1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong TTHS nước ta, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan

trọng đối với cả tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Kết quả của giai đoạn điều tra

vụ án hình sự đóng vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động

buộc tội và là cơ sở, nền tảng để các chức năng TTHS khác trong các giai đoạn tố

tụng tiếp theo được tiến hành. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự với hoạt động tố

tụng chủ đạo là hoạt động của CQĐT, được đánh giá là giai đoạn tố tụng tiềm ẩn

nhiều nhất nguy cơ sai sót, vi phạm pháp luật, kể cả những sai sót, vi phạm pháp

luật nghiêm trọng dẫn đến việc truy cứu TNHS oan, sai.

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có chức năng, nhiệm vụ

THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Với chức năng, nhiệm vụ đó, VKS

giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, đảm bảo tính pháp chế của hoạt động

điều tra, ngay từ khi khởi tố, bắt giữ người phạm tội, yêu cầu điều tra thu thập

chứng cứ cho đến khi kết thúc điều tra nhằm làm rõ toàn bộ sự thật khách quan của

vụ án, nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, chính xác, điều tra để truy tố mọi tội

phạm. Hoạt động THQCT và KSĐT của VKS hướng đến tính chính xác, khách

quan của quá trình chứng minh sự thật của vụ án hình sự thuộc phạm vi trách nhiệm

của CQĐT, bảo đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy ra

các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội.

Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từ khi có Nghị quyết

số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới”, hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã

có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam,

phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, kiểm sát các hoạt động điều tra ngày

càng nâng cao, đưa tỷ lệ bắt giữ xử lý hình sự đạt 96%, tỷ lệ truy tố đạt 98-99%;

2

hạn chế đáng kể các trường hợp phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội và

tòa án tuyên bị cáo vô tội.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động THQCT và KSHĐTP trong

giai đoạn điều tra cũng như các hoạt động tiến hành tố tụng khác như điều tra, truy

tố, xét xử, còn có những hạn chế, yếu kém chung là còn được tiến hành theo nếp

cũ, chưa kịp đổi mới tư duy; nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp làm cho quá

trình giải quyết vụ án chậm chạp, kéo dài, chi phí tiến hành tố tụng tốn kém; tình

trạng áp dụng BPNC bắt, tạm giam quá phổ biến; Chưa có sự phân định hợp lý

chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; Cơ chế đảm

bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng còn bất cập, nhất là

quyền bào chữa của bị can, bị cáo.

Riêng đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra còn có những

những hạn chế, yếu kém, trì trệ đặc thù như: kém năng động trong việc thực thi

nhiệm vụ quyền hạn – THQCT và KSHĐTP, mà pháp luật giao cho, thể hiện qua

việc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can chưa đạt hiệu quả do hoạt động quản

lý tố giác, tin báo về tội phạm của VKS ở một số địa phương thụ động, lúng túng

về phương thức kiểm sát, dẫn đến nguy cơ bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; tình

trạng đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội còn xảy ra và có trường hợp rất

nghiêm trọng (theo Báo cáo Tổng kết công tác kiểm sát trong các năm 2004 –

2013, số vụ đình chỉ do bị can không phạm tội vẫn còn xảy ra, khoảng 0,14 %

tổng số án thụ lý khởi tố, điều tra hàng năm); chưa quản lý, chi phối chặt chẽ được

quá trình điều tra vụ án hình sự nên chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và

KSHĐTP còn thấp, thể hiện qua tình trạng: còn có những trường hợp truy tố

không đúng, tòa án tuyên không phạm tội hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung phải

đình chỉ vụ án (theo số liệu của Cục Thống kê VKSNDTC, trong 10 năm qua, số

trường hợp VKS truy tố, tòa án tuyên không phạm tội là 532 trường hợp, đạt tỷ lệ

0,05% tổng số bị can bị khởi tố, điều tra); tình trạng trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ

sung thời gian qua đã phản ánh chất lượng hoạt động của CQĐT và VKS, tuy từng

bước đã được hạn chế nhưng chuyển biến còn chậm, số lượng vụ bị trả hồ sơ

3

nhiều lần mà vẫn chưa đủ chứng cứ kết tội bị cáo còn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số

vụ án đã quyết định truy tố (trong 10 năm, tòa án các cấp trả hồ sơ cho VKS để

điều tra bổ sung là 22.262 vụ, chiếm tỷ lệ 3,8% trên tổng số 584.457 vụ VKS đã

truy tố. Số vụ án do tòa án cấp tỉnh các địa phương trả lại các đơn vị nghiệp vụ

của VKSND tối cao trong các năm 2008 và 2009 lên tới 44,5%); hiệu quả về mặt

xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của hoạt động thực thi chức năng,

nhiệm vụ của VKS trong điều tra vụ án hình sự chưa cao, thể hiện qua thực tế:

hoạt động KSĐT ở một số đơn vị kiểm sát còn mang tính hình thức, nặng về phát

hiện vi phạm có tính thủ tục mà chưa phân tích sâu để làm rõ bản chất vi phạm

pháp luật đó đã ảnh hưởng như thế nào đến tính khách quan, tính toàn diện của vụ

án để có thể kiến nghị CQĐT có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục; công tác kiến

nghị phòng ngừa tội phạm ở cả ba cấp kiểm sát còn hạn chế, chưa gắn thống kê tội

phạm với việc phân tích tình hình tội phạm, các đặc điểm, đặc trưng, thủ đoạn của

từng loại tội phạm để tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc đề ra các biện

pháp phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả, gắn đấu tranh phòng, chống tội

phạm với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Cùng với những tồn tại, hạn chế nêu trên, hoạt động của VKS hiện nay

đang đứng trước nhiều thách thức lớn lao xuất phát từ những yếu cầu, đòi hỏi của

công cuộc đổi mới, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, xã hội của Việt Nam theo

hương hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hóa. Hệ lụy nghiêm trọng trước mắt

của những thách thức này là tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp, khó

tiên liệu, dự báo với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm

tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tội phạm tham nhũng, gian lận thương mại vẫn là

những vấn nạn lớn chưa được ngăn chặn có hiệu quả; tội phạm có tổ chức, tội

phạm xuyên biên giới, đa quốc gia và tội phạm có yếu tố nước ngoài có xu hướng

gia tăng. Trước đòi hỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với HĐTP, VKS

phải thực sự là chuẩn mực của việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, và là chỗ dựa

tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đấu tranh

phòng chống có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật.

4

Trước yêu cầu khách quan đó và do chính vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng

của giai đoạn điều tra, của hoạt động điều tra đối với cả tiến trình TTHS, việc đổi

mới hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trở nên cấp thiết và

được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc cải

cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cải cách tư

pháp đều nhấn mạnh đến việc nâng cao trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/2/2002 của Bộ Chính trị về

“Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”, đã nhấn

mạnh “Hoạt động công tố phải được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự

và trong suốt quá trình tố tụng…”. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của

Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2010 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và

Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đều chỉ rõ: “Tăng cường trách

nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra; xây dựng cơ chế công tố gắn với hoạt

động điều tra”.

Để thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, khắc phục

những tồn tại, hạn chế các hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự, về phương diện lý luận đã đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu như đổi mới việc

thực hiện hoạt động THQCT theo phương hướng gắn với hoạt động điều tra; đổi

mới phương thức KSĐT ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và

trong suốt quá trình điều tra, nhằm bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm

tội, không làm oan người vô tội, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp

luật; góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,

dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,

phụng sự Tổ chức Việt Nam XHCN.

Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đấu tranh phòng, chống tội

phạm, của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tác

5

giả chọn vấn đề “Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo

yêu cầu cải cách tư pháp” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Từ thực tiễn công tác kiểm sát cho thấy số lượng vụ án thuộc thẩm quyền

thụ lý của TAND các cấp chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu thụ lý án hình sự chung

của các CQĐT. Điều này kéo theo hoạt động điều tra và hoạt động THQCT và

KSHĐTP trong giai đoạn điều tra do CQĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân và

VKSND thực hiện là chủ yếu trong thực trạng điều tra, truy tố nói chung. Nhằm

đạt được tính đại diện, tiêu biểu của kết quả và sự thuận lợi trong nghiên cứu, tác

giả luận án chọn đối tượng nghiên cứu là hoạt động của VKSND theo qui định của

BLTTHS năm 2003 trong điều tra vụ án hình sự. Đây là hoạt động nhằm thực hiện

chức năng THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn điều tra được tiến hành bởi người

tiến hành tố tụng của VKS.

Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung, luận án nghiên cứu hoạt động của VKSND trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự, từ khi vụ việc vi phạm pháp luật bị CQĐT trong lực lượng

Công an nhân dân hoặc bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khởi động

hoặc tái khởi động tiến trình điều tra vụ án hình sự bằng các quyết định khởi tố vụ

án, điều tra bổ sung, phục hồi điều tra, điều tra lại đến khi CQĐT hoàn thành

nhiệm vụ điều tra bằng việc kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình

chỉ điều tra vụ án.

Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng hoạt động của VKS trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm 2004 (năm BLTTHS năm 2003 có hiệu lực)

đến 2013 (thời điểm 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003), nhằm đảm bảo tính

sâu sắc, toàn diện cho việc nghiên cứu.

Về không gian, luận án nghiên cứu hoạt động của VKS trên địa bàn toàn quốc,

nhưng có chú trọng ở một số địa bàn trọng điểm, có số lượng án hình sự thụ lý hàng

năm lớn nhất Việt Nam, mang nhiều sắc thái tiêu biểu của tình hình đấu tranh phòng,

6

chống tội phạm như: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí

Minh và tỉnh Đồng Nai.

3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động của VKS trong điều tra

vụ án hình sự; từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức thống nhất về chức năng, nhiệm

vụ, vị trí, vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu

cải cách tư pháp.

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu

của cán bộ giảng dạy, sinh viên trong các Trường đại học Luật, các cơ sở đào tạo,

bồi dưỡng các chức danh tư pháp như Học Viện tư pháp, Trường đào tạo, bồi

dưỡng nghiệp vụ kiểm sát hoặc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người

quan tâm, nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố Việt Nam trong

điều tra hình sự.

Những kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể dùng tham khảo trong

quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của

VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như Luật tổ chức VKS, BLTTHS,

Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự...

4. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan tình hình và kết quả nghiên cứu liên

quan đến luận án, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung

kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra

vụ án hình sự.

Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp trong điều tra vụ án hình sự.

Chương 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát

trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp.

7

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH VÀ

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự để tăng cường khả năng phát hiện và xử lý hiệu quả các loại

tội phạm, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong quá trình giải quyết

vụ án hình sự luôn dành được sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước, và

được tranh luận ở nhiều diễn đàn khoa học.

1. T nh h nh nghiên cứu nƣ c ngoài

Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố trong hệ thống

pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như vấn để hoàn thiện nó không phải

là vấn đề mới. Tuy nhiên việc nghiên cứu thực tiễn và lý luận để nâng cao hiệu

quả hoạt động của cơ quan công tố, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giữ

vững trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh yếu tố quốc tế ngày càng trở nên quan

trọng và được mở rộng trong nền tư pháp của từng quốc gia như các mục tiêu: hợp

tác kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế; phòng chống tội phạm xuyên biên giới, mở

rộng dân chủ, đảm bảo tốt hơn quyền con người, chống nghèo đói,…là các vấn đề

được quan tâm, chú trọng thảo luận trong các diễn đàn pháp lý quốc tế. Chức

năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của cơ quan công tố trong TTHS của một số quốc

gia tiêu biểu cho những hệ thống pháp luật hiện đại đều được thể hiện một cách

tập trung, rõ ràng nhất tại các BLTTHS của các quốc gia này. Do vậy, việc nghiên

cứu về các cơ quan công tố nước ngoài nhằm tìm kiếm những giá trị tiến bộ, phù

hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam khi giải quyết các yêu cầu, đòi

hỏi của tiến trình cải cách tư pháp thì không thể không nghiên cứu BLTTHS nước

ngoài. Qua nghiên cứu BLTTHS của Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn

Quốc,... có thể kết luận được rằng ở một số quốc gia có sự thay đổi chế độ chính

trị trong thập niên 1990 đặc biệt là Nga; hoặc ở một số quốc gia đã tiến hành cải

cách tư pháp để đẩy mạnh cải cách kinh tế, củng cố chính trị, trật tự an toàn xã hội

sau chiến tranh nhằm chấn hưng đất nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc,Trung Quốc,

8

Việt Nam,…việc cải cách các cơ quan công tố - một bộ phận của cải cách tư pháp,

đã làm xuất hiện một hình thức tổ chức và hoạt động mới của cơ quan công tố nói

riêng và mô hình TTHS nói chung đó là mô hình TTHS kết hợp. Đó là mô hình

TTHS có sự kết hợp các ưu điểm của hai mô hình TTHS tranh tụng và thẩm vấn

trên cơ sở điều kiện riêng biệt về địa lý, chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống

tiến hành TTHS và mục tiêu phát triển của từng quốc gia. Đây có thể xem là một

kinh nghiệm quí, một hướng cải cách tư pháp khả thi vì có thể phù hợp với các

điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

Các nghiên cứu về hoạt động của viện công tố/ VKS trong điều tra hình sự

ở nước ngoài, đặc biệt là việc nghiên cứu BLTTHS của một số nước cùng với việc

nghiên cứu các ý kiến đánh giá tổng quan của một số học giả nước ngoài thể hiện

qua các trang thông tin điện tử là hoạt động nghiên cứu có giá trị rất quan trọng

trong việc xây dựng và đề xuất các phương hướng, biện pháp hoàn thiện về pháp

luật, chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, các kinh nghiệm có

được từ việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài nói chung đều có điểm hạn chế là

tính tương thích, phù hợp đối với điều kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội,

truyền thống pháp luật của Nhà nước ta không phải ở khía cạnh, vấn đề nào cũng

đạt được mà đòi hỏi sự chọn lọc, biến đổi nhất định. Trên thế giới hiện nay, không

có nước nào có cơ quan công tố/ VKS với tư cách như là một hệ thống cơ quan

độc lập và phục vụ cho chính thể nhất nguyên như ở Việt nam; Hệ thống cơ quan

công tố, VKS ở một số nước tuy có nhiều điểm tương đồng hoặc về văn hóa, hoặc

về truyền thống pháp luật, hoặc về các mục tiêu chính trị, kinh tế, nhưng chỉ có giá

trị tham khảo khi nghiên cứu để chọn lọc những giá trị tốt đẹp nhằm tìm kiếm và

xây dựng các phương hướng và hoàn thiện theo yêu cầu cải cách tư pháp, như:

Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,…đã thực

hiện. Cũng cần chú ý hạn chế xu hướng trọng vọng các yếu tố nước ngoài trong

khoa học pháp lý, nên việc đề xuất sửa đổi chính sách, pháp luật cần phải thận

trọng và phải được đặt dưới tiêu chí đánh giá quan trọng, là sự phù hợp với điều

kiện chính trị, kinh tế xã hội và truyền thống pháp luật Việt Nam.

9

Tuy nhiên, với sự hạn chế thường thấy của việc nghiên cứu trong nước,

nghiên cứu sinh không có nhiều cơ hội tiếp cận trực tiếp với các công trình nghiên

cứu chuyên sâu ở nước ngoài liên quan đến đề tài. Cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu

trực tiếp với các nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài của nghiên cứu sinh là

việc tham dự khóa học ngắn hạn do United Nations Asia and Far East Institute

(UNAFEI) tổ chức tại Nhật bản trong năm 2009 về vấn đề "Luật và Đạo đức nghề

nghiệp của Thẩm phán, Công tố viên và các nhân viên thực thi pháp luật" (Ethics

and Codes of Conduct for Judges, Prosecutors and Law Enforcement Officers).

Kiến thức và kinh nghiệm có được từ các giảng viên đến từ Nhật, Pháp, Mỹ, Hàn

Quốc có giá trị tham khảo rất lớn khi nghiên cứu, đề xuất các phương hướng, giải

pháp nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của VKS, đặc biệt là các giải pháp

liên quan đến yếu tố con người; Việc tham gia các hội thảo khoa học về cải cách

tư pháp, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 do Viện khoa học kiểm sát tổ chức

dưới sự tài trợ của tổ chức SIDA trong năm 2012; tham gia hội thảo phòng, chống

tiêu cực trong HĐTP - Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới do Bộ tư pháp

tổ chức ngày 03/4/2014 dưới sự tài trợ của Chương trình đối tác tư pháp Liên

minh Châu Âu, cũng là nguồn tài liệu nghiên cứu rất có giá trị trong việc định

hình, xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học của tác giả đối với các vấn

đề nghiên cứu của đề tài.

2. T nh h nh nghiên cứu Việt Nam

Về các công trình nghiên cứu lớn như đề tài khoa học cấp bộ của tập thể

các tác giả (Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học VKSND tối cao, Hà

Nội, 1999), đã đề cập đến các vấn đề lớn, cơ bản, nền tảng của không chỉ hoạt

động của VKS trong TTHS mà còn của tất cả các hoạt động TTHS khác. Công

trình nghiên cứu này đa dạng, phức tạp, đó là sự tổng hợp rất rộng các quan điểm

khoa học TTHS đối với chức năng, nhiệm vụ của VKS không chỉ trong giai đoạn

điều tra mà cả trong tiến trình TTHS với nhiều ý kiến mâu thuẫn, trái chiều, đòi

hỏi người đọc phải có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học nhất định mới có khả

năng có được nhận định, đánh giá, chính xác. Mặt khác, các quan điểm khoa học

10

TTHS này xuất hiện trên cơ sở sự kế thừa các quan điểm của nền khoa học pháp

lý ở các nước Đông Âu trước đây, được thể hiện qua lăng kính yêu cầu “đổi mới”

của Việt Nam thập niên 90 thế kỷ XX nên còn nhiều điểm chưa phù hợp với xu

hướng hội nhập và học hỏi lẫn nhau về ưu điểm giữa các truyền thống pháp luật

thể hiện khá phổ biến trong các quan điểm về cải cách, đổi mới trong khoa học

hình sự, TTHS hiện nay; Các công trình nghiên cứu có nhiều ảnh hưởng đến đề tài

như: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn

điều tra của Lê Hữu Thể và các tác giả năm 2008; Tăng cường trách nhiệm của

công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học

cấp bộ, Hà Nội, 2008; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục

TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, 2011; Một số

vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố

với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nguyễn Hải Phong và

các tác giả. Đây là những nghiên cứu có tính toàn diện khái quát rất cao về lý luận

và thực tiễn của hoạt động của VKS không chỉ trong điều tra hình sự mà còn ở các

giai đoạn tố tụng khác (như Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học

VKSND tối cao, Hà Nội, 1999; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi

mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ,

2011). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này hoặc quá rộng, quá bao quát,

toàn diện nên không trùng lặp về phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp,

chuyên sâu, chi tiết, mang nặng tính mô phạm và thiên về diễn giải, hướng dẫn

thực hiện các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với cán bộ kiểm sát (như Một số vấn

đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với

hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp). Các công trình nghiên cứu trên

chưa chỉ rõ sự bất cập, hạn chế của pháp luật thực định về hoạt động của VKS

trong điều tra vụ án hình sự. Điểm mà tác giả chưa tìm thấy trong các nghiên cứu

trên là sự nhìn nhận, đánh giá về ưu điểm, hạn chế cả về lý luận và thực tiễn hoạt

động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ góc độ thực tiễn. Trong đó, không

chỉ là những hạn chế của những quan điểm, lý luận hiện được công nhận một cách

11

rộng rãi, phổ biến về vị trí, vai trò của VKS và những hạn chế của pháp luật thực

định, đặc biệt là của BLTTHS năm 2003, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về

hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự, để từ đó có những đề xuất đổi

mới, cải cách khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật.

Nhiều bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như

tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Kiểm sát của các học giả nổi tiếng trong và

ngoài ngành kiểm sát, bàn về từng khía cạnh, từng hoạt động của VKS cũng như

của các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đây

là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với các vấn đề nghiên cứu của đề tài kể

cả hai khía cạnh ủng hộ và phản biện quan điểm nghiên cứu của tác giả. Ví dụ

như: Lý Văn Chính, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra”, tạp chí

Nghiên cứu lập pháp số 6/2005; Đỗ Văn Đương, “Cơ quan thực hành quyền công

tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số

7/7/ 2006; Lê Văn Cảm, "Bàn về hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng và thi

hành án trong chiến lược cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 01/2009; Trần

Công Phàn, "Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong

hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư

pháp", tạp chí Kiểm sát 03/2012; Trịnh Tiến Việt, "Khái niệm và các tiêu chí đánh

giá hiệu quả kiểm soát xã hội đối với tội phạm", tạp chí Kiểm sát số 15/2012;

Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách tư

pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt

Nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng

tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều

tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 16/2012; Nguyễn Hòa

Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012;

Nguyễn Thị Thủy, "Sửa đổi bổ sung BLTTHS nhằm thực hiện chủ trương của

Đảng - Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ

chế gắn công tố với điều tra”, tạp chí Kiểm sát 21/2012; Nguyễn Thái Phúc, "Sửa

12

đổi nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành kiểm sát nhân dân", tạp chí

Kiểm sát 17/2012; Trần Văn Độ, "Hoàn thiện các qui định của BLTTHS về biện

pháp tạm giam", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Trần Đình Nhã, "Chế định điều tra tội

phạm trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Đỗ Văn Đương, "Phân định rõ

thẩm quyển quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ

sung chế định chứng cứ trong BLTTHS", tạp chí Kiểm sát 16/2012; Đào Trí Úc,

"Đề xuất đổi mới VKS ở Việt nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới", tạp

chí Kiểm sát số 12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, "Vai trò cơ quan công

tố các nước trên thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình sự", tạp chí Kiểm sát số

13/2013; Lê Thị Tuyết Hoa, "Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều

tra", tạp chí Kiểm sát số 08/2014;...Bên cạnh đó, tác giả còn tìm thấy một số tài

liệu có ý nghĩa là những đánh giá tổng kết, khái quát cao kết quả và những hạn

chế, yếu kém của công tác kiểm sát trong quá trình hình thành và phát triển (như

Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các công tác của ngành kiểm sát

nhân dân qua 50 tổ chức và hoạt động, Hà Nội, 2010; Báo cáo kết quả tổng kết 8

năm thi hành BLTTHS năm 2003, Hà Nội, 2012). Theo quan điểm của tác giả các

nghiên cứu này thiên về đúc kết kinh nghiệm, tổng hợp, đánh giá ưu, khuyết điểm

của hoạt động kiểm sát theo hai hướng hoặc quá bao quát, toàn diện đến toàn bộ

hoạt động nghiệp vụ kiểm sát hoặc quá tỉ mỉ đối với từng hoạt động kiểm sát cụ

thể nên không có cùng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, các bài báo

được đăng tải trong các tạp chí trong và ngoài ngành kiểm sát, đặc biệt là của

Lãnh đạo VKSND tối cao, trở thành nguồn tài liệu tham khảo có tính chất định

hướng nghiên cứu quan trọng đối với đề tài.

Trong những năm gần đây, các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối

cao đã triển khai nghiên cứu nhiều chuyên đề nghiệp vụ nhằm phân tích, đánh giá

thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các loại án

hình sự; cụ thể như: “Một số kinh nghiệm về Công tác THQCT và KSĐT án xâm

phạm an ninh quốc gia từ năm 2005 đến năm 2007” của Vụ THQCT và KSĐT án

13

an ninh năm 2007; chuyên đề “Nâng cao chất lượng THQCT, KSĐT và kiểm sát

xét xử các vụ án hình sự nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung

giữa các cơ quan tiến hành tố tụng” của Vụ THQCT và KSĐT án ma túy năm

2008; chuyên đề “Nâng cao năng lực của Kiểm sát viên trong công tác KSĐT án

giết người” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự về trật tự xã hội năm 2008;

chuyên đề “Tổ chức bộ máy và tình hình hoạt động THQCT và KSĐT án tham

nhũng của ngành Kiểm sát trong hai năm 2007-2008” của Vụ THQCT và KSĐT

án tham nhũng năm 2009; chuyên đề “Thực trạng công tác KSĐT tội phạm công

nghệ cao - Một số giải pháp và kiến nghị” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự

về kinh tế và chức vụ năm 2009; chuyên đề “Tăng cường trách nhiệm công tố

trong hoạt động điều tra” của Vụ THQCT và KSĐT án trật tự xã hội” năm 2011.

Đây là các nghiên cứu chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm sát trong giới hạn không

gian và thời gian xác định nên kết quả nghiên cứu nêu trên có giá trị tham khảo

quan trọng đối với việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra.

Đặc biệt, Viện khoa học kiểm sát với sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp

lý Nhật Bản và Cộng đồng Châu Âu thực hiện một số đề án, đề tài nghiên cứu

khoa học TTHS có qui mô lớn nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp trong

ngành kiểm sát (như: Mô hình TTHS thế giới; Mô hình TTHS Việt nam; Nghiên

cứu về một số cơ quan công tố trên thế giới; So sánh pháp luật TTHS Việt nam và

một số nước trên thế giới; Chỉ dẫn về công tác công tố; Định hướng sửa đổi luật

tổ chức VKSND năm 2002 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp;...), cũng là nguồn

tài liệu đảm bảo tính phong phú, đa dạng của đề tài khi đề xuất phương hướng,

biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS.

Các nghiên cứu học thuật về VKS nói chung và các nghiên cứu về hoạt

động của VKS trong điều tra hình sự nói riêng không nhiều. Luận văn thạc sĩ luật

học điển hình là: Vũ Thị Xuân Nhuệ "Một số hoạt động KSĐT án kinh tế tại

TP.Hồ Chí Minh 1991-1996"; Đoàn Tạ Cửu Long "Công tác KSĐT án trị an tại

Thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 -2000 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"; Võ

14

Phước Long "Chức năng của VKSND trong TTHS" năm 2007; Đoàn Tấn Minh

"Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự mà bị can là

người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Tiền giang" năm 2008; Nguyễn Văn Tấn

"Hoạt động KSĐT các tội phạm về ma túy tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai

đoạn hiện nay" năm 2008. Công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ, có: Nguyễn Thị

Mai Nga "Cơ sở lý luận và thực trạng của điều tra và truy tố các tội phạm về ma

túy", Nhà xuất bản thông tin và truyền thông năm 2012; Đào Hữu Dân Mối quan

hệ giữa cơ quan cảnh sát điều tra với VKS trong điều tra vụ án hình sự, Luận án

tiến sĩ luật học Trường Đại học cảnh sát nhân dân năm 2006;...Các kết quả nghiên

cứu thể hiện trong các Luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, tuy có một số vấn đề

thuộc cơ sở lý luận có quan điểm, đánh giá khá tương đồng với đề tài, như các vấn

đề về Công tố; THQCT; KSHĐTP;… Tuy nhiên, các nghiên cứu này, so với đề

tài, có nhiều quan điểm khác biệt và khác về phạm vi và đối tượng nghiên cứu.

Các nghiên cứu khoa học về VKS nói chung là khá hiếm, hiện chưa có công trình

nghiên cứu về lý luận và thực tiễn ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ về hoạt động của

VKS trong điều tra vụ án hình sự.

Về hoạt động nghiên cứu riêng của nghiên cứu sinh nhằm thực hiện đề tài,

gồm có: chuyên đề "Cơ sở khoa học của hoạt động THQCT và KSHĐTP trong

điều tra hình sự" năm 2010; chuyên đề "Chức năng, nhiệm vụ và phương hướng

hoàn thiện hoạt động THQCT, KSHĐTP trong điều tra hình sự theo yêu cầu cải

cách tư pháp" năm 2011; chuyên đề "Thực trạng hoạt động của VKS trong điều

tra hình sự" năm 2011; tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra đối với Kiểm sát

viên, Luật sư, Lãnh đạo VKS hai cấp tại một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải

Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Long An;...Các kết quả nghiên cứu

trên đều được trình bày thành các nội dung của luận án.

3. Giả thuyết, mục tiêu, mục đích nghiên cứu

Các kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài có giá trị định hướng và

tham khảo nhất định đến việc nghiên cứu của đề tài, nhưng ít hoặc không trùng

lắp với mục tiêu, phạm vi, cách tiếp cận trong nghiên cứu của đề tài. Để giải quyết

15

các vấn đề đặt ra của đề tài “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự theo

yêu cầu cải cách tư pháp”, giả thuyết rằng pháp luật hiện hành kể cả trong lý luận

và thực tiễn áp dụng tồn tại một số vấn đề sau đây:

Trong nhận thức chung về quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về nhiệm

vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của VKS trong từng lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ nói

chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng còn khác nhau, tồn tại nhiều luận điểm khác

biệt, mâu thuẫn. Nguyên nhân cốt lõi là do còn tồn tại sự khác biệt về nhận thức lý luận

về các vấn đề khoa học mang tính sơ sở, nền tảng cho hoạt động thực hiện chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, như: QCT, HĐTP, THQCT, KSHĐTP, mối quan hệ

giữa THQCT và KSHĐTP, cũng như tính đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động thực

hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Từ sự nhận thức khác biệt về nhận

thức này kéo theo hệ quả là việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức, hoạt

động chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS chưa được hợp lý nên tất yếu chưa

đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tế công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm.

Sự chưa hoàn thiện này còn là một trong những nguyên nhân tạo ra nguy cơ hiểu và

vận dụng khác nhau trên thực tế các qui định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của VKS trong TTHS. Điều này càng làm trầm trọng thêm hạn chế, thiếu

hiệu quả của hoạt động tác nghiệp kiểm sát trong TTHS.

Để góp phần xác định được những cơ sở cần thiết cho việc cải cách, nâng cao

hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự thì trước hết những vấn đề

trong nhận thức chung và thực tiễn của hoạt động THQCT, KSHĐTP phải được xác

định rõ. Tiếp đến, cần làm việc làm rõ các yếu tố của yêu cầu cải cách tư pháp đối với

hoạt động của VKS trong TTHS cũng như những kinh nghiệm tiến bộ, phù hợp với

điều kiện, hoàn cải cải cách tư pháp thực tế của Việt Nam để xây dựng cơ sở cho việc

đề xuất phương hướng, biện pháp mang tính cấp thiết, toàn diện, khả thi nhằm nâng

cao chất, lượng hiệu quả cho hoạt động của VKS trong TTHS.

Để hoàn thành đề tài "Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", mục tiêu nghiên cứu của đề tài, kết quả

nghiên cứu phải trả lời được những câu hỏi:

16

- Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của VKS trong điều tra vụ án

hình, có những vấn đề gì cần nghiên cứu để đảm bảo tính nhất quán trong nhận

thức và thực hiện?

- Ưu điểm và hạn chế của truyền thống tổ chức, hoạt động của VKSND

Việt Nam là gì và những kinh nghiệm quí của thế giới có tính khả thi đối với Việt

nam trong việc tổ chức, hoạt động của cơ quan công tố nhằm thực hiện cải cách để

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự

như thế nào?

- Mục đích, yêu cầu, nội dung của công cuộc cải cách tư pháp đối với nền

tư pháp nói chung và đối với VKS trong điều tra vụ án hình sự là gì?

- Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, hoạt động THQCT và KSĐT vụ án

hình sự có những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nào?

- Những phương hướng, nội dung, giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới, nâng

cao hiệu quả hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư

pháp là gì?

Giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, kết quả mà luận văn

hướng tới là: trở thành nguồn tài liệu tham khảo kể trên cả hai phương diện lý luận

và thực tiễn đối với những ai quan tâm nghiên cứu về một loạt hoạt động TTHS

đặc biệt - hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự; và cao hơn nữa hướng

tới sự đóng góp nhất định đối với công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta

hiện nay, thông qua việc đề xuất hoàn thiện BLTTHS năm 2003.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp luận thực hiện đề tài dựa trên nền tảng phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng; quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng,

chống tội phạm, về vị trí, vai trò của VKS trong bộ máy nhà nước và trong TTHS;

và các chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam, cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân

chủ của công dân.

17

Để chứng minh giả thuyết và trả lời câu hỏi nghiên cứu, tác giả sử dụng

chủ yếu hai phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tài liệu tham khảo và điều tra xã

hội học, để nghiên cứu, làm rõ các vấn đề thuộc phạm vi các câu hỏi nghiên cứu,

qua đó xác định hoặc bác bỏ các giả thuyết nghiên cứu. Hai phương pháp này

được sử dụng dưới các hình thức phân tích, nhằm định tính và định lượng các vấn

đề nghiên cứu trên cơ sở đó, thông tin được tổng hợp, đánh giá để kết luận vấn đề

nghiên cứu.

Đối với các vấn đề lý luận, cách tiếp cận là từ vấn đề tổng quan đến cụ thể,

từ chung đến riêng, nghiên cứu vấn đề thông qua các yếu tố của một quan hệ pháp

luật (khái niệm, đặc điểm, tính chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung). Đối

với các vấn đề thực tiễn, cách tiếp cận là việc đi từ khía cạnh cụ thể đến khía cạnh

tổng quan, chú trọng đến yếu tố pháp lý, vai trò, hiệu quả tố tụng của chúng. Một

số vấn đề quan trọng, phức tạp được kết hợp cả hai cách tiếp cận nêu trên nhằm

làm rõ được vấn đề nghiên cứu một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tác giải không

lựa chọn pháp pháp nghiên cứu, luận giải các vấn đề của luận án như các công

trình nghiên cứu về hoạt động của VKS thường sử dụng. Đó là hoặc qua thiên về

khía cạnh học thuật hoặc quá thiên về khía cạnh thực tiễn khi nghiên cứu các vấn

đề lý luận. Việc giải quyết các vấn đề thực tiễn thì thiên về khía cạnh mô tả, giải

thích mang tính mô phạm cho người đọc hiểu về thực tiễn tác nghiệp kiểm sát.

Tác giả lựa chọn cách nhìn nhận, nghiên cứu, đánh giá vấn đề về nhận thức và

thực tiễn hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn, thông qua

các yếu tố của một quan hệ pháp luật (khái niệm, mục đích, chủ thể, đối tượng,

phạm vi, nội dung, hình thức thể hiện) mà không phân tích sâu vào việc diễn giải

thực tiễn công tác kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự, nhằm đạt được kết quả

nghiên cứu có giá trị.

18

Chƣơng 1

NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA

VIỆN KIỂM SÁT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Điều tra vụ án h nh sự

1.1.1 Khái niệm điều tra vụ án hình sự

Để hiểu rõ khái niệm điều tra vụ án hình sự, trước hết cần phải nghiên cứu,

làm rõ các khái niệm liên quan, đó là: Điều tra và điều tra vụ án hình sự.

Theo từ điển tiếng Việt [53], điều tra là hoạt động tìm hỏi, xem xét để biết

rõ sự thật. Với ý nghĩa là một loại hoạt động nhận thức của con người, điều tra

được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, để nghiên cứu, tìm

hiểu, thu thập thông tin, xác định mức độ kiến thức, hiểu biết về một vấn đề, lĩnh

vực nào đó mà con người quan tâm. Có thể thấy, khái niệm điều tra đã trở nên phổ

biến trong đời sống chính trị, khoa học, kinh tế, xã hội, như: điều tra dân số, điều

tra về nhà ở, điều tra mức độ tiêu thụ sản phẩm, điều tra thị hiếu tiêu dùng, điều

tra xã hội học,…

Trong khoa học hình sự, khái niệm điều tra đã được nhiều tác giả nghiên

cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Có ý kiến cho rằng “Điều tra là công tác trong TTHS được tiến hành nhằm

xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”[49].

Ý kiến khác cho rằng “Điều tra là một giai đoạn của quá trình TTHS, trong

đó CQĐT áp dụng các biện pháp do Luật TTHS quy định để xác định tội phạm và

người thực hiện hành vi phạm tội, VKS kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định

truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của tòa án” [12]; hoặc, “Điều tra vụ án

hình sự là một giai đoạn TTHS, trong giai đoạn này CQĐT áp dụng mọi biện

pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”[16]. Quan

điểm này, hoàn toàn trùng lắp về mặt nội dung khái niệm điều tra vụ án hình sự

theo qui định của khoản 1, Điều 65 BLTTHS năm 2003.

19

Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005 thì điều

tra được hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình... phản ánh sự thật

về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực

phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều tra do cơ quan Công an tiến hành

có thể dưới hai hình thức: Điều tra công khai do CQĐT hoặc một số cơ quan khác

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành một cách công

khai theo quy định của luật TTHS. Điều tra bí mật (điều tra trinh sát) do lực lượng

trinh sát tiến hành, thường diễn ra trước khi khởi tố vụ án hình sự, phải tuân theo

trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà các văn bản của ngành Công an quy định. Mỗi

hình thức điều tra có sự khác nhau cơ bản về chủ thể, thời hạn, hình thức cũng như

trình tự, thủ tục, thẩm quyền điều tra.

Theo từ điển tiếng Việt [64, tr: 05, 1090], nghĩa chung nhất của vụ án hình

sự được hiểu là sự việc vi phạm pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

quyết định cần được xét xử trước tòa án. Do vậy, chỉ khi nào một hành vi vi phạm

pháp luật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc truy cứu TNHS

(điều tra, truy tố, xét xử) đối với chủ thể thực hiện hành vi đó thì việc truy cứu

trách nhiệm đó mới trở thành vụ án hình sự.

Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của TTHS, trong đó CQĐT và

những cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng mọi

biện pháp điều tra do pháp luật TTHS quy định nhằm thu thập chứng cứ chứng

minh làm rõ vụ án hình sự. So với khái niệm điều tra hình sự, khái niệm, điều tra

vụ án hình sự có phạm vi hẹp hơn điều tra hình sự về không gian và thời gian.

Như vậy, để làm rõ khái niệm điều tra, cần tiếp cận ở hai giác độ: Điều tra

với nghĩa là một giai đoạn tố tụng và điều tra với nghĩa là hoạt động tố tụng.

Khi phân tích điều tra với nghĩa là một giai đoạn tố tụng, cần phải đề cập

đến các khía cạnh sau: Thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc, thời hạn, chủ thể

tiến hành, chủ thể tham gia tố tụng, nhiệm vụ của giai đoạn này.

20

- Thứ nhất, về thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc và thời hạn điều tra.

Đối với tất cả các vụ án hình sự, thời điểm bắt đầu của giai đoạn điều tra là

khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi hoàn thành nhiệm vụ điều tra. Tuy

nhiên, trách nhiệm điều tra chủ yếu nhưng không chỉ bắt đầu tại thời điểm ban

hành quyết định khởi tố vụ án mà còn được tiếp tục duy trì khi xuất hiện một số

quyết định tố tụng có hiệu lực, như: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết

định hủy bản án để điều tra lại của tòa án cấp phúc thẩm và của tòa án xét xử theo

thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm; quyết định phục hồi điều tra. Tương tự, trách

nhiệm điều tra vụ án hình sự không chỉ kết thúc khi CQĐT kết luận điều tra và đề

nghị truy tố mà còn chấm dứt hay tạm dừng khi vụ án được đình chỉ điều tra hay

tạm đình chỉ điều tra.

Thời hạn điều tra các vụ án hình sự tùy từng trường hợp được luật xác định

cụ thể. Trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn theo quy định của pháp luật

Về phương diện lý luận, khi có dấu hiệu tội phạm xuất hiện, Nhà nước, với

hệ thống pháp luật của mình, đặt ra yêu cầu điều tra làm rõ hành vi và người phạm

tội. Tuy nhiên, trong TTHS, việc điều tra hình sự này được chia nhiều giai đoạn

với chủ thể, nhiệm vụ khác nhau. Khi nghiên cứu, cần phân biệt giai đoạn điều tra

vụ án hình sự với giai đoạn khởi tố vụ án – phạm vi mà hoạt động điều tra ban đầu

được thực hiện.

Giai đoạn khởi tố vụ án bắt đầu từ khi có thông tin về tội phạm và kết thúc

khi ra quyết định khởi tố vụ án với thời hạn được Bộ luật TTHS quy định. Như

vậy, điều tra vụ án hình sự là giai đoạn kế tiếp giai đoạn khởi tố vụ án. Trong giai

đoạn khởi tố vụ án cũng có hoạt động điều tra, tức là hoạt động thu thập chứng cứ,

tài liệu. Tuy vậy hai giai đoạn này khác nhau về nhiệm vụ, chủ thể tiến hành tố

tụng, chủ thể tham gia tố tụng v.v… Việc thu thập chứng cứ, tài liệu trong giai

đoạn khởi tố vụ án có nhiệm vụ là phục vụ cho việc xác định căn cứ khởi tố vụ án,

còn nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rộng hơn. Nói cách khác, hoạt động điều tra

vụ án hình sự chính là hoạt động của CQĐT trong giai đoạn điều tra theo qui định

của BLTTHS năm 2003.

21

Điều tra ban đầu là khái niệm mà nội hàm của nó trong trong khoa học luật

TTHS có sự khác biệt so với cách hiểu trong khoa học điều tra hình sự.

Theo cơ cấu qui định của BLTTHS năm 2003, có thể thấy rằng điều tra ban

đầu được bắt đầu từ khi tiếp nhận, tố giác, tin báo về tội phạm đến khi khởi tố vụ

án hoặc không khởi tố vụ án, thời hạn điều tra ban đầu rất ngắn. Chủ thể tiến hành

tố tụng trong điều tra ban đầu là các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt

động điều tra. Điều tra ban đầu được tiến hành trong một số trường hợp khi mà

thông tin về tội phạm chưa rõ ràng và chưa đầy đủ để có thể quyết định khởi tố vụ

án hình sự.

Trong khoa học điều tra hình sự, giai đoạn điều tra được nhiều giáo trình,

tài liệu chia ra: “điều tra ban đầu” và “điều tra tiếp theo” - điều tra vụ án hình sự.

Tuy vậy, về phương diện lý luận, điều tra ban đầu với ý nghĩa là một giai đoạn

điều tra trong khoa học điều tra hình sự vẫn còn là vấn đề cần phải trao đổi. Một

xu hướng được nhiều sự đồng tình của cả học giả lẫn cán bộ thực tiễn pháp lý là

xây dựng và phát triển các hoạt động quan trọng, then chốt trong TTHS thành các

giai đoạn tố tụng cụ thể để đẩm bảo hiệu quả của từng hoạt động chức năng tố

tụng lẫn cả quá trình tố tụng và điều tra ban đầu cũng nằm trong xu hướng đó.

Mặc dù chưa được xác định rõ ràng nhưng thuật ngữ “điều tra ban đầu” cho

phép được hiểu đây là một giai đoạn. Sau điều tra ban đầu là giai đoạn “điều tra

tiếp theo”. Tuy vậy sự khác nhau, căn cứ để phân biệt “điều tra ban đầu” và “điều

tra tiếp theo” trong khoa học điều tra hình sự chưa được làm rõ. Về phương diện

lý luận và thực tiễn, việc phân chia quá trình thực hiện hoạt động điều tra thành

các giai đoạn khác nhau là vấn đề phức tạp, cần phải tiếp tục nghiên cứu. Mặt

khác, phạm vi đề tài này không cho phép đề cập sâu về khái niệm điều tra ban đầu

trong khoa học điều tra hình sự nên tác giả chỉ nêu ra mà không làm rõ nội hàm

của khái niệm này.

- Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra

So với giai đoạn khởi tố vụ án, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rộng hơn và

phức tạp hơn.

22

Các giáo trình, tài liệu về TTHS và về khoa học điều tra hình sự trình bày

về nhiệm vụ của giai đoạn điều tra còn có sự khác nhau. Theo giáo trình Luật

TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra có 04

nhiệm vụ là: Xác định tội phạm và người phạm tội; Xác định tội phạm do người

phạm tội gây ra, tạo điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án; Lập hồ sơ, đề

nghị truy tố bị can; Xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ

quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn chặn.

Tuy nhiên, qua tổng hợp các tài liệu và từ thực tiễn hoạt động điều tra, có

thể khái quát nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là:

- Xác định diện bị can

Xác định diện bị can là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong điều tra các vụ

án hình sự. Khi khởi tố vụ án, có thể khởi tố một số bị can, nhưng thông thường

qua quá trình điều tra việc khởi tố ai, khởi tố bao nhiêu người mới được xác định

cụ thể. Không phải bất cứ ai tham gia vụ án đều bị khởi tố mà việc xác định diện

khởi tố cần phải tính toán cụ thể, phải xem xét các yêu cầu chính trị, nghiệp vụ.

- Thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh làm rõ toàn bộ vụ án

Làm rõ toàn bộ vụ án là làm rõ tất cả những vấn đề cần phải chứng minh

trong vụ án, gồm: Các dấu hiệu định tội; các tình tiết định khung hình phạt; các

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và các tình tiết khác (các tình tiết là cơ sở cho

việc miễn TNHS, miễn giảm hình phạt, cơ sở loại trừ TNHS,…).

Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn, phức tạp nhất. Chất lượng,

hiệu quả của giai đoạn điều tra cao hay thấp phụ thuộc vào việc thực hiện nhiệm

vụ này như thế nào.

- Xác định diện bị can cần truy tố và đề nghị VKS truy tố

Khởi tố bị can và đề nghị truy tố là hai vấn đề có quan hệ chặt chẽ nhưng

không phải là một.

Qua kết quả điều tra, nếu thấy rằng có căn cứ miễn TNHS hay tạm đình

chỉ, đình chỉ điều tra thì CQĐT không đề nghị VKS truy tố. Việc đề nghị hay

23

không đề nghị truy tố bị can nào đó trong vụ án phải có căn cứ pháp lý và phải

được xem xét một cách cẩn trọng.

- Xây dựng kết luận điều tra và hoàn thiện hồ sơ vụ án

- Tiến hành các biện pháp cần thiết phục vụ cho việc điều tra, xử lý người

phạm tội (áp dụng BPNC, áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác như

khám xét, kê biên tài sản…)

Hoạt động của CQĐT bao gồm hoạt động điều tra và các hoạt động khác.

Hoạt động điều tra là các hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm làm rõ vụ án.

Hoạt động khác là những hoạt động phục vụ cho công tác điều tra làm rõ vụ án và

truy cứu TNHS đối với bị can, bảo đảm quyền cho bị can và những người tham

gia TTHS. Mặc dù cũng do Điều tra viên tiến hành nhưng theo nghĩa hẹp đây

không phải là hoạt động điều tra vì không nhằm thu thập chứng cứ.

- Thứ ba, chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra

Chủ thể chính của hoạt động điều tra là CQĐT có thẩm quyền theo qui định

của BLTTHS năm 2003. Mặc dù theo qui định của pháp luật, tiến hành hoạt động

điều tra còn có VKS có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra theo qui

định của Điều 112 BLTTHS năm 2003 và một số cơ quan khác được giao tiến

hành một số hoạt động điều tra ban đầu theo qui định của BLTTHS năm 2003 và

Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Tuy nhiên, chỉ có CQĐT có thẩm quyền mới là

chủ thể chính của hoạt động điều tra vụ án hình sự.

Xét về chức năng tố tụng hoạt động của CQĐT và VKS là hoạt động của

Cơ quan tiến hành tố tụng, có cùng chức năng buộc tội nhưng mỗi cơ quan có

chức năng nghiệp vụ khác nhau.

Tham gia tố tụng vào giai đoạn điều tra có thể bao gồm tất cả các diện

người tham gia tố tụng theo qui định của BLTTHS năm 2003, tùy theo phạm vi và

tính chất của từng vụ án. Tuy nhiên, hai dạng người tham gia tố tụng là bị can, bị

hại là hai dạng người tham gia tố tụng chính, và đều phải được xác định khi tiến

hành điều tra của tất cả các vụ án.

24

1.1.2 Đặc điểm của hoạt động điều tra vụ án hình sự

Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng phức tạp, phong phú

và đa dạng như đã được phân tích ở phần trên. Sự phức tạp, đa dạng của hoạt động

điều tra vụ án hình sự hàm chứa trong các đặc điểm nổi bật sau đây:

- Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện công khai theo

trình tự, thủ tục TTHS

Hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến hành công khai theo các trình

tự, thủ tục và theo những biện pháp do pháp luật TTHS quy định. Tính công khai

của hoạt động điều tra thể hiện chỉ được tiến hành các biện pháp điều tra với sự có

mặt của những người mà luật quy định và ký vào biên bản các hoạt động điều tra

(như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,

người bị hại...). Tính công khai ở đây là công khai tiến hành các thủ tục tố tụng

điều tra, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải giữ bí mật. Việc giữ bí mật điều tra

có ý nghĩa quan trọng, có tính nguyên tắc quyết định sự thành công hay thất bại

của cuộc điều tra, khám phá sự thật khách quan của vụ án.

Đặc điểm này để phân biệt với những biện pháp điều tra khác như điều tra

trinh sát là dạng hoạt động nghiệp vụ được tổ chức và tiến hành dưới hình thức bí

mật để thu thập tin tức về hoạt động tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn

chặn và nhanh chóng khám phá vụ án.

Phạm vi chứng minh trong hoạt động điều tra vụ án hình sự rộng hơn phạm

vi những vấn đề phải chứng minh do BLTTHS qui định.

Để xác định được một tình tiết do luật định, CQĐT phải làm rõ nhiều nội

dung, chứng cứ có liên quan, phải thu thập đầy đủ các tài liệu chứng cứ để chứng

minh tính xác thực, tính liên quan của từng tình tiết cấu thành tội phạm và các tình

tiết khác để giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan, toàn diện chứ không đơn giản

là chứng minh các vấn đề được qui định tại các Điều 63, 302 BLTTHS năm 2003.

Chẳng hạn, để xác định người nào đó trực tiếp thực hiện tội phạm, trước tiên phải

có chứng cứ khẳng định người đó có mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ

án; Do đó, CQĐT phải truy tìm dấu vết con người, lấy lời khai người bị hại, lời

25

khai người làm chứng khẳng định chính mắt mình nhìn thấy người này thực hiện

tội phạm... Phạm vi chứng minh những vấn đề thực tế của vụ án trong giai đoạn

điều tra rộng hơn phạm vi những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự do

pháp luật TTHS quy định.

Khi thực hiện hoạt động điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng các

biện pháp cưỡng chế TTHS

Để kịp thời ngăn chặn người phạm tội tiếp tục gây án hoặc gây cản trở cho

việc thu thập chứng cứ vụ án, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thường phải

áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét chỗ ở,

khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; tiến hành các hoạt động điều tra khác

liên quan đến quyền cơ bản của công dân như triệu tập để lấy lời khai những

người có liên quan, hỏi cung bị can. Do đó, hoạt động điều tra thường tiềm ẩn

nguy cơ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền con người đối với

người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội.

Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thu thập chứng cứ phục vụ

cho hoạt động buộc tội

Trong tố tụng theo truyền thống thẩm vấn cũng như trong tố tụng theo

truyền thống tranh tụng, hoạt động điều tra nói chung bao giờ cũng là bộ phận hợp

thành chức năng buộc tội của Nhà nước nhưng về bản chất, THQCT là chức năng

của cơ quan công tố (VKS) giữ vai trò quyết định, còn điều tra là hỗ trợ, thu thập

chứng cứ, mở đường cho cơ quan công tố đưa người phạm tội ra tòa và thực hiện

việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa xét xử. Tùy theo từng truyền thống tố

tụng mà vị trí, vai trò của cơ quan công tố (VKS) và quan hệ tố tụng với CQĐT

trong giai đoạn điều tra có khác nhau, mang nét đặc thù riêng thích ứng với hoàn

cảnh, đặc điểm của mỗi quốc gia.

- Đối với hoạt động điều tra vụ án hình sự, VKS vừa THQCT vừa KSĐT

Khác với cơ quan công tố nhiều nước, VKS Việt Nam vừa THQCT, vừa

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra. Ở giai đoạn này, pháp

luật hiện hành quy định VKS có quyền năng rất lớn, chi phối các nhiệm vụ, hoạt

26

động điều tra như: phê chuẩn; không phê chuẩn các quyết định tố tụng của CQĐT;

yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC; quyết định gia

hạn điều tra, gia hạn tạm giam; yêu cầu truy nã bị can; hủy bỏ các quyết định

không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định chuyển vụ án; trả hồ sơ

để điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; quyết định phục

hồi điều tra; quyết định xử lý vật chứng…. Đây là đặc điểm rất quan trọng cần

được nhận thức đúng đắn để xác định rõ những hoạt động của VKS và phân định

rõ chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền giữa CQĐT và VKS trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự.

- Hoạt động điều tra vụ án hình sự đòi hỏi phải tuân thủ yêu cầu về pháp

luật, chính trị, nghiệp vụ

Trong điều tra vụ án hình sự, yêu cầu pháp luật, yêu cầu chính trị và yêu

cầu nghiệp vụ có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau, tạo nên một chỉnh thể

hoàn chỉnh. Khi xét về mối quan hệ giữa các yêu cầu, cần thấy rằng không thể

tách rời giữa các yêu cầu. Tùy từng vụ án, từng biện pháp, từng tình huống điều

tra cụ thể mà giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các yêu cầu, đưa ra nội dung cần

quán triệt sát hợp, hài hòa, không dập khuôn, máy móc. Khi gặp trường hợp giữa

các yêu cầu có mâu thuẫn phải cân nhắc một cách thận trọng mặt lợi, mặt hại của

các yêu cầu để quyết định yêu cầu nào sẽ chi phối. Thông thường, yêu cầu nghiệp

vụ phải phục tùng yêu cầu chính trị, vì mục đích cao nhất trong cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm nói chung thì hoạt động điều tra là phải phục vụ đắc lực

cho nhiệm vụ chính trị, không được làm phương hại hoặc ảnh hưởng xấu đến lợi

ích quốc gia, dân tộc. Nhưng không vì yêu cầu chính trị mà CQĐT tiến hành các

hoạt động điều tra khi cơ sở pháp luật chưa bảo đảm hoặc làm ảnh hưởng lớn đến

công tác nghiệp vụ vì quá chú trọng, theo đuổi yêu cầu chính trị.

1.1.3 Nội dung hoạt động điều tra vụ án hình sự

Điều tra theo nghĩa chung nhất là thu thập thông tin nhưng trong TTHS

điều tra là các hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm làm rõ vụ án. Tuy nhiên,

cần phân biệt hoạt động điều tra với hoạt động của CQĐT. Trong nhiều trường

27

hợp, nếu không chú ý, ta có thể nhầm lẫn. Ví dụ: để tiến hành hoạt động điều tra

hỏi cung bị can thì CQĐT phải thực hiện hoạt động không phải là hoạt động điều

tra như: triệu tập bị can, trích xuất bị can đang bị tạm giam, áp giải bị can tại

ngoại. Hoạt động của CQĐT với hoạt động điều tra có quan hệ chặt chẽ với nhau,

nhưng không phải là một. Nếu không chú ý, ta dễ nhầm lẫn hoặc đồng nhất hoạt

động điều tra với hoạt động của CQĐT, cũng như đồng nhất hoạt động của VKS

với hoạt động truy tố.

Hoạt động điều tra trong điều tra vụ án hình sự gồm các hoạt động cụ thể sau:

+ Hỏi cung bị can;

+ Lấy lời khai của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác;

+ Khám xét (khám người, khám chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc);

+ Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện;

+ Khám nghiệm (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi);

+ Xem xét dấu vết trên thân thể;

+ Thực nghiệm điều tra;

+ Trưng cầu giám định.

Hoạt động của CQĐT rộng hơn hoạt động điều tra. Ngoài những hoạt động

điều tra nêu trên, hoạt động của CQĐT còn bao gồm các hoạt động khác phục vụ

cho hoạt động điều tra như: Phân công Điều tra viên, áp dụng BPNC; xử lý vật

chứng; phát hiện và khắc phục nguyên nhân, điều kiện phạm tội; giải quyết khiếu

nại của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; thực hiện các quy định liên quan đến quyền

lợi của người tham gia tố tụng và thân nhân của họ (như thanh toán chi phí cho

người làm chứng, giải quyết vấn đề thăm nuôi người bị tạm giam, v.v…)

Trong điều tra vụ án hình sự, hoạt động điều tra còn được hiểu theo nghĩa

rộng, tức là hoạt động thu thập thông tin về tội phạm và người phạm tội. Theo

nghĩa này, ngoài những hoạt động thu thập chứng cứ theo trình tự thủ tục TTHS

như đã nêu trên, hoạt động điều tra còn bao gồm cả các biện pháp thu thập thông

tin tài liệu bằng biện pháp nghiệp vụ trinh sát như: thu thập lời khai người biết

việc, biện pháp trinh sát kỹ thuật…

28

1.2. Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án h nh sự

Theo qui định của Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND

năm 2002, Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND có chức năng, nhiệm vụ

THQCT, KSHĐTP. Như vậy THQCT và KSHĐTP là chức năng Hiến định của

VKS. Việc thể hiện trên thực tế chức năng Hiến định này thành các chức năng tố tụng

của VKS trong từng hoạt động cụ thể có sự khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở là

QCT và KSHĐTP. Có thể thấy rằng từ việc xác định hình thức tổ chức, hoạt động,

nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan VKS nói chung đến việc tổ chức, hoạt

động và việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong từng lĩnh vực HĐTP cụ

thể đều phụ thuộc vào bản chất, phạm vi, nội dung của hoạt động THQCT và

KSHĐTP. Đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, việc

xác định một cách đúng đắn và khoa học các vấn đề nhận thức trong hai lĩnh vực hoạt

động THQCT, KSHĐTP và các vấn đề liên quan như: hoạt động tổ chức và chỉ đạo

hoạt động THQCT và KSHĐTP, mối quan hệ biện chứng giữa hai lĩnh vực hoạt động

này, có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tổ chức và hoạt động của hệ

thống VKS để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Bởi đây là lĩnh vực hoạt động chủ yếu và thể hiện rõ nhất bản chất, vai trò, vị trí của

VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Mặc dù thời gian qua, trong khoa học

pháp lý nước ta đã có sự nghiên cứu sâu về quyền năng của VKS nhưng việc nhận

thức về chức năng, nhiệm vụ của VKS vẫn còn có những hạn chế nhất định. Do vậy,

việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau để

nhận thức đúng đắn, đầy đủ về hoạt động của VKS, phù hợp với bản chất, định

hướng nhiệm vụ của Nhà nước ta hiện nay, là một vấn đề cần thiết, có ý nghĩa quan

trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của VKSND. Thực tế đã đặt

ra yêu cầu phải có nhận thức đúng đắn về các yếu tố của hoạt động THQCT,

KSHĐTP trong giai đoạn điều tra để góp phần tạo ra cơ sở lý luận cho việc triển khai

thực hiện hiệu quả hoạt động cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

1.2.1 Thực hành quyền công tố

Để có khái niệm đúng đắn, toàn diện về khái niệm "Thực hành quyền công

29

tố" với ý nghĩa là một chức năng Hiến định, một nội dung hoạt động của VKS trong

TTHS, cần bắt đầu tìm hiểu các thành tố của nó như: công tố; quyền công tố.

1.2.1.1 Những vấn đề cơ bản về quyền công tố

Trong lịch sử pháp luật thế giới, khái niệm “công tố” đã được đề cập rất

sớm như là hoạt động tố tụng trong các vụ án mà trong đó có những hành vi vi

phạm pháp luật, xâm hại đến các lợi ích của Nhà nước. Ở nước ta, thuật ngữ

“quyền công tố” được ghi nhận lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 1980 và tiếp theo

sau đó, được ghi nhận tại Điều 23 BLTTHS năm 1988, Điều 15, Điều 16 Luật tổ

chức VKSND năm 1992. Tuy nhiên, cho đến nay, Pháp luật Việt Nam chưa có

văn bản pháp luật nào chính thức giải thích khái niệm công tố, quyền công tố.

Về mặt ngôn ngữ, theo Từ điển Hán Việt thì "công tố" hiểu theo là: "Quan

kiểm sát đã xét xử hình sự, bên thay mặt quốc gia để buộc tội trước tòa án"[1].

Công tố là một từ Hán Việt được hình thành bởi hai từ đơn công và tố. Theo Từ

điển Tiếng Việt, thì: "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước, chung cho mọi người

và khác với tư". Còn "tố" có nghĩa là "nói công khai cho mọi người biết việc làm

sai trái, phạm pháp của người khác”. Công tố là "Truy tố, buộc bị cáo và phát biểu

ý kiến trước tòa án"[64]. Hiểu theo nghĩa đầy đủ “tố” là "sự cáo buộc công khai

của một người hoặc một nhóm người, của cơ quan hoặc tổ chức về hành vi vi

phạm pháp luật, hành vi sai trái khác của người, tổ chức hoặc cơ quan trước người

hoặc cơ quan có thẩm quyền". Công tố có nội hàm gồm "sự buộc tội" và “công”.

Trong đó, "sự buộc tội" có nghĩa là "nội dung của sự buộc tội nêu trong quyết định

khởi tố bị can, kết luận điều tra, cáo trạng và bản án" và là "một loại hoạt động của

người buộc tội của Nhà nước, của xã hội hoặc thậm chí của người bị hại hay

người đại diện của người này trong việc chứng minh lỗi của bị cáo". "Sự buộc tội"

và "công" ghép lại với nhau thành "công tố" thì có nghĩa là sự buộc tội của Nhà

nước đối với người bị truy cứu TNHS [10].

Nhìn chung cách diễn giải của các từ điển có thể cho ta một nhận thức

chung là công tố khác với tư tố vì có sự hiện diện của Nhà nước trong việc cáo

30

buộc một cá nhân, tổ chức nào đó đã phạm tội hoặc gây thiệt hại cho cá nhân, tổ

chức khác. Do vậy, đặc điểm của công tố theo cách hiểu chung nhất là:

+ Về biểu hiện ra bên ngoài, công tố là một trong những hình thức cáo buộc

người khác thực hiện hành vi sai trái hoặc vi phạm pháp luật. Công tố là hình thức

nhân danh lợi ích công để phát giác, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật ra

trước tòa án để xét xử, nên công tố được hiểu là sản phẩm của xã hội có Nhà nước.

- Về chủ thể thực hiện, công tố được thể hiện thông qua người thực hiện sự

cáo buộc ấy là Nhà nước.

- Về đối tượng, công tố nhằm vào không chỉ là một con người cụ thể mà

còn có thể là một pháp nhân.

- Về lĩnh vực công tố, việc cáo buộc không hạn chế chỉ trong một lĩnh vực

mà nó có thể được thể hiện và tồn tại trong nhiều lĩnh vực khác nhau tùy theo

hành vi vi phạm được thực hiện đã xâm phạm tới từng loại quan hệ pháp luật khác

nhau. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, việc cáo buộc một cá nhân là có tội thì phải

buộc tội cá nhân đó đã vi phạm quy định trong BLHS. Do đó, hiểu theo nghĩa hẹp

thì lĩnh vực hình sự sẽ là lĩnh vực chủ yếu để Nhà nước thực hiện QCT của mình.

- Về phạm vi, công tố là thẩm quyền được Nhà nước thực hiện qua các giai

đoạn khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử.

Như vậy, công tố, hiểu theo nghĩa chung nhất đó là sự cáo buộc của Nhà

nước đối với người đã có hành vi vi phạm pháp luật hình sự.

Khái niệm QCT hiện nay trong khoa học pháp lý nước ta hiện còn tồn tại

nhiều quan điểm khác nhau. Một số quan điểm tiêu biểu như:

- Công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một

quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật [47].

- QCT là quyền của nhà nước giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra tòa

án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa [45].

- QCT là quyền đại diện cho nhà nước đưa các vụ việc vi phạm trật tự

pháp luật ra cơ quan xét xừ đề bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo vệ trật tự pháp

31

luật [47].

- QCT là quyền được nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng

trong việc truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm

tội [66].

- Theo quan điểm của các luật gia theo truyền thống pháp luật của

Cộng hoà Pháp, QCT bao gồm quyền khởi tố, điều tra vụ án, quyền truy tố và

buộc tội bị cáo trước tòa án [30].

- QCT là quyền cáo buộc của nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã

vi phạm pháp luật, bao gồm hành vi hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, luật

kinh tề và luật hình sự. Và, QCT là quyền của nhà nước thực hiện các cáo buộc

đó [18].

- QCT là quyền lực công, đòi hỏi phải xử lý các vụ việc xâm phạm lợi

ích chung một cách công khai bằng con đường tòa án. Vì thế, QCT thường gắn

liền với quyền tài phán của tòa án [66].

- QCT là quyền được hành xử nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã

hội, với mục đích là tòa án tuyên một hình phạt đối với người phạm pháp [46].

Các quan điểm hoặc cách diễn đạt nêu trên mặc dù chưa thống nhất, tuy vậy

mỗi quan điểm đều có những hạt nhân hợp lý riêng của nó. Tuy nhiên, nếu xem xét

đến cơ sở khoa học của mỗi quan điểm nêu trên, các quy định của pháp luật hiện

hành, thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức

và hoạt động công tố ở các hệ thống pháp luật trên thế giới, có thể rút ra một số

nhận xét về các quan điểm về QCT như sau:

Còn đồng nhất QCT với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của

VKS, dẫn đến tình trạng mở rộng quá mức phạm vi QCT sang các lĩnh vực tư

pháp khác như dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.

Xem QCT là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong TTHS, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của QCT như là

một hoạt động độc lập của VKS nhân danh quyền lực công.

32

Quá thu hẹp phạm vi QCT và chỉ xem QCT như là quyền của VKS truy tố

kẻ phạm tội ra tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.

Điểm hạn chế chung nhất của hầu hết các quan điểm hay cách diễn đạt về

QCT nêu trên là không phân định rõ ràng và hợp lý về bản chất, nội dung, phạm vi

của QCT, của hoạt động THQCT và của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật.

Để có cách hiểu đúng đắn về QCT, cần phải căn cứ vào lịch sử ra đời của

QCT; những đặc trưng khác biệt giữa hoạt động công tố và tư tố cũng như sự khác

nhau về cách thức tổ chức thực hiện QCT. Nói cách khác, việc đưa ra khái niệm

đúng đắn về QCT cần phải xuất phát từ những luận điểm mang tính nguyên tắc

sau đây về đặc trưng của QCT:

Một là, QCT là một loại quyền của Nhà nước, xuất hiện cùng với sự ra đời

của Nhà nước, được tổ chức thực hiện khác nhau tùy theo kiểu Nhà nước bản chất

và hình thức Nhà nước.

Hai là, QCT là quyền lực công gắn liền với các quyền tài phán của tòa án.

Bởi lẽ, QCT không chỉ là quyền tố giác công mà còn là việc xử lý các vụ việc xâm

phạm lợi ích chung một cách công khai của tòa án. Về mặt lý luận, đây cũng là

điểm gặp nhau rất cơ bản giữa các quan điểm khác nhau về QCT - quyền đưa vụ

án ra tòa và "buộc tội" người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên

cũng cần nhận thức rằng, không phải chỉ riêng quyền đưa vụ án ra tòa mới là

QCT. Cần phải xác định chủ thể nào được giao nhiệm vụ đưa vụ án ra tòa thì

chủ thể ấy chính là cơ quan THQCT, vì QCT là quyền nhân danh Nhà nước

đưa vụ án ra tòa. Do đó, chủ thể của QCT chỉ có thể là cơ quan được Nhà

nước giao cho thẩm quyền thực hiện QCT, cho dù có tên gọi khác nhau.

Ba là, QCT là sự thể hiện quyền lực của Nhà nước, đòi hỏi phải trừng trị công

khai những hành vi phạm pháp liên quan đến lợi ích chung. Để bảo đảm tính

khách quan và sự công bằng thì quyền này phải độc lập với quyền tài phán của tòa

án. Như vậy, QCT và quyền xét xử phải được tổ chức thực hiện một cách độc lập

với nhau. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để phân biệt QCT với các

33

thẩm quyền tố tụng khác của cơ quan công tố, của các cơ quan tiến hành tố tụng

khác hoặc với quyền khởi kiện, quyền yêu cầu khởi tố của đương sự.

Bốn là, về lợi ích, QCT có mục đích bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích

chung của xã hội, lợi ích hợp pháp của công dân. Các lợi ích trên được bảo đảm bằng

sức mạnh Nhà nước. QCT thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trước toàn xã hội.

Năm là, QCT là một quyền năng được thực hiện không chỉ giới hạn ở

một giai đoạn tố tụng mà được thể hiện trong tất cả các giai đoạn tố tụng.

Việc chia cắt hoặc lấy một vài quyền năng thuộc nội dung QCT và giới hạn

QCT trong một vài giai đoạn tố tụng là quan điểm chưa xác đáng. QCT cũng

như các quyền năng tố tụng khác, có thể bị triệt tiêu khi xuất hiện căn cứ chấm dứt

hiệu lực theo qui định của pháp luật. Như vậy, để làm rõ khái niệm QCT không

thể không xem xét đến các căn cứ làm triệt tiêu QCT cũng như quyền cấm dứt

việc THQCT.

Sáu là, về lĩnh vực cần xác định rằng, Nhà nước chỉ sử dụng QCT đối với

hành vi phạm tội, nên QCT được thể hiện trong các giai đoạn TTHS, còn trong

các lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, hành chính, lao động thì QCT cần phải

nhường chỗ cho quyền tự định đoạt của các đương sự. Nói cách khác, quyền công

tố chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội khi các hành vi xâm hại các quan hệ xã hội đó

được xác định là tội phạm.

Tuy nhiên, việc tổ chức THQCT được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc

gia, ở mỗi thời kỳ lịch sử, tùy thuộc vào các điều kiện và hoàn cảnh về kinh tế,

chính trị, xã hội cụ thể. Trên thế giới, phần lớn các nước chỉ giao quyền này cho

Viện công tố. Nhưng có nước như Vương quốc Anh, ngoài Viện công tố người ta

còn giao cho cơ quan Hải quan, Thuế vụ có quyền trực tiếp đưa vụ án ra tòa trong

lĩnh vực mà các cơ quan đó phụ trách. Ở Pháp, Công tố viên khởi tố những việc

gây thiệt hại đến trật tự chung như: yêu cầu hạn chế quyền của một số người, hủy

bỏ một cuộc hôn nhân bất hợp pháp, tham gia một số việc kiện khác. Trong lĩnh

vực dân sự, Công tố viên nhân danh Nhà nước là một bên trong các vụ án, có

34

nhiệm vụ bảo vệ quyền trẻ em, những người tàn tật, tâm thần, hủy bỏ hôn nhân bất

hợp pháp, lập hội bất chính.

Sở dĩ có sự khác nhau về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố ở một

số nước là do QCT chỉ thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng

bản chất của việc tham gia các hoạt động tố tụng khác ngoài hình sự, cơ quan

công tố cũng chỉ có quyền thực hiện hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật mà

thôi. Việc khởi kiện có tính chất công này khác về bản chất với việc khởi tố để

bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại bởi những hành vi vi phạm pháp luật có tính

nguy hiểm đáng kể, được xác định là tội phạm.

Tóm lại, QCT là quyền năng của cơ quan có thẩm quyền buộc tội nhân

danh nhà nước đối với cá nhân phạm tội để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội

và lợi ích của công dân [42, tr.40].

1.2.1.2 Những vấn đề cơ bản của thực hành quyền công tố

Để bảo đảm THQCT, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó

quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT. Các quyền năng đó được

giao cho cơ quan Nhà nước thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu TNHS đối

với người phạm tội, cơ quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm THQCT.

Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật thì VKSND là cơ quan

được giao chức năng THQCT. Nếu như QCT là một quyền năng cơ bản trong hệ

thống quyền lực tư pháp của Nhà nước thì THQCT cũng được coi là một chức

năng cơ bản của VKSND. Đây là một chức năng Hiến định cơ bản của VKS mà

không có cơ quan Nhà nước nào có được nhằm mục đích bảo đảm việc chấp hành

pháp luật nghiêm chỉnh, thống nhất trong việc truy cứu TNHS đối với người phạm

tội và không để lọt tội phạm.

Thực tiễn hoạt động THQCT hơn 50 năm của VKSND các cấp cho thấy

việc khởi tố do VKSND thực hiện chỉ chiếm 3- 4% tổng số vụ án được khởi tố.

Các vụ án hình sự đều do VKS truy tố và thực hiện sự buộc tội trước phiên tòa,

đưa ra lời kết luận của mình tại phiên tòa. Cùng với những hoạt động đó, VKS các

cấp còn có trách nhiệm xem xét, bảo đảm cho việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ

35

BPNC có căn cứ và hợp pháp; có quyền khởi tố, yêu cầu khởi tố, xem xét việc

khởi tố của CQĐT và tòa án.

Theo tác giả Lê Hữu Thể, THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền

năng pháp lý thuộc nội dung QCT để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người

phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử [42]. Đây là quan điểm,

phù hợp với truyền thống pháp luật của nước ta hiện nay.

Theo Điều 3, Luật tổ chức VKSND 2014, "Thực hành quyền công tố là

hoạt động của VKS trong TTHS để thực hiện việc buộc tội Nhà nước đối với

người phạm tội".

Khi nghiên cứu hoạt động THQCT với ý nghĩa là một hoạt động tố tụng cụ

thể, tùy theo phạm vi và mục đích nghiên cứu mà xác định yếu tố cần phải được

xem xét để làm sáng tỏ các khía cạnh, nội dung của khái niệm THQCT. Ở góc độ

là một hoạt động TTHS thuộc chức năng của cơ quan công tố, các yếu tố cơ bản

của THQCT như chủ thể, đặc điểm, đối tượng, phạm vi, nội dung của THQCT là

những yếu tố có ý nghĩa quan trọng về mặt nhận thức cần phải được làm sáng tỏ.

Mục đích của thực hành quyền công tố

Theo Điều 1 BLTTHS năm 2003, có thể xác định được rằng THQCT là

hoạt động của VKS nhằm mục đích phát xử lý nhanh chóng, kịp thời, công minh,

mọi hành vi phạm tội. Để đạt được mục đích chung này, từng nhiệm vụ, quyền

hạn THQCT cụ thể có những mục đích tố tụng cụ thể, riêng biệt của hoạt động

buộc tội và đặt chúng trong mối quan hệ tổng thể thì cấu thành mục đích chung

nêu trên.

Chủ thể thực hành quyền công tố

Thực hành quyền công được pháp luật giao cho một chủ thể duy nhất,

đó là VKSND. Ở Việt Nam, việc xác định chủ thể THQCT xuất phát từ cơ

sở thực tiễn và lý luận cụ thể. Xét ở phương diện lịch sử Việt Nam, căn cứ

vào các quy định của pháp luật thì chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT.

Về phương diện lý luận, cần phải thấy rằng trong cơ chế tổ chức quyền lực

Nhà nước ta hiện nay, không chỉ VKS mà vẫn có một số cơ quan khác được thực

36

hiện các hoạt động liên quan đến QCT, như: hoạt động khởi tố vụ án hình sự của

CQĐT và tòa án. Tuy nhiên, các hoạt động này chỉ là giai đoạn ban đầu của quá

trình tố tụng, có tính chất phát động QCT của VKS. Hoạt động khởi tố vụ án, nhìn

về hình thức dễ lầm tưởng là hoạt động công tố, song thực chất, không có ý nghĩa,

mục đích, vai trò quyết định đến việc buộc tội tại tòa án. Quyết định khởi tố của

CQĐT chỉ thực sự có ý nghĩa phát động QCT sau khi được VKS xem xét; nếu

quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ và trái pháp luật thì

VKS có quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền khởi tố vụ án, nhưng các quyết định khởi

tố vụ án hình sự của tòa án đều phải được gửi cho VKS xem xét và sẽ bị VKS

kháng nghị nếu có vi phạm pháp luật. CQĐT có quyền thu thập tài liệu chứng cứ,

nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ ấy có đủ cơ sở để truy tố bị can hay

không là do VKS chịu trách nhiệm. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh và xét

thấy cần xử lý về hình sự, VKS quyết định truy tố bị can ra tòa. Như vậy, về mặt

pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động QCT mà không chịu sự

can thiệp của bất cứ cơ quan Nhà nước nào. Do vậy, một số hoạt động của các cơ

quan trên chỉ là bổ trợ cho QCT của VKS, chứ không phải là hoạt động THQCT.

THQCT là việc thông qua VKS, Nhà nước tiến hành thực hiện quyền truy

cứu trách nhiệm pháp lý đối với người có hành vi phạm tội. Cơ quan được giao thẩm

quyền đưa vụ án ra tòa được gọi là cơ quan THQCT. Vì vậy, THQCT là chức năng

thể hiện tính quyền lực Nhà nước mà không một cơ quan nào có thể làm thay VKS.

Pháp luật giao cho VKS quyền thực thi QCT theo trình tự thủ tục nhất định

nhưng về mặt thực tế THQCT được tổ chức thực hiện bởi các diện người tiến

hành tố tụng của VKS có thẩm quyền. Người tiến hành tố tụng của VKS có thẩm

quyền thực hiện cách nhiệm vụ quyền hạn được BLTTHS năm 2003 qui định với

tư cách đại diện cho VKS (thực chất là đại diện cho Nhà nước) khi được phân

công thụ lý vụ án. Mặc dù BLTTHS năm 2003 chỉ qui định chung chủ thể thực thi

nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT là VKS, tuy nhiên căn cứ qui định của Điều 36

và Điều 112 thì có thể hiểu rằng chủ thể thực tế và chủ yếu của hoạt động THQCT

37

trong điều tra vụ án là Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS và trong một số trường

hợp là Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án.

Đối tượng thực hành quyền công tố

THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội

dung QCT để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Yêu

cầu của VKS khi thực hiện quyền năng được giao trong TTHS là xác định

xem một hành vi vi phạm pháp luật có phải tội phạm hay không và có cần

hay không việc truy cứu TNHS đối với tội phạm đó. Do đó, đối tượng của

hoạt động THQCT là hành vi phạm tội được qui định trong BLHS.

Phạm vi thực hành quyền công tố

Trong khoa học pháp lý, bàn về phạm vi THQCT hiện có nhiều quan điểm

cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn: thứ nhất: “Phạm vi THQCT chỉ là việc truy tố và

buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hình sự”; thứ hai: “Phạm vi THQCT

chỉ là sự buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm”; thứ ba: “Phạm vi THQCT được thực hiện

từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi người phạm tội thi hành xong bản án”; thứ

tư: “Phạm vi THQCT được thực hiện từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi bản án

có hiệu lực pháp luật”[42, tr.57-62].

Mỗi quan điểm trên đều gắn phạm vi THQCT với những hoạt động đặc

trưng của VKS trong từng giai đoạn TTHS. Song, cần thấy rằng, trong TTHS

nước ta hiện nay, VKS THQCT không chỉ ở một giai đoạn tố tụng mà ở nhiều giai

đoạn tố tụng. THQCT chính là phương thức tiến hành tố tụng của VKS thể hiện ở

quá trình buộc tội nên không thể quan niệm rằng việc THQCT chỉ ở giai đoạn điều

tra hay giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc cả giai đoạn xét xử phúc thẩm như quan

điểm thứ nhất và thứ hai. Tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm VKS

cũng bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS cấp dưới khi bị cáo kháng cáo, bảo vệ

kháng nghị của VKS. Quan điểm thứ ba không hợp lý khi mở rộng phạm vi

THQCT đến khi thi hành xong bản án. Bởi lẽ, ở giai đoạn thi hành án không có

việc điều tra, thu thập chứng cứ để buộc tội, không có việc kết tội, mà chỉ là hoạt

động thi hành bản án của tòa án. Do đó, phạm vi của THQCT mặc dù cần phải

38

hiểu theo nghĩa rộng, song không thể kéo dài đến giai đoạn thi hành án. Như vậy,

việc xác định phạm vi THQCT phải gắn với khái niệm về QCT và THQCT.

Về lý thuyết, khi có tội phạm xảy ra là xuất hiện QCT. Tuy nhiên, trên thực

tế không phải mọi tội phạm xảy ra đều được phát hiện và khởi tố nên số vụ án

được khởi tố, điều tra bao giờ cũng nhỏ hơn số vụ phạm tội thực tế đã xảy ra. Cho

nên, phạm vi QCT và phạm vi THQCT còn được xem xét cả ở tình trạng tội phạm

ẩn. Có quan điểm cho rằng phạm vi QCT cũng như phạm vi THQCT bắt đầu từ

khi khởi tố vụ án hình sự. Nếu quan niệm phạm vi QCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ

án hình sự là thu hẹp phạm vi quyền này và nhầm lẫn khởi tố vốn là một biện

pháp THQCT với QCT. Như vậy, việc xác định phạm vi QCT và phạm vi

THQCT cần phải tính từ thời điểm từ khi có tội phạm xảy ra (vì lúc đó xuất hiện

mối quan hệ giữa Nhà nước với người phạm tội) và kết thúc khi bản án có hiệu lực

pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị. Pháp điển hóa quan điểm này, Điều 3,

Luật tổ chức VKSND 2014, qui định "THQCT..., được thực hiện ngay từ khi giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự".

Khi nghiên cứu phạm vi THQCT cần phải xác định cả những trường hợp

chấm dứt QCT. Đó là các trường hợp miễn TNHS, đình chỉ điều tra v.v...Như vậy,

QCT có thể bị chấm dứt ở giai đoạn tố tụng sớm hơn.

Từ những lập luận trên có thể khẳng định phạm vi THQCT trong điều tra vụ

án hình sự chính là việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội được giới

hạn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, có thời điểm bắt đầu từ khi các quyết

định TTHS có ý nghĩa khởi động hoạt động điều tra vụ án hình sự (quyết định khởi

tố vụ án) hoặc quyết định tố tụng có ý nghĩa tái khởi động hoạt động điều tra (quyết

định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định hủy bản án để điều tra, truy tố, xét xử

lại theo trình tự phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm), có thời điểm kết thúc (hoặc

tạm thời dừng) hoạt động điều tra khi có kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết

định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra đúng pháp luật, không bị VKS hủy bỏ.

39

Nội dung thực hành quyền công tố

Đây cũng là vấn đề đang có nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng những quyền năng pháp lý mà VKS thực hiện

liên quan đến việc buộc tội bị can, bị cáo thì đó là những quyền năng thuộc nội

dung THQCT [42, tr.57].

Quan điểm thứ hai cho rằng nội dung THQCT bao gồm không chỉ những

quyền năng pháp lý mà VKS thực hiện liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo

mà còn bao gồm những quyền năng pháp lý mà VKS sử dụng để phát hiện, xử lý,

yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng khác, người

tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, là những quyền năng thuộc chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật [6, tr.1-8].

Theo quan điểm thứ nhất, QCT được xác định rõ ràng không gắn với quyền

KSHĐTP. Còn quan điểm thứ hai lại nhầm lẫn giữa chức năng THQCT và chức

năng KSHĐTP. Sở dĩ có sự nhầm lẫn này bởi quan điểm này căn cứ vào thực tế là

những hành vi tố tụng thể hiện sự đan xen giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Trong quá trình tiến hành tố tụng, QCT và quyền

KSHĐTP có sự đan xen và thể hiện rõ nét trong quyết định kháng nghị phúc thẩm

hình sự của VKS đối với bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp, một quyết định kháng nghị có thể bao hàm đồng thời hai nội dung,

một là có sự vi phạm trong việc áp dụng BLHS, hai là vi phạm nghiêm trọng về

TTHS hoặc chỉ thể hiện một trong hai nội dung trên nhưng đều là cơ sở làm phát

sinh một trình tự xét xử mới - xét xử phúc thẩm. Chính vì lẽ đó, theo luật VKS

thực hiện đồng thời hai chức năng THQCT và KSHĐTP mà không tách ra thành

các lĩnh vực hoạt động nhằm thực hiện từng chức năng tố tụng riêng rẽ. Ở nhiều

nước trên thế giới, ngoài chức năng công tố, viện công tố còn được giao nhiệm vụ

kiểm tra việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp nhưng cũng không phân

chia thành hai nhiệm vụ độc lập.

Như vậy, quan điểm hợp lý về nội dung THQCT là việc VKS sử dụng tổng

hợp các quyền năng tố tụng nhằm buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người

40

phạm tội, được thực hiện ngay từ khi hành vi phạm tội xảy ra và diễn ra trong suốt

quá trình tố tụng cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Hình thức thể hiện của thực hành quyền công tố

Xuất phát từ bản chất, chủ thể, đối tượng của hoạt động THQCT, về mặt

văn bản, phần lớn quyền năng này được thể hiện qua hình thức văn bản pháp luật

cá biệt có tính “mệnh lệnh” - quyết định. Một số ít quyền năng THQCT được thể

hiện qua hình thức biên bản về hoạt động trực tiếp tiến hành một số hoạt động

điều tra theo qui định của Bộ luật TTHS. Cá biệt có loại hoạt động được xem là

hoạt động THQCT vì nó có thể hiện ý chí của VKS đối với hoạt động điều tra và

có tính định hướng và chỉ đạo chung hoạt động điều tra, yêu cầu điều tra, được thể

hiện dưới dạng công văn. Đặc biệt là hành vi và lời nói của Kiểm sát viên tại

phiên toà là một dạng hình thức đặc biệt thể hiện chức năng THQCT.

Đối với hình thức văn bản thể hiện chức năng THQCT của VKS – quyết

định, xét về việc thể hiện quyền uy Nhà nước, thẩm quyền, trách nhiệm tố tụng, thì

đây là hình thực THQCT được thực hiện thông qua hành vi của Viện trưởng, Phó

Viện trưởng được qui định tại Điều 36 BLTTHS năm 2003. Đối với hình thức khác

như biên bản, công văn, lời nói, hành vi, là những hình thức thể hiện chức năng

THQCT thông qua hoạt động của Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án. Tuy

nhiên, nếu xét về góc độ nghiệp vụ công tác kiểm sát, mối quan hệ biện chứng giữa

hai hoạt động chức năng THQCT và KSHĐTP thì phạm vi hoạt động THQCT của

Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên VKS có thẩm quyền còn rộng, chi

tiết, cụ thể hơn, được cụ thể hoá thành các thao tác nghiệp vụ kiểm sát.

1.2.1.3 Thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự

THQCT trong điều tra vụ án hình sự là việc VKS tiến hành các hoạt động

nhằm thực thi quyền năng công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đây là

một hình thức, một giai đoạn THQCT của VKS nhằm thực hiện các nhiệm vụ đã

được BLTTHS năm 2003 xác định.

Theo qui định của Điều 112 BLTTHS năm 2003, hoạt động THQCT trong

điều tra vụ án hình sự 6 nhóm hoạt động sau đây:

41

+ Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay

đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;

+ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; khi xét thấy cần

thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này;

+ Yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ

luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;

+ Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm

giam và các BPNC khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các

quyết định của CQĐT theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không

phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;

+ Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; yêu

cầu CQĐT truy nã bị can;

+ Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Tuy nhiên, sự phân định của Điều 112, BLTTHS năm 2003 như trên tỏ ra

chưa hợp lý, vì còn bao gồm những hoạt động được cho là một hình thức thực hiện

nội dung THQCT nhưng không phù hợp với bản chất, đặc điểm của việc THQCT

mà chủ yếu dựa trên tính chất “quyền lực Nhà nước” của các hoạt động chức năng

của VKS. Nếu chỉ dựa vào tính chất “quyền lực Nhà nước” hay nói cách khác tính

“mệnh lệnh, phục tùng” của các chủ thể được cho là đối tượng của hoạt động

THQCT – căn cứ để phân biệt với các dạng hoạt động chức năng khác của VKS thì

sự phân biệt đó chưa chính xác. Ví dụ: khoản 3, Điều 112 BLTTHS năm 2003 qui

định hoạt động yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên vào nhóm hoạt

động nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn

điều tra, chính là sự thiếu hợp lý như nêu trên. Mặt khác, Điều 112 BLTTHS còn

qui định cho VKS một số quyền năng của VKS (Quyết định việc truy tố, quyết định

đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo qui định tại khoản 6, Điều 112 BLTTHS năm

2003) mà trên thực tế chúng không được thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự mà được thực hiện trong giai đoạn tiếp theo - giai đoạn: "Quyết định việc

truy tố", được qui định tại Chương XV BLTTHS năm 2003.

42

So với BLTTHS năm 2003, Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014, đã cụ

thể hơn, rõ ràng hơn khi qui định các hoạt động thực hiện chức năng THQCT của

VKS trong giai đoạn điều tra. Về bản chất, các hoạt động này không thay đổi nhưng

được đổi mới cách thức biểu đạt theo hướng tổng hợp, khái quát cao nhưng cụ thể

về các trường hợp, điều kiện áp dụng để phù hợp với thực tiễn công tác kiểm sát.

Về hình thức, Điều 14, Luật tổ chức VKSND năm 2014 xác định và phân chia hoạt

động THQCT của VKS trong điều tra vụ án hình sự thành 11 nhóm hoạt động.

Trong đó, bổ sung hoạt động phê chuẩn, không phê chuẩn, quyết định áp dụng, thay

đổi, huỷ bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân; bổ sung hoạt

động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc THQCT theo qui định của

BLTTHS; bổ sung những hoạt động THQCT mà từ trước đến nay VKS vẫn thực

thực hiện trên thực tế nhưng chưa được Điều 112 BLTTHS năm 2003 qui định

(hoạt động quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển vụ

án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc).

Dưới góc độ nghiên cứu, căn cứ vào mục đích tố tụng cụ thể của các hoạt

động THQCT mà VKS thực hiện trong giai đoạn điều tra, tác giả luận án phân

chia một cách tương đối nội dung hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra,

theo qui định của Điều 112 BLTTH năm 2003 và Điều 14 Luật tổ chức VKSND

năm 2014 thành 03 nhóm sau đây:

Căn cứ sự ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến quyền công tố để phân

Các hoạt động có tính chất quyết định việc phát động tiến trình điều tra

loại nhóm hoạt động THQCT này. Đây là nhóm hoạt động có tính chất quyết

định (bao gồm cả ý nghĩa khẳng định lẫn phủ định) toàn bộ hoặc một phần

hoạt động buộc tội hay nói cách khác đây là nhóm hoạt động phát động hoặc

chấm dứt, tạm chấm dứt tiến trình buộc tội, là các hoạt động thực hiện quyền năng

trong lĩnh vực khởi tố vụ án, khởi tố bị can (khoản 1, Điều 112 BLTTHS năm

2003; khoản 1, 3, 9 Điều 14 Luật tổ chức VKS nằm 2014) và các hoạt động thực

hiện quyền năng huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của

43

CQĐT (khoản 5 Điều 112 BLTTHS năm 2003; khoản 2, 5 Điều 14 Luật tổ chức

VKSND năm 2014)

Các hoạt động có tính quyết định việc duy trì hoạt động điều tra

Căn cứ vào mục đích đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động buộc

tội nhưng không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân, nhóm hoạt động THQCT có tính chất quyết định

việc duy trì hoạt động buộc tội bao gồm các hoạt động thực hiện quyền năng

phê chuẩn; gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định áp dụng,

thay đổi BPNC và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân;

chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp chữa bệnh và huỷ bỏ

quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT (khoản 4, Điều 112

BLTTHS năm 2003; khoản 4, 5, 6, 10, Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014)

Các hoạt động mang tính chất củng cố, tăng cường hiệu quả buộc tội

Khi nghiên cứu những hoạt động THQCT của VKS trong giai đoạn điều

tra, thấy rằng tuy chúng có hình thức tổ chức thực hiện hoặc có những tác động

khác nhau đối với hoạt động điều tra nhưng xét trên bình diện chung thì đều nhằm

đạt được một mục đích là củng cố, tăng cường trên thực tế hiệu quả chứng minh tội

phạm và người phạm tội, từ đó bảo đảm quyền của VKS buộc tội nhân danh Nhà

nước một cá nhân phạm tội trước Tòa án. Đó là những hoạt động THQCT thực hiện

các quyền năng đề ra yêu cầu điều tra; tự tiến hành các hoạt động điều tra (khoản 2

Điều 112 BLTTHS năm 2003; khoản 8 Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014) và

yêu cầu CQĐT truy nã bị can (khoản 5 Điều 112 BLTTHS năm 2003; khoản 7

Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014)

1.2.2 Kiểm sát hoạt động tư pháp

Theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, VKS THQCT và

KSHĐTP, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và

thống nhất. Như vậy, chức năng của VKSND là THQCT và KSHĐTP. Đây là hai

mặt hoạt động chức năng Hiến định mà VKSND được Nhà nước giao cho. Trong

khoa học pháp lý, khi bàn đến chức năng tố tụng của VKS cũng như của các cơ

44

quan tư pháp nói chung, các thuật ngữ thường được sử dụng là: “chức năng Hiến

định”, “chức năng tố tụng cơ bản”, “chức năng tố tụng chuyên ngành - chức năng

tố tụng chuyên môn”.

Chức năng tố tụng chuyên môn có phạm vi hẹp được sử dụng để chỉ các

hoạt động có cùng tính chất, phương hướng, mục đích của một cơ quan tiến hành

tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Khi bàn về chức năng tố tụng chuyên

môn (hay còn gọi là chức năng tố tụng chuyên ngành, gọi tắt là chức năng tố tụng)

của VKS trong TTHS có quan điểm cho rằng VKS có chức năng tố tụng là

THQCT và KSHĐTP nhằm thực hiện chức năng tố tụng cơ bản là chức năng buộc

tội. Theo pháp luật Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, hoạt

động của VKS hiện nay, có thể thấy rõ đây là hai chức năng tố tụng hoàn toàn độc

lập của VKS nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Các vấn đề có liên quan

đến chức năng thứ nhất - THQCT, đã được làm rõ qua phần phân tích nêu trên.

Khác với mặt hoạt động THQCT được đa số các quan điểm cho rằng chỉ xuất hiện

và tồn tại trong lĩnh vực hoạt động TTHS, mặt hoạt động KSHĐTP có phạm vi

bao quát, rộng hơn và đã từng được xem là hoạt động nền tảng, cốt lõi của tất cả

các dạng hoạt động nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS nói riêng và

của HĐTP nói chung. Ngoài ra, còn có quan điểm khác nhau về lĩnh vực hoạt

động KSVTTPL và KSHĐTP. Do vậy, các vấn đề có liên quan đến chức năng thứ

hai - KSHĐTP và KSVTTPL trong tố tụng hình sự cần được làm rõ, cụ thể là cần

phải làm rõ các khái niệm: HĐTP, KSHĐTP và KSHĐTP trong điều tra vụ án

hình sự.

1.2.2.1 Hoạt động tư pháp

Khi nghiên cứu khái niệm KSHĐTP trong điều tra vụ án hình sự, để có

cách nhìn toàn diện, khoa học, chính xác thì phải bắt đầu từ những vấn đề cơ bản

là thuật ngữ “tư pháp” và tiếp theo sau đó là làm rõ các vấn đề liên quan là quyền

tư pháp, cơ quan tư pháp, HĐTP, KSHĐTP.

Trong khoa học pháp lý nước ta hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về

tư pháp và các vấn đề liên quan đến nó. Về mặt ngữ nghĩa, theo từ điển Tiếng Việt

45

[64], tư pháp được hiểu khái quát là việc xét xử các hành vi phạm pháp và các vụ

kiện trong nhân dân. Theo Từ điển Hán - Việt [1], tư pháp còn có nghĩa là trông

coi, gìn giữ pháp luật hay bảo vệ pháp luật. Theo tiếng La tinh (Gustizia), tiếng

Anh và tiếng Pháp (Justice), tiếng Nga (правосудие), tư pháp có nghĩa là công lý,

pháp chế và bao hàm nội dung hoạt động xét xử của tòa án. Trong khoa học pháp

lý hiện nay, có nhiều cách hiểu về thuật ngữ tư pháp. Có quan điểm cho rằng tư

pháp với nghĩa chung nhất là ý tưởng về một nền công lý, đòi hỏi phải giải quyết

mọi tranh chấp xảy ra trong xã hội phải đúng luật, phù hợp với lẽ công bằng. Có

quan điểm khác cho rằng tư pháp được dùng chỉ đến hoạt động tài phán và được

hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả hoạt động xét xử và hoạt động công tố. Ngoài ra,

thuật ngữ tư pháp còn được dùng để chỉ một bộ phận của hệ thống pháp luật của

một quốc gia – bộ phận luật tư pháp, điều chỉnh những quan hệ xã hội có tính chất

“tư”. Trên cơ sở quan niệm về tư pháp như vậy, quyền tư pháp cũng có những

quan điểm khác nhau. Theo nghĩa rộng, quyền tư pháp là quyền xét xử của tòa án

và quyền áp dụng pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật (CQĐT, VKS, Bộ

Tư pháp, Thanh tra,…) và của hệ thống bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám

định…); theo nghĩa hẹp quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử của tòa án. Có ý

kiến cho rằng hoạt động xét xử của tòa án là biểu hiện quan trọng của quyền tư

pháp nhưng không đồng nhất với quyền tư pháp. Vì ngoài xét xử, quyền tư pháp

còn có các hoạt động khác như kiểm tra các quyết định và hoạt động của cơ quan

Nhà nước và người có chức vụ quyền hạn; giải thích, hướng dẫn pháp luật, tham

gia vào quá trình hình thành đội ngũ Thẩm phán, bảo đảm việc thi hành và chấp

hành các bản án, các quyết định khác. Có ý kiến khác cho rằng quyền tư pháp bao

gồm hai nội dung là quyền thẩm phán và quyền kiểm sát. HĐTP bao gồm hoạt

động xét xử và hoạt động kiểm sát [42, tr.67 – 70].

Từ những quan điểm như trên về quyền tư pháp, theo tác giả luận án, để

có nhận thức đúng vấn đề, cần căn cứ vào xuất phát điểm của nó. Quyền tư pháp

được hiểu là một lĩnh vực của quyền lực Nhà nước và ban đầu chỉ được hiểu là

quyền xét xử của tòa án. Sau đó, trong lịch sử phát triển của Nhà nước và pháp

46

luật của mỗi quốc gia, việc tổ chức thực hiện quyền năng của Nhà nước trong từng

lĩnh vực có sự đan xen, giao thoa nhau, không còn giống như phạm vi của mỗi

lĩnh vực quyền lực Nhà nước của học thuyết tam quyền phân lập. Tùy theo điều

kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, truyền thống của mình mà mỗi quốc gia có

những quan điểm khác nhau về cơ quan tư pháp và HĐTP. Tuy nhiên các quan

điểm đều thống nhất ở một điểm chung là coi vị trí trung tâm của HĐTP là tòa án

và tòa án không phải là cơ quan tư pháp duy nhất. Trong bộ máy nhà nước của

mỗi quốc gia có nhiều cơ quan tiến hành HĐTP ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng

đều có xu hướng là phục vụ, bảo đảm cho hoạt động xét xử của tòa án được thực

thi đúng qui định của pháp luật. Do vậy, quyền tư pháp cần được hiểu theo nghĩa

tổng thể là quyền được thực hiện bởi các cơ quan tư pháp và các cơ quan được

giao thực hiện một số thẩm quyền về tư pháp nhằm xét xử, giải quyết các tranh

chấp hoặc vi phạm pháp luật [65].

Quan điểm của Nhà nước ta về cơ quan tư pháp được thể hiện lần đầu tiên

tại Hiến pháp năm 1946. Ngay từ đầu, ở nước ta đã có quan niệm về cơ quan tư

pháp theo nghĩa rộng, bao gồm các cơ quan làm công tác xét xử và các cơ quan

làm công tác công tố (điều tra, truy tố). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của

Đảng (1986), khẳng định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công và

phối hợp giữa các Cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp”.

Khái niệm cơ quan tư pháp nước ta luôn luôn được hiểu và được đề cập

theo nghĩa rộng, bao gồm tòa án, VKS, CQĐT [28]. Từ đó có thể nhận thức về các

cơ quan tư pháp hình sự như sau: Các cơ quan tư pháp hình sự ở Việt Nam là các

cơ quan được thành lập, tổ chức theo những trình tự, thủ tục luật định, trực tiếp và

chịu trách nhiệm tiến hành, thực hiện các hoạt động TTHS, nhằm giải quyết các

vụ án hình sự. Ở giai đoạn điều tra, HĐTP được thực hiện bởi VKS, CQĐT; các

cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và một số

người tham gia tố tụng tham gia vào tiến trình điều tra làm rõ vụ án.

Xuất phát từ nghĩa rộng của khái niệm tư pháp, có thể hiểu HĐTP là các

47

hoạt động liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án và các tranh chấp bao gồm

các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành các quyết định của tòa án trong

lĩnh vực hình sự, dân sự và hành chính, kinh tế... Theo Nghị quyết số 08-NQ/TW

ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới", có thể hiểu HĐTP bao gồm: Hoạt động điều tra, truy tố, xét

xử, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, thi hành án dân sự, hoạt động bổ trợ tư

pháp... Từ đó, có thể kết luận khái quát rằng các hoạt động nêu trên đều là đối

tượng của hoạt động KSHĐTP do VKS thực hiện.

Điều cần lưu ý là HĐTP phải là hoạt động được tiến hành bởi các cơ quan

tư pháp hoặc cơ quan bổ trợ tư pháp và phải thể hiện tính quyền lực Nhà nước.

Tuy nhiên không có nghĩa tất cả mọi hoạt động do cơ quan nêu trên tiến hành đều

là HĐTP, bởi tất yếu ngoài việc tiến hành HĐTP, mọi cơ quan còn phải tiến hành

một loạt các hoạt động quản lý nhà nước chức năng khác để vận hành tổ chức và

hoạt động của mỗi cơ quan.

HĐTP phải hội tụ đủ các yếu tố: Hoạt động đó phải do các cơ quan Nhà

nước thực hiện trong quá trình tiến hành tố tụng; thể hiện tính quyền lực Nhà

nước; được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng; mục đích của hoạt động đó là nhằm

bảo đảm việc giải quyết một vụ án hình sự và vụ tranh chấp cụ thể. Do vậy, HĐTP

hình sự là hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp trong quá trình tiến

hành tố tụng nhằm giải quyết các vụ án hình sự. HĐTP trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự là hoạt động của CQĐT, của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp và hoạt

động chức năng của VKS nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật [42, tr.84].

1.2.2.2 Những vấn đề cơ bản về kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực

hình sự

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật với ý nghĩa là hoạt động mang tính chất

kiểm tra và giám sát nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật là một khái niệm rộng,

bao trùm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội được giao cho nhiều chủ thể thực

48

hiện. HĐTP là hoạt động do cơ quan tư pháp thực hiện theo trình tự, thủ tục luật

định và không bao gồm các hoạt động có tính chất bổ trợ cho HĐTP của cơ quan

công chứng, giám định, bào chữa…cũng như hoạt động tham gia tố tụng. Có thể

hiểu khái niệm KSHĐTP là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật

trong lĩnh vực tư pháp của các cơ quan tư pháp. Vấn đề KSHĐTP hiện còn nhiều

ý kiến khác nhau về phạm vi, đối tượng, nội dung…của nó. Tuy nhiên, để có nhận

thức đúng đắn về chức năng, nhiệm vụ KSHĐTP, cần phải xác định rằng kiểm sát

các HĐTP là chức năng của VKS và phải lưu ý đến các đặc trưng cơ bản của hoạt

động chức năng này của VKS, cụ thể:

- KSHĐTP là một dạng giám sát về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền

lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư

pháp, kiểm sát các HĐTP là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ

quan tư pháp và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp trong quá trình

tiến hành tố tụng.

- KSHĐTP là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Quốc hội giao

cho VKS nhằm mục đích bảo đảm pháp chế trong HĐTP.

Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp

Theo Điều 23 BLTTHS năm 2003 có thể hiểu rằng KSHĐTP trong tố tụng

hình sự nhằm mục đích phát hiện kịp thời để loại trừ vi phạm pháp luật của các cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Nói

cách khác, mục đích của KSHĐTP là nhằm đảm bảo tính pháp chế của HĐTP -

đảm bảo cho HĐTP được thực thi một cách thống nhất, đúng pháp luật.

Chủ thể kiểm sát hoạt động tư pháp

Theo Điều 113 BLTTHS năm 2003, chủ thể chung của KSHĐTP là VKS

có thẩm quyền. Trên thực tế, thực hiện qui định của Điều 36, 37, 113 BLTTHS

năm 2003, chủ thể của hoạt động KSHĐTP là Viện trưởng, Phó Viện trưởng và

Kiểm sát viên VKS có thẩm quyền. Tuy nhiên theo cơ cấu qui định trên của

BLTTHS năm 2003, khác với chủ thể thực tế của hoạt động THQCT, chủ thể thực

tế chủ yếu của hoạt động KSHĐTP là Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án.

49

Đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp

Theo qui định của pháp luật (BLTTHS), đối tượng của KSHĐTP là hoạt động

của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.

Phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp

Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong HĐTP bắt đầu từ khi vụ

án hình sự được khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án.

Phạm vi của kiểm sát các HĐTP ở giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi khởi tố vụ án,

và kết thúc tại thời điểm cơ quan tư pháp có thẩm quyền ban hành quyết định tố

tụng có hiệu lực không bị VKS hủy bỏ, kiến nghị hay yêu cầu khắc phục vi phạm.

Nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp

KSHĐTP là kiểm tra và giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp

và các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số HĐTP trong quá trình điều

tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự và các HĐTP khác theo qui định của

pháp luật.

Công tác kiểm sát các HĐTP là một mặt, một khía cạnh của chức năng

Hiến định được phân công cho VKSND, được tổ chức thực hiện trên thực tế bằng

hai loại công tác khác nhau gắn liền với hai lĩnh vực hoạt động khác nhau bao

gồm kiểm sát các hoạt động tuân theo pháp luật trong TTHS và hoạt động của các

cơ quan tư pháp trong các trường hợp được qui định trong thủ tục tố tụng dân sự,

hành chính, kinh doanh thương mại, lao động v.v... Gắn liền với lĩnh vực hình sự,

TTHS là các công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra các vụ án

hình sự, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự. Cả ba

lĩnh vực công tác đó hợp thành lĩnh vực kiểm sát các HĐTP của VKS trong lĩnh

vực hình sự, TTHS.

Hình thức thể hiện của kiểm sát hoạt động tư pháp

Điều 23 và Điều 113 BLTTHS năm 2003 chỉ qui định chung về chức năng

nhiệm vụ THQCT và KSHĐTP của VKS mà không qui định cụ thể hình thức thể

hiện. Xét về hành vi của chủ thể KSHĐTP, căn cứ thực tế tổ chức thực hiện qui

định của Điều 37 và Điều 113 BLTTHS hiện hành có thể thấy chức năng

50

KSHĐTP được thể hiện một cách phổ biến thông qua hành vi của Kiểm sát viên

được phân công thụ lý vụ án khi trực tiếp kiểm sát các hoạt động tố tụng của cơ

quan điều tra (bao gồm cả hành vi tham gia tố tụng và hành vi kiểm sát hồ sơ vụ

án). Hình thức thể hiện chức năng KSHĐTP ít phổ biến nhưng thể hiện tính quyền

uy là quyết định, kiến nghị, yêu cầu do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS

có thẩm quyền thực hiện khi thực hiện KSHĐTP trực tiếp tại các cơ quan tư pháp

theo qui định của pháp luật hoặc khi xử lý các vi phạm nghiệm trọng pháp luật

TTHS. Tuy nhiên, luận án không nghiên cứu vấn đề này bằng góc độ nghiệp vụ

kiểm sát nên không bàn sâu, chi tiết về các hình thức thể hiện chức năng KSHĐTP

trên thực tế cũng như trình tự thực hiện chúng.

Từ nội dung phân tích nêu trên, có thể khẳng định khái niệm KSHĐTP là

“Hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định

của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong HĐTP” [40].

1.2.2.3 Những vấn đề cơ bản về kiểm sát điều tra

KSĐT là một hình thức KSHĐTP và là một nhiệm vụ, đồng thời cũng là

chức năng của VKS. Kiểm sát các hoạt động điều tra là khái niệm đã được đề cập

từ năm 1960, ngay từ khi VKS được thành lập. Theo quy định của pháp luật thì

trong giai đoạn điều tra, chủ thể duy nhất của hoạt động KSĐT là VKS. Mặc dù

cùng có chung mục đích là bảo đảm pháp chế trong giải quyết các vụ án hình sự

nhưng mỗi công tác của VKS ứng với mỗi giai đoạn TTHS nhất định, có đối

tượng, phạm vi, nội dung riêng, cho nên để có nhận thức khoa học, đúng đắn về

hoạt động KSĐT cần phải làm rõ từng yếu tố cơ bản của nó.

Điều đầu tiên phải xác định KSĐT là một bộ phận của KSHĐTP, đó chính

là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án hình

sự hay nói cách khác là hoạt động KSHĐTP trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự. Quan điểm về hoạt động KSĐT tuy không đa dạng như các quan điểm về

QCT, THQCT, KSHĐTP nhưng cũng còn có những cách hiểu khác nhau về bản

chất, đặc điểm của hoạt động KSĐT. Hạn chế lớn nhất của nhận thức về hoạt động

KSĐT là sự đồng nhất, nhầm lẫn, không phân biệt được rõ ràng về tính chất, phạm

51

vi, mục đích, hình thức của hoạt động KSĐT với hoạt động THQCT. Hạn chế này

đã được thể hiện trong qui định của Bộ luật TTHS năm 2003. Theo đó, có qui

định một số nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra là

những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi KSĐT hoặc ngược lại hoặc không phù

hợp với tính chất, mục đích, phạm vi của hoạt động KSĐT. Chẳng hạn như:

Quyền yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên (đã được xem là quyền

năng THQCT; Quyết định việc truy tố, Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ

án (được qui định tại khoản 6, Điều 112 BLTTHS năm 2003) là hoạt động của

VKS không nằm trong giai đoạn điều tra nhưng thực chất chúng là hoạt động của

VKS nhằm thay đổi, chấm dứt, tạm dừng nhiệm vụ điều tra bằng hoạt động

KSĐT; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng (qui định tại

khoản 2, Điều 113) không thuộc phạm vi KSĐT; Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền

hạn kiểm sát việc khởi tố, ngoài mục đích là kiểm sát việc tuân theo pháp luật,

còn là sự thể hiện quan điểm của VKS có phát động QCT hay không, bao giờ

cũng được thể hiện qua kết luận đồng ý với quyết định không khởi tố vụ án mà

CQĐT đã ban hành hay quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình

sự đó hoặc quyết định phê chuẩn hay quyết định không phê chuẩn quyết định

khởi tố bị can của CQĐT. Hệ quả pháp lý của quyết định phê chuẩn hoặc quyết

định không phê chuẩn này là sự phát động hoặc chấm dứt QCT và thể hiện đặc

trưng nhiệm vụ, chức năng của VKS. Do vậy, việc qui định như khoản 1, Điều

113 BLTTHS năm 2003 là chưa hoàn toàn chính xác.

Ngoài ra, cũng có quan điểm khác về hoạt động KSĐT là cần mở rộng

phạm vi đối tượng của hoạt động KSĐT, bao gồm kiểm sát các hoạt động bổ trợ

tư pháp như hoạt động của tổ chức luật sư, tổ chức giám định tư pháp, cơ quan

công chứng, cơ quan quản lý hộ tịch, quản lý lý lịch tư pháp. Tác giả của quan

điểm này cho rằng những hoạt động của các cơ quan này có vai trò rất quan trọng

đối với việc điều tra, nếu không có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ thì sẽ làm giảm

hiệu quả đóng góp của các cơ quan, tổ chức này.

52

Mục đích kiểm sát điều tra

Mục đích của hoạt động KSĐT là nhằm cho pháp luật được thực hiện

nghiêm chỉnh, thống nhất. Trong giai đoạn điều tra, VKS có trách nhiệm áp dụng

những biện pháp do pháp luật qui định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của cán

bộ CQĐT hay bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào tham gia vào quá trình điều

tra. Hoạt động này được thực hiện bởi các Kiểm sát viên trên cơ sở các nguyên tắc

tổ chức và hoạt động của VKS được ghi nhận trong Luật tổ chức VKSND và pháp

luật TTHS.

Đối tượng kiểm sát điều tra:

Hoạt động KSĐT là kiểm tra tính hợp pháp của hành vi và quyết định tố

tụng của các chủ thể tiến hành hay tham gia vào quá trình điều tra. Trong giai

đoạn điều tra, hoạt động của CQĐT cũng như hoạt động của các cơ quan được

pháp luật giao tiến hành một số hoạt động điều tra là những hoạt động tố tụng chủ

yếu nên có thể kết luận rằng đối tượng của KSĐT là hành vi và quyết định của

CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Khi tiến

hành KSĐT, VKS căn cứ vào pháp luật để theo dõi, xem xét, bảo đảm tính hợp

pháp của đối tượng KSĐT và của ngay chính các hoạt động của VKS trong giai

đoạn điều tra. Tuy nhiên cũng cần xác định rõ phạm vi đối tượng của hoạt động

KSĐT là một dạng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nhằm

thực hiện chức năng kiểm sát tư pháp bởi có sự qui định khác nhau giữa các cơ sở

pháp lý của hoạt động KSĐT. Có thể thấy nhiệm vụ, chức năng KSHĐTP trong

giai đoạn điều tra cũng như trong TTHS theo qui định của Điều 137 Hiến pháp

1992 và Điều 107 Hiến pháp năm 2013, đã được Điều 23 BLTT năm 2003 mở

rộng về đối tượng. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hoạt

động tố tụng rộng hơn và bao trùm khái niệm KSHĐTP hình sự. Có thể thấy rõ sự

khác nhau này của hai khái niệm nếu như xét về phạm vi đối tượng của hai lĩnh

vực hoạt động mà chúng giải thích là tư pháp hình sự và TTHS. Trong đó, tư pháp

hình sự có phạm vi hẹp hơn, dùng để chỉ lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tư

pháp trong lĩnh vực hình sự mà thôi. Đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp

53

luật trong lĩnh vực TTHS không chỉ là hoạt động của các cơ quan được giao việc

thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án mà

còn là các hoạt động của người tham gia tố tụng (là các hoạt động có tính chất bổ

trợ cho HĐTP). Do vậy, có thể nói phạm vi đối tượng của hoạt động nhằm thực

hiện nhiệm vụ, chức năng KSHĐTP của VKS đã được BLTTHS năm 2003 mở

rộng. Điều này dẫn đến việc cần làm rõ về mặt lý luận, việc qui định khác nhau về

chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS theo qui định của BLTTHS so với qui

định của Hiến pháp. Theo quan điểm của tác giả luận án, tuy có sự khác nhau

trong qui định về chức năng nhiệm vụ của VKS giữa Hiến pháp 1992, Hiến pháp

2013 và BLTTHS năm 2003 nhưng vẫn có điểm hợp lý và có thể lý giải trên cơ sở

những luận điểm sau:

Thứ nhất, tính đúng đắn, đầy đủ của việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của

người tham gia tố tụng hình sự chỉ được xác định khi mà nhiệm vụ của các cơ

quan tiến hành tố tụng được xác lập tại thời điểm hành vi phạm tội xảy ra hay về

góc độ quyền lực Nhà nước, quyền công tố được phát động tại thời điểm đó.

Thứ hai, Điều 62 BLTTHS năm 2003 qui định trách nhiệm giải thích và

bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng thuộc về cơ

quan tiến hành tố tụng.

Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng hình sự cũng như

tính đúng đắn, đầy đủ của chúng phụ thuộc và được thực hiện bằng hoạt động tố

tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do vậy, tuy có mở

rộng, nhưng BLTTHS năm 2003 đã qui định cụ thể, chi tiết về chức năng

KSHĐTP của VKS trong TTHS.

Về mặt thực tiễn, việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS của

người tham gia tố tụng được thực hiện chủ yếu thông qua việc kiểm sát việc tuân

theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Ngay cả

việc giám sát hành vi trái luật của người tham gia tố tụng cũng được tiến hành

thông qua hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng

bằng việc cho phép thực hiện quyền, buộc phải thực hiện nghĩa vụ hay chấm dứt

54

hành vi trái pháp luật. Do vậy có thể nói kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố

tụng hình sự và kiểm sát các HĐTP trong lĩnh vực hình sự hay KSHĐTP hình sự

không có sự khác biệt về mặt thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên về mặt lập pháp, cần

phải sửa đổi Điều 23, BLTTHS năm 2003 cho phù hợp với Hiến pháp 2013 và

Luật tổ chức VKSND.

Phạm vi kiểm sát điều tra

Phạm vi của hoạt động KSĐT là thời điểm bắt đầu và kết thúc của hoạt

động KSĐT. Khi bàn luận về phạm vi KSĐT, có nhiều quan điểm khác nhau

nhưng về mặt lý luận thời điểm phát động QCT là thời điểm được nhiều sự đồng

tình hơn cả khi cho rằng thời điểm này cũng bắt đầu hoạt động KSĐT do đòi hỏi

bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể tiến hành các hoạt động điều tra

nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ để truy cứu TNHS đối với người phạm tội.

Xuất phát từ quan điểm hoạt động KSVTTPL sẽ chấm dứt khi kết thúc hoạt

động tố tụng và mục đích của TTHS đã đạt được, thời điểm hoạt động KSĐT

sẽ chấm dứt khi hoạt động điều tra chấm dứt và đã đạt được mục đích điều tra.

Như vậy, phạm vi hoạt động KSĐT gắn liền với phạm vi điều tra và được bắt

đầu khi hoạt động điều tra được tiến hành và kết thúc khi hoạt động điều tra đã

đạt được mục tiêu. Cần lưu ý là hoạt động điều tra, không bao gồm hoạt động

điều tra trinh sát là hoạt động nghiệp vụ của ngành Công an.

Về phạm vi không gian của hoạt động KSĐT, mặc dù BLTTH năm 2003

không qui định cụ thể về thẩm quyền KSĐT đối với vụ án hình sự cụ thể của từng cơ

quan VKS, nhưng trên tinh thần chức năng, nhiệm vụ mà VKS được giao trong giai

đoạn điều tra, có thể xác định phạm vi không gian của hoạt động KSĐT trùng với

phạm vi không gian của CQĐT cùng cấp. Nói cách khác bất cứ khi nào, nơi nào hoạt

động điều tra được tiến hành thì khi đó, nơi đó hoạt động KSĐT cũng được tiến hành.

Do vậy, phạm vi của hoạt động KSĐT vụ án hình sự được bắt đầu từ khi

hoạt động điều tra vụ án được tiến hành và kết thúc khi đạt được mục đích, yêu

cầu để truy tố hoặc không truy tố người phạm tội ra trước tòa án hoặc khi vụ án

được đình chỉ theo qui định của pháp luật TTHS.

55

Nội dung kiểm sát điều tra

Nội dung của hoạt động KSĐT là tổng hợp các quyền hạn, nhiệm vụ của

VKS trong giai đoạn điều tra được Điều 113, BLTTHS năm 2003 qui định thông

qua việc thực thi nhiệm vụ quyền hạn chung và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các

chức danh tư pháp của VKS trong giai đoạn điều tra, gồm 05 nhóm hoạt động sau:

+ Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ

vụ án của CQĐT;

+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;

+ Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;

+ Yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều

tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra

viên; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm

pháp luật trong khi tiến hành điều tra;

+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng

ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

Khi bàn về nội dung của hoạt động KSĐT, có quan điểm cho rằng có sự

chưa hợp lý của pháp luật trong việc phân định nội dung quyền năng KSĐT và nội

dung quyền năng THQCT, thể hiện qua sự phân định một số quyền năng thuộc nội

dung KSĐT vào nội dung THQCT và ngược lại. Tuy nhiên, tính chất phức tạp của

hai quyền năng tố tụng của VKS, đôi khi không thể phân biệt rạch ròi một cách

tuyệt đối bởi chúng có mối quan hệ biện chứng khăng khít và trở thành cơ sở nền

tảng cho tổ chức, hoạt động của nhau.

So với BLTTHS năm 2003, Điều 15 Luật tổ chức VKSND 2014 có nhiều

điểm đổi mới trong qui định về hoạt động KSĐT vụ án hình sự. Xu hướng đổi mới

cơ bản là rõ ràng hơn, cụ thể hơn những hoạt động KSĐT đã được qui định tại

BLTTHS năm 2003. Với 08 nhóm hoạt động KSĐT, Điều 15 Luật tổ chức

VKSND đã: Bổ sung đối tượng KSĐT là các cơ quan được giao tiến hành một số

hoạt động điều tra; qui định cụ thể hơn quyền yêu cầu, kiến nghị xử lý vi phạm

pháp luật của VKS đối với người tham gia tố tụng; bổ sung quyền yêu cầu Thủ

56

trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên, cán bộ điều tra; bổ sung qui định có “tính

mở” về nhiệm vụ, quyền hạn khác trong KSĐT theo qui định của BLTTHS.

Trên cơ sở xem xét mục đích tố tụng của từng nhóm hoạt động KSĐT, có

thể xác định nội dung hoạt động KSĐT trên cơ sở qui định của BLTTHS năm

2003 và Luật tổ chức VKSND năm 2014, bao gồm các loại hoạt động sau đây:

+ Loại hoạt động nhằm phát hiện vi phạm pháp luật của CQĐT và các cơ

quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra và của người tham gia tố tụng

trong giai đoạn điều tra. Đây là hoạt động KSĐT được VKS thực hiện xuyên suốt

trong quá trình điều tra vụ án hình sự, gồm: Kiểm sát việc ban hành các quyết định

tố tụng (dẫn đến hệ quả là quyền năng hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và

trái pháp luật của CQĐT được qui định tại khoản 5, Điều 112); Kiểm sát các hoạt

động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT (khoản 1, Điều 113 BLTTHS

năm 2003 và khoản 1, Điều 15 Luật tổ chức VKSND năm 2014; Kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra (được qui

định tại khoản 2 Điều 113 BLTTHS năm 2003 và khoản 2, Điều 15 Luật tổ chức

VKSND năm 2014).

+ Loại hoạt động yêu cầu, kiến nghị khắc phục, xử lý vi phạm pháp luật

trong hoạt động điều tra, là loại hoạt động chỉ được tiến hành khi phát hiện

được vi phạm trong quá trình điều tra của các chủ thể hoạt động điều tra và

những người tham gia vào hoạt động điều tra nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình hoặc để hỗ trợ cho hoạt động điều tra, gồm: yêu cầu thay đổi

Điều tra viên, cán bộ điều tra; yêu cầu khắc phục vi phạm; yêu cầu cung cấp tài

liệu cần thiết về vi phạm hoặc xử lý vi phạm của Điều tra viên; giải quyết tranh

chấp về thẩm quyền điều tra (được qui định tại khoản 3, Điều 112; khoản 3, 4,

Điều 113 và khoản 2, 3, 4, 5, 6 Điều 15 Luật tổ chức VKSND năm 2014)

+ Loại hoạt động kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện

pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Đây là loại hoạt động thuộc trách

nhiệm của VKS trong giai đoạn điều tra nhưng trên thực tế thường chỉ được thực

hiện sau khi bản án, quyết định tố tụng đã có hiệu lực pháp luật. Bởi hoạt động kiến

57

nghị này là kết quả quá trình đúc kết kinh nghiệm phòng chống tội phạm và vi

phạm pháp luật không chỉ riêng qua một vụ án mà qua nhiều vụ án hình sự và việc

đúc kết kinh nghiệm chỉ được đánh giá là có hiệu quả sau khi có kết quả THQCT và

KSHĐTP, đồng nghĩa với việc bản án có hiệu lực pháp luật (được qui định tại

khoản 5 Điều 113 và khoản 6, Điều 15 Luật tổ chức VKSND năm 2014).

Hình thức thể hiện của kiểm sát điều tra

Xuất phát từ tính chất, chủ thể, đối tượng, nội dung của hoạt động KSĐT,

trên thực tế có thể thấy, hoạt động KSĐT được thể hiện qua nhiều hình thức đa

dạng, phong phú. Hình thức thực hiện hoạt động KSĐT có thể là hành vi trực tiếp

của Kiểm sát viên thông qua hoạt động tham gia vào hoạt động điều tra với tư

cách là người kiểm tra, giám sát và được thể hiện qua chữ ký của Kiểm sát viên

vào các biên bản điều tra; hoặc là hành vi trao đổi trực tiếp giữa Kiểm sát viên với

Điều tra viên hay là hoạt động trao đổi trực tiếp giữa VKS với CQĐT tại các cuộc

họp giải quyết đường lối xử lý vụ án; hoặc là hoạt động ban hành các loại văn bản

sau khi xử lý thông tin về hoạt động điều tra vụ án trên cơ sở các hoạt động trực

tiếp kiểm sát hoạt động điều tra hoặc trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, như: Kết luận

kiểm sát trực tiếp hoạt động điều tra, kết luận về quyết định không khởi tố vụ án

hình sự, công văn thể hiện các nội dung đề nghị, yêu cầu, kiến nghị đối với

CQĐT. Nhìn chung xét về tính chất hoạt động KSĐT có thể phân chia hình thể

hiện của KSĐT là hình thức KSĐT thụ động (VKS không chủ động tiến hành; phụ

thuộc vào hoạt động điều tra) và hình thức KSĐT chủ động (không phụ thuộc vào

hoạt động điều tra; VKS chủ động tiến hành).

1.2.3 Hoạt động tổ chức và chỉ đạo thực hành quyền công tố và kiểm sát

điều tra vụ án hình sự

Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn điều tra theo qui định

của BLTTHS năm 2003 thì bản thân các hoạt động THQCT và KSĐT không tự

động được thực thi mà phải thông qua hoạt động tổ chức và chỉ đạo của người

tiến hành tố tụng có thẩm quyền của VKS. Hoạt động tổ chức và chỉ đạo hoạt

động THQCT và KSĐT vụ án hình sự có vị trí, vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành

58

nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng THQCT, KSĐT, đạt được mục tiêu khởi

tố, điều tra các vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện đúng người, đúng tội

và đúng pháp luật.

1.2.3.1 Khái niệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự

Khi nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS, về mặt ngữ

nghĩa, có quan điểm cho rằng khái niệm “tổ chức và chỉ đạo” có cùng ý nghĩa với

khái niệm “quản lý, chỉ đạo, điều hành” dùng để xác định một loại hoạt động

chuyên môn nghiệp vụ của VKS trong điều tra vụ án hình sự. Theo từ điển tiếng

Việt thì “Tổ chức” là: “Làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động nào

đó nhằm có hiệu quả tốt nhất”; “Chỉ đạo” là: “Hướng dẫn cụ thể, theo một

đường lối, chủ trương nhất định”;”Quản lý” là: “Tổ chức và điều khiển theo các

yêu cầu nhất định”; “Điều hành” là: “Điều khiển mọi bộ phận và quy trình hoạt

động chung” [ 64; tr: 973,148, 772]. Có thể kết luận rằng khái niệm tổ chức và chỉ

đạo hoạt động THQCT và KSĐT theo qui định của Điều 36 BLTTHS năm 2003 là

tương đồng với khái niệm thường được sử dụng phổ biến trong thực tiễn công tác

kiểm sát là quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động THQCT và KSĐT.

Trong xã hội, mỗi lĩnh vực khác nhau có nội dung quản lý, chỉ đạo, điều

hành khác nhau. Đối với Viện kiểm sát nhân dân, công tác tổ chức, chỉ đạo là hoạt

động của người có chức vụ, quyền hạn trong ngành Kiểm sát tổ chức, phân công

cán bộ, Kiểm sát viên và đơn vị dưới quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ THQCT

và KSHĐTP. Như vậy, đối tượng của công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành tác động

vào con người và công việc cụ thể theo các trình tự, thủ tục được pháp luật quy

định. Tuy nhiên để thực hiện công tác này có chất lượng, hiệu quả người lãnh đạo

không những phải nắm vững các quy trình của pháp luật mà còn sử dụng những

quyền hạn, nhiệm vụ của mình một cách chủ động, khoa học, linh hoạt, sáng tạo đối

với từng đối tượng (con người, công việc) cụ thể để đạt được mục đích đề ra. Xét về

mặt thực tế trong lĩnh vực thực thi nhiệm vụ, quyền hạn THQCT và KSĐT trong

điều tra vụ án hình sự, có thể hiểu nội dung khái niệm tổ chức và chỉ đạo hoạt động

trùng với nội dung khái niệm quản lý, chỉ đạo, điều hành.

59

Như vậy, khái niệm tổ chức và chỉ đạo công tác THQCT và KSĐT các vụ

án hình sự được hiểu là hoạt động của người có chức vụ, quyền hạn trong ngành

Kiểm sát tổ chức, phân công, điều hành các đơn vị và cá nhân dưới quyền thực

hành chức năng, nhiệm vụ THQCT, KSĐT các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc

phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố người phạm tội đúng người, đúng tội và đúng

pháp luật, không làm oan sai người vô tội và không bỏ lọt tội phạm.

1.2.3.2 Một số vấn đề cơ bản trong tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong điều tra vụ án hình sự

Chủ thể thực hiện hoạt động tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT

vụ án hình sự là các chức danh có nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo, điều hành trong

ngành VKSND. Theo qui định của BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức VKSND

năm 2014 và Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số

07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

tối cao (Qui chế 07/2008), nhiệm vụ THQCT và KSĐT vụ án hình sự được phân

công cho VKSND cấp huyện, cấp tỉnh và VKSND tối cao. Theo đó, người có

thẩm quyền tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT là Viện trưởng, Phó

Viện trưởng (khi được uỷ quyền hoặc được phân công) của VKSND cấp huyện,

cấp tỉnh và VKSND tối cao; Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng Vụ nghiệp vụ thuộc

VKSND tối cao.

Đối tượng của hoạt động tổ chức chỉ đạo, điều hành là cán bộ, Kiểm sát

viên dưới quyền và những hoạt động trong phạm vi thực hiện thẩm quyền thực

hành quyền công tố và kiểm tra vụ án hình sự, bao gồm: Những hoạt động tiến

hành tố tụng theo thẩm quyền và việc quản lý, theo dõi, hướng dẫn đối với đơn vị

cấp dưới theo quy định của ngành Kiểm sát

Tuy nhiên, khi đề cập vấn đề này cần phân biệt giữa hoạt động tố tụng với

quản lý hành chính nghiệp vụ: Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác thực hành

quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự bao gồm cả hoạt động tố tụng và

hoạt động quản lý hành chính nghiệp vụ và đều do một chủ thể (lãnh đạo) thực

60

hiện, nhưng giữa hai thẩm quyền này có một dấu hiệu khác nhau cơ bản là đối

tượng tác động của hoạt động tổ chức và chỉ đạo. Một lĩnh vực tác động vào các

hoạt động tố tụng được BLTTHS qui định theo cách thức quản lý, chỉ đạo, điều

hành để đạt được mục đích, yêu cầu định trước. Lãnh vực còn lại là tác động vào

hoạt động quản lý nhà nước chức năng nhằm đảm bảo sự hoạt động bình thường,

hiệu quả của cơ quan, tổ chức.

Phạm vi hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành được thực hiện trong quá

trình THQCT và KSĐT các vụ án hình sự, tức là từ khi chính thức phát động tiến

trình buộc tội đến khi đạt được mục đích điều tra là kết thúc điều tra, đề nghị truy

tố hoặc chấm dứt, tạm chấm dứt hoạt động điều tra.

Phương pháp thực hiện công tác này đòi hỏi người lãnh đạo có phương

pháp khoa học, hợp lý, phát huy được hiệu quả hoạt động của các tập thể và cá

nhân dưới quyền, tránh cả hai khuynh hướng: “khoán trắng” hoặc “làm thay”.

Trên thực tế có địa phương Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tình giao toàn bộ công

tác này cho Phó Viện trưởng phụ trách hoặc ngược lại Viện trưởng lại trực tiếp

thực hiện các công việc của cán bộ tham mưu, quản lý hành chính… Cả 2 khuynh

hướng trên đều không phát huy được tối đa chất lượng, hiệu quả của công tác

quản lý, chỉ đạo, điều hành và không bảo đảm nguyên tắc thủ trưởng chế trong

công ngành Kiểm sát nhân dân. Để làm tốt vai trò tổ chức, chỉ đạo hoạt động

THQCT và KSĐT vụ án hình sự, yêu cầu đặt ra là người lãnh đạo không những

phải nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ, chức năng nhiệm vụ của ngành mà còn

phải thực hiện công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành sâu sát, hiệu quả, nhất là phải

thực hiện công tác lãnh đạo gắn liền với công tác kiểm tra.

Nội dung công tác tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT vụ án

hình sự được quy định tại Điều 62 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (Qui chế 07/2008),

cụ thể như sau:

“Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp phải quản lý, chỉ đạo, điều hành toàn

bộ công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự thuộc

61

thẩm quyền cấp mình, đồng thời thường kỳ báo cáo kết quả công tác này lên Viện

kiểm sát cấp trên trực tiếp. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quản lý, chỉ đạo công

tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát cấp dưới.

Vụ trưởng các Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra Viện kiểm

sát nhân dân tối cao… tham mưu giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

quản lý, chỉ đạo công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát

xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong toàn ngành; tổng hợp các vi phạm của Cơ

quan điều tra trong hoạt động tố tụng hình sự; nguyên nhân, điều kiện phát sinh

tội phạm để kiến nghị khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa…”.

Tuy BLTTHS năm 2003 không qui định cụ thể, chi tiết về nhóm hoạt động

này của VKS mà “nhường” VKSND tối cao thể hiện quyền năng tố tụng này trong

các qui chế nghiệp vụ kiểm sát. Đối với giai đoạn điều tra, qui định như trên, có

thể hiểu, tương ứng với mỗi hoạt động THQCT và KSĐT có một hoạt động tổ

chức và chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động tổ chức và chỉ đạo

hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự được thực hiện một cách tự động theo

trình tự, thao tác nghiệp vụ kiểm sát được qui định cụ thể tại Qui chế 07/2008 và

các Qui chế phối hợp tố tụng hình sự liên ngành giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng mỗi cấp và chỉ được thực hiện một cách đột xuất với qui mô tập trung với

cường độ lớn khi cần thiết. Đó là trong các trường hợp có sự mâu thuẫn về việc áp

dụng pháp luật, chính sách hình sự giữa CQĐT và VKS trong điều tra vụ án hình

sự. Trên thực tế, nội dung công tác tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và

KSĐT được thực hiện chủ yếu thông qua những nhóm hoạt động chính như: quản

lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động THQCT và KSĐT việc khởi tố vụ án, khởi tố bị

can; quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động THQCT và KSĐT việc áp dụng, thay

đổi, huỷ bộ BPNC; quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động THQCT và KSĐT việc

thu thập chứng cứ, tài liệu và lập hồ sơ vụ án vụ án hình sự; quản lý, chỉ đạo, điều

hành hoạt động THQCT và KSĐT việc kết thúc điều tra vụ án hình sự.

Hình thức thể hiện của hoạt động tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và

KSĐT vụ án hình sự: để thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao, lãnh đạo các

62

cấp có nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo thể hiện quyền và nghĩa vụ của mình thông qua

02 hình thức: lời nói (chỉ đạo trong các cuộc họp nội bộ và liên ngành nhằm giải

quyết các nhiệm vụ cụ thể); văn bản (thông qua các hình thức cụ thể như báo cáo

– đề xuất, bút phê, công văn, kế hoạch, biên bản, qui chế, qui định…). Có thể khái

quát về hình thức thể hiện của nhóm hoạt động tổ chức và chỉ đạo hoạt động

THQCT và KSĐT là hình thức thực tế thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của

VKS trong điều tra vụ án hình sự.

Tóm lại, từ nội dung phân tích nêu trên có thể kết luận hoạt động của VKS

trong điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện chức năng Hiến định THQCT,

KSHĐTP trong giai đoạn điều tra thông qua hoạt động chuyên môn nghiệp vụ

THQCT, KSĐT và tổ chức và chỉ đạo hoạt động THQCT và KSĐT do những

người tiến hành tố tụng của VKS thực hiện theo qui định của pháp luật và Qui chế

nghiệp vụ THQCT và KSĐT vụ án hình sự.

1.2.4 Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp trong điều tra vụ án hình sự

Hiện nay, còn có quan điểm rất khác nhau về mối quan hệ giữa THQCT

và KSHĐTP, với tư cách là hai mặt hoạt động nghiệp vụ của chức năng Hiến

định mà VKS được giao thực hiện trong giai đoạn điều tra.

Ở nước ta, quyền lực của Nhà nước là thống nhất và có sự phân công

nhưng được tập trung vào cơ quan duy nhất đại diện cho nhân dân đó là Quốc

hội. VKSND được Quốc hội giao cho chức năng THQCT và KSHĐTP theo

quy định của Hiến pháp và pháp luật và có vị trí độc lập với Chính phủ và với

tòa án. VKSND được Quốc hội giao thực hiện quyền năng THQCT, KSHĐTP

và chịu sự giám sát của Quốc hội là nét đặc thù trong tổ chức, hoạt động của

Nhà nước ta. Vì vậy, chức năng THQCT và KSHĐTP trong TTHS luôn luôn

được xác định là hai chức năng nghiệp vụ của VKSND. Giữa chúng luôn có

mối quan hệ và sự tác động qua lại lẫn nhau.

THQCT và KSHĐTP trong TTHS luôn luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Trong đó, mỗi hoạt động THQCT đều là tiền đề cho hoạt động kiểm sát việc tuân

63

theo pháp luật và ngược lại. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả luận án

nhận thấy giữa hoạt động THQCT và hoạt động KS có mối quan hệ biện chứng

“hình thức và nội dung”. Trong đó, hoạt động THQCT là kết quả (sự thể hiện về

hình thức) của hoạt động KSHĐTP và hoạt động KSHĐTP là phương thức, cách

thức thực hiện (sự thể hiện về mặt nội dung) của hoạt động THQCT [10, tr.6].

Trong giai đoạn điều tra, mối quan hệ giữa hoạt động THQCT và hoạt động

KSHĐTP (KSĐT) được thể hiện ở những nội dung nổi bật như sau:

Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố vụ án của CQĐT

đều phải được VKS xem xét. Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự,

quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ thì VKS ra

quyết định hủy bỏ.

Trong quá trình điều tra, CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp điều tra

theo quy định của BLTTHS, nhưng các hoạt động điều tra đều phải được kiểm

sát. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, VKS có trách

nhiệm áp dụng các biện pháp như kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp

luật. Ngoài việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT

theo quy định của BLTTHS thì VKS có quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ

các BPNC trong khi đó CQĐT không được quyền tự mình thay đổi hoặc hủy bỏ

các quyết định tố tụng mà pháp luật quy định phải có sự phê chuẩn của VKS.

Tuy nhiên, các hoạt động phê chuẩn hoặc không phê chuẩn của VKS bao hàm

cả hai nội dung THQCT và KSĐT tùy theo trường hợp cụ thể.

Sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án được CQĐT chuyển sang VKS để

thẩm định, kiểm tra lại toàn bộ quá trình và kết quả điều tra cùng với đề nghị xử lý

vụ án cụ thể. Trên cơ sở kết quả kiểm sát, VKS tiến hành các hoạt động công tố

như đình chỉ vụ án, truy tố bị can ra trước tòa án. Khi tiến hành các hoạt động này,

VKS không phụ thuộc vào đề nghị truy tố của CQĐT mà thông qua chính kết quả

hoạt động KSVTTPL để thực hiện QCT. Và khi ấy, quyết định truy tố bị can trước

tòa được xem như là cơ sở để VKS tiếp tục thực hiện chức năng THQCT và

KSHĐTP trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.

64

Như vậy, THQCT và KSĐT đều nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, xử

lý nghiêm minh, đúng pháp luật các hành vi phạm tội, bảo đảm việc điều tra, truy

tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không

bỏ lọt tội phạm. THQCT và KSĐT có mối quan hệ tác động qua lại từ khi có tội

phạm xảy ra đến khi vụ án có quyết định truy tố hoặc quyết định chấm dứt THQCT.

Nếu như hoạt động THQCT là bảo đảm mọi tội phạm phải được xử lý, thì kiểm sát

các hoạt động điều tra bảo đảm việc xử lý tội phạm phải đúng trình tự, thủ tục pháp

luật. Do vậy, giữa THQCT và KSĐT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là mối

quan hệ giữa nội dung và hình thức. Trong đó, KSĐT là nội dung và THQCT là

hình thức thể hiện của KSĐT trong tiến trình thực hiện chức năng buộc tội.

Trong các khâu công tác kiểm sát trong lĩnh vực hình sự, Kiểm sát viên vừa

THQCT, vừa thực hiện KSĐT. THQCT và KSĐT có mối quan hệ tương hỗ, tác

động qua lại lẫn nhau. Nếu thực hiện tốt công tác THQCT sẽ là điều kiện thuận lợi

để kiểm sát các hoạt động điều tra và ngược lại. Quá trình tiến hành TTHS là một

quá trình mà trong đó, kết quả của hoạt động chức năng tố tụng ở giai đoạn tố tụng

trước là tiền đề để thực hiện các hoạt động của giai đoạn sau. Do đó, kết quả thực

hiện các nội dung quyền năng tố tụng của VKS trong giai đoạn điều tra sẽ là cơ sở,

tiền đề để thực hiện các nội dung quyền năng của VKS trong giai đoạn xét xử.

THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra (KSĐT) tuy có mối quan hệ

chặt chẽ, nhưng giữa chúng có những điểm khác nhau, đòi hỏi phải được nhận

thức đầy đủ và thống nhất. Trên cơ sở nghiên cứu về các yếu tố cơ bản của hoạt

động THQCT và KSĐT, có thể đưa ra một số dấu hiệu sau đây để phân biệt hoạt

động THQCT với hoạt động KSĐT trong quá trình thực hiện các quyền năng của

VKS trong giai đoạn điều tra:

- Về mục đích, ngoài việc có chung mục đích như Điều 1 BLTTHS năm

2003 xác định, THQCT và KSĐT có những mục đích riêng trong quá trình điều

tra. THQCT thể hiện ý chí, quyền năng của Nhà nước thông qua hoạt động của

VKS nhằm phát hiện và truy cứu TNHS. KSĐT nhằm bảo đảm sự tuân thủ một

cách nghiêm ngặt pháp luật trong hoạt động điều tra từ đó phát hiện chính xác,

65

nhanh chóng, kịp thời và xử lý công minh mọi hành vi phạm tội. Dựa vào mục

đích riêng của từng loại hoạt động, chúng ta có thể phân biệt trong các quyền năng

của VKS trong hoạt động khởi tố; phê chuẩn, các quyết định tính chất pháp lý của

các quyết định tố tụng của CQĐT, quyền năng nào thuộc về nhóm quyền năng

THQCT, quyền năng nào thuộc về nhóm quyền năng KSĐT. Xét về mục đích, ý

nghĩa cụ thể, việc tiến hành nhiệm vụ, quyền năng thì THQCT được tiến hành

thông qua các dạng hoạt động có mục đích, ý nghĩa phát động, duy trì hoạt động

điều tra, tiến trình buộc tội; củng cố và tăng cường hiệu quả buộc tội, được thực

hiện một cách độc lập, không phụ thuộc vào hoạt động điều tra và được thực hiện

tại một số thời điểm của quá trình điều tra. Trong khi đó, KSĐT được thực hiện

xuyên suốt quá trình điều tra, và xét cho cùng chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở

hoạt động điều tra.

- Về đối tượng, thì đối tượng của THQCT là tội phạm, còn đối tượng của

KSĐT là hoạt động điều tra của các cơ quan có thẩm quyền điều tra. Căn cứ vào

đối tượng của từng nhóm quyền năng, ta có thể thấy quyền năng nào có ý nghĩa

quyết định việc truy cứu TNHS thì thuộc về nhóm quyền năng THQCT, quyền

năng nào có ý nghĩa trong việc phát hiện vi phạm pháp luật, khắc phục, xử lý vi

phạm nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra được thực hiện một cách đúng đắn và

đạt được mục đích mà BLTTHS đã qui định thì thuộc nhóm quyền năng KSĐT.

- Về hậu quả pháp lý, việc VKS ban hành các văn bản pháp lý khi THQCT

sẽ dẫn đến các hậu quả pháp lý có tính chất quyết định đến việc truy cứu hay

không truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Còn khi tiến hành KSĐT, việc

VKS ban hành các văn bản dẫn đến việc xử lý các vi phạm, thiếu sót trong hoạt

động điều tra có tính chất bảo đảm tính đúng đắn pháp lý cho hoạt động điều tra.

Như vậy, với những yếu tố đặc trưng như mục đích, ý nghĩa, đối tượng, hậu

quả pháp lý của hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong điều tra

vụ án hình sự, có thể phân định một cách tương đối rõ ràng những hoạt động nào

thuộc nội dung chức năng THQCT hay thuộc nội dung chức năng KSVTTPL

trong giai đoạn điều tra.

66

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, CQĐT và VKS có vị trí, chức

năng và quyền hạn khác nhau, nhưng cả hai cơ quan có cùng nhiệm vụ là xác định

sự thật của vụ án để có cơ sở truy tố bị can trước tòa án. Trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giữa CQĐT và VKS sẽ nảy sinh các mối quan hệ,

có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến kết quả giải quyết vụ án hình sự,

chính vì vậy, việc xác định rõ bản chất mối quan hệ trên có ý nghĩa quan trọng

trong hoạt động của CQĐT và VKS khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của mình.

Khác với mối quan hệ trong hoạt động hành chính, mối quan hệ trong

TTHS chịu sự chi phối, điều chỉnh của luật TTHS.

Quan hệ giữa CQĐT với VKS phát sinh từ nhiệm vụ điều tra, được xác

định từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố vụ án và sẽ kết

thúc khi hoàn thành nhiệm vụ điều tra bằng bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố

người phạm tội.

Về tính chất, quan hệ giữa CQĐT với VKS là quan hệ phối hợp, đồng thời

là sự thể hiện sự hệ chế ước. Có quan điểm cho rằng tính chế ước này được thể

hiện hai chiều qua lại giữa CQĐT và VKS nhưng sự chế ước từ VKS đối với

CQĐT mạnh hơn. Tác giả luận án đồng tình với quan điểm cho rằng tính chế ước

trong quan hệ giữa CQĐT và VKS chỉ được thực hiện một chiều từ phía VKS đối

với CQĐT. Xuất phát từ bản chất của quyền công tố, thực hành quyền công tố

được trao cho VKS, tính chế ước trong quan hệ giữa VKS với CQĐT là nhằm bảo

đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời; việc khởi tố, điều tra

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan

người vô tội. Còn tính chế ước ngược lại từ phía CQĐT đối với VKS theo mức độ

yếu hơn dựa trên qui định của Điều 114 BLTTHS năm 2003 thực chất vẫn là việc

chấp hành nhưng có quyền kiến nghị [13].

67

1.3 Yêu cầu cải cách tƣ pháp đối v i hoạt động của Viện kiểm sát

trong điều tra vụ án h nh sự Việt nam hiện nay

1.3.1 Tình hình tội phạm trong bối cảnh đổi mới nền kinh tế, xã hội và

quan điểm cải cách tư pháp đối với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự

Sự phát triển nhanh chóng, sôi động của kinh tế thị trường đã và đang

mang lại những thay đổi lớn về kinh tế, nâng cao điều kiện sống cho nhân dân,

nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề nhức nhối làm cho xã hội bức xúc cần được giải

quyết. Đó là sự phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng sâu sắc, sự gia tăng các

loại tệ nạn xã hội và tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, nghiêm trọng, đặc

biệt các tội phạm về kinh tế, ma túy, tham nhũng, tội phạm xuyên quốc gia…

Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đã và đang tạo ra

những tiền đề quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, hàng ngày, hàng giờ phát

huy tác dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống (như thông tin, giao dịch điện

tử, phát triển gen giống cây trồng, vật nuôi…). Bên cạnh những thuận lợi đó, đã

xuất hiện những hành vi lợi dụng thành tựu khoa học và công nghệ cao để thực

hiện tội phạm, thực hiện các giao dịch bất hợp pháp. Việc phát hiện, điều tra, xử lý

các loại tội phạm này đang đặt ra những thách thức lớn phải được đổi mới, xem

xét lại các quan niệm về chứng cứ, nguồn chứng cứ, các thủ tục thu thập chứng

cứ, về giám định ….

Công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước đang được tiến hành ngày một

sâu rộng. Việt Nam đã gia nhập nhiều tổ chức quốc tế như WTO, APEC,

ASEAN… ký kết, tham gia nhiều Điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã

hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong quá trình hội nhập, hệ thống tư pháp

Việt Nam đã có những điều chỉnh, sửa đổi, hoàn thiện khá tích cực để bảo đảm

phù hợp với các nguyên tắc pháp lý quốc tế, tạo điều kiện đấu tranh phòng, chống

tội phạm, bảo đảm các quyền cơ bản của con người, quyền tự do, dân chủ của

công dân… Bên cạnh những tiền đề thuận lợi đó cũng đang đặt ra những thách

thức lớn như sự xuất hiện của các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có

sự móc nối giữa đối tượng phạm tội ở trong nước với các tổ chức tội phạm ở nước

68

ngoài; sự không tương thích về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động và thủ tục tố

tụng tư pháp của Việt Nam so với các nước liên quan đến việc xử lý các yêu cầu

tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm, vấn đề công nhận chứng cứ và việc phối hợp điều tra chung giữa các nước [24]. Điều đó đặt ra vấn đề đổi mới hoạt động

THQCT và KSĐT các vụ án hình sự của VKS để đáp ứng yêu cầu hội nhập, phù

hợp với xu hướng chung của TTHS tiến bộ dân chủ, công bằng, văn minh, bảo

đảm sự giao thoa, tương thích trong cách thức, thủ tục giải quyết vụ án hình sự.

Tình hình tội phạm trên địa bàn cả nước nói chung, nhất là trên địa bàn các

thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… trong những

năm gần đây tiếp tục diễn biến phức tạp, gia tăng cả về số vụ, số người phạm tội.

Thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đã xuất hiện các ổ nhóm tội

phạm hoạt động theo kiểu xã hội đen, sử dụng vũ khí nguy hiểm ngay trên đường

phố. Các hành vi lợi dụng cơ chế kinh tế thị trường để tham ô, làm trái pháp luật

xảy ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, mà trọng điểm là

đất đai, xây dựng, thuế, xuất nhập khẩu, bưu chính viễn thông. Các hành vi tuyên

truyền, kích động, bôi nhọ chế độ diễn ra dưới nhiều hình thức.

Tình hình tội phạm trong những năm gần đây và xu hướng diễn biến của

các loại tội phạm cho thấy số lượng, tính chất, mức độ, hậu quả của tội phạm

không chỉ phản ánh sự xuống cấp, băng hoại đạo đức xã hội mà điều đáng quan

tâm là sự gia tăng tình hình tội phạm đã trở thành mối quan ngại, thách thức các

cơ quan tư pháp. Tính chất nguy hiểm của tội phạm không chỉ gây ra tổn thất to

lớn về kinh tế cho xã hội mà còn là nguy cơ hủy hoại nguồn lực thiết yếu của xã

hội, trong đó, trực tiếp và quan trong nhất là nguồn lực con người - thế hệ thanh

niên. Do đó, Đảng và Nhà nước cần kịp thời có quyết sách, tổ chức, lực lượng

mạnh mẽ để đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, trong đó có trách nhiệm

THQCT và KSĐT của VKS các cấp.

Trong bất kỳ hệ thống tố tụng nào, không có việc điều tra vụ án thì cũng

không có giai đoạn tố tụng tiếp theo. Khác với tố tụng dân sự, chứng minh vụ việc

chủ yếu diễn ra tại phiên tòa, trong TTHS, để đưa vụ án ra xét xử, phải có quá

69

trình điều tra thu thập, kiểm tra, đánh giá tất cả các chứng cứ để xác định sự thật

của vụ án. Những sai lầm trong công tác điều tra nếu không được khắc phục, tất

yếu sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm và

người phạm tội. Nhiều ý kiến đã nhận xét rất xác đáng rằng, trong TTHS nước ta,

điều tra vụ án là khâu đột phá, quyết định sự thành bại của cả quá trình tố tụng; kết

quả điều tra vừa là cơ sở để truy tố, xét xử và cũng là cơ sở để người bào chữa

biện hộ; kết quả điều tra không chỉ chi phối và xác định phạm vi truy tố mà còn

xác định cả giới hạn xét xử vì tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi

theo tội danh VKS truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Trong khi đó,

thực chất quy định của pháp luật hiện hành về quyền hạn của VKS đối với hoạt

động điều tra mang nặng tính hình thức khiến cho VKS thụ động, không thực

quyền khi thực hiện chức năng công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự [30].

Thực tiễn đó đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp bách phải tăng cường

hơn nữa vai trò và nâng cao năng lực của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự để đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và không để xảy ra các trường

hợp làm oan người vô tội. Hoạt động công tố và KSĐT của VKS các cấp phải

nhằm vào việc chống bỏ lọt tội phạm và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của

công dân, không để bất cứ ai bị xâm phạm tính mạng, danh dự, nhân phẩm một

cách trái pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả,

giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Về quan điểm cải cách tư pháp của Nhà nước ta được thể hiện qua các

Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp như Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII

(tháng 01/1995), Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII (tháng 6-1997), Nghị quyết

Trung ương 7 khóa VIII (tháng 8/1999), Nghị quyết Đại hội IX... đều xác định đổi

mới tổ chức và hoạt động điều tra là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

công tác tư pháp. Đặc biệt là những năm đầu của thế kỷ 21, các Nghị quyết số 08-

NQ/TW ngày 02/01/2002 về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2002 về Chiến lược xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

70

2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X của Đảng (tháng 4/2006) đã đề ra nhiều định hướng quan trọng, toàn diện cho

việc đổi mới tổ chức và hoạt động điều tra đến năm 2020, nhằm phục vụ tốt hơn

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, vì mục tiêu xây dựng hệ thống cơ quan

tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con

người, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; HĐTP, mà trung

tâm là hoạt động xét xử phải được được tiến hành với hiệu quả cao. Có nhiều nội

dung mới về công tác điều tra đã khẳng định, đề cập đến nhiều vấn đề về tổ chức

bộ máy, thẩm quyền, cơ chế hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong

giai đoạn điều tra. Đặc biệt, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, chỉ rõ phải “Tổ chức hệ

thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính...

Trước mắt, VKS nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là THQCT và kiểm

sát các HĐTP. VKS nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức tòa

án....tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. Việc “Thực

hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra” đầu tiên được xác định tại Báo

cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) khi bàn về

phương hướng cải cách tư pháp tại Việt nam. Sau đó, Kết luận của Bộ chính trị số

79-KL/TW ngày 28/7/2010 về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án,

VKS và CQĐT theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 và đặc biệt là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

(tháng 1/2011) tiếp tục khẳng định phương hướng nêu trên là phương hướng chính

của nhiệm vụ cải cách tư pháp đối với VKS cùng với việc bổ sung một số định

hướng khác như“Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề

nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng cường các cơ chế

giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với HĐTP” [15, tr.

250-251]. Tiếp sau đó, phương hướng cải cách tư pháp đối với hệ thống VKSND

tiếp tục được Kết luận 92-KL/TW ngày 12/3/2014 xác định "Tiếp tục thực hiện

71

chủ trương tổ chức TAND, VKSND theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị

hành chính. Tòa án nhân dân được tổ chức 4 cấp như Kết luận số 79-KL/TW,

ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị. Đối với TAND cấp sơ thẩm và VKSND tương

ứng, cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng 2 phương án (Phương án 1, tổ chức theo

khu vực như Kết luận số 70-KL/TW; phương án 2, tổ chức TAND sơ thẩm đặt tại

các đơn vị hành chính cấp huyện)". Quan điểm cải cách tư pháp đối với hệ thống

VKS trong Bộ máy Nhà nước ta trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 đã rõ, được

thể hiện qua các luận điểm sau:

+ VKS vẫn giữ chức năng THQCT và KSHĐTP, được tổ chức phù hợp với

hệ thống tổ chức của tòa án, được bảo đảm tốt hơn các điều kiện để thực hiện tốt

hơn hoạt động chức năng;

+ Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố

với hoạt động điều tra;

+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát về trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp;

+ Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân

dân đối với hoạt động của VKS.

Đồng thời các văn bản của Đảng cộng sản Việt Nam cũng khẳng định, việc

cải cách tư pháp nói chung và cải cách VKS nói riêng đến năm 2020 phải được

thực hiện trên cơ sở hay phải nhằm đáp ứng được các mục đích [41]:

+ Thứ nhất, phải bảo đảm quán triệt đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các quan

điểm, chủ trương của Đảng về cải cách bộ máy Nhà nước nói chung và cải cách tư

pháp nói riêng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam

XHCN và hội nhập quốc tế; phải trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của bộ máy Nhà nước và bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự giám sát

chặt chẽ của các cơ quan dân cử và nhân dân.

+ Thứ hai, phải được tiến hành đồng bộ với cải cách lập pháp và cải cách

hành chính với việc đổi mới và kiện toàn các cơ quan tư pháp, đồng thời phải

nhằm nâng cao và bảo đảm sự độc lập của HĐTP.

72

+ Thứ ba, phải bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ của VKS các cấp.

+ Thứ tư, phải bảo đảm tính kế thừa truyền thống, kinh nghiệm tổ chức và

hoạt động của cơ quan Công tố (VKS) của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam

trong 70 năm qua, nhất là 50 năm tổ chức và hoạt động của VKS Việt Nam; đồng

thời, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của cơ quan Công tố

của các nước trên thế giới và trong khu vực, phù hợp với truyền thống văn hóa,

điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của nước ta [58].

+ Thứ năm, phải được tiến hành khẩn trưởng, tích cực, nhưng cần phải thận

trọng, có bước đi vững chắc, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

hội của đất nước, tránh gây xáo trộn, gián đoạn cho HĐTP nói chung, hoạt động

THQCT và hoạt động kiểm sát nói riêng, bảo đảm tính liên tục, hiệu quả của cuộc

đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, vi phạm pháp luật.

Như vậy, định hướng cải cách VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp chặng

đường đầu của thế kỷ XXI đã được xác định theo hướng: xây dựng một mô hình

VKS mạnh, có vị trí đáng kể, được gắn với hoạt động điều tra, phát huy được vai

trò, trách nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra. Mô hình tổ chức thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra hay nói cách

khác mô hình về quan hệ giữa công tố và điều tra phụ thuộc vào mô hình VKS?

mô hình Viện công tố? Hay mô hình hỗn hợp giữa VKS - Viện công tố? Từ chủ

trương cải cách tư pháp này của Đảng cho thấy, Nhà nước ta không chủ trương

xây dựng VKS theo mô hình ở các nước thuộc hệ thống luật Common Law, điển

hình là Anh, Mỹ hay Australia, vì ở hệ thống này ngoài tính ưu việt là đề cao tính

dân chủ, tôn trọng tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nguyên tắc tự

định đoạt và tranh tụng giữa các bên có xung đột pháp lý, đề cao vai trò của tòa án

và được xây dựng dựa trên nền tảng phân chia quyền lực và sở hữu tư nhân về tư

liệu sản xuất, thì không có được sự phối hợp chặt chẽ giữa CQĐT và Cơ quan

công tố để phòng chống vi phạm, tội phạm hiệu quả với tư cách là một công cụ

chuyên chính sắc bén, nhất là trong một chế độ chính trị nhất nguyên trong Nhà

nước kiểu mới – Nhà nước XHCN như nước ta. Tuy nhiên, Nhà nước ta cũng

73

không chấp nhận duy trì mô hình Công tố (VKS) được xây dựng trên cơ sở các

quan hệ kinh tế, xã hội thời kỳ bao cấp, trì trệ, dù đã từng phù hợp và góp phần

giúp Nhà nước quản lý xã hội có hiệu quả, thực hiện thành công nhiệm vụ cách

mạng thời kỳ chống thực dân, đế quốc để thống nhất đất nước nhưng nay lại tỏ ra

không phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường mới hình thành, của

nền chính trị - xã hội đang được củng cố, tăng cường, chú trọng sự công bằng, dân

chủ và đổi mới để hội nhập quốc tế như hiện nay. Vậy mô hình Công tố (VKS)

nào thích hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, truyền thống pháp luật và

văn hoá của Việt Nam hiện nay? Cho đến nay, câu trả lời vẫn chưa được khẳng

định trong pháp luật thực định và mới chỉ được định hình bởi các định hướng đổi

mới và cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước.

1.3.2 Hoạt động của Viện công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ở

một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cải cách tư pháp đối với Việt Nam

Trong các mô hình TTHS của thế giới đương đại, xét về tính đại diện, mức

độ văn minh, tiến bộ và tầm ảnh hưởng, chi phối đối với các truyền thống pháp

luật khác, hiện chỉ có trong hai truyền thống pháp luật cơ bản: mô hình TTHS có

yếu tố tranh tụng chiếm vai trò chủ đạo (gọi tắt là mô hình tố tụng theo truyền

thống pháp luật tranh tụng), và mô hình TTHS có yếu tố thẩm vấn chiếm vai trò

chủ đạo (gọi tắt là mô hình theo truyền thống pháp luật thẩm vấn) [63]. Mỗi mô

hình TTHS đều có những ưu thế nổi bật và đồng thời đều có những hạn chế riêng.

Có thể thấy rằng mô hình tố tụng theo truyền thống pháp luật tranh tụng có thế

mạnh là chú trọng vào sự cân bằng giữa quyền của người bị tình nghi phạm tội và

quyền lực điều tra, truy tố của Nhà nước, tạo điều kiện cho hoạt động xét xử diễn

ra dân chủ, khách quan, công bằng. Tuy nhiên, hạn chế nổi bật của mô hình tố

tụng tranh tụng là các phiên tòa xét xử thường diễn ra chậm chạp, chi phí cao và

cồng kềnh bởi sự phức tạp của một loạt hệ thống các quy tắc về thủ tục tố tụng về

chứng cứ, về hành vi ứng xử của Luật sư; Trong khi đó, mô hình tố tụng theo

truyền thống pháp luật thẩm vấn có ưu điểm là việc đề cao vai trò chủ động của

Thẩm phán, tạo điều kiện cho việc xác định chính xác sự thật khách quan của vụ

74

án, nhưng lại có nhược điểm của sự tham gia quá tích cực của Thẩm phán vào quá

trình điều tra và quá trình thu thập chứng cứ của các bên nên trong nhiều trường

hợp sẽ dễ dẫn đến sai lệch hoặc định kiến trong phán quyết [60; tr.8-9,16-17].

Nhưng cho dù khoa học pháp lý có những nhận xét, đánh giá như thế nào

đi chăng nữa, mô hình tố tụng theo truyền thống pháp luật tranh tụng vẫn là mô

hình tố tụng mà các nước Anh, Mỹ, Úc và một số quốc gia khác ở Châu Á; Châu

Phi đã và vẫn tiếp tục theo đuổi cũng như mô hình tố tụng theo truyền thống pháp

luật thẩm vấn cũng đang được vận hành trôi chảy tại phần lớn các nước Châu Âu

và một số nước khác. Nhật Bản hay Hàn Quốc vẫn được coi là ví dụ điển hình cho

việc xây dựng mô hình tố tụng pha trộn rõ nét nhất nhằm thể hiện sự cân bằng

giữa hai yếu tố tranh tụng và thẩm vấn trong TTHS. Do vậy có thể kết luận được

rằng các mô hình TTHS cơ bản hiện có trên thế giới đều đang phát huy hiệu quả

với những ưu khuyết điểm của riêng mình và cũng không ngừng được sửa đổi, bổ

sung để hoàn thiện. Thực tế này cũng chứng tỏ là không có một mô hình nào là

tuyệt đối hoàn hảo, cũng không phải mô hình này hoàn toàn tốt hơn mô hình kia

và ngược lại. Mỗi mô hình hình tố tụng được thiết kế để xử lý những hành vi vi

phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội nhất định và vì thế không thể có một mô

hình chung cho tất cả các xã hội khác nhau. Không một xã hội nào có thể lắp ghép

nguyên trạng một mô hình tố tụng thuộc xã hội khác, nền văn hóa khác vào hệ

thống pháp luật của mình mà có thể hoạt động hiệu quả. Việc chuyển đổi một cách

máy móc từ mô hình tố tụng này sang mô hình tố tụng khác có thể dẫn đến những

hệ quả nguy hiểm, không lường trước. Ví dụ: như trường hợp của Italia, chuyển từ

mô hình tố tụng thẩm vấn sang mô hình tố tụng áp dụng nhiều đặc điểm của

truyền thống tố tụng tranh tụng vào năm 1988; như trường hợp của Cộng hòa

Pháp, Liên bang Đức, từ truyền thống mô hình tố tụng thẩm vấn chuyển đổi sang

mô hình tố tụng tranh tụng vào thập niên 90 của thế kỷ XX. Nhưng sau đó cả

Italia, Cộng hòa Pháp và Liên Bang Đức đều trở lại mô hình tố tụng thẩm vấn kết

hợp với các yếu tố tranh tụng để khắc phục tình trạng vận hành có nhiều trục trặc,

75

kém hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là đối với tội phạm có

tổ chức, mafia [5, tr.10], [60, tr.23-25].

Đối với Việt Nam, từ năm 1959 đến nay, trên cơ sở 04 bản Hiến pháp, mô

hình VKS theo ý tưởng của Lênin được áp dụng, xây dựng có chọn lọc để cho phù

hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của Việt Nam. VKS nước ta

trong thời kỳ từ 1959 đến nay đã là chỗ dựa cần thiết, quan trọng và hiệu quả nhất

cho Quốc hội trong hoạt động giám sát tuân thủ Hiến pháp, luật của Quốc hội so

với bất kỳ cơ quan Nhà nước nào cùng thời.

Xuất phát từ thực tiễn lịch sử pháp luật TTHS có nguồn gốc từ tố tụng

thẩm vấn, căn cứ vào đặc điểm kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa nước ta,

chúng ta không thể chuyển hẳn từ mô hình tố tụng thẩm vấn sang mô hình tố tụng

tranh tụng, cũng như không thể quy định và thực hiện ngay và triệt để rằng tranh

tụng thành một nguyên tắc cơ bản hay tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt cho hoạt động

TTHS. Phương hướng cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là tiếp tục hoàn thiện

mô hình tố tụng thẩm vấn hiện có theo hướng tăng cường tranh tụng hơn nữa, bảo

đảm kết hợp hài hòa kinh nghiệm quốc tế trên cơ sở kế thừa truyền thống pháp

luật để xây dựng BLTTHS tốt cho hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam.

Trong quá trình cải cách tư pháp về mô hình tổ chức thực hiện chức năng

nhiệm vụ của VKS nước ta hiện nay, sự cần thiết là phải nghiên cứu, tham khảo

mô hình Viện công tố ở các nước theo truyền thống luật lục địa và ở các nước có

nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như Liên bang Nga, Trung

Quốc, nơi mà Cơ quan công tố không những tách thành một hệ thống độc lập

trong quan hệ với CQĐT mà còn phản ánh rõ nét những giá trị của mô hình công

tố mạnh thông qua vai trò chỉ đạo hoặc vai trò giám sát đối với hoạt động điều tra.

Điều này rất có ý nghĩa khi xác định phương hướng xây dựng hệ thống cơ quan

công tố mạnh theo yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Việc quan trọng

cần làm là tìm lời giải đáp cho vấn đề then chốt là trong tương lai, chúng ta có thể

và cần phải đi theo mô hình nào? Mô hình công tố kết hợp KSĐT như ở Việt

Nam, Liên bang Nga, Trung Quốc hiện nay hay mô hình công tố chỉ đạo điều tra

76

như ở các nước Châu Âu lục địa? Tuy nhiên, dù lựa chọn mô hình công tố - điều

tra nào đi nữa, sẽ thật biện chứng và hợp lý khi đưa ra quan điểm về việc xác định

mô hình Viện công tố trong tiến trình cải cách tư pháp dựa trên cơ sở đánh giá

khách quan những thành tựu, những đặc trưng của mô hình VKS đã và đang tồn

tại ở Việt Nam, qua đó, xác định và xây dựng mô hình VKS mới (bao gồm cả mô

hình công tố - điều tra) có sự kế thừa những ưu điểm, được đổi mới phương thức

tổ chức, hoạt động để khắc phục khuyết điểm hiện tại và đồng thời thể hiện những

ưu điểm đặc trưng của mô hình tố tụng tranh tụng nhất là khi mô hình VKS tỏ ra

thích hợp với điều kiện chính trị, xã hội, với chủ trương, mục tiêu cải cách hệ

thống tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt Nam hiện nay [78].

Qua nghiên cứu vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan công tố của

một số quốc gia, đại điện cho hai hệ thống pháp luật tiêu biểu của thế giới đương

đại, có thể khái quát ra một số nhận xét sau [42]:

Do mỗi quốc gia có những cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa khác

nhau nên có cách thức tổ chức bộ máy nhà khác nhau, do vậy Cơ quan Công tố,

Kiểm sát được tổ chức và hoạt động không giống nhau. Có nơi Cơ quan Công tố

do Cơ quan đại diện lập ra (như ở Anh quốc trong một số trường hợp pháp luật qui

định), có nơi Cơ quan Công tố thuộc các Cơ quan hành pháp (như ở Hoa kỳ), có

nơi Cơ quan công tố thuộc các Cơ quan tư pháp (như ở Cộng hòa Pháp) và cũng

có nơi Cơ quan công tố vừa thuộc nhánh hành pháp, vừa thuộc nhánh tư pháp

(như ở Cộng hòa liên bang Đức).

Nhiều nước tổ chức tách biệt Cơ quan công tố và CQĐT (ở Đức gọi là Cơ

quan cảnh sát, ở Pháp, Italia và Hàn Quốc gọi là Cơ quan cảnh sát tư pháp). Tuy

về tổ chức, cả hai cơ quan đều thuộc nhánh hành pháp, nhưng thực chất Cơ quan

công tố được xác định có vị trí “bán tư pháp” (quasi-judicial), có nhiệm vụ gần

với tòa án là đều cùng tìm kiếm các bằng chứng buộc tội và gỡ tội nhằm xác định

sự thật khách quan của vụ án. Các Công tố viên chịu trách nhiệm về hoạt động

điều tra và các hoạt động tố tụng ở giai đoạn tiền xét xử nhưng được đào tạo và bổ

nhiệm với tiêu chuẩn, điều kiện gần giống với Thẩm phán, thậm chí được xếp

77

cùng ngạch bậc như các Thẩm phán theo mô hình của Pháp và Italia. Việc đặt

Công tố viên vào vị thế “bán tư pháp” không chỉ là điều kiện bảo đảm tính độc lập

của Công tố viên mà còn có ý nghĩa để Công tố viên có thể chỉ đạo, kiểm tra, giám

sát các hoạt động tố tụng của nhân viên cảnh sát – những công chức thuộc nhánh

hành pháp và không trực thuộc Cơ quan công tố về mặt tổ chức.

Công tố viên có vai trò chủ đạo trong giai đoạn tố tụng trước xét xử, chịu

trách nhiệm về hoạt động điều tra. Công tố viên hầu như không trực tiếp thực hiện

các thao tác nghiệp vụ điều tra cụ thể mà do Cảnh sát thực hiện và báo cáo kết

quả, tiến độ điều tra cho Công tố viên. Công tố viên ở các nước theo truyền thống

công tố chỉ đạo điều tra không can thiệp vào các hoạt động, tác nghiệp điều tra cụ

thể, mà là người định hướng, quyết định kết quả của cuộc điều tra có được sử

dụng, có ý nghĩa để truy tố, để bảo vệ cáo trạng trước tòa hay không? Hầu hết các

hoạt động điều tra vụ án do nhân viên cảnh sát thực hiện. Công tố viên chỉ giữ vai

trò định hướng, dẫn dắt, tư vấn pháp lý và cũng là người quyết định có sử dụng

kết quả của các hoạt động điều tra khi quyết định truy tố hay không truy tố. Ngay

cả đối với các vụ án mà Cơ quan công tố thực hiện điều tra từ đầu hay tự điều tra,

Công tố viên cũng không tự đi khám xét, theo dõi đối tượng tình nghi, bắt giữ,

nghe trộm điện thoại... mà những hoạt động này Cảnh sát sẽ trực tiếp thực hiện

theo lệnh và hướng dẫn tại chỗ của Công tố viên. Đây là một đặc điểm khác biệt

của truyền thống tố tụng thẩm vấn so với truyền thống tố tụng tranh tụng, xét ở

khía cạnh thẩm quyền, trách nhiệm và sự can thiệp của Cơ quan công tố đối với

hoạt động điều tra.

Cơ quan công tố trong truyền thống tố tụng tranh tụng không can thiệp,

không “giám sát”, không “chỉ đạo” Cảnh sát điều tra. Việc điều tra do Cơ quan cảnh

sát thực hiện, sau đó chuyển sang Cơ quan công tố để Cơ quan công tố quyết định

việc xử lý đối với vụ việc: yêu cầu điều tra bổ sung, truy tố hay không truy tố.

Trong truyền thống tố tụng thẩm vấn, vấn đề trách nhiệm luôn được đặt

song hành với thẩm quyền nên Cơ quan công tố chịu trách nhiệm về mọi hoạt

động điều tra của Cơ quan cảnh sát nhưng đồng thời pháp luật cũng trao cho Công

78

tố viên thẩm quyền ra lệnh, chỉ đạo trực tiếp lực lượng Cảnh sát, thậm chí theo

quan hệ chỉ đạo – chấp hành, như mô hình của Hàn Quốc, mặc dù về mặt tổ chức

thuộc hai cơ quan hoàn toàn khác nhau.

Một đặc điểm nổi bật của hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng hình sự một

số nước, và có ý nghĩa nghiên cứu, tham khảo rất có giá trị đối với công cuộc cải

cách tư pháp ở Việt nam hiện nay là việc áp dụng các BPNC, cưỡng chế tố tụng

đặt dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của tòa án và do tòa án quyết định. Công tố

viên là người đề xuất, kiến nghị với tòa án. Như vậy, tòa án là cơ quan quyết định

việc áp dụng các BPNC và cưỡng chế tố tụng. Đây là một đặc điểm có thể nói là

không chỉ ở riêng các nước theo mô hình công tố chỉ đạo điều tra mà phổ biến ở

hầu hết các quốc gia trên thế giới nhằm bảo đảm các quyền của người bị tình nghi,

bị can, bị cáo được bảo vệ tối đa tránh việc áp dụng một cách không công bằng

khi các Cơ quan công tố và Cảnh sát thực hiện việc điều tra và buộc tội, ngăn

ngừa khả năng lạm quyền, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người bị tình nghi phạm tội. Cơ quan công tố chịu trách nhiệm về các hoạt động

điều tra và cũng có trách nhiệm đề nghị với tòa án về việc áp dụng các BPNC hay

cưỡng chế tố tụng. Quy định này vừa gắn trách nhiệm cho Cơ quan công tố phải

theo dõi tiến độ, kiểm soát được các hoạt động điều tra, thấy được nhu cầu cần

thiết phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết và cũng qua đó bảo đảm cho

vai trò chi phối, chỉ đạo hoạt động điều tra của Cơ quan công tố.

Từ những nghiên cứu trên, định hướng đổi mới hoạt động của VKS Việt

Nam trong điều tra vụ án hình sự có thể là:

Tùy theo truyền thống pháp luật và đặc điểm của từng quốc gia mà việc tổ

chức và hoạt động THQCT của Cơ quan công tố có những đặc điểm, tính chất khác

nhau. Tại các nước theo truyền thống luật lục địa, hoạt động công tố gắn bó chặt

chẽ với hoạt động điều tra ngay từ khi bắt đầu cuộc điều tra, chỉ đạo việc truy tìm

thủ phạm và thu thập bằng chứng buộc tội. Các nước theo truyền thống án lệ, cơ

quan công tố không can thiệp sâu vào quá trình điều tra, chỉ tư vấn cho cảnh sát về

thu thập, sử dụng chứng cứ, về áp dụng pháp luật và thực hiện việc truy tố trên cơ

79

sở kết quả điều tra. Các nước XHCN (như Trung Quốc, Việt Nam), VKS vừa được

giao THQCT, vừa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra, nhằm

bảo đảm cho việc truy cứu TNHS có căn cứ, không làm oan người vô tội, không bỏ

lọt tội phạm.

Trên nền tảng truyền thống tố tụng thẩm vấn (có nguồn gốc từ mô hình tố

tụng thẩm vấn đã có sự kết hợp với mức độ nhất định các yếu tố tích cực của mô

hình tố tụng tranh tụng), kết hợp với các yếu tố tích cực của truyền thống tố tụng

tranh tụng, căn cứ yêu cầu cải cách tư pháp “Gắn công tố với hoạt động điều tra”,

“Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra” được ghi trong các

văn bản của Đảng trong những năm gần đây, nước ta cần học tập kinh nghiệm các

nước theo truyền thống tố tụng thẩm vấn (như Cộng hòa Pháp, Cộng hòa liên bang

Đức), để phát huy mạnh mẽ vai trò của VKS trong giai đoạn điều tra, bảo đảm

việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm

minh những hành vi vi phạm trong hoạt động điều tra. Đó là những kinh nghiệm

sau đây:

Thứ nhất, để làm tốt chức năng công tố, VKS phải nắm được đầy đủ các tố

giác, tin báo về tội phạm, có thẩm quyền quyết định việc khởi tố hay không khởi

tố vụ án, khởi tố bị can. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Viện công tố ở các nước

theo truyền thống công tố chỉ đạo điều tra được giao nhiệm vụ làm đầu mối tiếp

nhận mọi thông tin tội phạm từ các nguồn chuyển đến và đóng vai trò quyết định

việc xử lý tố giác, tin báo về tội phạm; trực tiếp quyết định việc khởi tố vụ án,

khởi tố bị can (như công tố Cộng hòa Pháp). Điều này khác với VKS Việt Nam

hiện nay chỉ thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm; không phải là đầu mối tiếp nhận thông tin tội phạm từ các nguồn chuyển

đến, không có quyền xác minh tin báo, tố giác về tội phạm. Việc nắm giữ và xác

minh tố giác, tin báo về tội phạm, cũng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can chủ yếu

do CQĐT tiến hành. VKS chỉ được khởi tố trong một số trường hợp nhất định nên

rất thụ động trong việc phát động công tố quyền, thực hiện chức năng buộc tội

ngay từ đầu.

80

Thứ hai, xu hướng chung trong TTHS của nhiều nước theo truyền thống

thẩm vấn và truyền thống tranh tụng, xuất phát từ chức năng buộc tội của cơ quan

công tố, đó là Cơ quan công tố đều có quyền trực tiếp điều tra một số loại tội

phạm nhất định như: Điều tra các tội phạm về tham nhũng (như công tố Trung

Quốc); Điều tra các vụ tham nhũng lớn, gian lận thương mại (như công tố Nhật

Bản); điều tra bất kỳ vụ án nào nếu xét thấy cần thiết (như công tố Cộng hòa liên

bang Đức); Điều tra một số tội phạm về tham nhũng, ô nhiễm môi trường, trốn

thuế, tội phạm về ma túy (như công tố Hàn Quốc); Tiến hành điều tra một số loại

tội phạm theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, nếu tiếp tục duy trì truyền thống tố tụng thẩm vấn, mở rộng hơn

các yếu tố tranh tụng trong TTHS thì cần có cơ chế pháp lý ràng buộc trách nhiệm

CQĐT, Điều tra viên trong việc thực hiện các yêu cầu của VKS, của Kiểm sát

viên nhằm bảo đảm chất lượng hoạt động điều tra, xử lý vụ án đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật, chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền tự

do, dân chủ của công dân.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Tóm lại, Chương 1 đã trình bày và làm rõ những vấn đề cơ bản của nhận

thức chung về hoạt động điều tra vụ án hình sự. Từ đó, xây dựng cơ sở để xác

định những vấn đề cơ bản của nhận thức chung về hoạt động của VKS trong điều

tra vụ án hình sự. Xuất phát từ việc làm rõ các thành tố cơ bản của nhiệm vụ,

quyền hạn của VKS trong điều tra vụ án hình sự dưới góc độ quan hệ pháp luật

như: Khái niệm, đặc điểm, mục đích, chủ thể, đối tượng, phạm vi, nội dung, hình

thức thể hiện, Chương 1 đã xác định hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình

sự bao gồm 03 nhóm hoạt động chính: THQCT, KSĐT, tổ chức và chỉ đạo hoạt

động THQCT và KSĐT được thực hiện thông qua việc thực thi nhiệm vụ quyền

hạn của những người tiến hành tố tụng của VKS (Viện trưởng, Phó Viện trưởng,

Kiểm sát viên) trên cơ sở qui định của pháp luật và Qui chế nghiệp vụ kiểm sát,

81

nhằm tạo cơ sở cho việc nhận thức đúng, toàn diện và đầy đủ về chức năng, nhiệm

vụ hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, Chương 1 cũng đã xác

đinh rõ mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động THQCT và KSĐT, tạo ra tiền đề

nhận thức cho việc nhìn nhận, đánh giá các phương thức tổ chức và chỉ đạo hoạt

động nhiệm vụ của VKS trong điều tra vụ án hình sự cũng như tìm tòi, xây dựng

phương thức tổ chức, hoạt động mới, hiệu quả hơn sau này. Bên cạnh đó, Chương

1 cũng đã thể hiện một cách tổng hợp quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng

cộng sản Việt Nam, của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt nam trong việc thực

hiện cải cách tư pháp đối với tổ chức, hoạt động của VKSND nói chung và trong

hoạt động điều tra vụ án hình sự nói riêng. Đặc biệt, Chương 1 cũng đã trình bày

và đúc kết một số định hướng, kinh nghiệm đổi mới cơ quan công tố nước ngoài,

có giá trị đối chiếu, tham khảo nhằm tăng cường sự đúng đắn, hợp lý và toàn diện

cho việc các định yêu cầu cải cách tư pháp đối với hoạt động của VKS trong điều

tra vụ án hình sự của Việt Nam.

Việc làm rõ các cơ sở nhận thức về hoạt động của VKS trong điều tra vụ án

hình sự đã khẳng định giả thuyết của đề tài là trong nhận thức chung về hoạt động

của VKS trong điều tra vụ án hình đa dạng, phức tạp, có nhiều cách hiểu và vận

dụng khác nhau và rõ ràng rằng sự không nhất quán trong nhận thức sẽ kéo theo

sự thiếu nhất quan trong tổ chức thực hiện trên thực tế và tất nhiên làm giảm hiệu

quả hoạt động chức năng của VKS trong giai đoạn điều tra.

Việc làm rõ nội dung hoạt động của VKSND trong điều tra vụ án hình sự

theo qui định của BLTTHS năm 2003 cũng như chỉ rõ những bất hợp lý trong qui

định này của pháp luật TTHS sẽ tạo ra tính định hướng rõ ràng, tính nhất quán

trong kết quả nghiên cứu của Chương 2.

82

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT

HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

Việc phân tích làm rõ thực trạng hoạt động của VKS trong điều tra vụ án

hình sự trong những năm qua (từ năm 2004 đến năm 2013), để chỉ ra những hạn

chế, yếu kém và nguyên nhân của hoạt động chức năng của VKS trong điều tra vụ

án hình sự từ thực tiễn, nhằm đánh giá thực tiễn, củng cố và hoàn thiện cơ sở nhận

thức, rút ra những bài học kinh nghiệm, tạo cơ sở cho việc đề xuất những giải

pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong hoạt động của VKS trong điều tra vụ án

hình sự, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, VKS/ Kiểm sát viên thực

thi các thao tác nghiệp vụ kiểm sát theo qui định của pháp luật, trước hết và quan

trọng nhất là qui định của các Luật (BLTTHS năm 2003, của Luật tổ chức VKS,

BLHS năm 1999,…), sau đó là các qui định của các văn bản dưới luật (Nghị quyết

của Quốc hội, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao; Thông tư liên

ngành tư pháp trung ương,…) và qui định tại qui chế nghiệp vụ kiểm sát do

VKSND tối cao ban hành, qui chế phối hợp liên ngành trong TTHS tại địa

phương. Trong đó, sự chồng chéo, bất hợp lý, chưa rõ, chưa qui định của luật mà

đặc biệt là của BLTTHS năm 2003 là trở ngại lớn nhất đối với việc thực hiện một

cách có hiệu quả hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự. Do vậy, nghiên cứu

sự khiếm khuyết, chưa hoàn thiện của pháp luật dưới góc độ THQCT và KSĐT vụ

án hình sự là mục đích nghiên cứu của Chương 2.

2.1. Một số vấn đề từ thực trạng thực hành quyền công tố trong điều

tra vụ án h nh sự

2.1.1 Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can

Pháp luật TTHS hiện hành về hoạt động THQCT trong lĩnh vực khởi tố vụ

án, khởi tố bị can vẫn còn một số tồn tại, bất cập, mâu thuẫn chồng chéo, dẫn đến

VKS chưa có được sự chủ động cũng như tính chất quyết định một cách mạnh mẽ,

83

toàn diện đối với hoạt động khởi tố của CQĐT và các cơ quan khác được giao

thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Cụ thể, hạn chế của luật thể hiện qua những nội

dung sau:

- Khởi tố vụ án hình sự

Việc khoản 1, Điều 104, BLTTHS năm 2003 qui định Hội đồng xét xử có

quyền khởi tố vụ án hình sự, thể hiện sự không hợp lý trong tổ chức thực hiện các

chức năng tố tụng, kém hiệu quả trong thực tiễn, vì vậy nó đã rất ít được thực hiện

trên thực tế. Việc BLTTHS quy định tòa án (Hội đồng xét xử) có thẩm quyền khởi

tố vụ án là qui định trái với chức năng tố tụng cơ bản của tòa án là thực hiện chức

năng xét xử [32]. Tuy nhiên, với nhiệm vụ tố tụng được giao, cần khẳng định tòa

án có nhiệm vụ thông qua hoạt động xét xử, phát hiện dấu hiệu của tội phạm và

thực hiện việc kiến nghị khởi tố.

Điều 104 BLTTHS năm 2003 giao cho một số cơ quan có thẩm quyền khởi

tố vụ án hình sự như Thủ trưởng Bộ đội biên phòng, Cơ quan Hải quan, Kiểm

lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân

dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát

hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội

tại những vùng biên giới, hải đảo, trong những lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội

đặc thù. Tuy nhiên, Điều 104 chưa bao gồm một số cơ quan chức năng khác có

phạm vi, tính chất nhiệm vụ tương tự với các chủ thể khởi tố vụ án hình sự nêu

trên như Cơ quan thuế, Lực lượng kiểm ngư, chính là sự thiếu sót của BLTTHS.

- Trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can

Việc khoản 1, Điều 104 qui định VKS chỉ có thể khởi tố vụ án hình sự sau

khi đã thực hiện quyền năng của mình trong lĩnh vực kiểm sát việc giải quyết tin

báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT bằng việc hủy bỏ quyết định

không khởi tố, là sự chưa đầy đủ. Bởi trên thực tế, qua hoạt động kiểm sát trực

tiếp việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT,

VKS phát hiện có tố giác, tin báo, kiến nghị có dấu hiệu của tội phạm mà vì lý do

84

nào đó, CQĐT không xử lý. Đối với việc khởi tố bị can, Điều 126 BLTTHS năm

2003 chưa quy định VKS có quyền trực tiếp khởi tố bị can trong trường hợp giữa

VKS và CQĐT có mâu thuẫn trong nhận định, đánh giá chứng cứ nên CQĐT

không chấp hành yêu cầu khởi tố bị can của VKS. Đây là kẽ hở, tạo nguy cơ trả

hồ sơ để điều tra bổ sung khiến thời hạn điều tra vụ án bị kéo dài.

Yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ

Thực tế xảy ra phổ biến trường hợp mà quyết định khởi tố vụ án hình sự

tuy chưa đủ căn cứ vững chắc nhưng nếu hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án thì sẽ

dẫn đến bỏ lọt tội phạm, hoặc ngược lại có nhiều trường hợp mà quyết định không

khởi tố vụ án hình sự tuy chưa đủ căn cứ thuyết phục nhưng VKS cũng không có

đủ tài liệu, chứng cứ để hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án và ra quyết định

khởi tố vụ án. Trong khi đó BLTTHS năm 2003 lại không quy định việc VKS có

quyền yêu cầu cơ quan đã khởi tố vụ án bổ sung cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ

để xem xét, quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án cũng như trình tự,

thời hạn thực hiện yêu cầu đó.

Thời điểm có hiệu lực pháp luật của quyết định khởi tố bị can

Việc BLTTHS năm 2003 qui định rõ thời điểm có hiệu lực của quyết định

khởi tố bị có hiệu lực trước hay sau khi được VKS phê chuẩn, một mặt vừa có ý

nghĩa tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm của hoạt động điều tra

khi mà có cơ sở pháp lý thực hiện các hoạt động điều tra ban đầu nhằm thu thập

chứng cứ, tạo ra “kênh” chuyển hóa chứng cứ có được từ hoạt động điều tra trinh

sát sang chứng cứ tố tụng, mặt khác vừa có ý nghĩa bảo vệ quyền và lợi ích chính

đáng của công dân khi bị tình nghi phạm tội.

Phê chuẩn quyết định khởi tố bị can

Về thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của VKS, cần xem xét,

đánh giá yếu tố tích cực hay tiêu cực đối với hoạt động điều tra. Qua khảo sát (phụ

lục 2.1 và 2.7), trên thực tế, VKS hầu hết phê chuẩn quyết định khởi tố bị can do

CQĐT ban hành và đề nghị phê chuẩn (chiếm khoảng dưới 0,5% tổng số bị can

hàng năm) nên có quan điểm cho rằng quyền năng này không những không phát

85

huy được tính chủ động và tinh thần trách nhiệm của CQĐT trong việc khởi tố bị

can mà trong nhiều trường hợp còn là sự hạn chế (can thiệp) đối với vị trí tố tụng

tương đối độc lập của CQĐT – cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một thực tế là quyền năng công

tố của VKS khi cùng với CQĐT thực hiện chức năng buộc tội theo qui định của

BLTTHS 2003 còn mang tính hình thức thể hiện qua hoạt động phê chuẩn quyết

định khởi tố bị can. Quyền lực công tố của VKS chỉ thực sự thể hiện trong quyết

định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ, trái pháp luật của CQĐT và chỉ được

bảo đảm bởi các chế tài bắt buộc thực hiện các mệnh lệnh, quyết định của VKS

đối với CQĐT được quy định cụ thể trong luật. Việc thiếu các quy định về chế tài

bắt buộc CQĐT thực hiện các mệnh lệnh, quyết định của VKS trong điều tra, giải

quyết vụ án hình sự là một bất cập của BLTTHS nói riêng và pháp luật tố tụng

hình sự nói chung. Bất cập này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả THQCT của VKS

cũng như chất lượng giải quyết vụ án hình sự.

Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Việc BLTTHS năm 2003 hiện chưa qui định hoạt động giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm kiến nghị khởi tố của CQĐT và VKS thành một giai đoạn

TTHS độc lập là một hạn chế lớn của pháp luật TTHS nước ta hiện nay, không chỉ

gây khó khăn cho hoạt động điều tra, khi làm rõ tính chất “ban đầu, sơ khởi” để

xác định các căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo qui định tại Điều 100, mà còn hạn

chế quyền năng của VKS trong việc phát động QCT do không “nắm chắc” quá

trình và kết quả hoạt động “điều tra ban đầu này”. Sự hạn chế này thể hiện qua các

vấn đề như quyền và nghĩa vụ của CQĐT chuyên trách cũng như các cơ quan

khác được giao thực hiện một số hoạt động điều tra và của VKS chưa rõ ràng,

chưa gắn kết với nhau; thời hạn thực thi nhiệm vụ tố tụng còn bất cập so với thực

tiễn hoạt động, thủ tục tố tụng chưa được qui định rõ và đầy đủ nên gây lúng túng

trong thực tiễn áp dụng. Do vậy, BLTTHS sửa đổi cần qui định về giai đoạn giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại Điều 103 hiện nay trở

thành giai đoạn đầu tiên của tiến trình TTHS. Trong đó, qui định rõ ràng và cụ thể

86

nhiệm vụ, quyền hạn, thời hạn, thủ tục của các Cơ quan tiến hành tố tụng nói

chung và của Cơ quan công tố nói riêng nhằm tạo tiền đề vững chắc cho việc tiến

hành hiệu quả các giai đoạn tố tụng tiếp theo.

2.1.2 Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC

Theo qui định của Điều 79 BLTTHS, có 6 BPNC có thể được áp dụng

trong TTHS nhưng trong điều tra vụ án hình sự (giai đoạn điều tra vụ án hình sự)

BPNC chỉ được áp dụng đối với cá nhân người phạm tội là bị can trong vụ án. Từ

góc độ THQCT trong việc quyết định việc áp dụng các BPNC, thấy rằng BLTTHS

năm 2003 hiện còn nhiều điểm chưa hợp lý, ví dụ như:

- Thiếu tính rõ ràng, rành mạch và tập trung trong qui định về các căn cứ áp

dụng, thẩm quyền áp dụng các BPNC. Điều này dẫn đến sự thiếu chặt chẽ, mạch

lạc trong cấu trúc của BLTTHS. Hạn chế này gây khó khăn cho việc tìm hiểu và

áp dụng pháp luật không chuyên, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến quyền tự bào chữa

của bị can, quyền bào vệ quyền lợi của mình của bị hại, người có quyền lợi và

nghĩa vụ liên quan. Cụ thể theo quy định của BLTTHS năm 2003, thẩm quyền áp

dụng BPNC được qui định tại khoản 1, Điều 80, quy định này được sự dụng để

xác định thêm ở một loạt điều, khoản khác của BLTTHS năm 2003 như khoản 3,

Điều 88; khoản 2, Điều 91; khoản 3, Điều 92; khoản 2, Điều 93. Cách qui định

như vậy về thẩm quyền áp dụng, thay đổi BPNC của BLTTHS năm 2003 là chưa

rõ ràng, mạch lạc, rất khó tra cứu, gây khó khăn đối với người tham gia tố tụng,

đặc biệt là những người không có kiến thức chuyên môn về luật.

- Ngoài các BPNC, BLTTHS năm 2003 chưa qui định rõ ràng và đầy đủ về

căn cứ, thẩm quyền, điều kiện áp dụng, đối tượng bị áp dụng, quyền và nghĩa vụ

của người có thẩm quyền ra lệnh áp dụng cũng như người bị áp dụng,...đối với các

biện pháp cưỡng chế trong TTHS. Ví dụ như: Bắt buộc phải có mặt theo giấy triệu

tập (Điều 129, 133); Áp giải (Điều 130); Dẫn giải (Điều 134); và chưa qui định

các biện pháp cưỡng chế như: Kê biên tài sản; Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng,

tổ chức tín dụng khác hoặc kho bạc nhà nước; Tạm hoãn xuất cảnh; Phạt tiền….

Đây là những biện pháp mang tính bắt buộc do Cơ quan có thẩm quyền tiến hành

87

đối với các chủ thể tham gia trong hoạt động tố tụng để đảm bảo việc thu thập

chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội, đảm bảo điều kiện cần thiết để tiến hành

tố tụng... được hiệu quả và kịp thời. Thực tế áp dụng pháp luật hình sự ở nhiều

quốc gia trên thế giới cho thấy những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng như: đã

tạo rất nhiều thuận lợi cho các hoạt động tiến hành tố tụng thông qua tính cưỡng

chế, bắt buộc của thủ tục TTHS. Đồng thời, các biện pháp này cũng là giải pháp hữu hiệu để hạn chế nguy cơ lạm dụng BPNC tạm giam.

- BLTTHS năm 2003 qui định các BPNC bắt người theo các trường hợp

khác nhau như bắt bị can để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt

người đang bị truy nã tại Điều 80, 81,82 là chưa rõ về phạm vi và căn cứ áp dụng.

Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy đối tượng bị áp dụng BPNC bắt có thể là

người bị tình nghi phạm tội chưa bị khởi tố bị can hoặc là bị can. Sự khác biệt về

đối tượng áp dụng dẫn đến tính chất, khối lượng hoạt động của CQĐT sẽ khác

nhau và áp lực nhiệm vụ sẽ không giống nhau. Vì vậy cách quy định chung như

nhau đối với BPNC này đối với các đối tượng áp dụng khác nhau là chưa phù hợp

và tạo sự bất cập, khó áp dụng trong thực tiễn.

Điều 79 BLTTHS năm 2003 qui định bắt là một BPNC độc lập. Tuy nhiên,

tại một số điều luật tiếp sau đó, BLTTHS năm 2003 lại gắn kết các mục đích tố

tụng như tạm giam, trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang… vào BPNC này.

Việc gắn kết các mục đích tố tụng vào BPNC bắt như quy định của BLTTHS năm

2003 là chưa thực sự hợp lý, chưa bao quát hết các trường hợp bắt trên thực tế.

Thực tiễn cho thấy BPNC bắt không bao giờ được thực hiện riêng lẻ mà luôn luôn

có một BPNC khác hoặc một hình thức cưỡng chế khác áp dụng ngay sau đó.

Trong điều tra vụ án hình sự, BPNC bắt bị can để tạm giam được thực hiện đối

với bị can không bị áp dụng BPNC có hạn chế về quyền tự do nhân thân trước đó

với nhiều nguyên nhân khác nhau, hiện có dấu hiệu bỏ trốn gây khó khăn cho việc

điều tra, truy tố hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Trong một số trường hợp, việc áp dụng

BPNC bắt chỉ nhằm mục đích là sự cưỡng chế về quyền tự do nhân thân người

phạm tội trong một thời gian ngắn để thực một yêu cầu cụ thể liên quan đến hoạt

88

động tố tụng, không nhất thiết là để tạm giữ, tạm giam (ví dụ như áp giải bị can tại

ngoại, áp giải người làm chứng để lấy lời khai, lấy cung, bắt buộc chữa bệnh…).

Trong thực tế tiến hành tố tụng, hoạt động bắt người phạm tội là một hoạt động tố

tụng phổ biến và là tiền đề thực hiện cho nhiều hoạt động tố tụng khác và được áp

dụng trong nhiều giai đoạn tố tụng.

- Về việc áp dụng BPNC tạm giữ theo qui định của BLTTHS năm 2003,

được áp dụng rất phổ biến trong TTHS. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, chỉ

có một trường hợp áp dụng BPNC tạm giữ đối với người đang bị truy nã. Các

trường hợp tạm giữ khác thuộc giai đoạn điều tra trước đó nhằm giải quyết nhiệm

vụ khởi tố vụ án hình sự. Kết quả khảo sát cho thấy (phụ lục 2.2), tỉ lệ người có

hành vi phạm pháp hình sự bị bắt, bị áp dụng BPNC tạm giữ hầu như đạt 100% và

tỉ lệ người bị tạm giữ bị khởi tố bị can cũng rất cao, đa số đạt tỉ lệ từ 95,1% (năm

2005) đến 96,3 % (năm 2010) riêng năm 2009 chỉ đạt tỉ lệ 91,2 %. Như vậy, có

khoảng từ 4,7% đến 9,9% tổng số người bị tạm giữ sẽ được chuyển sang hình thức

truy cứu trách nhiệm hành chính hoặc được xác định không phạm tội. Thêm vào

đó, tỉ lệ từ chối phê chuẩn việc áp dụng BPNC bắt tạm giam và BPNC tạm giam

so với tổng số phê chuẩn tạm giam của VKS các cấp hàng năm rất thấp, chỉ dao

động từ 0,78% (năm 2005) xuống 0,27% (năm 2009, 2010). Tuy nhiên, không

phải vì mức độ vi phạm pháp luật thấp của CQĐT trong việc áp dụng BPNC tạm

giữ mà không cần qui định việc áp dụng phải được VKS phê chuẩn. Do đó,

BLTTHS năm 2003 qui định việc áp dụng BPNC tạm giữ không cần phê chuẩn

của VKS là một trong những qui định chưa chặt chẽ trong việc ngăn ngừa sự lạm

dụng và phù hợp với xu hướng bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người của pháp luật nước ta hiện nay.

Về thời hạn tạm giữ theo qui định của Điều 86, 87 BLTTHS năm 2003, cần

chú ý đảm bảo tốt hơn quyền tự do về thân thể của công dân. Do đó để đảm bảo sự

phù hợp của BLTTHS với thủ tục hành chính, nâng cao tính linh hoạt, hiệu quả

của hoạt động điều tra trong việc phân loại, xử lý, phòng chống tội phạm thì

BLTTHS cần có qui định thời hạn tạm giữ và gia hạn tạm giữ là 48 giờ.

89

Vấn đề gia hạn tạm giữ, BLTTHS cần có qui định gia hạn tạm giữ trên địa

bàn miền núi, hải đảo, biên giới và cần qui định rõ căn cứ gia hạn tạm giữ lần thứ

2 “trong trường hợp đặc biệt” (khoản 2, Điều 87 BLTTHS năm 2003) để thuận lợi và tránh tuỳ tiện trong áp dụng.

- Một trong những định hướng cải cách tư pháp đối với hoạt động của

CQĐT và VKS trong điều tra vụ án hình sự là hạn chế áp dụng BPNC tạm giam,

tăng cường áp dụng các BPNC khác như: Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh, Đặt

tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm... một mặt nhằm mục tiêu bảo đảm sự tôn

trọng, bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người của cá nhân người bị tình nghi

phạm tội, mặt khác góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Tổng

kết thực tế áp dụng pháp luật trong thời gian vừa qua (phụ lục 2.2), cho thấy tổng

số người bị tạm giam trong tố tụng rất cao, không có xu hướng giảm (2005:

92.368 người; 2006: 105.094 người; 2007: 107.999 người; 2008: 120.999 người;

2009: 135.021 người; 2010: 126.807 người; 2011:139.511 người; 2012: 139.592

người; 2013: 135.463 người) và sau khi bị áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam chỉ

có khoản từ 7,2% -10,1% được chuyển sang việc áp dụng các BPNC khác. Có thể

dẫn chứng 01 ví dụ mang tính minh hoạ như sau: Chỉ tính riêng việc bảo đảm

lượng gạo theo qui định hiện hành của Chính phủ về chế độ đối với bị tạm giữ,

tạm giam là 15kg/01người /01 tháng, với giá gạo thấp nhất được qui định là

10.000 đồng/ 01 kg, cho tổng số lượng người bị tạm giữ trung bình tối thiểu hàng

năm 50 ngàn người trong thời hạn tạm giữ tối thiểu là 03 ngày và cho tổng số

lượng người bị tạm giam trung bình tối thiểu hàng năm là 100 ngàn người trong

thời hạn tạm giam tối thiểu là 02 tháng, thì ngân sách Nhà nước 01 năm phải chi là

30.750.000.000 đồng. Thực tế chi phí này rất lớn, bởi việc duy trì chế độ tạm giữ,

tạm giam như hiện nay thì chi phí tiền gạo ăn cho người bị tạm giữ, tạm giam chỉ

chiếm một phần nhỏ.

Để mở rộng việc áp dụng các BPNC khác thay cho BPNC tạm giam nhưng

vẫn bảo đảm sự thuận tiện, hiệu quả cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi

hành án thì phải sửa đổi bổ sung qui định của BLTTHS hiện hành về căn cứ áp

90

dụng, trình tự thực hiện, chế tài đối với cá nhân người được áp dụng BPNC và cá

nhân bảo lĩnh người bị tình nghi phạm tội.

Đối với BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú theo qui định của Điều 91 BLTTHS

hiện hành thì cần xác định chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, tội

danh mà họ có thể bị áp dụng hình phạt khác ngoài hình phạt tù có thời hạn và có

khả năng được hưởng chế định án treo. Điều luật cần duy trì qui định buộc người

được áp dụng PBNC này phải làm giấy cam đoan thực hiện nghĩa vụ khi được bảo

lĩnh nhằm nâng cao trách nhiệm của bị can và tạo cơ sở về “tình, lý” cho việc xử

lý bị can khi vi phạm.

Đối với BPNC bảo lĩnh theo Điều 92 BLTTHS, cần xác định căn cứ áp

dụng là người phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng và không nên qui định đây

là BPNC được áp dụng một cách độc lập, riêng lẻ. Bởi thực tế, với ý nghĩa và bản

chất của việc bảo lĩnh của cá nhân, tổ chức đối với hành vi của cá nhân người

phạm tội thì khó có thể qui trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức bảo lĩnh khi

người phạm tội tiếp tục phạm tội, bỏ trốn nên trên thực tế, BPNC bảo lĩnh thường

không được áp dụng riêng lẻ mà luôn được CQĐT, VKS áp dụng song song với

BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú khi giải quyết đơn bảo lĩnh của cá nhân, tổ chức. Do

vậy, cần có qui định kết hợp thực hiện BPNC bảo lĩnh với BPNC khác (đặt tiền

hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm) hoặc sẽ phải chịu biện pháp cưỡng chế nào đó

khi bị can vi phạm nghĩa vụ cam kết để đảm bảo hiệu quả tiến hành tố tụng của

việc áp dụng BPNC.

Đối với BPNC đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm theo Điều 93

BLTTHS năm 2003, từ khi Thông tư liên tịch số 17/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-

BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 14/11/2013 (gọi tắt là Thông tư 17) ra đời, đã

tháo gỡ vướng mắc lớn nhất trong việc áp dụng qui định này của BLTTHS đối với

CQĐT và VKS. Đó là căn cứ để xác định đối tượng áp dụng và mức tiền cần phải

được đặt để bảo đảm sự tham gia tố tụng của bị can. Tuy nhiên, qui định của

BLTTHS năm 2003 và Thông tư 17 còn một số vấn đề hạn chế sau:

91

Phạm vi quy định về đối tượng và điều kiện để bị can được cho phép đặt

tiền để bảo đảm thay thế cho biện pháp tạm giam còn hẹp, nên mở rộng đến những

đối tượng là người phạm tội xâm phạm sở hữu, tội phạm kinh tế, tham nhũng từ

rất nghiêm trọng trở xuống hoặc người phạm tội khác từ nghiêm trọng trở xuống

khi họ đã khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội.

Mức đặt tiền để bảo đảm (20 triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng,

80 triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng; 200 triệu đồng đối với tội phạm rất

nghiêm trọng) được xem là chưa hợp lý khi tính đến yếu tố vùng miền, vị trí xã

hội của người phạm tội, yếu tố lạm phát, trượt giá của tiền tệ và yêu cầu, mục đích

của BPNC theo qui định của BLTTHS. Do vậy, cần lấy mức lương tối thiểu được

Nhà nước qui định tại từng vùng miền, từng thời điểm kết hợp với tính chất, mức

độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để quyết định số lượng tiền cần đặt để bảo

đảm, sẽ hợp lý về qui định của luật và khả thi trong thực tiễn áp dụng.

Cơ chế quản lý người đặt tiền để bảo đảm chưa được qui định rõ nên gây

khó khăn khi tổ chức thực hiện.

- Vấn đề tịch thu sung công tuy đã được qui định nhưng chưa có qui định

tiền hoặc tài sản có giá trị được đặt để bảo đảm được dùng để chi trả chi phí tố

tụng liên quan đến việc người đặt tiền bỏ trốn nên làm giảm ý nghĩa thực tiễn tích

cực của qui định này của pháp luật.

- Vấn đề thẩm quyền phê chuẩn của VKS đối với quyết định áp dụng các

BPNC của CQĐT, qua thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay của VKS, thấy còn

một số vấn đề chưa hợp lý sau:

Việc áp dụng các BPNC trong TTHS nước ta không chỉ do Cơ quan công

tố hay tòa án trực tiếp ban hành như các nước theo truyền thống tố tụng thẩm vấn

hay truyền thống tố tụng tranh tụng mà tuyệt đại đa số quyết định áp dụng BPNC

do CQĐT ban hành sau đó được chuyển sang VKS phê chuẩn để có hiệu lực pháp

luật. Trên thực tế, VKS thực hiện hoạt động phê chuẩn này thông qua quá trình

kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoạt động điều tra và hầu hết VKS quyết định

phê chuẩn áp dụng BPNC. VKS thường chỉ quyết định không phê chuẩn việc áp

92

dụng PBNC khi không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Do vậy, hoạt động

phê chuẩn này nhiều trường hợp chưa thực sự là cần thiết và chỉ là hình thức trong

trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ phạm tội đầy đủ, rõ ràng. Vấn đề đặt ra

là, trong các trường hợp này, cần có qui định một cách rõ ràng, giản tiện về thủ

tục, hình thức áp dụng BPNC để có thể thực hiện nhanh nhất, tránh kéo dài thời

hạn phê chuẩn.

- Vấn đề hủy bỏ hoặc thay thế BPNC theo qui định của Điều 94 BLTTHS

2003, thì giữa Khoản 1 và Khoản 2 Điều 94 BLTTHS qui định khi vụ án được

đình chỉ (đối với vụ án không bị VKS hủy bỏ quyết định đình chỉ) thì mọi BPNC

đã áp dụng bị hủy bỏ với thẩm quyền hủy bỏ, thay thế BPNC của VKS. Qui định

này thể hiện sự chưa chặt chẽ dẫn đến còn có những cách hiểu và tổ chức thực

hiện trên thực tế khác nhau giữa CQĐT và VKS. Vấn đề đặt ra là Điều 94

BLTTHS năm 2003 cần được xây dựng lại để khẳng định rõ ràng tinh thần của

BLTTHS.

Một vấn đề khác, cần qui định cụ thể, rõ hơn về căn cứ hủy bỏ, thay đổi

BPNC theo qui định tại khoản 2, Điều 94 BLTTHS năm 2003, theo hướng “khi

thấy không còn cần thiết ngăn chặn người phạm tội tiếp tục phạm tội, bỏ trốn” thì

hủy bỏ, thay thế BPNC có tính chất ít nghiêm khắc hơn đối với quyền lợi của

người bị áp dụng BPNC. BLTTHS năm 2003 không nên qui định căn cứ thay đổi,

hủy bỏ BPNC một cách chung chung như hiện nay là “thấy không còn cần thiết”

thay vào đó cần qui định cụ thể trường hợp huỷ bỏ chũng như thay đổi BPNC để

tránh sự tuỳ tiện, thậm chí tiêu cực.

Một qui định khác của BLTTHS năm 2003 liên quan đến vấn đề áp dụng

BPNC nhưng kém hiệu quả vì khó áp dụng trên thực tế. Đó là việc qui định trách

nhiệm chăm sóc con chưa thành niên dưới 14 tuổi, người thân thích tàn tật, già

yếu, nhà hoặc tài sản của người phạm tội bị áp dụng BPNC tại Điều 90. Việc thực

hiện qui định này đặt ra một loạt vấn đề như: Đối tượng, điều kiện, quyền và nghĩa

vụ của cá nhân, tổ chức được giao trách nhiệm này,...chưa được qui định rõ ràng

khiến nó ít có giá trị trên thực tiễn, cần phải được sửa đổi.

93

2.1.3 Đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra

Đề ra yêu cầu điều tra

Khoản 3 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 112, BLTTHS

năm 2003 quy định việc đề ra yêu cầu điều tra đối với CQĐT là nhiệm vụ, quyền

hạn của VKS khi thực hành quyền công trong giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, quyền

năng này, do cách thức diễn đạt của Điều 114 BLTTHS năm 2003 chưa được rõ

ràng là nếu CQĐT không nhất trí thì vẫn phải chấp hành ngay nên trên thực tế vẫn

còn tình trạng chậm hoặc không được thi hành nếu CQĐT có lý do cho rằng yêu

cầu điều tra của VKS là không xác đáng và khả thi. Mặt khác, yêu cầu điều tra

chưa được BLTTHS hiện hành xác định rõ được thực hiện bằng hình thức gì mà

chỉ được qui định có thể thực hiện bằng văn bản hoặc lời nói tại Quy chế Công tác

THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự

(được ban hành kèm theo Quyết định số 07/200/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của

Viện trưởng VKSNDTC). Sự chưa rõ ràng trong qui định về quyền năng THQCT

này của Luật đã gây ra sự lúng túng, khó khăn cho Kiểm sát viên trong việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng của mình. Trên thực tế, chất lượng, hiệu quả của

hoạt động đề ra yêu cầu điều tra phụ thuộc rất lớn vào năng lực, trình độ của Kiểm

sát viên đối với nghiệp vụ điều tra.

Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra

Theo qui định của BLTTHS năm 2003, trong giai đoạn điều tra, VKS có

quyền trực tiếp hỏi cung bị can (khoản 3, Điều 131), lấy lời khai người làm chứng

(khoản 6, Điều 135), tiến hành đối chất (khoản 5, Điều 138), trong những trường

hợp cần thiết. Trường hợp như qui định này của Luật cũng là một qui định chưa

chặt chẽ, gây khó khăn, lúng túng cho thực tiễn áp dụng. Theo qui định tại Điều

14, Thông tư liên tịch số 05/2005 TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005

và Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2014 trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,

VKS chỉ trực tiếp hỏi cung, lấy lời khai người tham gia tố tụng khi:

+ Lời khai của bị can có mâu thuẫn; bị can kêu oan, khiếu nại về việc điều

tra; bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Khi cần hỏi cung, Kiểm sát viên

94

cần báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng và thông báo trước cho Thủ trưởng,

Phó Thủ trưởng CQĐT;

+ Để đảm bảo việc xét phê chuẩn các quyết định của CQĐT. Khi triệu tập

và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Kiểm sát viên thông báo trước

cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT về thời gian, địa điểm tiến hành việc lấy

lời khai;

Nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai của bị can, người bị hại, người làm

chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

đến vụ án, Kiểm sát viên tiến hành đối chất nếu có yêu cầu của CQĐT hoặc thấy

việc đối chất của Điều tra viên chưa làm rõ được mâu thuẫn. Khi cần phải đối

chất, Kiểm sát viên phải thông báo trước với Điều tra viên.

Như vậy, về mặt qui định, BLTTHS năm 2003 tuy chưa chặt chẽ nhưng

không hạn chế quyền năng tự tiến hành một số hoạt động điều tra của VKS nhưng

văn bản pháp qui dưới luật đã hạn chế mạnh quyền năng này của VKS ở hai khía

cạnh: Hạn chế chỉ ở một loại hình điều tra lấy lời khai, hỏi cung (bao gồm cả việc

đối chất vì thực chất đây là việc lấy lời khai nhiều diện người tham gia tố tụng) và

phải thông báo trước cho Lãnh đạo CQĐT và Điều tra viên.

Vấn đề cần phải quan tâm là giá trị chứng minh của hoạt động điều tra này

của VKS như thế nào so với hoạt động điều tra của CQĐT? Đặc biệt là trong

trường hợp chúng phủ định lẫn nhau, nhất là trong bối cảnh CQĐT là chủ thể

chính của giai đoạn điều tra vụ án hình sự, sẽ thực hiện hoạt động điều tra ngay

sau khi VKS đã trực tiếp thực hiện hoạt động điều tra thì phạm vi giá trị chứng

minh của hoạt động điều tra do VKS trực tiếp thực hiện cần phải được qui định cụ

thể để đảm bảo sự thông suốt, mạch lạc cho hoạt động tố tụng chức năng của VKS

và CQĐT.

Trên thực tế, do BLTTHS không có qui định bắt buộc nên trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự, tồn tại một thực trạng là Kiểm sát viên rất ít khi trực tiếp

tiến hành hoạt động điều tra lấy lời khai, hỏi cung, đối chất mà chỉ thụ động đợi

95

cho CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ sang thì sẽ sử dụng quyền trả hồ sơ để

điều tra bổ sung để giải quyết mâu thuẫn (nếu có) trong kết quả điều tra vụ án và

nếu thực hiện việc điều tra trực tiếp thì chỉ thực hiện trong trường hợp xét phê

chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng các BPNC của CQĐT.

2.1.4 Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT;

yêu cầu CQĐT truy nã bị can

Theo qui định của BLTTHS năm 2003, VKS có quyền hủy bỏ bất cứ quyết

định nào của CQĐT nếu xét thấy chúng được ban hành không có căn cứ và trái

với qui định của BLHS, BLTTHS. Tuy nhiên, trên thực tế, việc VKS thực hiện

quyền này bị hạn chế về phạm vi (tại các thời điểm cụ thể trong giai đoạn điều tra)

và đối tượng (loại quyết định tố tụng của CQĐT).

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS chỉ thực hiện việc hủy bỏ tại

các thời điểm mà hồ sơ vụ án, theo qui định của BLTTHS năm 2003 được chuyển

đến VKS để tiến hành các hoạt động nghiệp vụ kiểm sát như phê chuẩn quyết định

khởi tố bị can, việc áp dụng, thay đổi, gia hạn BPNC. Các quyết định tố tụng khác

của CQĐT như: Quyết định phân công Điều tra viên thụ lý vụ án, quyết định áp

dụng các BPNC không cần VKS phê chuẩn, quyết định trưng cầu giám định,

quyết định giải quyết khiếu nại, nếu có trái pháp luật, VKS không thể nắm bắt

thông tin kịp thời để thực hiện quyền hủy bỏ hay yêu cầu CQĐT hủy bỏ. VKS chỉ

có thể kiểm tra và bảo đảm tính pháp chế của hoạt động điều tra khi kết thúc điều

tra chuyển sang giai đoạn quyết định việc truy tố.

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS chủ động hủy bỏ quyết định

không khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, quyết định tạm giữ là phổ

biến khi phát hiện việc ban hành không có căn cứ và vi phạm pháp luật. Các quyết

định áp dụng BPNC chỉ bị hủy bỏ trong trường hợp VKS quyết định không phê

chuẩn quyết định khởi tố bị can. Các quyết định tố tụng khác, nếu phát hiện có vi

phạm pháp luật trong việc ban hành, hầu hết trong mọi trường hợp, VKS sẽ không

hủy bỏ ngay mà yêu cầu CQĐT tự khắc phục và chỉ thực hiện quyền hủy bỏ của

mình trong giai đoạn quyết định việc truy tố khi CQĐT không thực hiện yêu cầu.

96

Theo số liệu thống kê, từ 2004 - 2013, trên phạm vi toàn quốc, VKSND hai cấp đã

hủy bỏ 648 quyết định khởi tố vụ án hình sự và 590 quyết định không khởi tố vụ

án hình sự trên tổng số thụ lý 719.940 vụ án hình sự; hủy bỏ 590 quyết định khởi

tố bị can trên tổng số 1.113.207 bị can; hủy bỏ 2.467 trường hợp tạm giữ trên tổng

số 6.000.010 trường hợp tạm giữ. Số liệu thống kê phản ánh thực trạng VKS chỉ

có thể thực hiện một cách có hiệu quả hoạt động hủy bỏ quyết định tố tụng không

có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT chỉ khi BLTTHS qui định một cách cụ thể,

mạnh mẽ về trách nhiệm, quyền hạn của VKS đối với việc ban hành các quyết

định này của CQĐT như trong lĩnh vực khởi tố vụ án, khởi tố bị can; áp dụng,

thay đổi, hủy bỏ BPNC.

Qua nghiên cứu thực tiễn thực hiện hoạt động của VKS theo qui định của

khoản 5, Điều 112 BLTTHS về việc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và

trái pháp luật của CQĐT; yêu cầu CQĐT truy nã bị can đối với các hoạt động của

CQĐT được qui định tại Điều 160, 161, 162, 164, 165, xuất hiện một số vấn đề

chưa hợp lý như: Việc khoản 1, Điều 160 qui định về một trong những căn cứ tạm

đình chỉ là “.....Chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu

thì chỉ tạm đình chỉ khi đã hết hạn điều tra” là chưa phù hợp với thực tế. Bởi có

trường hợp CQĐT xác định được bị can nhưng không tiến hành truy bắt để điều

tra. Thực tế còn phổ biến trường hợp có vụ án xảy ra nhưng không thể xác định

được bị can, do CQĐT đã để hết thời hạn điều tra (kể cả gia hạn) mà không tiến

hành bất cứ hoạt động điều tra nào. Đây chính là sự không có giá trị thực tiễn

trong qui định của BLTTHS năm 2003 do không qui định rõ ràng nhiệm vụ của

CQĐT. Ngoài ra, khoản 2, Điều 160 BLTTHS năm 2003 chỉ qui định CQĐT có

nhiệm vụ gửi quyết định tạm đình chỉ điều tra cho VKS, bị can, bị hại mà không

qui định rõ nghĩa vụ gửi ngay quyết định này cùng hồ sơ vụ án cho VKS để thực

hiện việc giám sát, cũng là sự chưa đầy đủ của BLTTHS, chưa đảm bảo hiệu quả

thực hiện nhiệm vụ “xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội”.

97

Điều 161 BLTTHS năm 2003 không qui định quyết định truy nã bị can

phải được gửi cho VKS để có căn cứ thực hiện quyền năng được qui định tại

khoản 5, Điều 112 cũng là một hạn chế.

Điều 162 BLTTHS năm 2003 không qui định trước khi kết thúc điều tra,

CQĐT phải thống nhất với VKS về việc thực hiện các yêu cầu điều tra, phương

hướng điều tra, kết quả điều tra, đánh giá những gì đã điều tra là sự chưa hợp lý,

làm giảm hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật của VKS. Vì có chủ động nắm chắc, toàn diện tiến trình và kết quả điều

tra, VKS sẽ thực hiện có hiệu quả hơn các quyền năng công tố cụ thể bao gồm cả

quyền hủy bỏ quyết định trái pháp luật, không có căn cứ của CQĐT.

Việc khoản 4, Điều 164 BLTTHS năm 2003 qui định về thời hạn VKS

quyết định việc hủy bỏ hay không quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT là 15

ngày là chưa hợp lý và chưa phù hợp với qui định về thời hạn quyết định truy tố

của VKS tại Điều 166 BLTTHS năm 2003, với thời hạn thấp nhất là 20 ngày và

cao nhất là 60 ngày khi được gia hạn. Để bảo đảm tính hợp lý và tính đồng bộ

trong qui định về thời hạn của các hoạt động tố tụng của VKS, thời hạn quyết định

hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT và ra quyết định truy tố phải được

qui định trong phạm vi thời hạn được qui định tại Điều 166 BLTTHS năm 2003.

Việc khoản 2, Điều 165 qui định trường hợp người phạm tội “tự nguyện”

chịu trách nhiệm hình sự khi có căn cứ được qui định tại điểm 5 và 6, Điều 107

(đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm được đại xá) thì CQĐT

hoặc VKS ra quyết định phục hồi điều tra là một bất hợp lý và trái với bản chất

của quan hệ pháp luật hình sự (quan hệ giữa Nhà nước với cá nhân công dân thực

hiện hành vi vi phạm pháp luật được xác định là tội phạm). Thực tế chưa thấy có

việc áp dụng qui định này trên thực tiễn, do vậy nên bỏ qui định này trong

BLTTHS năm 2003.

Về căn cứ phục hồi điều tra tại khoản 1 Điều 165 BLTTHS năm 2003 là

“Khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ”, được xem là chưa

98

toàn diện và đầy đủ vì chưa bao quát các trường hợp lý do tạm đình chỉ tự mất

hiệu lực như bị can phục hồi sức khỏe, bị bắt theo quyết định truy nã, tự thú,…

2.1.5 Thủ tục rút gọn

Về mặt ý nghĩa, thủ tục rút gọn trong TTHS (Chương XXXIV BLTTHS

2003) là trong những trường hợp có thể thì hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được

rút ngắn về thời hạn, đơn giản về thủ tục nhằm đảm bảo hiệu quả trấn áp, răn đe

của pháp luật, làm “giảm tải” cho các cơ quan tiến hành tố tụng, giảm bớt gánh

nặng cho ngân sách, hạn chế đến mức thấp nhất về hậu quả bất lợi đối với bị can,

bị cáo gây ra bởi tiến trình TTHS thông thường. VKS có vai trò quyết định việc áp

dụng thủ tục rút gọn trong điều tra vụ án hình sự, theo đề nghị của CQĐT. Tuy

nhiên, BLTTHS hiện hành có những qui định chưa hợp lý về thủ tục rút gọn trong điều tra vụ án hình sự, nên VKS chưa thể THQCT đạt được mục tiêu, ý nghĩa này

[2],[59], cụ thể:

Việc Điều 319 BLTTHS năm 2003 qui định một trong những điều kiện áp

dụng thủ tục rút gọn là chỉ áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng. Tuy nhiên,

trên thực tế có rất ít loại tội phạm này xảy ra mà có hội đủ các điều kiện áp dụng

khác như bị bắt quả tang, sự việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng, căn cước và lai lịch

người phạm tội rõ ràng. Trong khi đó, loại tội phạm có khung hình phạt từ trên 03

năm đến 07 năm tù (tội phạm nghiêm trọng) có hội đủ các điều kiện áp dụng thủ

tục rút gọn khác được qui định lại xảy ra tương đối phổ biến.

Việc khoản 1, Điều 320 BLTTHS năm 2003 qui định VKS có quyền quyết

định áp dụng thủ tục rút gọn là chưa hợp lý, chưa đảm bảo tính “gọn” của hoạt

động điều tra theo thủ tục này mà nên qui định quyền hủy bỏ của VKS đối với

quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của CQĐT nếu thấy không có đủ căn cứ áp

dụng. Bên cạnh đó, khoản 3, Điều 320 BLTTHS năm 2003 qui định quyết định áp

dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại bởi bị can hoặc người đại diện hợp pháp

của họ, là đã tạo thêm một khả năng hạn chế việc áp dụng thủ tục này.

Về thời hạn tạm giữ, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, thời hạn điều tra,

thời hạn quyết định việc truy tố theo thủ tục rút gọn được qui định tại các Điều

99

321, 322, 323 BLTTHS năm 2003 cũng cần phải qui định lại cho phù hợp với điều

kiện điều tra, truy tố hiện nay ở nước ta.

2.2. Một số vấn đề từ thực trạng kiểm sát điều tra vụ án h nh sự

2.2.1 Kiểm sát các hoạt động điều tra

Theo qui định của BLTTHS năm 2003, hoạt động điều tra vụ án hình sự

gồm: Hỏi cung bị can; Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn

dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất

và nhận dạng; Khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; Khám nghiệm hiện

trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra,

giám định. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, tác giả luận án lựa chọn việc nghiên

cứu thực trạng hoạt động KSĐT theo trình tự tiến hành tố tụng và nghiên cứu theo

nhóm các hoạt động có cùng tính chất, đối tượng, phạm vi tác động, để làm rõ các

hạn chế hiện hữu của chúng.

Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu

vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định

Khám nghiệm hiện trường (Điều 150 BLTTHS năm 2003), khám nghiệm

tử thi (Điều 151 BLTTHS năm 2003) là hoạt động nghiệp vụ trong TTHS, do các

cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành, là "gốc" và "xuất phát điểm" của mọi hoạt

động điều tra, khám phá vụ án hình sự. Trên thực tiễn, nhiều vụ án đặc biệt

nghiêm trọng đòi hỏi phải tiến hành KNHT hoặc KNTT trong giai đoạn điều tra

như các vụ án vi phạm luật giao thông, giết người, bị cấp tòa án cấp phúc thẩm

hủy, tuyên vô tội, đều liên quan đến vi phạm tố tụng trong việc khám nghiệm hiện

trường, tử thi [6], [57]. Tuy nhiên, qui định hiện nay của Điều 150 và 151

BLTTHS 2003 còn thiếu chặt chẽ và còn một số điểm bất hợp lý, dẫn đến trên

thực tiễn còn nhiều vấn đề bất cập, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện, cụ thể:

Điều 150 qui định KNHT có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án nhưng

không qui định KNHT được thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án trong những

trường hợp nào; Điều 151 không qui định KNTT có thể thực hiện trước khi khởi

tố vụ án. Điều này chưa phù hợp với thực tế vì KNHT và KNTT chủ yếu được

100

thực hiện ngay trong giai đoạn điều tra ban đầu, trước khi khởi tố vụ án, nhằm thu

thập nhanh chóng ngay những dấu vết có giá trị chứng minh tội phạm. Sự chưa rõ

ràng về phạm vi tiến hành hoạt động điều tra này gây khó khăn cho cả hoạt động

điều tra và hoạt động KSĐT của VKS.

Việc khám nghiệm do Hội đồng khám nghiệm được thành lập và thực hiện

nhưng việc thành lập, tên gọi, quyền và nghĩa vụ của Hội đồng khám nghiệm cũng

như của từng thành viên không được Điều 150, 151 BLTTHS qui định. Trong

những trường hợp đòi hỏi kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn, việc khám nghiệm

phải mời nhà chuyên môn tiến hành chứ không chỉ dừng lại ở mức độ mời tham

dự như qui định của khoản 2, Điều 150 BLTTHS hiện hành. Bên cạnh đó,

BLTTHS hiện hành chưa có qui định người bào chữa có quyền tham dự cuộc

khám nghiệm để đảm bảo tính khách quan, giá trị chứng minh của kết quả khám

nghiệm cũng như để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội.

Thực tế, hoạt động KNHT do Điều tra viên tham gia với tư cách chủ trì

cuộc khám nghiệm nhưng mọi cuộc KNHT không thể thiếu giám định viên kỹ

thuật hình sự của Cơ quan công an là người trực tiếp thực hiện các thao tác khám

nghiệm theo qui định của khoản 3, Điều 150 BLTTHS. Tương tự, trong hoạt động

KNTT, người trực tiếp thực hiện khám nghiệm tử thi là Bác sĩ pháp y hoặc giám

định viên kỹ thuật hình sự của Cơ quan công an và thường được sự giúp đỡ việc

mổ xẻ tử thi từ nhân viên nhà tang lễ. Tuy nhiên, BLTTHS không qui định về

trách nhiệm, nghĩa vụ của những người này.

BLTTHS 2003 đã không qui định rõ, cụ thể quyền hạn, nhiệm vụ của Kiểm

sát viên khi tham gia giám sát hoạt động khám nghiệm (như quyền được thông

báo cụ thể thời gian, địa điểm tiến hành khám nghiệm, quyền yêu cầu điều tra,

quyền nhận xét, đánh giá về việc tuân theo pháp luật trong cuộc khám nghiệm)

khiến cho sự tham gia của VKS trở nên mờ nhạt và bị vi phạm trên thực tế.

Kiểm sát việc xem xét dấu vết trên thân thể

Vấn đề xem xét dấu vết trên thân thể của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị

hại, người làm chứng, ngoài mục đích nhanh chóng, kịp thời thu thập chứng cứ

101

chứng minh tội phạm còn có mục đích xác định, đánh giá các tổn hại ban đầu đối

với tính mạng, sức khoẻ của bị hại, của người phạm tội (có thể có trong quá trình

bắt, giữ), nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa hậu quả xấu có thể

xảy ra đối với tính mạng, sức khoẻ người bị hại, người phạm tội. Điều 152

BLTTHS năm 2003 chỉ giao cho Điều tra viên có quyền tiến hành xem xét dấu vết

trên thân thể mà không trao thêm quyền này cho những người có nhiệm vụ quản

lý người bị tạm giữ của Cơ quan cảnh sát hỗ trợ tư pháp là chưa hợp lý, chưa đảm

bảo được mục đích, ý nghĩa của điều luật trên thực tiễn và đảm bảo giá trị chứng

minh của hoạt động điều tra này do Điều tra viên thực hiện trong giai đoạn điều

tra. Ngoài ra, Điều 152 mới dừng lại ở mức độ khuyến nghị “không xâm hại danh

dự, nhân phẩm hoặc sức khỏe của người bị xem xét thân thể”, cho nên tác giả luận

án cho rằng cần thể hiện ở mức độ mạnh mẽ hơn với mức độ “cấm mọi hành vi

xâm hại danh dự, nhân phẩm hoặc sức khỏe của người bị xem xét thân thể”.

Kiểm sát thực nghiệm điều tra

Mặc dù theo qui định của Điều 113 BLTTHS năm 2003, VKS có quyền

kiểm sát hoạt động thực nghiệm điều tra, nhưng Điều 153 không qui định việc bắt

buộc phải có sự kiểm sát trực tiếp của VKS đối với hoạt động điều tra này là một

thiếu sót, góp phần tạo kẽ hở cho sự phối hợp thực hiện chức năng buộc tội thiếu

hiệu quả. Thêm vào đó, Điều 153 cũng không xác định phạm vi các vụ án hình sự

mà CQĐT phải thực nghiệm điều tra, cũng là một sơ hở của luật góp phần tạo

điều kiện cho sự thiếu chuẩn xác, đúng đắn xảy ra trong hoạt động của VKS,

CQĐT khi thực hiện hoạt động điều tra này. Điều 153 cũng không qui định để bảo

đảm giá trị chứng minh của hoạt động thực nghiệm điều tra, CQĐT có thể mời

chuyên gia, người bào chữa tham gia thực nghiệm điều tra. Tương tự như Điều

152, Điều 153 không cấm việc xâm phạm danh dự, nhân phẩm, gây ảnh hưởng

đến sức khỏe của những người tham gia việc thực nghiệm điều tra, là chưa đảm

bảo hiệu quả bảo vệ quyền con người trong TTHS.

102

Kiểm sát hoạt động trưng cầu giám định

Điều 155 BLTTHS năm 2003 không qui định hoạt động giám định có thể

được thực hiện trước khi khởi tố vụ án, cùng với việc BLTTHS chưa xác lập rõ

nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra ban đầu (giải quyết tố giác

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố) làm giảm hiệu quả KSĐT của VKS đối với

hoạt động trưng cầu giám định.

Hoạt động giám định là hoạt động bổ trợ tư pháp, không phải là hoạt động

do CQĐT tiến hành nhưng chỉ được thực hiện trong giai đoạn điều tra khi CQĐT

quyết định trưng cầu. Hoạt động giám định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không

chỉ đối với hoạt động điều tra, truy tố mà đối với cả quá trình tố tụng. Do vậy, yêu

cầu kiểm tra tính đúng đắn của hoạt động giám định là cần thiết. Tuy nhiên với nội

dung qui định hiện hành về hoạt động giám định của BLTTHS tại các Điều 60

(qui định về quyền, nghĩa vụ của người giám định); Điều 155 đến Điều 159 (qui

định về trưng cầu giám định, việc tiến hành và nội dung giám định, quyền của bị

can và của những người tham gia tố tụng đối với kết luận giám định, giám định bổ

sung, giám định lại) chỉ là những qui định cơ bản của hoạt động giám định trong

tố tụng hình sự, chưa đủ để “vận hành” hiệu quả hoạt động trưng cầu giám định.

Kiểm sát hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can

Hoạt động lấy lời khai là hoạt động cơ bản, chủ yếu của quá trình điều tra

vụ án hình sự ở bất kỳ mô hình tố tụng hình sự nào và có thể được thực hiện ở bất

cứ chức năng tố tụng nào để thu thập chứng cứ buộc tội cũng như chứng cứ gỡ tội.

Qua thực tiễn áp dụng BLTTHS năm 2003, tác giả luận án nhận thấy hoạt động

của VKS khi tiến hành kiểm sát hoạt động điều tra – lấy lời khai còn một số điểm

chưa hợp lý trong qui định của pháp luật điều chỉnh hoạt động điều tra chính yếu

và quan trọng này.

Về mặt hình thức, các qui định liên quan đến việc lấy các dạng lời khai

không được BLTTHS qui định chung tại một chương mà dàn trải ra trong nhiều

chương, nhiều phần; ngược lại, có những qui định lại được gộp chung tại một điều

luật về trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng (khoản 2, Điều 57)

103

nên gây khó khăn, khó áp dụng trên thực tế, đặc biệt là đối với người tham gia tố

tụng để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Ngoài hình thức phổ biến là biên bản viết,

BLTTHS năm 2003 còn qui định trong việc ghi lời khai CQĐT còn được phép sử

dụng hình thức ghi âm. So với thời điểm BLTTHS được xây dựng và có hiệu lực,

hiện nay công nghệ, kỹ thuật nghe nhìn của nhân loại đã có những tiến bộ vượt

bậc và cách thức thực hiện dễ dàng với chi phí thấp như quay phim, ghi âm kỹ

thuật số. Do vậy, BLTTHS cần có qui định những hình thức lấy cung, lời khai

mới, để theo kịp với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, đem lại thuận lợi, giảm

chi phí điều tra và đặc biệt là phù hợp với qui định của pháp luật hình sự quốc tế về bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân [2, tr.11], [81].

Về mặt chứng cứ, việc qui định phương tiện xác định chứng cứ là các dạng

lời khai như điểm b, khoản 2, Điều 64 BLTTHS năm 2003 là qui định chưa đầy đủ

do thiếu các dạng lời khai khác như lời khai của người biết việc, biết sự kiện và

tình tiết liên quan đến vụ án. Bên cạnh đó, BLTTHS hiện hành còn thiếu các qui

định để xác định mức độ giá trị chứng minh của các lời khai trong trường hợp có

mâu thuẫn lẫn nhau trong giai đoạn điều tra và khi tiến hành hoạt động đối chất.

Trên thực tế, trong các vụ án phức tạp có sai sót trong việc thu thập chứng cứ tại

giai đoạn điều tra thường làm nảy sinh nhiều quan điểm khác nhau về việc định

tội, về áp dụng pháp luật do có sự đánh giá khác nhau về giá trị chứng minh của

các dạng lời khai. Một quan điểm rất có giá trị trong việc nâng cao hiệu quả chứng

minh tội phạm của hoạt động điều tra này là BLTTHS mới cần qui định sự chứng

kiến của người bào chữa, luật sư tại thời điểm quan trọng trong giai đoạn điều tra

là thời điểm lấy lời khai người phạm tội đầu tiên và thời điểm người phạm tội bắt

đầu nhận tội [30].

Về vấn đề đảm bảo quyền con người, các qui định của BLTTHS hiện hành

về việc lấy lời khai trong tố tụng chưa thật sự đảm bảo một cách hiệu quả nhất

quyền con người của bị can, người làm chứng và các người tham gia tố tụng khác,

cụ thể như: Chưa qui định các trường hợp lấy cung, lời khai bắt buộc phải có mặt

của luật sư, người bào chữa mới được tiến hành hay người phạm tội yêu cầu có

104

luật sư, người bào chữa tham dự; BLTTHS năm 2003 chưa qui định trách nhiệm

và nghĩa vụ chứng minh trong TTHS đối với bị can, bị cáo nên chưa có qui định bị

can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền im lặng hoặc có quyền

từ chối đưa ra lời khai bất lợi đối với mình. Điều này đã tạo ra nguy cơ bị bức

cung, nhục hình hoặc bị qui kết là không thành khẩn khai báo đối với bị can trong

giai đoạn điều tra. Do vậy, rõ ràng là với sự khiếm khuyết này của BLTTHS năm

2003 khiến cho pháp luật Việt Nam hiện nay chưa đủ để đảm bảo hiệu quả quyền

con người trên thực tế. Ngoài ra, BLTTHS năm 2003 chưa có qui định một cách

cụ thể về trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ người làm chứng của các cơ quan tiến

hành tố tụng làm giảm hiệu quả phòng, chống tội phạm của BLTTHS nhất là trong

bối cảnh hiện nay khi mà cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế - xã

hội, tình hình tội phạm nước ta, đặc biệt là loại tội phạm có tổ chức, dạng mafia,

xã hội đen, đã và đang phát triển khá phổ biến trên thực tế.

Biện pháp triệu tập người làm chứng theo Điều 133 BLTTHS năm 2003 qui

định được xem là thiếu chặt chẽ, thiếu tính khả thi, thể hiện qua việc không bao

gồm đầy đủ tất cả đối tượng cần được điều chỉnh. Đó là người biết tình tiết, nội

dung vụ án vào diện người bị triệu tập, không có qui định cụ thể quyền, nghĩa vụ

và các biện pháp chế tài hữu hiệu đối với người bị triệu tập nên trên thực tiễn hiện

tượng người làm chứng không đến theo yêu cầu triệu tập hay người biết tình tiết,

nội dung vụ án không đến theo giấy mời là khá phổ biến. Điều này gây khó khăn cho hoạt động lấy lời khai [2, tr.10]. Bên cạnh đó, biện pháp dẫn giải người làm

chứng (Điều 134) để lấy cung, lời khai hiện được BLTTHS năm 2003 qui định

nhằm xử lý trường hợp người làm chứng nếu vắng mặt theo sự triệu tập của

CQĐT mà không có lý do chính đáng hoặc có biểu hiện trốn tránh thì bị áp dụng

biện pháp cưỡng chế cứng rắn để bảo đảm tính hiệu quả nhằm đạt được mục đích

tố tụng cho hoạt động điều tra. Tuy nhiên, qui định này của BLTTHS năm 2003

cũng thể hiện sự chưa hợp lý ở chỗ khi người làm chứng vì một lý nào đó không

muốn cho lời khai thì việc cần thiết, đầu tiên mà CQĐT và các cơ quan tiến hành

tố tụng khác phải thực hiện là phải động viên, thuyết phục và có những biện pháp

105

bảo vệ người làm chứng bằng sức mạnh Nhà nước trước những nguy cơ bị xâm

hại để tạo điều kiện thuận lợi cho người làm chứng khai báo. Cũng cần khẳng định

là với chế định qui định trách nhiệm, nghĩa vụ của người làm chứng và các biện pháp bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ đó của BLHS năm 1999 và

của BLTTHS năm 2003 như hiện nay là chưa hiệu quả đối với hoạt động điều tra

lấy lời khai loại người tham gia TTHS này. Bởi các lý do; thứ nhất, về mặt tâm lý,

biện pháp dẫn giải để thực hiện việc lấy lời khai người làm chứng sẽ tạo tâm lý

tiêu cực cho người làm chứng nên có hiệu quả kém; thứ hai, TNHS đối với người

làm chứng như qui định của BLHS năm 1999, có thể được xem là chưa chặt chẽ

và vẫn tạo cơ hội miễn trừ hoặc bị chậm áp dụng do phải xác định rõ các yếu tố

“biết rõ là sai sự thật”, “không có lý do chính đáng” trong ý thức chủ quan của

người làm chứng là các yếu tố thường khó có thể hoặc không thể chứng minh

được ngay trong giai đoạn điều tra; thứ ba, ngoài việc qui định chung rằng người

làm chứng có quyền và nghĩa vụ tại khoản 3 và 4 Điều 55 BLTTHS năm 2003 là

chưa bảo đảm việc thực hiện một cách cụ thể, thống nhất việc bảo vệ tính mạng,

sức khoẻ, các lợi ích hợp pháp của người làm chứng khi họ tham gia tố tụng nên

không bảo đảm được sự hợp tác của họ. Việc này đồng nghĩa với hiệu quả hoạt

động điều tra này thường không cao khi người làm chứng bị hạn chế sự tự do ý

chí của mình khi tham gia TTHS.

Vấn đề qui định rõ trình tự, thủ tục để thực hiện quyền lấy lời khai người

tham gia tố tụng, của người bào chữa mà chủ yếu là của Luật sư trong BLTTHS,

được xem là quyền của người bào chữa tự tiến hành điều tra, xác minh trong điều

tra hình sự thông qua hoạt động lấy lời khai của tất cả người tham gia tố tụng

khác. Đây là một hình thức tham gia tố tụng nhằm nâng cao tính dân chủ, hiệu quả

tranh tụng, hiệu quả bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Về mặt nguyên

tắc, dựa vào quy định của điểm d, e, khoản 2, Điều 58 BLTTHS năm 2003, người

bào chữa có quyền lấy lời khai của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng

khác để thực hiện quyền bào chữa của mình. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003

không khẳng định quyền lấy lời khai người tham gia tố tụng của người bào chữa

106

là đã làm giảm hiệu quả thực hiện quyền bào chữa - quyền chứng minh vô tội của

bị can trong giai đoạn điều tra.

Kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản

Qua thực tiễn áp dụng pháp luật, hiệu quả những qui định của BLTTHS

năm 2003 về hoạt động điều tra khám xét, kê biên, thu thập, bảo quản vật chứng,

đồ vật, tài sản có giá trị chứng minh tội phạm, tác giả luận án nhận thấy còn bị hạn

chế bởi một số vấn đề thiếu chặt chẽ và chưa hợp lý sau:

BLTTHS năm 2003 không qui định hoạt động thu thập chứng cứ, khám

xét, kê biên được thực hiện vào thời điểm tố tụng nào, trước hay sau khi quyết

định khởi tố vụ án, khởi tố bị can có hiệu lực, làm nảy sinh một loạt vấn đề như:

Thẩm quyền KSĐT của VKS được xác lập trong phạm vi nào, mức độ như thế

nào để đảm bảo hiệu quả? CQĐT có quyền tiến hành khám xét đối với người bị

tình nghi phạm tội hay không? BLTTHS có cần xây dựng qui định khám xét khẩn

cấp hay không để tránh việc lạm dụng hình thức khám xét khẩn cấp?

Vấn đề qui định thẩm quyền phê chuẩn lệnh khám xét, được thông báo

ngay về việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét, được gửi biên bản kê biên tài

sản của VKS như qui định hiện nay của BLTTHS là không đủ chặt chẽ để đảm

bảo hiệu quả hoạt động chức năng của VKS trong TTHS. Thứ nhất, từ góc độ thực

hiện chức năng giám sát, việc BLTTHS qui định VKS có quyền phê chuẩn lệnh

khám xét của CQĐT, trừ trường hợp không thể trì hoãn (được hiểu là trường hợp

khẩn cấp) và quyền được biết thông báo ngay sau khi thực hiện khám xét, tạm giữ,

kê biên tài sản là không đủ chặt chẽ để ngăn ngừa tình trạng lạm quyền, vi phạm

qui định của BLTTHS về cách thức, trình tự thực hiện việc khám xét, kê biên của

CQĐT. Thứ hai, từ góc độ điều tra thì với qui định như hiện nay tại khoản 2 Điều

141 BLTTHS năm 2003, việc qui định thẩm quyền phê chuẩn lệnh khám xét của

VKS là không tạo thuận lợi cho hoạt động điều tra nếu như không muốn nói là cản

trở hoạt động điều tra. Điều cần bàn là nên chọn một trong hai khuynh hướng:

Hiệu quả hoạt động điều tra hoặc yêu cầu bảo đảm tính pháp chế của nó trong

phương hướng hoàn thiện BLTTHS hiện hành.

107

2.2.2 Kiểm sát việc nhập, tách, chuyển vụ án hình sự; giải quyết tranh

chấp về thẩm quyền điều tra

Vấn đề điều tra vụ án hình sự đúng thẩm quyền, phạm vi điều tra là rất

quan trọng vì sẽ trực tiếp xác định đến trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của

CQĐT, VKS trong giai đoạn điều tra. BLTTHS năm 2003 qui định việc nhập,

tách, chuyển vụ án hình sự, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra trong giai

đoạn điều tra (Điều 116, 117 và khoản 3, Điều 113) và giao cho VKS trách nhiệm

giám sát, giải quyết vấn đề này. Từ góc độ đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm sát,

tác giả luận án nhận thấy với qui định như hiện nay, BLTTHS năm 2003 chưa

đảm bảo hiệu quả pháp lý một cách chắc chắn cho các quyết định tách, nhập,

chuyển vụ án hình sự hoặc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra vụ án

hình sự của VKS, vì trên thực tế còn xảy ra tình trạng CQĐT không chấp hành

quyết định về nhập, tách, chuyển vụ án hình sự, giải quyết tranh chấp thẩm quyền

điều tra của VKS và có sự đùn đẩy trách nhiệm qua lại giữa các CQĐT, đặc biệt là

từ phía CQĐT được xem là có thẩm quyền điều tra vụ án, nhất là trong trường hợp

vụ án phức tạp, có nhiều quan điểm mâu thuẫn về đường lối áp dụng pháp luật.

Về thẩm quyền của VKS trong giai đoạn điều tra cũng như trong các giai

đoạn tố tụng khác chưa được BLTTHS năm 2003 qui định cụ thể mà chỉ được xác

định trên cơ sở những qui định của BLTTHS về chức năng, nhiệm vụ của VKS

(Điều 23), nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng

trong VKS (Điều 36, 37), nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra

(Điều 112,113) và các qui định về thẩm quyền chuyên biệt của VKS trong giai

đoạn điều tra của Luật tổ chức VKSND. Sự chưa rõ ràng của pháp luật đã tạo ra

việc hiểu cũng như vận dụng pháp luật không thống nhất về phạm vi thẩm quyền

của VKS trong tố tụng hình sự và tỏ ra không phù hợp với hệ thống CQĐT và các

cơ quan khác được BLTTHS năm 2003 cho phép tiến hành một số hoạt động điều

tra. Sự không rõ ràng của BLTTHS hiện hành trong qui định thẩm quyền của VKS

trong tố tụng cũng làm nảy sinh những bất hợp lý gây khó khăn cho việc phân

chia nhiệm vụ, quyền hạn giữa các VKS, ví dụ như: vấn đề thẩm quyền kiểm sát

108

hoạt động giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; vấn đề

THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra của VKS đối với những vụ án

không thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cùng cấp, vấn đề ủy quyền truy tố; vấn

đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung của toà án cho VKS và CQĐT cấp trên trong

trường hợp vụ án được uỷ quyền truy tố… Trên thực tế, việc xác định thẩm quyền

của VKS căn cứ vào tính “cùng cấp” với CQĐT của cơ quan VKS và tính “cùng

cấp” này càng thể hiện sự không rõ ràng trong tố tụng hình sự. Thực tế hiện đang

tồn tại cách hiểu rằng nơi nào có hoạt động điều tra thì nơi đó phải có hoạt động

kiểm sát, đặc biệt trong trường hợp kiểm sát hoạt động điều tra do các chủ thể của

hoạt động điều tra khác thực hiện. Vấn đề này cần phải được BLTTHS qui định lại

một cách rõ ràng để tạo hiệu quả cho hoạt động tố tụng của VKS trên thực tiễn,

nhất là trước yêu cầu tổ chức hệ thống VKSND tương xứng với hệ thống TAND

theo tinh thần cải cách tư pháp hiện nay.

Bên cạnh đó, với việc Điều 114 BLTTHS năm 2003 không tạo ra cơ chế

đảm bảo trách nhiệm thực hiện của CQĐT đối với quyết định của VKS về việc

giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra, một lần nữa những bất cập của

BLTTHS năm 2003 góp thêm phần làm cho việc thực hiện thẩm quyền kiểm sát

việc nhập vụ án, chuyển vụ giải quyết tranh chấp thẩm quyền điều tra của VKS,

trong nhiều trường hợp không được đảm bảo. Sự hạn chế này trở thành vấn đề cần

phải hoàn thiện, đặc biệt là trong tình hình thụ lý án hình sự tại các tỉnh, thành phố

lớn ở nước ta, là những địa bàn trọng điểm về tội phạm, thì tình trạng điều tra trái

thẩm quyền, chia nhỏ vụ án do có sự đùn đẩy trách nhiệm điều tra vì quá tải, còn

xảy ra khá phổ biến.

2.2.3 Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án hình sự

Hồ sơ vụ án hình sự là sự tập hợp các tài liệu thể hiện chứng cứ và các tình

tiết liên quan đến vụ án có ý nghĩa xác định có hay không có hành vi phạm tội và

là sự cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Đây là một cơ sở quan trọng để

thực hiện các chức năng tố tụng, đặc biệt, trong pháp luật TTHS theo truyền thống

tố tụng thẩm vấn thì hồ sơ vụ án hình sự thể hiện căn cứ buộc tội và các tình tiết

109

khác của vụ án phải được đệ trình trước tòa án và là cơ sở để tiến hành chức năng

xét xử và trách nhiệm thiết lập hồ sơ vụ án hình sự thuộc về CQĐT và Công tố.

Ngoài điểm a, khoản 1, Điều 35, qui định chung về nhiệm vụ thiết lập hồ sơ vụ án

hình sự, BLTTHS năm 2003 đã thiếu sót khi không có qui định nào khác để cụ thể

về quyền hạn, nhiệm vụ, cách thức, trình tự thiết lập hồ sơ vụ án hình sự nên trong

thực tiễn vẫn có cách hiểu và thực hiện khác nhau về việc thiết lập hồ sơ vụ án

hình sự. Điều này làm giảm hiệu quả tiến hành tố tụng không chỉ riêng đối với

VKS mà còn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khác và người tham gia tố

tụng. Tuy Thông tư liên tịch 05/2005 có hướng dẫn về việc đánh dấu bút lục hồ sơ

vụ án trong giai đoạn điều tra, truy tố, thủ tục giao nhận hồ sơ và vật chứng giữa

CQĐT và VKS, nhưng các qui định này chưa đủ chặt chẽ và toàn diện để thiết lập

và sử dụng hồ sơ vụ án hình sự như là công cụ buộc tội hữu hiệu. Thực tiễn cho

thấy còn có những vấn đề chưa hợp lý, chưa hoàn thiện sau trong hoạt động thiết

lập hồ sơ vụ án hình sự, cụ thể:

Về thẩm quyền, nhiệm vụ và cách thức thiết lập hồ sơ vụ án hình sự,

BLTTHS hiện hành không qui định rõ ràng về thẩm quyền, nhiệm vụ thiết lập hồ

sơ vụ án hình sự nên làm xảy ra tình trạng việc đưa các tài liệu không phải do

CQĐT thu thập, đặc biệt là các tài liệu do bên bào chữa cung cấp, sẽ được thực

hiện tùy thuộc vào ý chí chủ quan của Điều tra viên, khiến cho việc đánh giá

chứng cứ và tình tiết của vụ án không được toàn diện, khách quan, đầy đủ trong

giai đoạn truy tố.

Vấn đề thẩm quyền quản lý hồ sơ vụ án hình sự, BLTTHS năm 2003 cũng

không qui định rõ. Theo qui định chung của pháp luật TTHS hiện hành, hồ sơ vụ

án hình sự trong giai đoạn tố tụng nào thì do cơ quan tiến hành giai đoạn tố tụng

ấy quản lý. VKS không quản lý hồ sơ vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra nên

khó có thể có điều kiện thuận lợi để có thể kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra và

có thể chỉ đạo được hoạt động tố điều tra nhằm bảo đảm hiệu quả buộc tội khi

quyết định việc truy tố [22, tr.8-15].

110

2.2.4 Kiểm sát điều tra vụ án hình sự bị điều tra bổ sung, phục hồi điều

tra, điều tra lại

Theo qui định của BLTTHS năm 2003, nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự của

CQĐT được tái lập khi có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của VKS (theo

qui định của điểm b, khoản 1, Điều 166, Điều 168), của Thẩm phán tòa án cấp sơ

thẩm (theo qui định của khoản 1, Điều 179); hoặc khi có quyết định hủy bản án sơ

thẩm để điều tra lại của tòa án cấp phúc thẩm (theo qui định của khoản 1, Điều

250); hoặc khi có quyết định trả hồ để điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử (theo

qui định của khoản 2, Điều 199); hoặc khi có quyết định hủy bản án đã có hiệu lực

pháp luật để điều tra lại của Hội đồng giám đốc thẩm (khoản 3, Điều 285), của

Hội đồng tái thẩm (khoản 2, Điều 289); hoặc khi vụ án được CQĐT phục hồi điều

tra (theo qui định của Điều 165). Trong hoạt động của VKS, quyết định trả hồ sơ

để điều tra bổ sung thuộc nội dung THQCT, được thực hiện khi VKS không thể tự

khắc phục được những sai sót của kết quả điều tra khiến cho quyết định truy tố

không khách quan, toàn điện và đầy đủ. Ngoài ra, hoạt động điều tra bổ sung,

KSĐT bổ sung vụ án hình sự còn được qui định rõ ràng, cụ thể hơn tại Thông tư

liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010. Tuy

nhiên trên thực tế áp dụng luật, hiện tồn tại một số vướng mắc trong hoạt động

KSĐT bổ sung, phục hồi điều tra vụ án hình sự như sau:

Về vấn đề thực hiện thời hạn điều tra bổ sung, tính chất tiêu cực lớn nhất

của hoạt động điều tra bổ sung là làm kéo dài thời gian điều tra vụ án, làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp

pháp khác của bị can. Do vậy, Điều 121, 166 BLTTHS 2003 qui định chưa đầy đủ

cùng với Thông tư liên tịch số 01/2010 qui định chưa rõ ràng về hoạt động trả hồ

sơ để điều tra bổ sung dẫn đến việc gây khó khăn cho hoạt động của VKS thông

qua việc hiểu và vận dụng qui định pháp luật không thống nhất trong hoạt động

của VKS đối với hoạt động điều tra này. Việc BLTTHS năm 2003 không qui định

trình tự, thủ tục quyết định truy tố sau khi vụ án được điều tra bổ sung (VKS có

những nhiệm vụ, quyền hạn gì? Giống hay khác với nội dung Điều 166 BLTTHS

111

hiện hành? Có được tiếp tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thấy kết quả điều tra

bổ sung trước đó chưa đầy đủ? Thời hạn quyết định việc truy tố sau khi điều tra bổ

sung?); không qui định thời hạn VKS nghiên cứu yêu cầu điều tra bổ sung của tòa

án để quyết định xem có cần thiết thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung đó hay

không? Tất các các vấn đề trên đã tạo ra tình trạng VKS có khuynh hướng lạm

dụng thời hạn quyết định truy tố tại Điều 166, dẫn đến tình trạng việc thời hạn

quyết định truy tố các vụ án bị trả điều tra bổ sung bị kéo dài trên thực tế.

Việc qui định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam đối với vụ án được phục

hồi điều tra tại Điều 121 BLTTHS không tính đến sự liên tục thời hạn điều tra và

sự kế thừa kết quả điều tra trước đó, hiện gây khó khăn cho hoạt động điều tra và

KSĐT khi phải tiến hành với thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam ngắn hơn nhiều

so với thời hạn điều tra bình thường. Trên thực tế, phần lớn vụ án hình sự ở các

thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh là án tạm đình chỉ điều tra do

không xác định được bị can hoặc chưa bắt được bị can trong thời hạn điều tra đầu

tiên (chưa gia hạn). Những trường hợp như vậy, hầu như CQĐT chưa thu được kết

quả điều tra có ý nghĩa chứng tội phạm nào khi tạm đình chỉ điều tra. BLTTHS

hiện hành chưa có qui định tạm đình chỉ riêng cho những trường hợp này. Do vậy,

khi những vụ án đã được tạm đình chỉ điều tra trước đó được phục hồi điều tra,

việc tiến hành tố tụng đối với vụ án không theo thời hạn gia hạn điều tra như qui

định tại Điều 120 mà phải theo thời hạn ngắn hơn theo qui định tại Điều 121, hiện

gây khó khăn, tạo áp lực cho hoạt động điều tra và hoạt động KSĐT.

BLTTHS sửa đổi cần pháp điển hóa các qui định của Thông tư liên tịch

01/2010 về thẩm quyền, số lần, trình tự, trách nhiệm của CQĐT, VKS, tòa án

trong việc thực hiện hoạt động điều tra bổ sung để nâng cao tính pháp chế trong tổ

chức thực hiện các qui định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của các cơ quan tiến

hành tố tụng.

Hạn chế việc lạm dụng trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm khắc phục

những yếu kém, bất cập trong hoạt động của VKS và CQĐT trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự, hiện đã và đang được VKSND các cấp quan tâm thực hiện bằng

112

việc không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát điều tra, hiệu quả phối

hợp giữa CQĐT với VKS trong giai đoạn điều tra nhằm hạn chế tính chất thụ

động khi thực hiện một số quyền kiểm sát điều tra theo qui định của BLTTHS

thông qua các Qui chế phối hợp liên ngành. Số liệu thống kê nghiệp vụ KSĐT án

hình sự cho thấy từ năm 2004 đến 2013, có khoảng từ 1,7% đến 5,7% tổng số vụ

án thuộc thẩm quyền quyết định việc truy tố phải tra điều tra bổ sung (Phụ lục 3).

Qua thực tiễn cho thấy, CQĐT nào, VKS nào có mối quan hệ phối hợp tiến hành

tố tụng tốt, thể hiện tính tích cực trong việc thực hiện qui định của BLTTHS về

nhiệm vụ quyền hạn của CQĐT, VKS, của Điều tra viên, Kiểm sát viên thì tỉ lệ vụ

án trả điều tra bổ sung trong giai đoạn điều tra thấp. Tác giả luận án cho rằng hoạt

động trả hồ sơ để điều tra bổ sung là cần thiết và tất yếu để đạt được chân lý khách

quan trong điều tra, làm rõ vụ án, nhưng để nâng cao trách nhiệm cá nhân của

Kiểm sát viên, Điều tra viên và để gắn kết mục đích thực hành quyền công tố với

hoạt động điều tra nhằm hạn chế, kéo giảm hoạt động trả điều tra bổ sung do các

nguyên nhân mang tính tiêu cực (như: kết quả và chất lượng điều tra thấp, hiệu

quả KSĐT kém nên không phát hiện tội phạm, người phạm tội mới; việc thu thập

chứng cứ không đầy đủ, toàn diện; có vi phạm nghiêm trọng thủ tụng tố tụng do

lỗi chủ quan và thiếu tinh thần trách nhiệm của Điều tra viên và Kiểm sát viên) thì

ngoài việc qui định một cách có hệ thống, trao quyền kiểm sát các hoạt động điều

tra một cách cụ thể và chủ động cho VKS, BLTTHS sửa đổi chỉ cho phép VKS có

quyền trả điều tra bổ sung trong trường hợp VKS không thể tự tiến hành điều tra

để củng cố, bổ sung chứng cứ và CQĐT không thể khắc phục được những thiếu

sót, vi phạm tố tụng theo yêu cầu, kiến nghị của VKS trong thời hạn quyết định

việc truy tố. Với qui định như vậy, BLTTHS mới sẽ góp phần tạo động lực cho

VKS, Kiểm sát viên nâng cao tinh thần trách nhiệm, tiến hành kiểm sát chặt chẽ

hoạt động điều tra, kịp thời phát hiện và yêu cầu khắc phục ngay vi phạm cũng

như tiến hành điều tra vụ án một cách toàn diện, đầy đủ theo đúng định hướng,

yêu cầu của nhiệm vụ thực hành quyền công tố.

113

2.2.5 Xử lý vi phạm theo quy định của BLTTHS trong điều tra vụ án hình

sự; giải quyết khiếu nại trong điều tra vụ án hình sự

Liên quan đến hoạt động xử lý vi phạm qui định của BLTTHS năm 2003

trong điều tra vụ án hình sự, thực tế có một số vấn đề sau:

Đối với hành vi vi phạm pháp luật của bị can, bị hại và của người tham gia

tố tụng khác, mặc dù căn cứ vào nhiệm vụ quyền hạn được giao, VKS có quyền

kiến nghị CQĐT và các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng những biện

pháp cần thiết để ngăn chặn, xử lý các vi phạm trong TTHS về mặt hình sự, hành

chính theo qui định của pháp luật, nhưng BLTTHS năm 2003 không qui định một

cách rõ ràng và cụ thể về thẩm quyền của VKS trong lĩnh vực này mà chỉ qui định

chung về quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng

(khoản 2, Điều 113) nên khiến nó khó và ít được thực hiện trên thực tế. Mặt khác,

hoạt động của người tham gia tố tụng không phải là HĐTP. Do vậy, vấn đề thẩm

quyền đảm bảo pháp chế trong TTHS của VKS trong điều tra vụ án hình sự, thực

chất được thực hiện thông qua hoạt động của CQĐT và việc BLTTHS năm 2003

qui định như trên là chưa hợp lý.

Việc Điều 329 BLTTHS năm 2003 có qui định phân biệt quyết định tố tụng

và hành vi tố tụng có sự phê chuẩn của VKS làm căn cứ xác định thẩm quyền giải

quyết khiếu nại, tố cáo lần đầu thuộc thẩm quyền của VKS là chưa hợp lý. Bởi

như qui định của BLTTHS hiện hành, về măt logic thì hợp lý, nhưng trên thực tế,

VKS không có điều kiện, khả năng quản lý, giám sát chặt chẽ mọi quyết định của

CQĐT ngay cả trường hợp VKS đã phê chuẩn vì VKS không thực hiện hoạt động

điều tra và chỉ thực hiện quyền năng phê chuẩn trên cơ sở thông tin có trong hồ sơ

vụ án. Do vậy sẽ hợp lý hơn khi BLTTHS qui định trách nhiệm quản lý, chỉ đạo

cũng như giải quyết khiếu nại lần đầu đối với tất cả hành vi và quyết định tố tụng

của Phó thủ trưởng CQĐT và Điều tra thuộc về Thủ trưởng CQĐT.

114

2.3. Một số vấn đề từ thực trạng tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án h nh sự

2.3.1 Thực trạng tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp trong nội bộ Viện kiểm sát

Từ thực tiễn tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS thông qua

việc thực thi trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn VKS trong điều tra hình sự theo

qui định của BLTTHS năm 2003, tác giả thấy xuất hiện một số vấn đề sau:

Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT và khi KSĐT đã được

BLTTHS 2003 xác định tại Điều 112 và Điều 113. Tuy nhiên, sự xác định này

được xem là chưa chuẩn xác, còn có sự nhầm lẫn về nhiệm vụ, quyền hạn của hai

mặt hoạt động chức năng của VKS trong điều tra hình sự; chưa xác định được

nhiệm vụ, quyền hạn nào của VKS là trọng tâm trong điều tra hình sự. Những điều

chưa hợp lý này trong qui định của Điều 112, 113 BLTTHS năm 2003 đã tạo ra

cách hiểu không thống nhất về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều

tra và tất nhiên tạo ra tình trạng khó khăn, thiếu đồng bộ và toàn diện trong việc tổ

chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong điều tra hình sự. Bên cạnh đó,

việc BLTTHS hiện hành đã quá tập trung trong qui định về nhiệm vụ, quyền hạn

của VKS trong điều tra hình sự vào một vài điều luật mà thiếu sự gắn kết chặt chẽ

nhiệm vụ, quyền hạn đó vào từng hoạt động điều tra cụ thể cũng tạo khó khăn

không nhỏ cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong điều

tra hình sự một cách đồng bộ, toàn diện và hiệu quả.

BLTTHS năm 2003 đã không qui định một cách rõ ràng, tách biệt về quyền

hạn tố tụng hình sự với quyền hạn trong lĩnh vực quản lý các hoạt động tố tụng

của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, là chức danh tố tụng đồng thời là chức danh

quản lý của VKS, nên đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa yêu cầu đảm bảo hiệu quả

hoạt động quản lý, điều hành các hoạt động tố tụng với yêu cầu đảm bảo tính độc

lập trong việc thực thi quyền hạn, nhiệm vụ được giao cho các chức danh tư pháp

của VKS [17]. Trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động chức năng của VKS

trong giai đoạn điều tra, yêu cầu thứ nhất là phải nâng cao địa vị pháp lý và đảm

115

bảo tính độc lập trong hoạt động tố tụng hình sự cho chức danh Kiểm sát viên,

chức danh cơ bản, quan trọng nhất trong tổ chức VKS các cấp và là chức danh -

người tiến hành tố tụng thực hiện chủ yếu các hoạt động chức năng kiểm sát trong

tố tụng hình sự; yêu cầu thứ hai là phải đảm bảo sự quản lý, điều hành, giám sát

có hiệu quả của các chức danh Viện trưởng, Phó Viện trưởng đối với các hoạt

động tố tụng hình sự thuộc chức năng, nhiệm vụ của VKS. Tuy nhiên, qui định

như BLTTHS hiện hành chưa đảm bảo hiệu quả của hai yêu cầu này. Tại điểm a,

b, c khoản 1, Điều 36 BLTTHS năm 2003, các thẩm quyền của Viện trưởng với tư

cách là chức danh quản lý, điều hành các hoạt động tố tụng trùng với các thẩm

quyền tố tụng của Viện trưởng với tư cách chức danh tiến hành tố tụng. Bên cạnh

đó khoản 1, Điều 36 BLTTHS năm 2003, không qui định trường hợp được Viện

trưởng ủy quyền thường xuyên thì Phó viện trưởng được thực hiện một số quyền

hạn của Viện trưởng, vì qui định ủy quyền như vậy là nhằm tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự trên thực tế và đơn giản hóa

thủ tục phân công thực hiện hoạt động TTHS trong nội bộ VKS, qua đó vừa nhằm

tạo sự chủ động, linh hoạt, hiệu quả cho hoạt động tố tụng của VKS, vừa nhằm

bảo đảm tính chặt chẽ của BLTTHS, vừa nhằm phù hợp với những yêu cầu, đòi

hỏi mang tính cấp bách, thời sự của công tác phòng chống tội phạm ngày càng

phức tạp hiện nay. Thêm vào đó, BLTTHS hiện hành chưa qui định về vị trí, vai

trò, nhiệm vụ, quyền hạn của đội ngũ cán bộ tác nghiệp kiểm sát rất đông đảo trên

thực tế tại các đơn vị kiểm sát hiện nay – chức danh Kiểm tra viên, hiện có vai trò

rất quan trọng trong tác nghiệp KSĐT với vai trò trợ giúp Kiểm sát viên trong

THQCT vụ án hình sự. Do chưa được luật hóa về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền

hạn nên hiệu quả thực tiễn của Kiểm tra viên còn rất hạn chế. Ngoài ra, BLTTHS

năm 2003 còn có một sự không rõ ràng khi tạo ra sự trùng lặp trong qui định về

thẩm quyền của người tiến hành tố tụng (Điều 36) với thẩm quyền của cơ quan

tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra (Điều 112,113). Tất cả những điểm chưa

hợp lý nêu trên của BLTTHS 2003 gây ra tình trạng hiểu và áp dụng khác nhau

trong hoạt động quản lý, điều hành các hoạt động chức năng kiểm sát trong giai

116

đoạn điều tra, làm giảm hiệu quả của hoạt động phối hợp nghiệp vụ giữa các bộ

phận nghiệp vụ và giữa các chức danh tư pháp của VKS trong TTHS.

Vấn đề phối hợp giữa hoạt động THQCT và KSHĐTP giữa hai giai đoạn

điều tra và xét xử, Điều 60 Qui chế THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra

ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 xác định

Kiểm sát viên được phân công THQCT và KSĐT thì đồng thời thực hiện nhiệm

vụ THQCT và KSXX sơ thẩm. Đây là hình thức phối hợp thực hiện chuyên môn

nghiệp vụ kiểm sát có sự gắn kết chặt chẽ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của

VKS ở giai đoạn điều tra và ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, nhằm đạt được mục đích,

yêu cầu của nhiệm vụ THQCT trong lĩnh vực TTHS. Thực tế đã chứng minh, với

hình thức tổ chức thực hiện chức năng chuyên môn này, chất lượng công tác kiểm

sát trong lĩnh vực hình sự có nhiều tiến bộ lớn đáng ghi nhận từ năm 2003 cho đến

nay, thể hiện thông qua số vụ án tòa trả để điều tra bổ sung, số bị cáo tòa tuyên

không phạm tội ở cấp sơ thẩm quận, huyện giảm dần qua từng năm. Tuy nhiên

trên thực tế hình thức tổ chức thực hiện chức năng chuyên môn mang tính gắn kết

này không phải lúc nào cũng thực hiện được ở tất cả các vụ án, ở tất cả các phiên

tòa. Yêu cầu đơn giản, hợp lý, thuận tiện trong hoạt động THQCT và KSVTTPL

trong hoạt động xét xử đã được đặt ra nên VKS thường có khuynh hướng phân

công một Kiểm sát viên THQCT và KSHĐTP đối với nhiều vụ án trong cùng một

buổi xét xử của tòa dù rằng không THQCT và KSĐT đối với tất cả các vụ án

trước đó. Do vậy, mà hình thức phối hợp “thông khâu” trong hoạt động của VKS

ở 2 giai đoạn: điều tra và xét xử (một nhóm Kiểm sát viên sẽ đảm nhiệm việc tiến

hành hoạt động THQCT và KSHĐTP ở cả 2 giai đoạn) không phải lúc nào cũng

thực hiện được một cách thuận lợi do bị phụ thuộc vào hoạt động chuẩn bị xét xử

của tòa án. Cũng thật là phiến diện nếu không xem xét ưu điểm nổi bật của hình

thức tổ chức THQCT và KSHĐTP “chuyên khâu” (tách biệt giai đoạn điều tra và

xét xử) đã được tổ chức thực hiện trong ngành Kiểm sát trước đây. Đó là sự ưu

việt thể hiện qua khả năng khắc phục tính chủ quan (khuyết điểm của hình thức

117

gắn kết hoạt động THQCT và KSHĐTP giữa hai giai đoạn điều tra và xét xử)

trong việc phát hiện và khắc phục những thiếu sót của quá trình điều tra và KSĐT.

2.3.2 Thực trạng vị trí, vai trò của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong

điều tra vụ án hình sự ở Việt nam hiện nay

Thẩm quyền điều tra của CQĐT ở nước ta được phân định theo tổ chức hệ

thống CQĐT trong các bộ, ngành. Theo quy định hiện hành hệ thống CQĐT được

phân thành 3 nhóm CQĐT chuyên trách: CQĐT trong Công an nhân dân (gồm Cơ

quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra); các CQĐT trong Quân đội

nhân dân (gồm CQĐT hình sự, cơ quan An ninh điều tra); CQĐT thuộc VKS

(gồm CQĐT thuộc VKSND tối cao và CQĐT thuộc VKS quân sự trung ương).

Thẩm quyền điều tra của các CQĐT được sự phân định tính theo chất của tội

phạm, lãnh thổ, tượng phạm tội, phụ thuộc vào thẩm quyền xét xử của tòa án nhân

dân hoặc tòa án quân sự và được giao cho CQĐT chuyên trách. Ngoài các CQĐT

chuyên trách, còn có các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra đối với một số tội phạm xảy ra trong một số lĩnh vực quản lý hành

chính Nhà nước như đơn vị Bộ đội biên phòng nơi biên giới, hải đảo, Kiểm lâm,

Hải quan, Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân

dân. Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong

khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng thì

khởi tố, điều tra và kết luận điều tra; còn những tội phạm nghiêm trọng, phức tạp

thì khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho

CQĐT chuyên trách có thẩm quyền.

Theo lý luận chung, điều tra vụ án hình sự của CQĐT là một bộ phận của

hoạt động công tố, chức năng Hiến định của VKS. Mọi vấn đề liên quan đến việc

khởi tố, áp dụng các BPNC tội phạm và người phạm tội trong giai đoạn điều tra

đều do VKS xử lý, quyết định. VKS còn thực hiện chức năng KSĐT để bảo đảm

hoạt động điều tra tuân thủ pháp luật; phát hiện, yêu cầu CQĐT khắc phục vi

phạm pháp luật trong hoạt động điều tra. Với vị trí, vai trò đó, VKS được đánh giá

như là cơ quan quyết định cuối cùng các nhiệm vụ tố tụng trong giai đoạn điều tra.

118

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, vị trí và vai trò trong điều tra vụ án hình sự của VKS

các cấp về cơ bản chưa thực hiện được như vậy. Điều này có nguyên nhân chủ yếu

do hầu hết CQĐT ở nước ta không độc lập như các nước mà phụ thuộc vào bộ

máy hành chính. Các Điều tra viên khi thực hiện nhiệm vụ điều tra vừa tuân theo

pháp luật, vừa phải tuân theo mệnh lệnh chỉ huy của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng

CQĐT. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, Điều tra viên trong Công an, Quân đội

đều hưởng theo hàm cấp của lực lượng vũ trang. Trong khi đó, mặc dù về lý

thuyết, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của CQĐT do pháp luật TTHS điều chỉnh và cùng tổ chức điều tra một cách thống nhất [25].

Việc đặt CQĐT trong các lực lượng vũ trang; VKS trong hệ thống cơ quan

Nhà nước dân sự dường như làm cho xã hội hiểu rằng trong mối tương quan giữa

CQĐT và VKS, dưới góc độ chính trị - xã hội, không có sự cân bằng và CQĐT

luôn được coi trọng hơn vì có hiệu quả trấn áp vi phạm pháp luật cao hơn. Tuy

nhiên, với xu hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, quan điểm này phải được

thay đổi và nhận thức lại. Đối với Việt Nam, việc CQĐT được đặt chủ yếu trong

các lực lượng vũ trang cũng là vấn đề lịch sử, khi mà CQĐT được xác định là một

trong những công cụ chuyên chính vô sản hữu hiệu nhất. Vì đặt trong lực lượng

vũ trang, nên nguyên tắc mệnh lệnh, chỉ huy có “tác động mạnh hơn” tác động tố

tụng của VKS đối với hoạt động của CQĐT. Điều tra viên của các CQĐT trong

Công an, Quân đội phải tuân thủ mệnh lệnh của người chỉ huy, đáp ứng các yêu

cầu chính trị, nghiệp vụ, pháp luật. Điều này hiện tạo ra quan điểm cho rằng, trong

hoạt động nghiệp vụ điều tra, việc tuân thủ pháp luật là yêu cầu sau cùng, đầu tiên

và trước hết phải đáp ứng yêu cầu chính trị (yêu cầu chung), nghiệp vụ (yêu cầu

riêng của ngành Công an, Quân đội). Đây là vấn đề cần được xem xét kỹ càng khi

thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực điều tra vụ án hình

sự, thì yêu cầu đảm bảo vị thế chính trị ngang bằng giữa CQĐT và VKS khi cùng

thực hiện nhiệm vụ tố tụng buộc tội, một cách thỏa đáng bằng các chế định pháp

luật [31], [32].

119

Đối với CQĐT của VKS, có quan điểm cho rằng, trong khi thực hiện

nhiệm vụ KSĐT mà VKS lại có CQĐT sẽ dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa

thổi còi”. Từ đó, những người theo quan điểm này cho rằng, không nên bố trí

CQĐT trong ngành Kiểm sát. Quan điểm này chưa phù hợp với bản chất chức

năng công tố vì suy đến cùng CQĐT cho dù có được tổ chức ở đâu thì cũng là để

giúp cho Cơ quan công tố đưa vụ án ra tòa và buộc tội người phạm tội trước tòa

án. Kinh nghiệm các nước cho thấy, mỗi quốc gia đều tổ chức bộ máy CQĐT

trong lực lượng Cảnh sát, trong Quân đội, nhưng nhiều nước vẫn giữ lại và giao

cho VKS (Viện công tố) có thẩm quyền điều tra một số loại tội phạm nhất định;

thậm chí có nước còn giao cho VKS (Viện công tố) trực tiếp điều tra bất kỳ vụ án nào khi xét thấy cần thiết [65].

Hiện nay, các CQĐT trong Công an nhân dân vừa có thẩm quyền điều tra

tố tụng, vừa điều tra trinh sát (điều tra bí mật). Vào những năm 50 của thế kỷ XX,

lực lượng điều tra đã từng thực hiện đồng thời hai chức năng điều tra tố tụng và

điều tra trinh sát, đã từng phạm phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc bắt,

giam giữ và thu thập chứng cứ. “Công tác bắt, giam, giữ đã phạm những sai lầm tả

khuynh và hữu khuynh”. Công tác hỏi cung đã có những sai lầm nghiêm trọng

như hỏi cung để thay thế điều tra “trọng cung hơn trọng chứng”, dùng cực hình,

hay dụ dỗ, mớm cung, bức cung, hỏi cung nhằm mục đích buộc tội là chính chứ

không phải để hiểu địch, biết địch, truy kích địch. Về khía cạnh tổ chức điều tra,

điều tra công khai phải theo TTHS và hỏi cung phải chuyên trách, nếu vừa làm

trinh sát bí mật, vừa hỏi cung sẽ khó đạt được mục đích, dễ bị sai lầm chủ quan, dễ bức cung, mớm cung theo nhận định chủ quan của trinh sát ban đầu”[23]. Để

khắc phục tình trạng này, hoạt động điều tra tố tụng và điều tra trinh sát đã được

tách riêng thành điều tra tố tụng và điều tra trinh sát.

Tuy nhiên, từ năm 2004 trở lại đây, mô hình kết hợp giữa điều tra tố tụng

và điều tra trinh sát lại được sát nhập làm một, trong khi VKS tiến hành THQCT

và kiểm sát các hoạt động điều tra công khai theo tố tụng. Do đó, vấn đề đặt ra là

ai giám sát, kiểm sát các hoạt động điều tra tiền tố tụng hoặc hoạt động điều tra

120

trinh sát nói chung, việc kiểm sát hoạt động điều tra trinh sát đang bỏ trống [25].

Việc giao cho CQĐT được áp dụng đồng bộ cả biện pháp điều tra tố tụng và điều

tra trinh sát tuy đã tạo sự chủ động trong điều tra, khám phá tội phạm, nhưng cũng

bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là vi phạm các thủ tục tố tụng và các lực lượng trinh sát

bị lôi cuốn vào hoạt động điều tra mà coi nhẹ công tác phòng ngừa tội phạm.

Việc phân định thẩm quyền điều tra giữa CQĐT các cấp ở nước ta nói

chung căn cứ vào thẩm quyền xét xử của tòa án, theo tính chất của tội phạm, lãnh thổ và đối tượng phạm tội [48] là chưa phù hợp. Tuy có thuận lợi là phân định

tương đối rành mạch thẩm quyền của từng cấp điều tra (cấp huyện, cấp tỉnh, cấp

Bộ), nhưng thực tiễn cho thấy, do tính chất phức tạp của vụ án hình sự dẫn đến

nhiều trường hợp CQĐT cấp trên còn phải điều tra nhiều vụ án về những tội phạm

thuộc thẩm quyền của CQĐT cấp dưới nên việc phân định thẩm quyền điều tra

theo thẩm quyền xét xử của tòa án, theo lãnh thổ và theo đối tượng phạm tội bộc

lộ nhiều hạn chế, nhất là tính pháp chế, tính rành mạch và rõ ràng về thẩm quyền,

nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT. Điều này đặt ra vấn đề không chỉ phân định

thẩm quyền điều tra theo thẩm quyền xét xử mà còn phải căn cứ vào tính chất

phức tạp của vụ án hình sự.

Về thẩm quyền của VKS trong giai đoạn điều tra cũng như trong các giai

đoạn tố tụng khác chưa được BLTTHS qui định cụ thể mà chỉ được xác định trên

cơ sở những qui định chung của BLTTHS năm 2003 về chức năng, nhiệm vụ của

VKS (Điều 23), nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của ngững người tiến hành tố

tụng trong VKS (Điều 36, 37), nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều

tra (Điều 112,113) và các qui định về thẩm quyền chuyên biệt của VKS trong giai

đoạn điều tra và Luật tổ chức VKSND. Vấn đề này gây ra việc hiểu cũng như vận

dụng pháp luật không thống nhất về phạm vi thẩm quyền của VKS trong tố tụng

hình sự và tỏ ra không phù hợp với hệ thống CQĐT và các cơ quan khác được

BLTTHS năm 2003 cho phép tiến hành một số hoạt động điều tra. Sự không rõ

ràng của BLTTHS hiện hành trong qui định thẩm quyền của VKS trong tố tụng

cũng làm nảy sinh những bất hợp lý trong thực tiễn hoạt động tố tụng của VKS

121

như việc ủy quyền truy tố. Trên thực tế, việc xác định thẩm quyền của VKS căn

cứ vào tính “cùng cấp” với CQĐT và tính “cùng cấp” này lại được thể hiện không

rõ ràng trong BLTTHS. Thực tế hiện đang tồn tại cách hiểu về thẩm quyền tiến

hành các hoạt động thuộc về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong điều tra hình sự

một cách tự nhiên rằng nơi nào có hoạt động điều tra thì nơi đó phải có hoạt động

kiểm sát, đặc biệt trong trường hợp kiểm sát hoạt động điều tra do các chủ thể

khác ngoài CQĐT thực hiện.

2.4. Hạn chế và nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trong hoạt động

thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án h nh sự

2.4.1 Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của VKS trong giai đoạn điều

tra cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhìn chung, VKS các cấp chưa thực hiện

đầy đủ trách nhiệm trong thực thi chức năng, nhiệm vụ như pháp luật quy định. Điều đó thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau [58]:

Trong việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, VKS còn thụ động, phụ

thuộc vào hoạt động của CQĐT, chưa thể hiện được vai trò chủ động và quyết

định của VKS đối với các hoạt động phát động công tố, khai cuộc điều tra.

VKS còn buông lỏng trách nhiệm đối với các hoạt động thu thập chứng cứ,

lập hồ sơ vụ án, xử lý vật chứng của CQĐT, dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc

phải điều tra bổ sung....Trách nhiệm trong phê chuẩn bắt khẩn cấp, gia hạn tạm

giữ, tạm giam, bắt tạm giam còn thấp; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và các

quyết định tố tụng khác của CQĐT còn chủ quan dựa vào hồ sơ của CQĐT mà

thiếu thẩm tra chu đáo nên còn để xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm; làm oan người

vô tội; tình hình vi phạm pháp luật trong bắt, giam, giữ và lạm dụng bắt khẩn cấp,

lạm dụng bắt quả tang vẫn còn xảy ra; việc tạm giam còn nhiều, trong khi việc áp

dụng các BPNC khác như đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, bảo lĩnh, cấm

đi khỏi nơi cư trú kém phát huy hiệu quả.

Thêm vào đó, sự thụ động, trì trệ trong hoạt động tác nghiệp KSĐT của

một bộ phận Kiểm sát viên hiện càng nghiêm trọng hơn phải kể đến tác động tiêu

122

cực từ tâm lý lo sợ việc gánh chịu trách nhiệm theo qui định của Luật trách nhiệm

bồi thường Nhà nước.

Trong THQCT, VKS mới chỉ chú trọng đến việc truy cứu TNHS đối với

người phạm tội trong từng vụ án cụ thể; chưa tổng kết rút kinh nghiệm THQCT và

KSĐT đối với từng loại tội phạm nên đường lối công tố có lúc, có nơi vẫn chưa

nhạy bén với sự chuyển biến mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế - xã hội, hội nhập

quốc tế để có biện pháp xử lý phù hợp; chưa quan tâm đúng mức yêu cầu làm rõ

nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để kiến nghị áp dụng các biện pháp phòng

ngừa hoặc góp phần tăng cường hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước.

Theo số liệu trong các báo cáo tổng kết công tác kiểm sát từ 2004 đến 2013

[59], VKSND các cấp chưa chủ động trong thực hiện hoạt động THQCT, còn để

xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, đặc biệt là trong điều tra, xử

lý nhóm tội phạm về kinh tế, chức vụ, tham nhũng; tỉ lệ tạm đình chỉ điều tra do

chưa xác định được đối tượng gây án và do bị can trốn còn cao (khoảng 16-17%);

tỉ lệ đình chỉ điều tra còn lớn trong cơ cấu giải quyết án hình sự (khoảng 6-7%),

trong đó đáng lưu ý số vụ đình chỉ do bị can không phạm tội còn xảy ra khoảng trên 0,1% tổng số án thụ lý khởi tố, điều tra hàng năm.

Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ mới chỉ tập trung vào công

tác THQCT mà chưa coi trọng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động

điều tra nên chất lượng, hiệu quả điều tra, THQCT còn hạn chế. Điển hình, số

lượng vụ án bị trả hồ sơ điều tra bổ sung hàng năm giữa các Cơ quan tiến hành tố

tụng còn chiếm tỉ lệ cao. Từ 2006 - 2013, tòa án các cấp đã trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung là 19.745 vụ, chiếm tỷ lệ 4,07% trên tổng số 484.543 vụ án đã

được VKS truy tố (Phụ lục 2.1). Số vụ án tòa án cấp tỉnh các địa phương trả lại

các đơn vị nghiệp vụ của VKSND tối cao trong các năm 2008 và 2009 lên tới

44,5%; Số bị cáo tòa án tuyên không phạm tội vẫn còn xảy ra, có những trường

hợp oan, sai nghiêm trọng; Việc giải quyết vụ án còn để kéo dài, nhất là đối với

các vụ án tham nhũng, buôn lậu lớn do các cơ quan tố tụng cấp trung ương thụ lý

giải quyết; Thủ tục rút gọn đối với các vụ án ít nghiêm trọng, chứng cứ đơn giản

123

và lai lịch người phạm tội rõ ràng ít được áp dụng, chỉ khoảng 01% trong tổng số

án thụ lý hàng năm.

2.4.2 Nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan

Sự phát triển của kinh tế thị trường, của khoa học công nghệ, sự phát triển

mở rộng về qui mô và phạm vi của tội phạm, sự thông đồng hay móc nối giữa

người có chức vụ quyền hạn với những phần tử tiêu cực ngoài xã hội làm xuất hiện

nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt.

Do sự chưa hợp lý trong quy định của pháp luật dẫn đến VKS chưa thực

quyền trong THQCT và KSĐT và do BLTTHS chưa gắn kết hoạt động giải quyết

tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố vào trong giai đoạn điều tra, đồng

thời chưa qui định chặt chẽ, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể thực hiện

hoạt động tố tụng, VKS gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin và quản lý tố

giác, tin báo về tội phạm. Nhiều quyết định, yêu cầu của VKS, của Kiểm sát viên

không được CQĐT và Điều tra viên thực hiện, trong khi chưa có cơ chế ràng buộc

trách nhiệm, chưa có chế tài xử lý. Cơ chế tổ chức điều tra còn tách biệt với tổ

chức hoạt động công tố [58].

Một số thủ tục, thời hạn trong BLTTHS (như thủ tục xét phê chuẩn các

quyết định của CQĐT; giao nhận các quyết định tố tụng...), còn chưa phù hợp với

thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm (các vụ phạm tội ngày càng đa dạng và

phức tạp, có nhiều bị can phạm nhiều tội, phạm tội ở nhiều địa bàn khác nhau, có

nhiều người bị hại, nhiều người làm chứng). Thủ tục khởi tố, điều tra còn đậm nét

hành chính, phụ thuộc nhiều vào người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng.

Các quyền hạn tố tụng chưa phân định rõ ràng giữ quyền năng tố tụng và quyền

năng quản lý trong TTHS nên gây cho Điều tra viên, Kiểm sát viên là những

người trực tiếp thực hiện hầu hết các hành vi tố tụng sự thụ động, ỷ lại cấp trên,

dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài.

Nhu cầu giám định làm căn cứ khoa học cho việc giải quyết các vụ án là rất

lớn và ngày càng gia tăng trong khi cơ quan giám định chưa đủ khả năng, nhất là

124

giám định tài chính - kế toán, tin học, xây dựng... Thời hạn giám định chưa được

quy định nhưng thời hạn điều tra, truy tố, xét xử và các thời hạn tố tụng khác thì

luật quy định rất chặt chẽ, khắt khe đã gây nhiều áp lực cho các cơ quan tiến hành

tố tụng. Hệ thống các cơ quan giám định tư pháp (giám định pháp y, giám định

dấu vết, giám định khoa học kỹ thuật, giám định tài chính còn hạn chế, bất cập)

chưa được xác lập rõ ràng và đầy đủ, gây nhiều khó khăn, trở ngại cho công tác

điều tra, truy tố, xét xử.

Tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý việc đấu tranh chống tội phạm của Nhà

nước thiếu đồng bộ, có mặt chưa hợp lý. Ví dụ như: Việc tách, nhập lực lượng

điều tra tố tụng với lực lượng điều tra trinh sát là một trong những nguyên nhân

dẫn đến công tác điều tra, lập hồ sơ vụ án theo tố tụng có nhiều thiếu sót, vi phạm;

Thẩm quyền điều tra hầu hết các tội phạm thuộc về CQĐT trong Công an nhân

dân, trong khi các lĩnh vực đặc thù như Thuế vụ, Hải quan, Kiểm lâm đòi hỏi phải

có trình độ chuyên môn nhưng chưa có lực lượng điều tra để kịp thời phát hiện,

triệt để khám phá tội phạm; Điều kiện làm việc nhất là các phương tiện về kỹ thuật

và kinh phí nghiệp vụ, chưa đáp ứng một cách thỏa đáng.

Nguyên nhân chủ quan:

Hạn chế chính trong THQCT trong giai đoạn điều tra có nguyên nhân do

Kiểm sát viên còn thiếu trách nhiệm, trình độ nghiệp vụ kiểm sát còn yếu, chưa

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Việc áp dụng pháp luật thiếu thống nhất, chưa phân

định rõ ranh giới của xử lý hành chính và hình sự trong khi văn bản hướng dẫn

chưa kịp ban hành. Hoạt động của VKS có nơi còn thiếu khách quan, toàn diện

trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hoặc phối hợp một chiều với CQĐT tập

trung đấu tranh chống tội phạm mà bỏ qua vi phạm trong hoạt động điều tra hoặc

ngược lại, hoặc quá nhấn mạnh khắc phục vi phạm của CQĐT đã dẫn tới tình

trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Những khuynh hướng lệch lạc này trong

hoạt động của VKS cũng là nguyên nhân dẫn đến những sai lầm trong thu thập,

đánh giá chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong quá trình điều tra,

một bộ phận Điều tra viên chưa bảo đảm quyền đề xuất tài liệu, chứng cứ của bị

125

can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Một bộ phận Điều tra viên,

Kiểm sát viên chưa thực sự tôn trọng tri thức khoa học, kết luận của những nhà

chuyên môn khi xác định tính xác thực của chứng cứ.

Cơ cấu tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ, Kiểm sát viên ở VKS các cấp còn

chậm đổi mới. Cơ chế quản lý, điều hành việc giải quyết án hình sự luôn có sự

biến động. Ngành kiểm sát đã nhiều lần thay đổi việc quản lý “Thông khâu” và

“Chuyên khâu” giữa THQCT và KSĐT với THQCT và kiểm sát xét xử sơ thẩm.

Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo VKS các cấp còn bất cập

do nguyên nhân chủ yếu thuộc về lãnh đạo VKS các cấp còn bị hạn chế tầm nhìn

để có những biện pháp quản lý đồng bộ, hiệu quả; chưa phân tích đầy đủ tính chất

và đặc điểm từng loại hạn chế, thiếu sót chủ yếu để tập trung giải quyết; chậm bổ

sung, hoàn thiện những quy định không còn phù hợp của các quy chế nghiệp vụ

và quy chế quản lý nên đã ảnh hưởng đến kỷ luật chấp hành và làm hạn chế hiệu

quả hoạt động của bộ máy kiểm sát các cấp.

Đội ngũ Kiểm sát viên được phân công THQCT và KSĐT ở các cấp kiểm

sát hiện nay nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, vừa thiếu về số

lượng, vừa hạn chế về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Công tác quản lý, điều

hành, bố trí cán bộ, Kiểm sát viên có phần dàn đều cả về số lượng và chất lượng,

chưa chú trọng đến các vụ việc nghiêm trọng, phức tạp cũng như các địa bàn trọng

điểm, phức tạp về an ninh trật tự (thành phố lớn, các thị xã, cửa khẩu, hải cảng,

khu công nghiệp tập trung quan trọng). Việc phân công cán bộ thụ lý án nhiều lúc,

nhiều nơi còn tỏ ra bất cập, thiếu tính hợp lý, không có sự tương xứng giữa tính

chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án với bản lĩnh, trình độ năng lực của Kiểm

sát viên.

Công tác đào tạo, rèn luyện, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ, Kiểm sát viên

của một số VKS địa phương, đơn vị còn lúng túng do chưa làm tốt công tác quy

hoạch cán bộ và chưa chủ động trong công tác luân chuyển cán bộ. Một số lĩnh

vực công tác như tham mưu, tổng hợp, chậm được củng cố, kiện toàn, còn để xảy

ra tình trạng một số vị trí công tác chưa bổ nhiệm người thay thế kịp thời. Công

126

tác tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn manh mún, chưa ngang tầm với yêu

cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Kiểm sát viên chủ yếu được trang

bị kiến thức pháp luật, hầu hết chưa được đào tạo về các kiến thức chuyên ngành

khác nhất là các tri thức tài chính, kế toán, tin học, chứng khoán, còn mơ hồ về

pháp luật quốc tế và tương trợ tư pháp về hình sự; đặc biệt là chưa được đào tạo

sâu, rèn luyện thuần thục kỹ năng THQCT, KSĐT vụ án hình sự.

Việc thống kê, báo cáo tình hình hoạt động của VKS trong TTHS còn

nhiều hạn chế, nội dung không thống nhất, không có tính ổn định lâu dài, gây khó

khăn cho việc nghiên cứu, hoạch định kế hoạch, chương trình hoạt động, chế độ,

chính sách. Các biểu mẫu về các hoạt động tố tụng và các quyết định tố tụng thuộc

thẩm quyền ban hành của VKS chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa tạo được sự

thống nhất chung về trình tự, thủ tục trong việc giải quyết vụ án hình sự.

127

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Tóm lại, chương 2 đã khảo sát thực trạng hoạt động THQCT và KSĐT của

VKS bộc lộ qua thực tiễn 10 năm áp dụng từ (2004 - 2013). Qua việc xem xét,

đánh giá hiệu quả thực tiễn áp dụng của tất cả các qui định trong BLTTHS năm

2003 về nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT và VKS trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự, chương 2 đã đúc kết được 12 vấn đề khó khăn, vướng mắc trong hoạt

động THQCT và KSĐT, xuất phát từ sự chưa hợp lý, đầy đủ, toàn diện của

BLTTHS năm 2003 và các văn bản dưới luật qui định, theo trình tự tố tụng thực tế

và tính chất của các nhóm hoạt động nghiệp vụ kiểm sát, nhằm tạo sự thuận lợi,

logic cho việc nghiên cứu, trao đổi.

Để xác định những căn cứ trả lời một trong những câu hỏi nghiên cứu của

đề tài, chương 2 đã khảo sát và chỉ ra một số vấn đề từ thực tế áp dụng pháp luật

về hoạt động quản lý, điều hành, phối hợp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của

VKS trong điều tra vụ án hình sự như: Sự chưa chính xác trong qui định của

BLTTHS năm 2003 về nội dung THQCT và KSĐT; sự chưa rõ ràng về thẩm

quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tố tụng cũng như sự bó hẹp của

BLTTHS về nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên; sự chưa hợp lý của pháp luật

trong qui định về thẩm quyền điều tra và thẩm quyền, vị trí, vai trò của VKS trong

điều tra vụ án hình sự ở nước ta hiện nay.

Chương 2 đã đánh giá khái quát những hạn chế của hoạt động của VKS

trong điều tra vụ án hình sự, đồng thời chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế đó.

Đây là một trong những căn cứ để khi kết hợp với việc chỉ rõ những khó khăn

vướng mắc trong THQCT và KSĐT vụ án hình sự sẽ là cơ sở, nền tảng cho việc

xây dựng phương hướng, nội dung, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự tại Chương 3.

128

Chƣơng 3

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN

KIỂM SÁT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU

CẢI CÁCH TƢ PHÁP

Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ

án hình sự, trên cơ sở các yêu cầu cải cách tư pháp của Nhà nước ta đối với tổ

chức, hoạt động của VKSND, và thực trạng hoạt động của VKSND trong điều tra

vụ án hình sự, tác giả luận án xác định phương hướng, nội dung của nhiệm vụ

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự

theo yêu cầu cải cách tư pháp, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị được xem là

phù hợp, khả thi với nội dung sau:

3.1. Phƣơng hƣ ng nhiệm vụ nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động

của VKS trong điều tra vụ án h nh sự theo yêu cầu cải cách tƣ pháp

Thống nhất nhận thức trách nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra là

quyết định việc buộc tội trên cơ sở kết quả hoạt động điều tra

Trong giai đoạn điều tra, VKS và CQĐT có vị trí, trách nhiệm khác nhau.

CQĐT có trách nhiệm chứng minh sự thật vụ án, thu thập cả chứng cứ buộc tội và

chứng cứ gỡ tội. VKS có trách nhiệm THQCT, quyết định việc buộc tội hay gỡ tội

trên cơ sở kết quả điều tra. Trách nhiệm theo luật định, nhưng thực tế CQĐT

thường tập trung tìm kiếm chứng cứ buộc tội, hơn là chứng cứ gỡ tội. Có những

trường hợp, CQĐT lạm dụng việc bắt, tạm giữ, tạm giam thay thế các biện pháp

điều tra. Thực tế đó đã đặt ra trách nhiệm của từng cấp kiểm sát, của từng Kiểm

sát viên là phải áp dụng mọi biện pháp theo luật định một cách kịp thời, bảo đảm

việc khởi tố, điều tra, bắt, giam giữ có đủ căn cứ và hợp pháp; thể hiện đúng đắn

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, không để lọt tội phạm và người phạm

tội, không làm oan người vô tội; yêu cầu chấm dứt và xử lý nghiêm các hành vi vi

phạm pháp luật trong hoạt động điều tra.

129

Sự can thiệp của VKS vào hoạt động điều tra vừa mang tính chế ước, vừa

mang tính phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Để tăng

cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra, VKS cần chủ động

phối hợp chặt chẽ với CQĐT ngay từ đầu và trong suốt quá trình điều tra; khắc

phục tình trạng thụ động chờ CQĐT chuyển hồ sơ sang mới nghiên cứu, xét phê

chuẩn hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong quan hệ phối hợp cần xác định rõ

nhiệm vụ nào VKS phải làm theo chức năng, nhiệm vụ nào thì phối hợp với

CQĐT. Tránh khuynh hướng phối hợp một chiều; khắc phục tư tưởng hữu khuynh

né tránh, không xử lý triệt để vụ án hoặc xử lý quá nhẹ, bỏ qua vi phạm của

CQĐT dẫn đến xử lý sai lầm vụ án.

Nhận thức và thực hiện đúng đắn các biện pháp công tố trên cơ sở thực

hiện tốt hoạt động KSĐT

Mỗi hành vi, quyết định công tố đều phải có cơ sở, có căn cứ vững chắc và

hợp pháp. Khi THQCT, mỗi thủ tục tố tụng điều tra (khởi tố, bắt, giam, giữ, truy

tố) đòi hỏi Kiểm sát viên phải phân tích kỹ lưỡng sự việc, kết luận đầy đủ và đúng

đắn mới đề xuất đường lối xử lý. Khi xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của

CQĐT, Kiểm sát viên quán triệt tư tưởng khẩn trương nhưng bình tĩnh, làm có

trọng điểm, giải quyết dứt điểm, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, làm rõ các căn cứ

thực tế và căn cứ pháp luật. Để kết luận có tội hay không có tội, Kiểm sát viên cần

xem xét tính chất của hành vi khách quan kết hợp với việc xem xét ý thức chủ

quan và nhân thân (độ tuổi, năng lực pháp luật, quá khứ…) của người đã thực hiện

hành vi đó. Để quyết định việc bắt giam, Kiểm sát viên phải xem xét tính có căn

cứ và tính cần thiết của việc tạm giam bị can. Để đánh giá đúng bản chất của tội

phạm, xác định đúng tội danh ngoài việc căn cứ vào những hành vi phạm tội của

bị can, Kiểm sát viên còn phải chú ý đến tình hình chính trị của địa phương, hoàn

cảnh thúc đẩy bị can phạm tội .

Hoạt động công tố của VKS trong giai đoạn điều tra có quan hệ chặt chẽ

với hoạt động điều tra của CQĐT, của Điều tra viên. Hoạt động công tố của VKS,

của Kiểm sát viên phải thông qua hoạt động điều tra của CQĐT, của Điều tra viên

130

(người tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm,

người áp dụng các biện pháp truy nã, truy tìm người phạm tội bỏ trốn, vật chứng

là công cụ, phương tiện gây án). Việc áp dụng các BPNC phải trên cơ sở đề xuất,

văn bản đề nghị phê chuẩn của CQĐT như phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, phê

chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam. Chất

lượng hoạt động điều tra (phản ánh đúng những gì xảy ra trong hiện thực) và sự

tuân thủ đúng trình tự, thủ tục pháp luật (công khai, có người chứng kiến, đủ thành

phần; biên bản điều tra) là sự bảo đảm vững chắc để VKS THQCT một cách chính

xác, nhanh chóng; xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội; bảo vệ quyền

tự do, dân chủ của công dân; không được làm oan người vô tội ngay từ khi bắt giữ

hoặc khởi tố bị can.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ công tố, Kiểm sát viên phải có phương pháp

KSĐT như nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, tham gia các hoạt động điều tra do Điều tra

viên tiến hành. Thông qua việc nghiên cứu hồ sơ và trực tiếp tham gia các hoạt

động điều tra như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng,

thực nghiệm điều tra... Kiểm sát viên phải xác định được những vấn đề phải chứng

minh và khả năng thu thập chứng cứ của Điều tra viên để từ đó đề ra yêu cầu điều

tra (căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được và yêu cầu chứng minh của vụ

án; cách nêu vấn đề yêu cầu điều tra cụ thể và có tính khả thi). Tùy thuộc vào từng

kết quả hoạt động điều tra, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên đề xuất ban hành

các quyết định tố tụng để tiến hành điều tra, xử lý vụ việc. Chẳng hạn: nếu đủ căn

cứ để khởi tố bị can thì yêu cầu Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng

CQĐT ra quyết định khởi tố bị can hoặc nếu cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm

giam thì đề xuất ra lệnh bắt bị can để tạm giam để VKS phê chuẩn.

Vì vậy, VKS phải kiểm sát chặt chẽ các thủ tục tố tụng và kết quả các hoạt

động điều tra; phát hiện và áp dụng các biện pháp theo luật định để yêu cầu CQĐT

khắc phục kịp thời, không để xảy ra tình trạng quá trình điều tra có sai phạm

nghiêm trọng liên tục để tránh vụ án sẽ rơi vào bế tắc, kéo dài, thậm chí không

giải quyết được. VKS các cấp phải tổng hợp, phân tích vi phạm để đề ra biện pháp

131

nhằm hạn chế những vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra, nhất là những

ảnh hưởng tiêu cực, những tác động trái pháp luật của các chỉ thị, mệnh lệnh hành

chính đối với Điều tra viên.

Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, Kiểm sát viên phải có

tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, Nhà nước, xã hội, trước số phận con người

để giải quyết tốt vụ việc

Kiểm sát viên phải trung thành với đường lối, chính sách của Đảng, bảo vệ

chế độ Nhà nước và định hướng hoạt động công tố vì lợi ích của nhân dân. Kiểm

sát viên không phải chỉ nắm vững và biết áp dụng pháp luật, thành thạo các biện

pháp chuyên môn mà còn là người cán bộ của Đảng biết làm tốt công tác tư tưởng,

biết phát động quần chúng, biết tổ chức quần chúng làm theo đường lối của Đảng,

tích cực tham gia đấu tranh chống các tội phạm và vi phạm pháp luật. Mỗi Kiểm

sát viên phải nắm vững chính sách pháp luật hình sự, tinh thông nghiệp vụ, thường

xuyên nâng tầm hiểu biết, hiểu lòng dân. Trách nhiệm công tố phải gắn với việc

thực hiện nhiệm vụ chính trị, nâng cao lập trường chủ động đấu tranh với các loại

tội phạm và giải quyết tốt mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; tránh tư tưởng thực

hiện hoạt động pháp lý đơn thuần hoặc thực hiện hoạt động chuyên môn nghiệp

vụ tách rời chính trị; đồng thời đổi mới phương thức, nâng cao kỹ năng công tố.

Trong công tác, Kiểm sát viên vừa phải chú ý đến nhiệm vụ quan trọng vừa tăng

cường đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vừa chú trọng

bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân. Kiểm sát viên phải nâng cao nhận thức

để có khả năng thuyết phục người phạm tội nhận thấy lỗi lầm để sửa chữa, để khai

ra đồng phạm mà lập công chuộc tội, hạn chế việc bắt, tạm giữ, tạm giam, mở

rộng việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế ngoài trại giam như cho bảo lĩnh, đặt

tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.

Cần lưu ý rằng, khi THQCT, Kiểm sát viên nhân danh quyền lực Nhà nước

trong quan hệ pháp luật với các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trong quan hệ này,

Kiểm sát viên luôn phải đối mặt với tiêu cực, với những mặt trái của xã hội nên

đòi hỏi phải nhận thức được những tiêu cực, mặt trái này được gây ra trực tiếp

132

bởi: những hành vi phạm tội tàn ác do những con người tham lam, tư lợi, đố kỵ

gây ra và họ luôn tìm cách chống đối, lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật, bất

chấp mọi thủ đoạn để mua chuộc, xoá dấu vết nhằm che giấu hành vi phạm tội;

hoặc do có những thân phận bị hoàn cảnh thúc bách, xô đẩy mà nhất thời phạm

tội; hoặc do có những thân phận bị hại, người đã chịu đau thương về tinh thần và

thể xác, bị mất mát của cải do tội phạm gây ra. Sự nhạy cảm nghề nghiệp của

Kiểm sát viên thể hiện khả năng quan hệ, giao tiếp với nhân dân, sự hiểu người

dân, hiểu đời, hiểu người của họ.

Kiểm sát viên phải nắm vững bản chất pháp lý của vụ việc đang điều tra, về

việc buộc tội, nâng cao phẩm chất nghề nghiệp thực hành quyền công tố trong

hoạt động điều tra

Sự nhạy cảm và phẩm chất nghề nghiệp của Kiểm sát viên trước hết thể

hiện qua việc hiểu rõ chức trách, nhiệm vụ của mình khi THQCT, đề xuất các

quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền của VKS một cách chính xác, kịp thời, đúng

bản chất sự việc. Kiểm sát viên, trước hết, phải xác định vụ việc đang điều tra là

sự kiện pháp lý hình sự, dân sự, hay hành chính. Khi xem xét các tình tiết thực tế

của vụ việc, Kiểm sát viên phải làm rõ tính chất pháp lý của sự kiện và phải xác

định được rằng sự kiện pháp lý hình sự phải do hành vi nguy hiểm cho xã hội do

con người gây ra. Kiểm sát viên phải xác định vụ án hình sự đang thụ lý giải quyết

thuộc loại tội nào, xâm phạm đến khách thể nào được luật hình bảo vệ và việc tiến

hành tố tụng đối với vụ án này thuộc thẩm quyền cấp nào, theo trình tự, thủ tục và

thời hạn... để lựa chọn đúng các điều khoản của BLHS để xác định tội danh,

khung hình phạt; lựa chọn đúng các điều khoản của BLTTHS để giải quyết vụ án

đúng thủ tục, thẩm quyền.

Kiểm sát viên phải chấp hành tốt nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất

của ngành Kiểm sát; cần nắm rõ phạm vi nhiệm vụ nào thuộc trách nhiệm của

lãnh đạo đơn vị kiểm sát, phạm vi nhiệm vụ nào thuộc trách nhiệm của Kiểm sát

viên. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước lãnh đạo về tiến độ giải quyết vụ

án, về chứng cứ thu thập được, về các thủ tục tố tụng, để đề xuất các quyết định tố

133

tụng có căn cứ và hợp pháp. Trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị kiểm sát là quyết

định đường lối khởi tố, áp dụng các BPNC cũng như việc xử lý vụ án nói chung.

3.2. Nội dung nâng nhiệm vụ cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của

Viện kiểm sát trong điều tra vụ án h nh sự

Xây dựng các thủ tục tố tụng phù hợp với tổ chức hệ thống cơ quan xét xử

và VKS bốn cấp

BLTTHS hiện hành chỉ quy định hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng

theo ba cấp tương đương cấp hành chính: Huyện, tỉnh và Trung ương. Việc tổ

chức hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng theo hình thức này đã tỏ ra nhiều bất

cập trên thực tiễn, cụ thể như:

Không giải quyết được sự bất hợp lý về sự chênh lệnh nhau về mức độ

phát triển kinh tế, xã hội, mật độ dân cư, mức sống, kéo theo tình hình vi phạm,

tội phạm diễn biến rất khác nhau về mức độ và tính chất giữa các địa bàn hành

chính như giữa nông thôn với thành thị, giữa vùng đồng bằng trù phú với vùng

cao nguyên hẻo lánh. Điều này làm cho khả năng phòng chống tội phạm của các

cơ quan tiến hành tố tụng mất cân đối giữa các vùng, miền.

Việc bó hẹp thẩm quyền tố tụng ở từng vùng, miền làm giảm khả năng

phòng chống tội phạm trên bình diện toàn quốc và quốc tế, tội phạm trong lĩnh

vực thương mại quốc tế, tội phạm sử dụng công nghệ cao, sử dụng internet, là các

loại tội phạm có địa bàn phạm tội phức tạp, rộng lớn. Việc tổ chức hệ thống cơ

quan tiến hành tố tụng theo địa bàn hành chính cũng làm giảm hiệu quả phối hợp

giữa các cơ quan tiến hành tố tụng các địa phương trong lĩnh vực phòng chống tội

phạm nói chung.

Do vậy, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, đặt ra phương hướng tổ chức

tòa án và VKS vừa kết hợp theo trình tự tố tụng, vừa kết hợp với đơn vị hành

chính bao gồm: Tòa án nhân dân Tối cao tương đương là VKSND Tối cao; Tòa án

nhân dân cấp cao tương đương là VKSND cấp cao chuyên môn làm nhiệm vụ

phúc thẩm trên quy mô vùng (không có đơn vị hành chính tương đương, trước mắt

được thành lập tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP.Hồ Chí Minh); Tòa án nhân dân tỉnh,

134

thành phố trực thuộc Trung ương tương đương là VKSND tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương; Tòa án nhân dân cấp huyện, tương đương là VKSND cấp

huyện [7].

Tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra; thực

hiện cơ chế gắn công tố với điều tra

Tăng cường vai trò, trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều tra nhằm

bảo đảm: “Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời,

không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; không để

người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân,

bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách

trái pháp luật”. Theo đó, VKS có nhiệm vụ, tham gia sớm hơn vào quá trình điều

tra, ngay từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm; quyết định các nhiệm vụ tố tụng

trong giai đoạn khởi tố, điều tra, chỉ đạo hoạt động điều tra theo trình tự TTHS và

yêu cầu pháp luật nhưng không can thiệp vào tác nghiệp điều tra của CQĐT.

Vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm có tác động

tích cực đến hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra ở chỗ nó trở thành mục

đích hoạt động của VKS trong giai đoạn này. Để có thể tự tin tranh tụng một cách

bình đẳng, sòng phẳng với bên bào chữa, VKS không thể qua loa, dễ dãi với

CQĐT và với kết quả của hoạt động điều tra. Bởi nếu thiếu tinh thần trách nhiệm

hay dễ dãi, qua loa đối với việc tuân thủ nghiêm qui định của BLTTHS trong quá

trình điều tra của CQĐT, tại phiên tòa sơ thẩm VKS sẽ không thể tranh tụng hiệu

quả và khi đó, nguy cơ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của ngành Kiểm

sát và uy tín của chính cá nhân Kiểm sát viên thụ lý vụ án là tất yếu [77].

Để tăng cường trách nhiệm của VKS đối với hoạt động điều tra, phương

hướng chính của việc sửa đổi BLTTHS năm 2003 là: tiếp tục bổ sung các quy

định về vai trò, trách nhiệm của VKS trong tố tụng điều tra thông qua việc xác

định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền cũng như mối quan hệ tố tụng giữa

CQĐT và VKS trong việc thực hiện chức năng buộc tội; phân định thẩm quyền

quản lý hành chính và quyền hạn tố tụng của chức danh Viện trưởng, phó Viện

135

trưởng VKS; quy định rõ ràng, hợp lý, có trọng tâm giữa thực hiện chức năng

công tố và chức năng KSĐT trong giai đoạn điều tra; xây dựng các quy định buộc

VKS phải thể hiện tính có căn cứ, chính xác, phù hợp với qui định của pháp luật

trong yêu cầu điều tra và quyết định tố tụng của mình.

Việc nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra, về

thực chất, là xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền và xác định lại mối

quan hệ tố tụng giữa VKS và CQĐT trong hoạt động điều tra là quan hệ “chế ước,

chỉ huy” hay quan hệ “phối hợp, chế ước” như hiện nay. Nhưng dù theo mô hình

TTHS và tính chất của mối quan hệ giữa VKS và CQĐT như thế nào đi nữa, trong

TTHS đặc biệt là trong giai đoạn điều tra, VKS phải giữ vai trò chi phối, quyết

định đối với hoạt động điều tra và kết quả điều tra để tạo cơ sở thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn của cơ quan công tố. Về vấn đề này, hiện đang còn ý kiến khác

nhau nhưng tựu chung, xét về vị trí, vai trò của VKS trong hệ thống chính trị Nhà

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về điều kiện nhân lực, về cơ sở vật

chất kỹ thuật và truyền thống pháp luật, có thể kết luận được rằng hiện nay chưa

thích hợp để xây dựng và thực hiện mô hình công tố lãnh đạo điều tra trong tố

tụng hình sự theo đúng nguyên nghĩa của nó. Con đường thích hợp khi tiến hành

cải cách cơ quan công tố Việt Nam có lẽ là thực hiện cơ chế công tố lãnh đạo điều

tra nhưng chỉ dừng lại ở mức độ tăng cường và làm hiệu quả hơn các quyền năng

của cơ quan công tố bằng pháp luật và các phương diện bổ trợ khác (cơ sở vật

chất, nhân lực, đào tạo) nhằm tạo ra sự chủ động, linh hoạt trong các tác nghiệp

kiểm sát có ý nghĩa tác động, chi phối một cách có hiệu quả hoạt động điều tra, từ

đó kiểm soát được quá trình điều tra để có thể thực hiện ngày càng hiệu quả hơn

quyền năng THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra. Do vậy, có thể xác định

được rằng, mục tiêu trước mắt của công cuộc cải cách tư pháp đối với hoạt động

của VKS và CQĐT là thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm của VKS

trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra” và mục tiêu lâu dài của công

cuộc cải cách tư pháp này đó là “Công tố chỉ đạo điều tra”. Nói cách khác, quá

trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằn thực hiện yêu cầu cải cách tư

136

pháp“công tố chỉ đạo điều tra” cần phải được thực hiện với mức độ và bước đi

hợp lý khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật, nhằm đạt được tính khả thi cao do có

sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế hiện nay của Việt Nam.

Về mặt lý luận và thực tiễn cho thấy, công tố chỉ đạo hoạt động điều tra,

được thực hiện bằng phương thức chủ yếu mang tính quyết định các nhiệm vụ tố

tụng trong giai đoạn điều tra xét trên các phương diện sau đây:

+ Cơ quan công tố có trách nhiệm quyết định việc phát động công tố

quyền, mở cuộc điều tra theo trình tự TTHS. Theo đó, cơ quan này phải làm đầu

mối quản lý mọi tố giác, tin báo về tội phạm từ các nguồn chuyển đến. CQĐT có

nhiệm vụ phải xác minh các nguồn tin về tội phạm theo yêu cầu và thời hạn, kịp

thời báo cáo kết quả xác minh để Cơ quan công tố xem xét, quyết định việc khởi

tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Làm như vậy, sẽ hạn chế được việc bỏ lọt

các tố giác, tin báo về tội phạm và đơn giản thủ tục Cơ quan công tố trực tiếp khởi

tố vụ án hình sự [22].

+ Cơ quan công tố quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC và

các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác như khám xét, tạm giữ đồ vật, kê biên tài

sản, phong tỏa tài khoản của đối tượng trong vụ án. Theo đó, Cơ quan công tố trực

tiếp ra quyết định áp dụng các BPNC như bắt bị can để tạm giam, tạm giam, quyết

định đặt tiền để bảo đảm, bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, trừ biện pháp bắt khẩn

cấp, khám xét khẩn cấp vẫn thuộc quyền chủ động của CQĐT vì được tiến hành

trong những trường hợp không thể trì hoãn được nhằm kịp thời ngăn chặn tội

phạm và việc tẩu tán tài sản, vật chứng của vụ án.

+ Trong quá trình điều tra, cơ quan công tố nêu phương hướng, yêu cầu

điều tra để làm rõ các vấn đề: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, ai là người

thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi; do cố ý hay vô ý; có năng lực

TNHS hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết

giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo;

tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Trước khi làm rõ những

vấn đề chứng minh do luật định, CQĐT còn phải chứng minh nhiều vấn đề thực tế

137

khác. Do đó cũng đặt ra yêu cầu, chỉ đạo điều tra phải được thực hiện nhằm thu

thập chứng cứ chứng minh những vấn đề trong vụ án do luật định.

+ Cơ quan công tố quyết định việc kết thúc điều tra. Sau khi xem xét thấy

chứng cứ, nội dung vụ án đã được làm sáng tỏ và các thủ tụng tố tụng đã đầy đủ,

thì Cơ quan công tố yêu cầu CQĐT kết thúc điều tra, làm bản kết luận điều tra đề

nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra đối với vụ án, đình chỉ điều tra đối với bị can.

Với việc phân định vị trí, vai trò như trên, CQĐT vẫn hoàn toàn chủ động

trong hoạt động điều tra để làm sáng tỏ nội dung vụ án; Công tố viên không làm

thay công việc của Điều tra viên, mà đóng vai trò dẫn đường, quyết định việc buộc

tội, gỡ tội trong giai đoạn điều tra. Không sợ cơ quan công tố lạm quyền vì cơ

quan công tố không có quyền lập pháp, không có quyền hành chính, kể cả ra án lệ

như tòa án một số nước và cũng không có quyền quyết định hình phạt đối với bị

cáo. Bởi vì lẽ đơn giản là cơ quan công tố chỉ thực thi pháp luật, bảo đảm việc

truy cứu TNHS trong giai đoạn điều tra có căn cứ và hợp pháp, để đưa người

phạm tội ra tòa, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người

phạm tội.

Để thực hiện cơ chế “gắn” công tố với điều tra, cần xác định các nguyên

tắc sau khi qui định mối quan hệ giữa VKS và CQĐT trong BLTTHS mới:

Về hình thức, “gắn” công tố với điều tra theo hai hướng: Gắn kết hoạt

KSĐT với hoạt động điều tra để loại trừ vi phạm pháp luật; Gắn kết kết quả điều

tra với kết quả THQCT để tăng cường hiệu quả chức năng buộc tội của cả VKS và

CQĐT, nhằm đạt được mục tiêu THQCT. Tuy nhiên, cần xác định rõ ràng rằng

việc “Thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra” không phải là “Kết

hợp hay gắn công tố với điều tra làm một”. Về tổ chức và hoạt động, cơ quan

VKS và CQĐT không phải là một, mà là hai hệ thống cơ quan độc lập, riêng biệt;

hoạt động công tố và hoạt động điều tra là hai loại hình hoạt động khác nhau. Do

vậy, yêu cầu đặt ra là hai cơ quan phải thực hiện đúng và đầy đủ chức năng công

tố và chức năng điều tra của từng cơ quan nhưng vẫn bảo đảm có sự chế ước và

phối hợp chặt chẽ trên cơ sở chức năng của mỗi cơ quan trong công tác đấu tranh

138

phòng chống tội phạm, đồng thời cũng bảo đảm tránh sự chồng chéo, trùng lặp

dẫn đến chức năng, nhiệm vụ không rõ ràng trong hoạt động điều tra. Việc một cơ

quan cùng giữ hai chức năng khác biệt là công tố và điều tra làm cản trở tính độc

lập và công bằng của quá trình tố tụng. Trong một số trường hợp nhất định và chỉ

trong một số trường hợp cụ thể đối với một vài loại tội nhất định thì Cơ quan công

tố mới trực tiếp tiến hành điều tra mà thôi [51].

Việc điều tra hầu hết các vụ án hình sự đều do CQĐT tiến hành và chịu

trách nhiệm về chất lượng hoạt động điều tra. Cơ quan công tố không chịu trách

nhiệm thay cho CQĐT về chất lượng điều tra. Nhưng do yêu cầu cải cách tư pháp,

Cơ quan công tố phải áp dụng pháp luật để kiểm soát được chất lượng điều tra

nhằm đảm bảo chất lượng THQCT.

Cơ quan công tố căn cứ vào kết quả điều tra của CQĐT để kết luận có đủ

chứng cứ hay không, và nếu đủ chứng cứ thì quyết định truy tố bị can ra trước Cơ

quan xét xử và chịu trách nhiệm về quyết định đó [41].

Để đảm bảo chất lượng điều tra, BLTTHS mới cần xây dựng các chế định

và sự phối hợp giữa chúng thể hiện và đảm bảo quyền “Chỉ đạo về tố tụng” của

VKS đối với CQĐT để thực hiện chủ trương công tố “gắn” với điều tra là:

Khi tiếp nhận và trước khi tiến hành xử lý tố giác, tin báo về tội phạm,

CQĐT phải thông báo ngay cho Công tố viên biết trước khi tiến hành xử lý. Trong

trường hợp không thể trì hoãn và đã áp dụng biện pháp cần thiết, thì CQĐT đồng

thời cũng phải thông báo ngay các biện pháp đó cho Công tố viên;

Công tố viên phải là người quản lý hồ sơ điều tra hoặc chí ít phải được gửi

ngay các tài liệu, biên bản điều tra để thực hiện hoạt động kiểm sát. Nếu Công tố

viên không được quản lý hồ sơ thì việc chỉ đạo hoạt động điều tra sẽ rất khó thực

hiện được. Do đó trong BLTTHS, cơ chế pháp lý nhằm đảm bảo mọi kết quả của

hoạt động điều tra phải được chuyển ngay cho Công tố viên phải được xây dựng.

Đối với một số lệnh, quyết định tố tụng quan trọng ảnh hưởng đến các quyền và lợi

ích hợp pháp của người bị tình nghi phạm tội trong một thời gian dài của giai đoạn

điều tra như lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can,...thì BLTTHS mới

139

cần qui định thẩm quyền ban hành, trình thực thực hiện cũng như trách nhiệm cụ

thể của CQĐT và trình tự, quyền hạn cụ thể của VKS trong việc kiểm sát tuân theo

pháp luật đối với CQĐT, nếu như trao quyền và mở rộng quyền cho CQĐT để thể

hiện tính chủ động, hiệu quả của hoạt động điều tra; hoặc BLTTHS mới qui định

CQĐT chỉ có quyền đề nghị VKS ban hành chứ không có quyền ban hành, nếu như

trao quyền chỉ đạo, điều hành hoạt động điều tra cho VKS.

Để đảm bảo hiệu lực cho hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên nói riêng và

của VKS nói chung, điều cần thiết là BLTTHS phải quy định rõ các chế tài đối với

Điều tra viên, đối với CQĐT khi không thực hiện các yêu cầu của Kiểm sát viên.

Ví dụ như ở Nhật Bản Trưởng Cơ quan công tố có quyền yêu cầu Ủy ban an ninh

cùng cấp cảnh cáo, cách chức Điều tra viên khi họ không thực hiện lệnh, chỉ thị

của Công tố viên mà không có lý do chính đáng (Điều 194 BLTTHS Nhật Bản).

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát về trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp

Đáp ứng đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp đối với công tác của ngành

kiểm sát, mục tiêu, yêu cầu được đặt ra là phải đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,

trung thành với Đảng, tận tụy với công vụ, có đức tính như Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã dạy người cán bộ kiểm sát: “Công minh, Chính trực, Khách quan, Thận trọng,

Khiêm tốn”, có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có năng lực quản

lý, chỉ đạo, điều hành, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Để

thực hiện mục tiêu, yêu cầu nêu trên, trong thời gian tới, toàn ngành kiểm sát cần

tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây:

Quán triệt sâu sắc đến cán bộ, Kiểm sát viên VKS các cấp về ý nghĩa, tầm

quan trọng, mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tình hình mới.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện chiến lược cán bộ, có ý

nghĩa quan trọng đối với công tác xây dựng ngành kiểm sát nên phải được thực

hiện thường xuyên. Trong đó, việc trải qua một số chương trình, khóa đào tạo, bồi

dưỡng phải có tính bắt buộc để trang bị kiến thức cho cán bộ, công chức, đáp ứng

140

yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, tầm

quan trọng của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức xã hội và

đạo đức nghề nghiệp phải được đặt lên hàng đầu và phải được thực hiện thường

xuyên từ khi tuyển dụng đến khi nghỉ hưu đối với mỗi cán bộ, Kiểm sát viên, như

kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp [68].

Áp dụng các biện pháp để đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý Nhà nước về

đào tạo tạo, bồi dưỡng cán bộ, thể hiện qua việc tích cực, chủ động lập chương

trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách có chất lượng, thiết thực, có

đủ tầm nhìn, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài

Kiện toàn các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành kiểm sát về mọi

mặt để đủ sức đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Ngành theo

yêu cầu cải cách tư pháp.

Hoàn thiện và đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

nhằm vừa bảo đảm tính tổng thể của các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

Kiểm sát viên cho toàn ngành kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp vừa đáp ứng

được các yêu cầu, đòi hỏi đặt ra từ nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ trước mắt.

Mở rộng các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng nhu cầu công tác của

các đối tượng người học. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa đào tạo tại trường lớp với

việc tăng cường trách nhiệm đào tạo của người trực tiếp quản lý, sử dụng cán bộ

và việc tự đào tạo của cán bộ, Kiểm sát viên.

Xây dựng kế hoạch và chế độ khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có

trình độ chuyên môn cao, các chuyên gia giỏi có khả năng nghiên cứu, giải quyết

những vấn đề phức tạp trong hoạt động công tố và kiểm sát tư pháp nhằm thực

hiện chủ trương đào tạo nguồn nhân lực lâu dài cho ngành Kiểm sát, đáp ứng yêu

cầu hội nhập quốc tế.

Tạo sự liên thông, gắn kết giữa công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc

tế và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xem đây là biện pháp quan trọng để nâng cao chất

lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

141

Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân

dân đối với hoạt động của Viện kiểm sát

Đối với hoạt động của VKS trong điều tra hình sự, ngoài các cơ chế giám

sát theo qui định của BLTTHS năm 2003, của Luật tổ chức VKSND, của các qui

chế nghiệp vụ kiểm sát, cần xây dựng các cơ chế giám sát nội bộ (trong từng

ngành và trong liên ngành cơ quan tư pháp) và giám sát xã hội đối với HĐTP. Đối

với hình thức giám sát nội bộ, ngoài cơ chế giám sát thanh tra công vụ thì cơ chế

giám sát liên ngành Cơ quan tư pháp nói riêng và cả đội ngũ cán bộ, công chức

nói chung như hình thức giám sát của Bộ tư pháp Hoa kỳ đang làm là một kinh

nghiệm đáng học tập [69].

Giám sát xã hội là một loại giám sát đặc thù trong tổng thể cơ chế giám sát

thực thi quyền lực Nhà nước, được thực hiện bởi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các

tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề

nghiệp, hội, hiệp hội, liên hiệp hội, tổ chức phi chính phủ và công dân. Ngoài

những chủ thể nêu trên, phương tiện thông tin đại chúng và dư luận xã hội cũng

được xem là hình thức đặc biệt về chủ thể của giám sát xã hội trong việc theo dõi,

quan sát, xem xét, đánh giá hoạt động của VKS cũng như của các Cơ quan tư

pháp. Giám sát xã hội đối với hoạt động của VKS hay của các cơ quan tư pháp

đều góp phần quan trọng làm cho VKS, cán bộ và Kiểm sát viên thực hiện đúng

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định của pháp luật; phát huy quyền làm

chủ của nhân dân; bảo đảm cho các HĐTP thực hiện đúng pháp luật một cách

khách quan, hiệu quả; giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ở nước ta hiện nay, việc tham gia giám sát xã

hội đối với HĐTP được thực hiện thông qua nhiều hình thức, như: đối với công

dân, thực hiện bằng các hình thức trực tiếp tố giác và cung cấp tin báo về tội

phạm, tham dự các phiên tòa xét xử công khai, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo, tham

gia làm hội thẩm nhân dân; đối với Mặt trận Tổ quốc, thực hiện bằng các hình

thức giám sát việc thực hiện pháp luật tố tụng, việc bồi thường oan, sai trong

HĐTP, khởi kiện hoặc đề nghị VKS khởi tố, giám sát việc thi hành các bản án,

142

cùng với Cơ quan tư pháp giám sát các lĩnh vực đã ký kết theo quy chế phối hợp

như trong việc tạm giữ, tạm giam, giáo dục người chấp hành án phạt tù, công tác

đặc xá, giải quyết khiếu nại, tố cáo… Tuy nhiên về tổng thể, việc giám sát xã hội

đối với HĐTP (trong đó chủ yếu là hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và

các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc) hiện vẫn còn nhiều hạn chế, điển

hình như: Chưa có những quy định cụ thể và đầy đủ về trách nhiệm, cơ chế, hiệu

quả pháp lý cũng như những điều kiện bảo đảm khác cho hoạt động giám sát xã

hội; Phạm vi, lĩnh vực giám sát xã hội còn hạn hẹp và hiệu quả giám sát xã hội

chưa cao; Giám sát xã hội chưa trở thành một lĩnh vực hoạt động thường xuyên,

liên tục [78].

Do vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát xã hội của các chủ thể chủ yếu là

Mặt trận Tổ quốc các cấp và cá nhân công dân, ngoài yếu tố đề cao tinh thần trách

nhiệm, ý thức tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi của các cơ quan tư pháp và cán bộ

tư pháp thì yêu cầu đặt ra là cần có cơ chế pháp lý hiệu quả, đủ mạnh, làm cơ sở

vững chắc cho việc thực hiện hoạt động giám sát xã hội. Cụ thể là: cần xây dựng

và ban hành Luật Giám sát xã hội; hoàn thiện các qui định về hoạt động giám sát

xã hội theo hướng mở rộng quyền, qui định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ

thể thực hiện giám sát xã hội, của các Cơ quan tư pháp và cán bộ tư pháp, cũng

như tiến trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó trong các văn bản pháp luật liên

quan như: Luật Tổ chức VKSND, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, BLTTHS năm

2003, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Luật thi hành án dân sự, Luật tố tụng

hành chính, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật

Công đoàn, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự,…

3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của

VKS trong điều tra vụ án h nh sự theo yêu cầu cải cách tƣ pháp

3.3.1 Kiến nghị về việc đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả trong cải cách tư pháp

Hiện nay, Hiến pháp 2013, Luật tổ chức VKSND 2014; Luật tổ chức

TAND 2014 đã được ban hành. Do vậy, để có thể thực hiện cải cách tư pháp thành

công dù ở bình diện chung hay chỉ trong phạm vi hẹp đều đòi hỏi việc cải cách tư

143

pháp đối với VKS phải được thực hiện trong bối cảnh CQĐT, tòa án cũng được

cải cách tư pháp ở cả hai cấp độ hệ thống và từng cấp. Nói cách khác, cải cách tư

pháp đối với ngành kiểm sát nói chung cần phải được tiến hành một cách đồng bộ

với cải cách các cơ quan tư pháp khác nhằm bảo đảm có được một hệ thống cơ

quan tư pháp được kiện toàn một cách toàn diện, thống nhất, đồng bộ về tổ chức

và hoạt động. Trong đó, yêu cầu chung là phải phân biệt rõ nhiệm vụ, quyền hạn

của từng cơ quan bảo vệ pháp luật, tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa

các văn bản pháp luật; việc xây dựng luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động các cơ

quan tiến hành tố tụng phải đồng bộ và làm nổi bật các chức năng tố tụng đã được

xác định trong Hiến pháp, Luật tổ chức điều tra hình sự, Luật tổ chức VKSND,

Luật tổ chức Tòa án nhân dân và BLTTHS [44].

Để có được sự đồng bộ này, đòi hỏi có sự thống nhất về nguyên tắc và quan

điểm chỉ đạo đối với việc cải cách tư pháp trong từng cơ quan tư pháp và của cả

hệ thống Cơ quan tư pháp nhằm đảm bảo tính thống nhất cả trong sự chỉ đạo và

thực hiện cải cách. Do đó, cần thành lập và vận hành hiệu quả hoạt động của Ban

chỉ đạo cải cách tư pháp ở cấp Trung ương và cấp Tỉnh, Thành, với thành phần

gồm lãnh đạo Đảng và chính quyền cùng với sự tham gia của lãnh đạo các cơ

quan tư pháp và của các cơ quan hữu quan như Cơ quan Nội vụ, Cơ quan Tài

chính…Sự thống nhất chỉ đạo cải cách tư pháp này nhằm nâng cao hiệu quả phối

hợp, hỗ trợ cho các Cơ quan tư pháp mỗi cấp và để chỉ đạo một cách đồng bộ việc

đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, VKSND và CQĐT.

Việc xây dựng, hoàn thiện các Luật về tổ chức, hoạt động của CQĐT,

VKS, Toà án phải được thực hiện trên cơ sở và phát triển từ các chế định của Hiến

pháp; các chế định trong các Luật phải tương hỗ lẫn nhau, phù hợp với chức năng

Hiến định và chức năng tố tụng của từng cơ quan và hơn hết phải thể hiện được

mục tiêu cải cách tư pháp đã được xác định tại Nghị quyết 49- NQ/TW ngày

02/6/2005 và Kết luận 92- KL/TW ngày 12/3/2014 là “xây dựng nền tư pháp trong

sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục

vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc”. Trong đó, các Luật cần được xây dựng theo cấu

144

trúc pháp lý nhất định nhằm thực hiện được các nhiệm vụ: xác định rõ mối quan

hệ giữa hoạt động điều tra theo tố tụng hình sự và hoạt động trinh sát; chống oan

sai, bỏ lọt tội phạm; mở rộng tranh tụng; tăng cường giám sát của cơ quan dân cử

và của nhân dân.

BLTTHS sửa đổi, ngoài việc thể hiện rõ chủ trương “tăng cường trách

nhiệm của công tố trong điều tra vụ án hình sự, gắn công tố với điều tra”, cần xây

dựng tiến trình TTHS bao gồm các giai đoạn tố tụng hình sự một cách rõ ràng về

thời điểm bắt đầu và kết thúc; nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Quan trọng là BLTTHS mới

cần xây dựng một chế định mới với qui định rõ ràng rằng giai đoạn điều tra ban

đầu – giai đoạn điều tra tiền khởi tố, có nhiệm vụ thụ lý tin báo, tố giác về tội

phạm và kiến nghị khởi tố, là giai đoạn tố tụng đầu tiên của tiến trình TTHS.

Việc cải cách tư pháp nói chung và cải cách tư pháp đối với ngành kiểm sát

nói riêng sẽ khó có thể đạt hiệu quả mong đợi nếu như không gắn với nhiệm vụ

cải cách thủ tục hành chính tư pháp. Theo đó, các thủ tụng TTHS và các thủ tụng

quản lý, điều hành hoạt động tư pháp phải được đơn giản hoá và minh bạch, tránh

khuynh hướng vì chú trọng, tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà trở

nên phức tạp, rườm rà.

Để đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả trong cải cách tư pháp không chỉ quan

tâm đến sự bổ sung, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp mà

còn phải chú trọng đến việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ

trợ tư pháp. Rõ ràng rằng hoạt động bổ trợ tư pháp có ý nghĩa rất quan trọng đối

với khả năng và điều kiện giải quyết đúng đắn vụ án của các cơ quan tiến hành tố

tụng cho nên việc nâng cao hiệu quả hoạt động bổ trợ tư pháp, trong mọi trường

hợp, đồng nghĩa với việc tăng cường khả năng hoàn thành nhiệm vụ và đạt được

mục đích tố tụng được giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng.

Trong thời gian qua, thực hiện yêu cầu cải các tư pháp tại Nghị quyết 08-

NQ/TW ngày 02/01/2002, các cơ quan bổ trợ tư pháp đã được chú trọng kiện toàn

và đổi mới về tổ chức và hoạt động và đã có sự tiến bộ vượt bậc cả về số lượng,

145

chất lượng lẫn hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, hoạt động bổ trợ tư pháp vẫn còn

nhiều bất cập nên chưa theo kịp thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo số

liệu của Bộ tư pháp, tính đến cuối năm 2014, cả nước có 63 đoàn luật sư với khoảng

hơn 9.000 luật sư hành nghề và khoảng 4.000 luật sư tập sự nhưng hiện chỉ đảm

nhiệm thực hiện chức năng bào chữa cho khoảng 20% tổng số vụ án hình sự xảy ra

hàng năm.

Đối với hoạt động giám định tư pháp, tuy Luật giám định năm 2012 đã ra đời

nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành chậm ban hành và chưa đầy đủ. Bên cạnh

đó, việc Luật giám định năm 2012 chưa quy định thời hạn giám định, chất lượng

giám định nhiều trường hợp không bảo đảm do người giám định không đảm bảo về

chuyên môn; kết luận giám định còn chung chung, mập mờ, trái ngược nhau; còn

nhiều trường hợp các Bộ, Ngành được trưng cầu giám định lại từ chối giám định.

Các bất cập trên gây ra khó khăn, lúng túng rất lớn cho các cơ quan tiến hành tố

tụng khi giải quyết các vụ án.

Đối với hoạt động công chứng, tuy có sự phát triển mạnh về số lượng nhưng

chỉ tập trung ở các thành phố lớn cộng với việc quản lý Nhà nước hoạt động công

chứng còn nhiều kẽ hở tạo ra cơ hội xuất hiện nhiều trường hợp Công chứng viên vi

phạm qui tắc đạo đức nghề nghiệp, thậm chí vi phạm pháp luật.

Đối với hoạt động bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, tuy sớm được thành lập theo tinh

thần của Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ chính trị nhưng vẫn thiên về nhiệm vụ thi

hành án hình sự và bảo vệ nhà tạm giữ, trại tạm giam, còn thiếu thốn về trang thiết

bị, phương tiện làm việc, đội ngũ cán bộ chưa đảm bảo tính chuyên nghiệp cao nên

còn lúng túng trong nhiệm vụ bảo vệ các phiên toà lớn và trong thực hiện nhiệm vụ

dẫn giải, áp giải, thi hành án tử hình; hoạt động Thừa phát lại mới trọng giai đoạn

thí điểm triển khai, thực hiện và chỉ tập trung chủ yếu ở Thành phố Hà Nội và

Thành phố Hồ Chí Minh, cơ sở pháp lý chưa được kiện toàn đầy đủ nên năng lực

của tổ chức và hoạt động còn rất hạn chế.

Do vậy ngoài việc sửa đổi BLTTHS hiện hành, trong việc xây dựng, hoàn

thiện chính sách, pháp luật nói chung, Nhà nước ta cần phải kiện toàn về pháp

146

luật, xây dựng và bổ sung ngân sách, nguồn nhân lực, phương tiện làm việc nhằm

nâng cao năng lực cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp (luật

sư, công chứng, thừa phát lại, cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, giám định tư

pháp) đáp ứng với nhu cầu thực tiễn hoạt động TTHS. Cụ thể:

- Đối với luật sư, hoàn thiện pháp luật về hoạt động luật sư mà trước hết là

Luật luật sư theo hướng: nâng cao tiêu chuẩn nguồn nhân lực (điều kiện gia nhập;

thời gian đào tạo, tập sự; điều kiện và thẩm quyền cấp thẻ hành nghề; qui tắc hành

nghề và đạo đức nghề nghệp; chế độ tự quản; xử lý kỷ luật;…). Song song đó,

BLTTHS năm 2003 cũng cần được sửa đổi bổ sung về chế định quyền bào chữa

của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, chế định liên quan đến người bào chữa theo

hướng ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích của bị can, bị cáo theo đó người bào chữa

được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm

quyền bào chữa theo qui định của pháp luật với thủ tục đơn giản nhất, điều kiện

hành nghề thuận tiện nhất. Hơn thế nữa, BLTTHS mới cần qui định rõ trách

nhiệm của người bào chữa trong trường hợp vi phạm pháp luật TTHS hoặc nghĩa

vụ bào chữa.

- Đối với công chứng, Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt

động công chứng; sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện hành nghề công

chứng, thành lập các Văn phòng công chứng, quy hoạch phát triển các tổ chức

hành nghề công chứng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên, chất

lượng hoạt động công chứng, tăng cường trách nhiệm của công chứng viên trong

hoạt động công chứng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về công

chứng, đẩy mạnh việc phân cấp cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,

đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội -

nghề nghiệp của công chứng viên trong việc tham gia quản lý hoạt động công

chứng, hỗ trợ cho công tác quản lý của Nhà nước; tạo điều kiện để công chứng

nước ta hội nhập với nghề công chứng quốc tế.

- Đối với Thừa phát lại: Nhà nước tiếp tục thực hiện việc thí điểm mô hình

Thừa phát lại tại các địa bàn có số lượng việc thi hành án nhiều và số lượng việc

147

tồn đọng lớn kết hợp với việc thường xuyên sơ kết đánh giá rút kinh nghiệm hoạt

động thí điểm này để xây dựng cơ sở cần thiết kiến nghị Quốc hội chính thức cho

thực hiện chế định Thừa phát lại; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về vị

trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động Thừa pháp lại trong hoạt động tư pháp và ý

nghĩa, vai trò tích cực của hoạt động này đối với đời sống xã hội; hoàn thiện pháp

luật về Thừa phát lại, trong đó, sửa đổi bổ sung Nghị định 61/NĐ-CP ngày

24/7/2009 theo hướng tạo sự thuận lợi và dễ dàng hơn về thủ thục thành lập và mở

rộng quyền hạn đối với Thừa phát lại; bổ sung chế định Thừa phát lại trong một số

văn bản pháp luật có liên quan (Luật thi hành án dân sự, pháp luật về thuế, tính

dụng, đăng ký quyền sở hữu tài sản…) nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho tổ chức

hoạt động của Thừa phát lại. Về lâu dài, cần ban hành về Thừa phát lại cũng như

qui tắc đạo đức hành nghề Thừa phát lại để đảm bảo hiệu lực pháp lý và hiệu quả

quản lý đối với hoạt động Thừa phát lại.

- Đối với cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Nhà nước cần chú trọng xây

dựng đội ngũ cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp vừa đầy đủ về số lượng vừa đạt về

chất lượng, khắc phục tính chắp vá trong công tác cán bộ và tổ chức lực lượng,

đảm bảo tính chuyên nghiệp cao để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ

đấu tranh phòng, chống tội phạm được phân công phụ trách; bên cạnh việc thực

thi nhiệm vụ thi hành án hình sự, lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp cần

được chú nâng cao năng lực công tác bảo vệ và hỗ trợ tư pháp cho lực lượng cán

bộ thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng về pháp luật TTHS, các qui trình thao tác

bảo vệ, dẫn giải, áp giải, thi hành án tử hình, theo yêu cầu hoặc lệnh của cơ quan

tiến hành tố tụng có thẩm quyền; pháp luật liên quan đến hoạt động của lực lượng

cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp (Luật TTHS, Luật thi hành án hình sự, các thông

tư hướng dẫn) cần được tiếp tục hoàn thiện nhằm tạo hành lang pháp lý hữu hiệu

cho hoạt động của lực lượng cảnh sát này. Đặc biệt là cần xây dựng các chế định

pháp lý cần và đủ để tiến đến việc giao nhiệm vụ bảo vệ nhân chứng cho lực

lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của

nhiệm vụ chống loại tội phạm có tổ chức, xuyên biên giới, mafia.

148

- Đối với giám định tư pháp, Nhà nước cần thực hiện việc bổ sung vào Luật

giám định tư pháp năm 2012 một số điều khoản nhằm qui định chặt chẽ, cụ thể

trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định phù hợp với thời hạn

điều tra vụ án; bổ sung cơ chế giải quyết xung đột kết quả giám định giữa các kết

luận giám định khác nhau; pháp điển hoá thành tội phạm một số hành vi bị

nghiêm cấm trong giám định tư pháp. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục đầu tư

xây dựng các cơ quan giám định với trọng tâm là yếu tố con người có phẩm chất

đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm cao cùng với việc

đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện làm việc một cách đúng mức để đáp ứng yêu cầu

ngày càng tăng cao về số lượng và chất lượng của hoạt động giám định tư pháp

hình sự; hoàn thiện cơ chế đồng thời khuyến khích, đẩy mạnh việc xã hội hoá hoạt

động giám định tư pháp, đặc biệt trong các lĩnh vực kế toán, tài chính, môi trường,

thông tin truyền thông, tin học, xây dựng cơ bản,… để tạo điểu kiện thuận lợi cho

các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trưng cầu giám định nhằm xác định tính

chất, mức độ thiệt hại làm căn cứ để truy cứu TNHS.

3.3.2 Kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường

trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, gắn công tố với

điều tra vụ án hình sự

Với truyền thống TTHS thẩm vấn, trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện

nay, mô hình TTHS Việt nam ngày càng thể hiện rõ khuynh hướng trở thành mô

hình TTHS pha trộn - mô hình TTHS có sự giao thoa và hội tụ các tinh hoa của

hai mô hình TTHS chủ yếu của thế giới hiện đại là tranh tụng và thẩm vấn. Mô

hình TTHS Việt nam hiện nay tuy không nêu rõ công tố chỉ đạo điều tra nhưng

trong nội hàm nhiều quy định pháp luật đã toát lên tinh thần VKS quyết định các

nhiệm vụ tố tụng trong giai đoạn điều tra: quyết định việc khởi tố hoặc không khởi

tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng hoặc hủy bỏ

các BPNC; trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định việc truy tố.

Thực hiện việc tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều

tra, gắn công tố với hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra cần phải được xác

149

định rõ ràng rằng vai trò, trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều tra phải được

làm nổi bật trước hết về mặt phương diện qui định của pháp luật hình sự, TTHS,

sau đó là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động thực tiễn nhằm đạt mục tiêu, hiệu

quả đấu tranh phòng, chống tội phạm đã xác định trước. Việc thực hiện nhiệm vụ

này cũng có nghĩa nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc thực hiện chức năng

KSĐT trong giai đoạn điều tra phải được tăng cường hơn kể cả về phương diện

qui định của pháp luật và hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó, trong việc thực thi

nhiệm vụ cải cách tư pháp đối với hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự

theo phương hướng nêu trên còn có nghĩa hoạt động THQCT trong giai đoạn xét

xử của VKS là mục đích mà hoạt động THQCT và KSĐT trong giai đoạn điều tra

phải nhắm đến và đạt được. Với nhận thức như vậy, quan điểm, phương hướng

của các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đối với hoạt động của VKS

trong điều tra vụ án hình sự cần được thực hiện bằng nhiều giải pháp khác nhau

nhằm đem lại hiệu quả cải cách tư pháp cao nhất. Trong đó giải pháp hoàn thiện

cơ sở pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt và việc sửa đổi hoàn thiện các qui định

của BLTTHS năm 2003 về hoạt động của VKS trong điều tra hình sự được xem là

cơ sở quan trọng có tính nền tảng.

Sửa đổi qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong điều tra vụ án hình sự

Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong TTHS nói chung và trong giai đoạn

điều tra nói riêng cần được phân định một cách rõ ràng, nhất quán, phù hợp, tránh

chồng chéo giữa BLTTHS mới với Hiến pháp 2013 và với Luật tổ chức VKSND

năm 2014 và trong nội tại các qui định của BLTTHS hiện hành. Trong đó, cần xác

định rõ nhiệm vụ của VKS trong TTHS là THQCT và KSHĐTP. Do vậy, cần phải

sửa qui định của Điều 1 BLTTHS năm 2003 cho phù hợp với qui định của Hiến

pháp 2013 về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng; sửa khoản

3, Điều 23 BLTTHS năm 2003 đối với nhiệm vụ KSVTTPL thành nhiệm vụ

KSHĐTP trong TTHS hoặc KSVTTPL trong các hoạt động tố tụng cụ thể, nhằm

đảm bảo sự phù hợp với qui định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức

VKSND năm 2014 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.

150

Về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên (chức danh pháp lý cơ bản của

VKS trực tiếp tiến hành hầu hết hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự)

và của Kiểm tra viên (chức danh đã được công nhận từ thực tiễn công tác kiểm

sát, tiến hành các nhiệm vụ KSĐT và trợ lý cho Kiểm sát viên) cần sửa đổi qui

định tại Điều 36, 37 BLTTHS năm 2003 nhằm nâng cao địa vị pháp lý và đảm bảo

tính độc lập trong hoạt động tố tụng hình sự cho chức danh Kiểm sát viên, Kiểm

tra viên - chức danh cơ bản, quan trọng nhất trong tổ chức VKS các cấp và là

người tiến hành tố tụng thực hiện chủ yếu các hoạt động chức năng kiểm sát trong

tố tụng hình sự. Trong đó, phương hướng sửa đổi chủ yếu là giao hầu hết nhiệm

vụ KSĐT cho Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hiện; Viện trưởng, Phó Viện

trưởng chỉ thực hiện một số quyền năng THQCT, KSHĐTP quan trọng (quyết

định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; áp dụng các BPNC

và các biện pháp cưỡng chế trong TTHS; giải quyết khiếu nại và kiến nghị đối với

CQĐT) và chỉ đạo hoạt động KSĐT. Đồng thời đảm bảo sự quản lý, chỉ đạo, điều

hành có hiệu quả của các chức danh Viện trưởng, Phó Viện trưởng đối với các

hoạt động tố tụng hình sự thuộc chức năng, nhiệm vụ của VKS; BLTTHS mới cần

qui định Phó viện trưởng được thực hiện một số quyền hạn của Viện trưởng trong

trường hợp Viện trưởng ủy quyền thường xuyên nhằm tạo sự chủ động, linh hoạt,

hiệu quả cho hoạt động tố tụng của VKS cho phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi

mang tính cấp bách, thời sự của tình hình phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó,

cần xác định những trường hợp Viện trưởng, Phó Viện trưởng tham gia tố tụng

trong giai đoạn điều tra nhân danh cơ quan tiến hành tố tụng – VKS để loại bỏ sự

trùng lặp trong qui định về thẩm quyền của người tiến hành tố tụng (Điều 36) với

thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra (Điều 112,113).

Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra, cần thể hiện rõ

phương hướng cải cách tư pháp “Tăng cường trách nhiệm của công tố đối với hoạt

động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” tại hai Điều 112, 113 BLTTHS

năm 2003 theo hướng: xác định rõ, cụ thể các nhiệm vụ quyền hạn THQCT và

KSĐT theo tiến trình điều tra vụ án hình sự phù hợp với qui định của Luật tổ chức

151

VKSND năm 2014 về vai trò, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai

đoạn điều tra; bổ sung vào Điều 113 để luật hóa một cách cụ thể hơn nhiệm vụ,

quyền hạn KSĐT của VKS mục đích, yêu cầu khi thực hiện các qui định của Qui

chế 07/2008 về THQCT và KSĐT trong giai đoạn điều tra và Thông tư liên tịch số

05/2005 (ví dụ: chủ thể hoạt động điều tra khác ngoài CQĐT, Điều tra viên; chủ

thể hoạt động KSĐT ngoài Kiểm sát viên; qui định các trường hợp điều tra không

đầy đủ, vi phạm pháp luật;...).

BLTTHS mới cũng cần xác định rõ trách nhiệm của CQĐT đối với việc

thực hiện yêu cầu, kiến nghị của VKS và mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong

điều tra vụ án hình sự là quan hệ điều hành, chấp hành và phối hợp. Do vậy cần

sửa đổi Điều 114 BLTTHS năm 2003 theo hướng loại bỏ qui định “Đối với những

yêu cầu và quyết định qui định tại điểm 4, 5 và 6 Điều 112 của Bộ luật này, nếu

không nhất trí, CQĐT vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị với VKS cấp

trên trực tiếp” thành qui định: CQĐT phải có trách nhiệm thi hành ngay tất cả

yêu cầu, quyết định của VKS. Nếu không nhất trí, CQĐT vẫn phải thi hành ngay

nhưng có quyền kiến nghị với Lãnh đạo VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực

tiếp. Bên cạnh đó, để tăng cường tính hiệu quả cho cơ sở pháp lý cho hoạt động tố

tụng của VKS nói riêng và của các cơ quan tiến hành tố tụng khác nói chung.

BLTTHS mới cần có qui định trách nhiệm hành chính và TNHS đối với những

hành vi không thực hiện yêu cầu, quyết định của VKS và của CQĐT đối với

những người tham gia tố tụng. Song song đó, cần xây dựng cơ chế gắn trách

nhiệm pháp lý của VKS, của Kiểm sát viên trong việc đưa ra các yêu cầu, quyết

định đối với các CQĐT mà không có căn cứ hoặc không đúng pháp luật.

Sửa đổi qui định về nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động khởi tố vụ án,

khởi tố bị can

Nhằm tạo cơ sở vững chắc cho VKS tiến hành hoạt động THQCT trong

quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, BLTTHS mới cần xây dựng và phát

triển các Điều 100, 101, 103, 108, 109 thành giai đoạn tố tụng mới - giai đoạn tố

tụng đầu tiên của tiến trình tố tụng để qui trình tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo

152

về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ quan khác được giao thẩm quyền và

của VKS. Trong đó, BLTTHS cần xây dựng mới các Điều luật qui định các vấn đề

quan trọng sau: thẩm quyền, thủ tục, thời hạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố; thủ tục tạm đình chỉ, phục hồi tiếp nhận, giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyền và nghĩa vụ của người bị tố

giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Trên cơ sở kết quả của thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố, BLTTHS mới cần quy định VKS có thẩm quyền quyết định việc

khởi tố vụ án hình sự hoặc trực tiếp khởi tố vụ án hình sự một cách mở rộng hơn

để đảm bảo tính chặt chẽ, toàn diện của hoạt động THQCT trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự. BLTTHS mới cần bổ sung thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự

của một số cơ quan có vị trí, phạm vi công tác đặc thù trong hoạt động phòng,

chống tội phạm như: Thuế, Kiểm ngư; đồng thời qui định chặt chẽ, cụ thể trình tự,

thời hạn VKS phê chuẩn hoặc không phê chuẩn hoặc tiếp tục bổ sung chứng cứ để

phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; xác định rõ, trường

hợp tiếp tục bổ sung chứng cứ để phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị

can thì vụ việc trở lại thủ tục tố tụng trước đó – thủ tục giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Do vậy, cần sửa đổi các qui định về thẩm quyền

khởi tố vụ án hình sự; không khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can, thay đổi hoặc

bổ sung quyết định khởi tố bị can của BLTTHS hiện hành tại các Điều 104, 108,

126, 127. Đồng thời, BLTTHS năm 2003 cần bỏ qui định về thẩm quyền khởi tố

vụ án hình sự của Hội đồng xét xử, tại khoản 1, Điều 104 BLTTHS năm 2003, vì

qui định này hiện đã tỏ ra không hợp lý, chồng chéo về chức năng TTHS và rất

hiếm được thực hiện trên thực tế.

153

Sửa đổi qui định về nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động áp dụng, thay

đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn

BLTTHS mới cần bổ sung các biện pháp cưỡng chế khác cùng với việc qui

định rõ căn cứ, phạm vi, thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ của chúng, ngoài

các BPNC để đảm bảo hiệu quả tiến hành tố tụng của hoạt động điều tra vụ án

hình sự, đồng thời xác định rõ BPNC hay cưỡng chế nào được thực hiện trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự và các giai đoạn tố tụng khác để thuận tiện cho việc áp

dụng; VKS có thẩm quyền chủ động trực tiếp ban hành quyết định áp dụng tất cả

các BPNC trong giai đoạn điều tra hoặc theo đề nghị của CQĐT thay vì việc phê

chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT như quy định hiện hành. Qui định như vậy

nhằm bảo đảm đúng vị trí trách nhiệm của cơ quan công tố (VKS): chủ trì việc

buộc tội; quyết định tạm thời hạn chế một số quyền của công dân; bảo đảm quyền

đi đôi với trách nhiệm của VKS là cơ quan truy cứu TNHS phải chịu trách nhiệm

chính về những oan, sai trong điều tra vụ án hình sự; đồng thời cũng là để đơn

giản, thuận lợi về mặt thủ tục, đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án và tiết kiệm các

chi phí tố tụng và hơn hết là tạo tính chủ động, hiệu quả phòng chống tội phạm

cao cho hoạt động điều tra. Do vậy cần sửa đổi các qui định của BLTTHS năm

2003 về áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC theo hướng:

+ Sửa đổi Điều 79 BLTTHS năm 2003 theo hướng: nêu rõ mục đích, yêu

cầu, của việc áp dụng BPNC, thẩm quyền áp dụng BPNC.

+ Sửa đổi Điều 80 BLTTHS năm 2003 theo hướng: qui định rõ về thẩm

quyền, căn cứ, phạm vi, thời hạn áp dụng và các điều kiện về hình thức và thủ tục

thi hành để đảm bảo tính pháp chế cho việc áp dụng BPNC bắt bị can để tạm

giam. Đối với qui định nhiệm vụ sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt được qui định

tại Điều 83 BLTTHS năm 2003, BLTTHS mới cần bổ sung chủ thể thực hiện là

Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và bổ sung qui

định về nhiệm vụ CQĐT sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt một cách cụ thể như

Thông tư liên tịch số 05/2005 ngày 07/09/2005 đã qui định.

154

+ Hoàn thiện qui định của BLTTHS hiện hành về BPNC tạm giữ tại Điều

86, 87 theo hướng: qui định rõ phạm vi áp dụng; xây dựng qui định áp dụng, thay

đổi, hủy bỏ BPNC tạm giữ là thủ tục tố tụng quan trọng, chủ yếu tại giai đoạn ban

đầu của quá trình điều tra khi mà hoạt động chứng minh tội phạm, người phạm tội

chủ yếu được tiến hành thông qua hoạt động điều tra trinh sát và hoạt động giải

quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, trong khi thủ tục tạm giữ

trong giai đoạn điều tra, chỉ được áp dụng đối với bị can đang bị truy nã và cần

được qui định cụ thể, rõ ràng hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT nhận người

bị bắt và CQĐT ra lệnh truy nã.

+ Về việc gia hạm tạm giữ, cần có qui định việc gia hạn thời hạn tạm giữ

lần thứ nhất trong những trường hợp đặc biệt tại vùng xa xôi, hải đảo, biên giới thì

không cần sự giám sát của VKS có thẩm quyền mới có hiệu lực thi hành. Qui định

này nhằm tạo sự thuận lợi cho Cơ quan công an, VKS, Uỷ ban nhân dân nơi xa

xôi, hải đảo, biên giới trong việc áp dụng BPNC tạm giữ để ngăn ngừa người

phạm tội bỏ trốn, tiếp tục gây án hay xóa dấu vết, chứng cứ phạm tội. Thêm vào

đó, cần có qui định rõ căn cứ để gia hạn tạm giữ lần thứ hai, không nên qui định

chung chung là “trong trường hợp đặc biệt” như hiện nay để sự tránh tùy tiện áp

dụng hay lạm dụng BPNC tạm giữ.

+ Về vấn hoàn thiện các qui định tại Điều 91, 92, 93 về áp dụng các BPNC

cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong

quá trình điều tra vụ án hình sự vừa để hạn chế việc lạm dụng BPNC tạm giam,

vừa bảo đảm tốt hơn quyền con người của cá nhân người phạm tội, vừa làm giảm

gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cụ thể:

Đối với các BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có

giá trị để bảo đảm theo qui định của các Điều 91, 92, 93 BLTTHS năm 2003 thì

cần học tập kinh nghiệm của nước ngoài trong việc xác định các trường hợp phạm

tội có thể được áp dụng. Ví dụ, theo qui định BLTTHS Liên bang Nga quy định:

Điều kiện áp dụng bảo lĩnh là phải có đơn bằng văn bản và được sự đồng ý của

người được bảo lĩnh; Trách nhiệm và nghĩa vụ của người nhận bảo lĩnh cam đoan

155

bằng văn bản là họ sẽ bảo đảm người bị tình nghi hoặc bị can mà họ nhận bảo lĩnh

thực hiện các nghĩa vụ quy có mặt theo giấy triệu tập của nhân viên điều tra, dự

thẩm viên, Kiểm sát viên, tòa án đúng thời gian quy định; Không cản trở hoạt

động tố tụng đối với vụ án; Nếu vi phạm nghĩa vụ thì bị phạt 10 lần mức thu nhập

tối thiểu tại thời điểm bảo lĩnh (các Điều 102, 103 và 118); BLTTHS Trung Quốc

quy định bảo lĩnh có thể được áp dụng đối với tội phạm có tính chất nguy hiểm

không đáng kể và mức hình phạt nhẹ; người nhận bảo lĩnh là cá nhân phải có đơn

bảo lĩnh và phải đủ điều kiện được bảo lĩnh như không dính líu đến vụ án; có khả

năng thực hiện những trách nhiệm của một người bảo lĩnh; được hưởng các quyền

chính trị và không bị hạn chế tự do cá nhân; thu nhập ổn định; quy định trách

nhiệm người bảo lĩnh và người được bảo lĩnh phải cam đoan thực hiện tốt nghĩa

vụ đã cam đoan, nếu vi phạm thì sẽ bị tịch thu tiền bảo lĩnh hoặc bị truy cứu

TNHS (các Điều 50, 52 và 55); Bộ luật TTHS Nhật Bản quy định bảo lĩnh phải

nộp tiền (dưới hình thức séc có thể đổi thành tiền mặt hoặc giấy bảo đảm) để thay

thế khoản tiền bảo lĩnh; tòa án có thẩm quyền cho phép bảo lĩnh nếu thấy hợp lý

bảo đảm sự có mặt của bị cáo trên cơ sở xem xét bản chất và tình tiết tội phạm, giá

trị chứng minh của chứng cứ chống lại người đó, tính cách và điều kiện tài chính

của họ. Người nhận bảo lĩnh phải có đơn bảo lĩnh. Tòa án tự mình hoặc theo yêu

cầu công tố viên hủy bỏ việc bảo lĩnh (các Điều 89, 90, 93, 94 và 96).

Đối BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú, BLTTHS mới cần có qui định có thể kết

hợp với BPNC khác như bảo lĩnh để tăng cường hiệu quả cưỡng chế thực tế và

phải được VKS quyết định mới có hiệu lực pháp luật và cần phải qui định giao

trách nhiệm quản lý, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ của bị can cho Công an xã,

phường, thị trấn nơi bị can cư trú để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của

Việt Nam hiện nay.

Đối với BPNC bảo lĩnh theo Điều 92 BLTTHS, BLTTHS mới cần có qui

định cá nhân và tổ chức sẽ phải chịu biện pháp cưỡng chế khi bị can được bảo lĩnh

vi phạm nghĩa vụ cam kết.

156

Đối với BPNC đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm theo Điều 93

BLTTHS năm 2003, BLTTHS mới cần mở rộng đối tượng được áp dụng và qui

định mức tiền và tài sản cần đặt để bảo đảm căn cứ mức lương tối thiểu và tính

chất vùng miền, tính chất và loại tội phạm, địa vị xã hội của bị can.

+ Về vấn đề đổi mới quyền năng phê chuẩn của VKS đối với quyết định áp

dụng các BPNC của CQĐT theo tinh thần cải cách tư pháp, có nhiều quan điểm

khác nhau dẫn đến có nhiều giải pháp và kiến nghị hoàn thiện khác nhau do các

quan điểm này có cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau xuất phát từ truyền thống tố

tụng, điều kiện và hoàn cảnh về chính trị, kinh tế, xã hội cũng như năng lực của hệ

thống CQĐT và của ngành KSND của Việt Nam. Tuy nhiên, căn cứ vào các đặc

điểm riêng của hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra ở Việt Nam và trên cơ sở

học tập kinh nghiệm của nước ngoài trong việc áp dụng BPNC, nhằm bảo đảm

yếu tố tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với

hoạt động điều tra thông qua hoạt động áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC, cần phải

hoàn thiện qui định của BLTTHS năm 2003 theo hướng: Các BPNC và các biện

pháp cưỡng chế khác được áp dụng đối với bị can trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự phải do VKS chủ động quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc quyết

định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ trên cơ sở đề nghị của CQĐT.

Vấn đề hủy bỏ hoặc thay thế BPNC theo qui định của Điều 94 BLTTHS

2003 cần được sửa đổi theo hướng: Xác định rõ rằng khi có quyết định đình chỉ

điều tra vụ án có hiệu lực thì mọi BPNC được áp dụng trong vụ án đó đều đương

nhiên được hủy bỏ mà không cần có các quyết định tố tụng nào khác; Sửa đổi căn

cứ thay đổi, hủy bỏ BPNC hiện nay đang được qui định tại khoản 2, Điều 94 là

“thấy không còn cần thiết” thành “Khi thấy không còn cần thiết ngăn chặn người

phạm tội tiếp tục phạm tội, bỏ trốn hoặc có thể mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục

người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Tiêu hủy, giả mạo

chứng cứ, tài liệu vụ án hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử”

để tạo sự chặt chẽ, tránh nguy cơ tùy tiện, thậm chí tiêu cực trong việc thay đổi, hủy

bỏ BPNC; Sửa đổi qui định tại khoản 2, Điều 94: “Những quyết định này phải do

157

VKS hủy bỏ, thay thế” thành qui định: “CQĐT có quyền hủy bỏ BPNC đang áp

dụng khi đã hết hiệu lực nếu như đã đề nghị VKS tiếp tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ

BPNC mà VKS không có quyết định”, nhằm nâng cao trách nhiệm từ cả hai phía

VKS và CQĐT đồng thời loại bỏ nguy cơ giữ, giam người trái pháp luật.

+ Sửa đổi qui định tại Điều 90 BLTTHS năm 2003 về trách nhiệm chăm

sóc con chưa thành niên dưới 14 tuổi, người thân thích tàn tật, già yếu, nhà hoặc

tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam thành qui định về trách nhiệm của cơ sở từ

thiện của Nhà nước nếu không có sự chăm nom nào khác tốt hơn cho con chưa

thành niên dưới 14 tuổi, người thân thích tàn tật, già yếu của người bị tạm giữ, tạm

giam hoặc trách nhiệm quản lý, sử dụng, bảo quản, quản lý nhà, tài sản của người

bị tạm giữ, tạm giam của Uỷ ban nhân dân phường, xã nơi có nhà hoặc tài sản đó

và nguồn kinh phí bảo quản do ngân sách Nhà nước chi trả. Việc sửa đổi như trên

nhằm hạn chế tính thiếu khả thi trên thực tế, đồng thời nhằm đề cao tính nhân văn

của BLTTHS hiện hành về vấn đề này.

Sửa đổi qui định về đề ra yêu cầu điều tra, kiểm sát điều tra, trực tiếp tiến

hành một số hoạt động điều tra

Đối với hoạt động đề ra yêu cầu điều tra, về hình thức của yêu cầu điều tra,

cần bổ sung vào qui định tại khoản 2, Điều 112 BLTTHS năm 2003 hình thức yêu

cầu điều tra là bằng lời nói hoặc văn bản, đồng thời sửa đổi qui định tại Điều 114

BLTTHS năm 2003 theo hướng yêu cầu điều tra cũng như các yêu cầu khác của

VKS phải được CQĐT thi hành ngay không trì hoãn dù không nhất trí. Bên cạnh

đó, BLTTHS mới cần xác định rõ tính có căn cứ và cần thiết cũng như trách

nhiệm của VKS trong việc đề ra yêu cầu điều tra. Việc sửa đổi như thế nhằm bảo

đảm tính chặt chẽ, nâng cao hiệu lực pháp lý của yêu cầu điều tra, từ đó tạo sự

thuận lợi cho tác nghiệp kiểm sát trên thực tiễn.

Đối với hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi qui định

tại Điều 150, 151 BLTTHS năm 2003, BLTTHS mới cần: qui định về phạm vi

tiến hành; bổ sung qui định việc thành lập, tên gọi, quyền và nghĩa vụ của Hội

đồng khám nghiệm cũng như của từng thành viên; bổ sung các nội dung: Kiểm sát

158

viên được thông báo về thời gian và địa điểm tiến hành khám nghiệm để tiến hành

kiểm sát, có quyền đề ra yêu cầu đối với Điều tra viên được phân công chủ trì thực

hiện KNHT, KNTT và nhận xét, ký tên vào biên bản KNHT, KNTT; sửa đổi qui

định trong những trường hợp đòi hỏi kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn, việc khám

nghiệm phải mời nhà chuyên môn “Tham gia việc khám nghiệm” thay cho qui

định “Mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm”; bổ sung qui định quyền

tham dự việc khám nghiệm của người bào chữa.

Đối với hoạt động xem xét dấu vết trên thân thể theo qui định của Điều 152

BLTTHS năm 2003, BLTTHS mới cần bổ sung vào qui định ngoài Điều tra viên

thì các chức danh có nhiệm vụ quản lý người bị tạm giữ của Cơ quan cảnh sát hỗ

trợ tư pháp có quyền tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể của người bị bắt, tạm

giữ, bị can, để vừa đảm bảo việc ghi nhận thương tật, dấu vết ban đầu làm cơ sở

cho hoạt động điều tra tiếp theo vừa kịp thời áp dụng các biện pháp chữa trị cần

thiết cho người bị thương tật, đồng thời nghiêm cấm mọi hành vi xúc phạm danh

dự, nhân phẩm hoặc sức khỏe của người được xem xét dấu vết.

Đối với hoạt động thực nghiệm điều tra qui định tại Điều 153 BLTTH hiện

hành, BLTTHS mới cần bổ sung qui định CQĐT có thể mời chuyên gia tham gia

thực nghiệm điều tra và qui định mang tính bắt buộc về việc kiểm sát hoạt động

thực nghiệm điều tra của VKS nhằm tăng cường tính xác thực, mức độ tin cậy của

chứng cứ đã thu thập thông qua hoạt động thực nghiệm, qua đó tăng cường hiệu

quả buộc tội của hoạt động điều tra, truy tố; bổ sung qui định người bào chữa có

quyền tham dự thực nghiệm điều tra để có điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của

bị can. Để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của luật, BLTTHS cần pháp điển hóa

những trường hợp đã được Thông tư 05/2005 ngày 7/9/2005 qui định VKS phải

thực hiện hoạt động thực nghiệm điều tra để kiểm tra chứng cứ, quyết định các

quyền năng THQCT và KSĐT. Giống như hoạt động xem xét dấu vết trên thân

thể, BLTTHS mới cần nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm,

gây ảnh hưởng đến sức khỏe của những người tham gia việc thực nghiệm điều tra.

159

Đối với hoạt động giám định, trưng cầu giám định, BLTTHS mới cần có

những sửa đổi, bổ sung, cụ thể là bổ sung vào: Điều 60 (qui định về quyền, nghĩa

vụ của người giám định) và từ Điều 155 đến Điều 159 (qui định về trưng cầu giám

định, việc tiến hành và nội dung giám định, quyền của bị can và của những người

tham gia tố tụng đối với kết luận giám định, giám định bổ sung, giám định lại) các

qui định về phạm vi và đối tượng trưng cầu và thực hiện giám định trong điều tra

vụ án hình sự; qui định về thời hạn giám định phù hợp từng loại tội phạm; qui

định hình thức nội dung kết luận giám định để đảm bảo giá trị chứng minh trong

TTHS; qui định nguyên tắc đánh giá các kết luận giám định có sự khác nhau hay

có mâu thuẫn lẫn nhau về cùng một tình tiết hành vi phạm tội; xác định nội dung

thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động chuyên môn của

cơ quan tiến hành giám định, giám định viên và trách nhiệm của giám định viên

trước pháp luật.

Đối với hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can, về mặt hình thức, cần xây

dựng một cách tập trung các qui định về các hình thức, trình tự, nội dung, quyền

và nghĩa vụ của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và của người tham gia tố

tụng (đặc biệt là quyền lấy lời khai người tham gia tố tụng khác của luật sư, người

bào chữa) và các điều kiện khác để đảm bảo tính khách quan, trung thực, giá trị

pháp lý của các dạng lấy các hình thức lấy lời khai trong BLTTHS sửa đổi, nhằm

tạo phù hợp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và tạo sự thuận tiện cho việc

áp dụng trên thực tế.

Về mặt chứng cứ, phương tiện xác định chứng cứ, cần có qui định bổ sung

vào điểm b, khoản 2, Điều 64 BLTTHS năm 2003 các hình thức lời khai khác như

lời khai của người biết việc, sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ án. Bên cạnh đó,

cần có qui định những căn cứ để xác định mức độ giá trị chứng minh của các dạng

lời khai trong giai đoạn điều tra cũng như trong các giai đoạn tố tụng khác và cần

có qui định sự tham gia chứng kiến của người bào chữa hoặc luật sư tại hai thời

điểm chủ chốt, quan trọng trong giai đoạn điều tra là thời điểm lấy lời khai người

phạm tội lần đầu tiên và thời điểm người phạm tội bắt đầu nhận tội để đảm bảo

160

tính khách quan, trung thực cho hoạt động tiến hành tố tụng của CQĐT và VKS,

từ đó tăng cường hiệu quả chứng minh tội phạm của hoạt động điều tra chủ yếu và

quan trọng đặc biệt này.

Để tăng cường hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự, BLTTHS năm 2003 cần được bổ sung một số qui định như: bắt buộc

sự có mặt của luật sư hoặc người bào chữa khi tiến hành lấy lời khai trong các vụ

án BLTTHS bắt buộc phải có luật sư, người bào chữa hoặc khi người phạm tội

yêu cầu có sự hiện diện của luật sư, người bào chữa mới chịu khai báo; qui định bị

can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền im lặng hoặc có quyền

từ chối cho lời khai, nhằm loại trừ nguy cơ bức cung, nhục hình; qui định cụ thể

về trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ người làm chứng của các cơ quan tiến hành tố

tụng để tăng hiệu quả phòng, chống tội phạm của BLTTHS, đặc biệt là đối với

loại tội phạm có tổ chức.

BLTTHS mới cần được pháp điển hoá qui định hiện được thể hiện tại Điều

14 Thông tư liên tịch số 05/2005 ngày 7/9/2005 về các trường hợp VKS phải trực

tiếp lấy lời khai người tham gia tố tụng, hỏi cung bị can, để đảm bảo tính pháp chế

trong tổ chức thực hiện.

Đối với hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, BLTTHS

mới cần bổ sung vào các Điều 141-146 BLTTHS năm 2003, qui định về phạm vi

áp dụng các trường hợp khám xét, thu giữ tạm giữ, kê biên tài sản với ý nghĩa là

hoạt động điều tra có thể được thực hiện trong giai đoạn điều tra ban đầu nhằm

giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố và cả trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự nhằm thu thập chứng cứ. Trong đó, cần xác định mọi trường hợp

khám xét, thu giữ tạm giữ, kê biên tài sản trong điều tra vụ án hình sự phải được

VKS phê chuẩn với một thời hạn cụ thể trước khi tiến hành. Đặc biệt, việc bóc

mở, khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm là hoạt động xâm phạm nghiêm

trọng đến quyền con người được Điều 21 Hiến pháp 2013, cần phải có sự tham gia

của Kiểm sát viên VKS cùng cấp.

161

Sửa đổi qui định về nhập, tách, chuyển vụ án hình sự, giải quyết tranh chấp

về thẩm quyền điều tra

BLTTHS năm 2003 cần được bổ sung qui định về thẩm quyền của VKS

các cấp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, qui định thẩm quyền THQCT và

KSĐT trong trường hợp tội phạm được thực hiện bởi một chủ thể tội phạm, xảy ra

trên nhiều địa bàn hành chính, để làm căn cứ thực hiện có hiệu quả thẩm quyền

của VKS trong việc quyết định nhập, tách, chuyển vụ án hình sự, giải quyết tranh

chấp về thẩm quyền điều tra, cần bổ sung qui định của Điều 116 BLTTHS hiện

hành căn cứ chuyển vụ án của VKS ngoài sự đề nghị của CQĐT trong trường hợp

VKS tự mình phát hiện CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra đang điều tra vụ án không thuộc thẩm quyền. Đồng thời, Điều luật

cũng cần qui định cụ thể các trình tự, thủ tục chuyển vụ án khác nhau.

Sửa đổi qui định về kiểm sát các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra,

phục hồi điều tra, kết thúc điều tra

Cần sửa đổi khoản 1, Điều 160 BLTTHS năm 2003 qui định về một trong

những căn cứ tạm đình chỉ chưa rõ ràng là “…chưa xác định được bị can hoặc

không biết rõ bị can đang ở đâu” thành căn cứ tạm đình chỉ điều tra vụ án là “…

hết thời hạn điều tra mà chưa xác định được bị can hoặc chưa tiến hành bắt tạm

giam được bị can”, để ngăn ngừa tình trạng vì quá tải nhiệm vụ điều tra hay vì lý

do nào khác mà CQĐT tuy đã xác định được bị can nhưng không tiến hành truy

bắt để điều tra dẫn đến hệ lụy là vụ án hết hạn điều tra. Thêm vào đó, cần bổ sung

qui định CQĐT có nhiệm vụ gửi ngay quyết định tạm đình chỉ điều tra cùng hồ sơ

vụ án cho VKS để thực hiện việc kiểm sát vào khoản 2 Điều 160 BLTTHS năm

2003, nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện nhiệm vụ tố tụng “xử lý công minh, kịp

thời mọi hành vi phạm tội” của VKS (Điều 1, BLTTHS năm 2003).

Bổ sung vào Điều 161 BLTTHS năm 2003 qui định: “Quyết định truy nã

bị can phải được gửi cho VKS” để có căn cứ thực hiện quyền năng tại khoản 5,

Điều 112.

162

Cần có qui định trước khi kết thúc điều tra, CQĐT phải thống nhất với

VKS về kết quả thực hiện các yêu cầu điều tra về kết quả của quá trình điều tra vụ

án hình sự vào trong Điều 162 BLTTHS năm 2003, nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS.

Sửa đổi thời hạn VKS quyết định việc hủy bỏ hay không quyết định đình

chỉ điều tra vụ án của CQĐT là 15 ngày tại khoản 4, Điều 164 BLTTHS năm 2003

theo thẩm quyền và thời hạn quyết định truy tố của VKS tại Điều 166 BLTTHS

năm 2003, vì việc đình chỉ vụ án có ý nghĩa giống như việc CQĐT kết thúc điều

tra, đề nghị truy tố nhưng thể hiện tính chất “đóng” giai đoạn điều tra, “kết thúc”

nhiệm vụ điều tra thì hoạt động của VKS tiếp theo sau đó phải được đảm bảo tính

thống nhất, nhằm tránh sự trùng lặp về tính chất, hình thức thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của VKS trước và sau khi kết thúc điều tra đề nghị truy tố.

Cần bỏ qui định tại khoản 2, Điều 165 về trường hợp người phạm tội “tự

nguyện” chịu trách nhiệm hình sự khi có căn cứ được qui định tại điểm 5 và 6

Điều 107 (đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm được đại xá) vì

thực tế chưa thấy có trường hợp này.

Sửa đổi qui định về kiểm sát hoạt động lập hồ sơ vụ án hình sự

Bổ sung qui định về thẩm quyền, nhiệm vụ và cách thức thiết lập hồ sơ vụ

án hình sự vào BLTTHS năm 2003, nhằm tạo điều kiện cho từng chức năng tố

tụng được thực hiện rành mạch, trôi chảy và hiệu quả. Trong đó, cần qui định rõ

việc thu thập tài liệu thể hiện chứng cứ, tình tiết buộc tội, gỡ tội, tình tiết giảm

nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc truy

tố người phạm tội và xử lý vụ án đúng pháp luật chủ yếu thuộc về CQĐT và VKS;

tòa án cũng có quyền thiết lập các tài liệu cần thiết nhưng không ngoài mục đích

đảm bảo sự độc lập, khách quan, đúng đắn cần thiết cho phán quyết của mình. Bên

cạnh đó, BLTTHS mới cần qui định quyền đưa các tài liệu của bị can, người bào

chữa và những người tiến hành tố tụng khác vào hồ sơ và nghĩa vụ xem xét đánh

giá chứng cứ, tình tiết của vụ án có trong các tài liệu này thuộc về CQĐT, VKS để

đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án.

163

Để có thể kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra và có thể chỉ đạo được hoạt

động điều tra nhằm đạt hiệu quả buộc tội thì VKS phải quản lý hồ sơ vụ án hình

sự trong giai đoạn điều tra, nhằm có được điều kiện thuận lợi nhất để nắm bắt trực

tiếp kết quả điều tra, từ đó có thể tiến hành kiểm sát và chỉ đạo hoạt động điều tra

một cách xuyên suốt từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến

nghị khởi tố đến khi kết thúc nhiệm vụ điều tra. Do vậy, cần bổ sung vào

BLTTHS năm 2003 qui định về thẩm quyền quản lý hồ sơ vụ án hình sự trong giai

đoạn điều tra thuộc về VKS để tạo điều kiện, cơ sở cho việc thực hiện một cách

thuận lợi cơ chế cải cách tư pháp “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong

hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”.

Sửa đổi qui định về thủ tục rút gọn

Cần sửa đổi Điều 319 BLTTHS năm 2003 về một trong những điều kiện áp

dụng thủ tục rút gọn từ chỉ áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng như hiện

hành sang qui định áp dụng đối với cả tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng,

nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn của Điều luật này trong cơ cấu tội phạm hiện

nay ở nước ta – có loại tội phạm với khung hình phạt từ trên 03 năm đến 07 năm

tù (tội phạm nghiêm trọng) xảy ra phổ biến trên thực tế.

Cần sửa đổi qui định tại khoản 1, Điều 320 BLTTHS theo hướng trao

quyền chủ động áp dụng thủ tục rút gọn cho CQĐT để đảm bảo hơn tính chủ động

của CQĐT và VKS trong việc rút gọn thời hạn điều tra, truy tố vừa đạt được các

mục tiêu tố tụng vừa giảm chi phí cho ngân sách, cũng như thời gian, công sức

của các cơ quan và người tiến hành tố tụng.

Sửa đổi theo hướng tăng về thời hạn điều tra tại Điều 321 BLTTHS năm

2003. Đề xuất về thời hạn điều tra rút gọn nên qui định là 20 ngày và trong trường

hợp cần thiết là 30 ngày (1/2 hoặc 1/3 thời hạn tạm giam ngắn nhất trong TTHS là

02 tháng) được qui định tại Điều 120 BLTTHS hiện hành. Cơ sở của kiến nghị

này xuất phát từ việc hoạt động xác minh lý lịch tư pháp, tiền án, tiền sự của bị

can là vấn đề vướng mắc và khó thực hiện nhất khi áp dụng thủ tục rút gọn trong

điều tra vụ án hình sự đặc biệt là trong bối cảnh nước ta chưa có cơ sở dữ liệu tội

164

phạm tương đầy đủ, chưa được quản lý thống nhất và chưa thuận tiện tra cứu cho

các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khi có

nhu cầu.

Sửa đổi qui định về xử lý vi phạm qui định BLTTHS trong giai đoạn điều tra,

giải quyết khiếu nại trong điều tra hình sự

Để đảm bảo hiệu quả cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS

trong việc bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động điều tra thông qua hoạt động xử

lý vi phạm của CQĐT (quyết định tố tụng), của Điều tra viên (hành vi vi phạm

pháp luật) và hành vi vi phạm pháp luật của bị can, bị hại và của người tham gia tố

tụng khác thì ngoài việc xây dựng lại các qui định về thẩm quyền của VKS tại

Điều 112, 113, 114 cho phù hợp với chức năng, vị trí, vai trò của VKS trong giai

đoạn điều tra và đối với hoạt động điều tra, BLTTHS năm 2003 cần có qui định

trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện ngay các kiến nghị, yêu cầu của VKS nhằm ngăn

ngừa, khắc phục vi phạm pháp luật trong điều tra vụ án hình sự đối với CQĐT.

Cần bỏ qui định tại Điều 329 BLTTHS năm 2003 về việc phân biệt quyết

định tố tụng của CQĐT đã có sự phê chuẩn của VKS làm căn cứ xác định thẩm

quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo lần đầu đối với loại khiếu nại thuộc thẩm quyền

giải quyết của VKS (khiếu nại đối quyết định tố tụng của CQĐT do Phó Thủ

trưởng CQĐT ký ban hành đã được VKS phê chuẩn). Sửa đổi này nhằm nâng cao

trách nhiệm của người đứng đầu - Thủ trưởng CQĐT, trong việc quản lý, chỉ đạo,

điều hành hoạt động điều tra. Tính hợp lý của sửa đổi này còn thể hiện ở chỗ,

VKS cùng cấp sẽ xem xét lại tính có căn cứ và đúng pháp luật của quyết định tố

tụng do CQĐT ban hành thêm một lần nữa (ngoài sự phê chuẩn đã thực hiện trước

đó) khi quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng CQĐT bị khiếu nại, nhằm

đạt được hiệu quả cao nhất trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân

thông qua việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành tố tụng.

165

3.3.3 Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các các văn bản pháp luật khác có liên

quan đến nhiệm vụ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều

tra vụ án hình sự

BLHS năm 1999 là nguồn cơ bản, chủ đạo của pháp luật hình sự, quy định

tội phạm và hình phạt, còn Bộ luật TTHS là nguồn cơ bản của pháp luật TTHS,

quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Những

chế định, quy định của BLHS về các nguyên tắc xử lý tội phạm, vấn đề phân loại

tội phạm, vấn đề hình phạt có liên quan mật thiết đến việc xây dựng các chế định

về thủ tục TTHS (thẩm quyền của tòa án, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử, đến việc

áp dụng các BPNC, nhất là biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam...)

Trước những thay đổi mạnh mẽ của kinh tế thị trường theo định hướng

XHCN, của khoa học và công nghệ, của xu hướng hội nhập quốc tế, kéo theo nhu

cầu cải cách hệ thống tư pháp hình sự để tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng,

chống tội phạm trong tình hình mới. Đồng thời, trong quá trình áp dụng, nhiều chế

định, quy định của BLHS không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã

hội hiện nay, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong

điều kiện mới, như: cấu thành của một số tội phạm về môi trường, và tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin; mức định lượng tối thiểu để truy cứu TNHS

trong các tội phạm chiếm đoạt, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, quản lý trật tự

công cộng; mức phạt tiền quá thấp, lạc hậu với tình hình giá cả hiện nay; những

hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã

hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế (như chứng khoán, tài chính - kế

toán, sở hữu trí tuệ) cần được quy định là tội phạm. Mặt khác, BLHS năm 1999

được ban hành trong bối cảnh nước ta chưa hội nhập quốc tế sâu rộng; nhiều điều

ước quốc tế chúng ta chưa có điều kiện gia nhập (như chống khủng bố, buôn bán

người, rửa tiền, các tội phạm có tổ chức xuyên biên giới). Đặc biệt là các công ước

quốc tế về phòng, chống ma túy, phòng chống tham nhũng và việc thực hiện

tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với các nước trong khu vực Đông

Nam Á và trên thế giới. Tất cả các vấn đề đó đòi hỏi phải sửa đổi cơ bản và toàn

166

diện BLHS năm 1999 nhằm thể chế hóa đầy đủ chính sách hình sự của Đảng thể

hiện trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020”, theo hướng: giảm hình phạt tù, mở rộng hình

phạt tiền, loại bỏ những tội phạm không còn phù hợp, bổ sung, quy định các tội

phạm mới xuất hiện trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường,

khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế. Đặc biệt cần làm rõ dấu hiệu pháp lý đặc

trưng của từng tội phạm để thuận lợi cho việc áp dụng, chẳng hạn tội “Gây thương

tích dẫn đến chết người” và tội “Giết người”; tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt

tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” để các chế định điều tra, truy tố, xét

xử được vận hành thông suốt, giữ vững trật tự an toàn xã hội, tạo cơ sở vững chắc

để phát triển kinh tế, xã hội về mọi mặt.

Để đạt được các mục đích, yêu cầu cải cách tư pháp, điều quan trọng là

phải tăng cường hiệu quả hoạt động của từng chức năng tố tụng nói riêng và hiệu

quả phòng chống vi phạm và tội phạm nói chung thông qua việc nâng cao hiệu

quả phối hợp tố tụng liên ngành. Do vậy BLHS mới cần bổ sung một số tội danh

xâm phạm hoạt động tư pháp nhằm tạo ra hiệu quả chế tài, đảm bảo tính khả thi

cho các quyết định, yêu cầu không chỉ của VKS mà các cơ quan tiến hành tố tụng

khác khi tiến hành thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Một số hành vi vi

phạm pháp luật làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả các hoạt động tiến hành

tố tụng, cần được pháp điển hoá thành tội phạm như: hành vi cản trở hoạt động tư

pháp liêm chính; hành vi không chấp hành quyết định, yêu cầu của các cơ quan

tiến hành tố tụng hình sự…

Xây dựng Luật tổ chức điều tra hình sự theo hướng tách hoạt động trinh

sát ra khỏi lực lượng điều tra tố tụng, bảo đảm chất lượng điều tra chứng minh tội

phạm tuân theo pháp luật và cũng là để lực lượng trinh sát tập trung công tác

phòng ngừa tội phạm. Mở rộng thẩm quyền điều tra của CQĐT thuộc ngành

VKSND theo hướng không chỉ điều tra một số loại tội xâm phạm HĐTP mà người

phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp mà còn cả những tội phạm có nguồn gốc

phát sinh từ HĐTP nhằm tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo hiệu quả thực tế cho

167

hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS. Mở rộng diện các CQĐT

không chuyên trách và tăng quyền hạn tố tụng cho các cơ quan này để tăng cường

năng lực, hiệu quả điều tra tội phạm đặc thù xảy ra các lĩnh vực hải quan, thuế, tài

chính, chứng khoán…

Hoàn thiện các văn bản pháp luật chuyên ngành về đất đai, tài chính,

chứng khoán, các hình thức sở hữu nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc điều

tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,

chức vụ, và tham nhũng.

Một điều cần quan tâm khi bảo đảm yếu tố liêm chính trong hoạt động tư

pháp nói chung và trong hoạt động THQCT và KSHĐTP của VKS nói riêng là

hoàn thiện các qui định cụ thể về việc thực thi chức trách nhiệm vụ cũng như các

biện pháp chế tài đối với cán bộ tư pháp cũng như đối với cán bộ ngành Kiểm sát.

Đó là việc xây dựng các bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp đối với từng loại cán bộ tư

pháp, đồng thời cần qui định rõ trong Bộ luật lao động; Luật cán bộ, công chức

nghĩa vụ chấp hành nghiêm các bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp này nhằm mục đích

“dưỡng liêm” và ngăn ngừa nguy cơ tiêu cực. Để tăng cường hiệu quả phòng chống

tiêu cực trong hoạt động tư pháp của qui định này, pháp luật cần qui định biện pháp

chế tài kỷ luật đối với hành vi vi phạm, kể cả với hình thức kỷ luật cao nhất là buộc

thôi việc và tước lương hưu đối với cán bộ tư pháp vi phạm pháp luật.

3.3.4 Kiến nghị đảm bảo điều kiện vật chất, nguồn nhân lực cho hoạt động

của VKS

Trong mọi công cuộc cải cách, yếu tố con người hay việc xây dựng nguồn

nhân lực tuy không phải là một giải pháp mới nhưng luôn luôn là giải pháp quan

trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của của bất cứ công cuộc đổi mới,

cải cách nào nên thường được quan tâm, nghiên cứu. Suy cho cùng, mục đích cải

cách tư pháp là do con người và vì con người. Cho nên đối với công cuộc cải cách

tư pháp, yếu tố con người luôn có tầm quan trọng đặc biệt.

Trải qua quá trình 55 hình thành và phát triển, đến nay bộ máy tổ chức của

ngành Kiểm sát nhân dân đã được hình thành theo bốn cấp kiểm sát. Cấp kiểm sát

168

cơ sở được ưu tiên tăng cường nhiều nguồn lực để bảo đảm giải quyết tốt nhất

phần lớn các vụ án trên toàn quốc. Cấp kiểm sát tối cao được bố trí chuyên sâu,

tập hợp những chuyên gia pháp lý đầu ngành để đảm đương vị trí là cơ quan lãnh

đạo tập trung thống nhất trong toàn ngành.

Hiện toàn ngành kiểm sát đã có hơn 15.000 cán bộ đã qua đào tạo tri thức

pháp luật và nghề nghiệp. Đội ngũ KSV đều có trình độ đại học và ngày càng có

nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ luật. Thông qua hoạt động thực tiễn, đội ngũ cán bộ của

VKS đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn, bản lĩnh, tự tin hơn khi thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, sẵn sàng đảm nhận và hoàn thành

tốt những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của thời kỳ đổi mới và hội nhập.

Công tác đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ được đổi mới và tăng cường.

Hình thức đào tạo phong phú, toàn diện; đã có sự kết hợp giữa đào tạo trong nước

với đào tạo ngoài nước, giữa đào tạo tập trung, chính quy với tự đào tạo tại đơn vị

công tác thông qua từng vụ án cụ thể. Các cơ sở đào tạo của ngành được nâng cấp

và đầu tư. Việc thành lập Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội là bước đột phá trong

sự nghiệp đào tạo của ngành, đáp ứng niềm mong đợi của nhiều thế hệ kiểm sát

viên, mở ra triển vọng đào tạo nguồn cán bộ có chất lượng cao trong tương lai.

Tuy nhiên, sự phát triển trong thời gian qua của đội ngũ cán bộ kiểm sát

còn tỏ ra có nhiều hạn chế như, điển hình như:

Sự phát triển như hiện nay không phải là kết quả của quá trình đầu tư lâu

dài và bài bản trong đào tạo nên chưa đáp ứng nhu cầu. Nhiều lúc, nhiều nơi sự

phát triển của đội ngũ cán bộ kiểm sát còn mang tính thời sự, chấp vá nhằm đáp

ứng nhu cầu trước mắt của nhiệm vụ được giao. Kết quả chất lượng đội ngũ cán

bộ ngành kiểm sát hiện chủ yếu là thành tựu phấn đấu, trưởng thành từ thực tiễn

công tác của đội ngũ cán bộ có xuất phát điểm về trình độ học vấn, năng lực tư

duy không đồng đều cho nên tuy đạt yêu cầu về hình thức bằng cấp nhưng năng

lực công tác còn nhiều hạn chế, đặc biệt là còn lúng túng trong thực thi nhiệm vụ

đấu tranh phòng, chống tội phạm có thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt, mới

hoặc ít xảy ra trên thực tế hoặc tội phạm sử dụng công nghệ cao.

169

Phẩm chất về chính trị, đạo đức chưa đồng đều; chưa bảo đảm được tỉ lệ

cán bộ trẻ và yếu tố kế thừa trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo.

Bên cạnh đó, về số lượng cán bộ, Kiểm sát viên hiện nay của VKSND các

cấp chưa đủ về số lượng cần phải tuyển dụng theo quy định tại Nghị quyết số

522e/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012, đặc biệt là số lượng Kiểm sát viên cấp

tỉnh và cấp huyện hoặc tương đương [20]. Do vậy, nhu cầu cần chủ động, tiếp tục

tạo nguồn để kịp thời bổ sung đủ số lượng, bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định

nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên các cấp là cấp thiết.

Về lâu dài, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong ngành kiểm sát, cần

xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát theo các phương hướng sau:

Về đào tạo, cần đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp

vụ một cách cụ thể và toàn diện cho cả đội ngũ lãnh đạo ngành kiểm sát và đội

ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trực tiếp tác nghiệp, theo hướng luôn cập nhật kiến thức

mới về công tác quản lý, điều hành hoạt động hành chính tư pháp và hoạt động

TTHS, về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, để xây dựng kỹ năng nghề nghiệp,

kiến thức thực tiễn, phẩm chất đạo đức trong sạch, có tinh thần thượng tôn pháp

luật và dũng cảm đấu tranh vì công lý.

Về công tác tuyển dụng, cần xây dựng các biện pháp mang tính đột phá,

linh hoạt nhằm tạo nguồn cán bộ có chất lượng cho cơ quan VKS như: thực hiện

việc kết hợp giữa xét tuyển với thi tuyển trong tuyển dụng, chuyển ngạch cán bộ;

thực hiện chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm KSV từ nguồn Điều tra viên, Luật sư,

Thẩm phán, chuyên viên chính nhằm nhanh chóng bảo đảm đủ biên chế và đội

ngũ cán bộ cần thiết cho VKS ở tất cả các cấp. Điều cần lưu ý là hiện có nhiều cơ

sở đào tạo có khả năng đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao ngoài Trường Đại

học kiểm sát như các Trường Đại học Luật, Đại học an ninh, Đại học cảnh sát

nhân dân và Học viện tư pháp,… Do vậy, để đa dạng hoá đầu vào cho công tác

tuyển dụng nguồn nhân chất lượng cao lực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tạo

sự phong phú, sâu sắc, đa dạng trong tư duy khoa học của đội ngũ cán bộ ngành

kiểm sát trong thời gian tới và tránh lãng phí nguồn tài nguyên của xã hội, công

170

tác tạo nguồn nhân lực của ngành không nên quá tập trung, bó hẹp về nguồn tuyển

dụng xuất phát tốt nghiệp Trường Đại học kiểm sát mà cần phải được mở rộng.

Tuy nhiên, để có nguồn nhân lực phục vụ tốt yêu cầu cải cách tư pháp cần có qui

trình đào tạo kết hợp, bổ sung giữa đào tạo tri thức khoa học pháp lý cơ bản với

đào tạo nghề và với đào tạo bổ sung kiến thức nghiệp vụ thực tiễn hàng năm.

Về hệ thống ngạch, bậc các chức danh tư pháp trong ngành kiểm sát, cần

xây dựng lại ngạch, bậc Kiểm sát viên; cần thực hiện chế độ bổ nhiệm không thời

hạn đối với một số loại Kiểm sát viên cùng với việc kéo dài thời hạn và đơn giản

hoá thủ tục bổ nhiệm để góp phần bảo đảm tính độc lập trong hoạt động của các

chức danh tư pháp và đáp ứng yêu cầu điều động, luân chuyển cán bộ. Bên cạnh

đó, cần bổ sung chức danh trợ lý Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong

BLTTHS để giúp việc cho Kiểm sát viên, tạo tính năng động cao trong việc tự tổ

chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho Kiểm sát viên.

Về công tác quản lý cán bộ, Kiểm sát viên, cần thực hiện việc qui chế hóa

các hoạt động quản lý như đánh giá, qui hoạch, sử dụng, bổ nhiệm, khen thưởng,

kỷ luật, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, vừa

tăng cường hiệu quả quản lý, điều hành, vừa tạo hành lang pháp lý cho hoạt động

độc lập của cán bộ, Kiểm sát viên và vừa nhằm chống tiêu cực, tham nhũng [58].

Song song với đội ngũ cán bộ, thì cơ sở vật chất, phương tiện làm việc bao

giờ cũng là yếu tố cần phải quan tâm đến khi tiến hành cải cách, cải tổ, đặc biệt là

đối với Bộ máy Nhà nước.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngành Kiểm sát được Nhà nước

giao nhiều trọng trách quan trọng mà các cơ quan hành chính khác không có, như:

khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; KSV phải có mặt tại phiên tòa để

xét xử vụ án; khi cần thiết thì VKS hỏi cung bị can, nhân chứng, thực nghiệm điều

tra, trưng cầu giám định;…Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, Kiểm sát viên phải

thường xuyên thực hiện việc trực trong những ngày Thứ bảy, Chủ nhật và các

ngày lễ, sẵn sàng có mặt khi Cơ quan điều tra thông báo về sự kiện pháp lý đã xảy

ra và những hoạt động điều tra ban đầu đang được dự định hoặc chuẩn bị tiến

171

hành... Do vậy, Kiểm sát viên cần được trang bị các phương tiện làm việc như: ô

tô, xe máy, máy ảnh, máy ghi hình, máy tính…và chi phí cho các hoạt động và

mua sắm các trang thiết bị nêu trên chính là kinh phí đặc thù cho ngành Kiểm sát.

Bên cạnh đó, việc xây dựng trụ sở làm việc của các VKS cũng phải phù hợp với

các quy định của pháp luật, đòi hỏi trụ sở các VKS cần thiết kế các phòng chức

năng như: phòng hỏi cung bị can, phòng tiếp công dân, phòng trực nghiệp vụ, kho

vật chứng, kho lưu trữ hồ sơ vụ án, phòng tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm,

phòng họp Uỷ ban kiểm sát và họp liên ngành các cơ quan tư pháp để bàn giải

quyết án…Cho nên việc thiết kế trụ sở các cơ quan VKS cũng khác rất nhiều so

với trụ sở các cơ quan hành chính khác. Xuất phát từ đặc điểm nêu trên, kinh phí

xây dựng trụ sở VKSND các cấp cũng có những đặc thù riêng.

Trên tinh thần thực hiện sự chỉ đạo của Bộ chính trị về đáp ứng yêu cầu

trang bị điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp,

công tác hậu cần ngành Kiểm sát đã được Lãnh đạo VKSNDTC quan tâm và trình

Chính phủ phê duyệt thực hiện các chế độ, chính sách như: chi bồi dưỡng nghiệp

vụ ngày 20/10/2002 và sau đó được nâng định mức chi bồi dưỡng nghiệp vụ ban

hành ngày 27/09/2007; đầu tư trang bị phương tiện làm việc cho ngành Kiểm sát

nhân dân từ 2006 đến năm 2020 với tổng mức là 1. 612 tỉ đồng.

Tuy nhiên, việc cấp phát, sử dụng ngân sách được giao trong ngành kiểm

sát cũng cần phải cải tiến ở một số góc độ sau:

Nhà nước cần khắc phục triệt để những hạn chế từ việc phân bổ ngân sách

trong ngành Kiểm sát theo chế độ “cào bằng”, đồng đều, theo loại hình đơn vị

kiểm sát như hiện nay; cần thực hiện việc xác định và phân bổ kinh phí hoạt động

cho VKS các cấp và các Cơ quan tư pháp khác phù hợp với khối lượng và đặc

trưng của nhiệm vụ được giao của từng đơn vị, theo tính chất của các vùng, miền,

địa phương khác nhau.

Nhà nước cần đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, phụ cấp, khen thưởng

phù hợp với lao động đặc thù của cán bộ tư pháp. Trong đó, quan trọng nhất là

Nhà nước cần xây dựng lại hệ thống thang bậc lương của các loại KSV theo

172

hướng bình đẳng, hài hoà giữa các yếu tố quyền lợi, vị trí, trách nhiệm, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, mức độ cống hiến một cách phù hợp trong tổng thể mặt

bằng lương chung đối với cán bộ công chức Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước cần

chú trọng xây dựng điểm đột phá mang tính cách mạng trong chế độ lương, phụ

cấp của ngành kiểm sát qua chế độ phụ cấp đặc thù, như: phụ cấp dưỡng liêm, phụ

cấp trách nhiệm, phụ cấp độc hại, phụ cấp phí sinh hoạt đắt đỏ, phụ cấp cho nguồn

nhân lực có trình độ cao (Thạc sĩ, tiến sĩ),…nhằm vừa tạo điều kiện thuận lợi, khả

thi cho việc điều động, luân chuyển định kỳ cán bộ vừa có tác dụng phòng, chống

tiêu cực, tham nhũng vừa tạo động lực động viên khuyến khích cho đội ngũ cán

bộ ngành Kiểm sát nâng cao hiệu quả công tác và trở thành cơ sở, điều kiện bảo

đảm sự thành công cho các nhiệm vụ cải cách tư pháp khác trong ngành VKSND.

3.3.5 Kiến nghị tăng cường sự giám sát đối với các hoạt động tư pháp hình sự

Bên cạnh hoạt động kiểm tra, giám sát nghiệp vụ theo chức năng, Nhà

nước cần mở rộng các cơ chế giám sát đối với các HĐTP để vừa nâng cao được

hiệu quả quản lý điều hành các HĐTP vừa tăng cường pháp chế và vừa ngăn ngừa

có hiệu quả tiêu cực, tham nhũng, cụ thể:

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật

của HĐTP, bằng việc: qui định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của VKS cũng

như các điều kiện để bảo đảm cho VKS thực hiện có hiệu quả chức năng

KSHĐTP; qui định cụ thể nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với việc

thực hiện các kiến nghị, yêu cầu của VKS.

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát HĐTP của các cơ quan

dân cử, của cơ quan, tổ chức và công dân, thông qua việc luật hóa quyền và nghĩa

vụ của các cơ quan dân cử, các cơ quan, tổ chức khác và của công dân đối với

những phạm vi, lĩnh vực của từng HĐTP cụ thể: công khai, minh bạch trình tự tố

tụng, quyết định tố tụng của từng cơ quan tiến hành tố tụng; quyền yêu cầu, kiến

nghị cụ thể của cơ quan, tổ chức và cá nhân cùng với trách nhiệm, nghĩa vụ của các

cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các yêu cầu, kiến nghị đó.

173

Về cơ chế thực hiện hoạt động giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp,

cần xác định rõ ràng rằng việc thực hiện hoạt động giám sát xã hội đối với việc

thực thi quyền lực nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng cần phải

trên cơ sở qui định của luật. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần lựa chọn hình thức pháp

điển hóa phù hợp, có hiệu quả thực tiễn (xây dựng thành Bộ luật riêng rẽ hoặc đưa

vào BLTTHS mới). Theo quan điểm của tác giả luận án, việc pháp điển hoá các

qui định hiện hành và bổ sung, hoàn thiện chúng thành chế định giám sát xã hội

đối với HĐTP và được thể hiện thành Luật giám sát xã hội HĐTP mới là sự chọn

tối ưu, có nhiều thuận lợi trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật trên thực tiễn.

Tuy nhiên, chế định pháp luật này cần phải bao hàm các nội dung sau:

+ Về chủ thể thực hiện hoạt động giám sát xã hội, phạm vi về chủ thể giám

sát xã hội thì cần được mở rộng, không hạn chế. Tuy nhiên, để có được sự trật tự,

hiệu quả trong cơ chế giám sát xã hội hoạt động tư pháp không thể không tính đến

việc giao cho một cơ quan chức năng, nhiệm vụ giám sát HĐTP về mặt xã hội với

tư cách là chủ thể chính yếu. Ở Việt nam hiện nay, xét về truyền thống tổ chức và

hoạt động của bộ máy Nhà nước, nhận thấy chỉ có Mặt trận tổ quốc các cấp được

xem là có nhiều yếu tố thuận lợi về cả kinh nghiệm hoạt động lẫn truyền thống tổ

chức, phân công quyền lực Nhà nước, khi được phân công thực hiện hoạt động

giám sát xã hội. Tuy nhiên, Luật cũng cần xác định rõ rằng hoạt động giám sát đối

với HĐTP của Quốc hội và Hội đồng nhân dân không phải là hoạt động giám sát

xã hội mà là hoạt động giám sát quyền lực Nhà nước; hoạt động giám sát của Mặt

trận tổ quốc mang tính chất rộng rãi, thường xuyên, lâu dài trong khi hoạt động

giám sát của Hội đồng nhân dân mang tính đột xuất khi cần thiết hoặc định kỳ

theo kế hoạch; cá nhân công dân có quyền thực hiện việc giám sát hoạt động tư

pháp thông qua việc thực hiện quyền của mình đã được Luật khiếu nại, Luật tố

cáo, BLTTHS xác định và thông qua việc phản ánh với cơ quan có chức năng

giám sát xã hội.

+ Về hình thức giám sát, hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc được

thực hiện bằng các hình thức chất vấn tại các phiên họp mà Mặt trận là thành viên;

174

bằng hình thức kiến nghị, yêu cầu thông qua hình thức văn bản hoặc thông qua

hình thức giám sát trực tiếp tại các cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, Luật cần xác định

rõ nội dung giám sát phải là những vi phạm lớn, nghiêm trọng mang tính hệ thống,

thường xuyên, chậm được khắc phục sửa chữa chứ không phải là các vụ việc cụ

thể, nhỏ lẻ để tránh sự trùng lắp với hình thức hoạt động thi hành Luật kiếu nại,

Luật tố cáo.

+ Về đối tượng giám sát, phạm vi đối tượng giám sát được xác định là rất

rộng, bao gồm tất cả các vấn đề thuộc về hình thức và nội dung của hoạt động tư

pháp, tùy thuộc và mục đích, yêu cầu, kế hoạch của chủ thể thực hiện giám sát.

+ Về trình tự thực hiện giám sát, căn cứ thực hiện giám sát chính là thông

tin về kết quả hoạt động tư pháp từ chính các cơ quan tư pháp và từ sự phản ánh

của xã hội. Do vậy, để có thể tiến hành hoạt động một cách sâu sát, đạt hiệu quả

về pháp chế nhưng đảm bảo sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội, điều quan

trọng là cơ quan được giao chức năng giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp

cần được Luật xác định rõ qui trình nắm bắt thông tin về HĐTP một cách chủ

động, thường xuyên để có thể xây dựng kế hoạch giám sát hiệu quả nhằm đạt

được các mục đích, yêu cầu giám xác định từ trước. Một cách khái quát, hoạt động

giám sát tư pháp cần được thực hiện thông qua các bước: nắm bắt thông tin về kết

quả hoạt động tư pháp để xác định mục đích, yêu cầu giám sát; xây dựng kế hoạch

giám sát; công bố nội dung chất vấn, yêu cầu, kiến nghị, giám sát trực tiếp; nghiên

cứu báo cáo, trả lời của cơ quan tư pháp bị giám sát; kiểm tra thực tế; họp kết luận

kết quả giám sát; công bố kết quả giám sát và tiếp nhận kiến nghị giải trình, đề

xuất của của quan tư pháp bị giám sát; công bố Nghị quyết về kết quả giám sát.

Trong trình tự giám sát đề xuất nêu trên, điểm mấu chốt quan trọng nhất

đảm bảo cho hoạt động giám sát đạt hiệu quả là việc thành lập hội đồng chuyên

môn có chức năng nhiệm vụ giúp cho đoàn giám sát thẩm định tính đúng đắn của

các vấn đề giám sát. Hội đồng này có thành phần tham gia của các chuyên gia liên

ngành tư pháp, có trình độ, năng lực phù hợp nhằm đảm bảo khả năng đạt được

mục đích yêu cầu giám sát. Hội đồng chuyên môn cần được giao cho quyền hạn

175

một cách đầy đủ cùng với việc xác định nghĩa vụ một cách rõ ràng, cụ thể. Quyết

định của hội đồng cần được khẳng định là được xác lập theo nguyên tắc biểu

quyết theo đa số.

Song song đó, vấn đề đảm bảo hiệu quả cho Nghị quyết của cơ quan giám

sát là rất quan trọng. Do vậy cần xác định rõ tính chất bắt buộc thực hiện đối với

cơ quan tư pháp về các vấn đề, nội dung nêu trong Nghị quyết cùng với trách

nhiệm cụ thể (trách nhiệm hành chính, kỷ luật lao động,...) đối với cá nhân có

trách nhiệm khi chậm thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ, hoặc không thực

hiện các nội dung, kiến nghị, yêu cầu của Nghị quyết của cơ quan giám sát.

+ Về thời hạn thực hiện việc giám sát và trả lời, thực hiện yêu cầu giám sát,

là một vấn đề quan trọng, cần phải được xem xét và giải quyết một cách hợp lý để

đảm bảo không chỉ đối với hiệu quả hoạt động giám sát mà còn đối với hoạt động

đúng đắn, bình thường của cơ quan tư pháp bị giám sát. Qui định về thời hạn giám

sát, về nguyên tắc, cần đảm bảo sự thuận lợi cho hoạt động của đơn vị bị giám sát,

thời hạn từng hoạt động giám sát cần có sự qui định chặt chẽ để đảm bảo thời hạn

của cả tiến trình giám sát. Thực tế đáp ứng các nhu cầu giám sát đối với HĐTP

trong thời gian qua, tác giả luận án nhận thấy: thời hạn không quá 07 ngày đối với

nội dung giám sát đơn lẻ, đơn giản; không quá 15 ngày đối với nội dung giám sát

lớn, phức tạp; không quá 30 ngày với nội dung giám sát toàn diện, đa dạng là các

thời hạn giám sát xã hội đối với HĐTP cần được tham khảo. Về thời hạn trả lời

việc thực hiện nội dung Nghị quyết giám sát thì thời hạn cần quan tâm thực hiện là

07 ngày đối với nội dung đơn lẻ và 15 ngày đối với nội dung phức tạp.

+ Về quyền và nghĩa vụ của cơ quan thực hiện việc giám sát và của cơ

quan bị giám sát, là một vấn đề phức tạp, tuy nhiên để có thể xây dựng cơ chế

pháp luật hợp lý về quyền và nghĩa vụ trong giám sát hoạt động tư pháp cần đảm

bảo các tiêu chí: Đối với quyền và nghĩa vụ của cơ quan giám sát, Luật cần đảm

bảo tối đa tính hiệu quả tiến hành giám sát. Theo đó, Luật cần qui định việc thực

thi một cách không hạn chế các quyền của cơ quan giám sát nhằm đảm bảo hiệu

quả trên thực tế. Tuy nhiên, xu hướng này cũng cần bị hạn chế bởi kiến nghị của

176

cơ quan tư pháp về nội dung, phạm vi, thời hạn chấp hành việc giám sát nhằm

đảm bảo ngăn ngừa sự lạm quyền, thiếu khách quan của cơ quan tiến hành giám

sát; Đối với quyền và nghĩa vụ của cơ quan bị giám sát, Luật cần quán triệt

nguyên tắc tuân thủ, chấp hành, đáp ứng với mức độ cao nhất yêu cầu, đề nghị của

cơ quan giám sát, đồng thời đảm bảo quyền phản hồi, kiến nghị, đề xuất của cơ

quan bị giám sát đối với yêu cầu, kiến nghị của cơ quan giám sát.

177

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Trên cơ sở các lý luận được xây dựng ở Chương 1 và thực trạng THQCT

và KSĐT tại Chương 2, Chương 3 chỉ ra 4 phương hướng, 4 nội dung thực hiện

yêu cầu cải cách tư pháp hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự.

Trên nền tảng đó, 5 kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt

động của VKS trong điều tra vụ án hình sự được đề xuất. Trọng tâm, là kiến nghị

hoàn thiện qui định của BLTTHS hiện hành về các hoạt động thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra nhằm đáp ứng yêu cầu tăng

cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra,

được trình bày dưới dạng các định hướng sửa đổi bổ sung các qui định của

BLTTHS năm 2003. Kiến nghị sửa đổi bổ sung các điều luật trong BLTTHS năm

2003 chỉ dừng lại ở mức độ định hướng sửa đổi mà không đặt ra vấn đề sửa đổi,

bổ sung cụ thể, chi tiết vì điều kiện trình bày hạn chế của luận án. Tác giả lựa

chọn hình thức kiến nghị sửa đổi cụ thể một số điều luật liên quan đến nhiệm vụ,

quyền hạn chung của VKS trong TTHS và trong điều tra vụ án hình sự và được

trình bày tại phần Phụ lục.

Chương 3 đã giải quyết được vấn đề của việc nghiên cứu đề tài là đề xuất

được các phương hướng, nội dung, kiến nghị phù hợp với lý luận, pháp lý và yêu

cầu cải cách tư pháp đối với hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự. Đây

là những kiến nghị được xem là có tính khả thi trong thực tế áp dụng pháp luật, có

khả năng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án

hình sự.

178

KẾT LUẬN

Đề tài “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải

cách tư pháp” đã đặt ra các vấn đề phải giải quyết để hoàn thành nhiệm vụ nghiên

cứu là: Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự? Thực trạng hoạt động

của VKS trong điều tra vụ án hình sự trong những năm gần đây? Yêu cầu, phương

hướng và kiến nghị nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp đối với hoạt động

của VKS trong điều tra vụ án hình sự? Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu

trên, phần nội dung kết quả nghiên cứu của luận án đã được xây dựng thành 3

phần chính nhằm xác định việc giải quyết từng nhiệm vụ nghiên cứu và kết quả

nghiên cứu của nhiệm vụ này là cơ sở để nghiên cứu nhiệm vụ kế tiếp. Cụ thể, kết

quả nghiên cứu của luận án được xác định với những nội dung sau:

Qua cách tiếp cận theo hướng đi từ cái riêng, cơ bản, nền tảng đến cái

chung, tổng quan để phân tích, đánh giá các quan điểm lý luận về hoạt động của

VKS trong giai đoạn điều tra, Chương 1 đã làm rõ được:

Vị trí, vai trò của hoạt động điều tra, qua đó, làm nổi bật vị trí, vai trò của

VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thông qua các hoạt động thực hiện hai

mặt chức năng bộc tội của VKS trong giai đoạn điều tra – THQCT và KSHĐTP

(KSĐT).

Vị trí, vai trò của các mô hình VKS (Cơ quan công tố) theo các truyền

thống pháp luật trên thế giới cũng đã được xem xét. Qua đó, có sự đánh giá và rút

ra được những kinh nghiệm đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động

của VKS trong điều tra vụ án hình sự.

Nhận thức về THQCT và KSHĐTP là cơ sở khoa học mang tính chất nền

tảng của tất cả các hoạt động nhằm thực hiện chức năng Hiến định của VKS nói

chung. Thông qua việc xem xét các quan điểm chủ yếu của khoa học pháp lý Việt

Nam hiện nay về các vấn đề có tính chất cơ bản của chức năng Hiến định THQCT

và KSHĐTP trong điều tra vụ án hình sự, như: Công tố, QCT, THQCT, tư pháp,

quyền tư pháp, cơ quan tư pháp, HĐTP, kiểm sát việc tuân theo pháp luật,

179

KSHĐTP trong giai đoạn điều tra - KSĐT vụ án hình sự, để xây dựng nhận thức

chung đúng đắn và toàn diện về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong điều tra vụ

án hình sự.

Việc nghiên cứu thể hiện được tính mới qua việc nghiên cứu các phạm trù

của THQCT, KSHĐTP trong TTHS, hoạt động điều tra, hoạt động của VKS trong

điều tra vụ án hình sự dưới góc độ các quan hệ pháp luật, với các yếu tố cơ bản

như: chủ thể, đặc điểm, nội dung, phạm vi, phân loại, mối quan hệ tác động qua

lại. Từ đó, Chương 1 đã khẳng định: THQCT, KSHĐTP là hai chức năng nghiệp

vụ TTHS của VKS nhằm thực hiện chức năng Hiến định được Nhà nước giao cho;

THQCT và KSHĐTP có mối quan hệ tác động qua lại, thể hiện tính chặt chẽ,

tương hỗ cao và trong hoạt động TTHS của VKS trong giai đoạn điều tra.

Trên cơ sở đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta thời kỳ

phát triển sau đổi mới, hội nhập sâu, rộng với nền kinh tế, xã hội quốc tế kéo theo

sự phát triển khó tiên liệu chính xác của tình hình tội phạm cả về số lượng lẫn tính

chất, mức độ nguy hiểm cũng như tác động ngược lại của tội phạm đối với nền

kinh tế, xã hội, cũng đã được khái quát cùng với những định hướng cơ bản của

Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp đối với hoạt động của VKS trong TTHS

và việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của Cơ quan công tố

nước ngoài, Chương 1 xác định yêu cầu cải cách đối với hoạt động của VKS trong

điều tra vụ án hình sự. Đó là xây dựng một mô hình VKS mạnh, có vị trí đáng kể,

được gắn với hoạt động điều tra, phát huy được vai trò, trách nhiệm của VKS

trong hoạt động điều tra.

Bằng việc nhìn nhận, đánh giá thực trạng THQCT và KSĐT trong điều tra

vụ án hình sự trong khoảng thời gian 10 năm (2004 - 2013), Chương 2 đã xây

dựng một góc nhìn thực tiễn mang tính khái quát về hoạt động của VKS trong

điều tra vụ án hình sự trong khoảng thời gian đủ dài, với các yếu tố tích cực và

hạn chế, thiếu sót cả về mặt chủ quan lẫn khách quan.

Những vấn đề phát sinh trong thực tiễn tổ chức thực hiện những qui định

của BLTTHS năm 2003 về hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự, đã

180

được phân tích, làm rõ từ góc độ thực tiễn. Qua đó, những vấn đề lớn, quan trọng,

nảy sinh trong thực tiễn hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự đã được

nghiên cứu, nhận xét, đánh giá ở mức độ tổng hợp, khái quát. Đó là các vấn đề bất

hợp lý, thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả nảy sinh trong việc thực hiện qui định của

BLTTHS năm 2003 và của các văn bản pháp luật có liên quan về các lĩnh vực

hoạt động quan trọng, chủ yếu của VKS trong điều tra vụ án hình sự, như: lĩnh

vực khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; lĩnh vực áp dụng thay đổi, hủy bỏ

BPNC; lĩnh vực đề ra yêu cầu điều tra và trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều

tra; lĩnh vực KSĐT, lĩnh vực giải quyết kiếu nại, tố cáo trong TTHS… Đây được

xem là những cơ sở có tính thực tiễn để tiến hành việc nghiên cứu, đánh giá thực

trạng pháp luật thực định về hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự. Nét

đặc biệt trong việc nghiên cứu tại Chương 2 là kết hợp giữa cách nhìn nhận đánh

giá về hạn chế của hoạt động do VKS tiến hành trong điều tra vụ án hình sự ở mức

độ tổng quan và khái quát cao với cách nhìn nhận và phát hiện từng vấn đề cụ thể

qua lăng kính kinh nghiệm thực tiễn. Đây là những cơ sở thực tiễn để đề xuất

những kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tố tụng của VKS trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

Trên cơ sở những vấn đề về lý luận và thực tiễn của hoạt động do VKS

thực hiện đã được làm rõ tại Chương 1 và Chương 2, Chương 3 đã làm rõ những

phương hướng thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp đối với hoạt động THQCT và

KSĐT trong điều tra vụ án hình sự là: Thống nhất nhận thức trách nhiệm của VKS

trong hoạt động điều tra là quyết định việc buộc tội, gỡ tội trên cơ sở kết quả các

hoạt động điều tra; Nhận thức và thực hiện đúng đắn các biện pháp công tố trên

cơ sở thực hiện tốt hoạt động KSĐT; Khi THQCT và KSĐT, Kiểm sát viên phải có

tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, Nhà nước, xã hội, trước số phận con người

và giải quyết tốt sự việc; Kiểm sát viên phải nắm vững bản chất pháp lý của vụ

việc đang điều tra, về việc buộc tội, gỡ tội nâng cao phẩm chất nghề nghiệp

THQCT trong hoạt động điều tra.

181

Đồng thời, Chương 3 cũng đã xác định nội dung thực hiện yêu cầu cải cách

tư pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ

án hình sự là: Xây dựng các thủ tục tố tụng phù hợp với tổ chức hệ thống cơ quan

xét xử và VKS bốn cấp; Tăng cường trách nhiệm của VKS trong hoạt động điều

tra; thực hiện cơ chế gắn công tố với điều tra; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ kiểm sát về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp; Tăng

cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với

hoạt động của VKS.

Phù hợp với yêu cầu, phương hướng, nội dung cải cách tư pháp đối với

hoạt động THQCT và KSĐT trong điều tra vụ án hình sự nêu trên, kiến nghị được

cho là khả thi để nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự là: Kiến nghị về việc đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả trong cải cách tư

pháp; Kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện BLTTHS năm 2003 nhằm tăng

cường trách nhiệm công tố trong giai đoạn điều tra, gắn công tố với hoạt động

điều tra; Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các các văn bản pháp luật khác có liên quan

đến nhiệm vụ nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ

án hình sự; Kiến nghị đảm bảo điều kiện vật chất, nguồn nhân lực cho hoạt động

của VKS; Kiến nghị tăng cường sự giám sát đối với các HĐTP hình sự. Trong đó,

kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện BLTTHS được xác định là trọng tâm

và được trình bày theo các nhóm hoạt động chủ yếu của VKS trong điều tra vụ án

hình sự, với đề nghị sửa đổi, bổ sung khoảng 45 Điều luật của BLTTHS năm

2003. Trong đó, quan trọng nhất là các Điều luật qui định về chức năng nhiệm vụ

chung của VKS trong TTHS (Điều 1, 23); về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm

của người tiến hành tố tụng của VKS (Điều 36, 37); về nhiệm vụ, quyền hạn của

VKS trong giai đoạn điều tra (Điều 112, 113). Các giải pháp khác, việc đề xuất chỉ

mới dừng lại ở các định hướng chung, vì đề xuất cụ thể sẽ làm cho nhiệm vụ

nghiên cứu đề tài quá rộng, phức tạp và kéo dài.

Việc nghiên cứu đề tài “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” đã làm sáng tỏ có mức độ các vấn đề lý luận và

182

thực tiễn của hoạt động THQCT và KSHĐTP trong điều tra vụ án hình sự; các nội

dung cụ thể của yêu cầu cải cách tư pháp đối với hoạt động của VKS và các kiến

nghị có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động này trong

tương lai. Tuy nhiên do năng lực nghiên cứu còn hạn chế của tác giả, đề tài này

vẫn còn một điểm chưa được nghiên cứu sâu như: chưa xác định rõ mối quan hệ

tương tác về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

với giai đoạn tố tụng trước đó – giai đoạn khởi tố vụ án và với các giai đoạn tố

tụng sau đó – giai đoạn quyết định việc truy tố và các giai đoạn xét xử nói chung

có ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều

tra vụ án hình sự nói riêng và của hoạt động buộc tội của VKS nói chung? Vai trò

của việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án

hình sự đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động chức năng tố

tụng khác như: điều tra, bào chữa, xét xử? Chưa xây dựng được một cách chi tiết,

cụ thể, với ý nghĩa là những đề án hoàn chỉnh đối với nội dung các đề xuất cải

cách, đổi mới được đưa ra trong các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự, như: vấn đề đảm bảo tính đồng

bộ, hiệu quả trong cải cách tư pháp; vấn đề đảm bảo điều kiện vật chất, nguồn

nhân lực cho hoạt động của VKS; vấn đề tăng cường sự giám sát đối với các

HĐTP hình sự,…Tất cả những hạn chế trên của kết quả nghiên cứu, tác giả xin

chân thành nhận được sự đóng góp, chia sẻ từ các đồng chí, đồng nghiệp!