các hoạt động quản

lý được tiến hành theo đúng quy luật và nguyên tắc, đồng thời là phương tiện để

thực hiện có hiệu quả các chức năng quản lý của cơ quan quản lý nhà nước.

Công cụ quản lý đại lý hải quan là một hệ thống bao gồm nhiều loại, trong

đó có công cụ quản lý thể hiện mục tiêu, ý đồ của cơ quan quản lý, có công cụ

thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể kinh tế, có công cụ thể hiện tư

tưởng, quan điểm của cơ quan quản lý trong việc điều chỉnh các mối quan hệ

kinh tế, có công cụ vật chất thuần túy… Cụ thể, hoạt động quản lý đại lý hải

48

quan được thực hiện thông qua các công cụ quản lý là: Công cụ pháp luật, công

cụ kế hoạch và công cụ chính sách kinh tế.

Công cụ pháp luật là sự tác động mang tính bắt buộc dựa vào chức năng

quản lý và thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước lên đại lý hải quan và hoạt

động đại lý hải quan. Đó là tổng thể những văn bản pháp luật trực tiếp liên quan

đến sự tồn tại và vận hành của đại lý hải quan. Sự điều chỉnh của công cụ pháp

luật thể hiện ở quyền và nghĩa vụ mà đại lý hải quan và các bên liên quan phải

thực hiện trong các quan hệ kinh tế, nói cách khác, quản lý đại lý hải quan bằng

pháp luật là việc xác định quyền và nghĩa vụ của tất cả chủ thể tham gia vào hoạt

động đại lý hải quan. Thông qua việc xác định quyền và nghĩa vụ cũng như việc

đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ ấy mà pháp luật tác động, chi phối các

hành vi kinh tế của đại lý hải quan cũng như cơ quan quản lý và các bên liên

quan. Công cụ quản lý pháp luật đưa ra các quy phạm được phép và không được

phép của hoạt động kinh tế để đặt đại lý hải quan vào sự tự lựa chọn, tự quyết

định hành động trong khuôn khổ những điều kiện và phạm vi đã được xác định.

Công cụ kế hoạch là sự tác động của cơ quan quản lý nhà nước nhằm định

hướng và điều tiết sự phát triển của đại lý hải quan và hoạt động đại lý hải quan.

Để quản lý đại lý hải quan, cơ quan quản lý phải đưa ra chương trình hoạt động

bao gồm mục tiêu, biện pháp và các điều kiện đảm bảo thực hiện. Nói cách khác,

đó chính là các quyết định của cơ quan quản lý về mục tiêu, biện pháp và các

đảm bảo vật chất cần thiết để thực hiện mục tiêu trong một thời kỳ nhất định.

Nhờ công cụ kế hoạch mà cơ quan quản lý và đại lý hải quan biết được hướng đi

và lựa chọn con đường thích hợp để nhanh chóng đạt tới mục tiêu. Công cụ kế

hoạch còn giúp cơ quan quản lý tiên đoán được sự thay đổi tình hình, từ đó

chuẩn bị các phương án cần thiết để thích ứng với sự thay đổi đó. Kế hoạch tạo

ra tầm nhìn chiến lược cho nhà quản lý, giúp họ phát hiện vấn đề một cách chính

xác. Từ sự phát hiện đó, nhà quản lý biết tập trung đúng đắn, kịp thời vào những

nhiệm vụ quan trọng nhất, làm giảm thiểu những bất trắc và hạn chế các hoạt

động trùng lắp, lãng phí do không có sự tính toán sắp đặt từ trước.

Công cụ chính sách kinh tế là sự tác động của cơ quan quản lý nhà nước

49

nhờ vào các biện pháp kinh tế đồng bộ nhằm kích thích và điều tiết các hoạt

động đại lý hải quan. Chính sách kinh tế là một công cụ hết sức quan trọng để cơ

quan quản lý thực hiện chức năng điều tiết, kích thích và định hướng đối với sự

phát triển của đại lý hải quan nhằm đạt được hiệu quả quản lý cao nhất. Có nhiều

chính sách kinh tế khác nhau dựa vào các cách phân loại khác nhau, mỗi chính

sách kinh tế được coi là một công cụ quản lý, đó là các chính sách mang tính

chất đòn bẩy kinh tế như chính sách thuế, chính sách giá cả, chính sách lãi

suất…

Tóm lại, mục tiêu quản lý đại lý hải quan là kết quả cuối cùng của quá

trình quản lý đại lý hải quan, đó là việc tạo thuận lợi cho đại lý hải quan phát

triển theo những định hướng nhất định. Để đạt được mục tiêu quản lý này, cơ

quan hải quan sẽ phải sử dụng các phương pháp quản lý và công cụ quản lý phù

hợp tác động lên đại lý hải quan và hoạt động đại lý hải quan. Thông qua quá

trình quản lý, cơ quan hải quan định hướng sự phát triển của đại lý hải quan, tạo

lập môi trường cho đại lý hải quan phát triển, tổ chức bộ máy quản lý đại lý hải

quan đồng thời tổ chức kiểm tra, giám sát hoạt động đại lý hải quan và kịp thời

đưa ra các quyết định điều chỉnh phù hợp nhằm mang lại hiệu quả quản lý cao

nhất.

2.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý đại lý hải quan

Hoạt động quản lý đại lý hải quan chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác

nhau, đó là:

Thứ nhất, tình hình hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của mỗi

quốc gia. Dịch vụ đại lý hải quan ra đời gắn liền với việc phục vụ các hoạt động

thương mại xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của mỗi quốc gia. Do đó, đây là nhân

tố đầu tiên tác động chi phối tới sự phát triển của dịch vụ này. Hoạt động thương

mại xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa càng phát triển, nhu cầu đòi hỏi cần đa dạng

hóa các loại hình dịch vụ cũng phát triển theo. Đồng thời nhu cầu chuyên môn

hóa trong hoạt động khai hải quan nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng

được đặt ra. Trong những năm qua, các hoạt động thương mại toàn cầu phát triển

với tốc độ nhanh chóng, giá trị trao đổi thương mại không ngừng tăng lên, kéo

50

theo dịch vụ đại lý hải quan cũng thay đổi, đa dạng hóa cách thức phục vụ cho

phù hợp [42, tr.24]. Vì vậy, để có thể quản lý được đại lý hải quan thì tất yếu cơ

chế quản lý của nhà nước cũng phải thay đổi để thích ứng.

Thứ hai, sự thay đổi của hệ thống luật pháp. Hệ thống luật pháp của mỗi

quốc gia là cơ sở để xây dựng và thực thi cơ chế quản lý đại lý hải quan [42,

tr.26]. Do đó, khi hệ thống luật pháp thay đổi thì tất yếu sẽ tác động, điều chỉnh

cơ chế quản lý thay đổi cho phù hợp.

Thứ ba, các hiệp định song phương và đa phương mà các quốc gia tham

gia ký kết. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc hoạch định chiến lược

phát triển các ngành dịch vụ nói chung, trong đó có dịch vụ đại lý hải quan phải

tính đến những quy định, thể chế và yêu cầu của Tổ chức Thương mại thế giới

(WTO) về phát triển thương mại dịch vụ. Các Hiệp định, Hiệp ước song phương

và đa phương thể hiện các cam kết của một quốc gia thực hiện các điều khoản

liên quan đến các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế, đòi hỏi các quốc gia

này phải thực thi [42, tr.26]. Điều này sẽ đặt ra yêu cầu cơ chế quản lý nói chung

và cơ chế quản lý đại lý hải quan phải được chỉnh sửa và hoàn thiện cho phù hợp

với các Hiệp định, Hiệp ước đó.

Thứ tư, sự phát triển và chuyển giao của các phương pháp quản lý mới.

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển và chuyển giao

khoa học công nghệ là sự phát triển và chuyển giao các phương pháp quản lý

mới của các đại lý hải quan và các cơ quan quản lý đại lý hải quan [42, tr.28].

Việc chuyển giao phương pháp quản lý mới cho phép các đại lý hải quan hoạt

động hiệu quả hơn, tính đa dạng và phức tạp của các quan hệ kinh tế - xã hội

giữa các đại lý và chủ hàng cũng tinh vi và ở trình độ cao hơn. Điều này sẽ dẫn

tới hệ quả cơ chế quản lý cũ không còn đủ mạnh để điều chỉnh các mối quan hệ

trong hoạt động đại lý hải quan, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước phải hoàn

thiện cơ chế quản lý cho phù hợp. Mặt khác, với sự phát triển và chuyển giao của

phương pháp quản lý mới trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan sẽ tạo cơ

sở để Nhà nước tiến hành cải cách, đổi mới cơ cấu, bộ máy các cơ quan quản lý

nhà nước theo hướng gọn nhẹ, linh hoạt và hiệu quả, nâng cao trình độ chuyên

51

môn của các cán bộ, công chức trong bộ máy đó.

Thứ năm, cách thức sử dụng các phương pháp quản lý đại lý hải quan.

Trong thực tiễn quản lý đại lý hải quan, cơ quan hải quan không thể tuyệt đối

hóa một phương pháp quản lý nào đó mà phải có quan điểm tổng hợp, kết hợp

các phương pháp quản lý với nhau để nâng cao hiệu quả quản lý. Mỗi phương

pháp quản lý đều có những ưu nhược điểm riêng, vì vậy để vận dụng có hiệu quả

các phương pháp quản lý, cơ quan hải quan phải xem xét yêu cầu thực tế khách

quan của đại lý hải quan đặt trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan để đưa ra quyết

định sẽ vận dụng, kết hợp các phương pháp quản lý đại lý hải quan như thế nào

hoặc ưu tiên sử dụng phương pháp quản lý nào nhằm mang lại hiệu quả quản lý

cao nhất.

Thứ sáu, hiệu quả sử dụng các công cụ quản lý đại lý hải quan. Bản thân

các công cụ quản lý đại lý hải quan đều có tính hai mặt. Nếu sử dụng một công

cụ quản lý không chính xác, thiếu cơ sở khoa học sẽ gây hậu quả xấu cho sự phát

triển của đại lý hải quan và hoạt động đại lý hải quan. Đặc biệt khi các yếu tố

ngẫu nhiên, các yếu tố khách quan tác động làm thay đổi mọi dự kiến ban đầu thì

hậu quả đó càng trở nên nghiêm trọng. Mặt khác, nếu áp đặt sử dụng công cụ

quản lý không phù hợp sẽ hạn chế tính năng động, linh hoạt và mềm dẻo của đại

lý hải quan và hoạt động đại lý hải quan, làm ảnh hưởng tới mục tiêu quản lý của

cơ quan quản lý.

Tóm lại, quá trình quản lý đại lý hải quan chịu ảnh hưởng của nhiều nhân

tố khác nhau. Các nhân tố này vừa mang tính chủ quan, vừa mang tính khách

quan, đòi hỏi cơ quan quản lý cần dự báo, phân tích, đánh giá chi tiết trước khi

đưa ra các quyết định quản lý phù hợp.

2.3 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của các nước và bài học cho

Việt Nam

2.3.1 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của Hải quan Philipin

Ở Philipin, nhằm tạo thuận lợi cho việc làm thủ tục hải quan và chống thất

thu thuế, Nghị viện Philipin đã ban hành Bộ luật Hải quan Philipin, bao gồm

Luật Thuế quan và Luật Hải quan. Trong nội dung Luật Hải quan có dành một

52

phần đề cập đến đại lý hải quan.

Tiết 1301 Luật Hải quan Philipin quy định một trong những người có

quyền thực hiện khai báo hải quan là đại lý hải quan được cấp giấy phép đúng

thể thức, thực hiện theo sự ủy quyền của người nắm giữ vận tải đơn. Đại lý hải

quan phải ký dưới tờ khai hải quan nhằm cam đoan chịu trách nhiệm về mọi nội

dung đã khai báo.

Tại Tiết 3401 quy định rõ những tiêu chuẩn xin cấp chứng nhận làm đại lý

hải quan. Theo đó, một cá nhân muốn xin cấp chứng nhận là nhân viên đại lý hải

quan phải trải qua một sát hạch bằng hình thức thi viết. Người xin dự thi cần có

những tiêu chuẩn sau đây [26]:

- Là công dân Philipin, tuổi từ 18 trở lên;

- Có tư cách đạo đức tốt;

- Ít nhất đã học hết hệ đại học bốn năm, trong thời gian đó phải học mười

tám (18) môn khoa học cơ bản về hải quan và thuế quan và/hoặc thuế và đạt kết

quả tốt. Nếu cứ có ba môn học bị yếu thì sẽ được thay bằng ít nhất ba tháng thực

hành nghề đại lý hải quan và/hoặc các lĩnh vực liên quan đến hải quan và thuế

quan, với điều kiện việc thực hành đó được chủ các doanh nghiệp xác nhận.

Kỳ thi sát hạch đối với nhân viên đại lý hải quan được tổ chức hai năm

một lần hoặc nhanh hơn theo nhu cầu được Cao ủy hải quan xác nhận và sẽ bị

giới hạn bởi những môn thi vấn đáp, kể cả kiến thức về luật Hải quan và thuế

quan, những quy định liên quan để thi hành luật Hải quan và thuế quan. Điểm

trung bình thí sinh phải đạt là 75%, với điều kiện thí sinh không bất cứ môn thi

nào dưới 60% [26].

Trong phạm vi 120 ngày sau ngày dự thi, Hội đồng giám khảo sẽ trình

điểm thi của các thí sinh lên Cao ủy phụ trách công tác dân sự để Cao ủy dân sự

trình điểm thi lên Tổng thống Philipin để công bố. Mỗi thí sinh thi đỗ phải nộp lệ

phí 50 pêsô cho Ủy ban công tác dân sự để nhận chứng chỉ đại lý hải quan [26].

Chứng chỉ nhân viên đại lý hải quan ghi rõ họ tên của nhân viên đại lý hải quan,

chỉ số và chữ ký của mọi thành viên của Hội đồng giám khảo của Cao ủy phụ

trách công tác dân sự và có đóng dấu chính thức của Hội đồng giám khảo.

53

Kỳ thi chọn nhân viên đại lý hải quan được coi là tương ứng với kỳ thi

bậc một do Ủy ban công tác dân sự tổ chức để chỉ định chức danh trong công tác

đã được phân loại mà nội dung của công tác đó có liên quan đến kiến thức về các

vấn đề hải quan và thuế quan.

Một doanh nghiệp muốn trở thành đại lý hải quan phải có ít nhất hai nhân

viên đại lý hải quan. Tính đến hết tháng 2/2015, đã có hơn 1.300 đại lý hải quan

được công nhận hoạt động tại Philipin.

Theo quy định, nhân viên đại lý hải quan muốn hoạt động tại khu vực

cảng nào sẽ phải xin cấp giấy phép hàng năm của Giám đốc hải quan cảng đó.

Nhân viên đại lý hải quan phải nộp lệ phí xin giấy phép đó là 100 pêsô [26].

Vào tháng 7 hàng năm, Cao ủy phụ trách công tác dân sự lập danh sách

ghi rõ tên và địa chỉ của nhân viên đại lý hải quan, gửi theo đường bưu điện đến

từng người đã đăng ký và gửi cho Văn phòng Bộ trưởng Bộ Tài chính để chuyển

cho Cao ủy hải quan và Giám đốc hải quan và đến các Cục, cơ quan Chính phủ

và các cơ quan tỉnh, thành phố cần thiết. Tùy theo yêu cầu sẽ công bố công khai

danh sách này.

Mọi khiếu nại liên quan đến việc treo và hủy bỏ chứng chỉ nhân viên đại

lý hải quan sẽ được gửi đến Hội đồng giám khảo đại lý hải quan để Hội đồng

điều tra vụ việc và đệ trình các khuyến nghị lên Cao ủy công tác dân sự quyết

định. Nhân viên đại lý hải quan đó sẽ nhận được bản sao quyết định của Cao ủy

công tác dân sự [26].

2.3.2 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của Hải quan Nhật Bản

Hệ thống đại lý hải quan tại Nhật Bản đã ra đời từ rất sớm, hình thức tổ

chức đầu tiên là Liên minh các nhà làm thủ tục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,

được thành lập vào tháng 7/1947. Liên minh này được tổ chức lại thành Hiệp hội

các đại lý hải quan Nhật Bản vào tháng 7/1968. Đến tháng 8/1968, Nhật Bản đã

ban hành Luật Khai thuê hải quan nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động dịch vụ

này trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà phục hồi. Luật được ban hành nhằm

phục vụ hoạt động chính đáng của đại lý hải quan, qua đó đảm bảo việc thực

hiện nhanh chóng các thủ tục liên quan đến thông quan hàng hóa.

54

Theo quy định của Luật Khai thuê hải quan Nhật Bản, một tổ chức muốn

thành lập dịch vụ đại lý hải quan phải được Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan

Nhật Bản đồng ý thông qua đơn vị hải quan quản lý khu vực tổ chức đó đăng ký

hoạt động để xem xét khả năng công nhận đại lý hải quan. Hải quan Nhật Bản sẽ

xem xét các điểm sau: Thủ tục nộp và đăng ký phải tuân thủ đúng quy định; Tổ

chức/cá nhân nộp đăng ký phải có đủ tư cách pháp lý; Các nhân viên đại lý hải

quan được đăng ký phải nêu rõ những đơn vị hải quan mà họ sẽ đăng ký thủ tục

đại lý hải quan [80].

Khi có một đơn xin phép được làm công việc khai thuê hải quan, Tổng

cục Hải quan Nhật Bản sẽ kiểm tra các vấn đề sau: xem xét thế mạnh của tổ chức

xin phép; xem xét khả năng thực hiện theo luật định các hoạt động dịch vụ khai

thuê hải quan cùng với năng lực có thể cũng như uy tín của tổ chức đó; xem xét

tính cần thiết và cân nhắc khối lượng công việc liên quan đến khai thuê hải quan

cũng như số lượng địa điểm thực hiện hoạt động này trong phạm vi cho phép;

kiểm tra xem các chuyên gia hải quan đã đăng ký (nhân viên đại lý hải quan) có

được chỉ định làm việc tại các văn phòng khai thuê hải quan hay không. Chỉ khi

các điều kiện trên đã được đáp ứng thì Tổng cục Hải quan mới cấp giấy phép

hoạt động cho tổ chức hoạt động khai thuê hải quan [80]. Sau khi được cấp

chứng nhận, Hải quan Nhật Bản sẽ tiếp tục giám sát các hoạt động của các tổ

chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ thủ tục hải quan trên phạm vi toàn quốc.

Về công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của các đại lý hải quan: Để đảm

bảo hoạt động khai thuê hải quan theo đúng luật định, Luật Khai thuê hải quan

Nhật Bản quy định, khi các tổ chức khai thuê hải quan vi phạm Luật này, các

luật khác và các quy định khác có liên quan, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan

có thể áp dụng một biện pháp trừng phạt theo khía cạnh quản lý, ngoài ra còn có

các biện pháp trừng phạt được quy định trong các điều khoản trừng phạt của mỗi

Luật và Nghị định. Biện pháp quản lý đối với đại lý hải quan được đưa ra dưới 3

dạng: Cảnh cáo; Đình chỉ các công việc khai thuê hải quan trong một thời gian

nhất định không quá 1 năm; và Thu hồi giấy phép. Khi một tổ chức đại lý hải

quan có vi phạm, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan phải gửi một thông báo

55

trước để họ có cơ hội xem xét lại trong một khoảng thời gian nhất định. Đồng

thời đại lý hải quan này cũng phải hỏi tư vấn từ những thanh tra có kinh nghiệm

được Tổng cục trưởng Hải quan chỉ định.

Bên cạnh đó, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan cũng có thể áp dụng

các biện pháp quản lý trong trường hợp các nhân viên đại lý hải quan đã đăng ký

vi phạm Luật Khai thuê hải quan và các quy định pháp luật khác có liên quan.

Các chế tài bao gồm: Cảnh cáo; Đình chỉ các hoạt động khai thuê hải quan trong

một thời gian nhất định không quá 1 năm; Cấm tham gia công việc khai thuê hải

quan trong thời gian 2 năm. Khi xử lý vi phạm đối với các nhân viên đại lý hải

quan có đăng ký làm việc tại các đại lý hải quan, Tổng cục Hải quan cũng cần

thông báo cho họ trước và dành cho họ một thời gian hợp lý để tự xem xét lại.

Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan sẽ phải thảo luận với những nhân viên kiểm

tra của mình trước khi đưa ra quyết định xử lý.

Tại Nhật Bản, biểu phí đại lý hải quan cũng được quy định cụ thể cho

từng loại hình dịch vụ [62].

Hiệp hội đại lý hải quan Nhật Bản (JCBA – Japan Customs Brokers

Association) là tổ chức được công nhận, hoạt động hợp pháp, đặt dưới sự quản

lý của Bộ Tài chính. Hoạt động của Hiệp hội tập trung vào các lĩnh vực sau:

- Triển khai hệ thống khai hải quan tự động;

- Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ thủ tục hải quan;

- Tham gia phối hợp với các cơ quan chức năng ngăn chặn buôn lậu, gian

lận;

- Tổ chức các lớp đào tạo, các buổi thuyết trình tập trung vào chủ đề các

vấn đề hải quan và tham gia vào các cuộc gặp gỡ quốc tế;

- Phối hợp chuẩn hóa các chứng từ hải quan và;

- Cung cấp các dịch vụ tư vấn về thủ tục hải quan.

Từ tháng 4/1994, JCBA thành lập Trung tâm thông tin nhập khẩu cá nhân

nhằm khuyến khích các nhà nhập khẩu Nhật Bản sử dụng các dịch vụ tư vấn về

thủ tục hải quan cũng như giúp những người muốn nhập khẩu hàng hóa sử dụng

cho mục đích cá nhân được thuận lợi với sự hỗ trợ của đại lý hải quan. Từ tháng

56

4/1995, JCBA bắt đầu hệ thống thông tin thông quan hải quan để cung cấp thông

tin về cấp phép nhập khẩu hoặc xin phép nhập khẩu theo yêu cầu của nhà nhập

khẩu.

Tại Nhật Bản cũng thành lập Chi hội đại lý hải quan địa phương nhằm đẩy

mạnh dịch vụ đại lý hải quan, củng cố hội viên và thúc đẩy mối quan hệ tốt giữa

các hội viên của Hiệp hội. Các Chi hội đại lý hải quan ở địa phương được tổ

chức bởi các đại lý hải quan ở mỗi khu vực nhằm tiến hành nhanh chóng các

hoạt động thông quan tại địa phương. JCBA có 9 Chi hội đại lý hải quan khu vực

và hoạt động trên cơ sở phí do 9 Chi hội đóng góp.

JCBA thường xuyên mở các khóa đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu và tổ

chức hội thảo nhằm nâng cao năng lực của các nhân viên đại lý hải quan. Bên

cạnh đó, JCBA còn xuất bản các tài liệu về đại lý hải quan cho các đại lý hải

quan và nhân viên đại lý hải quan tham khảo. Năm 2010, JCBA đã được WCO

khen thưởng vì đã có những đóng góp nổi bật trong lĩnh vực chung của Ủy ban

Thương mại quốc tế [62].

Cho đến nay, tại Nhật Bản đã có hơn 1.300 giấy chứng nhận đại lý hải

quan được cấp, với khoảng hơn 2.000 văn phòng đại lý và hơn 7.000 nhân viên

đại lý hải quan [62]. Các đại lý hải quan thường cung cấp các dịch vụ liên quan

khác nhau như: dịch vụ giao nhận, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ kinh doanh kho

bãi, dịch vụ vận chuyển tàu biển, dịch vụ nâng chuyển hàng,... Mỗi đại lý phải có

ít nhất một nhân viên đại lý hải quan. Nhân viên đại lý hải quan muốn được cấp

chứng chỉ hành nghề phải thi đạt kỳ thi sát hạch cấp quốc gia do Bộ Tài chính tổ

chức, định kỳ vào tháng 10 hàng năm.

Nhật Bản cũng đưa ra những quy định chặt chẽ về xử lý những trường

hợp vi phạm luật pháp hải quan, quy định về thuế... của đại lý hải quan, những

hình thức được áp dụng là thắt chặt giám sát, áp dụng các hình phạt mang tính

răn đe cao tùy theo mức độ vi phạm, bắt đầu từ việc cảnh báo, ngừng một phần

hoặc toàn bộ các dịch vụ hải quan được cấp phép trong khoảng thời gian dưới

một năm cho đến khi thu hồi chứng nhận (giấy phép hoạt động). Cơ quan Hải

57

quan Nhật Bản quản lý đại lý hải quan trên cơ sở tận dụng tối đa công nghệ

thông tin và sử dụng phương pháp quản lý rủi ro có hiệu quả.

2.3.3 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của Hải quan Hoa Kỳ

Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, đại lý hải quan là các cá nhân, công

ty, hiệp hội được cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới Hoa Kỳ (US Customs

and Border Protection – CBP) cấp phép và quản lý nhằm giúp các nhà nhập khẩu

và xuất khẩu đáp ứng các yêu cầu của liên bang trong hoạt động xuất nhập khẩu.

Đại lý hải quan đại diện cho khách hàng của mình cung cấp thông tin cần

thiết và nộp các khoản tiền theo quy định cho CBP. Đổi lại, đại lý hải quan sẽ

nhận được các khoản phí dịch vụ từ các nhà xuất khẩu, nhập khẩu theo hợp đồng

giữa hai bên.

Chính phủ Hoa Kỳ đã đề ra các quy định chặt chẽ đối với đại lý hải quan

như phải có kinh nghiệm về thủ tục nhập khẩu hàng hóa, có kiến thức về các lĩnh

vực liên quan như phân loại hàng hoá, xác định trị giá tính thuế và các mức thuế

suất hiện hành áp dụng đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Hiện có khoảng gần

11.500 đại lý hải quan được cấp phép hoạt động tại Hoa Kỳ [22, tr.17]. Các công

ty, hiệp hội và tổ chức phải có giấy phép thực hiện các giao dịch với cơ quan Hải

quan. Mỗi lĩnh vực, đại lý hải quan phải có ít nhất một nhân viên, đối tác hoặc

liên doanh được cấp phép hợp pháp để được nhận giấy phép hoạt động. Nếu như

đại lý hải quan không có một nhân viên hoặc một thành viên của một đối tác

trong thời gian hơn 120 ngày thì sẽ bị thu hồi giấy phép hoạt động.

Để có thể trở thành đại lý hải quan, theo quy định của CBP, phải là công

dân Hoa Kỳ từ 21 tuổi trở lên và không được làm trong bất kỳ một cơ quan nào

của Chính phủ Liên bang. Nếu có đủ các điều kiện này, ứng cử viên phải tham

dự kỳ thi cấp giấy phép đại lý hải quan, nộp một khoản lệ phí 200 USD trước kỳ

kiểm tra là 30 ngày và được CBP chấp nhận. Việc kiểm tra để cấp giấy phép cho

đại lý hải quan là một kỳ kiểm tra mở (cho phép sử dụng tài liệu liên quan) với

80 câu hỏi lựa chọn dựa trên các tài liệu nghiệp vụ của CBP như Danh mục biểu

thuế hài hoà của Hoa Kỳ (HTSUS – Harmonized Tariff Schedule of the United

States ), Luật các quy định của Liên bang, các văn bản nghiệp vụ của CBP và tài

58

liệu về các yêu cầu giao diện tự động giữa Thương mại và Hải quan. Kỳ kiểm tra

này thường được CBP tổ chức tại các vùng vào ngày thứ hai đầu tiên của tháng 4

và ngày thứ hai đầu tiên của tháng 10 trong năm [84].

Khi cấp phép cho một đại lý hải quan, CBP thực hiện chính sách đánh giá

chặt chẽ trong một hệ thống từ trung ương tới địa phương. Hiện có ba mức độ

đánh giá. Trước tiên là sự kiểm tra cơ bản do nhiều cơ quan liên quan thực hiện.

Thứ hai là các Cục trưởng các vùng của CBP sẽ đánh giá kết quả kiểm tra nêu

trên cùng với bất kỳ thông tin có liên quan khác, và sẽ gửi báo cáo về cơ quan

trung ương của CBP tại Washington D.C. CBP nghiên cứu từng hồ sơ xin cấp

phép, và trợ lý Cao uỷ, Văn phòng Quản lý các hoạt động tại chỗ, sẽ đưa ra

quyết định cuối cùng về việc có chấp nhận đại lý hải quan đó hay không. Thời

gian cấp phép có thể thay đổi tuỳ thuộc nhiều yếu tố nhưng thường là từ 8 đến 12

tháng. Một trong số những yếu tố đó là địa điểm hoạt động, khối lượng công

việc hay mức độ rủi ro đe doạ an ninh quốc gia.

CBP quy định giấy phép hoạt động của đại lý hải quan không thể chuyển

nhượng được. Ví dụ, một đại lý hải quan riêng lẻ được cấp phép không thể tham

gia hoặc yêu cầu được tham gia một “giao dịch hải quan” như là một đại lý hải

quan liên hiệp khi không có giấy phép của đại lý hải quan liên hiệp. Những

người không được cấp phép không sử dụng một mã số hồ sơ đại lý hải quan, cho

phép và/hoặc cấp phép theo mục đích đề nghị hoặc/và tham gia một “giao dịch

hải quan”. Ví dụ, một nhà giao nhận không được cấp phép không được sử dụng

giấy phép đại lý hải quan để tham gia một “giao dịch hải quan” với tư cách là

một đại lý hải quan. Theo quy định tại Luật Hải quan Hoa Kỳ, những đối tượng

vi phạm quy định này sẽ phải chịu khoản tiền phạt tối đa là 10.000 USD cho

từng giao dịch như vậy. Tương tự, đại lý hải quan tự ý cho những người không

được phép sử dụng giấy phép của mình thì thì sẽ bị phạt tiền và bị từ chối thực

hiện tiếp nhiệm vụ. Thành viên của cộng đồng doanh nghiệp tham gia vào những

hoạt động không hợp pháp nêu trên có 30 ngày để dừng và chấm dứt những hành

động đó.

59

CBP luôn tạo điều kiện cho các nhà nhập khẩu, đại lý hải quan thực hiện

tốt nhất công việc thông qua các giao diện điện tử trong thông quan hàng hoá.

Giao diện khai thuê tự động (ABI – Automated Broker Interface) là một cấu

phần trong Hệ thống Thương mại tự động của Hải quan Mỹ cho phép những

người đủ điều kiện gửi dữ liệu nhập khẩu dưới hình thức điện tử tới cơ quan Hải

quan. ABI là một chương trình tự nguyện được cấp cho các đại lý hải quan, nhà

nhập khẩu, vận tải, cảng vụ và các trung tâm dịch vụ độc lập. Hiện có hơn 96%

tờ khai được nộp cho cơ quan Hải quan thông qua ABI. Giao diện này có nhiều

chức năng tiên tiến như giải phóng hàng hoá, giúp gửi thông tin lược khai trước

khi hàng hoá đến, hay hạn ngạch một lần dùng để khai báo hàng nhập khẩu

thông qua một nhóm chuyên gia được chỉ định sẵn. Các chức năng này giúp

giảm thời gian thông quan từ khi nộp khai báo cho đến khi hàng hoá được giải

phóng. ABI còn có chức năng truyền dữ liệu và các giao dịch nhập khẩu với các

cơ quan khác của chính phủ. Giao diện loại bỏ nhu cầu của cơ quan hải quan đối

với bản sao giấy của các chứng từ do các cơ quan khác ban hành. Giao diện này

cũng cho phép đại lý hải quan chấp hành các quy định của Bộ Giao thông, Ủy

ban truyền thông liên bang, cơ quan Thực phẩm và Thuốc hoặc cơ quan Ngư

nghiệp và các loài hoang dã. Ngoài ra, hệ thống còn bao gồm các chức năng

khác như thanh toán điện tử (để nộp thuế, phí với một giao dịch điện tử), cập

nhật hệ thống danh mục biểu thuế hài hoà….

Gần đây, CBP khuyến khích làm thủ tục hải quan thông qua hệ thống đại

lý hải quan nhằm giảm bớt các nguy cơ về vận chuyển vũ khí, thuốc nổ phục vụ

các hoạt động khủng bố [84]. Quan điểm của CBP hiện nay là sử dụng đại lý hải

quan như là một trong những công cụ tạo thuận lợi cho hoạt động giao dịch

thương mại và giảm nguy cơ khủng bố song song với những biện pháp chống

khủng bố được Chính phủ liên bang áp dụng trong thời gian qua.

2.3.4 Kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của Hải quan Australia

Australia là một trong những nước có hoạt động ngoại thương phát triển

lâu đời nên hệ thống đại lý hải quan tại đây rất phát triển với hệ thống đào tạo

nhân viên làm dịch vụ hải quan rất quy củ, bài bản. Các chủ hàng hóa xuất khẩu,

60

nhập khẩu có thể nhận được những dịch vụ đa dạng từ các đại lý hải quan –

những người sẽ thay mặt họ để tiến hành các thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng

hóa.

Tại Australia, Hiệp hội lớn nhất về thủ tục, dịch vụ hải quan là Hiệp hội

các nhà giao nhận và đại lý hải quan Australia (CBFCA – Customs Brokers and

Forwarders Council of Australia). Hiệp hội này được thành lập từ đầu thế kỷ 20

và phát triển mạnh mẽ kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai cùng với sự hồi phục

của kinh tế thế giới. Mục đích chính của CBFCA là đại diện quyền lợi của các

thành viên và thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ thủ tục hải quan thông qua các

hoạt động tuyên truyền, đào tạo và phát triển nghề nghiệp.

Để trở thành một đại lý hải quan của Australia, thương nhân phải thỏa

mãn những điều kiện như: Có tư cách pháp lý theo quy định tại phần XI của Luật

Hải quan Australia như là thành viên của CBFCA; đóng lệ phí hoạt động hàng

năm và một số quy định khác của Hiệp hội [26], [83]. Ngoài ra có thể làm thủ

tục cho những loại hàng hóa đặc biệt phải tuân thủ những hạn chế riêng của

Australia (vốn có quy định chặt chẽ về nhập khẩu thực phẩm, động thực vật lạ

vào Australia), đại lý cũng phải được cấp giấy chứng nhận làm thủ tục cho

những hàng hóa nguy hại bởi Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA) và

được sự cho phép của Bộ Kết cấu hạ tầng và Giao thông vận tải (nay là Bộ Kết

cấu hạ tầng và Phát triển vùng). Tùy từng trường hợp cụ thể mà Hiệp hội có

những quy định riêng.

Để được công nhận là nhân viên đại lý hải quan, nhân viên đó phải tham

dự khóa đào tạo chính thức để được trang bị kiến thức về quản lý hải quan và

phải được cấp chứng nhận hành nghề bởi Hiệp hội nghề nghiệp. Việc đăng ký

công nhận đại lý hải quan có thể được tiến hành tại Cục Hải quan phụ trách các

bang khác nhau của Australia, trình tự đăng ký được tiến hành chủ yếu dưới hình

thức tự động, như đăng ký qua website của Hiệp hội, trả lời phỏng vấn và nhận

xét kết quả trên mạng [83].

Chương trình thi cấp chứng nhận đại lý hải quan đưa ra những câu hỏi dựa

trên Luật Hải quan Australia, đây là chương trình kiểm tra gồm 11 nội dung và

61

được phổ biến trên mạng nhờ những công nghệ mới nhất như: phương pháp

luyện thi ảo để ứng viên có thể tham gia làm bài luyện tập dưới sự hướng dẫn ảo,

không phụ thuộc họ đang ở khu vực nào của Australia hoặc trên thế giới. Sau khi

được chấp nhận, các thành viên của CBFCA có thể được hưởng các quyền lợi

như được đào tạo về chuyên môn, pháp luật và được tham gia mạng thông tin

thương mại của Hiệp hội. Hiện nay, ở Australia có khoảng 8.000 tổ chức đại lý

hải quan với khoảng 25.000 nhân viên đang hoạt động [22].

Hoạt động của các đại lý hải quan tại Australia chịu tác động của nhiều cơ

quan khác nhau như: hải quan, kiểm dịch, vận tải, hiệp hội nghề nghiệp chuyên

ngành... Hiện nay, số lượng thành viên của CBFCA gồm hơn 250 đại lý hải quan

với quy mô khác nhau.

2.3.5 Bài học kinh nghiệm rút ra cho quản lý đại lý hải quan ở Việt

Nam

Qua nghiên cứu kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của một số nước trên

thế giới cho thấy, hoạt động đại lý hải quan của các nước khá phát triển và đều

được quản lý chặt chẽ. Đại lý hải quan hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao

và rất đáng tin cậy. Cơ quan hải quan của các nước đều thực hiện quản lý đại lý

hải quan bằng cách kết hợp các phương pháp quản lý và sử dụng các công cụ

quản lý phù hợp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Từ thực tiễn quản lý

đại lý hải quan của các nước nghiên cứu, có thể rút ra một số bài học kinh

nghiệm về quản lý đại lý hải quan cho Hải quan Việt Nam như sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý dành cho hoạt động đại lý hải

quan với các quy định rõ ràng, cụ thể, tạo hành lang hoạt động cho đại lý hải

quan. Thực tiễn quản lý đại lý hải quan của các nước cho thấy, các quy định

pháp lý cũng như sự quản lý đối với điều kiện hoạt động của đại lý hải quan là

rất chặt chẽ, từ điều kiện đăng ký hoạt động, trình tự cấp phép, điều kiện để được

tiếp tục hoạt động đại lý hải quan, đến điều kiện đối với người xin cấp mã số

nhân viên đại lý hải quan, điều kiện về các khoản thu phí dịch vụ,… Bên cạnh

đó, hệ thống cơ sở pháp lý còn bao gồm các chế tài xử lý vi phạm đối với đại lý

hải quan và nhân viên đại lý hải quan nếu có hành vi vi phạm pháp luật hải quan,

62

luôn gắn trách nhiệm của chủ hàng hóa trong mọi trường hợp vi phạm pháp luật

hải quan, kể cả lỗi phát sinh do chủ hàng hóa hay do đại lý hải quan. Những quy

định pháp lý về đại lý hải quan và hoạt động đại lý hải quan đều được các nước

khái quát trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, một số nước đã ban

hành luật riêng về đại lý hải quan như Nhật Bản, Hàn Quốc…

Hai là, cần coi trọng hoạt động đầu tư phát triển dịch vụ đại lý hải quan

nhằm bắt kịp xu thế hiện đại hóa hải quan và phù hợp với thông lệ quốc tế. Có

thể thấy đại lý hải quan ở các nước thường là những doanh nghiệp quy mô lớn,

được trang bị cơ sở vật chất tiên tiến, mức độ tuân thủ pháp luật cao. Thực tiễn

tại các nước cho thấy việc các chủ hàng tự thực hiện thủ tục hải quan là không

nhiều mà lựa chọn thực hiện thủ tục hải quan thông qua các đại lý hải quan

chuyên nghiệp là hết sức phổ biến. Vì vậy, các đại lý hải quan luôn quan tâm đầu

tư phát triển dịch vụ, nghiên cứu áp dụng quy trình quản lý hiện đại trong đó có

sử dụng công nghệ thông tin, máy móc điện tử để hỗ trợ cho công tác quản lý đại

lý hải quan. Cơ quan hải quan đóng vai trò là người quản lý và thúc đẩy sự phát

triển của đại lý hải quan bằng các hoạt động hỗ trợ về mặt pháp lý, chính sách và

tuyên truyền.

Ba là, cộng đồng đại lý hải quan các nước đều thống nhất thành lập Hiệp

hội đại lý hải quan, là tiếng nói chung, đại diện quyền lợi cho các đại lý hải quan.

Hiệp hội đại lý hải quan không những là cầu nối giữa các đại lý hải quan và cơ

quan quản lý nhà nước mà còn đảm bảo sự tăng cường kiểm tra, giám sát đối với

hoạt động đại lý hải quan, là tổ chức hỗ trợ hiệu quả cho công tác quản lý của cơ

quan hải quan. Các Hiệp hội đại lý hải quan chủ yếu là hỗ trợ về mặt kỹ thuật,

chuyên môn và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với đại lý hải quan.

Bốn là, để quản lý đại lý hải quan có hiệu quả, phải có sự phối hợp chặt

chẽ giữa các cơ quan quản lý. Hệ thống xử lý dữ liệu hải quan điện tử của cơ

quan hải quan có nhanh chóng hay không một phần lớn là nhờ vào khả năng liên

kết với các cơ quan của Chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức nhằm kiểm tra

sự đúng đắn của các thông tin khai báo của đại lý hải quan. Đó là sự phối hợp

giữa cơ quan Hải quan với cơ quan Thuế nhằm kiểm tra việc tính thuế, việc chấp

63

hành đúng các quy định về thuế của người khai hải quan, với các Bộ ngành trong

việc kiểm tra sự tuân thủ các quy định về chính sách mặt hàng của từng Bộ

chuyên ngành,… Hay nói cách khác, sự tham gia kết nối của các cơ quan quản lý

vào cơ chế một cửa quốc gia sẽ tạo thuận lợi, hỗ trợ hoạt động của đại lý hải

quan và mang lại hiệu quả cho công tác quản lý đại lý hải quan.

Kết luận chương 2

Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về đại lý hải quan và quản lý đại

lý hải quan, NCS rút ra những kết luận sau:

1. Đại lý hải quan là “người” thay mặt chủ hàng hoá xuất nhập khẩu thực

hiện trách nhiệm của người khai hải quan và thực hiện các công việc khác về thủ

tục hải quan theo thoả thuận trong hợp đồng. Quan điểm này của NCS hoàn toàn

phù hợp với tinh thần của Công ước Kyoto sửa đổi và quy định của pháp luật

Việt Nam. Đại lý hải quan có đầy đủ các đặc điểm của một hoạt động trung gian

thương mại, đồng thời có những đặc trưng riêng, đó là: đại lý hải quan là doanh

nghiệp kinh doanh có điều kiện, là “người” cung ứng dịch vụ thương mại, hoạt

động với tư cách là người khai hải quan, đại lý hải quan được cơ quan hải quan

ủy quyền thực hiện một số hành vi quản lý nhà nước về hải quan và phải chịu sự

kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan. Hoạt động đại lý hải quan mang lại

những lợi ích thiết thực đối với các doanh nghiệp XNK, đối với cơ quan hải

quan và đối với cả sự phát triển kinh tế - xã hội.

2. Quản lý đại lý hải quan là sự tác động của cơ quan quản lý nhà nước

đến đại lý hải quan và hoạt động của đại lý hải quan bằng các phương pháp quản

lý và công cụ quản lý nhất định nhằm đạt được các mục tiêu nhất định. Quản lý

đại lý hải quan là sự cần thiết khách quan của hoạt động quản lý nhà nước về hải

quan. Nội dung của quản lý đại lý hải quan bao gồm: Định hướng sự phát triển

của đại lý hải quan; Tạo lập môi trường cho sự phát triển của đại lý hải quan; Tổ

chức bộ máy quản lý đối với đại lý hải quan; Thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt

động của đại lý hải quan; và Điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan. Để thực

hiện các nội dung quản lý đại lý hải quan, phải có các phương pháp và công cụ

64

quản lý nhất định. Các phương pháp quản lý đại lý hải quan bao gồm phương

pháp hành chính, phương pháp kinh tế và phương pháp giáo dục. Các công cụ

quản lý đại lý hải quan gồm có công cụ pháp luật, công cụ kế hoạch và công cụ

chính sách kinh tế.

3. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của một số

nước trên thế giới, luận án đã rút ra các bài học cho quản lý đại lý hải quan ở

Việt Nam. Đó là các bài học về hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động đại lý hải

quan; coi trọng hoạt động đầu tư phát triển dịch vụ đại lý hải quan nhằm bắt kịp

xu thế hiện đại hóa hải quan và phù hợp với thông lệ quốc tế; thành lập Hiệp hội

đại lý hải quan đại diện quyền lợi cho các đại lý hải quan và là cầu nối giữa đại

lý hải quan và các cơ quan quản lý nhà nước; và bài học về sự phối hợp chặt chẽ

giữa các cơ quan quản lý nhà nước về hải quan.

65

Chương 3

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐẠI LÝ HẢI QUAN

Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA

3.1 Quá trình hình thành và phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam

Hoạt động đại lý hải quan ra đời từ những năm 90 của thế kỷ XX trên cơ

sở Pháp lệnh Hải quan ngày 20/02/1990 và Nghị định số 171/HĐBT ngày

25/07/1991 của Hội đồng Bộ trưởng cho phép người thứ ba thay mặt chủ hàng

khai báo hải quan. Từ năm 1991 đến năm 1995, đã có hơn 200 doanh nghiệp

hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải và khai báo hải quan ra đời để

đáp ứng nhu cầu cho hàng nghìn doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Hoạt

động đại lýhải quan ra đời kể từ thời điểm này.

Năm 1999, Tổng cục Hải quan đã ban hành Quyết định số 101/1999/ QĐ-

TCHQ ngày 08/04/1999 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành Quy

chế tạm thời dịch vụ hải quan. Quyết định đã quy định cụ thể về đăng ký và

quản lý doanh nghiệp làm dịch vụ thủ tục hải quan tại Cục Hải quan tỉnh, thành

phố; cấp thẻ chuyên dùng và quản lý nhân viên làm dịch vụ thủ tục hải quan;

việc thông báo, tư vấn cho các doanh nghiệp làm dịch vụ thủ tục hải quan của cơ

quan hải quan. Tổng cục Hải quan đã tiếp tục xem xét và công nhận thêm 100

doanh nghiệp có đủ điều kiện hoạt động làm dịch vụ thủ tục hải quan. Như vậy,

dịch vụ đại lý hải quan chính thức được ra đời từ năm 1999 và cho đến nay đã

hoàn thiện rất nhiều về mọi mặt.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, thực trạng phát triển đại lý hải

quan ở Việt Nam thời gian qua được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn từ năm

2001 đến năm 2005 (sau khi Luật Hải quan năm 2001 được thông qua và chính

thức ghi nhận địa vị pháp lý của đại lý hải quan đến trước khi Luật Hải quan bổ

sung, sửa đổi năm 2005 có hiệu lực) và giai đoạn từ năm 2005 đến nay.

3.1.1 Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005

Trong thời kỳ nhà nước thực hiện chính sách độc quyền ngoại thương, đại

lý hải quan không có điều kiện để hoạt động. Từ khi đất nước thực hiện công

66

cuộc đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Luật Hải quan năm 2001 được ban hành

và đi vào thực tiễn, hoạt động thương mại ở Việt Nam ngày càng được mở rộng,

hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá tăng nhanh, hoạt động của đại lý hải

quan mới bắt đầu có điều kiện để phát triển.

Địa vị pháp lý của đại lý hải quan lần đầu tiên được ghi nhận tại Luật Hải

quan năm 2001: “Người đại lý hải quan là người khai hải quan theo ủy quyền

của người có quyền và nghĩa vụ trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng

hóa xuất khẩu. nhập khẩu; Người đại lý hải quan phải hiểu biết pháp luật hải

quan, nghiệp vụ khai hải quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong

phạm vi được ủy quyền.”[48, Điều 21]. Nội dung này đã được cụ thể hóa tại

Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết

thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra,

giám sát hải quan. Theo đó, “Đại lý hải quan là người thay mặt người có quyền

và nghĩa vụ trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá, phương tiện vận

tải khai hải quan và thực hiện các công việc theo thoả thuận tại hợp đồng đại lý

hải quan” [12, Điều 6, Khoản 1].Nghị định số 101/2001/NĐ-CP cũng quy định

thêm một số điều kiện cho thương nhân đăng ký là đại lý hải quan, đó là các

thương nhân đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và có ngành nghề

kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hoá ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh [12, Điều 6, Khoản 2].

Trong giai đoạn này, việc khai hải quan chủ yếu do người trực tiếp xuất

khẩu, nhập khẩu (chủ hàng) thực hiện, chỉ có một số ít trường hợp người xuất

khẩu, nhập khẩu (chủ hàng) ủy quyền cho các tổ chức giao nhận, vận tải làm thủ

tục hải quan. Khi xảy ra vụ việc liên quan đến thủ tục hải quan, người chịu trách

nhiệm vẫn là người có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (chủ hàng). Các doanh

nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu chưa thấy rõ được lợi ích khi ủy quyền cho đại lý

hải quan như: có tốt hơn tự làm không, có được giảm chi phí không, có rõ trách

nhiệm giữa chủ hàng và đại lý được ủy quyền hay không… cũng như các điều

kiện để đảm bảo độ tin cậy của các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu đối với

đại lý. Về hình thức, các tổ chức này tiến hành các hoạt động giống như dịch vụ

67

khai hải quan, nhưng về bản chất đây chưa phải là dịch vụ khai hải quan theo

quy định của pháp luật. Do vậy, dịch vụ này không phát triển được do chủ hàng

chưa thực sự tin tưởng vào người khai thuê, và mặc dù đã thuê người khai hải

quan thực hiện thủ tục hải quan nhưng cũng không làm giảm trách nhiệm pháp

lý cho chủ hàng hóa XNK.

Như vậy, giai đoạn này dịch vụ đại lý hải quan hầu như không phát triển.

Các doanh nghiệp đại lý hải quan đáp ứng đủ điều kiện tại khoản 2 Điều 6 Nghị

định số 101/2001/NĐ-CP là được hoạt động, cơ quan hải quan không thực hiện

việc công nhận, cấp phép đại lý hải quan, cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan cũng

như không có sự quản lý đáng kể nào đối với hoạt động này.

3.1.2 Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2014

Nhằm mục tiêu hình thành đội ngũ đại lý hải quan chuyên nghiệp, thực sự

là cầu nối giữa cơ quan Hải quan và doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo thuận lợi

cho hoạt động xuất nhập khẩu, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại

hóa công tác hải quan, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2005/NĐ-CP

ngày 16/06/2005 quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý hải

quan. Kèm theo đó là Thông tư số 73/2005/TT-BTC ngày 05/09/2005 của Bộ

Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 79/2005/NĐ-CP.

Nghị định số 79/2005/NĐ-CP đã tạo cơ sở pháp lý cụ thể, rõ ràng để triển khai

đội ngũ đại lý hải quan chuyên nghiệp. Khi làm thủ tục hải quan, đại lý hải quan

có thể nhân danh mình để khai, ký tên và đóng dấu trên tờ khai hải quan và chịu

trách nhiệm nếu khai không đúng những thông tin và chứng từ liên quan do chủ

hàng cung cấp.

So với các quy định trước đây, các văn bản pháp lý trong giai đoạn này đã

quy định cụ thể hơn về điều kiện làm đại lý hải quan; điều kiện làm nhân viên

đại lý hải quan; trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký hoạt động đại lý hải quan và cấp

thẻ nhân viên đại lý hải quan; cũng như quy định cụ thể về trách nhiệm của đại

lý hải quan, của chủ hàng hóa và cơ quan hải quan. Có thể nói, tính từ thời điểm

này, đại lý hải quan ở Việt Nam mới thực sự hoạt động đúng với bản chất của

đại lý hải quan, theo đúng thông lệ quốc tế.

68

Đến cuối tháng 6/2007, Tổng cục Hải quan đã cấp 128 thẻ nhân viên đại

lý hải quan cho 87 doanh nghiệp thuộc địa bàn quản lý của 7 Cục Hải quan tỉnh,

thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Khánh Hoà, Bình Dương,

Đồng Nai và Cần Thơ (xem bảng 3.1). Tuy nhiên, số lượng đại lý hải quan tham

gia hoạt động theo đúng nghĩa còn rất hạn chế. Ví dụ, tại TP. Hồ Chí Minh,

trong số các doanh nghiệp đăng ký hoạt động đại lý, chỉ có khoảng 15% (5/33

đại lý) hoạt động đúng nghĩa đại lý thủ tục hải quan (khai, ký tên, đóng dấu lên

tờ khai hải quan). Tỷ lệ này tại các Cục Hải quan khác cũng tương tự. Nhiều

doanh nghiệp đại lý đã được công nhận đủ điều kiện hoạt động đại lý hải quan,

có nhân viên đại lý đã được cấp thẻ nhưng vẫn làm dịch vụ khai thuê, không ký

tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan. Nguyên nhân là do các đại lý còn e ngại

trách nhiệm pháp lý hoặc do chủ hàng chưa tin tưởng để đại lý đứng tên trên tờ

khai hải quan.

Bảng 3.1: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2007

Đại lý đứng tên trên tờ khai hải quan

TT

Cục Hải quan tỉnh, TP

Số lượng đại lý được công nhận

Số lượng đại lý

Số lượng tờ khai

Kim ngạch (USD)

1 Hà Nội

16

1

22

571.602

2 Hải Phòng

22

2

75

76.507.000

3

TP. Hồ Chí Minh

33

5

128

125.481.500

4 Bình Dương

8

1

17

671.250

5 Khánh Hòa

2

0

0

0

6 Cần Thơ

2

0

0

0

7 Đồng Nai

4

0

0

0

242

9

203.231.352

Tổng cộng 87 (Nguồn: Cục Giám sát quản lý về hải quan - Tổng cục Hải quan)

Có thể thấy, phần lớn các đại lý hải quan đều chưa có kế hoạch cụ thể về

việc mở rộng hoạt động dịch vụ đại lý hải quan; giữa đại lý hải quan và cơ quan

Hải quan chưa có cam kết cụ thể về ưu tiên thủ tục hải quan và hỗ trợ của cơ

quan Hải quan gắn với trách nhiệm của đại lý hải quan. Bên cạnh đó, trình độ

nghiệp vụ của nhân viên đại lý hải quan chưa thực sự đồng đều, nhiều nhân viên

69

có thẻ đại lý hải quan nhưng chưa cập nhật và nắm sâu về các chính sách, quy

trình thủ tục liên quan. Qua tìm hiểu từ Hải quan địa phương và từ các đại lý hải

quan, điểm hạn chế yếu kém trong khai báo và làm thủ tục hải quan của các đại

lý hải quan vẫn là các vấn đề liên quan đến mã số hàng hoá, giá tính thuế và

công tác thanh khoản trong các hợp đồng gia công hay sản xuất xuất khẩu. [22,

tr.31].

Xuất phát từ những hạn chế trong công tác phát triển đại lý hải quan, Bộ

Tài chính đã có chỉ đạo ngành Hải quan khẩn trương tìm ra giải pháp thúc đẩy

hoạt động đại lý hải quan, đưa hệ thống đại lý hải quan vào hoạt động nề nếp và

phát triển phù hợp với yêu cầu cải cách và hiện đại hoá hải quan. Tổng cục Hải

quan đã có kế hoạch cụ thể, xác định rõ các việc lớn phải làm từ năm 2008 trở đi

để cơ quan hải quan, đại lý hải quan, chủ hàng chủ động khi tổ chức thực hiện;

khắc phục tình trạng buông lỏng, thờ ơ đối với hoạt động đại lý hải quan như

thời gian vừa qua. Theo đó, tại Quyết định số 456/QĐ-BTC ngày 14/3/2008 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện

đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2008-2010, lãnh đạo Bộ Tài chính và Tổng

cục Hải quan đã đặt mục tiêu khuyến khích phát triển đại lý hải quan, phấn đấu

đến năm 2010 có 30% trở lên số tờ khai hải quan được khai và làm thủ tục qua

đại lý hải quan, đạt yêu cầu chuẩn mực; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống đại lý

làm thủ tục hải quan để phục vụ cho tổ chức triển khai thông quan điện tử theo lộ

trình [3]. Trang thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan đã cập nhật các văn bản

quy định và hướng dẫn liên quan đến đại lý hải quan để các đơn vị hải quan địa

phương, đại lý hải quan và cộng đồng doanh nghiệp tra cứu kịp thời. Ngoài ra,

qua hộp thư điện tử của trang thông tin điện tử cũng liên tục tiếp nhận và trả lời

kịp thời các vướng mắc, câu hỏi của các doanh nghiệp.

Đến đến hết năm 2010, toàn quốc có 93 doanh nghiệp được công nhận đại

lý hải quan thuộc 11 Cục Hải quan tỉnh, thành phố; 263 nhân viên được cấp thẻ

nhân viên đại lý hải quan (xem bảng 3.2). Các đại lý hải quan đã khai và làm thủ

tục hải quan được gần 7 nghìn tờ khai hải quan, chiếm một tỷ lệ khá nhỏ so với

số lượng 4,1 triệu tờ khai XNK trong năm. [73], [76].

70

Bảng 3.2: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2010

Đại lý đứng tên trên tờ khai hải quan

TT

Cục Hải quan tỉnh, TP

Số lượng đại lý được công nhận

Số lượng đại lý

Số lượng tờ khai

Kim ngạch (USD)

16

1 Hà Nội

2

215

13.437.200

19

2 Hải Phòng

3

1.107

301.451.000

28

3

TP. Hồ Chí Minh

8

3.150

681.234.000

9

4 Bình Dương

4

1.809

207.931.000

2

5 Khánh Hòa

1

31

25.189.740

5

6 Đồng Nai

2

560

980.000

3

7

Lạng Sơn

0

0

0

1

8 Quảng Ngãi

1

26

852.350

4

9 Đà Nẵng

1

31

1.671.000

2

10 Bà Rịa - Vũng Tàu

1

22

3.781.000

4

11 Quảng Ninh

0

0

0

6.951

23

1.028.596.290

Tổng cộng 93 (Nguồn: Cục Giám sát quản lý về hải quan - Tổng cục Hải quan)

Năm 2011, trên tinh thần tiếp tục thực hiện Quyết định số 30/QĐ-TTg

ngày 10/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đơn giản hoá thủ

tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 và để

phù hợp với xu hướng cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong lĩnh

vực hải quan, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/2011/NĐ-CP ngày

16/2/2011 quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động đại lý hải quan (thay thế

cho Nghị định số 79/2005/NĐ-CP). Sau đó Bộ Tài chính cũng ban hành Thông

tư số 80/2011/TT-BTC ngày 09/6/2011 hướng dẫn một số nội dung về điều kiện

đăng ký và hoạt động của đại lý hải quan (thay thế Thông tư số 73/2005/TT-

BTC). Tính đến thời điểm hiện tại, đây là những cơ sở pháp lý quan trọng và

hoàn thiện nhất để đại lý hải quan tiếp tục phát triển và hội nhập, góp phần đa

dạng hóa các loại hình kinh doanh dịch vụ tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh

vực giao nhận, vận tải và ngoại thương.

Về kết quả thực hiện, trong năm 2011, Tổng cục Hải quan đã tổ chức một

kỳ thi cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan. Thực hiện Nghị định số

71

14/2011/NĐ-CP, các Cục Hải quan tỉnh, TP đã công nhận hoạt động cho thêm

45 đại lý hải quan; Giám đốc Đại lý đã cấp 56 thẻ nhân viên đại lý hải quan cho

những người đạt đủ điều kiện và tiêu chuẩn theo quy định tại Nghị định này.

Tính đến hết năm 2011, tổng số đại lý hải quan được công nhận là 126 và số

lượng nhân viên đại lý hải quan được cấp thẻ là 267 thuộc địa bàn quản lý của

các Cục Hải quan tỉnh, TP: Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,

Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây

Ninh, Quảng Ninh và Lạng Sơn [73].

Năm 2012, sau kỳ thi cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan do Tổng cục

Hải quan cũng tổ chức, đã có thêm 50 đại lý hải quan được công nhận đủ điều

kiện hoạt động và 79 nhân viên được cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan. Địa bàn

hoạt động của đại lý hải quan đã được mở rộng thêm tại các Cục Hải quan tỉnh:

Lào Cai, Hà Tĩnh và Thanh Hóa. Tuy nhiên, trong bối cảnh suy thoái kinh tế

toàn cầu, cùng với đó là gần 40.000 doanh nghiệp Việt Nam bị phá sản, mặc dù

cơ quan hải quan đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm các giải pháp thúc đẩy

đại lý hải quan phát triển, đã có 48 đại lý hải quan bị chấm dứt hoạt động. Trong

đó, Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh đã ra quyết định tạm dừng hoạt động đối với

23 đại lý hải quan do không thực hiện chế độ báo cáo định kỳ hoặc không liên

lạc được tại địa chỉ đã đăng ký. Hoạt động đại lý hải quan chưa thực sự có bước

đột phá mới. Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ còn 128 đại lý hải quan hoạt động,

trong đó chỉ có 26 đại lý đứng tên trên tờ khai hải quan (chiếm 20% tổng số đại

lý hải quan), với kim ngạch đạt hơn 750 tỷ USD, số thuế phải nộp đạt 294 tỷ

đồng (xem bảng 3.3).

Bảng 3.3: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2012

Đại lý đứng tên trên tờ khai hải quan

TT

Cục Hải quan tỉnh, TP

Số lượng đại lý được công nhận

Số lượng đại lý

Số lượng tờ khai

Kim ngạch (USD)

1 Hà Nội

32

1

15

596.699

2 Hải Phòng

19

7

7.416

411.513.079

3

TP. Hồ Chí Minh

39

8

2.504

17.845.791

72

4 Bình Dương

12

9.266

317.456.643

8

5

Thanh Hóa

1

1

4

3.002.900

6

Lạng Sơn

2

0

0

0

7 Quảng Ngãi

1

1

2

52.350

8 Đà Nẵng

6

0

0

0

9

Tây Ninh

1

0

0

0

10 Bà Rịa - Vũng Tàu

1

0

0

0

11 Quảng Ninh

4

0

0

0

12 Hà Tĩnh

1

0

0

0

13 Khánh Hòa

3

0

0

0

14 Lào Cai

1

0

0

0

15 Đồng Nai

5

0

0

0

19.207

128

26

750.440.759

Tổng cộng (Nguồn: Cục Giám sát quản lý về hải quan - Tổng cục Hải quan)

Trong giai đoạn này, các đại lý hải quan tham gia hoạt động dịch vụ đại lý

hải quan theo đúng nghĩa (tức phải có hợp đồng đại lý ký kết với chủ hàng và

nhân viên đại lý chịu trách nhiệm khai báo hải quan, ký tên, đóng đấu trên tờ

khai hải quan) hầu như chưa nhiều. Phần lớn các đại lý hải quan chỉ làm dịch vụ

chuẩn bị hồ sơ hải quan cho khách hàng, không ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải

quan. Nhiều đại lý hải quan được công nhận thành lập, nhưng chỉ có một số ít

đứng tên khai trên tờ khai hải quan và số lượng tờ khai do đại lý hải quan thực

hiện cũng chưa đáng kể.

Trên thị trường trong nước và nước ngoài, sự cạnh tranh giữa các doanh

nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài luôn diễn ra mạnh mẽ. Điều đó

làm cho hoạt động của đại lý hải quan cũng gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, sự ra

đời của một số doanh nghiệp còn thiếu tính ổn định, bền vững. Những hạn chế

này cũng chính là khó khăn đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK khi tham

gia vào lĩnh vực hoạt động làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu.

Năm 2013, số lượng đại lý hải quan được công nhận tăng lên đáng kể so

với những năm trước đó (tăng 102% so với năm 2012). Tính đến hết năm 2013,

73

cả nước có 258 doanh nghiệp được công nhận hoạt động đại lý hải quan, trong

đó phần lớn tập trung ở Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương và TP. Hồ Chí Minh

(chiếm 82% số lượng đại lý hải quan cả nước) (xem bảng 3.4).

Bảng 3.4: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2013

TT

Năm 2013

Năm 2012

Cục Hải quan tỉnh, TP

Tăng/giảm so với năm 2012 (%)

46

1

Hà Nội

32

44

26

2

Hải Phòng

19

37

120

3

TP. Hồ Chí Minh

23

422

20

4

Bình Dương

12

67

2

5

Thanh Hóa

1

100

1

6

Lạng Sơn

2

-50

1

7

Quảng Ngãi

1

0

12

8

Đà Nẵng

6

100

2

9

Đắk Lắk

0

2

10

Bà Rịa - Vũng Tàu

1

100

8

11

Quảng Ninh

4

100

1

12

Hà Tĩnh

1

0

2

13

Khánh Hòa

3

-33

1

14

Long An

0

10

15

Đồng Nai

5

100

4

16

Bắc Ninh

102

Tổng cộng

128

258 (Nguồn: Cục Giám sát quản lý về hải quan - Tổng cục Hải quan)

Năm 2014, số lượng đại lý hải quan tăng 75% so với năm 2013, nâng số

lượng đại lý hải quan được công nhận lên 451 đại lý. Địa bàn hoạt động của các

đại lý hải quan vẫn tập trung chủ yếu tại các địa phương Hà Nội, Hải Phòng, TP.

Hồ Chí Minh và Bình Dương. Hiện đã có 21/34 Cục Hải quan tỉnh, TP có đại lý

hải quan đăng ký hoạt động (xem bảng 3.5).

74

Bảng 3.5: Thống kê đại lý hải quan ở Việt Nam đến năm 2014

TT

Năm 2014

Năm 2013

Cục Hải quan tỉnh, TP

Tăng/giảm so với năm 2013 (%)

74

46

61

Hà Nội

1

57

26

119

Hải Phòng

2

185

120

54

TP. Hồ Chí Minh

3

30

20

50

Bình Dương

4

4

2

100

Thanh Hóa

5

12

1

1100

Lạng Sơn

6

2

1

100

Quảng Ngãi

7

19

12

58

Đà Nẵng

8

3

2

50

Đắk Lắk

9

5

2

150

Bà Rịa - Vũng Tàu

10

20

8

150

Quảng Ninh

11

2

1

100

Hà Tĩnh

12

5

2

150

Khánh Hòa

13

2

1

100

Long An

14

40

14

10

Đồng Nai

15

7

4

75

Bắc Ninh

16

2

0

-

Cao Bằng

17

3

0

-

Lào Cai

18

2

0

-

Nghệ An

19

2

0

-

Quảng Trị

20

1

0

-

Tây Ninh

21

Tổng cộng

258

75

451 (Nguồn: Cục Giám sát quản lý về hải quan - Tổng cục Hải quan)

Số lượng tờ khai do đại lý hải quan thực hiện chiếm khoảng 70-80% tổng

số tờ khai xuất nhập khẩu cả nước. Tuy nhiên, số tờ khai do các đại lý hải quan

trực tiếp ký tên, đóng dấu còn chiếm một tỉ lệ rất khiêm tốn, khoảng 10% trên

tổng số tờ khai phát sinh (xem đồ thị 3.1). Có nhiều nguyên nhân khiến các đại

lý hải quan và doanh nghiệp ngại ký kết hợp đồng đại lý và đại lý hải quan

không ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan. Trong đó, một phần do chính sách

thuế và chính sách hàng hóa XNK ở Việt Nam khá phức tạp và thường xuyên

75

thay đổi, trong khi chưa có Hiệp hội đại lý hải quan đứng ra bảo vệ quyền lợi

cho các đại lý hải quan. Hầu hết hoạt động đại lý hải quan chỉ là một phần nằm

trong chuỗi hoạt động logistics, mà chuỗi này thị phần lại nghiêng về phía các

doanh nghiệp nước ngoài là chủ yếu [55].

Đồ thị 3.1: Tổng số tờ khai XNK và số lượng tờ khai do đại lý hải quan khai,

9.000.000

7.750.000

8.000.000

7.000.000

6.000.000

Tổng tờ khai XNK

5.149.000

5.000.000

4.100.000

4.000.000

Tờ khai do ĐLHQ thực hiện

3.000.000

2.000.000

1.000.000

750.000

-

19.200

7.000

Năm 2010 Năm 2012 Năm 2014

ký tên, đóng dấu giai đoạn 2010-2014

(Nguồn: NCS tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan)

Ngày 23/6/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Hải quan số 54/2014/

QH13, bãi bỏ toàn bộ các quy định tại Luật Hải quan bổ sung, sửa đổi năm 2005.

Tại khoản 5 Điều 20 Luật Hải quan năm 2014, Quốc hội giao “Bộ trưởng Bộ Tài

chính quy định chi tiết trình tự, thủ tục công nhận và hoạt động của đại lý làm

thủ tục hải quan; thủ tục cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan, cấp và thu hồi

mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan” [53, Điều 20, Khoản 5]. Vì vậy,

ngày 30/01/2015, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 12/2015/TT-

BTC quy định chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; cấp và thu

hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan; trình tự, thủ tục công nhận và

hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan. Nội dung quy định tại Luật Hải quan

năm 2014 và Thông tư số 12/2015/TT-BTC sẽ thay thế quy định tại Nghị định số

14/2011/NĐ-CP ngày 16/02/2011 của Chính phủ quy định về điều kiện đăng ký

và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan và Thông tư số 80/2011/TT-BTC

76

ngày 09/6/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị

định số 14/2011/NĐ-CP. Do Thông tư số 12/2015/TT-BTC mới bắt đầu có hiệu

lực từ ngày 15/3/2015 nên đến nay vẫn chưa có đánh giá về kết quả thực hiện.

Nhìn chung, đánh giá cho cả giai đoạn 2010-2014, có thể thấy số lượng

đại lý hải quan đăng ký hoạt động tăng lên đáng kể, liên tục năm sau cao hơn

năm trước. Trong đó, tốc độ tăng của năm 2012 không nhiều do bị ảnh hưởng

của suy thoái kinh tế, số lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản khá lớn, trong đó

có không ít doanh nghiệp là đại lý hải quan. Năm 2013, nền kinh tế có những

chuyển biến tích cực, dẫn đến số lượng đại lý hải quan đăng ký hoạt động lại

tăng lên nhanh chóng (xem bảng 3.6). Bình quân cả giai đoạn 2010-2014, số

lượng đại lý hải quan tăng khoảng 48%/năm.

Bảng 3.6: Tốc độ tăng đại lý hải quan giai đoạn 2010-2014

Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014

Số lượng ĐLHQ

93

126

128

258

451

35,5

1,6

101,6

74,8

Tốc độ tăng hàng năm (%)

48,4

Bình quân giai đoạn 2010-2014 (%/năm)

(Nguồn: NCS tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan)

3.2 Thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua

Với vị trí là cầu nối trung gian giữa chủ hàng hóa với cơ quan hải quan,

đại lý hải quan giữ một vai trò tích cực, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho

hoạt động XNK, dịch vụ giao nhận hàng hóa phát triển, đồng thời cũng góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước về hải quan. Việc triển khai phát

triển đại lý hải quan là một trong những giải pháp quan trọng để đẩy nhanh quá

trình hiện đại hóa công tác quản lý của cơ quan hải quan. Trong những năm qua,

Hải quan Việt Nam đã có nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đại lý hải

quan phát triển cũng như quản lý đại lý hải quan theo hướng hiện đại, chuyên

nghiệp và hiệu quả.

Thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua được thể

hiện qua các nội dung cụ thể sau:

77

3.2.1 Thực trạng định hướng sự phát triển của đại lý hải quan

Định hướng phát triển đại lý hải quan chuyên nghiệp, hiệu quả là nội dung

xuyên suốt, được khẳng định trong toàn bộ các chủ trương, chính sách quản lý

của Chính phủ Việt Nam nói chung và cơ quan Hải quan nói riêng. Với nội dung

quản lý này, các cơ quan quản lý nhà nước đã sử dụng chủ yếu công cụ kế hoạch

trong việc định hướng sự phát triển của đại lý hải quan ở Việt Nam, cụ thể từ

Chiến lược phát triển ngành đến các Kế hoạch phát triển, cải cách và hiện đại

hóa hải quan trong từng thời kỳ.

Chủ trương này được thể hiện đầu tiên tại Chiến lược phát triển Hải quan

Việt Nam đến năm 2020, theo đó, một nội dung quan trọng của công tác nghiệp

vụ hải quan là “thúc đẩy phát triển hệ thống đại lý hải quan chuyên nghiệp” [58,

Mục 2, Phần II]. Tiếp sau đó, tại Kế hoạch Phát triển, cải cách và hiện đại hóa

hải quan giai đoạn 2011-2015 đã xác định nội dung Kế hoạch là “phát triển hoạt

động của đại lý hải quan; các quy định ràng buộc trách nhiệm giữa các bên liên

quan; Các chế tài xử lý khi có vi phạm…” [5, Mục 2, Phần II]. Kế hoạch cũng

đánh giá còn một số mục tiêu chưa hoàn thành của Kế hoạch cải cách, hiện đại

hóa hải quan giai đoạn 2008-2010, trong đó có mục tiêu thực hiện khai hải quan

thông qua đại lý và chưa xây dựng được hệ thống đại lý hải quan.

Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan

từng bước đã được khẳng định và ngày càng được thể hiện rõ và cụ thể hơn. Đã

có các văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan,

cụ thể đó là: Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật

Cạnh tranh năm 2004; Luật Phá sản năm 2004; Luật Quản lý thuế, Luật Thuế

xuất khẩu, thuế nhập khẩu và một số văn bản pháp luật chuyên ngành quy định

về hoạt động đại lý hải quan, như: Điều 21 Luật Hải quan năm 2005; Nghị định

số 14/2011/NĐ-CP ngày 16/02/2011 của Chính phủ và Thông tư số 80/2011/TT-

BTC ngày 09/6/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn về điều kiện đăng ký và hoạt

động của đại lý hải quan (nay đã được sửa đổi bằng các quy định tại Khoản 14

Điều 4, Điều 20 Luật Hải quan năm 2014 và Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày

30/01/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ

78

nghiệp vụ khai hải quan; cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải

quan; trình tự, thủ tục công nhận và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan).

Tại Kế hoạch Phát triển Quan hệ đối tác Hải quan – Doanh nghiệp giai

đoạn 2013-2015 đã xác định phát triển đại lý hải quan là một trong những định

hướng phát triển quan hệ đối tác Hải quan – Doanh nghiệp của cơ quan hải quan.

Cụ thể là: “Xây dựng cơ chế đối tác Hải quan với cộng đồng doanh nghiệp và

các bên liên quan; Xây dựng và phê duyệt chương trình tổng thể về phát triển

quan hệ đối tác Hải quan – Doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực của WCO và

điều kiện Việt Nam; Phát triển hệ thống đại lý làm thủ tục hải quan” [75]. Hải

quan Việt Nam cũng đã khẳng định thúc đẩy và xây dựng quan hệ đối tác với đại

lý hải quan là mục tiêu của cơ quan Hải quan và là nhiệm vụ trọng tâm nhằm

khuyến khích doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm và cam kết thực thi pháp luật

hải quan, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tuân thủ. Để thực hiện được mục tiêu

đó, cần nâng cao vai trò, vị thế và năng lực của các đại lý hải quan thông qua

chương trình quan hệ đối tác giữa cơ quan hải quan và đại lý hải quan.

Với vị trí, vai trò đã được khẳng định của đại lý hải quan đối với nền kinh

tế, việc hoạch định chính sách phát triển cho đại lý hải quan là một tất yếu khách

quan, đặc biệt trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan. Đây là nội dung quản lý

quan trọng nhằm tạo điều kiện thuận lợi định hướng sự ra đời, tồn tại và phát

triển đại lý hải quan, giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này yên

tâm thực hiện loại hình dịch vụ mang tính chuyên nghiệp, nhà nghề cao.

3.2.2 Thực trạng tạo lập môi trường cho sự phát triển của đại lý hải

quan

Về cơ bản, đại lý hải quan ở Việt Nam đã có môi trường thuận lợi để phát

triển và hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, phù hợp với tiến trình

cải cách, hiện đại hóa hải quan. Các cơ quan quản lý nhà nước đã tạo lập không

chỉ môi trường kinh tế, môi trường pháp lý mà còn cả môi trường chính trị, xã

hội, kỹ thuật cho sự phát triển của đại lý hải quan.

Sự đầy đủ của môi trường pháp lý thể hiện qua hệ thống các cơ sở pháp lý

quy định về hoạt động của đại lý hải quan. Các văn bản pháp luật này quy định

79

trên nhiều phương diện nhằm quản lý đại lý hải quan một cách chặt chẽ và hiệu

quả nhất, đồng thời cũng tạo một môi trường pháp lý cởi mở nhất cho loại hình

dịch vụ này. Cụ thể là:

Thứ nhất, các văn bản pháp lý đã quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục

đăng ký kinh doanh đại lý hải quan.

Theo quy định tại Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì, đối với ngành

nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định phải có điều kiện

thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành nghề khi có đủ điều kiện theo quy

định. Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực

hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh

doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng

nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu

khác.

Tại Điều 20 Luật Quản lý thuế năm 2007 quy định tổ chức kinh doanh

dịch vụ làm thủ tục về thuế là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ có điều kiện và

đại lý hải quan thực hiện quyền, nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch làm thủ

tục về thuế khi làm thủ tục về thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.

Theo quy định tại Điểm 35, Mục II, Phụ lục III ban hành kèm theo Nghị

định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 quy định chi tiết thi hành Luật Thương

mại về hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có

điều kiện, đại lý hải quan là dịch vụ kinh doanh có điều kiện. Đồng thời, tại

Điểm d, Khoản 1, Điều 7 cũng quy định nhân viên trực tiếp thực hiện kinh doanh

có điều kiện phải đảm bảo các yêu cầu về trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, kinh

nghiệm nghề nghiệp và sức khỏe theo quy định của pháp luật.

Tại Điều 20 Luật Hải quan năm 2014 đã có quy định về điều kiện là đại lý

hải quan. Theo đó, doanh nghiệp muốn nộp hồ sơ đăng ký thành lập đại lý hải

quan phải có đầy đủ các điều kiện sau: Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh dịch vụ

giao nhận hàng hóa hoặc đại lý hải quan; Có nhân viên đại lý hải quan; Có hạ

tầng công nghệ thông tin đáp ứng điều kiện để thực hiện khai hải quan điện tử và

80

các điều kiện khác theo quy định [53, Điều 20, Khoản 1].

Song song với các điều kiện của đại lý hải quan là những điều kiện mang

tính chuyên môn của các nhân viên đại lý hải quan, người trực tiếp làm thủ tục

hải quan cho từng lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Đó là điều kiện về bằng cấp,

trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và năng lực pháp luật của nhân viên đại lý hải

quan. Cụ thể nhân viên đại lý hải quan phải là công dân Việt Nam, có trình độ

cao đẳng kinh tế, luật, kỹ thuật trở lên, có chứng chỉ nghiệp vụ hải quan và được

cơ quan hải quan cấp mã số nhân viên đại lý hải quan [53, Điều 20, Khoản 2].

Những đối tượng không được cấp mã số nhân viên đại lý hải quan bao

gồm: (1) Người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; (2) Người đang bị

truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù; (3) Người

có hành vi vi phạm pháp luật về thuế, hải quan, kiểm toán bị xử phạt vi phạm

hành chính thuộc thẩm quyền của Cục trưởng Cục Thuế hoặc Cục trưởng Cục

Hải quan tỉnh, thành phố trong thời hạn một (01) năm kể từ ngày có quyết định

xử phạt; (4) Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công

chức; (5) Cán bộ, công chức thôi giữ chức vụ nhưng đang trong thời gian quy

định không được kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 102/2007/NĐ-CP

ngày 14/6/2007 của Chính phủ về việc quy định thời hạn không được kinh doanh

trong lĩnh vực trách nhiệm quản lý đối với cán bộ, công chức, viên chức sau khi

thôi giữ chức vụ. [53, Điều 8]. Quy định này nhằm thắt chặt phạm vi đối tượng

tham gia làm nhân viên đại lý hải quan. Nhìn chung, các quy định này cũng phù

hợp với các quy định của các văn bản pháp luật khác về điều kiện cơ bản để

tham gia hoạt động trong một ngành nghề mang tính đặc thù như đại lý hải quan.

Trước thời điểm ngày 15/3/2015, khi Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày

30/01/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính có hiệu lực, thẩm quyền công nhận hoạt

động đại lý hải quan thuộc về Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố. Hiện

nay, Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan là người có thẩm quyền quyết định

việc công nhận hoạt động đại lý hải quan. Doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện là

đại lý hải quan lập hồ sơ đề nghị công nhận đủ điều kiện làm đại lý làm thủ tục

hải quan gửi Tổng cục Hải quan, bao gồm: (1) Thông báo đủ điều kiện hoạt động

81

đại lý làm thủ tục hải quan: 01 bản chính; (2) Giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu

tư: 01 bản chụp; (3) Hồ sơ đề nghị cấp mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải

quan [10, Khoản 1, Điều 6]. Hồ sơ đề nghị cấp mã số nhân viên đại lý làm thủ

tục hải quan gồm có: Đơn đề nghị cấp mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải

quan; bản chụp bằng tốt nghiệp đại học, cao đẳng thuộc các chuyên ngành luật,

kinh tế, kỹ thuật; bản chụp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; bản chụp Chứng

minh thư nhân dân và một (01) ảnh 2x3. Mã số nhân viên đại lý hải quan do

Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan cấp trùng với số chứng minh thư nhân dân

của người được cấp và có giá trị trong thời hạn 03 năm kể từ ngày cấp [10,

Khoản 1, 2, Điều 9].

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của

doanh nghiệp, Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan ra quyết định công nhận đại

lý hải quan, cấp mã số nhân viên đại lý hải quan. Các thông tin này được cập

nhật vào Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan. Trường hợp không đủ

điều kiện thì có văn bản trả lời doanh nghiệp. Trường hợp đại lý hải quan có Chi

nhánh tại các tỉnh, thành phố khác nếu Chi nhánh đáp ứng đủ điều kiện quy định

tại khoản 1 Điều 20 Luật Hải quan thì cũng được công nhận là đại lý làm thủ tục

hải quan [10, Khoản 2, 3, Điều 6].

Khi thay đổi tên, địa chỉ, đại lý hải quan có công văn đề nghị kèm Giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư gửi Tổng cục Hải

quan để sửa đổi trên Quyết định công nhận đại lý hải quan và cập nhật vào Cổng

thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan [10, Khoản 4, Điều 6].

Thủ tục hoàn thành là lúc đại lý hải quan ra đời, đi vào hoạt động và chịu

sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật Hải quan và các văn bản liên quan, trở

thành một thành viên trong hệ thống đại lý hải quan hoạt động rộng khắp trong

cả nước.

Thứ hai, các văn bản pháp lý quy định về hoạt động, quyền và nghĩa vụ

pháp lý của đại lý hải quan.

82

Với tư cách là người khai hải quan, đại lý hải quan có đầy đủ quyền và

nghĩa vụ của người khai hải quan được quy định tại Điều 18 Luật Hải quan năm

2014 về quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan. Bên cạnh đó, đại lý hải

quan còn có thêm các quyền cụ thể sau đây [10, Điều 13]:

- Quản lý, sử dụng mã số nhân viên đại lý hải quan để tiến hành các công

việc khai báo và làm thủ tục tại cơ quan hải quan trong phạm vi được chủ hàng

ủy quyền; Chịu trách nhiệm về việc giới thiệu, đề nghị Tổng cục Hải quan cấp

mã số nhân viên đại lý hải quan cho người đáp ứng đủ điều kiện theo quy định.

- Yêu cầu chủ hàng cung cấp đầy đủ, chính xác các chứng từ, thông tin

cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu và thực

hiện các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng đại lý.

- Yêu cầu cơ quan hải quan hướng dẫn về thủ tục hải quan, thủ tục thuế

đối với hàng hóa XNK, kỹ thuật trong việc kết nối mạng với cơ quan hải quan,

được cung cấp thông tin về các quy định mới của pháp luật hải quan và tham dự

các lớp tập huấn, bồi dưỡng pháp luật về hải quan.

- Chịu trách nhiệm về các nội dung khai trên tờ khai hải quan trên cơ sở

bộ chứng từ, tài liệu liên quan đến hàng hóa XNK do chủ hàng cung cấp và thực

hiện đúng phạm vi được ủy quyền theo hợp đồng đại lý.

- Thông báo cho Tổng cục Hải quan để thực hiện việc thu hồi mã số nhân

viên đại lý hải quan đối với các trường hợp do đại lý hải quan phát hiện có dấu

hiệu vi phạm pháp luật hải quan hoặc trường hợp đại lý hải quan bị giải thể, phá

sản hoặc chấm dứt hoạt động.

- Cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu liên quan đến chủ hàng

hoặc các lô hàng do đại lý hải quan đứng tên khai hải quan theo yêu cầu của cơ

quan hải quan.

- Chịu trách nhiệm thực hiện các quyết định kiểm tra, thanh tra thuế của

cơ quan hải quan.

- Trường hợp đại lý hải quan thay mặt chủ hàng hóa là thương nhân nước

ngoài không hiện diện tại Việt Nam thực hiện quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập

khẩu thì đại lý hải quan phải chịu trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ

83

của chủ hàng hóa theo quy định của pháp luật về hải quan, pháp luật về thuế và

các pháp luật khác có liên quan.

Ngoài các nghĩa vụ của người khai hải quan, đại lý hải quan có trách

nhiệm [10, Điều 13]:

- Định kỳ vào ngày 05 của tháng đầu quý sau, báo cáo tình hình hoạt động

đại lý hải quan này gửi Cục Hải quan tỉnh, thành phố hoặc các thông tin cần thiết

khác phục vụ cho hoạt động quản lý hải quan khi được cơ quan hải quan yêu cầu

bằng văn bản.

- Báo cáo, đề nghị Tổng cục Hải quan thực hiện việc thu hồi mã số nhân

viên đại lý hải quan đối với các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật.

Cơ quan hải quan đóng vai trò là cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt

động đại lý hải quan, do đó cơ quan hải quan có quyền kiểm tra, giám sát hoạt

động và quản lý sự tuân thủ của đại lý hải quan. Do đó, ngoài việc sử dụng

phương pháp quản lý kinh tế là chủ yếu, cơ quan hải quan còn sử dụng kết hợp

phương pháp hành chính để quản lý đại lý hải quan và hoạt động của đại lý hải

quan. Cơ quan hải quan có trách nhiệm hỗ trợ nhân viên đại lý hải quan trong

quá trình làm thủ tục hải quan; áp dụng cơ chế ưu tiên về thủ tục hải quan đối

với các đại lý hải quan có quy mô tổ chức ổn định, có hệ thống cung cấp dịch vụ

toàn cầu, có cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc, trang thiết bị hạ tầng phục vụ cho

hoạt động giao nhận, kho vận, logistics. Bên cạnh đó, cơ quan Hải quan có trách

nhiệm xây dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ; tổ

chức phổ biến, giới thiệu chính sách pháp luật có liên quan đến thủ tục hải quan

mới ban hành cho nhân viên đại lý hải quan; xây dựng chương trình, tài liệu, đề

cương ôn tập của các môn thi, đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của

Tổng cục Hải quan, tổ chức thi và cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan cho

người dự thi. [10].

Thứ ba, các văn bản pháp lý còn quy định liên quan đến việc chấm dứt sự

tồn tại của các đại lý hải quan và thu hồi mã số nhân viên đại lý hải quan.

Việc chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp là đại lý hải quan cùng như

các hoạt động dịch vụ khác, có thể giải thể hoặc phá sản được áp dụng theo quy

84

định của pháp luật giải thể và phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, do đặc thù

ngành nghề, việc chấm dứt sự tồn tại của các đại lý hải quan được quy định bởi

các văn bản pháp luật chuyên ngành. Trong đó, có quy định cụ thể các trường

hợp tạm dừng hoạt động, chấm dứt hoạt động của các đại lý hải quan, đồng thời

cũng quy định về các trường hợp cơ quan Hải quan quyết định thu hồi mã số

nhân viên đại lý hải quan. Khi phát hiện đại lý hải quan hoạt động không đảm

bảo các điều kiện quy định của pháp luật hải quan hoặc không hoạt động tại địa

chỉ đã đăng ký với cơ quan hải quan, Cục Hải quan tỉnh, thành phố báo cáo Tổng

cục Hải quan để ra quyết định tạm dừng hoạt động. Sau khi bị tạm dừng làm thủ

tục hải quan, nếu đại lý hải quan có công văn đề nghị, Cục Hải quan tỉnh, thành

phố kiểm tra, xác minh đáp ứng đủ điều kiện, báo cáo Tổng cục Hải quan có văn

bản xác nhận để đại lý hải quan được tiếp tục hoạt động. Trong thời hạn 06

tháng, nếu đại lý hải quan không khắc phục và không có văn bản đề nghị, Cục

Hải quan tỉnh, thành phố báo cáo Tổng cục Hải quan ra quyết định chấm dứt

hoạt động đối với đại lý hải quan đó.

Đại lý hải quan bị chấm dứt hoạt động trong các trường hợp sau đây: Có

hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế hoặc thông đồng với chủ hàng

để buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; Không thực hiện nghiêm túc và đầy

đủ chế độ báo cáo với cơ quan hải quan trong 03 lần liên tiếp theo quy định; Sử

dụng bộ chứng từ không phải do chủ hàng cung cấp để làm thủ tục hải quan xuất

khẩu, nhập khẩu hàng hóa; Bị Cục Hải quan tỉnh, thành phố báo cáo đề nghị

Tổng cục Hải quan ra quyết định chấm dứt hoạt động; Đại lý hải quan có văn

bản đề nghị chấm dứt hoạt động.

Khi đại lý hải quan bị chấm dứt hoạt động, mã số nhân viên đại lý của đại

lý hải quan đó sẽ bị thu hồi và hết giá trị sử dụng. Mã số nhân viên đại lý hải

quan đã cấp có thể bị Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan ra quyết định thu hồi

trong các trường hợp sau: Có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật đến

mức truy cứu trách nhiệm hình sự; Có hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia

các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế hoặc hối lộ cán bộ, công

chức hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan; Cho người khác sử dụng mã

85

số của mình hoặc sử dụng mã số của người khác hoặc sử dụng mã số không phải

do Tổng cục Hải quan cấp để làm thủ tục hải quan; Nhân viên đại lý hải quan

chuyển làm việc khác hoặc chuyển sang làm việc cho đại lý hải quan khác; Đại

lý hải quan bị giải thể, phá sản hoặc chấm dứt hoạt động; hoặc nhân viên đại lý

hải quan sử dụng mã số đã hết thời hạn hiệu lực để làm thủ tục hải quan.

Những văn bản pháp luật trên là những cơ sở pháp lý giúp cho đại lý hải

quan có một môi trường hoạt động thuận lợi. Sau khi các văn bản pháp luật điều

chỉnh hoạt động của đại lý hải quan ban hành, cơ quan hải quan tiến hành phổ

biến và hướng dẫn triển khai thực hiện. Hầu hết các Cục Hải quan tỉnh, thành

phố đều có bộ phận chuyên trách theo dõi, hướng dẫn và tư vấn cho đại lý hải

quan khi có yêu cầu. Định kỳ, Cục Hải quan tỉnh, thành phố tổ chức buổi tọa

đàm với các đại lý hải quan trên địa bàn để trao đổi về nghiệp vụ hải quan, giải

đáp các vướng mắc về thủ tục hải quan, cập nhật các quy định mới và cung cấp

các văn bản pháp luật mới ban hành về thủ tục hải quan, chính sách thuế, giá,

quản lý mặt hàng và các thông tin khác liên quan đến khai báo và làm thủ tục hải

quan cho hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Môi trường kinh tế - xã hội cho phát triển đại lý hải quan cũng được tạo

lập đầy đủ theo hướng tạo ra nhiều chính sách ưu đãi đối với các đại lý hải quan

để đại lý hải quan phát triển theo đúng mục tiêu, định hướng và chiến lược hiện

đại hóa hải quan cũng như định hướng, mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thời gian qua, bên cạnh sử dụng công cụ quản lý pháp luật, ngành Hải

quan đã sử dụng kết hợp công cụ chính sách kinh tế thông qua việc áp dụng

nhiều biện pháp ưu đãi cho các đại lý khi làm thủ tục hải quan, có Chi cục Hải

quan đã dành một cửa riêng tiếp nhận các tờ khai do qua đại lý hải quan làm thủ

tục. Cơ quan hải quan tích cực hỗ trợ các đại lý trong quá trình làm thủ tục hải

quan; áp dụng cơ chế ưu tiên về thủ tục hải quan đối với các đại lý hải quan có

quy mô tổ chức ổn định, có hệ thống cung cấp dịch vụ toàn cầu, có cơ sở vật

chất kỹ thuật, máy móc, trang thiết bị hạ tầng phục vụ cho hoạt động giao nhận,

kho vận, logistics. Tuy nhiên, hiện vẫn không có quy định ưu đãi, phân biệt giữa

86

thủ tục hải quan cho hàng hóa XNK do đại lý hải quan thực hiện hay do chủ

hàng thực hiện.

Như vậy, bằng việc áp dụng tổng hợp ba phương pháp quản lý hành

chính, kinh tế và giáo dục, trong đó phương pháp quản lý kinh tế là chủ yếu và

sử dụng linh hoạt, hiệu quả công cụ pháp luật và công cụ chính sách kinh tế, cơ

quan hải quan đã tạo lập được môi trường cho các đại lý hải quan phát triển. Sự

phát triển đại lý hải quan là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh cải cách, hiện đại hóa

hải quan. Điều này càng cần thiết khi các doanh nghiệp XNK ở Việt Nam, hầu

hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa nắm chắc về chính sách pháp luật liên

quan đến công tác hải quan, một đội ngũ làm dịch vụ chuyên nghiệp sẽ giúp các

doanh nghiệp XNK thuận lợi hơn, giảm chi phí và thời gian chờ đợi so với việc

phải trực tiếp làm thủ tục hải quan.

3.2.3 Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý đối với đại lý hải quan

Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý đối với đại lý hải quan ở Việt Nam

thời gian qua thể hiện thông qua việc phân cấp quản lý đại lý hải quan đối với

các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: cơ quan trực tiếp quản lý đại lý

hải quan, cơ quan cấp phép hoạt động kinh doanh dịch vụ đại lý hải quan, cơ

quan kiểm tra, giám sát hoạt động, xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp vi

phạm… Theo từng giai đoạn phát triển, đại lý hải quan chịu sự quản lý của nhiều

cơ quan quản lý nhà nước khác nhau, tùy theo chức năng, nhiệm vụ quản lý của

các cơ quan quản lý đó, cụ thể như sau:

- Bộ phận trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với đại lý

hải quan tại Tổng cục Hải quan là Cục Giám sát quản lý về hải quan; ở cấp Cục

Hải quan địa phương là Phòng Giám sát hoặc Phòng Nghiệp vụ.

- Thẩm quyền cấp phép đăng ký hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp

đại lý hải quan là Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đó

đăng ký hoạt động kinh doanh.

- Thẩm quyền cấp công nhận doanh nghiệp đủ điều kiện hoạt động đại lý

hải quantrước thời điểm ngày 15/3/2015, khi Thông tư số 12/2015/TT-BTC có

hiệu lực, do Cục trưởng Cục Hải quan địa phương cấp phép và có thông báo cho

87

Tổng cục Hải quan nhằm xác nhận trên toàn hệ thống. Hiện nay thẩm quyền này

thuộc về Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan. Danh sách doanh nghiệp là đại lý

hải quan được cập nhật vào Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan.

- Thẩm quyền cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý hải quan thuộc về

Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan. Trước thời điểm ngày 15/3/2015, nhân viên

đại lý hải quan được chính đại lý hải quan quản lý công nhận đủ điều kiện hành

nghề và cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan.

- Cơ quan kiểm tra, giám sát hoạt động, xử lý vi phạm đối với các đại lý

hải quan: Tổng cục Hải quan và Cục Hải quan tỉnh, thành phố nơi đại lý hải quan

đăng ký hoạt động. Theo đó, Cục Hải quan tỉnh, thành phố có quyền và trách

nhiệm kiểm tra tình hình hoạt động của đại lý hải quan thuộc địa bàn quản lý và

thực hiện báo cáo Tổng cục Hải quan theo quy định. Cục Hải quan tỉnh, thành

phố đóng vai trò là đơn vị giám sát trực tiếp hoạt động của đại lý hải quan. Trong

quá trình kiểm tra, giám sát hoạt động, nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật

hải quan của đại lý hải quan và nhân viên đại lý hải quan, Cục Hải quan tỉnh,

thành phố có thể tiến hành xử lý theo thẩm quyền quy định tại pháp luật Xử lý vi

phạm hành chính, hoặc đề xuất Tổng cục Hải quan xử lý theo quy định.

Hiện nay cơ quan hải quan thực hiện quản lý đại lý hải quan thông qua

báo cáo về tình hình hoạt động do đại lý hải quan gửi về Cục Hải quan tỉnh,

thành phố (định kỳ 3 tháng/lần, vào ngày 05 của tháng đầu quý sau hoặc cung

cấp các thông tin cần thiết khác phục vụ cho hoạt động quản lý hải quan khi có

yêu cầu bằng văn bản của cơ quan hải quan). Thông qua báo cáo tình hình hoạt

động của đại lý hải quan, cơ quan hải quan có thể nắm được thông tin cơ bản của

đại lý hải quan về: loại hình kinh doanh XNK; số lượng doanh nghiệp ký hợp

đồng; số lượng tờ khai; kim ngạch; số tiền thuế phải nộp. Ngoài ra là thông tin

về các công việc đại lý hải quan được ủy quyền; tình hình vi phạm pháp luật

thuế, hải quan (số vụ, hành vi) (kể cả hành vi vi phạm pháp luật do chủ hàng

thực hiện). Đại lý hải quan cũng có thể nêu ra các vướng mắc và kiến nghị gửi

cơ quan hải quan về chính sách XNK, chính sách thuế, về thủ tục hải quan, hoạt

động đại lý hải quan cũng như kiến nghị về phối hợp, hợp tác giữa Hải quan –

88

Đại lý hải quan – Chủ hàng,… Cục Hải quan tỉnh, thành phố có trách nhiệm theo

dõi, kiểm tra, tổng hợp báo cáo Tổng cục Hải quan về tình hình làm thủ tục hải

quan của các đại lý hải quan và đề xuất, kiến nghị những vấn đề cần thiết để phát

triển hoạt động đại lý hải quan.

Tổng cục Hải quan thực hiện thông báo (trên trang thông tin điện tử của

Tổng cục Hải quan và bằng văn bản) danh sách doanh nghiệp được công nhận là

đại lý hải quan, nhân viên đại lý hải quan được cấp mã số; danh sách đại lý hải

quan bị đình chỉ hoạt động, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động; nhân viên đại

lý hải quan bị đình chỉ, bị thu hồi mã số nhân viên đại lý hải quan. Nội dung

đăng tải gồm: Tên đại lý hải quan, địa chỉ trụ sở chính, mã số thuế, năm thành

lập, số điện thoại, người đại diện theo pháp luật, danh sách nhân viên đại lý hải

quan, mã số nhân viên và các thông tin cần thiết khác có liên quan.

Về việc gia hạn giấy phép hoạt động, hiện chưa có quy định gia hạn giấy

phép hoạt động đối với đại lý hải quan, chỉ có quy định nhân viên đại lý hải

quan, sau khi được cấp mã số nhân viên đại lý hải quan, phải làm đơn gia hạn

trong vòng 3 năm kể từ ngày gia hạn. Trong thời gian mã số nhân viên đại lý hải

quan có hiệu lực, nhân viên đại lý hải quan đó phải tham gia các khóa đào tạo,

cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật hải quan do cơ quan hải quan (Tổng cục

Hải quan và hải quan các cấp) và đơn vị được cơ quan hải quan cử cán bộ tham

gia giới thiệu.

Quan hệ đối tác giữa cơ quan hải quan và đại lý hải quan luôn được chú

trọng nhằm tạo thuận lợi cho thương mại, khuyến khích doanh nghiệp chấp hành

tốt pháp luật hải quan, thúc đẩy hoạt động đại lý hải quan phát triển. Cụ thể, cơ

quan hải quan đã xây dựng cơ chế hỗ trợ và phối kết hợp đối với các đại lý hải

quan về thông tin, văn bản pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, kỹ

thuật kết nối với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc khai hải quan và thực

thi chế độ báo cáo tình hình hoạt động… Đại lý hải quan được cử nhân viên đại

lý hải quan của mình tham gia các khóa đào tạo, tập huấn về thủ tục hải quan,

nghiệp vụ khai báo hải quan do Cục Hải quan tỉnh, thành phố nơi đại lý đăng ký

hoạt động tổ chức, định kỳ hoặc theo thời điểm thay đổi các văn bản pháp luật.

89

Nhân viên đại lý hải quan được tham gia các khóa đào tạo, nghiên cứu về các

chuẩn quốc tế liên quan đến thủ tục hải quan điện tử, các khóa đào tạo cung cấp

chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử và các điều kiện đảm bảo an ninh, an toàn khi kết

nối vào hệ thống của cơ quan hải quan. Nhân viên đại lý hải quan còn được mời

tham dự các khóa đào tạo ngắn hạn hoặc chuyên sâu, các hội thảo về nghiệp vụ

hải quan do Tổng cục Hải quan tổ chức hoặc phối hợp với Tổ chức Hải quan thế

giới, với Hải quan các nước tổ chức tại Việt Nam...

Bên cạnh đó, cơ quan hải quan cũng đã tổ chức bồi dưỡng, nâng cao phẩm

chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức hải quan. Đây là

một trong những hoạt động tích cực của cơ quan hải quan để phát triển đại lý hải

quan.

3.2.4 Thực trạng kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý hải quan

Thời gian qua, Hải quan Việt Nam thường xuyên sử dụng các công cụ

quản lý thực hiện các biện pháp nghiệp vụ nhằm kiểm tra, giám sát hoạt động

của đại lý hải quan, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các đại lý hải quan. Cụ

thể như sau:

Cơ quan hải quan kiểm tra, giám sát tư cách pháp lý của đại lý hải quan

thông qua quản lý việc đăng ký kinh doanh dịch vụ đại lý hải quan. Trên cơ sở

hồ sơ đề nghị của doanh nghiệp, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ra quyết

định công nhận đại lý hải quan. Tuy nhiên, việc đăng ký kinh doanh dịch vụ đại

lý hải quan ở đây được hiểu là nhằm tạo ra sự phối hợp về mặt nghiệp vụ với cơ

quan hải quan chứ không phải là đăng ký kinh doanh một lần nữa.

Cơ quan hải quan kiểm tra, giám sát về chế độ lưu giữ hồ sơ, chứng từ

liên quan đến các lô hàng xuất nhập khẩu của các đại lý hải quan thông qua việc

quy định đại lý hải quan có trách nhiệm lưu giữ các hồ sơ, chứng từ liên quan

trong một thời hạn nhất định, và phải xuất trình đầy đủ khi cơ quan hải quan có

yêu cầu.

Cơ quan hải quan kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật hải quan của

đại lý hải quan và nhân viên đại lý hải quan. Theo quy định, định kỳ vào ngày 05

của tháng đầu quý sau, đại lý hải quan phải có báo cáo gửi Cục Hải quan tỉnh,

90

TP nơi đăng ký hoạt động hoặc báo cáo các thông tin cần thiết khác phục vụ cho

hoạt động quản lý hải quan khi được cơ quan hải quan yêu cầu bằng văn bản.

Nội dung báo cáo có các thông tin về địa chỉ của đại lý, số lượng nhân viên đại

lý, số lượng doanh nghiệp ký hợp đồng đại lý, số lượng tờ khai đã làm thủ tục,

kim ngạch XNK, số tiền thuế đã nộp… Qua khảo sát cho thấy, hơn 50% đại lý

hải quan không có sự trao đổi thường xuyên với cơ quan hải quan, không thực

hiện gửi báo cáo định kỳ cho cơ quan hải quan (xem đồ thị 3.2). Lý do được đưa

ra là trong thời gian báo cáo, đại lý không có phát sinh hoặc phát sinh không

đáng kể hoạt động làm thủ tục hải quan thay cho chủ hàng thông qua hợp đồng

đại lý. Chỉ một số ít đại lý hải quan nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng

của việc thực hiện báo cáo định kỳ cho cơ quan hải quan. Như vậy, phương pháp

quản lý hành chính chưa thực sự được sử dụng triệt để. Bên cạnh đó, phương

pháp tuyên truyền, giáo dục cho các đại lý hải quan cũng chưa mang lại hiệu quả

thiết thực. Thực trạng này sẽ gây khó khăn cho cơ quan Hải quan trong việc

quản lý đại lý hải quan.

Đồ thị 3.2: Tình hình thực hiện nộp báo cáo hoạt động cho cơ quan Hải

13%

ĐLHQ thực hiện nộp báo cáo hoạt đông theo định kỳ

36%

ĐLHQ không thực hiện nộp báo cáo hoạt đông

51%

ĐLHQ chỉ nộp báo cáo khi trong kỳ có phát sinh hợp đồng đại lý

quan của các đại lý hải quan

(Nguồn: NCS tổng hợp từ 200 phiếu điều tra doanh nghiệp)

Định kỳ Cục Hải quan tỉnh, thành phố tổng hợp, báo cáo về tình hình hoạt

động của các đại lý hải quan trên địa bàn quản lý, kết quả kiểm tra giám sát của

91

cơ quan hải quan gửi Tổng cục Hải quan để tổng hợp theo dõi vào trước ngày 10

của tháng đầu quý sau. Thực tế cho thấy một số Cục Hải quan đã thực hiện

nghiêm chỉnh quy định trên và đã có sự chú trọng vào biện pháp thúc đẩy sự

phát triển của các đại lý hải quan. Hiện vẫn chưa có quy định đại lý hải quan

phải báo cáo về tình hình bồi dưỡng, cập nhật các văn bản pháp luật mới, mặc dù

trong thực tế, các đại lý và nhân viên đại lý thường xuyên phải tự cập nhật nội

dung các văn bản chính sách mới để kịp thời đáp ứng nhu cầu công việc.

Quá trình thực hiện nghiệp vụ kiểm tra, giám sát đại lý hải quan và hoạt

động đại lý hải quan được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc, giúp cơ quan

hải quan kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của đại lý hải quan

và nhân viên đại lý hải quan, qua đó kịp thời chấn chỉnh hoặc có những phương

pháp quản lý phù hợp. Khi phát hiện đại lý hải quan hoạt động không đảm bảo

các điều kiện quy định hoặc không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký với cơ quan

hải quan, Cục Hải quan tỉnh, thành phố báo cáo Tổng cục Hải quan để ra quyết

định tạm dừng hoạt động. Sau khi bị tạm dừng làm thủ tục hải quan, nếu đại lý

hải quan có công văn đề nghị, Cục Hải quan tỉnh, thành phố kiểm tra, xác minh

đáp ứng đủ điều kiện thì báo cáo Tổng cục Hải quan có văn bản xác nhận để đại

lý hải quan được tiếp tục hoạt động. Nếu kiểm tra hoạt động của đại lý hải quan,

phát hiện đại lý hải quanvi phạm pháp luật hải quan, Cục Hải quan tỉnh, thành

phố báo cáo Tổng cục Hải quan ra quyết định chấm dứt hoạt động của đại lý hải

quan. Đại lý hải quan bị chấm dứt hoạt động không được công nhận là đại lý hải

quan trong thời hạn 02 năm kể từ ngày ra quyết định chấm dứt hoạt động.

Trường hợp đại lý hải quan đề nghị chấm dứt hoạt động thì có công văn gửi

Tổng cục Hải quan ra quyết định chấm dứt hoạt động của đại lý hải quan.

Khi đại lý hải quan bị chấm dứt hoạt động, mã số của nhân viên đại lý hải

quan của đại lý hải quan đó sẽ bị thu hồi và hết giá trị sử dụng. Nhân viên đại lý

hải quan bị thu hồi mã số sẽ không được cấp mã số nhân viên đại lý làm thủ tục

hải quan trong thời hạn 03 năm kể từ ngày bị thu hồi. Trong thời gian không

được hành nghề, nếu người bị thu hồi đứng tên thành lập doanh nghiệp thì doanh

nghiệp này sẽ không được công nhận là đại lý hải quan. Hết thời hạn nêu trên,

92

nếu người bị thu hồi muốn được cấp mã số nhân viên đại lý hải quan thì phải

tham gia lại kỳ thi cấp Chứng chỉ nghiệp vụ hải quan và thực hiện lại thủ tục xin

cấp mã số nhân viên đại lý hải quan.

Các hành vi vi phạm pháp luật khác của đại lý hải quan và nhân viên đại

lý hải quan trong lĩnh vực hải quan, tuỳ theo mức độ, sẽ bị xử lý vi phạm hành

chính theo quy định của pháp luật, cụ thể tại Luật Xử lý vi phạm hành chính năm

2012, Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 quy định xử phạt vi phạm

hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan,

Thông tư số 190/2013/TT-BTC ngày 12/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Tài chính

quy định chi tiết thi hành Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết

định hành chính trong lĩnh vực hải quan.

3.2.5 Thực trạng điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan

Trong quá trình thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý hải

quan, cơ quan hải quan có thể phát hiện những sơ hở, bất cập trong chính sách,

pháp luật và cơ chế quản lý đối với các đại lý hải quan, từ đó sử dụng quyền

năng chi phối của mình thông qua các phương pháp quản lý và công cụ quản lý

để điều chỉnh hoạt động của các đại lý hải quan, ràng buộc các đại lý hải quan

phải tuân thủ các quy tắc hoạt động kinh tế đã định sẵn nhằm bảo đảm cho sự

phát triển bình thường của nền kinh tế.

Việc điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan thời gian qua thể hiện thông

qua việc các cơ quan quản lý nhà nước xác định định hướng phát triển và quản lý

đại lý hải quan. Đó là quan điểm thúc đẩy phát triển hệ thống đại lý hải quan

chuyên nghiệp được xác định trong Chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam

đến năm 2020, cụ thể hóa trong nội dung Kế hoạch Phát triển, cải cách và hiện

đại hóa hải quan giai đoạn 2011-2015 và các Kế hoạch triển khai nhiệm vụ hàng

năm của Tổng cục Hải quan.

Sự điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan được thể hiện rõ nhất thông

qua việc sử dụng các công cụ pháp luật của cơ quan hải quan, đó là việc ban

hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh hoạt động

93

của đại lý hải quan, nhằm mục đích tạo thuận lợi cho đại lý hải quan phát triển

theo những định hướng nhất định. Từ sự ghi nhận địa vị pháp lý lần đầu tiên của

đại lý hải quan trong Luật Hải quan năm 2001 đến việc khẳng định đại lý hải

quan là người khai hải quan trong Luật Hải quan năm 2014 là một bước tiến dài

trong việc điều chỉnh định hướng phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam.

Để triển khai thi hành các quy định của Luật Hải quan, Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 79/2005/NĐ-CP ngày 16/06/2005 quy định về điều kiện đăng

kí và hoạt động của đại lý hải quan. Kèm theo đó là Thông tư số 73/2005/TT-

BTC ngày 05/09/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của

Nghị định số 79/2005/NĐ-CP. Nghị định số 79/2005/NĐ-CP và Thông tư số

73/2005/TT-BTC đã tạo cơ sở pháp lý cụ thể, rõ ràng để triển khai đội ngũ đại lý

hải quan chuyên nghiệp.

Qua quá trình triển khai thực hiện cho thấy số lượng đại lý hải quan đăng

ký và tham gia hoạt động không được như mong đợi của nhà quản lý. Nhiều

doanh nghiệp đại lý đã được công nhận đủ điều kiện hoạt động đại lý hải quan

vẫn chủ yếu làm dịch vụ khai thuê, không ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan.

Trình độ nghiệp vụ của nhân viên đại lý hải quan chưa thực sự đồng đều. Sự hỗ

trợ của cơ quan hải quan đối với đại lý hải quan chưa thực sự cụ thể, rõ nét. Do

đó, để điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan và cũng nhằm để định hướng đại

lý hải quan phát triển phù hợp với tiến trình cải cách, hiện đại hóa hải quan,

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2011 quy định

về điều kiện đăng ký và hoạt động đại lý hải quan (thay thế cho Nghị định số

79/2005/NĐ-CP). Sau đó Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 80/2011/TT-

BTC ngày 09/6/2011 hướng dẫn một số nội dung về điều kiện đăng ký và hoạt

động của đại lý hải quan (thay thế Thông tư số 73/2005/TT-BTC). Đây có thể

coi là những cơ sở pháp lý quan trọng và hoàn thiện để đại lý hải quan tiếp tục

phát triển và hội nhập, góp phần đa dạng hóa các loại hình kinh doanh dịch vụ tại

Việt Nam.

Tổng cục Hải quan đã ban hành một số văn bản hướng dẫn, đốc thúc việc

triển khai thực hiện hoạt động của đại lý hải quan. Cụ thể là Quyết định số

94

2333/QĐ-TCHQ ngày 24/10/2011 của Tổng cục Hải quan ban hành Quy chế về

tổ chức thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; Quyết định số 2473/QĐ-

TCHQ ngày 16/11/2011 của Tổng cục Hải quan về việc thành lập Hội đồng thi

cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan. Kết quả cho thấy, số lượng đại lý hải

quan đăng ký và được công nhận hoạt động tăng lên đáng kể, số lượng nhân viên

được cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan gia tăng nhanh chóng.

Để có cơ sở pháp lý cao hơn điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan và

cũng nhằm khuyến khích đại lý hải quan phát triển mạnh mẽ, Luật Hải quan năm

2014 đã có những điều khoản quy định cụ thể về đại lý hải quan, thể hiện qua

các điều sau: Khoản 14 Điều 4 khẳng định người khai hải quan bao gồm đại lý

hải quan; Điều 20 quy định điều kiện là đại lý hải quan và nhân viên đại lý hải

quan; Điều 18 quy định quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan; Khoản 1

Điều 21 quy định trách nhiệm của người khai hải quan khi làm thủ tục hải quan.

Đồng thời Luật cũng giao Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi tiết trình tự, thủ

tục công nhận và hoạt động của đại lý hải quan; thủ tục cấp chứng chỉ nghiệp vụ

khai hải quan, cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý hải quan.

Như vậy có thể thấy, quá trình điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan của cơ

quan hải quan có thể dẫn đến sự thay đổi trong một số hoạt động của đại lý hải

quan. Những thay đổi này đều nhằm khuyến khích đại lý hải quan phát triển,

nâng cao hiệu quả quản lý đại lý hải quan, phù hợp với Kế hoạch Phát triển, cải

cách và hiện đại hóa hải quan Việt Nam cũng như Chiến lược phát triển Hải

quan Việt Nam đến năm 2020.

3.3 Đánh giá thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian

qua

3.3.1 Những kết quả đạt được

Đại lý hải quan là loại hình dịch vụ khá mới mẻ ở Việt Nam hiện nay, và

sự phát triển của dịch vụ này chưa tương xứng với nội dung, yêu cầu của tiến

trình cải cách, hiện đại hóa hải quan. Tuy nhiên, công tác quản lý đại lý hải quan

bước đầu đã có những thành công và kết quả nhất định. Những thành công và kết

quả đó được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:

95

Thứ nhất, xây dựng được khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của đại lý

hải quan

Về cơ bản, đại lý hải quan ở Việt Nam đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để hoạt

động. Các văn bản pháp luật quy định trên nhiều phương diện, vừa thể hiện tính

chuyên nghiệp, nhà nghề của loại hình dịch vụ kinh doanh có điều kiện, vừa

nhằm quản lý đại lý hải quan một cách chặt chẽ và hiệu quả, đồng thời cũng tạo

lập môi trường pháp lý cởi mở nhất cho loại dịch vụ này. Bên cạnh đó, khung

pháp lý quy định hoạt động của đại lý hải quan đã đáp ứng các điều kiện, chuẩn

mực quốc tế và khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cạnh tranh của

hoạt động đại lý hải quan trên thương trường quốc tế. Cụ thể được thể hiện trên

những mặt sau:

- Đã cụ thể hóa điều kiện kinh doanh dịch vụ đại lý hải quan, các điều

kiện hành nghề như: Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng

nhận doanh nghiệp có ngành, nghề kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa hoặc

đại lý hải quan; Có nhân viên đại lý hải quan; Có hạ tầng công nghệ thông tin

đáp ứng điều kiện để thực hiện khai hải quan điện tử và các điều kiện khác theo

quy định [53, Điều 20].

- Quy định cụ thể về thủ tục, hồ sơ đăng ký kinh doanh dịch vụ đại lý hải

quan: Trên cơ sở yêu cầu về điều kiện đăng ký kinh doanh dịch vụ đại lý hải

quan, hồ sơ đăng ký hoạt động dịch vụ được quy định khá cụ thể và chi tiết.

Thông tin khai báo của các đại lý hải quan là cơ sở để thiết lập hệ thống dữ liệu

trong việc quản lý tập trung, thống nhất hệ thống đại lý hải quan. Cùng với đó là

các yêu cầu cụ thể mang tính chuyên môn đối với nhân viên đại lý hải quan.

Nhân viên đại lý hải quan được yêu cầu phải có trình độ trung cấp kinh tế, luật

trở lên (đã được sửa đổi theo Thông tư số 12/2015/TT-BTC là phải có trình độ

cao đẳng kinh tế, luật hoặc kỹ thuật trở lên); Có chứng chỉ nghiệp vụ khai hải

quan; Được đại lý hải quan cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan (theo quy định hiện

nay là phải được cơ quan hải quan cấp mã số nhân viên đại lý hải quan) [15,

Điều 3], [53, Điều 20].

96

- Xác định cụ thể, rõ ràng quyền và nghĩa vụ của chủ hàng và đại lý hải

quan trong việc ký hợp đồng đại lý: Hợp đồng đại lý quy định rõ phạm vi ủy

quyền, trách nhiệm của người ủy quyền, trách nhiệm của đại lý hải quan. Chủ

hàng có trách nhiệm cung cấp cho đại lý hải quan đầy đủ, chính xác các chứng

từ, thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng XNK; bồi

thường thiệt hại và các chi phí phát sinh cho đại lý hải quan do việc vi phạm hoạt

động đại lý của chủ hàng gây ra; chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi

vi phạm pháp luật của mình hoặc của đại lý hải quan nếu hành vi vi phạm pháp

luật của mình hoặc của đại lý đó không thuộc lỗi của đại lý hải quan. Ngược lại,

đại lý hải quan có quyền yêu cầu chủ hàng cung cấp đầy đủ, chính xác các chứng

từ, thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng; thực hiện các

công việc về thủ tục hải quan theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng, gồm: khai, ký

tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan; nộp và xuất trình toàn bộ hồ sơ hải quan có

liên quan đến lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu; xuất trình hàng hóa để cơ quan Hải

quan kiểm tra theo quy định của pháp luật; thực hiện các công việc sau khi được

ủy quyền theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng. Đại lý hải quan cũng phải chịu

trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp thực hiện không đúng những công

việc được ủy quyền, khai không đúng những thông tin và chứng từ liên quan do

chủ hàng cung cấp.

Thứ hai, xác định rõ thẩm quyền của cơ quan hải quan trong tổ chức

quản lý nhà nước đối với đại lý hải quan

Đại lý hải quan là một ngành nghề kinh doanh dịch vụ có điều kiện và

phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là

cơ quan Hải quan. Vì vậy, cần phải có các quy định ràng buộc trách nhiệm pháp

lý của đại lý hải quan, đó là việc đăng ký hoạt động và chịu sự quản lý của cơ

quan hải quan nơi đại lý hải quan đăng ký hoạt động.

Cơ quan hải quan đã có quy chế cụ thể để kiểm tra và cấp chứng chỉ cho

những cá nhân đủ điều kiện thực hiện cung cấp dịch vụ đại lý hải quan. Trước

khi Thông tư số 12/2015/TT-BTC có hiệu lực, những cá nhân muốn trở thành

nhân viên đại lý hải quan phải có chứng chỉ hoàn thành khóa đào tạo nghiệp vụ

97

khai hải quan do các cơ sở đào tạo tổ chức với khung nội dung đã được cơ quan

hải quan quy định. Nội dung của khóa học sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản

và thực tế cho các đối tượng có nhu cầu thi lấy chứng chỉ hành nghề đại lý hải

quan hoặc chứng chỉ nghiệp vụ khai báo hải quan để họ có thể vượt qua được kỳ

sát hạch của Tổng cục Hải quan và đủ điều kiện để trở thành nhân viên đại lý hải

quan.

Công tác đào tạo và thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ đại lý hải quan đã đạt

được những kết quả nhất định. Từ năm 2011 đến nay, Tổng cục Hải quan đã tổ

chức 4 kỳ thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan (01 lần/năm) cho 7.354 lượt

thí sinh, trong đó đã có 4.313 lượt người đủ điều kiện được cấp Chứng chỉ

nghiệp vụ khai hải quan. Đến nay đã có gần 500 đại lý hải quan được cơ quan

hải quan công nhận và trên 2.000 người đạt đủ điều kiện và tiêu chuẩn theo quy

định đã được cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan [20]. Đây là kết quả của sự phối

hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa Tổng cục Hải quan và các cơ sở đào tạo, cũng như

từ phía các doanh nghiệp.

Hiện nay, theo quy định mới tại Thông tư số 12/2015/TT-BTC, cơ quan

hải quan không quy định về cơ sở đào tạo, nội dung đào tạo, người dự thi có thể

tự học tập, nghiên cứu trước khi tham gia kỳ thi cấp Chứng chỉ nghiệp vụ vụ

khai hải quan do Tổng cục Hải quan tổ chức. Đây là một bước tiến mới trong

quản lý đào tạo đại lý hải quan, cơ quan hải quan đã giao quyền chủ động cho

các đại lý hải quan và nhân viên đại lý hải quan trong việc tự học tập, trang bị

kiến thức. Cơ quan hải quan chỉ quản lý kết quả của quá trình tự đào tạo, thể

hiện qua việc tổ chức thi và cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan.

Thứ ba, với tư cách quản lý nhà nước về đại lý hải quan, ngành Hải quan

đã có chỉ đạo đúng hướng, quan tâm và mong muốn phát triển nhanh đại lý hải

quan nhằm hỗ trợ cơ quan hải quan nhiều hơn trong quá trình hiện đại hóa hải

quan.

Thời gian qua, các lãnh đạo trong ngành, đặc biệt là lãnh đạo Tổng cục và

một số Cục Hải quan tỉnh, thành phố đã thể hiện sự quan tâm và mong muốn

phát triển nhanh đại lý hải quan. Đó là những chủ trương tạo thuận lợi hơn cho

98

đại lý hải quan phát triển, như việc xác định thúc đẩy phát triển đại lý hải quan

chuyên nghiệp là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động nghiệp vụ

hải quan trong Chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam đến năm 2020 và trong

các Kế hoạch Phát triển, cải cách và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2008-2010,

2011-2015. Bên cạnh đó, lãnh đạo Hải quan các cấp đã kịp thời ban hành công

văn chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật quy định về đại lý hải

quan và hoạt động của đại lý hải quan. Kết quả này thể hiện qua số lượng đại lý

hải quan được cấp phép hoạt động tăng lên nhanh chóng qua các năm. Từ 93 đại

lý hải quan được cấp phép năm 2010, đến năm 2014 số lượng đại lý hải quan đã

tăng gần gấp 5 lần (xem bảng 3.7).

Bảng 3.7: Số lượng đại lý hải quan ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014

Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014

93

126

128

258

451

Số ĐLHQ được cấp phép hoạt động

11/33

12/33

15/34

16/34

21/34

Số Cục Hải quan có đăng ký hoạt động ĐLHQ

(Nguồn: Cục Giám sát quản lý về hải quan - Tổng cục Hải quan)

Địa bàn đăng ký hoạt động của các đại lý hải quan cũng tăng dần theo thời

gian. Tính đến hết năm 2014, đã có 21/34 Cục Hải quan tỉnh, thành phố có đại lý

hải quan hoạt động. Những địa phương có số lượng đại lý hải quan đăng ký hoạt

động lớn, hoạt động đại lý hải quan phát triển có thể kể tên là Hải Phòng, Hà

Nội, Bình Dương và TP Hồ Chí Minh. Tổng số đại lý hải quan tại các địa

phương này chiếm từ 75-85% số lượng đại lý hải quan cả nước (xem đồ thị 3.3).

99

100

90

80

70

Số ĐLHQ tại các địa phương khác

60

50

40

30

Số ĐLHQ tại Hà Nội + Hải Phòng + TP. Hồ Chí Minh + Bình Dương

20

10

0

Năm 2010

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Đồ thị 3.3: Số lượng đại lý hải quan ở Việt Nam giai đoạn 2010-2014

(Nguồn: Cục Giám sát quản lý về hải quan - Tổng cục Hải quan)

Có được kết quả như trên là do lãnh đạo các Cục Hải quan tỉnh, thành phố

Hải Phòng, Hà Nội, Bình Dương và TP Hồ Chí Minh đã có sự quan tâm sâu sát

trong lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho đại lý hải quan phát triển.

Thứ tư, cơ quan Hải quan đã sử dụng các phương pháp quản lý và công

cụ quản lý phù hợp tác động lên hoạt động của đại lý hải quan nhằm đạt được

mục tiêu quản lý đại lý hải quan chuyên nghiệp và hiệu quả.

Thời gian qua, phương pháp quản lý đại lý hải quan được cơ quan Hải

quan sử dụng là phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế và phương pháp

giáo dục, trong đó chủ yếu là các phương pháp kinh tế và giáo dục. Phương pháp

kinh tế đã có tác động đáng kể tới sự điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan,

thể hiện qua việc dùng lợi ích kinh tế để kích thích các tổ chức, cá nhân tham gia

vào hoạt động đại lý hải quan. Đó là việc cơ quan hải quan đề ra mục tiêu tạo

thuận lợi tối đa cho phát triển đại lý hải quan, đặt ra những điều kiện khuyến

khích về kinh tế để các đại lý hải quan tự tổ chức việc thực hiện nhiệm vụ. Cơ

quan hải quan đã ban hành các văn bản pháp luật quy định về điều kiện thành lập

đại lý hải quan, thủ tục công nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ đại lý hải

quan cũng như quy định về tạm dừng, chấm dứt hoạt động của đại lý hải quan.

Ngoài ra, cơ quan hải quan còn có những quy định bắt buộc đại lý hải quan thực

100

hiện, như định kỳ 3 tháng/lần, đại lý hải quan phải có báo cáo gửi về Cục Hải

quan địa phương quản lý về tình hình làm thủ tục hải quan, tình hình thực hiện

các công việc được ủy quyền và những vướng mắc, kiến nghị trong quá trình

hoạt động. Phương pháp giáo dục thể hiện qua các biện pháp tuyên truyền,

khuyến khích cả các doanh nghiệp là đại lý hải quan lẫn doanh nghiệp kinh

doanh XNK. Bên cạnh đó là việc thông tin, quảng bá về hoạt động của đại lý hải

quan trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt trên cổng thông tin điện

tử của Tổng cục Hải quan và cổng thông tin điện tử của các Cục Hải quan tỉnh,

thành phố. Có thể thấy phương pháp hành chính chưa được sử dụng nhiều trong

quá trình quản lý đại lý hải quan. Cơ quan hải quan đã ban hành các văn bản quy

phạm pháp luật quy định về mặt tổ chức hoạt động của đại lý hải quan cũng như

những quy định về mặt thủ tục hành chính bắt buộc tất cả các đại lý hải quan

phải tuân thủ. Tuy nhiên, phương pháp quản lý này chưa mang lại kết quả như

mong muốn, thể hiện qua tình hình nộp báo cáo hoạt động cho cơ quan hải quan

của các đại lý hải quan và số lượng đại lý hải quan bị Tổng cục Hải quan ra

quyết định tạm dừng hoạt động hoặc chấm dứt hoạt động.

Song song với các phương pháp quản lý đại lý hải quan, cơ quan hải quan

đã phối hợp sử dụng nhịp nhàng các công cụ quản lý nhằm đạt được mục tiêu

quản lý, phù hợp với thực trạng hoạt động và phát triển của đại lý hải quan trong

tiến trình hiện đại hóa hải quan. Công cụ kế hoạch được sử dụng thành công

trong việc xác định mục tiêu quản lý đại lý hải quan, định hướng sự phát triển và

hoạt động của đại lý hải quan. Công cụ pháp luật cũng được sử dụng thường

xuyên, thể hiện qua việc ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm

điều tiết và điều chỉnh hoạt động của đại lý hải quan, tránh tình trạng đại lý hải

quan phát triển tự phát, manh mún và không chuyên nghiệp. Hiện công cụ chính

sách kinh tế chưa được sử dụng nhiều trong quá trình quản lý đại lý hải quan,

mới chỉ dừng lại ở việc ban hành các chính sách khuyến khích, ưu đãi cho đại lý

hải quan mà chưa có sự vận dụng hiệu quả trong thực tế.

3.3.2 Những hạn chế của quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam

101

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý đại lý hải quan ở

Việt Nam còn một số hạn chế cần khắc phục kịp thời để đáp ứng nội dung, yêu

cầu của quá trình cải cách, hiện đại hóa hải quan. Những hạn chế đó có thể được

khái quát trên các phương diện sau:

Thứ nhất, chưa thúc đẩy được sự phát triển của đại lý hải quan theo định

hướng phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh cải cách và hiện đại hóa hải

quan.

Định hướng phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh cải cách và hiện đại

hóa hải quan ở Việt Nam đã được khẳng định xuyên suốt trong các chủ trương,

chính sách quản lý như Chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam đến năm 2020,

Kế hoạch Phát triển, cải cách và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2011-2015, Kế

hoạch Phát triển quan hệ đối tác Hải quan – Doanh nghiệp giai đoạn 2013-

2015… Tuy nhiên, đại lý hải quan ở Việt Nam chưa thực sự phát triển đúng với

tiềm năng và đúng với mong muốn của cơ quan quản lý nhà nước.

Thực tiễn cho thấy, đại lý hải quan ở Việt Nam đã được thừa nhận về mặt

pháp lý, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, hoạt động với

tư cách là người khai hải quan thực hiện một số công việc liên quan đến thủ tục

hải quan. Đại lý hải quan có thể thay mặt cơ quan hải quan thực hiện một số

hành vi quản lý nhà nước về hải quan đối với chủ hàng, giúp cơ quan hải quan

thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh doanh

XNK, tránh gian lận thương mại, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Xu hướng quản

lý đại lý hải quan là vừa khuyến khích phát triển vừa định hướng phát triển theo

hướng chuyên nghiệp và hiệu quả.

Tuy nhiên, hoạt động của các đại lý hải quan ở Việt Nam hiện nay còn

manh mún, tự phát và chưa thực sự là “cánh tay nối dài” hỗ trợ cho công tác

quản lý của cơ quan hải quan. Phần lớn đại lý hải quan chưa nhận thức đầy đủ và

đúng đắn về vai trò, vị trí của đại lý hải quan nên chưa có sự đầu tư thỏa đáng

như trang bị cơ sở vật chất phục vụ hoạt động dịch vụ đại lý hải quan; tuyển

dụng, đào tạo, bồi dưỡng nhân viên đại lý hải quan đủ kiến thức và năng lực, bảo

đảm thực hiện tốt dịch vụ đại lý hải quan; tạo uy tín và quảng bá hoạt động dịch

102

vụ đại lý hải quan của mình đối với khách hàng... Các đại lý hải quan chủ yếu

chỉ hoạt động theo kiểu được chủ hàng ủy quyền, thực hiện khai thuê hải quan để

hưởng phí dịch vụ. Số lượng đại lý hải quan đứng tên trên tờ khai hải quan

không nhiều. Nhiều đại lý hải quan được công nhận thành lập nhưng hầu như

không phát sinh hoạt động đại lý hải quan. Bên cạnh đó, các đại lý hải quan còn

e ngại về trách nhiệm pháp lý và việc thực hiện các nghĩa vụ về thuế, lệ phí với

cơ quan hải quan. Chính vì vậy, Hải quan Việt Nam hiện vẫn gặp nhiều khó

khăn trong việc triển khai áp dụng phương pháp quản lý hải quan hiện đại,

chuyển đối tượng quản lý là hàng hóa XNK sang quản lý doanh nghiệp XNK.

Thứ hai, hoạt động đại lý hải quan chưa đảm bảo độ tin cậy cho các

doanh nghiệp kinh doanh XNK.

Một hạn chế khiến các đại lý hải quan không hoạt động đúng nghĩa của

mô hình này là do hoạt động của đại lý hải quan chưa đảm bảo độ tin cậy cho

các doanh nghiệp kinh doanh XNK khi sử dụng dịch vụ. Sở dĩ vậy là do nguồn

thông tin về các đại lý hải quan cung cấp cho các doanh nghiệp rất nghèo nàn.

Trên cổng thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan chỉ cung cấp danh sách các

đại lý hải quan được cấp phép hoạt động, địa chỉ trụ sở chính, mã số thuế, năm

thành lập, số điện thoại, người đại diện theo pháp luật, danh sách nhân viên đại

lý hải quan, mã số nhân viên đại lý hải quan. Nếu chỉ dựa trên những thông tin

như vậy, doanh nghiệp kinh doanh XNK có nhu cầu sử dụng dịch vụ đại lý hải

quan sẽ khó có thể đưa ra quyết định nên lựa chọn đại lý hải quan nào. Mặt khác,

cũng phải kể đến việc các đại lý hải quan ở Việt Nam chưa đủ độ tin cậy để các

doanh nghiệp XNK, nhất là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài giao phó việc

làm thủ tục hải quan, bởi các doanh nghiệp này còn e ngại khi giao cho đại lý

làm thủ tục hải quan nếu xảy ra vướng mắc thì sẽ rắc rối, phức tạp trong giải

quyết công việc.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam thiếu hiểu biết về đại lý hải

quan và lợi ích của việc sử dụng đại lý hải quan nên đã sử dụng đại lý hải quan

chưa đúng với nhu cầu của mình. Một số doanh nghiệp XNK cho rằng họ gặp

khó khăn trong việc giám sát quá trình làm thủ tục của đại lý hải quan nên lo

103

ngại việc uỷ thác cho đại lý hải quan thực hiện nhiều công việc, nhất là những

công việc liên quan đến vấn đề pháp lý. Trong hợp đồng đại lý hải quan, chủ

hàng có thể ủy quyền cho đại lý hải quan thực hiện các công việc như: Nhận

chứng từ vận tải từ chủ hàng và chuẩn bị chứng từ, hồ sơ thông quan; Hoàn

thành thủ tục nhập khẩu/xuất khẩu như khai báo hải quan, thông quan, nhận hàng

và vận chuyển hàng từ cảng/sân bay giao về hoặc vận chuyển hàng từ kho hàng

của chủ hàng đến cảng/sân bay để xuất hàng; Ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải

quan; Tạm ứng thuế nhập khẩu/xuất khẩu; Tạm ứng các khoản phí khác như:

cảng phí, đại lý phí, phí xử lý tại sân bay,...; Giải quyết những vướng mắc có thể

phát sinh trong quá trình giao nhận hàng, đảm bảo hàng hóa được giao nhận an

toàn. Qua khảo sát, hầu hết các chủ hàng thuê đại lý hải quan thực hiện các công

việc như chuẩn bị hồ sơ hải quan, hoàn thành thủ tục xuất khẩu/nhập khẩu, thủ

tục giao nhận hàng. Việc ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan và gửi tờ khai

hải quan đến cơ quan hải quan do chủ hàng tự thực hiện. Số đại lý hải quan thực

hiện khai, ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan chỉ chiếm khoảng 10%. Việc

nộp thuế xuất khẩu/nhập khẩu đa số do chủ hàng thực hiện hoặc chuyển khoản

cho đại lý hải quan nộp giúp (xem bảng 3.8).

Bảng 3.8: Các công việc đại lý hải quan thực hiện theo hợp đồng đại lý hải

quan ký với chủ hàng

Nội dung công việc

Mức độ tham gia của đại lý hải quan (%)

95%

1. Nhận chứng từ vận tải từ chủ hàng và chuẩn bị chứng từ, hồ sơ thông quan

97%

2. Hoàn thành thủ tục nhập khẩu/xuất khẩu như khai báo hải quan, thông quan, nhận hàng và vận chuyển hàng từ cảng/sân bay giao về hoặc vận chuyển hàng từ kho hàng của chủ hàng đến cảng/sân bay để xuất hàng

3. Ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan

10%

4. Tạm ứng thuế nhập khẩu/xuất khẩu

22%

83%

5. Tạm ứng các khoản phí khác như: cảng phí, đại lý phí, phí xử lý tại sân bay,...

104

85%

6. Giải quyết những vướng mắc có thể phát sinh trong quá trình giao nhận hàng, đảm bảo hàng hóa được giao nhận an toàn

(Nguồn: NCS tổng hợp từ 200 phiếu điều tra doanh nghiệp)

Thực tế có nhiều trường hợp nhân viên đại lý hải quan thông báo về

những khó khăn phát sinh trong việc giao nhận hàng hóa và yêu cầu chủ hàng

phải thanh toán các khoản chi phí ngoài hợp đồng sẽ khiến chủ hàng cảm thấy

không hài lòng. Hoặc trường hợp một thời gian sau khi đại lý hải quan làm thủ

tục thông quan hàng hóa, cơ quan hải quan tiến hành kiểm tra sau thông quan,

phát hiện sai phạm hoặc chênh lệch thuế, tiến hành truy thu, xử phạt thì chủ hàng

không thể giải trình được. Trong một số trường hợp, các doanh nghiệp Việt Nam

còn chưa thật hiểu biết về luật pháp các nước có liên quan khi sử dụng đại lý hải

quan nên hợp đồng ký kết với đại lý hải quan thiếu chặt chẽ, còn nhiều sơ hở, dễ

bị đối tác nước ngoài lợi dụng.

Thứ ba, trình độ quản lý và khả năng thích ứng của đại lý hải quan còn

thấp, chưa thể hiện tính chất chuyên nghiệp và chuyên môn hóa cao.

Đây là chính là hạn chế về mặt chủ quan của các doanh nghiệp khi tham

gia làm đại lý hải quan. Nhiều đại lý hải quan có trình độ quản lý còn hạn chế và

tính thích ứng khi xử lý công việc liên quan đến thủ tục hải quan vẫn còn nhiều

lúng túng, nhất là những khi đại lý hải quan thực hiện công việc về thủ tục hải

quan chưa đúng (như khai báo sai về mã số, thuế suất, trị giá hải quan...) dẫn đến

bị xử phạt vi phạm hành chính về hải quan hoặc bị truy thu thuế hoặc phải thực

hiện chính sách quản lý đối với hàng hóa XNK. Nhiều trường hợp Giám đốc

doanh nghiệp đại lý hải quan tự làm tất cả mọi công việc, từ quản lý doanh

nghiệp, lập kế hoạch kinh doanh đến làm thủ tục hải quan cho hàng hóa XNK.

Hoạt động như vậy có thể để lại hậu quả không nhỏ khi sử dụng các lao động

không được đào tạo một cách chính quy, bài bản, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch

vụ liên quan đến hàng hóa XNK.

Mặc dù các đại lý hải quan luôn có ý thức đào tạo và bồi dưỡng nhân

viên, cử nhân viên tham gia các khóa đào tạo nghiệp vụ khai hải quan do các cơ

sở đào tạo tổ chức, nhưng trình độ nghiệp vụ của nhân viên đại lý hải quan chưa

105

thực sự đồng đều. Theo kết quả khảo sát, 85% các doanh nghiệp đại lý hải quan

cử nhân viên tham gia các khóa đào tạo, 15% doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo về

nghiệp vụ khai hải quan cho nhân viên trong doanh nghiệp (xem đồ thị 3.4).

Nhiều nhân viên đã làm thủ tục hải quan trong một thời gian dài nhưng chưa qua

đào tạo, chủ yếu do tích lũy kinh nghiệm cá nhân. Nhiều nhân viên có mã số

nhân viên đại lý hải quan nhưng thực tế cũng chưa nắm biết một cách rõ ràng các

chính sách, quy trình thủ tục hải quan liên quan.

Đồ thị 3.4: Tỷ lệ tham gia đào tạo nghiệp vụ khai hải quan của các đại lý hải

5%

15%

Do Tổng cục Hải quan tổ chức

Do Học viện Tài chính tổ chức

20%

Do cơ sở đào tạo khác tổ chức

Do Công ty tự tổ chức

60%

quan ở Việt Nam

(Nguồn: NCS tổng hợp từ 200 phiếu điều tra doanh nghiệp)

Thời gian qua, việc giao quyền cấp thẻ nhân viên đại lý hải quan cho

chính Giám đốc đại lý hải quan cũng dẫn đến tình trạng số lượng nhân viên đại

lý hải quan tăng lên nhưng chất lượng chưa thật sự được đảm bảo. Các nhân viên

chỉ cần tham dự và vượt qua kỳ thi cấp Chứng chỉ khai hải quan do Tổng cục

Hải quan tổ chức là có đủ điều kiện để được doanh nghiệp xét cấp thẻ nhân viên

đại lý hải quan. Trong khi đó, theo đánh giá chủ quan của các nhân viên tham gia

kỳ thi này thì nội dung thi đơn giản, chủ yếu là lý thuyết, không đòi hỏi kiến

thức thực tế, không mang tính sát hạch cao. Chính những điều này đã hạn chế

vai trò của đại lý trong việc làm thủ tục hải quan và chịu trách nhiệm trước pháp

luật về các công việc mà đại lý hải quan phải thực hiện.

106

Theo thống kê, trong quá trình làm thủ tục hải quan cho hàng hóa XNK,

những khó khăn đại lý hải quan thường gặp phải là các vấn đề liên quan đến

phân loại hàng hóa, chính sách quản lý mặt hàng, xác định trị giá hải quan, thanh

khoản hợp đồng gia công… (xem bảng 3.9).

Bảng 3.9: Những khó khăn đại lý hải quan thường gặp trong quá trình làm

thủ tục hải quan

Nội dung

Tỷ lệ (%)

1. Phân loại hàng hóa

98%

2. Xuất xứ hàng hóa

68%

3. Trị giá hải quan

76%

4. Chính sách quản lý mặt hàng

95%

5. Thanh khoản hợp đồng gia công

83%

6. Khác

45%

(Nguồn: NCS tổng hợp từ 200 phiếu điều tra doanh nghiệp)

Như vậy, đa số đại lý hải quan được hỏi đều đồng tình với quan điểm hiện

nay khó khăn nhất cho doanh nghiệp khi làm thủ tục hải quan là việc xác định

đúng mã số hàng hóa (98% ý kiến đồng ý), chính sách quản lý đối với hàng hóa

XNK (95% ý kiến đồng ý) và thủ tục thanh khoản hợp đồng gia công (83% ý

kiến đồng ý). Đây cũng được xác định là những lỗi hay vi phạm của nhân viên

đại lý hải quan khi làm thủ tục hải quan cho chủ hàng. Điều này dẫn đến tâm lý

không yên tâm khi sử dụng dịch vụ đại lý hải quan của các chủ hàng, các chủ

hàng không thực sự tin tưởng vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên

đại lý hải quan.

Thứ tư, chưa thiết lập được mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước

và cộng đồng đại lý hải quan.

Như đã đề cập ở trên, thời gian qua, với vai trò là cơ quan quản lý nhà

nước về đại lý hải quan, Hải quan Việt Nam đã có nhiều quan tâm đến phát triển

đại lý hải quan, khẳng định sự cần thiết của hoạt động đại lý hải quan chuyên

nghiệp và chuẩn mực trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan. Tuy nhiên, tại một số

Cục, Chi cục Hải quan vẫn chưa có sự chủ động quan tâm đến sự phát triển của

107

đại lý hải quan. Những ưu đãi dành cho đại lý hải quan chưa được thực hiện, thủ

tục hải quan áp dụng cho người khai hải quan là chủ hàng hay là đại lý hải quan

đều như nhau, thậm chí có công chức hải quan chỉ muốn làm việc trực tiếp với

chủ hàng khi làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK. Một thực tế cho thấy

hiện nay không cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, một

số thương nhân vẫn thực hiện dịch vụ đại lý hải quan, hay nói cách khác, cơ

quan hải quan vẫn chấp nhận sự tồn tại của dịch vụ phát triển tự phát này. Đó là

hiện tượng các doanh nghiệp không có giấy phép kinh doanh dịch vụ khai thuê

hải quan, không được hải quan công nhận đại lý hải quan, nhưng vẫn ký hợp

đồng giao nhận, vận tải và liên hệ thực hiện thủ tục hải quan thông qua giấy giới

thiệu chính là người của chủ hàng. Những tồn tại trên gây ra hiện tượng cạnh

tranh không lành mạnh (chào giá thấp) so với đại lý hải quan được công nhận,

tình trạng mất hồ sơ, dữ liệu khai hải quan, không bàn giao hồ sơ khai hải quan

cho chủ hàng khi có tranh chấp, kết thúc hợp đồng… làm khó khăn cho cả chủ

hàng và cơ quan Hải quan. Trong khi đó hiện vẫn chưa có chế tài xử lý đối với

đối tượng doanh nghiệp này.

Hiện nay, cơ cấu tổ chức đội ngũ công chức phụ trách về đại lý hải quan ở

Tổng cục Hải quan là 2 người (trực thuộc quản lý của Cục Giám sát quản lý về

hải quan), tuy nhiên các công chức này là các chuyên viên của Tổng cục cho nên

họ còn phải phụ trách rất nhiều mảng công việc khác nhau. Do vậy chưa có được

một đội ngũ nhân lực đảm nhận chuyên trách và chuyên sâu về đại lý hải quan,

gây khó khăn cho cơ quan Hải quan trong việc quản lý đại lý hải quan.

Bên cạnh đó, việc cung cấp thông tin thương mại nói chung và thông tin

về các thương nhân đại lý hải quan nói riêng ở Việt Nam hiện nay còn thiếu và

yếu. Thông thường các doanh nghiệp cùng hoạt động trong một lĩnh vực sẽ

thống nhất thành lập Hiệp hội theo ngành nghề của mình để vừa có tiếng nói

chung, tạo sự đồng thuận giữa các doanh nghiệp với nhau, vừa là cơ quan đại

diện để phản ánh những bất cập, vướng mắc trong quá trình doanh nghiệp thực

hiện các quy định của nhà nước và đề xuất những giải pháp để tháo gỡ khó khăn,

vướng mắc. Thực tế ở Việt Nam đã cho thấy sự hoạt động thành công của Hiệp

108

hội Dệt may, Hiệp hội Da giày, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản Việt

Nam… Điều này chưa có được trong hoạt động của đại lý hải quan ở Việt Nam.

Hiện hoạt động đại lý hải quan còn mang tính chất đơn lẻ, dẫn đến những báo

cáo, ý kiến đóng góp từ phía đại lý hải quan đến cơ quan Hải quan thường không

đầy đủ và rõ ràng, gây khó khăn cho cơ quan Hải quan trong việc xây dựng một

kế hoạch phát triển phù hợp cho đại lý hải quan. Vì vậy, giữa các doanh nghiệp

đại lý hải quan cần có một đầu mối kết nối giữa cơ quan Hải quan với doanh

nghiệp đại lý. Có người phát ngôn cho các doanh nghiệp đại lý sẽ rất có lợi cho

cả hai phía: cơ quan hải quan và đại lý hải quan.

3.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế về phát triển đại lý hải quan và

quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua

Đại lý hải quan là một loại hình dịch vụ nhà nghề còn khá mới mẻ ở Việt

Nam, vì vậy cộng đồng doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước

chưa thực sự có nhận thức đầy đủ về loại hình dịch vụ thương mại này cũng như

vị trí, vai trò của đại lý hải quan trong tiến trình hiện đại hóa hải quan. Mặt khác,

điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự đủ độ chín để phát

triển mạnh dịch vụ đại lý hải quan. Những tồn tại, hạn chế trong phát triển đại lý

hải quan và quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua bắt nguồn từ những

nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, các doanh nghiệp thực hiện xuất nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam

hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc thậm chí là siêu nhỏ, vì

vậy họ vẫn chưa có thói quen sử dụng đại lý hải quan và thường tự làm thủ tục

hải quan để tiết kiệm chi phí.

Theo thống kê ở Việt Nam hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn

97% số lượng doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh, đóng góp khoảng 40%

tổng GDP toàn xã hội và tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 20-25%

tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc [1, tr.8, tr.20, tr.22]. Các doanh nghiệp này

do nguồn lực tài chính có hạn nên khi thực hiện kinh doanh XNK thường không

muốn thuê doanh nghiệp khác làm thủ tục hải quan mà muốn tự mình trực tiếp

109

làm thủ tục hải quan để chủ động giải quyết các vướng mắc phát sinh, đồng thời

cũng để giảm bớt chi phí như chi phí thuê mướn.

Phần lớn các đại lý hải quan ở Việt Nam cũng chủ yếu là doanh nghiệp

vừa và nhỏ, chủ yếu thực hiện dịch vụ khai hải quan cho các công ty nước ngoài.

Chẳng hạn công ty CJ GLS chuyên làm thủ tục hải quan cho công ty SamSung,

Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn thực hiện thí điểm thủ tục hải quan một cửa đại

lý hải quan, Công ty TNHH tiếp vận Thăng Long, Công ty TNHH Yusen

Logistics Solution, Gemadept, Vietrans,... Trong thực tế, việc lựa chọn, sử dụng

đại lý hải quan của các doanh nghiệp kinh doanh XNK cũng gặp không ít khó

khăn. Các đại lý hải quan ở Việt Nam chưa đủ độ tin cậy để các doanh nghiệp

XNK, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giao phó việc làm thủ

tục hải quan cho hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp làm

thủ tục hải quan qua đại lý hải quan nhưng không ký hợp đồng đại lý, mà thực

hiện thuê theo từng lô hàng cụ thể. Nguyên nhân, do cả doanh nghiệp XNK và

đại lý hải quan đều lo ngại về tranh chấp pháp lý xảy ra khi ký hợp đồng. Bên

cạnh đó, việc ký hợp đồng, phía đại lý hải quan sẽ phát sinh thu nhập, nên họ lo

ngại phải nộp thuế TNDN. Các đại lý hải quan được công nhận nhưng vẫn hoạt

động ở dạng khai thuê, chuẩn bị bộ hồ sơ hải quan cho chủ hàng chứ không ký

tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan theo quy định. Một số trường hợp chủ hàng

còn e ngại khi thuê đại lý hải quan, bởi nếu xảy ra vướng mắc trong quá trình

làm thủ tục hải quan hoặc đại lý hải quan gặp khó khăn trong xử lý công việc, sẽ

không hỗ trợ được chủ hàng trong việc giải quyết tình huống, và cuối cùng chính

chủ hàng lại phải trực tiếp đứng ra làm việc với cơ quan hải quan. Vì vậy, khả

năng tiếp nhận dịch vụ đại lý hải quan cho các doanh nghiệp nước ngoài của đại

lý hải quan Việt Nam hầu như là rất ít, chỉ một số đại lý hải quan với bề dày kinh

nghiệm hoạt động lâu năm như Công ty cổ phần Dịch vụ Thương mại Đầu tư

Thái Anh (Hải Phòng), Công ty TNHH Tiếp vận Thăng Long, Công ty liên

doanh TNHH Nippon Express Việt Nam, Công ty TNHH Tiếp vận VINAFCO,

Công ty cổ phần Giao nhận kho vận Ngoại thương (Vietrans), Công ty cổ phần

Giao nhận vận tải Ngoại thương, Công ty cổ phần Đại lý hải quan Trường Nam

110

(Bình Dương), Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Tân Đại Thành (Đồng

Nai),…

Bên cạnh đó, thực tế triển khai thực hiện Thông tư số 196/2012/TT-BTC

ngày 15/11/2012 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định thủ tục hải quan điện tử

đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại cho thấy ý đồ của các nhà

hoạch định chính sách là muốn đẩy mạnh phát triển đại lý hải quan khi triển khai

thực hiện thủ tục hải quan điện tử trong phạm vi cả nước. Cụ thể theo quy định

tại Khoản 6 Điều 6 Thông tư số 196/2012/TT-BTC, khi thực hiện thủ tục hải

quan điện tử, người khai hải quan phải đáp ứng các điều kiện sau: (a) Trang bị

đầy đủ về hạ tầng kỹ thuật trong hoạt động giao dịch điện tử đảm bảo cho việc

khai, truyền, nhận, lưu trữ thông tin khi truy cập và trao đổi thông tin với Hệ

thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan; sử dụng phần mềm khai hải quan điện tử đã

được cơ quan Hải quan xác nhận tương thích với Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử

hải quan; (b) Người khai hải quan phải là người đã được đào tạo qua các cơ sở

đào tạo quy định tại Điều 6 Thông tư số 80/2011/TT-BTC ngày 09/6/2011 của

Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định 14/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2011 của Chính

phủ quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý hải quan và có khả

năng sử dụng thành thạo Hệ thống khai hải quan điện tử; (c) Trong trường hợp

không đáp ứng được các điều kiện nêu tại điểm a, điểm b khoản 6 Điều này,

người khai hải quan phải thực hiện thủ tục hải quan điện tử thông qua đại lý hải

quan. [6, Khoản 6, Điều 6].

Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp kinh doanh XNK đều cử nhân

viên của mình tham gia các khóa đào tạo dành cho đại lý hải quan (theo nội dung

quy định tại Thông tư số 80/2011/TT-BTC ngày 09/6/2011 của Bộ trưởng Bộ

Tài chính hướng dẫn một số nội dung về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại

lý hải quan). Mục đích của các doanh nghiệp này là để doanh nghiệp đủ điều

kiện tham gia thủ tục hải quan điện tử mà không cần phải thực hiện thủ tục hải

quan thông qua đại lý hải quan. Các doanh nghiệp Việt Nam cho rằng, không sử

dụng hoàn toàn việc thông quan hàng hóa qua đại lý hải quan vì chi phí cao hơn

so với chi phí doanh nghiệp tự làm. Điều này hoàn toàn trái ngược với thực tế sử

111

dụng đại lý hải quan tại các nước trên thế giới - các doanh nghiệp XNK ký hợp

đồng với đại lý hải quan được hưởng chi phí thấp hơn so với họ tự bỏ nhân lực,

vật lực ra để làm thủ tục hải quan. Ngay ở Nhật Bản, 95% doanh nghiệp làm thủ

tục hải quan đều thông qua đại lý hải quan [62]. Đây chính là một trong những

nguyên nhân làm cho hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam không phát triển

được trong thời gian qua.

Hai là, một số quy định trong các văn bản pháp luật về đại lý hải quan

chưa đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng hoặc chưa phù hợp với thực tiễn.

Thời gian qua, các quy định pháp lý về đại lý hải quan và hoạt động đại lý

hải quan đã được sửa đổi theo các văn bản mới, cụ thể là Luật Hải quan năm

2014, Thông tư số 12/2015/TT-BTC, các quy định sửa đổi đã khắc phục được

những thiếu sót tại các văn bản trước đó. Tuy nhiên, chưa có các quy định cụ thể

để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện dịch vụ khai hải quan

giữa ba bên: Hải quan, Chủ hàng và Đại lý hải quan. Cụ thể, thiếu các chế tài xử

lý khi có những tranh chấp, xung đột xảy ra giữa các bên là chủ hàng, đại lý hải

quan và cơ quan Hải quan, gây khó khăn cho cơ quan hải quan và các đối tượng

kinh doanh trong quản lý đại lý hải quan cũng như triển khai hoạt động đại lý hải

quan và sử dụng các dịch vụ do đại lý hải quan cung cấp.

Theo quy định hiện nay chưa có điều khoản nào quy định trách nhiệm

pháp lý giữa nhân viên đại lý hải quan và Giám đốc doanh nghiệp đại lý hải quan

trong trường hợp xảy ra gian lận thương mại mà Giám đốc đại lý không biết.

Mặc dù tại khoản 5 Điều 8 Nghị định số 79/2005/NĐ-CP khoản 5 Điều 8 Nghị

định số 14/2011/NĐ-CP trước đây và Khoản 4 Điều 13 Thông tư số 12/2015/TT-

BTC hiện nay đều có quy định: Đối với Đại lý hải quan: Chịu trách nhiệm về các

nội dung khai trên tờ khai hải quan trên cơ sở bộ chứng từ, tài liệu liên quan đến

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu do chủ hàng cung cấp, tuy nhiên việc quy định

như vậy là rất chung chung. Nếu không có thêm các điều khoản quy định cụ thể

trách nhiệm của nhân viên đại lý hải quan thì chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng

nhân viên đại lý hải quan tự ý làm trái các quy định của pháp luật, gây gian lận

thương mại mà Giám đốc đại lý hải quan có thể không kiểm soát được.

112

Ngoài ra, trong các văn bản pháp lý còn thiếu các quy định pháp lý về tài

chính đối với các đại lý hải quan như: mức vốn pháp định đối với các doanh

nghiệp kinh doanh dịch vụ đại lý hải quan để đảm bảo thực thi nghĩa vụ về tài

chính khi cần thiết. Đây là quy định nhằm tránh những gian lận có thể xảy ra

trong quá trình hoạt động, đảm bảo cho đại lý hải quan có tài sản để thực hiện

các trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý trong nghề nghiệp của mình, tôn trọng hơn

các cam kết pháp lý với đối tác và tính trung thực trong kinh doanh. Chưa có quy

định về khoản ký quỹ, đặt cọc của doanh nghiệp là đại lý hải quan trong phần

vốn điều lệ gửi tại các tổ chức tài chính hợp pháp trong nước, dùng trong trường

hợp thay mặt chủ hàng nộp thuế và nghĩa vụ tài chính liên quan đến hàng hóa

xuất khẩu, nhập khẩu hay vi phạm không thanh toán các khoản tiền phạt vi phạm

hành chính của cơ quan hải quan. Số tiền này thường là số tiền tối thiểu, ít nhất

bằng số tiền thuế được xác định dựa trên cơ sở số thuế phải nộp đối với hàng hóa

xuất khẩu, nhập khẩu và hợp đồng trách nhiệm giữa chủ hàng và đại lý hải quan.

Bên cạnh đó, chưa có quy định về định mức chi cho một số loại chi phí như các

khoản chi giao dịch trong kinh doanh của đại lý hải quan, cũng như chưa có các

quy định về bằng chứng chi phí để quản lý chặt chẽ chi phí kinh doanh của đại lý

nhằm tránh sự gian lận về thuế.

Thực tế hiện nay cho thấy, các doanh nghiệp tham gia hoạt động dịch vụ

đại lý hải quan (những doanh nghiệp được cơ quan hải quan công nhận đại lý hải

quan) theo đúng nghĩa là đại lý hải quan (tức là phải có hợp đồng đại lý và nhân

viên đại lý chịu trách nhiệm khai, ký tên và đóng đấu trên tờ khai hải quan) hầu

như chưa nhiều. Các đại lý hải quan chủ yếu chỉ thực hiện một số khâu thủ tục

đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến chuẩn bị hồ sơ hải quan

theo hình thức chủ hàng có văn bản ủy quyền hoặc giấy giới thiệu người đến làm

thủ tục hải quan. Nhiều đại lý hải quan được công nhận thành lập, nhưng chỉ có

một số ít đứng tên khai trên tờ khai hải quan và số lượng tờ khai do đại lý hải

quan cũng chưa nhiều, phần lớn các đại lý vẫn thường làm dịch vụ khai thuê cho

khách hàng và hưởng phí dịch vụ, không ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan.

Một số ví dụ thực tiễn cho trường hợp này là Công ty TNHH Tiếp vận

113

Thăng Long thực hiện khai báo và làm thủ tục hải quan cho khoảng 70-80 doanh

nghiệp, nhưng hiện Công ty chỉ đứng tên khai hải quan cho 01 công ty là Công

ty TNHH Canon, tỷ lệ tờ khai chỉ chiếm từ 5-10%. Công ty Yusen Logistics

Solutions Việt Nam thường xuyên làm thủ tục cho khoảng 40 doanh nghiệp, với

lượng tờ khai trung bình 6.500 tờ khai/tháng, nhưng cũng chưa đứng tên làm thủ

tục cho tờ khai nào. Hiện chỉ có Công ty cổ phần Dịch vụ thương mại Thái Anh

tại Hải Phòng chuyên thay mặt cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực gia công,

sản xuất hàng dệt may, da giày xuất khẩu có khối lượng tờ khai do đơn vị này

đứng tên khai hải quan lớn nhất (chiếm khoảng 60% trên tổng số tờ khai).

Một trường hợp điển hình khác là đại lý hải quan Tổng công ty Tân cảng

Sài Gòn. Tháng 4/2013, Chi cục Hải quan cảng Sài Gòn khu vực 1 phối hợp với

Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn triển khai Đề án thủ tục hải quan một cửa thông

qua đại lý. Đề án thủ tục hải quan điện tử một cửa thông qua đại lý hải quan

được hiểu là từ khâu đăng ký thủ tục hải quan điện tử đến khâu thông quan hàng

hóa, người nhập khẩu không phải trực tiếp liên hệ với cơ quan Hải quan tại các

bộ phận khác nhau trong quá trình thông quan hàng hóa hàng nhập khẩu. Đại lý

hải quan – Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn sẽ làm thủ tục trọn gói cho doanh

nghiệp. Mặc dù Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn đã ký hợp đồng đại lý với

doanh nghiệp, thay mặt chủ hàng ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan, nhưng

phần nộp thuế vẫn do chủ hàng thực hiện. Đây chính là một trong những nguyên

nhân khiến doanh nghiệp còn e ngại khi tham gia đề án. Tính đến cuối năm

2013, mới chỉ có 6 doanh nghiệp ký hợp đồng đại lý hải quan với Tổng công ty

Tân Cảng Sài Gòn, với tổng số tờ khai hải quan thực hiện là 123 tờ khai. Trong

khi đó, cũng 6 doanh nghiệp này, họ thực hiện gần 1.000 tờ khai hải quan, nhưng

không qua dịch vụ đại lý hải quan một cửa (gấp 9 lần so với lượng tờ khai thông

qua đại lý hải quan).

Từ thực tế trên có thể thấy vai trò của đại lý hải quan còn khá mờ nhạt

trong hoạt động XNK. Vì vậy, cần phải có những định hướng và giải pháp trong

việc quản lý nhằm phát huy hiệu quả của đại lý hải quan, tạo điều kiện thuận lợi

cho thương mại phát triển.

114

Ba là, công tác tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các

nhân viên đại lý hải quan chưa đáp ứng tốt yêu cầu cải cách và hiện đại hóa hải

quan.

Đại lý hải quan là một loại hình dịch vụ có điều kiện, thể hiện tính chuyên

nghiệp, nhà nghề cao, do đó đòi hỏi nhân viên đại lý phải am hiểu về các chính

sách quy định liên quan đến hoạt động XNK, thủ tục hải quan, chính sách mặt

hàng, có kiến thức về phân loại hàng hóa, xác định xuất xứ hàng hóa, các

phương pháp tính thuế, xác định trị giá tính thuế... Để có được những kiến thức

trên, nhân viên đại lý hải quan phải được đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ một

cách bài bản, có hệ thống.

Về mặt đạo lý, cơ quan hải quan phải thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng

nghiệp vụ cho các nhân viên đại lý hải quan, nhưng hiện nay cơ quan hải quan

vẫn chưa thực hiện được. Cơ quan hải quan đã ủy quyền cho một số cơ sở đào

tạo thực hiện đào tạo, cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan, thể hiện qua quy

định tại Thông tư số 80/2011/TT-BTC ngày 09/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Tài

chính hướng dẫn một số nội dung về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý

hải quan. Các cơ sở đào tạo đó bao gồm: Tổng cục Hải quan (Trường Hải quan

Việt Nam); Học viện Tài chính; Trường Cao đẳng Tài chính - Hải quan; và các

cơ sở đào tạo khác trong hệ thống giáo dục, đào tạo của Việt Nam [4, Điều 6].

Các cơ sở đào tạo được ủy quyền tổ chức đào tạo nghiệp vụ khai hải quan theo

khung chương trình tại Quyết định số 2429/QĐ-TCHQ ngày 9/11/2011 của Tổng

cục Hải quan. Trước khi mở lớp và kết thúc khóa đào tạo nghiệp vụ khai hải

quan, cơ sở đào tạo phải có thông báo với Tổng cục Hải quan (Vụ Tổ chức cán

bộ) để tổng hợp, chủ động tổ chức thi cấp chứng chỉ cho các học viên đã tham

gia học tập.

Bên cạnh các kết quả đạt được về đào tạo nghiệp vụ khai hải quan, công

tác đào tạo cho các nhân viên đại lý hải quan đã thể hiện nhiều bất cập. Một số

cơ sở đào tạo có thể vì mục tiêu lợi nhuận nên chưa quan tâm tới chất lượng đào

tạo, không đảm bảo điều kiện về giảng viên, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy,

rút ngắn thời gian đào tạo, các nội dung đào tạo nặng về lý thuyết, thiếu thực

115

tiễn. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ nghiệp vụ của nhân viên đại

lý hải quan khi tham gia thực hiện thủ tục hải quan, đi ngược lại với mong muốn

phát triển đội ngũ nhân viên đại lý hải quan chuyên nghiệp, nhà nghề và sẵn sàng

hội nhập.

Mặt khác, việc đào tạo nghiệp vụ mới chỉ là đào tạo ban đầu trước khi cấp

chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; chưa có đào tạo cập nhật và nâng cao hàng

năm; hình thức đào tạo còn đơn giản, chưa đa dạng các hình thức đào tạo (tập

trung, từ xa, tại chỗ...; trong và ngoài giờ hành chính) để các nhân viên đại lý hải

quan và lãnh đạo của đại lý hải quan có thể chủ động lựa chọn tham gia học tập

vừa nâng cao trình độ vừa phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhiều đại lý hải quan cũng chưa có kế hoạch tuyển

dụng, bồi dưỡng nhân viên để đội ngũ nhân viên đại lý hải quan của mình có

kiến thức và năng lực đảm đương nhiệm vụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc

tế.

Hiện nay, ngoài các khóa học đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề cho các

nhân viên đại lý hải quan, cơ quan hải quan chưa tổ chức hoặc phối kết hợp với

các cơ sở đào tạo hoặc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để mở các

lớp đào tạo chuyên sâu về hành nghề đại lý hải quan cho các đại lý hải quan

cũng như trong việc phổ biến kiến thức, cập nhật thông tin khi chính sách, chế

độ thuế, hải quan thay đổi.

Bốn là, cơ chế hỗ trợ và phối kết hợp giữa cơ quan hải quan và các đại lý

hải quan chưa thường xuyên và hiệu quả.

Thực tiễn cho thấy đại lý hải quan ở Việt Nam chưa phát triển mạnh và

hoạt động của loại hình dịch vụ này chưa hoạt động đúng nghĩa là đại lý hải

quan, chưa đúng nghĩa là “cánh tay nối dài” của cơ quan hải quan cũng như chưa

phát triển được thành một mạng lưới để hỗ trợ cơ quan hải quan trong quá trình

hiện đại hóa công tác quản lý.

Vấn đề được các đại lý hải quan và doanh nghiệp XNK quan tâm là sự ưu

đãi của cơ quan hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan cho hàng hóa

XNK. Thời gian qua, ngành hải quan đã áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi cho các

116

đại lý khi làm thủ tục hải quan. Có Chi cục Hải quan đã dành một cửa riêng cho

việc tiếp nhận tờ khai làm thủ tục thông qua đại lý. Cơ quan hải quan tích cực hỗ

trợ các đại lý trong việc cài đặt phần mềm, ứng dụng công nghệ thông tin phục

vụ làm thủ tục hải quan... Tuy nhiên, theo phản ánh của các đại lý hải quan,

những ưu tiên, ưu đãi hiện nay chưa thực sự giúp hoạt động của các đại lý được

thuận lợi và chưa thật rõ ràng. Các doanh nghiệp chưa thấy được sự khác biệt khi

làm thủ tục thông qua đại lý so với việc làm thủ tục thông thường, tờ khai hải

quan mà các đại lý khai báo vẫn theo quy trình như các tờ khai thông thường.

Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi thủ tục hải quan điện tử đã được áp dụng

đối với toàn bộ các tờ khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, hệ thống

VNACCS/VCIS cho thấy vẫn chưa có sự ưu tiên nào được áp dụng đối với tờ

khai được gửi đến bởi đại lý hải quan. Vì vậy, nhiều trường hợp doanh nghiệp

giao hồ sơ và giới thiệu nhân viên đại lý hải quan với danh nghĩa là nhân viên

của doanh nghiệp để làm các thủ tục với cơ quan hải quan.

Bên cạnh đó, ngành Hải quan vẫn chưa thực hiện đầy đủ việc hỗ trợ kỹ

thuật trong việc kết nối mạng giữa đại lý hải quan với cơ quan hải quan, như cài

đặt chương trình phần mềm khai hải quan điện tử, cài đặt chương trình thanh

khoản đối với mặt hàng gia công và nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất xuất

khẩu, cũng như việc hỗ trợ cho các đại lý hải quan khi phần mềm gặp sự cố.

Năm là, chưa có Hiệp hội đại lý hải quan đại diện tiếng nói chung của

các đại lý hải quan và là đầu mối liên hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và

cộng đồng đại lý hải quan.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp thuộc các

thành phần kinh tế vừa phải cạnh tranh với nhau song vẫn phải đoàn kết để cùng

tồn tại, phát triển và cạnh tranh với các thế lực kinh tế từ nước ngoài, đồng thời

để tạo ra tiếng nói chung trong việc đóng góp xây dựng pháp luật, cũng như

chiến lược phát triển ngành. Phần lớn các doanh nghiệp trong nền kinh tế là các

doanh nghiệp vừa và nhỏ nên hạn chế về quy mô, nguồn lực và khả năng cạnh

tranh phát triển, vì vậy nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp này là liên kết với

nhau thành lập Hiệp hội ngành nghề để hỗ trợ phát triển, bảo vệ quyền lợi và mở

117

rộng quan hệ làm ăn.

Hiệp hội đại lý hải quan có thể hiểu là hiệp hội thương mại, được thành

lập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đại lý hải quan, động viên các

đại lý hải quan tham gia phát triển thương mại, tuyên truyền, phổ biến các quy

định của pháp luật thương mại nói chung và pháp luật hải quan nói riêng. Ở

nhiều nước kinh tế phát triển, vai trò của Hiệp hội đại lý hải quan đã được khẳng

định trên cơ sở của một nền kinh tế thị trường bền vững đã và đang tồn tại từ lâu.

Hoạt động Hiệp hội đại lý hải quan sẽ trở thành tất yếu khách quan của nền kinh

tế, thông qua Hiệp hội đại lý hải quan, cơ quan quản lý có thể sớm nắm bắt được

các diễn biến của nền kinh tế để hoạch định các chính sách vĩ mô phù hợp với

từng thời kỳ. Trong khi đó, cộng đồng các doanh nghiệp là đại lý hải quan ở Việt

Nam hiện nay vẫn đang hoạt động độc lập, mang tính chất đơn lẻ, không có sự

kết nối, không có doanh nghiệp nào đứng ra là đầu mối đại diện cho tiếng nói

chung của cả cộng đồng. Thực trạng đó dẫn đến những báo cáo, ý kiến đóng góp

từ phía đại lý hải quan đến cơ quan Hải quan thường không đầy đủ và kịp thời,

gây khó khăn cho cơ quan Hải quan trong việc xây dựng kế hoạch phát triển phù

hợp cho đại lý hải quan. Vì vậy, các doanh nghiệp đại lý hải quan cần có một

đầu mối kết nối giữa cơ quan Hải quan với đại lý hải quan, có người phát ngôn

cho các đại lý hải quan thì sẽ rất có lợi cho cả hai phía.

Theo khảo sát của NCS, đa số ý kiến của các doanh nghiệp đồng ý việc

thành lập Hiệp hội đại lý hải quan trong thời gian sớm nhất (98% ý kiến đồng ý),

trong đó 67% ý kiến muốn Hiệp hội hoạt động độc lập như những Hiệp hội

ngành nghề khác, 28% ý kiến cho rằng thời gian đầu Hiệp hội đại lý hải quan

nên trực thuộc Hiệp hội Giao nhận và 5% ý kiến muốn Tổng cục Hải quan là cơ

quan chịu trách nhiệm thành lập và quản lý Hiệp hội (xem đồ thị 3.5). Hiện nay

Hiệp hội Giao nhận (VIFAS) đã thành lập Ban Đại lý hải quan để tư vấn, hỗ trợ

các doanh nghiệp thành viên kinh doanh dịch vụ đại lý hải quan và rất sẵn sàng

để là đầu mối thành lập Hiệp hội đại lý hải quan ở Việt Nam.

118

Đồ thị 3.5: Khảo sát ý kiến đồng ý thành lập Hiệp hội đại lý hải quan Việt

5%

Trực thuộc TCHQ

28%

Trực thuộc Hiệp hội Giao nhận

Hiệp hội hoạt động độc lập

67%

Nam

(Nguồn: NCS tổng hợp từ 200 phiếu điều tra doanh nghiệp)

Như vậy, việc chưa hình thành Hiệp hội đại lý hải quan đại diện cộng

đồng các đại lý hải quan, là đầu mối liên hệ với cơ quan hải quan là một trong

những nguyên nhân của thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay.

Sáu là, việc kiểm tra, giám sát hoạt động đại lý hải quan chưa thường

xuyên, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của đại lý hải quan chưa kịp thời.

Hiện nay, số lượng doanh nghiệp được công nhận đại lý hải quan và nhân

viên đại lý hải quan được cấp thẻ nhân viên đại lý đã tăng lên đáng kể, tuy nhiên

việc kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý hải quan còn lỏng lẻo, mang tính

hình thức. Theo quy định, hàng quý đại lý hải quan phải có báo cáo tình hình

hoạt động gửi Cục Hải quan địa phương để tổng hợp gửi báo cáo về Tổng cục

Hải quan. Thực tế cho thấy, ngoài hình thức giám sát này, cơ quan hải quan chưa

thực hiện thêm các biện pháp giám sát nào khác đối với đại lý hải quan. Như

vậy, trong quý hoạt động, nếu đại lý có sự thay đổi chẳng hạn về tên, địa chỉ của

đại lý thì phải có báo cáo gửi Cục Hải quan địa phương quản lý, nếu không

thông báo cho cơ quan Hải quan hoặc không có báo cáo gửi cơ quan Hải quan,

cơ quan Hải quan sẽ hiểu là đại lý hải quan đó không còn hoạt động nữa.

119

Căn cứ vào các báo cáo hoạt động này, các Cục Hải quan địa phương sẽ

đưa ra các quyết định điều chỉnh hoạt động của các đại lý hải quan. Cục Hải

quan địa phương có thể báo cáo đề nghị Tổng cục Hải quan ra quyết định tạm

dừng hoạt động đối với đại lý hải quan không thực hiện đúng chế độ báo cáo như

quy định. Tuy nhiên, chế tài này có thể thấy là quá nặng so với mức độ vi phạm

của đại lý hải quan. Thực tế có những trường hợp đại lý hải quan sau khi đi vào

hoạt động không có phát sinh hợp đồng đại lý, nên không gửi báo cáo về tình

hình hoạt động cho cơ quan Hải quan, sau một vài tháng, khi phát sinh hợp đồng

đại lý, đại lý hải quan đó lại tiếp tục gửi báo cáo cho cơ quan hải quan. Điều này

gây khó khăn cho cơ quan Hải quan trong việc nắm bắt tình hình hoạt động của

các đại lý nhằm đưa ra các quyết định quản lý sâu sát, kịp thời.

Việc thiếu thông tin của các đại lý hải quan cũng làm cơ quan Hải quan

gặp khó khăn trong việc theo dõi về trình độ, năng lực, tình trạng làm việc của

các nhân viên đại lý hải quan. Hiện cơ quan Hải quan mới chỉ nắm bắt được số

lượng người tham dự kỳ thi cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan chứ chưa

thực sự biết các nhân viên đại lý hải quan sau khi được cấp thẻ hành nghề có

hoạt động hoặc hoạt động có hiệu quả hay không. Chính vì vậy, có thể nói tại

một số Cục, Chi cục Hải quan, sự kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan đối

với hoạt động của đại lý hải quan còn lỏng lẻo, mang tính hình thức.

Kết luận chương 3

Nghiên cứu thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua,

NCS rút ra những kết luận sau:

1. Mặc dù đã hình thành được một cơ sở pháp lý tương đối hoàn thiện,

nhưng nhìn chung hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam vẫn mang tính tự phát,

hoạt động chưa đúng với ý nghĩa của đại lý hải quan. Số tờ khai do đại lý hải

quan ký tên, đóng dấu còn thấp so với tổng số lượng tờ khai XNK. Các phương

pháp quản lý và công cụ quản lý đại lý hải quan đã được sử dụng, tuy nhiên, hiệu

quả mang lại chưa cao, nhất là trong bối cảnh cải cách, hiện đại hóa hải quan, cơ

120

chế quản lý hải quan cần phải đơn giản, hài hòa và tuân thủ các chuẩn mực và

thông lệ quốc tế.

2. Luận án đưa ra và phân tích những hạn chế về phát triển đại lý hải quan

và quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua, đó là: chưa thúc đẩy được

sự phát triển của đại lý hải quan theo định hướng phát triển đại lý hải quan trong

bối cảnh cải cách và hiện đại hóa hải quan; hoạt động đại lý hải quan chưa đảm

bảo độ tin cậy cho các doanh nghiệp kinh doanh XNK; trình độ quản lý và khả

năng thích ứng của đại lý hải quan còn thấp, chưa thể hiện tính chất chuyên

nghiệp và chuyên môn hóa cao; chưa thiết lập được mối quan hệ giữa cơ quan

quản lý nhà nước và cộng đồng đại lý hải quan.

3. Luận án cũng chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế, đó là do các

doanh nghiệp kinh doanh XNK ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, hoặc thậm chí là siêu nhỏ, nên chưa có thói quen sử dụng đại

lý hải quan và thường tự làm thủ tục hải quan cho các lô hàng của mình để tiết

kiệm chi phí; một số quy định trong các văn bản pháp luật về đại lý hải quan

chưa đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng hoặc chưa phù hợp với thực tiễn; công tác

tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhân viên đại lý hải

quan chưa đáp ứng tốt yêu cầu cải cách và hiện đại hóa hải quan; cơ chế hỗ trợ

và phối kết hợp giữa cơ quan hải quan và các đại lý hải quan chưa thường xuyên

và hiệu quả; chưa có Hiệp hội đại lý hải quan đại diện tiếng nói chung của các

đại lý hải quan và là đầu mối liên hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cộng

đồng đại lý hải quan; việc kiểm tra, giám sát hoạt động đại lý hải quan chưa

thường xuyên, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của đại lý hải quan chưa kịp

thời.

Từ thực trạng nêu trên đặt ra yêu cầu cần phải đề xuất các giải pháp tăng

cường quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan

nhằm hỗ trợ cho cơ quan hải quan trong quản lý đại lý hải quan, góp phần tạo

thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân tại Việt Nam trong hoạt động kinh doanh

XNK. Đây cũng là nội dung sẽ được giải quyết trong Chương 4 của luận án.

121

Chương 4

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ

ĐẠI LÝ HẢI QUAN Ở VIỆT NAM

4.1 Định hướng phát triển đại lý hải quan và những yêu cầu đặt ra

đối với quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam

4.1.1 Mục tiêu phát triển của Hải quan Việt Nam và định hướng phát

triển đại lý hải quan Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa hải quan

Trong thời gian vừa qua, công tác cải cách, hiện đại hóa hải quan được

Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngành Hải quan đặc biệt coi trọng và được đẩy

mạnh. Với những nỗ lực của cán bộ, công chức trong toàn Ngành, sự quan tâm,

ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình, hiệu quả của các tổ chức, đơn vị, cá nhân trong và

ngoài nước, công tác cải cách, hiện đại hóa đã thu được kết quả rất tốt đẹp, góp

phần tạo thuận lợi cho thương mại và đảm bảo sự quản lý nhà nước về hải quan.

Trước bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu và rộng, ngày 25/3/2011,

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 448/QĐ-TTg phê duyệt Chiến

lược phát triển Hải quan đến năm 2020. Chiến lược này là kim chỉ nam cho công

tác cải cách, hiện đại hóa hải quan trong thời gian tới. Theo đó, Chiến lược phát

triển Hải quan Việt Nam đến năm 2020 đã xác định mục tiêu tổng quát đến năm

2020 là “Xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách đầy đủ,

minh bạch, thủ tục hải quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền

tảng ứng dụng công nghệ thông tin, xử lý dữ liệu tập trung và áp dụng rộng rãi

phương thức quản lý rủi ro, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến

trong khu vực Đông Nam Á.” [58].

Thực tế cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam đã gia tăng

nhanh chóng, đặt ra yêu cầu ngành Hải quan phải thực hiện cải cách, hiện đại

hóa. Để thực hiện thành công Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020 và

Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2011-2015, Hải

quan Việt Nam đã và đang tập trung thực hiện 5 nhóm công việc trọng tâm gồm:

(1) Thực hiện thủ tục hải quan điện tử; (2) Triển khai Đề án Quản lí rủi ro; (3)

122

Xây dựng địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung tại các địa bàn trọng điểm; (4)

Triển khai chương trình Doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt và (5) Xây dựng và vận

hành hệ thống Chỉ số đánh giá hoạt động của ngành [5].

Mục tiêu của Hải quan Việt Nam đến năm 2020, về cơ bản các thủ tục và

chế độ quản lý hải quan phải đơn giản, hiệu quả, hài hòa và tuân thủ các chuẩn

mực, thông lệ quốc tế; thủ tục hải quan chủ yếu được thực hiện bằng phương

thức điện tử tại các địa bàn trọng điểm; thực hiện việc trao đổi thông tin trước

khi hàng đến, thanh toán, quản lý các giấy phép bằng phương thức điện tử; thực

hiện cơ chế doanh nghiệp ưu tiên đặc biệt về thủ tục và an ninh theo các chuẩn

mực của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO); áp dụng phương pháp quản lý rủi ro

một cách hệ thống trong các khâu nghiệp vụ hải quan. Từng bước xử lý dữ liệu

thông quan tập trung tại cấp Cục Hải quan; thực hiện cơ chế một cửa hải quan

quốc gia và tham gia cơ chế một cửa ASEAN.

Trước mắt, trong thời gian tới, toàn Ngành tiếp tục tập trung thực hiện tốt

việc rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính và hiện đại hóa hải quan nhằm tạo

thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Trong đó, chú trọng nâng cao chất

lượng thực hiện thủ tục hải quan điện tử; tăng hiệu quả hoạt động quản lý rủi ro;

mở rộng kết nối trao đổi thông tin với Kho bạc về việc thu ngân sách; nhanh

chóng triển khai công tác kiểm tra sau thông quan đối với thủ tục hải quan điện

tử, đảm bảo nguyên tắc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm; tiếp tục triển khai

Cơ chế Hải quan một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN; tăng cường năng

lực quản lí rủi ro; đảm bảo kinh phí và tiến độ trang bị cơ sở vật chất, phương

tiện, trang bị hiện đại phục vụ hoạt động nghiệp vụ của ngành.

Một số chỉ tiêu cụ thể và lộ trình thực hiện của Hải quan Việt Nam trong

tiến trình hiện đại hóa hải quan như sau [58]:

- Thực hiện thủ tục hải quan điện tử: đến năm 2020 có 100% các Cục Hải

quan, 100% các Chi cục Hải quan, 100% các loại hình hải quan cơ bản, 90% kim

ngạch xuất nhập khẩu, 80% doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan điện tử.

- Thời gian thông quan hàng hóa đến năm 2020 phấn đấu bằng với mức

của các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á.

123

- Tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa đến năm 2020 phấn đấu đạt dưới 7%.

- Tỷ lệ các giấy phép xuất nhập khẩu thực hiện trong cơ chế một cửa hải

quan quốc gia đến năm 2020 là 90%.

- Tập trung hóa xử lý dữ liệu điện tử của hệ thống thông quan hải quan

vào năm 2015.

Căn cứ vào mục tiêu phát triển của Hải quan Việt Nam trong tiến trình cải

cách, hiện đại hóa hải quan, theo quan điểm của NCS, định hướng phát triển đại

lý hải quan ở Việt Nam thời gian tới là:

Một là, đẩy mạnh phát triển đại lý hải quan cả về số lượng và quy mô.

Hai là, phát triển đội ngũ nhân viên đại lý hải quan chuyên nghiệp và nhà

nghề.

Ba là, nâng cao uy tín, thương hiệu của đại lý hải quan trong cộng đồng

doanh nghiệp.

Bốn là, phát triển đại lý hải quan phải gắn với mục tiêu phát triển của

ngành hải quan và trách nhiệm đối với xã hội.

4.1.2 Quan điểm quản lý và những yêu cầu đặt ra đối với quản lý đại lý

hải quan ở Việt Nam

Thời gian qua, Hải quan Việt Nam đã và đang tích cực chủ động trong

công cuộc cải cách, hiện đại hóa ngành. Trong thời gian tới, để thực hiện thành

công các mục tiêu đã đặt ra trong Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020

và Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa hải quan giai đoạn 2011-2015,

cần quán triệt một số quan điểm quản lý đại lý hải quan như sau:

Một là, phát triển đại lý hải quan là xu hướng tất yếu của tiến trình hiện

đại hóa hải quan, do vậy tăng cường quản lý đại lý hải quan để nâng cao hiệu

quả quản lý là một tất yếu khách quan.

Hai là, quản lý đại lý hải quan nhằm mục tiêu tạo thuận lợi tối đa cho sự

phát triển của đại lý hải quan.

Ba là, quản lý đại lý hải quan nhằm đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà

nước nhưng phải đặt trong bối cảnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực

hải quan.

124

Bốn là, quản lý đại lý hải quan hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và

đại lý hải quan phải thực sự trở thành “cánh tay nối dài” của cơ quan hải quan.

Để đạt được hiệu quả cao trong thực tiễn, hoạt động quản lý đại lý hải

quan phải đáp ứng các yêu cầu đặt ra sau:

Thứ nhất, quản lý đại lý hải quan phải hướng tới mục tiêu tạo động lực

cho các đại lý hải quan hoạt động theo hướng chuyên nghiệp và hiệu quả. Quản

lý đại lý hải quan phải hướng tới mục tiêu tạo động lực cho các thương nhân đầu

tư vào lĩnh vực dịch vụ đại lý hải quan, thu hút được nhiều nguồn lực trong xã

hội để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển hoạt động kinh doanh

xuất nhập khẩu nói riêng. Quản lý đại lý hải quan cũng nhằm tới mục tiêu quan

trọng nhất là hỗ trợ các cơ quan Nhà nước thực hiện thành công chức năng quản

lý nhà nước về hải quan. Quản lý hải quan phải đảm bảo được tính minh bạch,

bình đẳng và nghiêm minh của cơ chế quản lý đối với các thương nhân nhằm

khuyến khích các đại lý hải quan có tính tự tuân thủ pháp luật cao và xử lý

nghiêm minh đối với các đại lý hải quan vi phạm pháp luật hải quan, qua đó tạo

ra một môi trường đầu tư hấp dẫn trong dịch vụ đại lý hải quan.

Thứ hai, tạo ra cơ sở pháp lý về quản lý đại lý hải quan đầy đủ và đồng bộ

theo cơ chế thị trường. Quản lý đại lý hải quan mà cốt lõi là cơ sở pháp lý của nó

phải đảm bảo tính đầy đủ và đồng bộ để điều tiết được tất cả các quan hệ kinh tế

phát sinh giữa các chủ thể trong hoạt động đại lý hải quan [42, tr.29]. Tính đầy

đủ và đồng bộ này thể hiện qua hệ thống các văn bản pháp luật có hệ thống từ

Luật, Nghị định, Thông tư, Nghị quyết, Quyết định phải đầy đủ, đồng bộ không

chỉ trong lĩnh vực đại lý hải quan mà còn phải đồng bộ với các hệ thống văn bản

pháp luật thuộc các lĩnh vực khác. Cơ chế quản lý đại lý hải quan phải thừa

nhận, tôn trọng và bảo vệ được các quan hệ kinh tế như quan hệ hàng hóa, dịch

vụ - tiền tệ, quan hệ cung – cầu, quan hệ về lợi ích nảy sinh trong dịch vụ đại lý

hải quan. Đồng thời phải tôn trọng các nguyên tắc của kinh tế thị trường trong

lĩnh vực dịch vụ. Có như vậy mới đảm bảo được tính hiện thực của cơ chế quản

lý.

Thứ ba, đảm bảo sự phối hợp tốt giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong

125

quản lý đại lý hải quan. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước là một

trong những nhiệm vụ của bất kỳ cơ quan nhà nước nào. Để phối hợp hiệu quả,

cần phải đảm bảo các nguyên tắc quản lý nhà nước tốt, đó là: minh bạch, tham

gia, trao quyền, trách nhiệm giải trình và lợi ích nhận được. Các nguyên nhân

chính dẫn đến phối hợp không tốt giữa các cơ quan chịu trách nhiệm về dịch vụ

đã được nêu ở trên bắt nguồn từ sự thiếu minh bạch, thiếu tham gia của người

dân cũng như không được trao quyền và thiếu trách nhiệm giải trình [42, tr.30].

Sự minh bạch, tham gia, trao quyền và trách nhiệm giải trình sẽ trở thành nguyên

tắc làm căn cứ để đưa ra các đề xuất tăng cường phối hợp hiệu quả. Các giải

pháp nhằm khắc phục các vấn đề về phối hợp giữa các cơ quan quản lý dịch đại

lý hải quan là những lựa chọn chính sách cụ thể và phải tuân thủ nguyên tắc điều

hành tốt.

Thứ tư, quản lý đại lý hải quan phải hướng tới giải quyết các vấn đề do đại

lý hải quan đặt ra trong quá trình hoạt động. Chính sách và giải pháp phát triển

đại lý hải quan phải bảo đảm thực hiện được sự bình đẳng giữa các thành phần

kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Sự bình đẳng này đảm bảo các nhà đầu tư

trong và ngoài nước hay thuộc các thành phần kinh tế khác nhau được đối xử

bình đẳng trước pháp luật và trong các quan hệ hành chính với các cơ quan quản

lý nhà nước. Đồng thời cần có sự bình đẳng về cung và cầu trong hoạt động đại

lý hải quan, tránh những hậu quả của hiện tượng độc quyền, đó chính là cơ sở để

tạo lập được một thị trường dịch vụ đại lý hải quan phát triển lành mạnh, phong

phú và đa dạng [42, tr.30]. Bên cạnh đó, tính tuân thủ và hiệu lực của cơ chế

quản lý phải đảm bảo ở mức cao. Chính điều này sẽ giúp cho cơ quan quản lý

nhà nước phân loại được các đại lý hải quan theo tính tuân thủ để có những

quyết định hành chính phù hợp. Mặt khác, còn đảm bảo cho các quan hệ kinh tế

giữa các đại lý hải quan và chủ hàng được thực hiện theo đúng hoạt động đại lý,

cũng đồng nghĩa với quyền lợi và trách nhiệm của các bên được pháp luật bảo

hộ. Đây chính là một cơ sở quan trọng để đại lý hải quan tồn tại và phát triển.

Trên cơ sở quan điểm quản lý và định hướng phát triển đại lý hải quan

như trên, căn cứ vào thực trạng hoạt động và quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam

126

hiện nay, NCS xin đưa ra một số chỉ tiêu cụ thể để phát triển đại lý hải quan giai

đoạn 2015-2020 là:

- Tăng số lượng đại lý hải quan bình quân 40%/năm, phấn đấu đến năm

2020 có khoảng 3.500 đại lý hải quan được cấp phép hoạt động.

- Tăng số tờ khai hải quan do đại lý hải quan khai, ký tên, đóng dấu đạt

15% trên tổng số tờ khai phát sinh.

- Tối thiểu 50% doanh nghiệp làm thủ tục hải quan sử dụng dịch vụ đại lý

hải quan.

- Tối thiểu 80% số doanh nghiệp hài lòng với chất lượng dịch vụ do đại lý

hải quan cung cấp.

Mục tiêu này có thể còn khiêm tốn, nhưng đặt trong thực trạng quản lý và

phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam hiện nay, đòi hỏi phải có những giải pháp

quản lý hữu hiệu mới có thể thực hiện thành công.

4.2 Một số giải pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam

4.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập môi trường cho sự phát

triển của đại lý hải quan

Để tăng cường kiểm soát hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan cũng

như cho phù hợp với thông lệ quốc tế, Chính phủ cần tạo ra một hành lang pháp

lý chặt chẽ và hợp lý đối với hoạt động của dịch vụ này. Nhằm tạo cơ chế, chính

sách thuận lợi cho đại lý hải quan trong việc khai báo và giải quyết các vướng

mắc trong quá trình làm thủ tục hải quan, dựa trên cơ sở những vướng mắc đang

tồn tại thực tế và tham khảo những quy định của các nước trên thế giới, Tổng

cục Hải quan cần hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý minh bạch, hiện đại

trong việc quy định các tiêu chuẩn, điều kiện thành lập đại lý hải quan, quy định

về các tiêu chuẩn, điều kiện của nhân viên đại lý hải quan; trong việc điều chỉnh

mối quan hệ pháp lý giữa đại lý hải quan với doanh nghiệp xuất nhập khẩu qua

hợp đồng thuê dịch vụ, với cơ quan hải quan thực hiện trách nhiệm khai báo đối

với các lô hàng xuất nhập khẩu…

Theo quan điểm của NCS, giải pháp đầu tiên nhằm tạo lập môi trường cho

sự phát triển của đại lý hải quan là phải khẳng định lại vị thế của đại lý hải quan

127

với tư cách là người khai hải quan. Cụ thể, theo quy định tại Luật Hải quan năm

2014, người khai hải quan bao gồm: (1) Chủ hàng hóa, chủ phương tiện vận tải,

người điều khiển phương tiện vận tải; (2) Đại lý hải quan; (3) Người khác được

chủ hàng, chủ phương tiện vận tải ủy quyền thực hiện thủ tục hải quan. Như vậy,

người có quyền làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK khá đa dạng. Thực

tiễn tại Việt Nam đã chứng minh, chủ hàng hóa ngoài việc tự mình làm thủ tục

hải quan có thể thuê hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện khai hải quan. Hay

nói cách khác, nhóm đối tượng người khai hải quan thứ ba hiện vẫn đang tồn tại

khá nhiều và đây chính là lực lượng làm cản trở sự phát triển của đại lý hải quan.

Vì vậy, để tạo điều kiện cho đại lý hải quan phát triển và thực hiện đúng vai trò

của mình, cần lược bỏ đối tượng “người được ủy quyền” ra khỏi danh sách

người khai hải quan và ghi rõ: Người khai hải quan bao gồm: (1) Chủ hàng hóa,

chủ phương tiện vận tải, người điều khiển phương tiện vận tải và (2) Đại lý hải

quan.

Cần quy định cụ thể các biện pháp xử lý, chế tài đối với các doanh nghiệp

làm dịch vụ hải quan nhưng không có giấy phép hành nghề hoặc không được

công nhận là đại lý hải quan. Những quy định này là cần thiết nhằm tạo thuận lợi

cho các đại lý hải quan được công nhận phát triển.

Cần quy định rõ trách nhiệm của đại lý hải quan khi vi phạm nghĩa vụ với

chủ hàng hoặc vi phạm pháp luật thì sẽ bị áp dụng hình thức xử lý vi phạm như

với chủ hàng, hoặc xử một mức phạt tối đa, tối thiểu là bao nhiêu. Cụ thể, cơ

quan Hải quan có quyền xử lý, xử phạt tiền, tạm đình chỉ nghiệp vụ, với những

tình tiết quan trọng thì có thể huỷ tên khỏi danh sách đại lý hải quan, huỷ bỏ tư

cách đại lý hải quan nếu đại lý hoặc tự mình hoặc cấu kết với chủ hàng làm tổn

hại đến ngân sách nhà nước.

Để tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ,

cần quy định một khung giá dịch vụ (bằng tỷ lệ phần trăm trên trị giá lô hàng).

Ban hành khung giá trần cho hoạt động đại lý hải quan như một số nước đã làm,

điển hình là Nhật Bản. Ngoài ra cần quy định số thuế phải nộp trên cơ sở thu

nhập từ dịch vụ khai hải quan theo hợp đồng đại lý hải quan; yêu cầu về lưu giữ

128

chứng từ của đại lý hải quan như thế nào; quy định về việc mua bảo hiểm của đại

lý hải quan cụ thể ra sao; cho phép đại lý hải quan thanh toán lệ phí qua ngân

hàng, quẹt thẻ một lần cho nhiều chủ hàng hoặc cho nhiều loại lệ phí bằng cách

phối kết hợp giữa Hải quan - Ngân hàng - Đại lý hải quan.

Nhằm khuyến khích đại lý hải quan phát triển về mặt số lượng và chất

lượng, cơ quan Hải quan nên có quy định giới hạn số lượng tờ khai do nhân viên

đại lý hải quan thực hiện trong một ngày làm việc. Theo đề xuất của NCS, mỗi

nhân viên đại lý hải quan chỉ nên được thực hiện tối đa 30 tờ khai/ngày. Với số

lượng tờ khai giới hạn như vậy, các nhân viên đại lý hải quan sẽ không bị sức ép

về khối lượng công việc, do đó có thời gian để kiểm tra lại các tờ khai họ chịu

trách nhiệm khai báo, đảm bảo không có nhầm lẫn, sai sót, đồng thời có thêm

thời gian để thực hiện các công việc khác, như tham gia học tập, bồi dưỡng, đào

tạo chuyên môn, nâng cao trình độ nghiệp vụ. Tính khả thi của việc đưa ra giới

hạn về số lượng tờ khai thực hiện trong một ngày đối với một nhân viên đại lý

hải quan là hoàn toàn có thể thực hiện được, bởi căn cứ vào mã số nhân viên đại

lý hải quan đã đăng ký, phần mềm VNACCS/VCIS sẽ giúp cơ quan Hải quan

đếm được số tờ khai do nhân viên đại lý hải quan đó gửi đến trong ngày, từ đó sẽ

có phương pháp quản lý phù hợp đối với những nhân viên đại lý hải quan vi

phạm quy định đề ra. Bên cạnh đó, quy định về giới hạn số lượng tờ khai do một

nhân viên đại lý hải quan thực hiện trong một ngày được đưa ra trong bối cảnh

khối lượng hàng hóa XNK ngày một tăng, số lượng tờ khai cần thực hiện ngày

một nhiều, từ đó đặt ra yêu cầu cần có thêm nhân lực để kịp thời thực hiện công

việc. Điều này sẽ đẩy mạnh sự gia tăng về số lượng các đại lý hải quan lẫn nhân

viên đại lý hải quan.

Theo quy định hiện nay chưa có điều khoản cụ thể nào quy định trách

nhiệm pháp lý giữa nhân viên đại lý hải quan và Giám đốc đại lý hải quan trong

trường hợp xảy ra gian lận thương mại mà Giám đốc đại lý không biết. Vì vậy,

đề nghị có hướng dẫn thực hiện khi cơ quan Hải quan phát hiện sai sót và lập

biên bản xử lý vi phạm, cần ghi rõ trong biên bản chủ thể phải chịu trách nhiệm

là chủ thể pháp nhân đại lý hay cá nhân nhân viên đại lý. Với quy định rõ ràng

129

như vậy sẽ nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của nhân viên đại lý hải quan trong

quá trình làm việc.

Tóm lại, trong thời gian trước mắt, khi Việt Nam chưa thể ban hành một

đạo luật về đại lý hải quan (đây là vấn đề lớn, lâu dài, cần phải có sự nghiên cứu

tổng thể, đầy đủ), để giúp cho hoạt động của đại lý hải quan cũng như việc sử

dụng đại lý hải quan dần đi vào nề nếp và phát triển, chúng ta phải hoàn thiện hệ

thống các văn bản luật và văn bản hướng dẫn, quy định dưới luật một cách kịp

thời, đồng bộ, tạo lập môi trường hiện đại, chuyên nghiệp cho sự phát triển của

đại lý hải quan.

4.2.2 Tập trung đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho nhân viên đại lý hải

quan

Đại lý hải quan là một loại hình dịch vụ có điều kiện, đòi hỏi nhân viên

đại lý phải am hiểu về chính sách quy định liên quan đến hoạt động XNK, thủ

tục hải quan, chính sách mặt hàng, có kiến thức về phân loại hàng hóa, xác định

xuất xứ hàng hóa, các phương pháp tính thuế, xác định trị giá tính thuế... Để có

được những kiến thức trên, nhân viên đại lý hải quan phải được đào tạo, bồi

dưỡng một cách bài bản, có hệ thống. Ngược lại, các đại lý hải quan cũng cần có

kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng nhân viên để có kiến thức và năng lực đảm

đương vai trò của mình. NCS xin đề xuất một số giải pháp nhằm tập trung đào

tạo nâng cao kỹ năng nghề cho nhân viên đại lý hải quan như sau:

Một là, Nhân viên đại lý hải quan phải có trình độ cử nhân kinh tế, luật

hoặc kỹ thuật trở lên.

Nhận thức được vai trò của nhân viên đại lý hải quan đối với sự phát triển

của đại lý hải quan, yêu cầu về trình độ học vấn đối với nhân viên đại lý hải quan

đã được thay đổi theo thời gian. Trước khi Thông tư số 12/2015/TT-BTC được

ban hành, các cá nhân muốn tham gia kỳ thi cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải

quan để trở thành nhân viên đại lý hải quan chỉ cần có trình độ trung cấp thuộc

các ngành kinh tế, luật. Theo quy định hiện nay, điều kiện về trình độ học vấn

đối với nhân viên đại lý hải quan là phải có trình độ cao đẳng tế, luật hoặc kỹ

thuật trở lên. Tuy nhiên, theo quan điểm của NCS, để hoạt động đại lý hải quan

130

mang tính chuyên nghiệp, nhà nghề cao, cần đòi hỏi cao hơn về trình độ của

nhân viên đại lý hải quan. Vì vậy, xin đề xuất nhân viên đại lý hải quan phải có

bằng cử nhân trở lên thuộc các ngành kinh tế, luật hoặc kỹ thuật. Bằng cử nhân

có thể hiểu là bằng tốt nghiệp của tất cả các loại hình đào tạo theo quy định của

pháp luật. Điều kiện về trình độ của nhân viên đại lý hải quan được nâng lên sẽ

giúp nhân viên đại lý hải quan nhanh chóng tiếp cận được vấn đề, học hỏi được

các kỹ năng mới, có như vậy mới bắt kịp với yêu cầu hội nhập với cộng đồng đại

lý hải quan của các nước trên thế giới.

Hai là, Cải tiến quy trình thi và cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan.

Quy trình thi để cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan cần có sự thay đổi

cho phù hợp với quá trình cải cách và hiện đại hóa hải quan, nhất là trong bối

cảnh thực hiện thủ tục hải quan điện tử như hiện nay. Chính vì vậy, NCS đề nghị

nghiên cứu và tận dụng hình thức thi trên máy tính hoặc cao hơn là thi trực

tuyến. Xin đề xuất hình thức thi trên máy tính cho kỳ thi thi cấp Chứng chỉ

nghiệp vụ khai hải quan cụ thể như sau:

- Tổng cục Hải quan là đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức kỳ thi quốc gia

cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan là

Chủ tịch Hội đồng thi.

- Hội đồng thi có 5 người: Chủ tịch Hội đồng thi (là Tổng cục trưởng

Tổng cục Hải quan), Phó Chủ tịch Hội đồng thi (là lãnh đạo Vụ Tổ chức Cán

bộ), 3 thành viên gồm đại diện Trường Hải quan Việt Nam, Cục Giám sát Quản

lý về Hải quan và Vụ Tổ chức Cán bộ.

- Hình thức thi: thi trên máy tính, trực tuyến hoặc tập trung, hàng tháng

hoặc hàng quý (thay vì mỗi năm 1 đến 2 lần như hiện nay).

- Thí sinh biết kết quả ngay sau khi kỳ thi kết thúc.

- Ngân hàng đề thi được xây dựng trên cơ sở Tổng cục Hải quan đặt hàng

các đơn vị nghiệp vụ và các chuyên gia trong ngành theo các nội dung ôn tập đã

được thống nhất.

131

Hình thức thi này sẽ tốt hơn, đơn giản và thuận tiện hơn cho cả người thi

lẫn Hội đồng thi, như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí, nhân lực,

vật lực hơn so với việc tổ chức Hội đồng thi như hiện nay.

Ba là, Xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ hải quan sát với

yêu cầu công việc thực tiễn của nhân viên đại lý hải quan.

Theo quy định mới, cá nhân muốn trở thành nhân viên đại lý hải quan

không bắt buộc phải tham gia khóa đào tạo nghiệp vụ khai hải quan do cơ quan

Hải quan hoặc các cơ sở đào tạo tổ chức. Cá nhân muốn tham dự kỳ thi cấp

Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan của Tổng cục Hải quan có thể chủ động ôn

thi dựa trên cơ sở các tài liệu do Tổng cục Hải quan thông báo công khai trên

Cổng thông tin điện tử trước mỗi kỳ thi, hoặc tự tham gia các lớp ôn thi do các

cơ sở đào tạo tổ chức. Như vậy, cơ quan Hải quan chỉ chịu trách nhiệm quản lý

về việc xây dựng nội dung chương trình ôn tập và tài liệu ôn tập của các môn thi

và đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan.

Để nâng cao kỹ năng nghề cho nhân viên đại lý hải quan, theo quan điểm

của NCS, Tổng cục Hải quan nên xây dựng chương trình ôn tập cho nhân viên

đại lý thực sự sát với yêu cầu thực tiễn, đảm bảo kiến thức nhân viên đại lý hải

quan thu nhận được sau khi tham gia kỳ thi hoàn toàn có thể sử dụng được trong

thực tiễn công việc. Những nội dung ôn tập cần vừa phải, gọn nhẹ và hiệu quả,

sát với thực tế, thiết thực ngay với yêu cầu ban đầu của người khai hải quan.

Nên có những quy định cụ thể về phần đào tạo cập nhật, đào tạo chuyên

sâu dành cho nhân viên đại lý hải quan sau khi có Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải

quan để có thể chủ động cập nhật và bổ sung kiến thức. Tổng cục Hải quan nên

đưa ra các yêu cầu về mức độ đào tạo chuyên sâu khác nhau để đa dạng hoá đối

tượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng. Ví dụ các khóa đào tạo 3

tháng, 6 tháng, 9 tháng… dành cho các đối tượng đã có kinh nghiệm làm việc

trong lĩnh vực khai hải quan, chưa có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực khai

hải quan hoặc đang có dự định tham gia vào lĩnh vực này. Người học có thể là

những nhân viên của các đại lý hải quan, thuộc hoặc không thuộc Hiệp hội đại lý

hải quan nhưng muốn tìm hiểu về lĩnh vực hải quan, có thể là những nhân viên

132

đại lý hải quan muốn tìm hiểu sâu hơn, nâng cao kiến thức, có thể là các cá nhân

muốn học để được cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan,… Theo quan điểm

của NCS, quy định nhân viên đại lý hải quan phải có thời gian 3 ngày tối thiểu

tham gia các khóa đào tạo, cập nhật, bổ sung kiến thức theo là vừa đủ, tuy nhiên

có thể xem xét tăng thêm thời lượng cho nhân viên đại lý hải quan thực hành

nghiệp vụ. Chương trình đào tạo cập nhật này nên được xây dựng theo module

để người học lựa chọn để học bất cứ lúc nào, trong giờ hay ngoài giờ hoặc có thể

được đào tạo từ xa. Sau khi kết thúc các khóa đào tạo này, người tham gia học

phải được cấp Chứng chỉ hoàn thành khóa học để làm cơ sở cho việc nộp hồ sơ

xin gia hạn mã số nhân viên đại lý hải quan về sau.

Bốn là, Cần có thêm điều kiện về trình độ tiếng Anh đối với nhân viên đại

lý hải quan.

Trong quá trình hội nhập thương mại quốc tế, tiếng Anh là một yêu cầu

bắt buộc không thể thiếu đối với mỗi nhân viên làm thủ tục hải quan. Khi làm

thủ tục hải quan, ngoài việc hiểu biết về chính sách, luật pháp quốc gia và quốc

tế, các nhân viên làm thủ tục hải quan còn phải có vốn tiếng Anh tối thiểu cần

thiết để có thể làm tốt công việc của mình. Bởi lẽ thực tế cho thấy, nhân viên đại

lý hải quan phải tiếp xúc với không chỉ các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu trong

nuớc mà còn cả các công ty nước ngoài có nhu cầu xuất nhập khẩu ra/vào Việt

Nam. Ví dụ như: khi một doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu một lô hàng theo

giá DDP (Delivered Duty Paid, Incoterms 2010), tức nhà xuất khẩu phải chịu

trách nhiệm giao hàng cho người mua sau khi đã hoàn thành thủ tục thông quan

cho lô hàng đó. Do không hiểu biết rõ về cơ chế chính sách ở Việt Nam nên nhà

xuất khẩu thường cần một đại lý hải quan hỗ trợ trong quá trình làm thủ tục hải

quan nhập khẩu cho hàng hóa, khi đó để có thể hiểu được nhu cầu của đối tác và

thuận lợi cho quá trình trao đổi công việc, rất cần vốn tiếng Anh tối thiểu cần

thiết, đặc biệt là tiếng Anh thương mại đối với nhân viên đại lý hải quan. Thêm

vào đó, các chứng cần thiết trong bộ hồ sơ hải quan hầu hết đều bằng tiếng Anh

như: Commercial Invoice (Hóa đơn thương mại), Bill of Lading (Vận đơn),

Packing list (Phiếu đóng gói hàng hóa), Certificate of Quality (Giấy chứng nhận

133

chất lượng), Certificate of Quantity (Giấy chứng nhận số lượng), Certificate of

Weight (Giấy chứng nhận trọng lượng), Certificate of Origin (Giấy chứng nhận

xuất xứ hàng hóa), Insurance Certificate (Giấy chứng nhận bảo hiểm)… Người

làm thủ tục hải quan muốn hiểu chính xác nội dung thông tin và tránh nhầm lẫn

cần thiết phải có một vốn tiếng Anh nhất định.

Chính vì vậy, xin đề xuất cần phải đưa tiếng Anh là một môn thi bắt buộc

trong số các môn thi cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan.

4.2.3 Triển khai thực hiện có hiệu quả chế độ ưu tiên hải quan đối với

đại lý hải quan đủ điều kiện

Xuất phát từ thực tế với lực lượng cơ sở vật chất cũng như nhân lực có

hạn, Hải quan Việt Nam không thể kiểm soát chặt chẽ được tất cả hàng hoá

XNK, phương tiện vận tải đi qua lãnh thổ Việt Nam, trong khi đó, đối tượng

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ngày đa dạng và phức tạp. Vì vậy, phương pháp

quản lý hiện đại dựa trên quản lý rủi ro và quản lý tuân thủ đang được Hải quan

Việt Nam triển khai áp dụng. Phương pháp quản lý này đã đem lại sự thay đổi

rất lớn cho công tác quản lý của ngành Hải quan. Đối tượng quản lý của cơ quan

Hải quan hiện nay được thay đổi từ quản lý hàng hóa XNK sang quản lý doanh

nghiệp kinh doanh XNK và đại lý hải quan cũng nằm trong nhóm đối tượng

quản lý này của cơ quan hải quan.

Đại lý hải quan là một trong những lực lượng chính làm thủ tục hải quan,

do đó cũng có thể tạo ra rủi ro trong quá trình làm thủ tục hải quan. Rủi ro xuất

phát từ hành vi gian lận của các đại lý hải quan hoặc do khả năng hạn chế của

đại lý hải quan có thể để xảy ra sai sót trong quá trình làm thủ tục hải quan, và

dù vì lý do nào đi chăng nữa, việc phân loại mức độ tuân thủ của các đại lý hải

quan cũng rất cần thiết cho công tác quản lý của ngành Hải quan. Khi lực lượng

đại lý hải quan lớn mạnh, cần thiết phải có sự quản lý hiện đại dựa trên việc đánh

giá mức độ tuân thủ của các đại lý đó trong quá trình làm thủ tục hải quan. Đại lý

hải quan hoạt động với tư cách là người khai hải quan, do đó những đại lý hải

quan chấp hành tốt pháp luật, ít xảy ra sai phạm trong quá trình làm thủ tục hải

quan, hệ thống quản lý rủi ro của cơ quan hải quan sẽ giảm bớt mức độ kiểm tra

134

cho đại lý hải quan đó cũng như lô hàng do đại lý đó làm thủ tục. Ngược lại, với

những đại lý hải quan có dấu hiệu vi phạm, cần phải có những biện pháp kiểm

tra chặt chẽ hơn với lô hàng XNK và với chính đại lý hải quan đó. Dựa trên việc

đánh giá, phân loại này, cơ quan hải quan sẽ giảm bớt được thời gian thông

quan, khuyến khích các đại lý hải quan phát triển, nâng cao uy tín, thương hiệu

của các đại lý hải quan chấp hành tốt pháp luật. Đây cũng là một cách để khuyến

khích khách hàng (các doanh nghiệp kinh doanh XNK) bắt tay với đại lý hải

quan vì tin cậy vào sự đánh giá của cơ quan Hải quan đối với đại lý hải quan.

Năm 2013, Bộ Tài chính đã ban hành chế độ ưu tiên trong lĩnh vực quản

lý nhà nước về hải quan đối với doanh nghiệp đủ điều kiện (gọi tắt là doanh

nghiệp ưu tiên) theo quy định tại Thông tư số 86/2013/TT-BTC ngày 27/6/2013

của Bộ Tài chính. Thông tư này hiện nay đã được thay thế bởi Thông tư số

72/2015/TT-BTC ngày 12/5/2015 của Bộ Tài chính quy định áp dụng chế độ ưu

tiên trong việc thực hiện thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì vậy, theo quan điểm của

NCS, căn cứ vào chế độ ưu tiên cho các doanh nghiệp ưu tiên nói chung, cần

triển khai thực hiện có hiệu quả chế độ ưu tiên hải quan cho đại lý hải quan đủ

điều kiện. Hay nói cách khác, các đại lý hải quan nếu đáp ứng một số điều kiện

của cơ quan hải quan sẽ được cơ quan hải quan áp dụng chế độ ưu tiên trong

quản lý nhà nước về hải quan, cụ thể như sau:

(1). Ưu tiên trong giai đoạn thông quan:

- Miễn kiểm tra các chứng từ liên quan thuộc hồ sơ hải quan, miễn kiểm

tra thực tế hàng hóa, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng hoặc kiểm tra

ngẫu nhiên để đánh giá sự tuân thủ pháp luật.

- Được làm thủ tục hải quan bằng tờ khai hải quan chưa hoàn chỉnh trên

hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan của cơ quan hải quan. Trong thời hạn 30

ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai, đại lý hải quan phải cập nhật dữ liệu và các

chứng từ liên quan thuộc hồ sơ hải quan theo quy định vào hệ thống xử lý dữ

liệu điện tử hải quan của cơ quan hải quan.

135

- Được cơ quan hải quan ưu tiên kiểm tra thực tế hàng hóa trước bằng

máy soi đối với trường hợp kiểm tra ngẫu nhiên để đánh giá tuân thủ khai báo

hải quan.

- Trường hợp đại lý hải quan gặp vướng mắc trong khâu thông quan, Chi

cục Hải quan có trách nhiệm trả lời đại lý hải quan bằng văn bản trong thời gian

8 (tám) giờ làm việc kể từ thời điểm phát sinh vướng mắc.

- Được cơ quan hải quan ưu tiên kiểm tra trước, giám sát trước trong khâu

giám sát hải quan.

- Trường hợp đại lý hải quan có yêu cầu xem hàng hóa trước hoặc lấy

mẫu thì được ưu tiên làm thủ tục xem hàng trước, lấy mẫu trước.

- Được cơ quan kinh doanh cảng, kho bãi ưu tiên xếp dỡ, giao nhận hàng

hóa trước.

- Trường hợp hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành thì cơ quan hải quan

chấp nhận khai báo của đại lý hải quan về việc hàng hóa đã đáp ứng quy định

chuyên ngành để thông quan. Đại lý hải quan có trách nhiệm lưu trữ đầy đủ kết

quả kiểm tra chuyên ngành của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, xuất

trình khi có yêu cầu kiểm tra của cơ quan hải quan.

(2). Ưu tiên trong giai đoạn sau thông quan

- Đại lý hải quan được ưu tiên miễn kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ

quan hải quan, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

- Cơ quan hải quan kiểm tra sau thông quan tại trụ sở đại lý hải quan

không quá 1 lần trong 3 năm liên tục trên cơ sở quản lý rủi ro kể từ ngày được

Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan công nhận là đại lý ưu tiên, trừ trường hợp

có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan.

(3). Ưu tiên các thủ tục về thuế

- Được hoàn thuế trước, kiểm tra sau. Thời gian ra quyết định hoàn thuế

không quá một ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ của đại lý hải

quan.

- Được nộp báo cáo quyết toán đối với hàng hóa nhập gia công, nhập sản

xuất xuất khẩu trong thời gian 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày kết thúc năm tài

136

chính của đại lý hải quan. Căn cứ báo cáo quyết toán của đại lý hải quan, cơ

quan hải quan nhập dữ liệu vào hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan theo quy

định và thực hiện kiểm tra sau.

- Được ưu tiên khi thực hiện các thủ tục về thuế đối với hàng hóa xuất

khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật về thuế.

Như vậy, để được áp dụng chế độ ưu tiên trên, đại lý hải quan phải đáp

ứng được các điều kiện sau:

- Đại lý hải quan phải là doanh nghiệp tuân thủ pháp luật về hải quan,

pháp luật về thuế. Trong thời hạn 02 năm liên tục tính đến thời điểm đại lý hải

quan nộp văn bản đề nghị công nhận doanh nghiệp ưu tiên, đại lý hải quan

không vi phạm các quy định của pháp luật về thuế, hải quan tới mức bị xử lý vi

phạm về các hành vi sau: Các hành vi trốn thuế; gian lận thuế; buôn lậu và vận

chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; Các hành vi vi phạm hành chính có

hình thức, mức xử phạt vượt thẩm quyền Chi cục trưởng Chi cục Hải quan và

các chức danh tương đương; số tờ khai hải quan do đại lý hải quan làm thủ tục

đứng tên bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, lĩnh vực thuế

thuộc thẩm quyền xử lý của Chi cục trưởng Chi cục Hải quan và chức danh

tương đương không vượt quá tỷ lệ 0,5% tính trên tổng số tờ khai đã làm thủ tục

hải quan; Không nợ thuế quá hạn theo quy định.

- Điều kiện về số lượng tờ khai xuất khẩu, nhập khẩu: số tờ khai đã làm

thủ tục hải quan đứng tên đại lý hải quan trong năm đạt từ 20.000 tờ khai/năm

trở lên.

- Đại lý hải quan phải đáp ứng điều kiện về chấp hành tốt pháp luật về kế

toán, kiểm toán: Áp dụng các chuẩn mực kế toán theo quy định của Bộ Tài

chính; Báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi công ty kiểm toán

đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán theo quy định của pháp luật về kiểm

toán độc lập. Ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính nêu trong báo cáo kiểm toán

phải là ý kiến chấp nhận toàn phần theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.

137

- Điều kiện về hệ thống kiểm soát nội bộ: Đại lý hải quan phải thực hiện

và duy trì hệ thống, quy trình quản lý, giám sát, kiểm soát vận hành thực tế trong

toàn bộ dây chuyền cung ứng hàng hóa xuất, nhập khẩu của mình.

Định kỳ ba năm, Tổng cục Hải quan đánh giá các điều kiện áp dụng chế

độ ưu tiên, đánh giá tuân thủ pháp luật hải quan, pháp luật thuế để tự động gia

hạn áp dụng chế độ ưu tiên cho đại lý hải quan. Đại lý hải quan trong thời gian

được áp dụng chế độ ưu tiên hải quan nếu vi phạm pháp luật, tùy theo tính chất,

mức độ vi phạm, vẫn bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đại lý hải quan bị

đình chỉ áp dụng chế độ ưu tiên nếu không còn đáp ứng một trong các điều kiện

để áp dụng chế độ ưu tiên như đã nêu ở trên hoặc do đại lý đề nghị tạm dừng áp

dụng chế độ ưu tiên. Trường hợp đại lý hải quan đã bị đình chỉ áp dụng chế độ

ưu tiên thì trong hai năm tiếp theo, đại lý hải quan đó không được Tổng cục Hải

quan xem xét, công nhận doanh nghiệp ưu tiên. Hết thời hạn nêu trên, nếu đại lý

hải quan muốn được công nhận là doanh nghiệp ưu tiên thì phải thực hiện lại thủ

tục đề nghị công nhận doanh nghiệp ưu tiên gửi Cục Hải quan tỉnh, thành phố

nơi đại lý hải quan có trụ sở chính.

Theo quan điểm của NCS, các điều kiện để được áp dụng chế độ ưu tiên

đối với các đại lý hải quan như trên là hoàn toàn phù hợp đối với các đại lý hải

quan quy mô lớn, có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực giao nhận và

logistics. Tuy nhiên, số đại lý hải quan này không nhiều, trong khi mong muốn

của cơ quan hải quan là phát triển đại lý hải quan cả về số lượng và quy mô. Qua

khảo sát sơ bộ của NCS, trong số các đại lý hải quan đang hoạt động hiện nay,

có khoảng 10 - 12 đại lý hải quan đáp ứng đủ điều kiện để được công nhận là đại

lý ưu tiên. Tuy nhiên, những đại lý hải quan này có lập hồ sơ đề nghị cơ quan

Hải quan công nhận là đại lý ưu tiên hay không thì lại phụ thuộc ý muốn chủ

quan của chính các đại lý này. Chính vì vậy, trong thời gian trước mắt, cơ quan

hải quan cần triển khai thực hiện có hiệu quả chế độ ưu tiên hải quan đối với các

đại lý hải quan đủ điều kiện. Cụ thể, cần sử dụng triệt để phương pháp giáo dục,

tuyên truyền để các đại lý hải quan hiểu rõ hơn về các chế độ ưu tiên hải quan

mà doanh nghiệp sẽ được hưởng, triển khai áp dụng ngay các ưu tiên trong giai

138

đoạn thông quan cho các đại lý đã được công nhận đại lý ưu tiên. Những đại lý

ưu tiên này sẽ là hạt nhân khuyến khích các đại lý hải quan khác mở rộng quy

mô, nâng cao chất lượng dịch vụ, phấn đấu thỏa mãn các điều kiện để trở thành

đại lý ưu tiên.

Ngoài ra, cần tăng cường thoả thuận công nhận lẫn nhau về chương trình

đại lý hải quan ưu tiên giữa Hải quan Việt Nam với Hải quan các nước trên thế

giới. Vì khi đại lý hải quan Việt Nam làm thủ tục xuất khẩu cho một lô hàng và

thủ tục nhập khẩu cho lô hàng đó vào nước khác, đại lý hải quan sẽ được hưởng

một số ưu đãi nhất định từ nước nhập khẩu. Để được cấp giấy chứng nhận đại lý

hải quan ưu tiên, các đại lý hải quan phải đáp ứng những yêu cầu rất chặt chẽ và

toàn diện về mức độ tuân thủ pháp luật; về công nghệ thông tin và hệ thống

thông tin thương mại; về hệ thống kế toán, kiểm soát nội bộ; khả năng tài chính

và cuối cùng là về an ninh, an toàn.

4.2.4 Sớm thành lập Hiệp hội đại lý hải quan Việt Nam

Hiệp hội là tổ chức tự nguyện của các doanh nghiệp hoạt động trong cùng

một lĩnh vực, cùng nhau đoàn kết góp sức lực hoạt động thường xuyên, không

vụ lợi, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên, hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu

quả, nhằm đạt được mục tiêu phát triển ngành. Hiệp hội đại lý hải quan hoạt

động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải kinh phí. Hiệp hội đại lý

hải quan sẽ trở thành một trong những bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị

trường và ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, vai trò ngày càng

nâng cao. Đây là sự phát triển phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường.

Hiệp hội đại lý hải quan tuy chưa được hình thành ở Việt Nam, nhưng

chắc chắn rằng khi ra đời, vai trò và vị trí của nó là không thể thiếu trong việc

thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Việc thành lập Hiệp hội đại lý hải quan thực

sự là một việc quan trọng và cần thiết, bởi vì:

- Thông qua Hiệp hội, các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu sẽ được

cung cấp thông tin đa chiều, các đại lý hải quan sẽ được hỗ trợ phát triển, bảo vệ

quyền lợi và mở rộng kinh doanh, đồng thời giúp tăng cường mối quan hệ giữa

Hiệp hội với các đơn vị kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu khác. Nền kinh tế càng

139

phát triển, số lượng doanh nghiệp tăng lên, ngành nghề đa dạng hơn thì số lượng

hội viên thuộc Hiệp hội cũng sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu của các doanh

nghiệp và của nền kinh tế. Chính nhờ thông qua Hiệp hội mà doanh nghiệp có

điều kiện tiếp cận với thị trường rộng lớn hơn, được hưởng các dịch vụ tốt hơn,

được bảo vệ và hỗ trợ phát triển tốt hơn, tránh lãng phí các nguồn lực. Nếu Hiệp

hội đại lý hải quan hoạt động tốt và gắn kết với các doanh nghiệp thì sẽ tạo môi

trường kinh doanh thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Việc các doanh nghiệp hoạt động tốt sẽ

là điều kiện cho Hiệp hội nâng cao vai trò và uy tín của mình. Như vậy, giữa các

doanh nghiệp và Hiệp hội có mối quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau, không thể

tách rời. Hiệp hội muốn tồn tại phải có sự tham gia ủng hộ của các doanh nghiệp

hội viên, mặt khác các doanh nghiệp muốn phát triển, nhất là các doanh nghiệp

xuất khẩu muốn nâng cao vai trò cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu của mình thì

cũng rất cần sự hỗ trợ của Hiệp hội.

- Hiệp hội đại lý hải quan chính là một cầu nối quan trọng giữa Nhà nước

và Doanh nghiệp. Hiệp hội đại lý hải quan có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến

đường lối, chính sách của Nhà nước đến các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp

hiểu đúng và tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Hiệp hội còn hỗ trợ, định hướng

cho các doanh nghiệp xuất khẩu tìm kiếm cơ hội phát triển, nâng cao năng lực

cạnh tranh trên thị trường cũng như giúp cho các doanh nghiệp hiểu biết các quy

định pháp luật của quốc gia và quốc tế liên quan đến thủ tục hải quan khi xuất

khẩu, nhập khẩu hàng hoá.

Việc hình thành Hiệp hội đại lý hải quan ở Việt Nam là hoàn toàn phù

hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập vào nền

kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời Nhà nước cũng đang từng bước trao quyền

tự chủ cho các doanh nghiệp để sử dụng các nguồn lực cho xã hội đạt hiệu quả

cao hơn. Nhà nước sẽ đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp chủ yếu bằng

pháp luật. Do vậy, vai trò của Hiệp hội đại lý hải quan chắc chắn sẽ được khẳng

định và sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong việc tham gia xây dựng chính sách

và trợ giúp doanh nghiệp tham gia hoạt động XNK hàng hoá nâng cao hiệu quả

140

và sức cạnh tranh cả trên phạm vi quốc gia và quốc tế, không chỉ bằng phẩm cấp

hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao, mà còn bằng nghệ thuật quản lý, chiến lược

phát triển và giữ vững thị trường, để ngày càng có nhiều người tiêu dùng sử

dụng hàng hoá và dịch vụ của mình.

Hiệp hội đại lý hải quan là tổ chức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong

quản lý hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam. Hiệp hội đại lý hải quan với tư

cách là đại diện cho các đại lý hải quan thực hiện một số công việc quan trọng

sau (xem sơ đồ 4.1):

Sơ đồ 4.1: Vai trò của Hiệp hội đại lý hải quan Việt Nam

Hiệp hội đại lý hải quan

Đề xuất giải pháp mới cho tương lai

Cầu nối giữa các thành viên và doanh nghiệp

Tổ chức phát triển giáo dục, hội thảo, hội nghị,…

Cụ thể, Hiệp hội sẽ phối hợp tích cực với Tổng cục Hải quan, Bộ Tài

chính và các cơ quan có liên quan khác trong việc xây dựng và hoàn thiện các

văn bản pháp luật cần thiết cho hoạt động của đại lý hải quan. Phối hợp với các

cơ quan ban ngành, đề xuất ý kiến và tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình

quản lý hoạt động của đại lý hải quan. Hàng năm, Hiệp hội chịu trách nhiệm báo

cáo đầy đủ danh sách và tình hình hoạt động của các đại lý hải quan cho Tổng

cục Hải quan, Bộ Tài chính, đồng thời thông báo qua các phương tiện thông tin

đại chúng cho các đối tượng là các doanh nghiệp XNK, các đơn vị cần dịch vụ.

Ngoài ra, Hiệp hội sẽ tổ chức hướng dẫn, phổ cập các văn bản pháp luật về hành

nghề dịch vụ đại lý hải quan đến tất cả hội viên là các đại lý hải quan, các tổ

chức cá nhân có liên quan.

Hiệp hội đại lý hải quan cần phải thường xuyên tiến hành tổng kết hoạt

động thực tiễn trong nước, khai thác, chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài và

141

đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cần nghiên cứu kỹ các thông lệ

quốc tế để hoàn thiện và nâng cao hoạt động quản lý việc đăng ký và quản lý

hoạt động của đại lý hải quan sao cho phù hợp với thực tiễn trong nước và thông

lệ quốc tế. Cung cấp và nhận đăng ký tham gia các hội nghị, hội thảo quốc gia và

quốc tế về nghiệp vụ làm thủ tục hải quan cho các đối tượng quan tâm. Tích cực

tìm kiếm và cải tiến chính sách của Chính phủ và thay mặt cho các thành viên

tiếp xúc với khách hàng của họ, cung cấp cố vấn và hướng dẫn cho các thành

viên về luật lệ quốc gia, cũng như các thông lệ quốc tế.

Trong giai đoạn trước mắt, Tổng cục Hải quan cần sử dụng hiệu quả

phương pháp quản lý giáo dục thông qua việc thường xuyên tuyên truyền cho

các doanh nghiệp hiểu về vai trò của Hiệp hội đại lý hải quan đối với sự phát

triển của đại lý hải quan. Hình thức tuyên truyền có thể được thực hiện qua các

cuộc họp, hội thảo, trong các cuộc hội thảo hoặc tiếp xúc giữa cơ quan Hải quan

với cộng đồng doanh nghiệp. Mục đích của tuyên truyền để các doanh nghiệp

nhận thấy việc nhanh chóng thành lập Hiệp hội đại lý hải quan là xuất phát từ

nhu cầu thực tế của các đại lý hải quan.

Bên cạnh đó, cần xem xét việc thành lập một Hiệp hội Đại lý hải quan độc

lập hay phụ thuộc một tổ chức nào đó, ví dụ Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt

Nam. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu thành lập riêng một Hiệp hội đại lý hải quan sẽ

dẫn đến chồng chéo với hoạt động của Hiệp hội Giao nhận, vì hiện nay, trong

Hiệp hội Giao nhận có đến 40% thành viên là các doanh nghiệp đại lý hải quan,

hơn nữa, dịch vụ đại lý hải quan chỉ là một trong những công việc của dịch vụ

giao nhận, logistics.

NCS xin đề xuất lộ trình thành lập Hiệp hội Đại lý hải quan ở Việt Nam

như sau:

- Trong năm 2016, nâng cấp hoạt động của Ban Đại lý hải quan (thuộc

Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam) thành Hiệp hội Đại lý hải quan Việt

Nam, là cơ quan phát ngôn của cộng đồng đại lý hải quan ở Việt Nam, với

những thành viên Hiệp hội ban đầu là thành viên của Hiệp hội Giao nhận.

- Từ năm 2017 đến năm 2019 mở rộng quy mô thành viên Hiệp hội.

142

- Phấn đấu đến năm 2020 tách Hiệp hội Đại lý hải quan Việt Nam khỏi

Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam và hoạt động như một Hiệp hội ngành

nghề độc lập.

4.2.5 Tổ chức bộ máy quản lý đại lý hải quan theo hướng hiện đại,

chuyên nghiệp

Cần xác định việc phát triển đại lý hải quan là một trong những giải pháp

nhằm thực hiện thành công mục tiêu cải cách, hiện đại hóa hải quan trong giai

đoạn tới. Khi đó, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đại lý hải quan, thủ tục hải

quan điện tử sẽ được triển khai thuận lợi và thành công hơn, thậm chí còn nhanh

chóng hơn so với việc triển khai trực tiếp tại từng doanh nghiệp. Muốn vậy,

trong những giải pháp phát triển thủ tục hải quan điện tử, phải chú trọng giải

pháp tạo điều kiện với đối tượng là đại lý hải quan, song song với việc bổ sung

quy chế thực hiện kiểm soát đại lý hải quan thông qua khai hải quan điện tử.

Trên thế giới đã có nhiều nước thực hiện thành công thủ tục hải quan điện tử một

phần lớn là nhờ có đội ngũ làm thủ tục hải quan chuyên nghiệp và lớn mạnh,

thành công nhất đó là Nhật Bản. Hiện nay, khoảng 90-95% thủ tục hải quan ở

Nhật Bản được thực hiện thông qua đại lý hải quan và hầu hết được thực hiện

thông qua hải quan điện tử. Điều này tạo ra sự khác biệt một cách đặc biệt mà

bất cứ doanh nghiệp nào khi xuất khẩu vào thị trường này đều nhận thấy và rất

hài lòng về chất lượng dịch vụ đại lý hải quan [62].

Hiện nay hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam đang từng bước phát triển,

nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực kinh doanh XNK bắt đầu có thói quen

sử dụng dịch vụ đại lý hải quan, chi phí cho đại lý hải quan được thừa nhận và

được hạch toán vào chi phí của doanh nghiệp, hoạt động của đại lý hải quan đã

giúp cho hoạt động thương mại phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những mặt được,

hoạt động của đại lý hải quan vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: không có khả

năng thực hiện các công việc được ủy nhiệm, không có khả năng tài chính,

chuyên môn, hoạt động đại lý hải quan với người ủy thác không có hợp đồng nên

thù lao ủy thác không được trả công khai, đại lý hải quan sau khi được công

nhận nhưng lại không có nhân viên đại lý,... Do vậy, để đưa hoạt động kinh tế đi

143

vào nề nếp, đòi hỏi cơ quan nhà nước cần tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ

hoạt động của đại lý hải quan bằng các chế tài nghiêm khắc, nhưng vẫn tạo điều

kiện thuận lợi cho hoạt động đại lý hải quan phát triển. Hoàn thiện và nâng cao

chất lượng của mô hình quản lý đối với các đại lý hải quan, cụ thể mô hình quản

lý đối với đại lý hải quan ở Việt Nam xin đề xuất theo sơ đồ 4.2 sau.

Sơ đồ 4.2. Mô hình quản lý đối với đại lý hải quan ở Việt Nam

TỔNG CỤC HẢI QUAN

Đơn vị đào tạo

Cục Giám sát quản lý về Hải quan

Cục Hải quan tỉnh,

thành phố

Các cơ quan quản lý nhà nước khác

Hiệp hội Đại lý

hải quan Việt Nam

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

Đại lý hải quan

Nhân viên đại lý hải quan

Quan hệ mang tính cung cấp dịch vụ đào tạo và bồi dưỡng

Quan hệ đối tác,trao đổi hai chiều mang tính hành chính

Quan hệ hợp tác và phối hợp hai chiều

Quan hệ quản lý trực tuyến

Trong đó:

144

Để có được mô hình quản lý đại lý hải quan hoàn thiện, cần phải xây dựng

một cơ cấu quản lý gọn nhẹ và một đội ngũ cán bộ quản lý có chất lượng. Trên

thực tế, cả hai yếu tố này trong cơ quan hải quan Việt Nam (cấp Tổng cục, cấp

Cục và Chi cục) chưa được quan tâm đúng mức. Cần có một cơ cấu quản lý dọc

theo các cấp để quản lý loại hình dịch vụ này. Bộ phận này có thể được biên chế

hành chính trong các phòng nghiệp vụ của cả ba cấp. Số biên chế cho hoạt động

quản lý phải được lên kế hoạch trên cơ sở yêu cầu của công tác quản lý, số lượng

các đại lý hải quan hoạt động của địa phương đó. Trước mắt, với số lượng đại lý

hải quan và nhân viên đại lý hải quan chưa nhiều, cơ cấu bộ máy quản lý đại lý

hải quan vẫn có thể duy trì như hiện tại: ở cấp Tổng cục thuộc Phòng Tổng hợp -

Cục Giám sát quản lý về hải quan, cấp Cục Hải quan thuộc Phòng Giám quản

hoặc Phòng Nghiệp vụ. Trong tương lai, khi hầu hết các doanh nghiệp XNK

thực hiện thủ tục hải quan thông qua đại lý hải quan, để tạo thuận lợi cho hoạt

động quản lý đại lý hải quan, tại cấp Tổng cục, cụ thể tại Cục Giám sát quản lý

về hải quan, nên xem xét tách bộ phận công chức phụ trách quản lý đại lý hải

quan khỏi Phòng Tổng hợp, thành lập Phòng Giám quản đại lý hải quan thực

hiện chức năng chuyên trách về quản lý đại lý hải quan. Tại cấp Cục Hải quan có

thể vẫn tiếp tục duy trì đội ngũ công chức quản lý tại Phòng Nghiệp vụ hoặc

Phòng Giám quản.

Khi đã có mô hình cơ cấu quản lý phù hợp để triển khai thực hiện có hiệu

quả, cơ quan hải quan cần lựa chọn cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và phải

được đào tạo bài bản về công tác quản lý đại lý hải quan. Nếu chưa có cán bộ đủ

tiêu chuẩn, có thể cử đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý đại lý hải quan ở

các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, đặc biệt có thể liên hệ với Tổ chức Hải

quan thế giới (WCO), Hải quan ASEAN và Hải quan các quốc gia có hoạt động

đại lý hải quan phát triển để hợp tác đào tạo nguồn nhân lực quản lý đại lý hải

quan ở Việt Nam. Những việc làm thiết thực đó chắc chắn sẽ có được đội ngũ

quản lý hiểu về đại lý hải quan để xây dựng và phát triển đại lý hải quan phù hợp

và biết vận dụng cơ chế quản lý để đưa ra các chính sách quản lý thúc đẩy đại lý

hải quan phát triển bền vững, chuyên nghiệp và hiệu quả.

145

4.2.6 Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ và hiệu quả trong quản lý

đại lý hải quan

Cơ chế phối kết hợp trong quản lý đại lý hải quan chính là phương thức tổ

chức hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước nói chung và cơ quan hải quan nói

riêng với đại lý hải quan để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm

thực hiện mục tiêu chung. Cơ chế phối kết hợp tồn tại trong suốt quá trình quản

lý đại lý hải quan, từ hoạch định chính sách, tạo lập môi trường hoạt động, đến

việc tổ chức thực thi cơ chế, chính sách, pháp luật. Mục tiêu cuối cùng của phối

hợp là tạo ra sự thống nhất, đồng thuận, bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong

quản lý đại lý hải quan.

Thời gian qua, quan hệ đối tác giữa cơ quan hải quan và đại lý hải quan đã

được chú trọng nhằm tạo thuận lợi cho thương mại, thúc đẩy hoạt động đại lý hải

quan phát triển. Cụ thể, cơ quan hải quan đã xây dựng cơ chế hỗ trợ và phối kết

hợp đối với các đại lý hải quan về thông tin, văn bản pháp luật, đào tạo, bồi

dưỡng nguồn nhân lực, kỹ thuật kết nối với các cơ quan quản lý nhà nước trong

việc khai hải quan và thực thi chế độ báo cáo tình hình hoạt động… Tuy nhiên,

xuất phát từ những hạn chế về cơ chế phối kết hợp trong quản lý đại lý hải quan

ở Việt Nam thời gian qua, cần tăng cường hơn nữa cơ chế phối kết hợp trong

quản lý đại lý hải quan giữa các cơ quan quản lý nhà nước, trong nội bộ ngành

hải quan cũng như hợp tác với cộng đồng đại lý hải quan. Cụ thể như sau:

- Xây dựng quy trình phối kết hợp trong việc cung cấp, trao đổi thông tin

giữa các đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan. Mỗi Cục Hải quan cần quản lý chặt

chẽ hệ thống đại lý hải quan của mình, nhưng vẫn đủ thông thoáng, tạo điều kiện

thuận lợi cho đại lý hải quan phát triển, là cầu nối giữa đại lý hải quan và doanh

nghiệp.

- Phối hợp với Cục Công nghệ thông tin và thống kê nhà nước về hải quan

và các đơn vị quản lý cơ sở dữ liệu thông tin thuộc Tổng cục Hải quan đảm bảo

thuận lợi cho việc khai thác thông tin trên các cơ sở dữ liệu hiện có, phục vụ việc

quản lý đại lý hải quan được tập trung và thống nhất.

146

- Phối hợp với Ban Quản lý rủi ro tiếp tục xây dựng bộ cơ sở dữ liệu quản

lý các doanh nghiệp XNK nói chung và hoàn thiện các tiêu chí phục vụ quản lý

rủi ro đối với đại lý hải quan nói riêng.

- Hoàn thiện các quy định và tăng cường hiệu lực về sự phối hợp giữa cơ

quan hải quan với các cơ quan quản lý nhà nước khác như Sở Kế hoạch và Đầu

tư, Cục Thuế, Ngân hàng nhà nước ở các tỉnh, thành phố trong việc kiểm tra và

nâng cao mức độ tuân thủ và thực thi pháp luật hải quan của các đại lý hải quan.

Cơ quan hải quan cần thực hiện đúng chức năng của cơ quan hành pháp thông

qua việc tích cực đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra

(bao gồm công tác hậu kiểm). Trong quá trình vận hành cơ chế quản lý, cần có

các văn bản liên tịch giữa các ngành Thuế, Kho bạc, giữa Bộ Tài chính với Bộ

Công thương, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan.

- Vấn đề được các đại lý hải quan quan tâm là những ưu đãi thực sự của

cơ quan hải quan dành cho đại lý hải quan. Thời gian qua, ngành hải quan đã có

quy định về áp dụng các biện pháp ưu đãi cho các đại lý hải quan như hỗ trợ cài

đặt phần mềm, ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ làm thủ tục hải quan, hỗ

trợ cho các đại lý hải quan khi phần mềm gặp sự cố, tổ chức đào tạo nghiệp vụ

cho đại lý hải quan và nhân viên đại lý hải quan… Trên thực tế, sự hỗ trợ này

chưa thực sự rõ nét. Chính vì vậy, cơ quan hải quan cần quan tâm thực hiện đầy

đủ hơn nữa về những hỗ trợ này.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao

nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể xã hội về vai trò và lợi ích

của đại lý hải quan, trong đó đặc biệt ưu tiên xây dựng cơ chế phối hợp, cung

cấp thông tin kịp thời cho các cơ quan thông tấn báo chí để công tác tuyên

truyền, phổ biến được thực hiện thường xuyên, liên tục và hiệu quả.

- Xây dựng Quy chế Tiếp nhận và xử lý thông tin về tình hình hoạt động

của đại lý hải quan để cơ quan hải quan có thể chia sẻ thông tin cho đại lý hải

quan và các doanh nghiệp XNK, cũng như các đại lý hải quan có thể dễ dàng

truy cập thông tin phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp. Đối với những đại

lý hải quan cố tình không tuân thủ, có hành vi gian lận thương mại, cơ quan hải

147

quan có thể công khai thông tin về các đại lý hải quan đó trên Cổng thông tin

điện tử của cơ quan hải quan.

4.2.7 Áp dụng đồng bộ và hiệu quả các phương pháp quản lý và công

cụ quản lý đại lý hải quan

Sự phát triển bền vững của đại lý hải quan ở Việt Nam cần có sự nỗ lực,

phối kết hợp từ nhiều phía: Nhà nước, Chính phủ, Tổng cục Hải quan và các

Cục, Chi cục Hải quan, ý thức của mỗi người dân, từ phía các doanh nghiệp và

quan trọng hơn cả là sự cố gắng từ phía các đại lý hải quan. Bởi sự hỗ trợ, giúp

đỡ của Tổng cục Hải quan cũng chỉ là giải pháp mang tính tạm thời. Phải khẳng

định không có giải pháp riêng biệt nào là hiệu quả mà phải thực hiện nhiều giải

pháp đồng bộ và quyết liệt, gắn phát triển đại lý hải quan với phát triển hải quan

điện tử, hiện đại hoá quy trình thủ tục hải quan, đổi mới cơ sở hạ tầng kỹ thuật

và công nghệ, đào tạo nhân lực,…

Hải quan Việt Nam cần kịp thời nắm bắt những điều kiện thuận lợi của

những nhân tố khách quan như sự phát triển của công nghệ thông tin, học hỏi

kinh nghiệm của các nước qua những đợt hội thảo, tập huấn, trao đổi kinh

nghiệm,… Đồng thời chủ động tạo điều kiện thúc đẩy những nhân tố chủ quan

hỗ trợ đại lý hải quan phát triển như kết hợp hài hòa các phương pháp quản lý và

công cụ quản lý đại lý hải quan. Trước tiên cần phải xác định, để quản lý đại lý

hải quan nhằm mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sự phát triển của đại lý

hải quan trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan, các cơ quan quản lý nhà nước nói

chung và cơ quan hải quan nói riêng cần áp dụng tổng hợp các phương pháp

quản lý và công cụ quản lý, trong đó tập trung ưu tiên một số phương pháp quản

lý và công cụ quản lý nhất định. Phương pháp quản lý đại lý hải quan phải mềm

dẻo, linh hoạt và có tính khả thi cao. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay nên coi

trọng phương pháp kinh tế và phương pháp giáo dục. Phương pháp kinh tế được

sử dụng nhằm tạo ra động lực kinh tế kích thích đại lý hải quan phát triển, cụ thể

là sự hỗ trợ của cơ quan hải quan đối với đại lý hải quan về hạ tầng công nghệ

thông tin, nâng cao trình độ cho nhân viên đại lý hải quan, thực hiện chế độ ưu

tiên đối với đại lý hải quan đủ điều kiện… Bên cạnh đó cần áp dụng thường

148

xuyên, liên tục phương pháp tuyên truyền, giáo dục đối với các đại lý hải quan.

Bởi việc sử dụng phương pháp kinh tế hay hành chính để điều chỉnh hành vi của

đại lý hải quan suy cho cùng vẫn chỉ là tác động bên ngoài, do đó không triệt để,

toàn diện. Một khi không có những ngoại lực này nữa, đại lý hải quan có thể vì

lợi ích cá nhân mà không tuân thủ sự quản lý của cơ quan hải quan. Hơn nữa,

bản thân phương pháp hành chính hay kinh tế cũng phải qua hoạt động thuyết

phục, giáo dục thì mới truyền tới được đại lý hải quan. Chính vì vậy, phương

pháp giáo dục phải được sử dụng một cách sáng tạo và linh hoạt nhằm nâng cao

tính tự giác, tích cực thi hành nhiệm vụ của đại lý hải quan cũng như nâng cao

nhận thức về tính tất yếu khách quan của sự phát triển đại lý hải quan trong bối

cảnh hiện đại hóa hải quan đối với toàn thể xã hội.

Nếu các phương pháp quản lý là cách thức tác động có chủ đích của cơ

quan hải quan lên đại lý hải quan và hoạt động đại lý hải quan thì công cụ quản

lý là tổng thể những phương tiện mà cơ quan hải quan sử dụng để tác động lên

đại lý hải quan và hoạt động đại lý hải quan nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề

ra. Cụ thể trong bối cảnh hiện nay, cơ quan hải quan cần tăng cường sử dụng

một số công cụ quản lý nhất định. Đó là công cụ kế hoạch để hoạch định chính

sách phát triển bền vững cho đại lý hải quan, xây dựng các chương trình hỗ trợ

phát triển đại lý hải quan. Công cụ pháp luật được sử dụng để thể hiện ý chí,

quyền lực của Nhà nước trong việc điều chỉnh hoạt động đại lý hải quan và các

quan hệ của đại lý hải quan. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ pháp luật thông

qua ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh đại lý hải quan và hoạt

động đại lý hải quan cần phải đơn giản, hiệu quả, không rườm rà và luôn đặt

trong bối cảnh cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi tối đa

cho đại lý hải quan.

4.2.8 Tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức hải quan quốc tế

Với khoảng thời gian hơn 20 năm hình thành và phát triển, hoạt động đại

lý hải quan ở Việt Nam đang dần được hoàn thiện và có xu hướng phát triển

mạnh trong thời gian tới. Công tác quản lý nhà nước đối với loại hình dịch vụ

này chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Trong khi đó, loại hình dịch vụ này đã

149

tồn tại hàng trăm năm ở các nước phát triển, điều này cũng đồng nghĩa với công

tác quản lý nhà nước đối với đại lý hải quan ở các nước này rất phát triển. Việc

tăng cường hợp tác với tổ chức Hải quan thế giới, Hải quan các nước Nhật Bản,

Hàn Quốc, Hoa Kỳ… sẽ giúp cho Hải quan Việt Nam tiếp cận được với phương

pháp quản lý hiện đại và có thể phối hợp trong đào tạo bồi dưỡng nhân lực quản

lý với chi phí thấp, do có được sự tư vấn và hỗ trợ của Hải quan các nước. Điều

này cũng đem lại lợi ích gián tiếp cho các nhà đầu tư của họ ở Việt Nam, khi chi

phí về thời gian, tài chính cho hoạt động xuất nhập khẩu được giảm xuống.

Sự hợp tác trong lĩnh vực quản lý đại lý hải quan giữa Hải quan Việt Nam

với Hải quan các nước có thể được thực hiện dưới các hình thức sau:

- Tư vấn cho Tổng cục Hải quan trong hoàn thiện cơ chế quản lý, trong

xây dựng cơ cấu quản lý và trong lựa chọn và đào tạo nhân lực quản lý đại lý hải

quan.

- Cử chuyên gia tham quan, trao đổi kinh nghiệm và nghiệp vụ quản lý đại

lý hải quan.

- Ký các hợp tác theo dự án hỗ trợ cả về kỹ thuật và tài chính theo hình

thức có hoàn lại ưu đãi để nâng cấp năng lực quản lý của Tổng cục Hải quan nói

chung và bộ phận quản lý đại lý hải quan nói riêng.

- Liên hệ chính thức với Hiệp hội Đại lý hải quan quốc tế (IFCBA) để có

sự trợ giúp về kỹ thuật và học hỏi kinh nghiệm quản lý, phản biện các bản dự

thảo chỉnh sửa, bổ sung hay ban hành các văn bản pháp quy liên quan tới công

tác quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam.

Kết luận chương 4

1. Mục tiêu của Hải quan Việt Nam đến năm 2020 là phải hoàn thành việc

cải cách, chuyển đổi các hoạt động nghiệp vụ hải quan theo chuẩn mực của một

tổ chức hải quan hiện đại, phù hợp với khu vực và quốc tế. Từ đó Luận án đã đặt

ra yêu cầu phát triển và quản lý đại lý hải quan theo hướng chuyên nghiệp, nhà

nghề trong bối cảnh cải cách, hiện đại hóa hải quan, đáp ứng yêu cầu phát triển

của nền kinh tế nói chung và hoạt động XNK nói riêng.

150

2. Luận án đã đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan,

tạo điều kiện thuận lợi cho đại lý hải quan phát triển, phù hợp với tiến trình hiện

đại hóa hải quan ở Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại

và đầu tư quốc tế. Đó là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập môi trường cho

sự phát triển của đại lý hải quan; Tập trung đào tạo nâng cao kỹ năng nghề cho

nhân viên đại lý hải quan; Triển khai thực hiện có hiệu quả chế độ ưu tiên hải

quan đối với đại lý hải quan đủ điều kiện; Sớm thành lập Hiệp hội đại lý hải

quan Việt Nam; Tổ chức bộ máy quản lý đại lý hải quan theo hướng hiện đại,

chuyên nghiệp; Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt chẽ và hiệu quả trong quản lý

đại lý hải quan; Áp dụng đồng bộ và hiệu quả các phương pháp quản lý và công

cụ quản lý đại lý hải quan; Tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức hải quan

quốc tế.

151

KẾT LUẬN

Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách, hiện đại hóa hải quan, trong đó phát

triển đại lý làm thủ tục hải quan là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Hải

quan Việt Nam đặt ra trong Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020, được

cụ thể hóa trong Kế hoạch cải cách, hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2010-

2015. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, thời điểm mà ngành Hải quan chính

thức vận hành hệ thống hải quan điện tử và đưa hệ thống VNACCS/VCIS vào

hoạt động, việc phát triển đội ngũ đại lý hải quan chuyên nghiệp là rất quan

trọng và cần thiết, để đại lý hải quan thực sự là “cánh tay nối dài” của cơ quan

Hải quan.

Sau khi nghiên cứu đề tài luận án “Quản lý đại lý làm thủ tục hải quan ở

Việt Nam”, NCS rút ra một số kết luận sau:

1. Đại lý hải quan là “người” thay mặt chủ hàng hoá xuất nhập khẩu thực

hiện trách nhiệm của người khai hải quan và thực hiện các công việc khác về thủ

tục hải quan theo thoả thuận trong hợp đồng. Quản lý đại lý hải quan là sự tác

động của cơ quan quản lý nhà nước đến đại lý hải quan và hoạt động của đại lý

hải quan nhằm đạt được các mục tiêu nhất định bằng các phương pháp quản lý

và công cụ quản lý nhất định. Quản lý đại lý hải quan là nhu cầu tất yếu của quá

trình cải cách, hiện đại hóa hải quan. Nội dung của quản lý đại lý hải quan bao

gồm: Định hướng sự phát triển của đại lý hải quan; Tạo lập môi trường cho sự

phát triển của đại lý hải quan; Tổ chức bộ máy quản lý đối với đại lý hải quan;

Thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của đại lý hải quan; và Điều chỉnh hoạt

động của đại lý hải quan.

2. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý đại lý hải quan của một số

nước trên thế giới, luận án đã rút ra các bài học cho quản lý đại lý hải quan ở

Việt Nam. Đó là các bài học về: hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động đại lý

hải quan; coi trọng hoạt động đầu tư phát triển dịch vụ đại lý hải quan nhằm bắt

kịp xu thế hiện đại hóa hải quan và phù hợp với thông lệ quốc tế; thành lập Hiệp

hội đại lý hải quan đại diện quyền lợi cho các đại lý hải quan và là cầu nối giữa

152

đại lý hải quan và các cơ quan quản lý nhà nước; và bài học về sự phối hợp chặt

chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về hải quan.

3. Mặc dù đã hình thành được một cơ sở pháp lý tương đối hoàn thiện,

nhưng nhìn chung hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam vẫn mang tính tự phát,

hoạt động chưa đúng với ý nghĩa, tỷ lệ hàng hóa được thông quan thông qua đại

lý hải quan còn thấp. Luận án đã đưa ra và phân tích những tồn tại, hạn chế trong

công tác quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua, đó là: chưa thúc đẩy

được sự phát triển của đại lý hải quan theo định hướng phát triển đại lý hải quan

trong bối cảnh cải cách và hiện đại hóa hải quan; hoạt động đại lý hải quan chưa

đảm bảo độ tin cậy cho các doanh nghiệp kinh doanh XNK; trình độ quản lý và

khả năng thích ứng của đại lý hải quan còn thấp, chưa thể hiện tính chất chuyên

nghiệp và chuyên môn hóa cao; chưa thiết lập được mối quan hệ giữa cơ quan

quản lý nhà nước và cộng đồng đại lý hải quan.

4. Luận án cũng chỉ rõ những nguyên nhân của hạn chế về phát triển đại

lý hải quan và quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời gian qua, đó là: do các

doanh nghiệp kinh doanh XNK ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là các doanh

nghiệp vừa và nhỏ, hoặc thậm chí là siêu nhỏ nên chưa có thói quen sử dụng đại

lý hải quan và thường tự làm thủ tục hải quan để tiết kiệm chi phí; một số quy

định trong các văn bản pháp luật về đại lý hải quan chưa đảm bảo tính minh

bạch, rõ ràng hoặc chưa phù hợp với thực tiễn; công tác tổ chức hoạt động đào

tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các nhân viên đại lý hải quan chưa đáp ứng tốt yêu

cầu cải cách và hiện đại hóa hải quan; cơ chế hỗ trợ và phối kết hợp giữa cơ

quan hải quan và các đại lý hải quan chưa thường xuyên và hiệu quả; chưa có

Hiệp hội đại lý hải quan đại diện tiếng nói chung của các đại lý hải quan và là

đầu mối liên hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng đại lý hải quan;

việc kiểm tra, giám sát hoạt động đại lý hải quan chưa thường xuyên, xử lý các

hành vi vi phạm pháp luật của đại lý hải quan chưa kịp thời.

5. Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý đại lý hải quan ở Việt Nam thời

gian qua, Luận án đã đề xuất tám giải pháp tăng cường quản lý đại lý hải quan

trong bối cảnh hiện đại hóa hải quan ở Việt Nam, đó là: Hoàn thiện hệ thống

153

pháp luật, tạo lập môi trường cho sự phát triển của đại lý hải quan; Tập trung đào

tạo nâng cao kỹ năng nghề cho nhân viên đại lý hải quan; Triển khai thực hiện

có hiệu quả chế độ ưu tiên hải quan đối với đại lý hải quan đủ điều kiện; Sớm

thành lập Hiệp hội đại lý hải quan Việt Nam; Tổ chức bộ máy quản lý đại lý hải

quan theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp; Xây dựng cơ chế phối kết hợp chặt

chẽ và hiệu quả trong quản lý đại lý hải quan; Áp dụng đồng bộ và hiệu quả các

phương pháp quản lý và công cụ quản lý đại lý hải quan; và Tăng cường quan hệ

hợp tác với các tổ chức hải quan quốc tế.

Trong quá trình nghiên cứu luận án, mặc dù đã đưa ra những câu hỏi và

giả thiết nghiên cứu, nhưng do hạn chế về phạm vi và thời gian nghiên cứu nên

nhiều câu hỏi chưa được giải quyết thấu đáo, NCS xin để lại gợi mở cho những

nghiên cứu tiếp theo.

Mặc dù có sự cố gắng nhất định, song do thời gian nghiên cứu có hạn,

phạm vi đề tài khá rộng và còn mới mẻ đối với ngành Hải quan nên Luận án khó

tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. NCS hy vọng rằng những nghiên cứu

của Luận án sẽ có đóng góp nhất định cho hoạt động quản lý đại lý hải quan

trong tiến trình cải cách, hiện đại hóa hải quan ở Việt Nam. NCS rất mong nhận

được sự đóng góp của quý thầy cô, các bạn đồng nghiệp và những người quan

tâm để Luận án tiếp tục hoàn thiện và phát huy hiệu quả cao trong thực tiễn./.

154

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Thái Bùi Hải An (2014), “Đại lý làm thủ tục hải quan – Lợi ích thiết thực

đối với doanh nghiệp kinh doanh XNK”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán,

số 02/2014 (127), tr.46-48.

2. Thái Bùi Hải An (2014), “Hiệp hội đại lý làm thủ tục hải quan – Giải

pháp quản lý hữu hiệu đối với hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan hiện nay”,

Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 7/2014 (132), tr.46-48.

155

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo đánh giá giữa kỳ tình hình thực

hiện kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.

2. Bộ Tài chính (2005), Thông tư số 73/2005/TT-BTC ngày 05/09/2005 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

79/2005/NĐ-CP.

3. Bộ Tài chính (2008), Quyết định số 456/QĐ-BTC ngày 14/3/2008 của Bộ

trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại

hóa ngành Hải quan giai đoạn 2008-2010.

4. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 80/2011/TT-BTC ngày 09/6/2011 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về điều kiện đăng ký và

hoạt động của đại lý hải quan.

5. Bộ Tài chính (2011), Quyết định số 1514/QĐ-BTC ngày 22/6/2011 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt Kế hoạch Phát triển, cải cách và hiện đại hóa

hải quan giai đoạn 2011-2015.

6. Bộ Tài chính (2012), Thông tư số 196/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012

của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa

xuất khẩu, nhập khẩu thương mại.

7. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 86/2013/TT-BTC ngày 27/6/2013 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định cụ thể áp dụng chế độ ưu tiên trong quản lý

nhà nước về hải quan đối với doanh nghiệp đủ điều kiện.

8. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 190/2013/TT-BTC ngày 12/12/2013

của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi tiết thi hành Nghị định số

127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan.

9. Bộ Tài chính (2014), Quyết định số 07/QĐ-BTC ngày 07/01/2014 của Bộ

trưởng Bộ Tài chính ban hành Kế hoạch cải cách hành chính của Bộ Tài chính

năm 2014.

156

10. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày 30/01/2015 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai

hải quan; cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan; trình tự, thủ

tục công nhận và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan.

11. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải

quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất

khẩu, nhập khẩu.

12. Chính phủ (2001), Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục

hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan.

13. Chính phủ (2005), Nghị định số 79/2005/NĐ-CP ngày 16/06/2005 của

Chính phủ quy định về điều kiện đăng kí và hoạt động của đại lý hải quan.

14. Chính phủ (2006), Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hàng hóa dịch vụ cấm

kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.

15. Chính phủ (2011), Nghị định số 14/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2011 của

Chính phủ quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động đại lý hải quan.

16. Chính phủ (2013), Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết

định hành chính trong lĩnh vực hải quan.

17. Chính phủ (2015), Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 21/01/2015 của

Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải

quan, kiểm tra giám sát hải quan, kiểm soát hải quan.

18. Cù Thị Quỳnh Hoa (2011), Phát triển đại lý hải quan trong điều kiện hội

nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội.

19. Cục Giám sát quản lý về Hải quan, Tổng cục Hải quan (2000), Công ước

quốc tế về hài hoà và đơn giản hoá thủ tục hải quan (Công ước Kyoto sửa đổi và

bổ sung), Hà Nội.

157

20. Cục Giám sát quản lý về Hải quan (2012), Báo cáo lãnh đạo Tổng cục về

các giải pháp phát triển hoạt động đại lý hải quan, Hà Nội.

21. Cục Hải quan Đồng Nai (2013), Công văn số 1386/HQĐNa-CCHĐH

ngày 11/7/2013 của Cục Hải quan Đồng Nai về việc thông báo điều kiện, thủ tục

công nhận Doanh nghiệp ưu tiên.

22. Đào Duy Tám (2012), Phát triển dịch vụ đại lý làm thủ tục hải quan ở

Việt Nam - Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội.

23. Đoàn Minh Phụng (2010), Bàn về đào tạo đại lý bảo hiểm cho các doanh

nghiệp bảo hiểm Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 12/2010,

Hà Nội.

24. Hải Bằng (2006), Chuẩn hóa đại lý hải quan, Tạp chí Đầu tư Chứng

khoán, số 13/2006, Hà Nội.

25. Hoàng Trần Hậu, Nguyễn Thị Thương Huyền (2011), Giáo trình Hải

quan cơ bản, Nxb Tài chính, Hà Nội.

26. Luật Hải quan một số nước (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Luật Thương mại năm 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

28. Lương Thị Hòa (2014), Pháp luật về đại lý hải quan và thực tiễn áp dụng

tại Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội.

29. Khoa Khoa học Quản lý, Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2000), Giáo

trình Quản lý kinh tế (Tập 1), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

30. Khoa Khoa học Quản lý, Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2004), Giáo

trình Khoa học quản lý (Tập 1), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

31. Khoa Quản lý Kinh tế, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Nguyên lý Quản lý kinh tế, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

32. Khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính (2005), Những vấn đề lý luận

và thực tiễn về đại lý làm thủ tục hải quan, Hội thảo khoa học, Hà Nội.

33. Khoa Thuế và Hải quan (2012), Tài liệu đào tạo nghiệp vụ khai hải quan,

Hà Nội.

158

34. Ngọc Linh (2013), “Đại lý hải quan: Bao giờ mới phát”, Báo Hải quan

online, http://www.baohaiquan.vn/Pages/Dai-ly-thu-tuc-hai-quan-Bao-gio-moi-

phat.aspx.

35. Ngọc Linh (2013), “Đã đến lúc thành lập Hiệp hội đại lý hải quan?”, Báo

Hải quan online, http://www.baohaiquan.vn/Pages/Da-den-luc-thanh-lap-hiep-

hoi-dai-ly-hai-quan.aspx.

36. Ngô Minh Hải (2009), Sử dụng đại lý hải quan trong hoạt động xuất nhập

khẩu ở Việt Nam hiện nay, Đề tài NCKH cấp Bộ, Hà Nội.

37. Nguyễn Đức Lợi (2008), Giáo trình Khoa học quản lý, Nxb Tài chính, Hà

Nội.

38. Nguyễn Hoàng Tuấn & Thái Bùi Hải An (2013), Cơ chế hải quan một cửa

quốc gia: Kinh nghiệm các nước và đề xuất cho Việt Nam, Đề tài NCKH cấp

Học viện, Học viện Tài chính, Hà Nội.

39. Nguyễn Ngọc Sơn (2008), Nghiên cứu so sánh pháp luật Việt Nam và

Trung Quốc về hoạt động hải quan, Luận án Tiến sỹ, Hà Nội.

40. Nguyễn Phạm Hải (2012), Đổi mới hoạt động hải quan đáp ứng yêu cầu

hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sỹ, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Thương Huyền (2007), Quản lý đại lý làm thủ tục hải quan

còn nhiều trăn trở, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 11/2007, Hà Nội.

42. Nguyễn Thị Thương Huyền (2007), Quản lý dịch vụ khai hải quan trong

tiến trình hiện đại hóa hải quan, Đề tài NCKH cấp Học viện, Học viện Tài

chính, Hà Nội.

43. Nguyễn Thị Thương Huyền (2011), Giáo trình Quản trị tác nghiệp

thương mại quốc tế, Nxb Tài chính, Hà Nội.

44. Nguyễn Viết Trường (2008), Quy định về đại lý làm thủ tục hải quan, Tạp

chí Thương mại, số 10/2008, Hà Nội.

45. Nguyễn Xuân Điền (2014), Giáo trình Quản trị học, Nxb Tài chính, Hà

Nội.

46. Phan Công Sơn (2013), Đại lý hải quan – Chọn mặt gửi vàng thau (Bài 1);

Đào tạo đại lý hải quan: Khi lý thuyết không theo kịp thực tế (Bài 2); Đại lý hải

159

quan và Dịch vụ khai thuê: "Ai mạnh hơn ai"? (Bài 3); Có gì mới trong các quy

định về Đại lý hải quan thời gian tới đây? (Bài 4); Đào tạo Đại lý hải quan:

“Lắm mối tối nằm không” – Một số kiến nghị và giải pháp (Bài 5), Cổng thông

tin điện tử của Trường Hải quan Việt Nam, http://truonghaiquan. edu.vn/vi/dao-

tao-dai-ly-khai-hai-quan.nl173.html.

47. Phùng Thị Bích Hường (2013), Một số luận cứ khoa học để phục vụ việc

xây dựng các nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật Hải quan sửa đổi, Đề tài

NCKH cấp ngành, Hà Nội.

48. Quốc hội (2001), Luật Hải quan năm 2001.

49. Quốc hội (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Hải quan

năm 2005.

50. Quốc hội (2005), Luật Thương mại năm 2005.

51. Quốc hội (2007), Luật Quản lý thuế năm 2007.

52. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

53. Quốc hội (2014), Luật Hải quan năm 2014.

54. Thái Bùi Hải An & Phạm Thị Bích Ngọc (2012), Doanh nghiệp ưu tiên

đặc biệt – Kinh nghiệm của các nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Đề

tài NCKH cấp Học viện, Học viện Tài chính, Hà Nội.

55. Thu Hòa (2012), “Đại lí hải quan yếu thế trước dịch vụ khai thuê”, Báo

Hải quan online, http://www.baohaiquan.vn/Pages/Dai-li-hai-quan-khong-canh-

tranh-noi-voi-dich-vu-khai-thue.aspx.

56. Thu Hòa (2014), “Đại lý hải quan - cần thiết khi triển khai

VNACCS/VCIS” ”, Báo Hải quan online, (http://www.baohaiquan.vn/Pages/

Dai-ly-hai-quan-can-thiet-khi-trien-khai-VNACCS-VCIS.aspx)

57. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007

của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính

trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010.

58. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011

của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển Hải quan Việt Nam

đến năm 2020.

160

59. Tổng cục Hải quan (1999), Quyết định số 101/1999/QĐ-TCHQ ngày

08/04/1999 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành Quy chế tạm thời

dịch vụ hải quan, Hà Nội.

60. Tổng cục Hải quan (2004), Kế hoạch cải cách phát triển và hiện đại hóa

ngành hải quan giai đoạn 2004-2006, Hà Nội.

61. Tổng cục Hải quan (2008), Kế hoạch cải cách phát triển và hiện đại hóa

ngành hải quan giai đoạn 2008-2010, Hà Nội.

62. Tổng cục Hải quan (2010), Khai thuê Hải quan hiện hành tại Nhật Bản,

Hội thảo khoa học, Hà Nội.

63. Tổng cục Hải quan (2011), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Hải

quan (2001-2011), Hà Nội.

64. Tổng cục Hải quan (2011), Báo cáo tổng hợp kết quả rà soát Luật Hải

quan năm 2011, sửa đổi năm 2005, Hà Nội.

65. Tổng cục Hải quan (2011), Công văn số 3434/TCHQ-GSQL ngày

19/7/2011 của Tổng cục Hải quan về việc triển khai thực hiện Nghị định số

14/2011/NĐ-CP và Thông tư số 80/2011/TT-BTC về hoạt động đại lý làm thủ

tục hải quan, Hà Nội.

66. Tổng cục Hải quan (2011), Công văn số 4436/TCHQ-GSQL ngày

13/9/2011 của Tổng cục Hải quan về việc vướng mắc về Chứng chỉ nghiệp vụ

khai hải quan, Hà Nội.

67. Tổng cục Hải quan (2011), Công văn số 6635/TCHQ-GSQL ngày

29/12/2011 của Tổng cục Hải quan về việc đào tạo nghiệp vụ khai hải quan, Hà

Nội.

68. Tổng cục Hải quan (2011), Quyết định số 2333/QĐ-TCHQ ngày

24/10/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về việc ban hành Quy chế

về tổ chức đào tạo và thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan cho nhân viên

đại lý làm thủ tục hải quan, Hà Nội.

69. Tổng cục Hải quan (2011), Quyết định số 2429/QĐ-TCHQ ngày

09/11/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về việc phê duyệt Khung

chương trình đào tạo nghiệp vụ khai hải quan, Hà Nội.

161

70. Tổng cục Hải quan (2011), Quyết định số 2473/QĐ-TCHQ ngày

16/11/2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về việc thành lập Hội đồng

thi cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan cho nhân viên đại lý làm thủ tục hải

quan, Hà Nội.

71. Tổng cục Hải quan (2012), Quyết định số 2492/QĐ-TCHQ ngày

07/11/2012 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về việc phê duyệt ban hành

tài liệu đào tạo nghiệp vụ khai hải quan, Hà Nội.

72. Tổng cục Hải quan (2012), Báo cáo kết quả triển khai xây dựng đại lý làm

thủ tục hải quan mẫu, Hà Nội.

73. Tổng cục Hải quan (2010, 2011, 2012), Báo cáo tình hình hoạt động đại

lý làm thủ tục hải quan các năm 2010, 2011, 2012 của Cục Giám sát quản lý về

hải quan, Hà Nội.

74. Tổng cục Hải quan (2012), Dự án hỗ trợ của Cơ quan Phát triển Na Uy

(NORAD) và Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) về lĩnh vực Đại lý hải quan và

quan hệ đối tác (thuộc dự án Xây dựng năng lực Hải quan cho các thành viên

của WCO giai đoạn 2012-2015).

75. Tổng cục Hải quan (2013), Quyết định số 3338/QĐ-TCHQ ngày

7/10/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ban hành Kế hoạch Phát

triển Quan hệ đối tác Hải quan – Doanh nghiệp giai đoạn 2013-2015.

76. Tổng cục Hải quan (2010, 2011, 2012, 2013, 2014), Báo cáo tổng kết

công tác năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014 của Tổng cục Hải quan, Hà Nội.

77. Tổng cục Hải quan (2014), Danh sách đại lý hải quan tính đến

31/12/2014, Hà Nội.

78. Vũ Văn Ninh (2011), Nâng cao hiệu quả của đại lý làm thủ tục hải quan

trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 3/2011, Hà

Nội.

Tiếng Anh

79. Canada Border Services Agency (2008), Licensing of Customs brokers in

Canada, Canada.

162

80. Japan Customs Brokers Association (2009), Customs brokerage law of

Japan, Japan

81. Korea Customs Brokers Association (2010), Korea Customs broker Act,

Korea.

82. Luc De Wuf & José B. Sokol (2005), Customs modernization handbook,

The World Bank, Washington, D.C.

83. The Customs Brokers & Forwarders Council of Australia Inc. (CBFCA),

Becoming a customs broker in Australia, Australia.

84. The U.S. Customs and Border Protection (CBP) (2002), The Broker

Management handbook, The United State of America.

85. USAID (2009), Review of customs broker licensing, management and

regulation, publication of USAID.

86. World Customs Organization (1999), Protocol of amendment to the

international convention on the simplication and harmonization of customs

procedures, Brussels.

163

Mẫu số 1

Phụ lục 01:

PHIẾU KHẢO SÁT VỀ QUẢN LÝ ĐẠI LÝ HẢI QUAN

Đối tượng trả lời: Doanh nghiệp XNK

Kính thưa quý vị,

Chúng tôi gửi tới quý vị phiếu khảo sát này để nắm bắt thông tin phục vụ nghiên cứu Luận án Tiến sỹ “Quản lý đại lý làm thủ tục hải quan ở Việt Nam”. Với sự giúp đỡ của quý vị, chúng tôi có điều kiện đề xuất những giải pháp, khuyến nghị về chính sách để nâng cao hiệu quả công tác quản lý đại lý làm thủ tục hải quan (sau đây gọi là đại lý hải quan) trong điều kiện hiện nay. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Xin quý vị hãy đánh dấu nhân (x) vào ô tương ứng trong phần trả lời cho các câu hỏi sau đây. Phần cần viết thêm hoặc ý kiến khác (nếu có) xin quý vị điền trực tiếp nội dung hoặc ý kiến của mình.

1. Công ty thực hiện thủ tục hải quan bằng cách:

 Tự doanh nghiệp thực hiện  Thuê đại lý hải quan

Nếu câu trả lời là phương án 1, xin trả lời tiếp từ câu 2 đến câu 8.

Nếu câu trả lời là phương án 2, xin trả lời từ câu 9 đến hết.

2. Lí do công ty chọn thuê đại lý hải quan:

 Do không hiểu biết về thủ tục hải quan  Do thiếu nhân lực  Do muốn chuyên môn hóa  Khác

3. Trong quá trình thuê Đại lý hải quan, ai là người chịu trách nhiệm ký

tên trên tờ khai hải quan?  Đại lý ký tên  Doanh nghiệp tự ký tên

4. Công ty đánh giá mức phí phải trả cho Đại lý hải quan là:

 Cao  Thấp  Trung bình

5. Sau khi sử dụng dịch vụ Đại lý hải quan, công ty có nhận xét như thế

nào?  Tốt  Chưa tốt

164

 Rất tồi

6. Những thuận lợi khi công ty sử dụng dịch vụ Đại lý hải quan là gì?

…………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………...

7. Những khó khăn khi công ty sử dụng dịch vụ Đại lý hải quan là gì?

…………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………...

8. Trong bối cảnh thực hiện thủ tục hải quan điện tử như hiện nay, công ty

đánh giá mức độ cần thiết của dịch vụ đại lý hải quan là:  Rất cần thiết  Cần thiết  Không thật sự cần thiết

9. Công ty đã làm đại lý hải quan bao lâu?

 Dưới 1 năm  Từ 1 đến 3 năm  Trên 3 năm

10. Trong quá trình thực hiện dịch vụ đại lý hải quan, ai là người chịu trách

nhiệm ký tên trên tờ khai hải quan?  Đại lý ký tên  Doanh nghiệp tự ký tên

11. Trước khi làm đại lý hải quan, Công ty đã tham gia khóa đào tạo

nghiệp vụ khai hải quan như thế nào?  Do Tổng cục Hải quan tổ chức  Do Học viện Tài chính tổ chức  Do cơ sở đào tạo khác tổ chức  Tự Công ty tổ chức

12. Các khóa đào tạo có cung cấp thông tin cần thiết giúp Công ty có kiến

thức đầy đủ để làm đại lý hải quan hay không?  Có  Không

13. Công ty có thường xuyên tổ chức cập nhật kiến thức, đào tạo lại cho

các nhân viên đại lý hải quan không?  1 năm/lần  Nhân viên tự học tập, cập nhật kiến thức  Tùy theo các đợt cập nhật kiến thức của cơ quan Hải quan

165

14. Công ty có thực hiện gửi báo cáo về tình hình hoạt động của Đại lý hải

quan cho cơ quan Hải quan không?  Có  Không  Chỉ gửi báo cáo nếu trong tháng có phát sinh hợp đồng Đại lý

15. Trách nhiệm của Công ty trong quá trình làm thủ tục hải quan (Xin

đánh dấu X vào các ô phù hợp, có thể chọn một hoặc nhiều ô)  Nhận chứng từ vận tải từ chủ hàng và chuẩn bị chứng từ, hồ sơ

thông quan

 Hoàn thành thủ tục nhập khẩu/xuất khẩu như khai báo hải quan, thông quan, nhận hàng và vận chuyển hàng từ cảng/sân bay giao về hoặc vận chuyển hàng từ kho hàng của chủ hàng đến cảng/sân bay để xuất hàng

 Ký tên trên tờ khai hải quan  Tạm ứng thuế nhập khẩu/xuất khẩu  Tạm ứng các khoản phí khác như: cảng phí, đại lý phí, phí xử lý tại

sân bay,...

 Giải quyết những trục trặc có thể nảy sinh trong quá trình giao nhận

hàng đảm bảo hàng hóa được giao nhận an toàn.

16. Khi làm thủ tục hải quan, Công ty thường gặp khó khăn với những nội dung gì? (Xin đánh dấu X vào các ô phù hợp, có thể chọn một hoặc nhiều ô)  Phân loại hàng hóa (xác định mã số hàng hóa)  Xuất xứ hàng hóa  Trị giá hải quan  Chính sách quản lý mặt hàng  Thanh khoản hợp đồng gia công  Thủ tục hải quan  Khác

17. Công ty có thấy cần thiết phải thành lập Hiệp hội đại lý hải quan

không?  Có  Không

18. Hiệp hội đại lý hải quan là tổ chức đại diện cho tiếng nói của các đại lý

hải quan và nên là cơ quan trực thuộc:  Tổng cục Hải quan  Hiệp hội Giao nhận  Hoạt động độc lập, như các tổ chức Hiệp hội ngành nghề khác

Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của quý vị!

166

Mẫu số 2

Phụ lục 02:

PHIẾU KHẢO SÁT VỀ QUẢN LÝ ĐẠI LÝ HẢI QUAN

Đối tượng trả lời: Cơ quan Hải quan

Kính thưa quý vị,

Chúng tôi gửi tới quý vị phiếu khảo sát này để nắm bắt thông tin phục vụ nghiên cứu Luận án Tiến sỹ “Quản lý đại lý làm thủ tục hải quan ở Việt Nam”. Với sự giúp đỡ của quý vị, chúng tôi có điều kiện đề xuất những giải pháp, khuyến nghị về chính sách để nâng cao hiệu quả công tác quản lý đại lý làm thủ tục hải quan (sau đây gọi là đại lý hải quan) trong điều kiện hiện nay. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Xin quý vị hãy đánh dấu nhân (x) vào ô tương ứng trong phần trả lời cho các câu hỏi sau đây. Phần cần viết thêm hoặc ý kiến khác (nếu có) xin quý vị điền trực tiếp nội dung hoặc ý kiến của mình.

1. Vai trò của đại lý hải quan đối với cơ quan hải quan là: (Xin đánh dấu

X vào các ô phù hợp, có thể chọn một hoặc nhiều ô)  Tránh tình trạng ùn tắc, tạo sự thông thoáng tại các địa điểm làm thủ

tục hải quan

 Giúp đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa hải quan  Hỗ trợ hải quan ngăn ngừa tiêu cực, buôn lậu và gian lận thương

mại  Khác

2. Khung pháp lý quy định về đại lý hải quan hiện nay:

 Đầy đủ, hoàn toàn tạo thuận lợi cho đại lý hải quan phát triển  Chặt chẽ, khó thực hiện đối với đại lý hải quan  Chưa tương đồng với thông lệ quốc tế

3. Vai trò của đại lý hải quan đối với tiến trình hiện đại hóa hải quan là:

 Rất quan trọng  Không quan trọng

4. Điểm mấu chốt để phát triển đại lý hải quan là:

 Nâng cao công tác tuyên truyền trong cộng đồng doanh nghiệp

XNK

 Tăng thêm nhiều ưu đãi cho đại lý hải quan  Sự tham gia tích cực và chủ động của lãnh đạo cơ quan Hải quan, kể

từ cấp Chi cục đến Cục và Tổng cục Hải quan

 Khác

5. Cơ quan hải quan đã thực hiện đầy đủ cơ chế phối hợp cũng như các ưu

đãi đối với đại lý hải quan chưa?

167

 Mới chỉ thể hiện trên các văn bản pháp luật, chưa thực hiện trong

thực tế

 Đã thực hiện đầy đủ  Các ưu đãi, hỗ trợ của cơ quan hải quan chưa thực sự tạo được chế

độ ưu tiên riêng cho đại lý hải quan

6. Anh/chị đánh giá như thế nào về sự phát triển của đại lý hải quan hiện

nay?  Phát triển mạnh  Phát triển chưa tương xứng với tiềm năng  Không phát triển và có xu hướng giảm dần

7. Trong tương lai, nếu tiếp tục tăng cường quản lý đại lý hải quan thì:

 Đại lý hải quan vẫn tồn tại và phát triển như hiện tại.  Đại lý hải quan vẫn tồn tại và không phát triển thêm.  Đại lý hải quan sẽ phát triển mạnh mẽ.

8. Anh/chị có thể đề xuất một số ưu đãi nhằm khuyến khích đại lý hải

quan phát triển mạnh hơn?

…………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………...

…………………………………………………………………………...

9. Anh/chị có thấy sự cần thiết phải thành lập Hiệp hội Đại lý hải quan?

 Có  Không

10. Hiệp hội Đại lý hải quan là tổ chức đại diện cho tiếng nói của các đại lý

hải quan và nên là cơ quan trực thuộc:  Tổng cục Hải quan  Hiệp hội Giao nhận  Hoạt động độc lập, như các tổ chức Hiệp hội ngành nghề khác

Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của quý vị!