BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)
NGUYỄN MẠNH HÀ
THÔNG TIN BẤT ĐỐI XỨNG, QUẢN TRỊ CÔNG TY VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh Mã số: 62340102
LUẬN ÁN TIẾN SỸ
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. VŨ ĐÌNH HIỂN 2. TS. LƯƠNG THÁI BẢO
Hà Nội - 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật .
Tôi xin cam đoan đề tài luận án “Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và
hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” là công trình nghiên
cứu của tôi.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn Nghiên cứu sinh
Nguyễn Mạnh Hà
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận án này.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến TS. Vũ Đình Hiển và TS. Lương Thái Bảo
người hướng dẫn khoa học của luận án, đã giúp tôi những quy chuẩn về nội dung, kiến
thức và phương pháp nghiên cứu để hoàn thành luận án này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những đồng nghiệp
đã tận tình hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả mọi người!
Tác giả
Nguyễn Mạnh Hà
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ vii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ viii
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................ ix
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU ................................. 1
1.1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án ............................................................. 2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................... 2
1.4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3
1.5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 3
1.6. Kết quả đạt được của luận án .................................................................. 3
1.7. Bố cục luận án ........................................................................................... 3
1.8. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết dự kiến .............................................. 4
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY, THÔNG TIN
BẤT ĐỐI XỨNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI .................................................................................................... 5
2.1. Tổng quan về quản trị công ty ................................................................. 5
2.1.1. Các định nghĩa về quản trị công ty .............................................................. 5
2.1.2. Tầm quan trọng của quản trị công ty ........................................................... 6
2.1.3. Một số mô hình quản trị công ty trên thế giới.............................................. 7
2.1.4. Sự khác biệt giữa quản trị công ty ngân hàng và công ty khác ...................... 16
2.1.5. Các lý thuyết về quản trị công ty và thang đo quản trị công ty .................. 20
2.2. Tổng quan về thông tin bất đối xứng ..................................................... 28
2.2.2. Các hình thức thông tin bất đối xứng .................................................... 30
2.2.3. Ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng ................................................. 31
2.2.4. Các nghiên cứu về thông tin bất đối xứng ............................................ 34
2.2.1. Khái niệm về thông tin bất đối xứng ......................................................... 28
iv
2.2.5. Cấu trúc biến thông tin bất đối xứng ..................................................... 37
2.3. Tổng quan về hiệu quả hoạt động của ngân hàng và phương pháp
đo lường ................................................................................................... 42
2.4. Tổng quan về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng, quản trị
công ty và hiệu quả hoạt động của ngân hàng ....................................... 46
2.4.1. Mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động ngân
hàng .......................................................................................................... 46
2.4.2. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và thông tin bất đối xứng ..................... 49
2.4.3. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động ngân hàng .............. 52
2.5. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết .......................................................... 60
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 63
3.1.1. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 63
3.1.2. Mẫu nghiên cứu của luận án .................................................................. 64
3.1. Thiết kế nghiên cứu ................................................................................ 63
3.2.1. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 65
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 65
3.2. Nghiên cứu định lượng ........................................................................... 65
TÓM TẮT CHƯƠNG III .................................................................................. 71
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................................... 72
4.1. Tổng quan Thực trạng quản trị công ty tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam .......................................................................................... 72
4.2.1. Thống kê mô tả về đặc điểm của các ngân hàng TMCP luận án
nghiên cứu ............................................................................................... 77
4.2.2. Thống kê mô tả biến độc lập là các yếu tố thuộc quản trị công ty và
kiểm định dạng phân phối của các thang đo biến độc lập ................... 80
4.2.3. Thống kê mô tả biến phụ thuộc.............................................................. 84
4.2. Thống kê mô tả các ngân hàng được thu thập dữ liệu nghiên cứu ....... 77
v
4.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty với
các biến thuộc thông tin bất đối xứng và giữa các biến thuộc thông tin
4.3.1. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty
và biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến R&D ................... 86
4.3.2. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty
và biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến Leverage ............. 89
4.3.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty
và biến kiểm soát với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng ........... 91
4.3.4. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến đại diện cho thông tin
bất đối xứng và biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân
hàng ......................................................................................................... 94
bất đối xứng với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng ......................... 86
4.4. Kiểm định giả thuyết và phân tích hồi quy xác định mối quan hệ
giữa quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động
4.4.1. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ nhất sự tác động của
các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối
xứng là R&D ........................................................................................... 96
4.4.2. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ hai xác định sự tác
động của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin
bất đối xứng là Leverage ........................................................................ 99
4.4.3. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ tác
động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát
tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng ................................................. 102
4.4.4. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ tư xác định mức độ tác
động của các biến đại diện thông tin bất đối xứng và các biến kiểm
soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng ......................................... 107
của các ngân hàng ................................................................................... 95
vi
4.4.4. Tổng hợp kết quả phân tích hồi qui của 4 mô hình ............................ 110
TÓM TẮT CHƯƠNG IV ................................................................................ 114
CHƯƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ....................................................................... 115
5.1. Khuyến nghị đối với hoạt động quản trị tại ngân hàng ...................... 115
5.2. Khuyến nghị đối với Hội đồng quản trị ............................................... 116
5.3. Khuyến nghị đối với sở hữu ................................................................. 118
5.4. Khuyến nghị đối với thông tin bất đối xứng ........................................ 118
5.5. Khuyến nghị về chính sách ................................................................... 121
5.6. Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước ........................... 123
5.8. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo .................... 125
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 128
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 135
vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CG Quản trị công ty
CGI Chỉ số quản trị công ty
Gov-score Điểm quản trị công ty
HĐQT Hội đồng quản trị
QTCT Quản trị công ty
R&D Nghiên cứu và phát triển
TGĐ Tổng giám đốc
TMCP Thương mại cổ phần
viii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: So sánh đặc điểm về mô hình quản trị công ty các nước ............. 14
Bảng 2.2: Lý thuyết người đại diện ............................................................ 22
Bảng 2.3: Các thước đo quản trị công ty ..................................................... 28
Bảng 4.1: Quy mô tài sản của mẫu .............................................................. 78
Bảng 4.2: Vốn điều lệ của các ngân hàng .................................................... 79
Bảng 4.3: Mô tả thống kê các biến độc lập .................................................. 83
Bảng 4.4: Mô tả thống kê các thang đo biến phụ thuộc ............................... 85
Bảng 4.5: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc
R&D đại diện cho thông tin bất đối xứng với các biến độc lập
thuộc quản trị công ty ................................................................. 87
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc
Leverage với các biến độc lập thuộc quản trị công ty .................. 90
Bảng 4.7: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu quả
hoạt động của ngân hàng với các biến thuộc quản trị công ty ............ 92
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu
quả hoạt động của ngân hàng với các biến đại diện cho thông
tin bất đối xứng và các biến kiểm soát ........................................ 94
Bảng 4.9: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 1 ...... 97
Bảng 4.10: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 1 ...................................... 99
Bảng 4.11: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 2 .. 100
Bảng 4.12: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 2 .................................... 102
Bảng 4.13: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 3 .................................... 103
Bảng 4.14: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 3 sau khi loại biến ......... 104
Bảng 4.15:Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 3 ... 105
Bảng 4.16: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 4 .. 108
Bảng 4.17: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 4b .................................. 110
ix
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu dự kiến ......................................................... 4
Hình 2.1: Mô hình quản trị công ty Mỹ, Anh .............................................. 10
Hình 2.2: Mô hình quản trị công ty kiểu Đức ............................................. 12
Hình 2.3: Mô hình công ty kiểu Nhật Bản .................................................. 13
Hình 2.4. Mô hình nghiên cứu .................................................................... 62
Hình 4.1: Mô hình hồi quy ...................................................................... 112
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về quản trị công ty cũng như mối quan
hệ giữa Quản trị công ty (QTCT) với hiệu quả hoạt động của công ty hay mối quan
hệ giữa QTCT với thông tin bất đối xứng. Các kết quả về các mối quan hệ này cũng
hết sức khác nhau. Chẳng hạn, nghiên cứu của Hermalin và Weisbach (1998, 2003),
Bhagat và Black (2002) chỉ ra rằng sự độc lập ngày càng lớn của ban giám đốc có
mối quan hệ đồng biến tới kết quả hoạt động của công ty khi sự độc lập của ban
giám đốc được chọn làm thước đo cho quản trị của công ty. Nhưng gần đây, Bhagat
và Bolton (2008) phát hiện mối quan hệ nghịch biến giữa sự độc lập của ban giám
đốc với kết quả hoạt động của công ty, trong khi quy mô của ban giám đốc cũng có
mối quan hệ nghịch biến với kết quả hoạt động (Bhagat, Carey và Elson, 1999).
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa QTCT và thông tin bất đối xứng có sự
đồng thuận cao hơn. Lý thuyết cho thấy, cơ chế QTCT tại các tổ chức ngân hàng
lớn bị ảnh hưởng lớn bởi thông tin bất đối xứng (Raheja, 2005 và Adams và
Ferreira, 2007). Bên cạnh đó, ảnh hưởng của cơ chế quản trị dường như xuất hiện
tại các lĩnh vực cụ thể và không có một cơ chế QTCT nào có thể phù hợp với mọi
loại hình công ty (Coles, Daniel và Naveen, 2008). Vì vậy, việc hiểu rõ vai trò của
thông tin bất đối xứng và mối quan hệ của thông tin bất đối xứng đối với cơ chế
QTCT đối với từng lĩnh vực là quan trọng để có những cơ chế quản trị phù hợp với
từng công ty thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Tại Việt Nam gần đây cũng đã có nhiều hơn những nghiên cứu về mối quan hệ
giữa QTCT với hiệu quả hoạt động hay QTCT với thông tin bất đối xứng. Tuy vậy,
hầu như chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến mối quan hệ của ba nhân tố này trong
cùng một nghiên cứu hoặc việc đề cập đến rất mờ nhạt và không rõ ràng.
2
Chính vì vậy, xuất phát từ thực tế trên, tác giả thấy cần thiết có một nghiên cứu
thực nghiệm nhằm kiểm định mối quan hệ giữa ba nhân tố: thông tin bất đối xứng,
quản trị công ty , hiệu quả hoạt động ngân hàng trên cùng một mô hình, đặc biệt trong
lĩnh vực ngân hàng, một lĩnh vực tài chính có nhiều tính chất đặc thù. Do vậy, tác giả
lựa chọn đề tài “Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Luận án có những mục tiêu chính như sau:
Thứ nhất, kiểm định mối quan hệ giữa quản trị công ty với thông tin bất đối xứng
trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Thứ hai, kiểm định mối quan hệ giữa quản trị công ty với hiệu quả hoạt động
của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Thứ ba, kiểm định mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Thứ tư, Trên cơ sở kiểm định các mối quan hệ, phân tích thực trạng quản trị
công ty tại các NHTMCP, để xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực quạn
trị, hạn chế thông tin bất đối xứng để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu như đã nêu trên, trong nghiên cứu này của mình, câu
hỏi nghiên cứu của tác giả như sau:
- Những yếu tố nào của quản trị công ty ảnh hưởng đến thông tin bất đối xứng
trong ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
- Những yếu tố nào của thông tin bất đối xứng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
- Những yếu tố nào của quản trị công ty ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
3
1.4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ giữa quản trị công ty, thông tin bất đối
xứng và hiệu quả hoạt động của NHTM
Phạm vi nghiên cứu: Quản trị công ty, thông tin bất đối xứng, hiệu quả hoạt
động của NHTM cổ phần niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội và TP Hồ chí
Minh từ năm 2006 đến năm 2014.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
- Quá trình nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng.
- Mẫu nghiên cứu gồm 16 ngân hàng thương mại được niêm yết trên sàn
chứng khoán Hà Nội và TP Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến 2014.
- Các biến được chia thành 04 nhóm:
o Nhóm thứ nhất, các biến đo lường quản trị công ty gồm 08 biến.
o Nhóm thứ hai, các biến đo lường thông tin bất đối xứng gồm 02 biến.
o Nhóm thứ ba, biến đo lường hiệu quả quản trị công ty gồm 01 biến.
o Nhóm thứ tư, các biến kiểm soát gồm 03 biến.
- Phương pháp phân tích dữ liệu: dùng phần mềm SPSS, Excel…
1.6. Kết quả đạt được của luận án
- Xây dựng được một hình nghiên cứu.
- Kiểm định được mối quan hệ giữa ba nhân tố: quản trị công ty, thông tin bất
đối xứng và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Đưa ra các kiến nghị đối với việc tăng cường hoạt động quản trị công ty và
giảm thiểu thông tin bất đối xứng tại ngân hàng thương mại Việt Nam.
1.7. Bố cục luận án
Bố cục của luận án dự kiến gồm 5 chương
Chương 1: Giới thiệu chung về nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận về quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu
quả hoạt động của ngân hàng thương mại
4
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
Chương 5: Kiến nghị.
1.8. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết dự kiến
H1: có mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
H2: có mối quan hệ giữa quản trị công ty và thông tin bất đối xứng.
H3: có mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Thông tin bất đối xứng
Quản trị công ty
Hiệu quả hoạt động ngân hàng
Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu dự kiến
5
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY, THÔNG TIN
BẤT ĐỐI XỨNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Tổng quan về quản trị công ty
2.1.1. Các định nghĩa về quản trị công ty
Các nhà nghiên cứu đã có nhiều định nghĩa về quản trị công ty. Tuy vậy, các
nhà nghiên cứu thường phân chia định nghĩa quản trị công ty theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Financial Times (1997) coi “quản trị công ty có thể được hiểu theo
nghĩa hẹp là quan hệ của một công ty với các cổ đông, hoặc theo nghĩa rộng là quan
hệ của công ty với xã hội…”.
Các nhà nghiên cứu định nghĩa quản trị công ty theo nghĩa hẹp có thể kể đến
những nghiên cứu của Macey, (2008); Mathiesen (2002); Shleifer và Vishny
(1997); Maw (1994). Theo Mathiesen (2002) thì “quản trị công ty thường giới hạn
trong phạm vi câu hỏi về cải thiện hiệu suất tài chính”. Còn theo Shleifer và Vishny
(1997) thì “quản trị công ty giải quyết vấn đề cách thức các nhà cung cấp tài chính
cho công ty đảm bảo quyền lợi của mình để có thể thu về lợi tức từ các khoản đầu
tư của mình”. Theo tác giả khác như Macey, (2008) thì “mục đích của QTCT để
giảm những hoạt động rủi ro, trái luật của nhà quản lý và trái với kỳ vọng của nhà
đầu tư”.
Các nhà nghiên cứu định nghĩa QTCT theo nghĩa rộng được đề cập trong
nhiều nghiên cứu, có thể kể đến các định nghĩa của Mulbert (2010); Wells (2010);
Stuart Gillian (2006); Hillary Sale (2004), Luigi Zingales (1998). Ví dụ, tác giả
Mulbert (2010) coi “QTCT là quá trình ra quyết định của Hội đồng quản trị và các
nhà quản lý cao cấp nhằm đạt được mục tiêu của công ty và cổ đông”. Theo quan
điểm của các nhà nghiên cứu này, QTCT được định nghĩa là một tập hợp các mối
quan hệ giữa quản lý của một công ty, hội đồng quản trị, các cổ đông và các bên liên
6
quan khác. Một cơ chế QTCT được coi là phù hợp khi đảm bảo được hoạt động của
HĐQT và các nhà quản lý theo đuổi mục tiêu vì lợi ích của công ty và cổ đông của
mình (OECD, 2004). Stuart Gillian (2006) cho rằng “QTCT gắn liền với việc giải
quyết Thuyết đại diện, đó là giải quyết mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và nhà quản lý”.
Bên cạnh đó, Stuart Gillian (2006) cho rằng “có sự tách biệt giữa đối tượng bên trong
hoặc bên ngoài cung cấp vốn với các đối tượng quản lý (Internal) và sự cần thiết phải
có cơ chế để đảm bảo HĐQT không thực hiện các hoạt động kinh doanh rủi ro ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp”. Một định nghĩa khác của Wells
(2010) khẳng định “QTCT là cơ chế để nhằm giảm thiểu các vấn đề do việc chia tách
quyền sở hữu và kiểm soát”. Nói cách khác, QTCT thực hiện chức năng kiểm tra các
vấn đề liên quan đến pháp lý, kinh tế, cơ chế xã hội nhằm thúc đẩy các nhà quản lý
thực thi công việc đảm bảo lợi ích của cổ đông và phát triển công ty.
Từ hai cách tiếp cận trên, ta nhận thấy tuy các nhà nghiên cứu có những cách
tiếp cận khác nhau về QTCT theo nghĩa hẹp và rộng nhưng giữa hai cách tiếp cận
này vẫn có những điểm tương đồng. Thứ nhất, cơ cấu của bộ máy quản lý công ty
xác định sự phân chia quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên khác nhau
trong công ty. Cấu trúc QTCT hoàn chỉnh và hiệu quả gồm các cấu phần: chủ sở
hữu, HĐQT, các Ủy ban giúp việc cho HĐQT, Ban điều hành cấp cao, cấp trung và
các nhân viên tác nghiệp trực tiếp. Thứ hai, cấu trúc QTCT được coi như một yếu tố
vô hình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các cổ đông, của người gửi tiền đảm bảo
tính minh bạch trong việc cung cấp các thông tin, báo cáo; tính tuân thủ các chuẩn
mực kế toán, kiểm toán quốc tế; văn hóa tổ chức và những chuẩn mực đạo đức. Thứ
ba, QTCT có thể coi là một trong những công cụ của quản lý nhằm giúp người chủ
công ty có thể kiểm soát được các hoạt động của giám đốc điều hành, ban kiểm
soát, hội đồng quản trị và một số đối tượng khác trong công ty.
2.1.2. Tầm quan trọng của quản trị công ty
Quản trị công ty được tạo ra với mục đích cuối cùng là ra các quyết định đúng
đắn để vận hành công ty thông qua việc xây dựng một cơ chế phân định rõ quyền và
trách nhiệm của mỗi thành phần liên quan đến công ty. Việc nhìn rõ trách nhiệm,
7
nghĩa vụ, quyền lợi của mình sẽ giúp các bên liên quan đưa ra các quyết định đúng
đắn vì lợi ích chung. Nếu công ty có hoạt động yếu kém, thì đó là lỗi của HĐQT
không thực hiện đúng vai trò của mình và hạn chế tình huống không ai chịu trách
nhiệm về những sai lầm trong hoạt động điều hành công ty. Trách nhiệm là những
gì giúp mọi người trong công ty đưa ra quyết định ở vị trí của mình. Điều này có thể
dẫn đến sa thải những vị trí không phù hợp hoặc không làm đúng vai trò của mình
hoặc có thể đánh giá đúng những người làm việc tốt để điều động, bổ nhiệm những
vị trí cấp cao.
Một khía cạnh quan trọng của QTCT là giảm rủi ro cho công ty. Việc thực thi
QTCT bên cạnh việc xác định vai trò của mỗi thành viên sẽ gắn trách nhiệm của họ
với từng hoạt động. Mỗi hoạt động sai lầm hoặc cố tình vi phạm sẽ chịu trách nhiệm
trước các qui định chung công ty cũng như các qui định của pháp luật. Bên cạnh đó,
đối với hoạt động kinh doanh, QTCT sẽ giúp công ty được chấp nhận rộng rãi hơn.
Điều này có được là do nguyên tắc minh bạch trong hoạt động, từ các vấn đề tài
chính, đầu tư đến định hướng chung trong hoạt động hay tầm nhìn của công ty cơ
bản sẽ được công khai.
2.1.3. Một số mô hình quản trị công ty trên thế giới
Căn cứ vào đặc điểm hệ thống tài chính và sự phân tách giữa sở hữu và quản
trị, các nhà nghiên cứu chia QTCT thành 3 mô hình sau: (1) Mô hình QTCT của các
nước Anh, Mỹ (Anglo-Saxon); (2) Mô hình QTCT của Đức; (3) Mô hình QTCT của
Nhật Bản. Lý thuyết về quản trị công ty quốc tế cho thấy những nhận thức cơ bản
về quản trị công ty, tuy nhiên thông tin chưa rõ ràng và chưa hoàn thiện. Nhận thức
của các nhà quản lý, lãnh đạo về mối quan hệ giữa hệ thống quản trị và giá trị kinh
tế của các công ty đóng vai trò ngày càng tăng đối với các quốc gia trong việc tìm
kiếm các cách thức xây dựng, phát triển thị trường và quyết định việc sẽ xây dựng
hệ thống kinh tế và hệ thống quản trị công ty như thế nào. Cấu trúc quản trị trên thế
giới đang phát triển khi chính phủ, các bên tư nhân và thị trường cố gắng tăng
cường sức mạnh của các công ty và nền kinh tế. Các nghiên cứu về cấu trúc chủ sở
hữu, lương và sự thay đổi kiểm soát được nghiên cứu nhiều. Điều này có thể phản
8
ánh vai trò thống trị của cấu trúc sở hữu trong các nền kinh tế đó, sự thống trị này
xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có liên quan đến mức độ phát triển của thị
trường, hệ thống luật... Mặc dù có nhiều minh chứng về cơ chế quản trị công ty
riêng lẻ nhưng rất ít bằng chứng và các nhân tố chứng tỏ có mối liên hệ giữa
chúng để có thể định hình được một cấu trúc quản trị tối ưu cho một công ty cụ
thể. Có nhiều tranh cãi về việc áp dụng hệ thống quản trị nào là tốt nhất. Có sự so
sánh giữa Mỹ, Đức, Nhật và Anh về quản trị công ty và tranh cãi về hệ thống quản
trị công ty giữa nền kinh tế dựa vào ngân hàng tại Đức, Nhật Bản và nền kinh tế
dựa vào thị trường như Mỹ và Anh. Quản trị công ty tại Mỹ phục thuộc rất lớn vào
thị trường trong khi quản trị công ty tại Nhật lại dựa nhiều vào mối quan hệ và
tương tác xã hội.
Quản trị công ty theo mô hình Anh, Mỹ
Các công ty theo mô hình quản trị kiểu Anh, Mỹ có những đặc điểm khá khác
biệt với các công ty có mô hình quản lý theo kiểu Đức, Nhật. Điều này thể hiện rất
rõ ở: phân bổ vốn; cấu trúc quản trị; vấn đề công bố thông tin; vấn đề sở hữu và
kiểm soát; vấn đề pháp lý, qui định QTCT.
Sở hữu tài sản ở Mỹ và Anh giống nhau do mức độ cổ phần hóa rất cao, trong
khi tại Đức, sở hữu tài sản lại tập trung hơn so với Mỹ. Sự khác biệt đưa các nhà
nghiên cứu đến sự khác biệt giữa nền kinh tế lấy thị trường là trung tâm (Mỹ và
Anh) so với nền kinh tế lấy ngân hàng làm trung tâm (Đức và Nhật). Tại Anh, Mỹ,
Hội đồng quản trị công ty đại diện cho lợi ích của cổ đông, có cơ chế hoạt động rõ
ràng. Về bản chất, sở hữu và kiểm soát hiếm khi tách biệt hoàn toàn với nhau tại bất
kỳ công ty nào, vì vậy, đối các cổ đông, hoạt động kiểm soát luôn tồn tại ở mức độ
nào đó liên quan đến sở hữu tài sản của họ, do đó cấu trúc chủ sở hữu là nhân tố
quan trọng của quản trị công ty. Bắt đầu từ sau 1980s nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều
công ty tại Mỹ ban giám đốc và các cổ đông sở hữu phần nhiều tài sản và mức sở
hữu này rất đáng kể (không còn hiện tượng sở hữu phân tán). Kết quả nghiên cứu
cho thấy các công ty niêm yết có tới 20% tài sản được nắm giữ bởi các cổ đông lớn.
Tuy nhiên, mức sở hữu này so với các nền kinh tế khác còn ở mức thấp.
9
Lý do giả định được đưa ra là sự gắn kết càng lớn giữa sở hữu và kiểm soát có
thể dẫn đến việc giảm mâu thuẫn về lợi ích trong công ty và khiến công ty được
quản lý tốt hơn. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa sở hữu, kiểm soát và giá trị công ty
thường phức tạp hơn vậy. Các nhà quản lý sở hữu công ty có thể đáp ứng tốt hơn
mối quan hệ lợi ích của nhà quản lý và cổ đông. Tuy nhiên nếu lợi ích đó không
được đảm bảo đầy đủ, việc sở hữu tài sản lớn hơn sẽ khiến các nhà quản lý nhiều cơ
hội để theo đuổi các mục tiêu cá nhân của họ mà không sợ phản đối, nó có thể là
xây dựng quyền lực cá nhân. Chính vì vậy tác động của sở hữu quản lý đối với giá
trị của công ty phụ thuộc vào việc đánh đổi giữa “cùng lợi ích” hay “xây dựng
quyền lực cá nhân”.
Tại Anh, Mỹ, vấn đề điển hình là việc sở hữu phân tán khiến các cổ đông
riêng lẻ nắm rất ít quyền và không có động lực mở rộng nguồn lực để kiểm soát các
nhà quản lý hoặc cố gắng tác động đến việc đưa ra quyết định của các nhà quản lý.
Hơn thế nữa việc chia nhỏ này cũng khiến các cổ đông khó hợp tác để thực hiện các
quyết định quan trọng. Tuy nhiên, đối với các cổ đông sở hữu lượng cổ phiếu đáng
kể thường có động lực lớn hơn để sử dụng nhằm mở rộng quyền kiểm soát và tác
động đến nhà quản lý. Tác động của sở hữu đối với các cổ đông lớn đối với đo
lường giá trị công ty phụ thuộc vào việc đánh đổi giữa chia sẻ lợi nhận giữa lợi ích
của các cổ đông lớn kiểm soát và việc sử nguồn lực bởi các cổ đông lớn. Ngoài ra,
đặc tính của Hội đồng quản trị cũng được xem xét một cách đầy đủ, nhất là mối
quan hệ giữa thành viên hội đồng quản trị độc lập và quy mô hội đồng quản trị.
Thông thường, các thành viên hội đồng quản trị đốc lập không liên quan gì đến kết
quả hoạt động tốt của công ty, nhưng gắn liền với các quyết định quan trọng như
các vấn đề sáp nhập, lương điều hành.
Về hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp: khi cơ chế kiểm soát bên trong
thất bại trên diện rộng khiến cổ phiếu bị mất giá do quản lý kém, sẽ kích thích nhà
đầu tư bên ngoài thu gom cổ phiếu trên thị trường để nắm quyền kiểm soát. Chính
vì vậy, các nhà quản lý luôn có động lực để giữ giá trị công ty, tránh bị thâu tóm.
Tuy nhiên, cơ chế này cũng có mặt hạn chế đó là việc thâu tóm sẽ tác động tiêu cực
10
đến quyền lợi của các cổ đông, thay vì trả cổ tức bằng tiền thì các nhà quản lý lại sử
dụng nguồn lực đó đi thâu tóm.
Vấn qui tắc thực hành quản trị công ty: mô hình mô hình tại Anh, Mỹ được
qui định bằng các bộ tiêu chuẩn thực hành (practice codes), báo cáo kiểm toán và
bộ tiêu chuẩn QTCT (corporate governance codes). Các quy chế đã được đưa ra để
khuyến cáo các công ty thực hiện như một cơ chế hướng dẫn các chuẩn mực và là
thước đo trong việc triển khai hoạt động QTCT. Luật bảo vệ cổ đông dường như
cần thiết trong điều kiện tài sản đầu tư phân tán. Việc không có sự liên kết giữa cấu
trúc chủ sở hữu và giá trị công ty có thể đơn giản có nghĩa là hệ thống bảo vệ chặt
chẽ tại Mỹ cho phép các công ty của Mỹ lựa chọn cơ chế quản trị tiềm năng để đạt
được một cấu trúc tối ưu.
Hình 2.1: Mô hình quản trị công ty Mỹ, Anh
Quản trị công ty theo mô hình Đức
Các mô hình các nước châu Âu được đặc trưng bởi mức độ tập trung vốn cao.
Cổ đông có lợi ích chung với công ty và cùng tham gia vào quản lý và kiểm soát
công ty. Những nhà quản lý chịu trách nhiệm cho một nhóm rộng hơn của các bên
liên quan, bên cạnh các cổ đông, chẳng hạn như các công đoàn, các đối tác kinh
11
doanh. Tại Đức, QTCT được coi là sự kết hợp của các nhóm lợi ích khác nhau
nhằm phối hợp các mục tiêu lợi ích chung. Đặc điểm khác biệt lớn giữa QTCT tại
Đức so với các nước là do mức độ phụ thuộc vào ngân hàng trong việc cấp tín dụng
thay vì thị trường chứng khoán (cứ 4 công ty mới có một công ty cổ phần hóa). Do
đó, hầu hết các công ty đều cần sự hỗ trợ từ phía các ngân hàng để phát triển sản
xuất và mở rộng hoạt động kinh doanh.
Về cấu trúc quản trị, các công ty theo mô hình này có đặc điểm sau. Thứ nhất,
mô hình của Đức qui định hai hội đồng với các thành viên riêng biệt, trong đó công ty
Đức có cấu trúc hai tầng ban bao gồm: ban quản lý (insiders, CEO) và ban kiểm soát
(đại diện lao động và đại diện cổ đông). Hai ban này hoàn toàn khác biệt, không ai
được kiêm nhiệm trong hai ban này. Ban giám đốc sẽ kiểm soát hoạt động sản xuất
kinh doanh trong khi ban kiểm soát sẽ kiểm soát hoạt động của ban quản lý. Thứ hai,
quy mô của các ban giám sát được thiết lập theo pháp luật và không thể thay đổi của
các cổ đông. Thứ ba, ở Đức và các nước khác theo mô hình này, quyền biểu quyết
được qui định theo tỷ lệ nhất định, phụ thuộc vào phần trăm cổ phiếu sở hữu.
Về cấu trúc sở hữu: Cơ chế sở hữu tập trung có tác dụng quan trọng, đó là các
cổ đông lớn có động lực thu thập tin và quản lý bởi vì họ muốn lợi nhuận thu được
cao. Tuy nhiên, mức độ sở hữu tập trung cao cũng có mặt trái của mình: thứ nhất,
mức độ đa dạng hóa thấp; thứ hai, hoạt động của doanh nghiệp phục vụ lợi ích của
cổ đông lớn nhiều hơn, do đó quyền lợi của các cổ đông nhỏ có thể không được
đảm bảo tối đa; thứ ba, việc nắm số lượng cổ đông lớn làm hạn chế hoạt động thâu
tóm, tuy nhiên đôi khi việc này có lợi đối với công ty.
Về mối quan hệ tín dụng, đối với công ty tại Đức, ngân hàng có ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi những nguyên nhân sau: thứ nhất, đặc điểm ngân hàng tại Đức xuất
phát từ các ngân hàng gia đình, cung cấp các khoản vay dài hạn đối với các khách
hàng dài hạn; thứ hai, các ngân hàng Đức nắm giữ tài sản rất lớn tại các công ty và
vì vậy ngân hàng thường có đại diện trong ban kiểm soát.
12
Hình 2.2: Mô hình quản trị công ty kiểu Đức
Quản trị công ty theo mô hình Nhật Bản
Mô hình Nhật Bản khá khác biệt so với mô hình các nước Mỹ, Anh và cũng có
nhiều điểm khác biệt so với Đức.
Mô hình quản trị tại Nhật Bản bị chi phối bởi quan hệ giữa cổ đông và các
nghiệp đoàn, khách hàng, nhà cung cấp, người cho vay, chính phủ và các nhà quản
lý… Mọi quyết định quản lý đều nhằm mục đích cải thiện doanh thu và quy mô
công ty. Vì vậy, mô hình Nhật Bản là dựa trên kiểm soát nội bộ; nó không dựa
nhiều vào thị trường vốn mà chủ yếu dựa vào các ngân hàng giống như QTCT tại
Đức. Các cổ đông lớn tham gia nhiều vào quá trình quản lý công ty. Nói cách khác,
mô hình QTCT tại các nền kinh tế định hướng ngân hàng (nguồn vốn của doanh
nghiệp chủ yếu là vay ngân hàng) sử dụng hệ thống kiểm soát bên trong, trong khi
QTCT tại các nền kinh tế định hướng thị trường (nguồn vốn từ cổ phần hóa, nguồn
vốn vay ngân hàng chỉ chiếm phần nhỏ) sử dụng hệ thống kiểm soát bên ngoài. Hệ
thống quản trị của Nhật Bản tạo điều kiện cho việc giám sát và cung cấp tài chính
linh hoạt của cho công ty, đảm bảo hiệu quả kết nối giữa công ty và các ngân hàng,
như là đối tượng cho vay chính.
Về cấu trúc quản trị nội bộ: bao gồm Đại hội đồng cổ đông, HĐQT, các ủy
ban... HĐQT bao gồm các thành viên HĐQT được đại hội cổ đông bầu ra, các thành
13
viên đều có chức danh điều hành nhưng mỗi người có chức trách khác nhau. Trong
công ty có thiết lập ủy ban, có chức danh thành viên HĐQT độc lập. Vai trò của
thành viên độc lập không chỉ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh an toàn mà còn
tiếp nhận tư vấn từ bên ngoài và có vai trò trong nâng cao kết quả hoạt động kinh
doanh của công ty. Trong HĐQT có các ủy ban bao gồm: Ủy ban nhân sự, Ủy ban
Lao động, tiền lương và Ủy ban kiểm soát. Ủy ban nhân sự đề xuất việc bổ nhiệm
và bãi miễn thành viên HĐQT cho đại hội cổ đông. Trong Ủy ban này, số thành
viên HĐQT bên ngoài chiếm một nửa nên người có quyền lực cao nhất của công ty
cho dù có định lạm dụng quyền hạn lựa chọn người có lợi cho họ chăng nữa, thì
cũng không thể độc đoán quyết định. Ủy ban nhân sự có quyền đề nghị còn HĐQT
là cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm người điều hành và người đại diện
điều hành.
Về cơ chế lương, thưởng: Ủy ban quyết định thù lao quyết định nội dung thù
lao cho thành viên Hội đồng quản trị, ở đây, một nửa số thành viên là thành viên
Hội đồng quản trị bên ngoài. Với cơ chế này, các thành viên Hội đồng quản trị có
thể quyết định thù lao của nhà quản lý điều hành một cách khách quan. Hoạt động
giám sát của Hội đồng quản trị được giao cho Ban kiểm soát.
Hình 2.3: Mô hình công ty kiểu Nhật Bản
14
Về hoạt động minh bạch thông tin: Với mô hình thiết lập ủy ban, cổ đông có
thể tin tưởng hơn vào sự minh bạch trong hoạt động quản lý điều hành thông qua
thực hiện các quyền năng riêng biệt của các ủy ban. Việc giám sát có hiệu quả hoạt
động quản lý, điều hành Ban kiểm soát có ý nghĩa quan trọng để cổ đông tin tưởng
vào sự phát hiện và khởi kiện kịp thời các hành vi vi phạm của các thành viên Hội
đồng quản trị và người điều hành gây thiệt hại cho công ty và cổ đông. Nhìn chung,
giải quyết được những hạn chế liên quan đến giám sát không đầy đủ của Hội đồng
quản trị. Mặc dù vậy, vẫn còn có sự nghi ngờ về khả năng giám sát của thành viên
Hội đồng quản trị bên ngoài do họ thiếu hiểu biết về nội bộ công ty.
Bảng 2.1: So sánh đặc điểm về mô hình quản trị công ty các nước
Mỹ - Anh Đức (Châu Âu) Nhật Bản
trường chứng Hệ thống ngân hàng Hệ thống ngân hàng
Thị khoán Định hướng
Quyền sở hữu của cổ đông
Đảm bảo lợi ích Quyền sở hữu tài sản của cổ đông và mối quan hệ giữa công ty và nhân viên
Lợi ích của các đối tượng liên quan (các công ty xoay quanh một định chế tài chính) - keiretsu
Phân tán Tập trung
Tập trung theo tỷ lệ nắm giữ Cấu trúc sở hữu
Giám đốc điều hành Hội đồng quản trị Quản lý Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Ban kiểm soát
Bên ngoài Bên trong Bên trong
Hệ thống kiểm soát
GAAP IFRS GAAP và IFRS
Hệ thống kế toán
Trực tiếp chịu ảnh hưởng của chủ sở hữu Kỷ luật thị trường Minh bạch cao Điểm mạnh
Nhiều rào cản ngăn ngừa rủi ro Lợi ích đối với các bên
Thù địch Thân thiện
Hoạt động thâu tóm
15
Mỹ - Anh Đức (Châu Âu) Nhật Bản
Chiến lược tập trung vào chất lượng
Chiến lược
cạnh lược Chiến tranh, tập trung vào thị lợi trường và nhuận
Xu hướng tiếp cận dài hạn Hành vi Xu hướng tiếp cận ngắn hạn
Thông qua mua bán, sáp nhập và tăng trưởng nội sinh
Tăng trưởng
- Xu hướng nợ thấp - Xu hướng nợ cao
- Xu hướng nợ trên vốn chủ sở hữu cao
- Xu hướng giảm nợ/ vốn chủ sở hữu - Ít sử dụng các công cụ tài chính phức tạp Cung cấp tài chính
- Sử dụng các công cụ tài chính đa dạng và phức tạp
- Hỗ trợ lợi ích cổ đông
- Hỗ trợ các đối tượng liên quan (cổ đông, chủ nợ….) trung vào tăng
- Tập trưởng giá trị cổ phiếu Định hướng quản lý - Tập trong vào đảm bảo giá trị cho các đối tượng liên quan
- Phối hợp giữa kiểm soát và quản lý
- Chia tách giữa sở hữu và quản lý
Kiểm soát - Quản lý bởi các đối tượng có liên quan (ngân hàng, công ty, cổ đông)
- Giảm động lực đối với nhà đầu tư tham gia quản lý
- Dễ gây đổ vỡ - Chậm thay đổi
Khó thay đổi và thích nghi với cơ chế mới
- Thâu tóm dẫn đến độc quyền - Hệ thống có thể tạo ra xung đột Hạn chế
- Các nhà quản lý có thể thực hiện các hoạt động vì lợi ích cá nhân
16
2.1.4. Sự khác biệt giữa quản trị công ty ngân hàng và công ty khác
Nguyên nhân có sự khác biệt giữa QTCT ngân hàng và các công ty khác là do sự
tác động bởi sáu điểm khác biệt giữa hai loại hình công ty này gồm: (1) quy mô ảnh
hưởng của ngân hàng lớn hơn công ty phi tài chính; (2) hoạt động ngân hàng sử dụng
đòn bẩy tài chính lớn hơn công ty phi tài chính; (3) hoạt động của ngân hàng chịu tác
động bởi nhiều qui tắc; (4) cấu trúc vốn phức tạp hơn công ty phi tài chính; (5) thông
tin không đối xứng và sự lựa chọn đối nghịch trong ngân hàng nghiêm trọng hơn các
loại hình công ty khác và (6) tính chất phức tạp trong các hoạt động ngân hàng.
Quy mô ảnh hưởng của ngân hàng lớn hơn công ty phi tài chính
Quản trị công ty trong ngân hàng và lĩnh vực tài chính khác biệt với lĩnh vực
phi tài chính bởi vì mức độ tác động và gây ra rủi ro đối với nền kinh tế của ngân
hàng là rất lớn. Không giống như lĩnh vực phi tài chính, việc mất kiểm soát hệ
thống ngân hàng có thể gây ra đổ vỡ không chỉ một ngân hàng mà còn kéo theo cả
hệ thống tài chính và tác động đến cả nền kinh tế. Sự thất bại của họ có thể có
những hậu quả nghiêm trọng hơn do vị trí duy nhất của họ trong vai trò trung gian
tài chính và hệ thống thanh toán. Vì vậy, hoạt động của ngân hàng cần thiết phải
nằm trong một giới hạn quản trị nhất định và cơ chế để đảm bảo quyền lợi cho các
đối tượng liên quan chính là quản trị công ty
Hoạt động ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính lớn hơn công ty phi tài chính
Theo Acharya (2010) và Laeven (2012) thì các ngân hàng áp dụng tỷ lệ đòn
bẩy tài chính cao hơn rất nhiều so với công ty thông thường và tỷ lệ đòn bẩy điển
hình của một ngân hàng là khoảng 10. Đây là tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với hầu
hết các công ty phi tài chính. Shleifer và Vishny (1997) cho rằng nguồn vốn hoạt
động của ngân hàng dựa trên tiền gửi của người dân, công ty, tổ chức (gọi chung
là người gửi tiền) và chính vì điều này đã tạo ra động lực cho ngân hàng chấp
nhận rủi ro hơn so với các công ty phi tài chính. Việc càng chấp nhận rủi ro sẽ
tạo ra lợi nhuận lớn hơn, trong khi nếu hoạt động thất bại, phần lớn chi phí mất
đi sẽ đổ lên đầu người gửi tiền.
17
Mặc dù người gửi tiền có một cơ chế để tự bảo vệ, đó là hệ thống bảo hiểm
tiền gửi, nhưng chính hệ thống này đã tạo ra mặt trái của nó. Thứ nhất, người gửi
tiền sẽ không tìm kiếm một cơ chế để kiểm soát hoạt động của ngân hàng và trong
thực tế họ cũng không có đủ thông tin để tham gia vào quá trình kiểm soát này do
tính bất đối xứng thông tin cao. Người gửi hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống bảo
hiểm tiền gửi để tự bảo vệ mình khi có tình huống xấu xảy ra vì cơ bản họ ít nhạy
cảm với hoạt động của ngân hàng. Thứ hai, khi có hệ thống bảo hiểm, ngân hàng
yên tâm hơn trong việc chấp nhận rủi ro trong kinh doanh ở mức cao mà không sợ
chịu trách nhiệm lớn khi đổ vỡ. Trong hầu hết các trường hợp, rủi ro sẽ chuyển cho
xã hội và người gửi tiền khi có đổ vỡ. Vì vậy, các ngân hàng áp dụng tỷ lệ đòn bẩy
tài chính cao hơn rất nhiều so với công ty thông thường.
Quy tắc về hoạt động của ngân hàng nhiều hơn so với doanh nghiệp khác
Các ngân hàng hoạt động trên cơ sở các điều lệ, qui định riêng, được giám sát
bởi các cơ quan quản lý nhà nước chuyên biệt như Ngân hàng Trung ương, Ủy ban
giám sát tài chính quốc gia… Đồng thời, tham gia giám sát hoạt động của ngân
hàng còn có các nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán do ngân hàng phát hành và người
gửi tiền vào ngân hàng. Nói cách khác, sự giám sát của các bên đòi ngân hàng phải
hoạt động với tính kỷ luật thị trường rất cao.
Hầu hết các quốc gia đều thực hiện các qui định đối với người có khối lượng
cổ phần lớn ở ngân hàng. Đối với một số cổ đông, các qui định này ngăn cản họ trở
thành các cổ đông chi phối. Điều này sẽ ngăn cản các cổ đông chi phối thực hiện
các hoạt động phục vụ lợi ích của họ thay vì lợi ích của số đông cổ đông. Một ví dụ
cụ thể là các ngân hàng được nắm bởi một số cổ đông chi phối, có thể là cá nhân, tổ
chức hoặc nhà nước, thực hiện các hoạt động cho vay sân sau đối với các công ty có
quan hệ với các cổ đông lớn hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh không minh
bạch, nhiều rủi ro nhưng ít bị kiểm soát.
Có thể thấy rằng ngân hàng có một số đặc tính đặc biệt so với các công ty
thông thường. Do đó đòi hỏi cơ chế quản trị cũng phức tạp hơn và rõ ràng hơn như
giám sát đội đồng quản trị, cơ chế thị trường kiểm soát… Ngân hàng là một định
18
chế tài chính mà mỗi bên liên quan đều có vai trò riêng biệt. Họ gồm các cổ đông,
người gửi tiền, chủ nợ, thành viên hội đồng quản trị, nhà quản lý, cơ quan bảo hiểm
tiền gửi, nhân viên, người nộp thuế… và tất cả các các bên liên quan này đều có lợi
ích cụ thể của mình. Do đó, lợi ích của tất cả các bên phải được đảm bảo chứ không
chỉ đảm bảo lợi ích của mỗi cổ đông. Để đảm bảo lợi ích của tất cả các bên phải có
một cơ chế cụ thể, đó chính là hệ thống quản trị công ty.
Cấu trúc vốn phức tạp hơn công ty phi tài chính
Một trong những đặc điểm chính phân biệt ngân hàng với các công ty phi tài
chính khác là cấu trúc vốn. Theo Macey và O'Hara (2003) ngân hàng hiện 2 tính
năng đặc biệt là vốn và khả năng thanh khoản. Về hai tính năng này có một số điểm
để phân biệt giữa giữa ngân hàng và công ty phi tài chính.
Thứ nhất, về khía cạnh quản lý, Luật các tổ chức tín dụng (2012) qui định
“Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ
khác của tổ chức tín dụng theo qui định của ngân hàng Nhà nước”. Một số khoản nợ
vay dài hạn gồm: vay chính phủ dài hạn, phát hành trái phiếu dài hạn… Đây là đặc
trưng khác nhau giữa tổ chức tài chính và doanh nghiệp thông thường.
Thứ hai, một yếu tố khác liên quan đến vốn của ngân hàng là khả năng thanh
khoản. Việc lựa chọn khách hàng cho vay còn phụ thuộc vào khả năng kinh doanh
và trả nợ của khách hàng đó, ngay cả kỳ hạn cho vay của các khoản vay, kỳ hạn huy
động… cũng phải cân nhắc phù hợp với tổng cho vay và tổng lượng tiền huy động
và vốn chủ sở hữu để đảm bảo tính thanh khoản. Việc đó đòi hỏi ngân hàng phải có
đủ khả năng tiếp cận nguồn vốn khả dụng ở mức hợp lý và đúng thời điểm cần thiết.
Điều này có nghĩa là ngân hàng có sẵn lượng ngân quỹ dự trữ trong tay hoặc có thể
tăng thêm bằng cách vay mượn hoặc bán bớt một số tài sản mà ngân hàng đang có.
Thứ ba, do sự nhạy cảm đối với sự thay đổi về lãi suất đầu tư, nhất là các
khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, việc nhà đầu tư tìm kiếm một ngân hàng
khác hoặc đầu tư vào một lĩnh vực khác hoàn toàn có thể xảy ra nhằm tìm kiếm lợi
nhuận cao hơn hoặc tìm một kênh trú ẩn an toàn. Bên cạnh đó, các khách hàng vay
19
tiền có thể trì hoãn yêu cầu vay vốn và chờ đợi biến động giảm của lãi suất,
chính sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng tới cả khách hàng gửi tiền, khách hàng vay
tiền và điều này đều tác động trực tiếp đến nguồn vốn của ngân hàng và khả
năng thanh khoản.
Chính sự khác biệt rất lớn về vốn và tính thanh khoản của ngân hàng với công
ty phi tài chính đã tạo nên sự khác biệt về quản trị công ty đối với hai đối tượng này
Thông tin không đối xứng và sự lựa chọn đối nghịch trong ngân hàng
nghiêm trọng hơn các loại hình công ty khác
Levine (2004) cho rằng một vấn đề luôn tồn tại trong lĩnh vực ngân hàng cần
có cơ chế để quản lý đó là “tính mờ”. Tính mờ này tạo ra sự phức tạp trong hoạt
động của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng có thể thay đổi thành phần rủi ro của
tài sản một cách nhanh chóng hơn so với hầu hết các ngành phi tài chính và họ có
thể dễ dàng che dấu các vấn đề bằng các mở rộng các khoản vay cho khách hàng.
Điều này dẫn đến một vấn đề nguy hiểm là các hoạt động thay đổi thành phần rủi ro
này rất khó giám sát đối với bên ngoài nhưng rất dễ thực hiện đối với ngân hàng. Hệ
quả là minh bạch thông tin luôn là vấn đề lớn trong quản trị công ty tại ngân hàng.
Sở dĩ có vấn đề trên vì trong hoạt động ngân hàng cần có một sự bảo mật
thông tin nhất định. Các nghiên cứu về quản trị công ty của ngân hàng sau khủng
hoảng tài chính 2008 đã chứng minh rằng kiểm soát chất lượng các khoản vay ngân
hàng khó khăn hơn rất nhiều so với kiểm soát chất lượng tài sản của các ngành phi
tài chính khác do tài sản của công ty nói chung có thể kiểm soát được bởi bên thứ
ba. Sự bất đối xứng về thông tin không chỉ tồn tại giữa chủ sở hữu và nhà quản lý
ngân hàng mà còn tồn tại giữa chủ sở hữu, người đi vay, người gửi tiền, nhà quản lý
và cơ quan giám sát. Vì vậy thông tin bất đối xứng luôn tồn tại trong hoạt động
ngân hàng do đặc điểm của vốn có của định chế tài chính này dù nhà quản lý muốn
hay không.
20
Hoạt động phức tạp hơn so với các loại hình khác
Hoạt động của ngân hàng không chỉ liên quan đến các khoản vay mà còn liên
quan đến các sản phẩm phức tạp khác như Chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản,
Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng... Đó là những khó khăn không chỉ cho người
ngoài (bên thứ ba) khi đánh giá chất lượng và mức độ rủi ro của hoạt động của ngân
hàng, mà còn cho các ngân hàng để phân tích rủi ro của ngân hàng khác. Người gửi
tiền, cổ đông và cơ quan quản lý đều liên quan đến sự vững mạnh của các cơ chế
quản trị công ty trong ngân hàng và làm cho việc phân tích quản trị công ty của các
ngân hàng phức tạp hơn các cổ ty phi tài chính (Casu, 2016). Như vậy, đối với các
ngân hàng, quản trị công ty cần phải được coi là nhiệm vụ sống còn, buộc các nhà
quản lý của ngân hàng phải bảo vệ lợi ích tốt nhất của tất cả các bên liên quan. Một
cơ chế công bằng, minh bạch và trách nhiệm là mục tiêu chính của quản trị công ty
trong ngân hàng giúp khuyến khích sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan. Việc
giữ ổn định hệ thống ngân hàng, tránh đổ vỡ là hết sức cần thiết, đòi hỏi công tác
quản trị trong tất cả lĩnh vực của hệ thống phải hiệu quả, chặt chẽ.
2.1.5. Các lý thuyết về quản trị công ty và thang đo quản trị công ty
2.1.5.1 Lý thuyết người đại diện
Quản trị công ty được xây dựng và phát triển trên lý thuyết được cho là nguồn
gốc và phổ biến là lý thuyết người đại diện. Theo lý thuyết này, “người đại diện” là
người sở hữu công ty nhưng không trực tiếp tham gia vào quản lý. Do đó, quản trị
công ty là cách thức hệ giải quyết mối quan hệ giữa cổ đông và hoạt động của công
ty. OECD (2004) đã đưa ra định nghĩa về QTCT mang nghĩa rộng hơn; OECD
(2004) cho rằng QTCT là tổng hòa các mối quan hệ đầy đủ giữa quản lý công ty,
các cổ đông, ban giám đốc và các bên có liên quan. QTCT sẽ là cơ sở để thiết lập
các mục tiêu của công ty và các phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu
cũng như kiểm soát các kết quả hoạt động.
21
Theo lý thuyết người đại diện, các cổ đông là chủ sở hữu của công ty sẽ trao
quyền quyết định điều hành các công việc hằng ngày cho Hội đồng quản trị. Ở đây,
vấn đề nảy sinh ở việc tách biệt giữa quyền kiểm soát và quyền sở hữu. Điều này có
thể dẫn đến việc lợi ích của chủ sở hữu có thể bị ảnh hưởng bởi những hành động tự
ý trong công việc của người đại diện.
Trong thực tế có những thành viên Hội đồng quản trị điều hành các hoạt
động của doanh nghiệp nhằm thỏa mãn các mục đích cá nhân hơn là đảm bảo
quyền lợi của cổ đông (James và Houston,1995). Bản chất của lý thuyết người
đại diện là tạo ra một cơ chế đảm bảo sự liên kết hiệu quả lợi ích của hai bên có
liên quan (sở hữu và điều hành), do đó sẽ làm giảm chi phí ủy quyền (Shankman,
1999). Theo như Jensen và Meckling (1976), chi phí ủy quyền bằng tổng của các
chi phí sau: thứ nhất, các chi phí chi ra bởi người ủy quyền gồm chi phí khuyến
khích, giám sát, và chi phí thi hành; thứ hai, chi phí ủy quyền nhằm luôn đưa ra
tín hiệu là nhà quản lý cần hành động vì lợi ích của người ủy quyền hay còn
được gọi là chi phí liên kết; cuối cùng là chi phí tổn thất do sự khác biệt giữa kết
quả thực tế do các quyết định của người đại diện mang lại và kết quả mong muốn
tối đa hóa lợi ích của người ủy quyền.
Theo như tác giả Đào Thị Thanh Bình (2012), lý thuyết người đại diện có ba
giả thiết chủ yếu sau:
Thứ nhất, các thị trường bình thường /cạnh tranh
Thứ hai, các mối quan hệ của thông tin bất đối xứng là mối quan hệ giữa chủ
sở hữu và nhà quản lý.
Thứ ba, cấu trúc vốn tối ưu đòi hỏi phải tận dụng đòn bẩy tài chính.
22
Bảng 2.2: Lý thuyết người đại diện
Nội dung chính của lý thuyết người đại diện
Mối quan hệ giữa người ủy quyền và người đại diện cần Ý tưởng chính
phản ánh được tính hiệu quả của thông tin và chi phí.
Hợp đồng giữa người người ủy quyền và người đại diện Cở sở phân tích
Lợi ích, tính hợp lý có khuôn khổ, và độ ngại rủi ro Các giả định chính cho
người ủy quyền
Giữa các thành viên có xung đột về mục tiêu
Hiệu quả được đem ra làm tiêu chí đánh giá
Thông tin giữa người ủy quyền và người đại diện có thể Các giả định chính cho
không trùng khớp doanh nghiệp
Giả định cho thông tin Thông tin được xem là mặt hàng có thể mua bán được
Hợp đồng ủy quyền (rủi ro về vi phạm quy chuẩn đạo Vấn đề hợp đồng
đức và lựa chọn bất lợi).
Chia sẻ rủi ro
Các mối quan hệ theo đó người ủy quyền và người đại Các vấn đề chính
diện có sự bất tương đồng về mục tiêu và quan điểm về
rủi ro (Ví dụ, chính sách thù lao, các qui định của công
ty, vấn đề lãnh đạo, quản lý gây ấn tượng, rò rỉ thông tin,
chính sách đa dạng hóa theo chuỗi giá trị, chi phí chuyển
đổi)
Nguồn: Eisenhard (1989) - trích bởi Đào Thị Thanh Bình (2012)
Lý thuyết người đại diện đã có rất nhiều ý tưởng giúp các công ty hoạt động
được hiệu quả hơn. Tuy vậy cũng như nhiều lý thuyết khác, lý thuyết này cũng
không thể tránh được những hạn chế xuất phát từ những giả định ban đầu của mình.
Một trong những thiếu sót của lý thuyết người đại diện mà nhiều nhà nghiên cứu
23
phê phán là chỉ hướng đến việc thoả mãn những nhu cầu của giám đốc điều hành và
các cổ đông lớn mà không chú trọng đến nhu cầu chính đáng của nhân viên, khách
2.1.5.2. Lý thuyết các bên có liên quan
hàng, hoặc môi trường làm việc.
Quản trị công ty chia các nhóm liên quan thành hai nhóm chính: bên trong và
bên ngoài công ty. Nhóm bên ngoài công ty gồm: cổ đông, chủ nợ, nhà cung cấp,
nhà cung cấp cho trả chậm, khách hàng và cơ quan quản lý. Nhóm bên trong hay
còn gọi là nhóm nội bộ công ty gồm: ban điều hành, nhân viên và HĐQT của công
ty. Tất cả các bên tham gia đều nằm trong quá trình giám sát hiệu quả hoạt động của
công ty hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng ở các cấp độ khác nhau và với các mục
tiêu khác nhau. Theo Barger (2004), bên liên quan trực tiếp và đóng vai trò chủ đạo
trong việc quản lý công ty để đảm bảo tất cả các mục tiêu của công ty được hoàn
thành và tài sản của cổ đông đạt được mức tối đa là: các cổ đông, HĐQT và nhân sự
quản lý cao cấp tham gia điều hành công ty hàng ngày thường được gọi là Giám đốc
điều hành hoặc Ban điều hành.
Tuy vậy, một khái niệm về QTCT khác chỉ ra rằng công ty không chỉ đơn
thuần là một cỗ máy đem lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư mà còn là một tổ chức xã
hội có nhiều mục đích khác hơn là mục đích phục vụ cổ đông (Đào Thị Thanh Bình,
2012). Định nghĩa truyền thống của các bên liên quan là “bất kì nhóm hay cá nhân
nào mà có thể ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi việc hoàn thành mục tiêu của công
ty” (Freeman 1984). Ý tưởng chung cho khái niệm về các bên liên quan là việc định
nghĩa lại công ty là gì. Khái niệm này xoay quanh vấn đề công ty là gì và hoạt động
của công ty cần thực hiện như thế nào.
Theo Friedman (2006), “doanh nghiệp nên được xem là nơi tổng hòa của các
bên liên quan và mục đích của doanh nghiệp là quản lý lợi ích, nhu cầu và quan
điểm của họ dựa trên một số nguyên tắc đạo đức. Việc quản lý các cổ đông được coi
như là công việc của nhà quản lý công ty”. Theo cách hiểu này, nhà quản lý thực
hiện hai công việc sau: thứ nhất, quản lý công ty vì lợi ích, quyền lợi cũng như đảm
bảo các bên liên quan duy trì lợi ích có quyền quyết định nhất định; thứ hai, phải
24
hành động như một người đại diện của cổ đông để đảm bảo công ty tồn tại cũng như
đảm bảo được quyền lợi của các nhóm có liên quan.
Có 3 cách tiếp cận lý thuyết các bên liên quan: mô tả / thực tiễn, mang tính
công cụ, và chuẩn tắc (Đào Thị Thanh Bình, 2012). Cụ thể: hướng thứ nhất (mô tả/
thực tiễn) hướng đến việc tìm hiểu cách thức ứng xử của nhà quản lý và các bên liên
quan khác và quan điểm của họ đối với hành động và vai trò của họ. Hướng thứ hai,
hướng mang tính công cụ hướng đến việc tìm hiểu nhà quản lý nên xử lý như thế
nào nếu như họ muốn được hỗ trợ và đạt lợi ích của chính họ. Trong một số nghiên
cứu, lợi ích cá nhân được hiểu như là lợi ích của công ty và lợi ích này chính là tối
đa hóa lợi nhuận hoặc tối đa hóa tài sản cổ đông. Điều này có nghĩa là nếu nhà quản
lý đối xử với các bên liên quan phù hợp với lý thuyết về các bên liên quan thì công
ty sẽ phát triển thành công trong dài hạn. Tuy nhiên, Donaldson và Preston (1995)
cho rằng các cách tiếp cận lý thuyết về các bên liên quan mặc dù khá khác nhau,
nhưng lại hỗ trợ lẫn nhau và cơ sở lý thuyết chuẩn tắc đóng vai trò quan trọng cho
2.1.5.3. Lý thuyết về nhà quản lý
lý thuyết này.
Ý tưởng chính của lý thuyết nhà quản lý là phản ánh quan niệm về bổn phận
và trách nhiệm đối với người khác dựa trên việc duy trì mối quan hệ giao ước. Theo
như Penner, Dovidio, Piliavin và Schroeder (2005) thì các hành vi quản lý là một
loại hành động xã hội nhằm mục đích ảnh hưởng tích cực lên người khác.
Có thể thấy, hầu hết các lý thuyết về quản trị công ty bắt nguồn từ lợi ích cá
nhân. Tuy vậy, lý thuyết về nhà quản lý lại không đề cao lợi ích cá nhân.
Trong khi “lý thuyết người đại diện” giả định rằng các nhà quản lý làm việc nhằm
cải thiện vị trí của chính họ; Hội đồng quản trị tìm cách kiểm soát nhà quản lý và do
đó, cần phải thu hẹp khoảng cách giữa hai đối trọng này, thì lý thuyết về nhà quản lý lại
chỉ ra rằng nhà quản lý còn tìm kiếm các lợi ích khác ngoài lợi ích về kinh tế như: vị trí
xã hội, lòng trắc ẩn, danh tiếng tốt, việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cảm giác
hài lòng về công việc và ý thức được làm việc vì mục đích tốt đẹp.
25
“Lý thuyết về nhà quản lý” cũng chỉ ra rằng các nhà quản lý tự họ muốn làm
tốt công việc, tối đa hóa lợi nhuận của công ty và đem lại lợi nhuận tốt cho các cổ
đông. Họ không nhất thiết làm việc này vì lợi ích tài chính của họ, mà họ cảm thấy
có một trách nhiệm cao cả đối với công ty. Khi một công ty thực hiện quản trị theo
trường phái này thì một số chính sách sẽ tự nhiên được thiết lập. Các công ty cần
mô tả cụ thể vai trò của nhà quản lý và mong đợi của họ đối với các nhà quản lý.
Các mong đợi này cần phải hướng đến việc đạt được mục tiêu công ty và khơi gợi
được ý thức của nhà quản lý về khả năng và giá trị của họ.
Lý thuyết về nhà quản lý cũng ủng hộ các nhà quản lý thực thi như lý thuyết
người đại diện, lý thuyết những người có liên quan, đồng thời chủ động thực hiện
2.1.5.4 Thang đo quản trị công ty
các mục tiêu của bản thân.
Như đã nói phần trên, thuật ngữ “quản trị công ty” ban đầu liên quan tới vấn
đề “người đại diện”. Ở cấp công ty, “người đại diện” là người sở hữu nhưng không
đồng thời quản lý công ty đó. Theo nghĩa này, quản trị công ty khởi nguồn từ khu
vực tư nhân và điều được quan tâm là mối quan hệ giữa cổ đông với công ty. OECD
(2004) đưa ra khái niệm rộng hơn về quản trị, được hiểu là tổng hòa các mối quan
hệ đầy đủ giữa quản lý công ty, ban giám đốc, cổ đông và những bên liên quan.
Quản trị công ty, vì vậy, sẽ là cơ sở mà qua đó các mục tiêu của công ty được thiết
lập và phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu cũng như việc kiểm soát
kết quả hoạt động.
Quản trị cũng có thể được hiểu theo một cách khác, như các cách thức mà một
tổ chức ứng xử với các bên liên quan. Theo cách này, “quản trị có thể được xem xét
theo hai khía cạnh là quản trị bên trong và quản trị bên ngoài công ty” (World Bank,
1999). Quản trị bên ngoài công ty là cách thức ứng xử với các chủ thể bên ngoài
như chủ nợ, nhà cung ứng và những chủ thể khác bên ngoài tổ chức; quản trị bên
trong công ty tập trung vào ban giám đốc và lợi ích của các cổ đông.
26
Quản trị công ty vì vậy được đại diện bởi nhiều biến với nhiều cách thức khác
nhau. Hầu hết các nghiên cứu về chủ đề này đều sử dụng các thước đo liên quan tới
quản trị bên trong công ty. Chẳng hạn, Edward và Clough (2005) đã tổng hợp các
thước đo về quản trị công ty trong các nghiên cứu trước, các luật định về quản trị
công ty gồm có: quy mô ban giám đốc; sự tách biệt giữa chủ tịch và CEO (tính nhị
nguyên); thành viên HĐQT độc lập; sự cân bằng kỹ năng và năng lực của giám
đốc; ban kiểm soát và các ban khác. Edward và Clough (2005) cũng rà soát các
thước đo về quản trị bên ngoài công ty như: hoạt động của HĐQT, quá trình bổ
nhiệm minh bạch, giải trình với các nhà đầu tư. Một số nghiên cứu (Võ Đức và
Phan Thúy, 2013) sử dụng nữ thành viên Hội đồng quản trị và trình độ giáo dục
của thành viên Hội đồng quản trị như là các biến đại diện cho quản trị. Một số
nghiên cứu khác (Bhagat và Bolton, 2008) sử dụng vốn sở hữu và giá trị tài sản của
thành viên Hội đồng quản trị là các biến đại diện cho quản trị. Tác giả Lê Quang
Cảnh và cộng sự (2015), lại dùng thang đo gồm: qui mô Hội đồng quản trị, tính
kiêm nhiệm giữa chủ tịch và giám đốc điều hành, giới tính của CEO, các thành viên
độc lập của Hội đồng quản trị và qui mô của Hội đồng quản trị làm thước đo cho
biến quản trị công ty. Một nghiên cứu khác của Đào Thị Thanh Bình và cộng sự
(2012) lại dùng các biến như: số lượng thành viên Hội đồng quản trị, tỉ lệ quyền sở
hữu nước ngoài, đặc điểm và thành phần Hội đồng quản trị làm thước đo cho quản
trị công ty.
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Hồng Sơn và cộng sự (2015) cũng lựa chọn
cấu trúc sở hữu trong đó có biến sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài là một
trong những thang đo quản trị công ty. Các nghiên cứu về quyền sở hữu của
Gursory và Aydogan (2002); Rokwaro (2013); Anstoniasidis (2010); Peong (2012)
cũng có cùng thước đo như trên nhưng thêm thước đo cổ đông lớn đối với quản trị
công. Trong nghiên cứu khác của Adams và Fereira (2007); Đoàn Hồng Phúc và
Lê Văn Thông (2014) các tác giả này cũng xây dựng các thước đo về quản trị công
ty gồm nhiều biến trong đó biến kinh nghiệm của Hội đồng quản trị là một trong
những thước đo được sử dụng.
27
Theo một cách khác, quản trị có thể được đo lường bằng các chỉ số tổng hợp.
Chẳng hạn, Gom- pers, Ishii, và Metrick (2003) xây dựng chỉ số G- index là một chỉ
số tổng hợp từ 24 biến, theo đó chỉ số G-index càng lớn sẽ biểu thị sự hạn chế nhiều
hơn đối với quyền của cổ đông. Một chỉ số tổng hợp khác được biết tới là chỉ số E-
index. Chỉ số này được Bebchuk, Cohen, và Ferrell (2009) xây dựng dựa trên 6 biến
trong 24 biến tạo thành chỉ số G- index. Quyền hạn của cổ đông càng thấp nếu chỉ
số này càng lớn. Những chỉ số này được xem là quản trị bên ngoài công ty và
thường được sử dụng để đánh giá tác động của quản trị tới kết quả hoạt động của
công ty. Tuy vậy, những chỉ số này ít được sử dụng vì khó thu thập số liệu để tính
toán (Cremers và Nair, 2005). Chính vì vậy, các thước đo riêng lẻ thường được sử
dụng nhiều hơn trong các phân tích thực nghiệm về quản trị và kết quả hoạt động
của công ty.
Từ những tổng kết về các thước đo quản trị công ty như đã nêu trên, tác giả sẽ
sử dụng tám thước đo gồm:
- Quy mô hội đồng quản trị
- Số lượng nữ giới trong hội đồng quản trị
- Trình độ học vấn của hội đồng quản trị
- Kinh nghiệm làm việc của hội đồng quản trị
- Số lượng thành viên độc lập của hội đồng quản trị
- Cổ đông lớn
- Sở hữu nhà nước
- Sở hữu nước ngoài
Đây là các thước đo đại diện cho quản trị công ty ngân hàng. Trong nghiên
cứu này của mình, tác giả sử dụng các thước đo riêng lẻ để tiến hành phân tích tác
động của quản trị tới kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
28
Bảng 2.3: Các thước đo quản trị công ty
Cách tính STT Tên nhân tố Ý nghĩa
1 Broad size Thành viên HĐQT Số lượng thành viên thuộc HĐQT
2 Gender Thành viên nữ thuộc Số lượng thành viên là nữ thuộc
HĐQT HĐQT
3 Edu Trình độ của HĐQT Thành viên có trình độ sau đại học
4 Board Age Kinh nghiệm làm việc Độ tuổi trung bình của các thành
của thành viên HĐQT viên HĐQT
5 Block Cổ đông lớn “1” nếu tỷ lệ nắm giữ cổ phần của
các cổ đông lớn hơn 5% (không tính
số cổ phiếu thuộc nhà nước) và “0”
nếu ngược lại
6 State Quyền sở hữu của nhà “1” nếu nhà nước làm chủ và “0”
nước nếu ngược lại
7 Fown Sở hữu nước ngoài Tỷ lệ % sở hữu
8 Outdir Số lượng thành viên Số lượng thành viên
độc lập của hội đồng Chú ý có thể tính bằng % độc lập
quản trị trên tổng số thành viên
(Nguồn: Tác giả )
2.2. Tổng quan về thông tin bất đối xứng
2.2.1. Khái niệm về thông tin bất đối xứng
Thông tin bất đối xứng, đôi khi được gọi là thất bại thông tin, có mặt bất cứ
khi nào một bên giao dịch kinh tế có thông tin đầy đủ hơn bên kia. Các mô hình lý
thuyết thông tin trong thị trường tài chính liên quan đến hai loại đối tượng: những
đối tượng có lợi thế thông tin và những đối tượng không có lợi thế thông tin; điều
29
này thường biểu hiện khi người bán một hàng hóa hay dịch vụ có kiến thức nhiều
hơn người mua hoặc người đi vay hiểu rõ về khả năng trả nợ của mình so với ngân
hàng. Thông tin bất đối xứng đóng một vai trò quan trọng trong việc kết hợp giữa lý
thuyết kinh tế cổ điển với hành vi kinh tế quan sát. Mức độ bất đối xứng thông tin
và những ảnh hưởng thông tin bất đối xứng gần như xảy ra trong mọi quan hệ kinh
tế, đặc biệt là trong trường hợp lựa chọn bất lợi hoặc rủi ro đạo đức. Do đó, thông
tin bất đối xứng là một trong những vấn đề cơ bản nhất được nhà kinh tế hiện đại
nghiên cứu. Đặc biệt, thông tin bất đối xứng được chú ý nhiều hơn nữa trong lĩnh
vực tài chính bởi vì một trong những điểm quan trọng nhất trong hoạt động thị
trường tài chính là hoạt động thu thập, tổng hợp và xử lý thông tin khác nhau về giá
cả thị trường. Do đó, việc nhận biết ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng về sự
tương tác giữa các chủ thể có vai trò quan trọng đối với việc hiểu biết về cách thức,
kết quả, hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính.
Solomon (2004) cho rằng các nhà quản lý có đầy đủ thông tin về hoạt động
kinh doanh của công ty, tuy nhiên các nhà quản lý thường không cung cấp những
thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư. Việc tìm kiếm các thông tin cần thiết của các
nhà đầu tư thường bao gồm thông qua kênh chính thức như báo cáo tài chính và các
kênh phi chính thức như tham gia các diễn đàn trao đổi thông tin, thuê tư vấn tài
chính. Tuy nhiên, những thông tin trên các diễn đàn và ý kiến của tư vấn tài chính
lại bắt nguồn từ chính báo cáo tài chính mà công ty cung cấp. Như vậy xảy ra
trường hợp là các nhà đầu tư phụ thuộc phần lớn vào việc công bố thông tin của
công ty, điều này sẽ dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm khi thông tin được
cung cấp không chính xác, hoặc không đầy đủ.
Điều này có nghĩa các đối tượng cùng giải quyết một vấn đề, cùng tham gia
một thị trường nhưng một bên giao dịch có các thông tin liên quan trong khi bên
kia không có hoặc không có đầy đủ. Nguyên nhân của điều này có thể do các lý
do sau: thứ nhất, nguồn thông tin khác nhau; thứ hai thời điểm tiếp nhận thông
tin khác nhau; thứ ba, do trình độ xử lý thông tin khác nhau của các bên nhận
được các luồng thông tin. Thông tin bất đối xứng là nguyên nhân dẫn đến thị
trường kém hiệu quả.
30
2.2.2. Các hình thức thông tin bất đối xứng
Trong thị trường tài chính nói chung và thị trường ngân hàng nói riêng, thông
tin bất đối xứng được biểu hiện thông qua: (1) lựa chọn đối nghịch, (2) tâm lý ỷ lại
và (3) chi phí giám sát.
Khi thông tin bị che đậy thì lựa chọn đối nghịch sẽ xảy ra và nó có trước khi thực
hiện một giao dịch trên trên thị trường. Trong trường hợp này, một bên sẽ phải quyết
định thực hiện giao dịch dựa trên thông tin bất đối xứng. Điều này sẽ dẫn đến lợi ích
của bên có được thông tin nhiều hơn sẽ có lợi ích nhiều hơn so với các bên khác.
“Tâm lý ỷ lại” là hiện tượng một bên đối tác che đậy hành vi sau khi ký kết
hợp đồng giao dịch dẫn đến việc tuân thủ không đúng hợp đồng giao dịch tạo bất lợi
cho một bên khác. Với các hợp đồng vay ngân hàng thì tâm lý ỷ lại phát sinh từ
phía bên đi vay. Việc bên đi vay nhận được số tiền giải ngân của ngân hàng nhưng
không thực hiện đúng các thông tin đã cung cấp trong hồ sơ đi vay mà thực hiện các
mục đích riêng, có thể là tìm kiếm một phương án kinh doanh có mức sinh lời cao
hơn, hoặc thậm chí đi gửi ngân hàng khác hoặc cho vay lại với lãi suất cao hơn lãi
suất đi vay cố định. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra, tuy nhiên mức độ rủi ro rất
cao khi không thu hồi được vốn để trả ngân hàng đúng hạn. Trong khi đó, các đơn
vị, chi nhánh ngân hàng đã hoàn thành việc thẩm định dự án và cho vay, nhưng
không có đơn vị giám sát hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp, hoàn toàn phụ
thuộc vào tính ràng buộc của hợp đồng vay. Với nhận thức như vậy, trong một giai
đoạn nhất định, ngân hàng thừa vốn không sẵn lòng để cung cấp vốn cho người đi
vay, dẫn đến khả năng thanh khoản bị ảnh hưởng, niềm tin với doanh nghiệp giảm.
“Chi phí giám sát” có liên quan chặt chẽ đến hành động không công khai của
người đi vay. Do có lợi thế biết rõ thông tin về hoạt động của mình, trong một số
trường hợp, người đi vay có thể công bố thông tin không đúng sự thật nhằm mục
đích đem lại lợi ích cho bản thân, gây thiệt hại cho người cho vay. Chính vì vậy,
người cho vay buộc phải có cơ chế giám sát người đi vay. Và việc giám sát này làm
phát sinh một khoản chi phí nhất định được gọi là chi phí giám sát. Đó là chi phí
thuê mướn các kiểm toán viên thực hiện việc giám sát này thay cho người cho vay
31
2.2.3. Ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng
Về khía cạnh “lựa chọn bất lợi” tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực, không chỉ
trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tuy nhiên, lựa chọn bất lợi trong hệ thống ngân
hàng rất phổ biến, nhất là hoạt động cho vay và phân bổ định mức tín dụng, lựa
chọn bất lợi cũng dễ xảy ra, do doanh nghiệp giữ những thông tin chính xác nhất về
dự án kinh doanh của họ, dự án có thể khả thi hoặc không. Khi đó, một mức lãi suất
trung bình cao hơn được đặt ra để bù đắp cho các rủi ro, dẫn đến loại bỏ các khách
hàng có khả năng trả nợ tốt do đầu tư vào các lĩnh vực ít rủi ro hơn và còn lại nhiều
hơn các khách hàng đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro cao và lợi nhuận cao (Stiglitz
và Weiss, 1981). Trong nghiên cứu của Awargal và các cộng sự (2011) đã chỉ ra
ảnh hưởng của lựa chọn bất lợi trong quá trình chứng khoán hóa các khoản cho vay
có thế chấp của hệ thống ngân hàng Mỹ trong thời gian từ 2004-2008, trong đó các
ngân hàng, do không có đầy đủ thông tin, đã giữ lại các khoản vay thực chất có độ
rủi ro cao hơn, trong khi lại tập hợp các khoản vay có độ rủi ro thấp thành các danh
mục và chuyển đổi thành các chứng khoán được đảm bảo bằng thế chấp (mortgage
backed securities- MBS) và bán ra thị trường. Đây được cho là một trong những
nguyên nhân làm tăng khả năng mất thanh khoản của ngân hàng, góp phần dẫn đến
khủng hoảng tài chính trên toàn hệ thống sau đó. Hệ thống ngân hàng Việt Nam
thời điểm những năm 2006-2008 vừa qua đã chịu tác động lớn của “lựa chọn bất
lợi”, đặc biệt cho vay bất động sản. Khi thị trường bất động sản đang đi lên, người
vay đầu tư bất động sản thì sẵn sàng chấp nhận lãi suất cao bất chấp họ phải đối mặt
với các mức độ rủi ro khác nhau. Ngân hàng thì trở nên bất cẩn, cho vay ào ào với
mức lãi suất ngày càng gia tăng, do không thể và có thể cũng không muốn đánh giá
khả năng trả nợ và tiềm lực của các loại khách hàng khác nhau. Lúc này các bên
tham gia thị trường đều bị mờ mắt bởi một tỉ suất lợi nhuận cao có vẻ như rất rõ
ràng ở hàng loạt dự án này. Đầu tư bất động sản chịu rủi ro cao hơn nhiều so với sản
xuất, ví dụ như, bánh ngọt hay phở. Lúc này, mặt bằng lãi suất đã bị đẩy lên rất cao,
có những dự án bất động sản có tỷ suất sinh lợi cao nhưng thực tế là rất rủi ro vay
được vốn, còn sản xuất bánh ngọt, phở hay những lĩnh vực đầu tư an toàn nhưng tỉ
32
suất lợi nhuận thấp thì không thể (Huỳnh Thế Du, 2005). Lựa chọn bất lợi làm cho
các đối tượng có khả năng trả nợ không giống nhau nhưng lại chịu mức lãi suất như
nhau, kết quả là thị trường tín dụng chỉ còn lại những đối tượng có khả năng trả nợ
thấp vay được vốn. Trong thực tế, khi doanh nghiệp khó khăn cần vay vốn nhằm
tránh đổ vỡ, họ buộc phải tìm kiếm các khoản vay lãi suất cao; nhằm tránh rủi ro, họ
cũng có thể tìm một phương án đầu tư khác để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn nhằm trả
nợ và tìm kiếm lợi nhuận giữ lại, điều này khiến cho mức độ rủi ro tăng cao hơn khi
mức lãi suất cho vay quá cao, vượt quá khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong bối
cảnh kinh tế nói chung khó khăn hoặc lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp đó khó
khăn. Như vậy thông tin bị che đậy đã khiến cho việc cho vay vốn trở nên không
kiểm soát được, nợ xấu chắc chắn xuất hiện khi thị trường đổ vỡ.
Về khía cạnh “tâm lý ỷ lại”. Một loạt các vụ đổ vỡ của các định chế tài chính
lớn ở các nước phát triển từ năm 2008 là do hệ quả này gây nên. Có thể coi trường
hợp của 2 tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac tại Mỹ là điển hình của “tâm lý ỷ
lại”. Đây thực chất là các công ty tư nhân nhưng lại được chính phủ Mỹ bảo trợ
(government sponsored enter- prises- GSEs), chuyên cung cấp các khoản vay có thế
chấp dưới chuẩn. Họ tập hợp các khoản vay này thành một danh mục và chuyển đổi
thành chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp (MBS). Các nhà đầu tư lao vào loại
chứng khoán mới này, do tin tưởng rằng độ rủi ro rất thấp vì nó được bán ra và bảo
đảm bởi các công ty được chính phủ bảo trợ. Bản thân các GSEs có mối liên hệ trực
tiếp với Bộ Tài chính Mỹ và được phép vay vốn với các điều khoản ưu đãi như Bộ
Tài chính Mỹ, do đó, mọi người đều cho rằng nó “quá lớn nên không thể đổ vỡ”
(Krugman, 2010). Tâm lý ỷ lại được coi là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng
“sản xuất và tiêu dùng” quá mức tối ưu sản phẩm tài chính MBS, đánh mất tính hiệu
quả của thị trường, và khi thị trường cho vay dưới chuẩn của Mỹ sụp đổ, Fannie
Mae và Fredie Mac hoàn toàn mất thanh khoản. Tương tự như vậy, hàng loạt các vụ
sụp đổ của Lehman Brothers, Bear Stearns được cho phần lớn là do tâm lý ỷ lại gây
nên, trong đó chính phủ Mỹ cuối cùng buộc phải cứu Fannie Mae và Fredie Mac,
còn Bear Stearns bị JP Morgan mua lại.
33
Tâm lý ỷ lại cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống ngân hàng Việt Nam
trong thời gian vừa qua, khi mà các ngân hàng dù đã trở nên quá yếu kém, khó có
thể trụ nổi nhưng vẫn nhận được những cam kết của Chính phủ giữ cho không bị
phá sản. Hậu quả là, các ngân hàng này dù bị nợ xấu làm cho tê liệt mọi hoạt động
cho vay, vẫn tiếp tục huy động tiền gửi từ dân cư với mức lãi suất cao. Sự “đảm bảo
không cho phá sản” của Chính phủ trong trường hợp này một mặt khiến các ông
chủ ngân hàng bất cẩn với mọi hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, điều này khiến
người dân vẫn có tâm lý tin tưởng để tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng để hưởng mức
lãi suất cao do các ngân hàng này đặt ra, không quan tâm nhiều đến những bất ổn-
tất cả đều là hệ quả của tâm lý ỷ lại.
Vấn đề “người ủy thác” và “đại diện”. Giám đốc hay nhà quản lý của các tổ
chức tài chính là người đại diện cho các cổ đông và nhà đầu tư để điều hành tổ chức
đó. Trong lĩnh vực tài chính, do tính chất đặc thù của ngành là đòi hỏi phải có sự am
hiểu chuyên môn nên cổ đông và nhà đầu tư thường phó thác cho người đại diện,
khiến cho các hệ quả của thông tin bất đối xứng càng dễ dàng có điều kiện xảy ra
(Pilbeam, 2010). Thế giới tài chính phát triển ngày nay đã sáng tạo ra quá nhiều các
công cụ tài chính và sản phẩm tài chính phái sinh mà chỉ có những người trong nghề
mới hiểu chính xác được và khi các công cụ này bị “người đại diện” lợi dụng cho
mục đích tư lợi cá nhân, bản thân “người ủy thác” cũng không thể phát hiện được.
Trường hợp đổ vỡ của quỹ hưu trí MGN thuộc tập đoàn Maxwell ở Anh xảy
ra đầu những năm 1990 là một điển hình của vấn đề người ủy thác và đại diện trong
lĩnh vực tài chính (Howells và Bain, 2008). Chủ của tập đoàn Maxwell đã lợi dụng
sự tin tưởng của các nhà đầu tư, dùng tiền của quỹ để đầu tư vào các công ty mà
Maxwell có mối liên hệ hoặc có tư lợi cá nhân, đi ngược với quy định của luật pháp
mà các nhà đầu tư không hề hay biết. Khi tập đoàn Maxwell sụp đổ, quỹ hưu trí này
đã không thể chi trả được tiền hưu cho người được hưởng.
Ở Việt Nam, vấn đề công ty sở hữu ngân hàng và sở hữu chéo gây nên những
hậu quả trầm trọng cho hệ thống ngân hàng là một biểu hiện của mâu thuẫn “người
ủy thác” và “đại diện”. “Người đại diện” ở đây là các chủ ngân hàng đã không kinh
34
doanh vì lợi ích và sự an toàn của “người ủy thác”- là người gửi tiền – mà lợi dụng
để đầu tư vào các dự án bất động sản của công ty sân sau của mình, hay các dự án
có độ rủi ro cao do họ góp cổ phần. Khi thị trường bất động sản suy sụp, nền kinh tế
rơi vào khó khăn, các công ty này không thể trả được nợ cho ngân hàng, nợ xấu từ
đó mà sinh ra chồng chất, đặt ngân hàng và người gửi tiền vào tình thế đầy rủi ro về
thanh khoản.
2.2.4. Các nghiên cứu về thông tin bất đối xứng
Lý thuyết về thông tin bất đối xứng được đưa ra bởi Akerlof (1970). Trong
nghiên cứu của mình, Akerlof đã phân tích thị trường xe hơi của Hoa Kỳ và chỉ ra
rằng thị trường sẽ đạt kết cục không hiệu quả khi một bên nắm thông tin tốt hơn bên
còn lại. Phần lớn nguời mua xe không có đầy đủ thông tin để phân biệt giữa những
xe hơi có chất lượng tốt hay kém. Ðiều này làm cho họ phải tự đặt ra một mức chất
lượng trung bình, từ đó đưa ra một mức giá trung bình có thể mua. Hệ quả tất yếu,
đó là trên thị trường có những chiếc xe có chất lượng tốt tuy nhiên không được bán
với đúng mức giá cao thích hợp, còn những chiếc xe có chất lượng kém lại được
bán với mức giá cao hon giá trị thực sự của nó. Cuối cùng trên thị trường chỉ còn lại
những chiếc xe có chất lượng kém (lemons). Từ nghiên cứu của Akerlof, Spence
(1973) và Stiglitz (1976) đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên của
thông tin. Spence (1973) đưa ra khái niệm về “phát tín hiệu” (signaling) và chỉ ra rằng
một bên trên thị trường có thể thuyết phục đối tác của mình về chất lượng sản phẩm
bằng cách cung cấp thêm thông tin về sản phẩm, từ đó làm giảm mức độ thông tin bất
đối xứng. Còn Stiglitz (1976) giới thiệu khái niệm “cơ chế sàng lọc” (screening) mô tả
tình huống một bên trên thị trường sẽ thu thập thông tin về khách hàng, từ đó đưa ra
các lựa chọn khác nhau cho các nhóm khách hàng khác nhau nhằm giảm thiểu rủi ro.
Như vậy, “phát tín hiệu” và “cơ chế sàng lọc” khác nhau về chủ thể nào sẽ hành động
trước trên thị trường. Từ những nghiên cứu mang tính nền tảng trên đây, năm 2001,
Akerlof, Spence và Stiglitz đã được trao giải thưởng Nobel cho những đóng góp của họ
trong việc phân tích thị trường có thông tin bất đối xứng.
35
Các ứng dụng của lý thuyết thông tin bất đối xứng rất đa dạng trên tất cả các
lĩnh vực của kinh tế xã hội, điển hình là ở thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, Yang
& Liau (2008) phân tích các nguồn hình thành nên thông tin bất đối xứng trên thị
trường chứng khoán. Trong số các lý do đó, một nguyên nhân quan trọng đó là sự
khác biệt giữa quyền điều hành (control rights) và quyền dòng tiền (cash flow
rights). Quyền điều hành đề cập tới mức độ của nguời sở hữu trong việc điều hành
quản lý hoạt động của công ty, trong khi quyền dòng tiền đề cập đến phần lợi nhuận
của công ty thuộc về sở hữu đó. Nếu nguời sở hữu nắm trong tay quyền điều hành
quản lý, nhưng lại không được hưởng những lợi ích bằng tiền từ việc làm của mình,
họ sẽ dễ dàng bị lôi kéo vào những giao dịch ngầm (insider trading) để thu lợi bất
chính dựa trên những thông tin mà họ có được về tổ chức.
Lý thuyết chung về ngân hàng, thuật ngữ thông tin bất đối xứng có thể được
thay thế bằng “tính mờ”. Nói chung, thuật ngữ tính mờ được sử dụng để làm rõ vấn
đề bất đối xứng thông tin luôn tồn tại trong lĩnh vực ngân hàng. Ví dụ, Flannery,
Kwan và Nimalendran 2004 sử dụng “tính mờ” như một đặc tính chủ yếu của tính
bất đối xứng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng. Họ định nghĩa “tính mờ” có nghĩa
là các nhà đầu tư vào ngân hàng không thể đánh giá về giá trị tài sản của ngân hàng
một cách chính xác nhưng những người bên trong hoặc các chuyên gia có khả năng
đánh giá đúng về vấn đề này.
Morgan (2002) cho rằng thông tin bất đối xứng gắn liền với đặc tính của ngân
hàng và tính bất đối xứng thông tin tại lĩnh vực ngân hàng rõ ràng hơn nhiều so với
các loại hình công ty khác. Điều này dựa trên đặc điểm ngân hàng giống như hộp
đen, dòng tiền đi vào và dòng tiền đi ra, nhưng những người bên ngoài ngân hàng
khó có thể quan sát hết những rủi ro trong quá trình vận động trung gian. Nói cách
khác, những người bên trong ngân hàng có nhiều thông tin về những rủi ro có thể
xảy ra khi dòng tiền luân chuyển bên trong hơn là những người bên ngoài ngân
hàng. Morgan cho rằng bản chất về tài sản của các công ty tài chính khác rất nhiều
so với các công ty khác. Ông cho rằng tài sản tài chính tạo ra nhiều vấn đề do đó
các ngân hàng có thể biến những tài sản ít rủi ro thành các khoản đầu tư nhiều rủi
36
ro, giống như việc nhận tiền gửi của người dân và cho vay các khoản vay nhiều rủi
ro hoặc đầu tư vào các dự án có thể dẫn đến thất bại và mất vốn. Hơn nữa, ông cũng
đánh giá các tài sản tài chính tạo ra sự không chắc chắn đối với các nhà đầu tư. Tuy
nhiên, Flannery, Kwan và Nimalendran (2004) không tìm thấy bằng chứng về sự
khác biệt về tính bất đối xứng thông tin khi so sánh giữa các ngân hàng và công ty
phi tài chính.
Levine (2004) thừa nhận rằng “những đối tượng ngoài ngân hàng không thể
theo dõi một cách đầy đủ về chất lượng của các khoản cho vay của ngân hàng”. Ông
cho rằng ngân hàng có thể giấu đi các vấn đề thông qua việc cung cấp các khoản
cho vay đối với khách hàng với mức lãi xuất cao khiến khách hàng có thể rơi vào
tình trạng mất khả năng thanh khoản, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cũng
như có thể gây ra tình trạng mất vốn của ngân hàng. Xa hơn nữa, ngân hàng có thể
thay đổi các thành tố rủi ro của tài sản khiến những người bên ngoài khó quan sát
hơn. Nói cách khác, tính chất liên quan đến nhiều đối tượng, đối tác, người gửi tiền,
cổ đông hoặc chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng khiến các đối tượng có liên
quan có cách nhìn khác nhau về hoạt động của ngân hàng khiến các cổ đông khó có
khả năng kiểm soát và đưa ra các quyết định quản lý hiệu quả.
Thông tin bất đối xứng là một đặc điểm phổ biến trong hoạt động của các ngân
hàng đòi hỏi các cơ quan quản lý cần phải luôn lưu tâm và cần có những quy định
rõ ràng nhằm tránh những rủi ro mang tính hệ thống ảnh hưởng đến cả hệ thống
ngân hàng cũng như cả nền kinh tế. Liên quan đến vấn đề này, các nhà quản lý trên
thế giới luôn nỗ lực đưa ra các quy định cụ thể và tạo ra các khung pháp lý chặt chẽ
để tránh các rủi ro này. Tuy nhiên, các nhà quản lý và làm luật cũng cần phải quan
tâm đến tính hiệu quả của các quy tắc thị trường. Điều này là do hiệu quả của các
quy tắc thị trường thường có tác động lớn hơn trong việc tạo ra những quy tắc về
tính minh bạch trong hoạt động của ngân hàng đối với các đối tượng bên ngoài. Về
vấn đề này, Flanery (1998) đã xây dựng một mô hình kết hợp giữa cơ chế thị trường
và hoạt động giám sát thông tin, mô hình này không những rút ngắn được thời gian
xác đinh những vấn đề của ngân hàng mà còn giúp các nhà quản lý có thể phản ứng
37
một cách nhanh chóng với các vấn đề phát sinh khi phát hiện các thông tin rủi ro.
Ông cho rằng việc giám sát hoạt động của thông tin thị trường có thể được cải thiện
nếu các nhà quản lý có thể kết hợp một cách hệ thống thông tin thị trường vào các
phân tích và các chương trình hành động của họ. Đối với vấn đề này, Ủy ban giám
sát ngân hàng Basel (Basel Committee on Banking Supervision) cho rằng cơ chế
quản trị công ty có thể giúp cải thiện hiệu quả quản lý.
2.2.5. Cấu trúc biến thông tin bất đối xứng
Các nghiên cứu cho thấy không có biện pháp nào là tối ưu để đo được mức độ
bất đối xứng của thông tin. Việc đo lường trực tiếp thông tin bất đối xứng là rất khó,
một trong những nguyên nhân đó là tính chất bất đối xứng không chỉ diễn ra giữa
người sở hữu, cổ đông với những nhà quản lý. Trong lĩnh vực ngân hàng, các đối
tượng liên quan có thể cả là người gửi tiền, cơ quan giám sát, tình bất đối xứng
thông tin cũng tồn tại trong Hội động quản trị, giữa Hội đồng quản trị và ban giám
đốc… Do đó, các nghiên cứu trên thế giới tập trung phát triển các biến đại diện có
thể đo lường được thay vì đo lường trực tiếp thông tin bất đối xứng. Các cách đo
lường này gắn liền với nhau nhưng chứa đựng thông tin riêng biệt.
Một trong những cách phổ biến nhất để đo lường là khoảng biến thiên giá giao
dịch cổ phiếu. Điều này dựa trên giả thuyết rằng việc thông tin bất đối xứng càng
lớn sẽ khiến cho khoảng biến thiên giá càng cao do nhà đầu tư khó dự đoán xu
hướng biến động giá (Denis Cormier, Michel Magnan and Walter Aerts, 2008).
Một số nghiên cứu khác cho rằng số lượng chuyên gia nghiên cứu có thể được
sử dụng để đại diện cho việc cung cấp thông tin về công ty. Càng có nhiều chuyên
gia nghiên cứu về công ty thì càng có nhiều thông tin được phơi bày và cung cấp
cho công chúng được biết tính bất đối xứng của thông tin càng giảm. Brennan và
Subrahmanyam (1995) lập luận số lượng nhà phân tích tăng làm giảm chi phí lựa
chọn bất lợi. Trong khi Chemmanur và Paeglis (2001) thấy rằng giá cổ phiếu tăng tỷ
lệ thuận với những số lượng phân tích của các chuyên gia.
38
Ở khía cạnh khác, sai số dự báo về lợi nhuận công ty của chuyên gia phân tích
cũng có thể là biến đại diện cho AI do số lượng nhà phân tích tài chính là chuyên
gia tìm kiếm và nghiên cứu về thông tin công ty. Ở nghĩa rộng, hiểu biết của họ về
tình trạng công ty sẽ được thị trường tiếp nhận. Sai số dự báo của nhà phân tích về
lợi nhuận của công ty có thể là biến đại diện mở rộng của thông tin bất đối xứng
giữa người bên trong và bên ngoài công ty. Gilson và cộng sự. (1997);
Krishnaswami và Subramaniam (1998) sử dụng dự báo sai số lợi nhuận công ty của
các chuyên gia như một biến đại diện của thông tin bất đối xứng.
Nghiên cứu khác của Allen (1993) cho rằng số lượng cổ đông cũng có thể là biến
đại diện do giá trị cổ phiếu thị trường phản ánh toàn bộ thông tin mà cổ đông có. Một
số thông tin mất phí, một số thông tin miễn phí. Điều này lý giải rằng số lượng cổ đông
có thể làm gia tăng số lượng thông tin cho thị trường, chính vì vậy làm giảm tính bất
đối xứng của thông tin.
Nghiên cứu của Vermaelen (1981) cũng cho thấy quy mô công ty làm giảm
thông tin bất đối xứng. Các công ty lớn có thể đối mặt với ít vấn đề thông tin bất đối
xứng bởi vì họ có có xu hướng trở thành các công ty lớn hơn, được thiết lập và trải
qua thời gian kiểm tra mức độ minh bạch thông tin trong hoạt động và đón nhận
nhiều sự chú ý từ thị trường và các nhà làm luật (Diamond and Verrecchia, 1991và
Harris, 1994). Quy mô công ty có thể tính bằng tổng tài sản hoặc giá trị thị trường
của vốn chủ sở hữu.
Chi phí nghiên cứu và phát triển cũng được coi là một thang đo đại diện cho
thông tin bất đối xứng. Trong thực tế, nghiên cứu phát triển (R&D) là một hoạt
động mà qua đó các công ty có thể đánh giá triển vọng tăng trưởng trong tương lai
bằng cách phát triển sản phẩm mới hoặc cải tiến, hoàn thiện và mở rộng qui mô của
mình. Chi phí nghiên cứu phát triển không chỉ là chi phí nghiên cứu sản phẩm, mà
trong lĩnh vực ngân hàng, đó có thể là chi phí để điều tra về khách hàng, phân khúc
doanh nghiệp, kiểm tra, giám sát chất lượng các khoản vay và việc thực hiện hợp
đồng vay của khách hàng. Đây được coi là chi phí nhằm tìm hiểu thông tin về thị
trường, đồng nghĩa với việc làm giảm tính bất đối xứng thông tin thị trường. Barth
39
và Kasznik (1999); Barth, Kasznik và McNichols (2001) cho rằng chi phí nghiên cứu
và phát triển đại diện cho tài sản vô hình và gắn liền trực tiếp với thông tin bất đối
xứng. Thông tin bất đối xứng càng cao sẽ khiến chi phí nghiên cứu phát triển càng cao.
Thông thường, các công ty thường dành khoảng 5% lợi nhuận cho hoạt động
nghiên cứu và phát triển (R&D). Tuy vậy, đối với một số ngành như : dược phẩm,
phần mềm, điện tử viễn thông… thì hoạt động này được các công ty đầu tư cao hơn
hẳn những ngành khác. Thông tin bất đối xứng được thể hiện một cách rõ ràng
trong các ngành công nghiệp cao có hoạt động đầu tư vào R&D một cách chuyên
sâu (Himmelberg và Petersen, 1994), ví dụ như ngành công nghệ sinh học. Sở dĩ có
điều này vì các nhà quản lý thông thường đã có nhiều thông tin bên trong công ty
hơn các đối tác bên ngoài, cộng với sự hiểu biết về sự thành công của các dự án
nghiên cứu phát triển sản phẩm, các thông số kỹ thuật liệu nó có thành công hay
không cũng như tính khả thi của sản phẩm khi tung ra thị trường (Hall và Lerner,
2009). Điều này làm tăng tính bất đối xứng thông tin. Aboody and Lev (2000)
chứng minh rằng giao dịch nội gián tăng cao tại các công ty có hoạt động R&D hơn
là các công ty không có R&D, đồng thời cho thấy R&D là một trong những nhân tố
chính dẫn đến thông tin bất đối xứng.
Đo lường thông tin bất đối xứng bằng chỉ số Tobin’s Q. Đây là chỉ số được
James Tobin đưa ra khái niệm Q vào cuối thập niên 1960. Ý tưởng của Tobin là nếu
thị trường đánh giá một doanh nghiệp cao hơn giá trị vật chất của doanh nghiệp đó
thì đấy là tín hiệu thị trường cho rằng doanh nghiệp có triển vọng phát triển. Khi Q
> 1, doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh đầu tư để tăng trưởng, ngược lại nếu Q < 1 thì
doanh nghiệp sẽ bán bớt tài sản vật chất hoặc giảm đầu tư xuống thấp. Lý thuyết
đầu tư của Tobin (1969) đưa ra một cơ chế, qua đó, chính sách tiền tệ có thể tác
động đến nền kinh tế thông qua kênh định giá cổ phiếu. Tobin định nghĩa q là thị
giá của một công ty trên chi phí thay thế vốn của công ty đó. Nếu hệ số q cao, công
ty sẽ đầu tư nhiều hơn vì việc huy động thêm vốn sẽ rẻ hơn do thị giá của công ty
khá cao so với chi phí huy động thêm vốn. Ngược lại, nếu hệ số q thấp, công ty sẽ
không gia tăng đầu tư vì chi phí huy động thêm vốn khá đắt.
40
Chính sách nới lỏng tiền tệ có thể làm tăng hệ số q qua 2 kênh. Thứ nhất, lãi
suất thấp sẽ không khuyến khích nhà đầu tư gửi tiền vào ngân hàng và họ sẽ vay
thêm vốn với chi phí thấp hơn trước. Nhà đầu tư sẽ phải tìm kiếm các kênh đầu tư
khác hấp dẫn hơn, một trong những kênh đầu tư đó là thị trường chứng khoán. Do
đó, thị giá cổ phiếu có thể sẽ tăng lên do cầu kéo. Thứ hai, lãi suất thấp còn làm cho
các công cụ có lãi suất cố định như trái phiếu sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn so với cổ
phiếu, nhà đầu tư có thể cũng sẽ chuyển từ kênh trái phiếu sang kênh cổ phiếu. Tóm
lại, chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ làm tăng giá cổ phiếu, và do đó, làm tăng hệ số q,
và kết quả là đầu tư cũng tăng theo.
Tobin’s Q được tính bằng tỷ số giữa giá thị trường của tài sản với giá trị thay
thế của tài sản. R. Bauer và các cộng sự (2004) đã đề xuất cách tính Tobin’s Q: giá
thị trường của tài sản được tính bằng cách cộng giá sổ sách của tài sản với giá thị
trường của cổ phiếu đang lưu hành, sau đó trừ đi giá sổ sách của cổ phiếu lưu hành,
còn giá trị thay thế của tài sản được tính bằng giá sổ sách của tài sản. Chỉ tiêu
Tobin’s Q phụ thuộc vào các giá trị vô hình của công ty, niềm tin của thị trường đối
với tương lai của công ty và phương pháp hạch toán giá trị sổ sách của tài sản. Ưu
điểm của chỉ tiêu này là dễ tính toán, giúp nhận dạng và ước lượng giá trị vô hình
không được ghi nhận trong báo cáo tài chính. Nhược điểm của chỉ tiêu này nằm ở
tâm lý nhà đầu tư và khả năng tuân thủ chuẩn mực kế toán.
Nghiên cứu trước đó cho thấy vấn đề thông tin bất đối xứng càng trở nên trầm
trọng đối với các công ty có cơ hội tăng trưởng mạnh (Smith and Watts (1992). Vì
vậy, biến đại diện được sử dụng để đo lường thông tin bất đối xứng là cơ hội đầu tư
(investment opportunities) (McLaughlin và cộng sự. (1998). Không giống như
ROA, ROE vẫn thường được sử dụng trong nhiều nghiên cứu, chỉ số Tobin’s Q có
ưu điểm nhất định. Nếu như ROA, ROE phản ánh kết quả trong quá khứ thì Tobin’s
Q phản ánh kỳ vọng tương lai của nhà đầu tư.
Tobin’Q = ( EMV + LMV)/(EBV + LBV)
Trong đó:
EMV: Giá trị thị trường của Vốn chủ sở hữu.
41
LMV: Giá trị thị trường của Nợ phải trả.
EBV: Giá trị sổ sách của Vốn chủ sở hữu.
LBV: Giá trị sổ sách của Nợ phải trả.
Đo lường thông tin bất đối xứng qua chỉ số đòn bẩy tài chính (Leverage) hay
nợ tài chính: Một công ty có chỉ số nợ tài chính cao có thể có mức biến động về lợi
nhuận cao hơn. Điều này khiến giá trị thực chất của công ty đó sẽ có mức biến động
lớn do sự biến động về lợi nhuận. Kết quả là mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính gắn
liền với tính bất đối xứng thông tin. Do tính chất bất đối xứng thông tin phụ thuộc
vào hoạt động công bố thông tin, tuy nhiên, thông tin của ngân hàng công bố ra
được chia làm hai trường hợp, thứ nhất là mức độ công bố thông tin; thứ hai là tính
chính xác của công bố thông tin.
Đối với mức độ công bố thông tin: Trong giai đoạn nhất định, thông tin bất đối
xứng sẽ giảm dần khi mức độ công bố thông tin tăng lên. Việc tuân thủ chế độ công
bố thông tin gắn liền với niềm tin của người gửi tiền và các bên liên quan tăng lên,
từ đó khiến người dân gửi tiền nhiều hơn, từ đó đòn bẩy tài chính tăng (leverage
tăng). Như vậy có thể nói, công bố thông tin tăng khiến thông tin bất đối xứng giảm
và đòn bẩy tài chính tăng. Điều này có nghĩa thông tin bất đối xứng có mối tương
quan ngược chiều với đòn bẩy tài chính. Nợ tài chính có thể được xem như là một
cơ chế để giảm thiểu thông tin bất đối xứng vì các chủ nợ thúc đẩy để theo dõi hành
vi của quản lý để bảo vệ yêu cầu của mình. Degryse và Jong (2006) cho rằng "đòn
bẩy tài chính và đặc biệt là nợ ngân hàng, là một cơ chế kỷ luật quan trọng làm
giảm vấn đề người đại diện (mâu thuẫn giữa chủ sở sở hữu và nhà quản lý)".
Bebchuk (2003) đồng ý với luận điểm này, trong đó đòn bẩy tài chính có thể hoạt
động như một cơ chế để hạn chế tính bất đối xứng thông tin.
Đối với mức độ chính xác của công bố thông tin: Trong trường hợp thông tin
được công bố đầy đủ, tuy nhiên mức độ chính xác thấp (nghĩa là thông tin được
cung cấp không đúng và có thể là cung cấp sai lệch vì mục đích của ngân hàng),
điều này phổ biến khi xảy ra những dấu hiệu khủng hoảng ngân hàng. Một ví dụ cụ
thể tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng luôn công bố thông tin nợ xấu ở mức xấp xỉ
42
3%, tuy nhiên trong thực tế mức nợ xấu của các cơ quan giám sát đánh giá không
chính thức mức nợ xấu các ngân hàng có thời điểm lên đến 10 - 15%. Như vậy,
thông tin công bố không đúng, nghĩa là thông tin bất đối xứng cao. Các ngân hàng
tìm cách mọi cách tăng vốn, tăng huy động để pha loãng mức nợ với mức lãi suất
huy động cao nhằm thu hút người gửi tiền. Tuy nhiên, người dân gửi tiền không
biết, họ vẫn gửi tiền cho ngân hàng vì lãi suất ngân hàng cao trong khi các kênh đầu
tư khác sinh lời ít. Như vậy mức độ chính xác thông tin thấp, khiến thông tin bất đối
xứng tăng và đòn bẩy tài chính cũng tăng. Trong trường hợp này, thông tin bất đối
xứng lại có quan hệ cùng chiều với đòn bẩy tài chính.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp đo lường bằng hai cách
thích hợp đối với tình trạng số liệu có thể lấy được tại Việt Nam, đó là chỉ số chi phí
nghiên cứu (R&D) và chỉ số đòn bẩy tài chính (Leverage).
2.3. Tổng quan về hiệu quả hoạt động của ngân hàng và phương
pháp đo lường
Hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần (corporate performance hoặc firm
performance) là chỉ tiêu rất quan trọng đối với các bên liên quan như cổ đông, ban
giám đốc, chủ nợ, nhà cung cấp, người tiêu thụ… trong việc ra quyết định kinh
doanh hoặc đầu tư. Hiệu quả hoạt động của công ty được đo lường bằng nhiều chỉ
tiêu khác nhau trong các nghiên cứu khoa học.
Trong các nghiên cứu của Berger & cộng sự, 1997; At.hanaso.glo.u & cộng
sự, 2008; Sufian, 2009; Anbar & Alpe.r, 2011, các tác giả sử dụng thường xuyên
sử dụng các tỷ số tài chính để đánh giá, phân tích hiệu quả hoạt động. Theo Rose
(2004) và Phan Thị Thu Hà (2011), chúng là các chỉ tiêu kế toán thuần túy và đối
với mục tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại thì ba số sau
đây được sử dụng phổ biến nhất: (1) lãi ròng NIM (Net Interest Margin); (2) lợi
nhuận trên tổng tài sản ROA (Return on Assets), và (3) lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu ROE (Return on Equity).
Theo Rose (2002) và Mishkin (2009), “lãi ròng NIM phản ánh năng lực của
đội ngũ quản trị trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu đến từ các
43
khoản cho vay, đầu tư và phí dịch vụ so với mức tăng của chi phí”. Một cách nhìn
khác là huy động hoặc đi vay với chi phí thấp, trong khi đại lợi nhuận tối đa để đạt
lợi nhuận cao nhất.
Lợi nhuận trên tổng tài sản ROA là một chỉ tiêu phản ánh tính hiệu quả của
việc quản lý các tài sản của tổ chức. Tiêu chí này đại diện cho năng lực quản trị
công ty trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng và lợi
nhuận. ROA được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động và đánh giá
tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế nói chung cũng như của ngân hàng nói
riêng. ROA thấp cho thấy hoạt động kém hiệu quả hoặc dàn trải dẫn đến lợi nhuận
không đủ trang trải cho các chi phí. Ngược lại, ROA cao cho thấy hiệu quả của
hoạt động cho vay là các tài sản trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Một chỉ
số ROA cao cũng phản ánh cơ cấu tài sản hợp lý của ngân hàng.
Cuối cùng, tiêu chí ROE là một thước đo khả năng sinh lời cho các cổ đông
và đây thường là một trong những tiêu chí quan trọng nhất đối với nhà đầu tư. Tiêu
chí này thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng
(Rose,2002; Saunders & cộng sự, 2006). Tiêu chí này cũng phản ánh mức độ đền bù
cho những rủi ro mà cổ đông chấp nhận khi họ đầu tư vào một tổ chức công ty nói
chung cũng như ngân hàng nói riêng.
Nghiên cứu của Hult và các cộng sự (2008) đánh giá cách thức đo lường hiệu
quả hoạt động trong các nghiên cứu khoa học đã công bố về công ty kinh doanh
quốc tế (international business), bao gồm các cấp độ tập đoàn, công ty và đơn vị
kinh doanh chiến lược (strategic business unit), cho thấy có ba tiêu chí đo lường
hiệu quả hoạt động được sử dụng là hiệu quả tài chính (financial performance), hiệu
quả kinh doanh (operation performance) hoặc hiệu quả tổng hợp (overall
performance).
Hiệu quả tài chính trong nhiều nghiên cứu bao gồm tỷ suất lợi nhuận trên vốn
đầu tư, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản, tỷ suất
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, lợi nhuận biên, thu nhập cổ phần thường, thị giá cổ
phiếu, tăng trưởng doanh thu và Tobin’s Q.
44
Hiệu quả kinh doanh được đo lường bởi thị phần, tần suất giới thiệu sản phẩm
mới và sáng chế, chất lượng hàng hoá/dịch vụ, năng suất lao động, mức độ hài lòng
và duy trì lực lượng lao động.
Hiệu quả tổng hợp thường bao gồm uy tín, khả năng tồn tại, mức độ đạt được
mục tiêu, so sánh với đối thủ cạnh tranh…
Hiệu quả tài chính trong các nghiên cứu khoa học thường được đo lường
thông qua các tiếp cận sau: tiếp cận thị trường, tiếp cận từ báo cáo tài chính và tiếp
cận kết hợp.
Tiếp cận thị trường xem hiệu quả tài chính là tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư
(ROI) vào cổ phiếu của công ty đang xem xét. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ số
giữa tổng cổ tức và chênh lệch giá nhận được trong một khoảng thời gian so với vốn
đầu tư ban đầu. Cách tiếp cận này có ưu điểm là dựa trên thu nhập thực tế bằng tiền
của nhà đầu tư, nên có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu chịu ảnh
hưởng nhiều bởi tâm lý của nhà đầu tư (lạc quan hoặc bi quan về thị trường); đặc
biệt trên những thị trường chứng khoán mới phát triển (emerging market), việc giám
sát tuân thủ quy định pháp luật chưa chặt chẽ và thị trường kém hiệu quả về mặt
thông tin, nên giá chứng khoán dễ bị thao túng bởi hoạt động đầu cơ bất hợp pháp,
do đó ROI chưa phải là chỉ tiêu tốt để đo lường hiệu quả hoạt động của công ty.
Mặc khác, khi công ty thực hiện các nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu, phát hành quyền
mua cổ phẩn, cổ phiếu thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu… sẽ làm thị giá cổ phiếu
điều chỉnh tương ứng và làm công thức tính toán ROI trở nên rất phức tạp.
Cách tiếp cận thứ hai là dựa vào thông tin do công ty cung cấp, mà chủ yếu từ
báo cáo tài chính được kiểm toán. Theo cách tiếp cận này, những chỉ tiêu đo lường
hiệu quả tài chính chủ yếu là các tỷ suất lợi nhuận như tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài
sản (ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)... Hai chỉ tiêu này có quan
hệ với nhau vì ROE khuếch đại ROA thông qua đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, để đo
lường hiệu quả hoạt động trong nghiên cứu thì chỉ tiêu ROA toàn diện hơn do tính
đến khả năng khai thác toàn bộ tài sản của công ty. Ưu điểm của cách tiếp cận này
là dễ tính toán chỉ tiêu, nhưng nhược điểm lại nằm ở tính sẵn có và tính chính xác,
trung thực của thông tin từ báo cáo tài chính.
45
Cách tiếp cận thứ ba kết hợp cả hai khía cạnh thị trường và công ty, các nhà
nghiên cứu thường sử dụng chỉ tiêu Tobin’s Q hoặc tỷ số thị giá/giá sổ sách (PBV –
price to book value ratio). Tobin’s Q được tính bằng tỷ số giữa giá thị trường của tài
sản với giá trị thay thế của tài sản. R. Bauer và các cộng sự đã đề xuất cách tính
Tobin’s Q: giá thị trường của tài sản được tính bằng cách cộng giá sổ sách của tài sản
với giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành, sau đó trừ đi giá sổ sách của cổ phiếu
lưu hành, còn giá trị thay thế của tài sản được tính bằng giá sổ sách của tài sản. Chỉ tiêu
PBV tương tự như Tobin’s Q, nhưng không tính trên tổng tài sản, mà chỉ so sánh giá
thị trường và giá sổ sách của vốn chủ sở hữu, do đó PBV chưa được toàn diện bằng
Tobin’s Q. Chỉ tiêu Tobin’s Q phụ thuộc vào các giá trị vô hình của công ty, niềm tin
của thị trường đối với tương lai của công ty và phương pháp hạch toán giá trị sổ sách
của tài sản. Ưu điểm của chỉ tiêu này là dễ tính toán, giúp nhận dạng và ước lượng giá
trị vô hình không được ghi nhận trong báo cáo tài chính, nhưng nhược điểm của nó
nằm ở tâm lý nhà đầu tư và khả năng tuân thủ chuẩn mực kế toán.
Như vậy, hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần được đo lường bằng nhiều
chỉ tiêu khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng khảo sát và nguồn dữ liệu. Mỗi chỉ tiêu
tính toán đều có ưu điểm và nhược điểm của nó.
Các nghiên cứu trước đã xây dựng các chỉ tiêu nhằm đánh giá kết quả hoạt
động của công ty dựa trên các quan điểm và mục tiêu nghiên cứu khác nhau.
Richard và cộng sự (2009) đã tiến hành rà soát các thước đo kết quả hoạt động công
ty từ các nghiên cứu trong nhóm năm tạp chí khoa học hàng đầu về quản lý giai
đoạn 2002-2007. Các tác giả này đã phát hiện có sự thống nhất cao về các thước đo
và cách kết hợp chúng để so sánh kết quả hoạt động công ty. Theo Bhagat và Bolton
(2008), các biến đại diện thông dụng nhất cho kết quả hoạt động của công ty gồm có:
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) - tổng thu nhập trước khấu hao chia
cho tổng tài sản vào thời điểm cuối năm; Tobin’Q: chỉ tiêu này được tính toán bởi
(Gom- pers, Ishii và Metrick, 2003; Brainard và Tobin 1968); Lợi nhuận cổ phiếu:
thu nhập hỗn hợp trong một năm (gồm cả cổ tức); Tỷ lệ đòn bẩy tài chính- là tổng
nợ dài hạn chia tổng tài sản; Kết quả hoạt động hai năm gần nhất: dựa trên các chỉ
tiêu này, sự thay đổi kết quả hoạt động sẽ được tính toán, ví dụ tăng trưởng của
46
công ty. Vì hạn chế dữ liệu, các nghiên cứu về chủ đề này thường chỉ sử dụng chỉ
tiêu đơn lẻ để phản ánh kết quả hoạt động công ty, trong đó tỷ suất sinh lời trên tổng
tài sản, lợi nhuận trước thuế và khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước là các
thước đo thông dụng nhất.
Trong nghiên cứu này của mình tác giả sẽ sử dụng chỉ số tỷ suất sinh lời trên
tổng tài sản (ROA) vì chỉ số này được rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước sử
dụng cũng như chỉ số này được công bố rộng rãi.
2.4. Tổng quan về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng, quản trị
công ty và hiệu quả hoạt động của ngân hàng
2.4.1. Mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động
ngân hàng
Các nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ nhất định giữa hoạt động công bố
thông tin và hoạt động quản trị công ty. Lowenstein (1996) cho rằng “một cơ chế
công bố thông tin tốt là một cơ chế hiệu quả và hiệu suất nhất để các nhà quản lý
quản trị công ty tốt hơn”. Điều này chứng minh các công ty công bố thông tin tốt
hơn có thể có quản trị công ty tốt hơn. Bởi vậy, công bố và minh bạch thông tin góp
phần lớn vào công tác quản trị công ty và hoạt động của doanh nghiệp.
Abdul Rahman (2006) cho rằng “Công bố những thông tin phù hợp tăng
cường minh bạch và cung cấp lượng thông tin chính xác, sẽ giúp các cổ đông của
công ty và các bên liên quan có những hành động phù hợp với mục tiêu của họ”.
Ngoài ra, công bố thông tin về quản trị công ty rất quan trọng với các nhà đầu tư để
giúp họ có một bức tranh tốt về mức độ của các hoạt động giám sát công ty. Nó
cũng giúp các nhà đầu tư nhận biết và so sánh về việc thực thi quản trị công ty giữa
các công ty với nhau. Và nhờ đó, các nhà đầu tư có thể lựa chọn đầu tư dựa vào
mức độ công bố thông tin về quản trị công ty (Abdul Rahman và Rizal Salim,
2010). Quản trị công ty có vai trò như một cơ chế để giảm thiểu các vấn đề về đại
diện giữa các cổ đông và nhà quản lý. Việc tăng cường công bố thông tin của công
ty và việc thiết lập những hướng dẫn về quản trị công ty đã hỗ trợ cho các cổ đông
47
nhằm đảm bảo các nhà quản lý sẽ điều hành công ty dựa trên lợi ích của các cổ
đông. Chỉ thông qua việc công khai và minh bạch thông tin một cách hoàn chỉnh và
đầy đủ, các cổ đông mới có thể thấy tự tin về khoản đầu tư được vận hành một cách
tốt nhất cho lợi ích của họ.
Đối với vấn đề sử dụng đòn bẩy tài chính (leverage), (Andy, Chuck & Alison,
2002) cho rằng đòn bẩy tài chính là một công cụ nợ quan trọng. Bên cạnh vốn tự có,
đòn bẩy tài chính sẽ giúp các doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh một cách
nhanh chóng. Đối với lĩnh vực ngân hàng, mặc dù vốn chủ sở hữu là cao so với các
doanh nghiệp thông thường, nhưng việc sử dụng tiền gửi của người dân để cho vay
nhằm kiếm lợi nhuận là một cách thức đặc biệt chỉ các tổ chức tài chính, nhất là
ngân hàng mới có. Các khoản tiền gửi, được coi như khoản nợ của ngân hàng tạo ra
cơ hội tiềm năng rất lớn nếu được sử dụng hiệu quả. Pandey (2010) khẳng định rằng
các đòn bẩy tài chính được sử dụng bởi một công ty có khả năng kiếm được lợi
nhuận nhiều hơn so với các doanh nghiệp thông thường chỉ sử dụng nguồn vốn tự
có. Rõ ràng nhất là khi xem xét cấu trúc về vốn của doanh nghiệp nói riêng và ngân
hàng nói chung, chi phí vốn được xác định bởi các thành phần của cấu trúc vốn của
một công ty. Một cấu trúc vốn tối ưu là lúc công ty có tổng chi phí vốn thấp nhất,
trong trường hợp này tăng sử dụng nợ sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động và thu nhập
của cổ đông. Việc kết hợp giữa đòn bẩy tài chính và chi phí vốn tối ưu sẽ làm tăng
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi xem xét khía cạnh ngược lại, Andy (2002) cho rằng việc sử
dụng đòn bẩy tài chính đến một giới hạn nhất định hoặc sử dụng đòn bẩy tài chính
quá mức sẽ dẫn đến kết quả hoạt động thấp. Điều này có thể nhìn rõ trên thị trường
ngân hàng, khi ngân hàng chạy đua thị phần, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất
huy động trong một thời gian nhất định và dự báo doanh nghiệp sẽ tăng cường vay
khi tăng trưởng chung của nền kinh tế ở mức cao. Vấn đề phát sinh là việc tăng lãi
suất huy động đẩy tỷ lệ đòn bẩy tài chính lên cao. Tuy nhiên, việc giải ngân của
ngân hàng lại hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu vốn và khả năng hấp thụ của doanh
nghiệp. Khi ngân hàng huy động nhiều nhưng doanh nghiệp không vay khiến nguồn
48
vốn ứ đọng, doanh thu của ngân hàng thấp trong khi chi phí lãi vay tăng cao, kết
quả là hiệu quả kinh doanh thấp. Điều này rất phổ biến đối với các quốc gia có hệ
thống tài chính, ngân hàng đang phát triển, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào vốn vay
ngân hàng hoặc các nền kinh tế đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng
không bền vững. Như vậy, đòn bẩy tài chính có thể tăng trưởng cùng chiều hoặc
ngược chiều với kết quả hoạt động của ngân hàng.
Đối với chi phí hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Các nghiên cứu
cho thấy xu thế hiện nay là các công ty tiến đẩy mạnh các hoạt động R&D nhằm
củng cố vị thế của mình trên thị trường bằng cách cải thiện doanh số bán hàng. Tuy
nhiên, những hiện nay vẫn chưa đồng thuận về những tác động của R&D tới thu
nhập và hiệu suất tài chính. Trước hết, Sougiannis (1994) cho rằng việc tăng chi phí
nghiên cứu sẽ làm tăng thu nhập ròng trong tương lai của doanh nghiệp. Chan
(1990) cho rằng chi phí nghiên cứu tăng sẽ làm giá cổ phiếu tăng. Canibano và
Garcia-Ayuso (2000) khẳng định lợi nhuận tăng cùng với chi phí R&D tăng.
Tuy nhiên nghiên cứu của Morbey (1989) cho thấy không có bất kỳ mối tương
quan nào giữa chi phí R&D và tăng trưởng lợi nhuận. Bên cạnh đó, Sundaram và
John (1996) cũng khẳng định không tìm thấy một mối quan hệ nào giữa chi phí R &
D và giá chứng khoán. Hai tác giả nhận thấy rằng phản ứng của thị trường phụ
thuộc vào mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực cụ thể thay vì phụ thuộc vào chi phí
R&D. Bên cạnh đó, việc tăng chi phí R&D tại một thời điểm nhất định, là một khía
cạnh cho thấy doanh nghiệp, ngân hàng chưa phát huy hết được hiệu quả về vốn do
chưa có đủ thông tin về thị trường, khách hàng, sản phẩm, nghĩa là hiệu quả hoạt
động chưa tốt, điều này áp dụng cho cả doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói
riêng. Trong nghiên cứu của mình, tác giả giả định có mối quan hệ giữa chi phí
R&D với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Ở phần trên tác giả đã quyết định lựa chọn sử dụng hai chỉ số là: Đòn bẩy tài
chính Leverage và chi phí R&D là đại diện để đánh giá mức độ bất đối xứng của
thông tin. Ở trên ta cũng đã kết luận thông tin bất đối xứng biến thiên cùng chiều
với đòn bẩy tài chính Leverage và chi phí R&D. Do đó, tác giả đưa ra hai giả thuyết
49
nghiên cứu để qua đó đánh giá sự tác động của thông tin bất đối xứng tới hiệu quả
hoạt động của ngân hàng, gồm:
- Giả thuyết H1.1: Chi phí R&D có tác động tới hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
- Giả thuyết H1.2: Chỉ số đòn bẩy tài chính Leverage có tác động tới hiệu quả
hoạt động của ngân hàng.
Nếu R&D và Leverage có tác động ngược hay thuận chiều tới hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thì ta có thể có kết luận tương tự về tác động của thông tin bất
đối xứng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
2.4.2. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và thông tin bất đối xứng
Mặc dù có nhiều nghiên cứu trước đây về QTCT, tuy nhiên còn ít nghiên cứu
về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và QTCT và mức độ thông tin bất đối
xứng. Nghiên cứu của Shleifer và Vishny (1997), Perotti và Thadden (2003),
Pawlina và Renneboog (2005) và Florackis và Ozkan (2009) cho thấy số cổ đông
càng lớn sẽ tỷ lệ nghịch với mức độ bất đối xứng thông tin và cải thiện hiệu quả
hoạt động của công ty. Ngược lại, nghiên cứu của Heflin và Shaw (2000) và
O'Neill và Swisher (2003), Belghitar và cộng sự (2011) cho thấy sở hữu tập trung
nhiều hơn sẽ khiến mức độ thông tin bất đối xứng cao hơn. Các nghiên cứu xem xét
mối quan hệ giữa quản trị công ty và bất đối xứng thông tin thường tập trung vào
một số khía cạnh hạn chế, các vấn đề cụ thể của quản trị công ty. Cai và cộng sự.
(2006), Hillier và McColgan (2006), Kanagaretnam và cộng sự (2007) và Holm và
Scholer (2010) thấy rằng HĐQT độc lập có liên quan ngược chiều với thông tin bất
đối xứng. Trong khi, Chen và Nowland (2010) cho rằng tăng thành viên độc lập
trong HĐQT sẽ đảm bảo lợi ích tốt hơn cho các cổ đông thiểu số. Wruck (1993) và
Kang, Kumar và Lee (2006) nghiên cứu về mức độ quan trọng của lương thưởng
đối với các giám đốc điều hành trong việc giảm thông tin bất đối xứng. Wruck
(1993 ) và Kang , Kumar và Lee (2006 ) kiểm định về vai trò của lương của giám
đốc điều hành trong việc giảm vấn đề mâu thuẫn giữa nhà quản lý và chủ sở hữu.
50
Chi và Scott-Lee (2010) cho rằng dòng tiền tự do càng lớn (free cash flow) càng lớn sẽ
ảnh hưởng đến hiệu quả QTCT. Chen và cộng sự . (2013 ) thấy rằng nhu cầu tài chính
bên ngoài tỷ lệ nghịch với tính bất đối xứng thông tin. Belghitar và Khan (2011 ) cho
rằng cơ chế quản trị nội bộ hiệu quả hơn đối với công ty có cơ hội tăng trưởng đầu tư
cao, trong khi cơ chế quản trị bên ngoài (ví dụ quản lý thị trường vốn) sẽ hiệu quả hơn
đối với các công ty có cơ hội tăng trưởng đầu tư thấp. Hallman và cộng sự. (2005) cho
rằng quản lý của ban giám đốc và động lực về lương của CEO có thể hoạt động như
một cơ chế có thể thay thế nhau. Nếu trong trường hợp này, mức độ thông tin bất đối
xứng cao có thể dẫn đến hoạt động quản trị kém đi và lương trả cho CEO cao hơn.
Tương tự, Williamson (1983) đồng ý rằng quản lý của ban giám đốc và thị trường đối
với kiểm soát công ty có thể hoạt động thay thế nhau như một cơ chế thay thế. Kết hợp
với lý thuyết chi phí (Demsetz and Lehn (1985), cho thấy các công ty với mức độ
thông tin bất đối xứng cao sẽ thuê ít thuê các giám đốc quản lý tập trung trong khi dựa
nhiều hơn vào thị trường để thắt chặt các hoạt động của nhà quản lý. Bởi vì quản trị có
thể đạt được thông qua nhiều kênh khác nhau, chúng ta tin tưởng rằng có tồn tại tác
động của thông tin bất đối xứng đến các cơ chế QTCT.
Nghiên cứu của Bushman và Smith (2003) nhấn mạnh thông tin trong báo cáo
tài chính đóng vai trò quan trọng như là nguồn thông tin chính đối với các nhà đầu
tư và nhà làm luật. Hai tác giả nhận định thông tin báo cáo tài chính không chỉ giúp
hạn chế các vấn đề liên quan đến thông tin bất đối xứng mà còn giúp HĐQT đưa ra
các quyết định quản lý quan trọng. Trong đó báo cáo tài chính giúp giảm các lựa
chọn đối nghịch và rủi ro thanh khoản, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính
của ngân hàng. Đồng thời giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro khi đầu tư. Bên
cạnh đó, các nghiên cứu trước đó đã chứng minh có mối quan hệ giữa lợi nhuận
kiếm được và kết quả điều hành của các nhà quản lý cao cấp.
Healy và Palepu (2001) cung cấp những lý thuyết rộng hơn về cung cấp thông
tin tự nguyện. Họ liệt kê những động lực phía sau các quyết định công bố thông tin.
Một trong những động lực chính là việc tham gia vào các giao dịch trong thị trường
vốn. Nói chung, các nhà quản lý có thông tin đầy đủ hơn so với các nhà đầu tư, khi
51
tham gia vào thị trường vốn, các nhà quản lý có xu hướng cung cấp thông tin tự
nguyện nhiều hơn nhằm giảm vấn đề thông tin bất đối xứng, giảm chi phí tài chính
bên ngoài, đồng thời đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.
Các nghiên cứu trước đó cũng tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa cung
cấp thông tin tự nguyện và vấn đề QTCT. Ví dụ, Eng và Mak (2003) kiểm định tác
động của cấu trúc sở hữu và thành phần HĐQT đối với hoạt động công bố thông tin
tự nguyện. Họ phát hiện ra rằng khi các nhà quản lý có mức sở hữu thấp và sở hữu
của chính phủ ở mức cao sẽ gắn liền với mức công bố thông tin tốt hơn. Họ cũng
chứng minh số lượng các thành viên bên ngoài càng nhiều thì hoạt động công bố
thông tin càng giảm.
Nghiên cứu này khám phá các yếu tố của QTCT có thể được sử dụng để kiểm
soát vấn đề đại diện (agency problem) hoặc bằng cách tăng cường các hoạt động
giám sát hoặc bằng cách khuyến khích các hoạt động quản lý. Các yếu tố đó có thể
là tính độc lập và tích cực trong hoạt động của HĐQT, yếu tố về lương thưởng đối
với các nhà quản lý cấp cao nhằm giảm những hành vi mang tính chủ quan của nhà
quản lý có thể tác động tiêu cực đến hoạt động của công ty. Một yếu tố khác có thể
đề cập đến mức độ tập trung sở hữu của các cổ đông, điều này khác phức tạp do
việc sở hữu tập trung có thể theo dõi chặt chẽ hoạt động của các nhà quản lý và
kiểm soát hoạt động của các nhà quản lý sao cho có lợi nhất, tuy nhiên các cổ đông
chi phối cũng có thể khuyến khích các nhà quản lý điều hành công ty theo hướng có
lợi nhất cho mình mà ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Yếu tố
khác đó là việc vay nợ hay sử dụng đòn bẩy tài chính cải thiện hoạt động giám sát
hay nói ngược lại việc cải thiện hoạt động giám sát và công bố thông tin giúp hoạt
động vay nợ hoặc sử dụng đòn bẩy tài chính thuận lợi hơn. Chính vì vậy, nợ công ty
cũng có tác động nhất định đến mức độ thông tin bất đối xứng.Do các chỉ số
Leveragel và R&D là đại diện của thông tin bất đối xứng, nên các yếu tố thuộc quản
trị công ty sẽ có tác động tới 2 chỉ số R&D và Leverage. Vì vậy, tác giả đưa ra các
giả thuyết nghiên cứu nhằm qua đó đánh giá một cách gián tiếp sự ảnh hưởng của
các yếu tố thuộc quản trị công ty tới thông tin bất đối xứng như sau:
52
- H2.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới chi phí R&D
- H2.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới chi
phí R&D
- H2.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới chi phí R&D
- H2.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới chi phí R&D
- H2.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới chi
phí R&D
- H2.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới chi phí R&D
- H2.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới chi phí R&D
- H2.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới
chi phí R&D
- H2.9: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới đòn bẩy tài chính Leverage
- H2.10: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới
đòn bẩy tài chính Leverage
- H2.11: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới đòn bẩy tài
chính Leverage
- H2.12: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới đòn bẩy tài
chính Leverage
- H2.13: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới đòn
bẩy tài chính Leverage
- H2.14: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới đòn bẩy tài chính Leverage
- H2.15: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới đòn bẩy tài chính
Leverage
- H2.16: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới
đòn bẩy tài chính Leverage
2.4.3. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động ngân hàng
Có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa QTCT và hiệu quả hoạt động của
công ty. Cách thứ nhất là một đánh giá toàn diện về quản trị công ty bằng một chỉ
53
số mà người ta thường gọi là chỉ số QTCT. Cách thứ hai là nghiên cứu mối quan hệ
của những nhân tố trong quản trị công ty với hiệu quả QTCT.
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng một công ty có HĐQT lớn có tác động
tiêu cực đáng kể đến giá trị công ty (Yermark, 1996). Tương tự như vậy, Eisenberg,
Sundgren và Wells (1998) chứng minh mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô
HĐQT với lợi nhuận tại các công ty nhỏ và vừa tại Phần Lan. Tuy nhiên, nghiên
cứu của Adams và Mehran (2005) không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa
quy mô ban giám đốc và kết quả hoạt động của công ty (tác giả đo lường bằng chỉ
số Tobin’Q). Tuy nhiên Andres và Valleado (2008) chứng minh có mối quan hệ phi
tuyến tính giữa quy mô HĐQT và kết quả hoạt động của ngân hàng. Trong nghiên
cứu của mình, các tác giả sử dụng bộ biến số gồm 69 ban giám đốc của các ngân
hàng thương mại lớn tại nhiều quốc gia khác nhau trong giai đoạn 10 năm từ 1995
đến 2005. Hai tác giả chứng minh rằng giới hạn trên của hình U ngược là khoảng 19
thành viên. Các tác giả cũng chứng minh rằng khi số lượng thành viên HĐQT đạt
đến con số 19 sẽ khiến hoạt động của ngân hàng (chỉ số Tobin’Q) bắt đầu suy giảm.
Nghiên cứu này gắn liền với quan điểm của Fama và Jensen (1983) là quy mô Hội
đồng quản trị phản ánh phạm vi và tính phức tạp trong hoạt động của các công ty.
Một nghiên cứu của Rose (2007) đã chỉ ra rằng không có mối quan hệ nào số lượng
thành viên là nữ giới trong Hội đồng quản trị tới thông tin bất đối xứng mà đại diện
cho thông in bất đối xứng ở đây là biến Tobin’Q.
Jensen và Mecking (1976) phát triển một mô hình giải thích về vấn đề mâu
thuẫn giữa chủ sở hữu và nhà quản lý trong công ty. Những kết quả nghiên cứu của
hai tác giả đã cung cấp một khía cạnh bên trong về mối quan hệ giữa sở hữu của các
nhà quản lý với vấn đề đại diện. Họ chứng minh rằng khi các nhà quản lý có ít sở
hữu thì vấn đề đại diện là rất lớn và vì vậy, các cổ đông buộc phải dựa vào cơ chế
quản trị bên ngoài để làm giảm bớt vấn đề đại diện này. Trong nghiên cứu khác của
DeYoung và cộng sự (2009), các tác giả chứng minh lợi nhuận của ngân hàng gắn
liền với lợi ích của các nhà quản lý được ngân hàng thuê. Nghiên cứu khác của
Ofek và Yermack (2000) chứng minh lương là động lực quan trọng đối với các nhà
quản lý có mức độ sở hữu thấp. Nói tóm lại, lương và sở hữu cổ phần của các nhà
54
quản lý có mối tương quan nhất định đến hoạt động quản trị cũng như tác động đến
2.4.3.1. Cách tiếp cận thông qua chỉ số quản trị công ty
hiệu quả hoạt động của ngân hàng .
Các nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa quản trị công ty (đại diện bởi
chỉ số quản trị công ty) và tình hình hoạt động của công ty. Rất nhiều nghiên cứu sử
dụng mối tương quan và hồi quy để kiểm tra mối quan hệ này. Kết quả rất đa dạng
do phụ thuộc vào yếu tố thời gian thu thập dữ liệu và các điều kiện cụ thể của quốc
gia đó. Gompers, Ishii & Metrick (2003) đã kiểm tra mối quan hệ giữa quản trị công
ty và tình hình hoạt độgn của 1.500 công ty niêm yết lớn của Mỹ. Chỉ số quản trị
công ty bao gồm quyền bỏ phiếu, tiếp quản mang tính thù địch v..v.. được sử dụng
như là đại diện cho các yếu tố quản trị công ty. Tình hình hoạt động được đo bằng
Tobin Q, lợi nhuận, tăng trưởng doanh thu. Kết quả cho thấy các công ty với quyền
lợi của các cổ đông cao hơn sẽ có giá trị lớn hơn, nghĩa là Tobin’s Q, lợi nhuận lớn
hơn, tăng trưởng doanh thu cao hơn, và chi phí vốn thấp hơn.
Brown (2004) nghiên cứu mối quan hệ giữa điểm quản trị công ty của họ (Gov –
Score) và tình hình hoạt động của công ty Mỹ được đại diện bởi tình hình hoạt động
(Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận, tăng trưởng doanh thu), định giá
(Tobin’s Q) và trả cổ tức cổ đông (lợi tức và việc mua lại cổ phiếu). Các kết quả chỉ ra
rằng trong năm 2002, các công ty có chỉ số Gov – Score thấp là những công ty có tình
hình hoạt động kém (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và tỷ suất lợi nhuận thấp hơn),
định giá thấp hơn (Tobin’s Q thấp hơn) và trả ít cổ tức hơn cho các cổ đông.
Epps và Cereola (2008) phân tích mối quan hệ giữa quản trị công ty và tình
hình hoạt động của công ty sử dụng chỉ số Corporate Governance Quotient, được
cung cấp bởi ISS (Institutional Shareholder Services) cho hơn 800 công ty của Mỹ
từ năm 2002 đến 2004. Kết quả chỉ ra rằng không có mối tương quan nào giữa tình
hình hoạt động của công ty với đánh giá về quản trị công ty của các công ty này.
Daines, Gow & Larcker (2008) đo lường tình hình hoạt động của công ty bằng
các biến hiệu suất hoạt động (lợi nhuận trên tổng tài sản ROA), định giá (Tobin’s Q
55
và lợi nhuận của cổ phiếu). Nghiên cứu này cho thấy CGQ cao hơn thì Tobin’s Q
thấp. Có 2 nguyên nhân của kết quả này do (i) quản trị công ty là lựa chọn bên trong
của chính công ty hoặc (ii) có những sai số trong việc đánh giá quản trị công ty.
Tương tự, Daines, Gow & Larcker (2009), Vintila. G và Gherghina (2012) đã
nghiên cứu mối quan hệ thực nghiệm giữa các đánh giá quản trị công ty và tình hình
hoạt động của công ty niêm yết trên thị trường chứng khóan Mỹ. Nghiên cứu đưa ra
kết quả mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa các chỉ số phụ về quản trị công ty (kiểm
toán, cấu trúc các hội đồng quản trị, quyền cổ đông và sự bồi thường được
cung cấp bởi Institutional Shareholder Services và tình hình hoạt động của công
ty. CGI có mối tương quan tỷ lệ nghịch với tỷ lệ đòn bẩy tài chính, Tobin’s Q
nhưng có mối tương quan tỷ lệ thuận với quy mô công ty. Với hồi quy, các nghiên
cứu chỉ ra rằng cứ tăng 1% CGI thì sẽ giảm 4% Tobin’s Q, cứ tăng 1% CGI sẽ giảm
9% giá trị sổ sách. Mối quan hệ giữa CGI và ROA chưa được xác định. Ngược lại,
B, Jang Hasung, Kim (2003) xem xét ảnh hưởng của quản trị công ty lên giá trị
công ty ở Hàn Quốc. Kết quả chỉ ra mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa chỉ số quản trị
công ty và tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách và Tobin’s Q. Một nghiên cứu
khác được thực hiện bởi Anderson. A và Gupta. P (2009) so sánh giữa các quốc gia
về quản trị công ty (được đo lường bởi Corporate Governance Quotient) và tình
hình hoạt động của công ty. Kết quả cho thấy mối tương quan tỷ lệ thuận và tỷ lệ
2.4.3.2. Cách tiếp cận thông qua một số nhân tố của quản trị công ty tác
động đến hiệu quả hoạt động
nghịch phụ thuộc vào cấu trúc tài chính của quốc gia và hệ thống pháp lý.
Mối quan hệ giữa số lượng thành viên Hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
Có 2 trường phái khác nhau về mối quan hệ giữa quy mô của Hội đồng quản
trị (HĐQT) và hiệu suất công ty. Trường phái đầu tiên cho rằng quy mô của HĐQT
càng nhỏ thì đóng góp càng nhiều vào thành công của công ty (Lipton and Lorsch,
1992; Jensen, 1993; Yermack, 1996). Trường phái thứ hai lại cho rằng HĐQT với
quy mô lớn hơn sẽ làm tăng hiệu suất công ty. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô
56
HĐQT lớn sẽ hỗ trợ và tư vấn quản lý công ty hiệu quả hơn do sự phức tạp của môi
trường kinh doanh và văn hóa công ty (Klein, 1998). Thêm vào đó, quy mô HĐQT
lớn hơn sẽ quy tập được nhiều thông tin hơn. Vì vậy, hiệu suất công ty sẽ được nâng
cao với quy mô HĐQT lớn hơn (Dalton and ctg, 1999).
Số lượng thành viên hội đồng lớn sẽ gặp khó khăn trong quá trình giám sát và
kết hợp giữa các thành viên cho các quyết định nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Khi số
lượng thành viên HĐQT quá lớn, các thành viên gặp vấn đề “người đi xe miễn phí”
(free rider). Một số thành viên không tích cực tham gia vào hoạt động của Hội
đồng, mà trông chờ vào ứng xử của các thành viên khác. Điều này làm cho hoạt
động giám sát và kiểm soát ban giám đốc từ phía HĐQT trở nên kém hiệu quả và
vấn đề đại diện sẽ gia tăng. Các nghiên cứu của tác giả như Eisenberg và các cộng
sự (1998); Yermack (1996) cho rằng quy mô HĐQT và giá trị công ty có mối quan
hệ âm. Các nghiên cứu của các tác giả Singh và Davidson (2007) hay Cornett và
cộng sự (2008) cũng cho rằng qui mô HĐQT có quan hệ ngược chiều với: lợi
nhuận, hiệu quả sử dụng tài sản hay hiệu quả hoạt động của công ty. Trong các
nghiên cứu khác của các tác giả Jensen (1993); Kyereboah (2007) cho rằng qui mô
của HĐQT nếu được giới hạn thì hiệu quả hoạt động giám sát sẽ tốt nhưng việc trao
đổi thông tin và ra quyết định sẽ gặp khó khăn hơn.
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa thành viên nữ thuộc hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng
Thành viên nữ thuộc HĐQT là đối tượng xuất hiện thường xuyên trong các
nghiên cứu thực nghiệm. Họ phản ánh sự đặc trưng, đa dạng của HĐQT (Dutta và
Bose, 2006). Hơn nữa, theo nghiên cứu của Smith và cộng sự. (2006), có ba nguyên
nhân chính : (1) Thành viên nữ thường có hiểu biết về thị trường sâu rộng hơn so
với thành viên nam. Do đó, những hiểu biết của họ sẽ làm tăng tính hiệu quả trong
những quyết định của HĐQT; (2) Việc thành viên nữ xuất hiện trong HĐQT sẽ tạo
57
nên hình ảnh đẹp hơn cho công ty trong mắt cộng đồng và đóng góp tích cực vào
hiệu suất của công ty; (3) Các thành viên khác trong HĐQT sẽ được nâng cao hiểu
biết về môi trường kinh doanh trong trường hợp thành viên nữ được bổ nhiệm.
Thêm vào đó, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng thành viên nữ thuộc HĐQT sẽ gây
ảnh hưởng tích cực đến các nhân viên nữ khác trong công ty trong việc phát triển sự
nghiệp. Kết quả là hiệu suất công ty sẽ được nâng cao mọi mặt (trực tiếp và gián
tiếp) với sự có mặt của thành viên nữ trong HĐQT.
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới hiệu
quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa trình độ của Hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
HĐQT là một cơ chế quản trị nội bộ công ty và là hệ thống kiểm soát
cao nhất có chức năng giám sát các quyết định của các cấp quản lý một cách hiệu
quả để gia tăng hiệu quả hoạt động của công ty.
Vai trò chính của HĐQT là quản trị nội bộ công ty (Fama, 1980). HĐQT là bộ
máy điều hành của công ty (Fama và Jensen, 1983). Những quyết định đúng đắn
của HĐQT sẽ nâng cao hiệu suất công ty. Để đạt được điều này, thành viên HĐQT
phải được trang bị đầy đủ kiên thức về tài chính, kế toán, marketing, thông tin hệ
thống, luật pháp và các mảng khác liên quan đến quá trình quản lý.
Những yêu cầu trên đồng nghĩa với việc mỗi thành viên trong HĐQT sẽ đóng
góp một phần quan trọng và tích cực trong quá trình quản trị công ty và hiệu suất
công ty hay nói cách khác hiệu quả hoạt động của công ty phụ thuộc vào trình độ
chuyên môn của các thành viên HĐQT (Adams và Fereira 2007) (Nicholson và
Kiel, 2004; Fairchild và Li, 2005; Adam và Ferreira, 2007).
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
58
Mối quan hệ giữa kinh nghiệm làm việc của hội đồng quản trị với hiệu quả
hoạt động của ngân hàng
Có nhiều quan điểm cho rằng thành viên HĐQT với thâm niên làm việc cao sẽ
có nhiều kinh nghiệm trong quản lý hơn. Những kinh nghiệm này được cho là sẽ
đóng góp nâng cao hiệu suất công ty nhiều hơn. Tuy nhiên, thành viên lâu năm
thường có xu hướng quyết liệt và độc tài hơn. Những phẩm chất khác nhau của
thành viên HĐQT sẽ quyết định sự thành bại của công ty (Carlson và Karlsson,
1970). Thành viên HĐQT với độ tuổi trung bình cao hơn sẽ phải đối mặt với nhiều
áp lực hơn trong việc thay đổi môi trường làm việc và điều này sẽ cản trở việc thực
hiện các quyết định chiến lược (Child, 1975).
Mặc dù có nhiều tranh cãi xung quanh mối quan hệ giữa kinh nghiệm của HĐQT
và hiệu suất công ty, theo lý thuyết về hạn chế nguồn lực, thành viên với nhiều kinh
nghiệm sẽ đối phó tốt hơn trong môi trường kinh doanh bằng cách làm việc theo nhóm
hiệu quả, đóng góp tích cực vào hiệu suất công ty (Wegge và cộng sự., 2008).
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới hiệu quả hoạt
động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa thành viên HĐQT độc lập với hiệu quả hoạt động của
ngân hàng
Sự độc lập của HĐQT lớn hơn được nhận thức như một cơ chế giám sát và giữ
vai trò quan trọng trong việc hạn chế và kiểm soát vấn đề đại diện. Kết quả nghiên
cứu của McKnight và Mira (2003) và Henry (2004) cũng cho thấy chi phí đại diện
sẽ thấp hơn nếu số lượng thành viên độc lập trong HĐQT cao hơn. Nghiên cứu
Fama và Jensen (1983) khám phá ra rằng các thành viên HĐQT bên trong do sở hữu
nhiều thông tin hơn thường cấu kết với các nhà quản trị để đưa ra những quyết định
chống lại các cổ đông. Do vậy, HĐQT với các thành viên bên ngoài sẽ làm tăng khả
năng giám sát nên sẽ loại bỏ được cơ bản vấn đề đại diện. Bhagat và Black (2002)
sử dụng tỷ lệ các thành viên độc lập trừ tỷ lệ các thành viên bên trong làm biến đại
59
diện và kết quả cho thấy rằng mức độ độc lập của HĐQT có tương quan dương có ý
nghĩa đến hiệu quả trong ngắn hạn.
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới hiệu
quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa cổ đông lớn với hiệu quả hoạt động của của ngân hàng
Các nghiên cứu thực nghiệm về cổ đông lớn của Shleifer và Vishny (1997) kết
luận rằng các cổ đông lớn có ảnh hưởng quan trọng trong điều hành quản lý công
ty: (1) Cổ đông nhỏ sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng từ việc lạm
dụng quyền lực trong quá trình vận hành công ty; (2) Sự quản lý khắt khe của nhóm
cổ đông lớn có thể cản trở hoạt động của công ty. Việc điều hành quản lý sẽ không
thay đổi để thích ứng kịp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.
Mặc dù có nhiều tranh cãi về tác động của cổ đông lớn tới hoạt động công ty,
nhiều nghiên cứu đều nhận thấy sự quan trọng của họ. Cụ thể, cổ đông lớn đóng vai
trò quan trọng trong việc điều hành công ty do họ có đủ kỹ năng, thời gian và theo
sát hoạt động của công ty. Denis và McConnell (2003), Becker và cộng sự. (2011)
nhận định quyền lực điều hành tập trung vào nhóm cổ đông lớn về cơ bản sẽ tác
động tích cực đến công ty.
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Mối quan hệ giữa quyền sở hữu nhà nước với hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Cổ đông nhà nước cũng như các cổ đông khác, cũng có những xung đột lợi ích
nhưng cũng phải đảm bảo hiệu quả hoạt động cho nhà nước. Ngoài ra, các công ty có
cổ phần nhà nước thường xuất phát từ những công ty nhà nước cổ phần hóa và có
những ưu đãi hơn so với các công ty cổ phần khác như ưu đãi hơn từ các chính sách
nhà nước, có nhiều tài sản hơn, có mối quan hệ với ngân hàng nên việc tiếp cận các
nguồn vốn bên ngoài dễ dàng hơn, chi phí vốn thấp hơn (Borisova và Megginson,
2011; Sun và cộng sự, 2002) nên hiệu quả hoạt động được kỳ vọng cao hơn
60
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
Mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài với hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Các cổ đông nước ngoài thường là những nhà đầu tư chuyên nghiệp, kỹ năng
hiện đại kiểm soát và ngăn chặn những hành động gây thiệt hại cho cổ đông của
người quản lý. Theo nghiên cứu của Vinh (2010) về sở hữu nhà đầu tư nước ngoài
trên sàn HOSE từ 2007 đến 2009 thì các nhà đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào
những công ty lớn, tỷ lệ vốn hóa thị trường trên vốn chủ sở hữu cao và có tỷ lệ nợ
thấp. Ngoài ra, Jeon và cộng sự (2010) cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài thích
những công ty có lớn, ổn định, có nhiều cơ hội đầu tư hơn. Hơn nữa, các nhà đầu tư
nước ngoài thường có kinh nghiệm quản trị, có khả năng điều hành, có quan hệ thị
trường và đối tác lớn nên thường hỗ trợ công ty hoạt động hiệu quả hơn
Giả thuyết nghiên cứu:
H3.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới
hiệu quả hoạt động của ngân hàng
2.5. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết
Sau khi tổng quan các lý thuyết liên quan đến QTCT, thông tin bất đối xứng
và hiệu quả hoạt động ngân hàng, tác giả có các giả thuyết như sau:
Phần tác động của thông tin bất đối xứng tới hiệu quả hoạt động của ngân
hàng, có 2 giả thuyết:
- H1.1: Chi phí R&D có tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
- H1.2: Chỉ số đòn bẩy tài chính Leverage có tác động tới hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
Phần tác động của quản trị công ty tới thông tin bất đối xứng, có 16 giả thuyết:
- H2.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới chi phí R&D
61
- H2.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới chi
phí R&D
- H2.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới chi phí R&D
- H2.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới chi phí R&D
- H2.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới chi
phí R&D
- H2.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới chi phí R&D
- H2.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới chi phí R&D
- H2.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới chi
phí R&D
- H2.9: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới đòn bẩy tài chính Leverage
- H2.10: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới đòn
bẩy tài chính Leverage
- H2.11: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới đòn bẩy tài chính
Leverage
- H2.12: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới đòn bẩy tài chính
Leverage
- H2.13: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới đòn bẩy
tài chính Leverage
- H2.14: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới đòn bẩy tài chính Leverage
- H2.15: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới đòn bẩy tài chính
Leverage
- H2.16: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới đòn
bẩy tài chính Leverage
Phần tác động của quản trị công ty tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, có 8
giả thuyết:
- H3.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
62
- H3.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới hiệu
quả hoạt động của ngân hàng
- H3.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
- H3.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới hiệu quả hoạt
động của ngân hàng
- H3.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới hiệu quả
hoạt động của ngân hàng
- H3.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
- H3.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới hiệu quả hoạt động của
ngân hàng
- H3.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới hiệu
quả hoạt động của ngân hàng
Thông tin bất đối xứng - Chi phí R&D - Leverage
Hiệu quả hoạt động của ngân hàng
- ROA
Quản trị công ty - Quy mô của HĐQT - Số lượng thành viên nữ trong HĐQT - Trình độ học vấn của HĐQT - Kinh nghiệm của HĐQT - Số lượng thành viên HĐQT độc lập - Cổ đông lớn - Sở hữu nhà nước - Tỉ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài
Biến kiểm soát - Năm nghiên cứu - Quy mô tài sản của ngân hàng - Số năm hoạt động
Hình 2.4. Mô hình nghiên cứu
63
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong chương II, tác giả đã tổng quan những mô hình tiêu biểu nghiên cứu về
đề tài và đề xuất mô hình nghiên cứu của luận án với tám yếu tố thuộc quản trị công
ty tác động đến thông tin bất đối xứng, các yếu tố thuộc quản trị công ty tác động
đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng như tác động của thông tin bất đối xứng
tác động tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
Đồng thời, tác giả tổng quan các nghiên cứu trước đó, tìm ra mô hình phù
hợp, tổng kết thực tiễn tại Việt Nam để đưa ra các giả thuyết và mô hình nghiên cứu
cho luận án.
Chương III, tác giả sẽ giới thiệu về phương pháp nghiên cứu mà tác giả sẽ sử
dụng để kiểm tra sự phù hợp của mô hình cũng như các giả thuyết tác giả đã nêu ra
ở chương 2. Nội dung chương bao gồm hai phần chính, thứ nhất là: thiết kế nghiên
cứu và thứ hai là nghiên cứu định lượng.
3.1. Thiết kế nghiên cứu
3.1.1. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và
đo lường bằng phần mềm SPSS phiên bản 18.
Tác giả dự kiến nghiên cứu định lượng với 16 ngân hàng thương mại cổ phần
đã niêm yết trên thị trường chứng khoán (VN-index và Hnx-index) và các ngân
hàng cổ phần được giao dịch trên thị trường OTC trong giai đoạn từ giai đoạn 2006
(thời điểm bắt đầu mở cửa) đến năm 2014, gồm cả các ngân hàng thương mại cổ
phần và ngân hàng thương mại mà nhà nước nắm cổ phần chi phối. Dữ liệu được
thu thập từ các nguồn thông tin thứ cấp và dữ liệu được công bố công khai của các
ngân hàng bao gồm báo cáo thường niên, các bản báo cáo tài chính đã được kiểm
toán, các báo cáo và nguồn dữ liệu khác trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông
(GSM), các thông tin khác từ trang web của ngân hàng và các web khác liên quan.
64
Dữ liệu thu thập được dùng để phân tích tương quan, kiểm định mô hình nghiên cứu
và các giả thuyết bằng phương pháp hồi quy bội với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS
phiên bản 18. Thời gian thực hiện nghiên cứu từ năm 2014 đến năm 2015.
3.1.2. Mẫu nghiên cứu của luận án
3.1.2.1. Tổng thể nghiên cứu
Tổng thể nghiên cứu của luận án được xác định là những ngân hàng đã niêm
yết trên hai sàn chứng khoán (VN-index và Hnx-index) và các ngân hàng cổ phần
được giao dịch trên thị trường OTC trong giai đoạn từ giai đoạn 2006 (thời điểm bắt
3.1.2.2. Chọn mẫu nghiên cứu
đầu mở cửa) đến năm 2014.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên được tác giả quyết định sử dụng trong
chọn mẫu nghiên cứu. Với 16 ngân hàng trên tổng số 36 NHTM của Việt nam,
trong thời gian từ 2006 đến 2014, với mỗi năm, mỗi ngân hàng được coi là một biến
quan sát, như vậy tổng thể ta có 144 biến quan sát, riêng ngân hàng HBB bị sáp
nhập năm 2012 nên chỉ có số liệu tới năm 2011, như vậy tổng số biến quan sát chỉ
còn là 141 biến quan sát.
- Về số lượng ngân hàng:
Đến cuối năm 2014, số lượng ngân hàng của toàn hệ thống là 36 ngân hàng.
Đến cuối 2015 số lượng ngân hàng trên toàn hệ thống chỉ còn lại 28 ngân hàng.
Như vậy nếu tính đến hết năm 2015 thì số lượng ngân hàng nghiên cứu là 15 ngân
hàng (ngân hàng HabuBank đã bị sáp nhập nên số mẫu chỉ còn 15 ngân hàng từ số
mẫu 16 ngân hàng ban đầu) trên tổng số 36 ngân hàng, tức là chiếm khoảng 53,57%
số lượng ngân hàng của toàn hệ thống.
- Về quy mô tổng tài sản, mẫu nghiên cứu chiếm quy mô khoảng 69,56% tổng
tài sản của các ngân hàng
- Về quy mô vốn điều lệ, mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 63,15% tổng vốn điều
lệ của các ngân hàng
- Về số lượng các ngân hàng thương mại nhà nước:
65
Đến cuối năm 2015, toàn hệ thống còn 4 ngân hàng thương mại nhà nước là:
Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam. Trong số này, tác giả tiến hành thu thập số liệu của 3 ngân hàng, riêng
ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chưa cổ phần hóa nên
luận án không nghiên cứu. Như vậy, số lượng ngân hàng thương mại nhà nước
trong mẫu nghiên cứu chiếm 75% trên tổng mẫu.
Như vậy, có thể khẳng định, mẫu nghiên cứu mang tính đại diện khá cao, đủ
điều kiện để đưa vào nghiên cứu.
3.2. Nghiên cứu định lượng
3.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H1.1 và H1.2, đồng thời
đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và các
biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H2.1, H2.2, H2.3, H2.4,
H2.5, H2.6, H2.7 và H2.8, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến quản
trị công ty tới biến phụ thuộc là R&D.
- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H2.9, H2.10, H2.11,
H2.12, H2.13, H2.14, H2.15 và H2.16, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của
các biến quản trị công ty tới biến phụ thuộc là Leverage.
- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H3.1, H3.2, H3.3, H3.4,
H3.5, H3.6, H3.7 và H3.8 đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến quản
trị công ty và các biến kiểm soát tới biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng thương mại cổ phần của Việt nam.
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu sau khi được thu thập, tác giả tiến hành lọc dữ liệu, làm sạch dữ liệu,
mã hóa, nhập liệu và sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 18 để phân tích dữ liệu.
Tiếp theo, dữ liệu đã được làm sạch và nhập vào phần mềm, vì mỗi nhân tố
66
chỉ được đo lường bằng một biến quan sát nhất định nên các bước kiểm tra độ tin
cậy của các thang đo, phân tích nhân tố sẽ được bỏ qua. Nghiên cứu sẽ đi thẳng vảo:
(1) Phân tích mối quan hệ giữa:
- Các biến độc lập thuộc vấn đề quản trị công ty và các biến phụ thuộc đại diện
cho thông tin bất đối xứng
- Các biến quản trị công ty và biến kiểm soát với biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt
động của ngân hàng được đo thông qua chỉ số lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)
- Các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và biến kiểm soát với biến phụ
thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đo thông qua chỉ số lợi nhuận trên
tổng tài sản (ROA)
(2) Phân tích mô hình hồi quy bội:
Mô hình hồi quy bội MLR (Multiple Linear Regression) biểu diễn mối quan
hệ giữa các biến độc lập có số lượng từ hai biến trở lên với một biến phụ thuộc định
lượng (Nguyễn Đình Thọ, 2011).
Để kiểm định mối quan hệ và chiều tác động giữa các biến độc lập thuộc
yếu tố quản trị công ty và thông tin bất đối xứng, mối quan hệ và chiều tác động
giữa các biến độc lập thuộc yếu tố quản trị công ty với nhau, mối quan hệ và
chiều tác động giữa các biến thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát với
hiệu quả hoạt động của ngân hàng đánh giá thông qua chỉ số lợi nhuận trên tài
sản (ROA), tác giả sử dụng phương pháp phân tích ma trận tương quan với chỉ
số Pearson correlation coefficient. Hệ số tương quan được ký hiệu là r và có giá
trị trong khoảng -1 ≤ r ≤ +1.
Giá trị r > 0 thể hiện mối tương quan đồng biến giữa các biến phân tích và
ngược lại giá trị r < 0 thể hiện mối quan hệ nghịch biến. Giá trị r = 0 chỉ ra rằng các
biến được đưa vào phân tích không có mối quan hệ với nhau.
| r | → 1: mối quan hệ giữa các biến đưa vào nghiên cứu càng chặt chẽ.
| r | → 0: mối quan hệ giữa các biến được đưa vào phân tích càng yếu.
Sau khi có kết luận sơ bộ về quan hệ tuyến tính giữa các biến độc lập với nhau
67
và với biến phụ thuộc, tác giả sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính để mô hình
hóa mối quan hệ nhân quả của các biến độc lập và các biến kiểm soát (nếu có) với
các biến phụ thuộc. Mô hình hồi quy tuyến tính được chạy và kiểm định với mức ý
nghĩa 5%. Nghiên cứu thực hiện hồi quy bội sử dụng phương pháp Enter, tức là các
biến được đưa vào cùng một lúc để nghiên cứu.
Luận án nghiên cứu sự ảnh hưởng của tất cả các biến độc lập thuộc phạm trù
quản trị công ty tới thông tin bất đối xứng, sự tác động của các biến đại diện cho
thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng thương mại cổ phần Việt Nam, và sự ảnh tác động của các nhân tố thuộc quản
trị công ty và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng TMCP
Việt Nam . Do đó để phân tích được tác động của các biến độc lập, tác giả phân tích
bốn mô hình hồi quy gồm:
Mô hình 1 xem xét sự ảnh hưởng của tất cả các biến nhân tố thuộc phạm trù
quản trị công ty tới biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D.
Mô hình 2 xem xét sự ảnh hưởng của tất cả các biến nhân tố thuộc phạm trù
quản trị công ty tới biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage.
Mô hình 3 xem xét sự tác động của thông tin bất đối xứng và tất cả các biến
kiểm soát tác động tới biến chịu tác động là hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Mô hình 4 xem xét sự tác động của các nhân tố thuộc phạm trù quản trị công
ty và các biến kiểm soát tới biến phụ thuộc là hiệu quả trong hoạt động của ngân
hàng được đo bằng lợi nhuận trên tài sản (ROA).
Phương trình hồi quy bội cho mô hình nghiên cứu 1 tác giả đề xuất như sau:
Y1 = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5 + β6*X6 + β7*X7 + β8*X8+
Trong đó:
Y1 là R&D
X1 là Quy mô của HĐQT
X2 là Số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT
68
X3 là Học vấn của HĐQT, được tính bằng số thành viên HĐQT có bằng đại
học trở lên
X4 là Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT
X5 là Số thành viên HĐQT độc lập
X6 là Có cổ đông lớn trong HĐQT chiếm hơn 5% vốn, biến này nhận 2 giá trị
là 0 và 1
X7 là Nhà nước chủ sở hữu ngân hàng
X8 là Phần trăm cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ
β 0 là hằng số
β 1, β2, β3, β4, β5, β6, β7, β8 là các hệ số hồi quy
là sai số ngẫu nhiên
Phương trình hồi quy bội cho mô hình nghiên cứu 1 tác giả đề xuất như sau:
Y2 = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5 + β6*X6 + β7*X7 + β8*X8+
Trong đó:
Y2 là Leverage
X1 là Quy mô của HĐQT
X2 là Số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT
X3 là Học vấn của HĐQT, được tính bằng số thành viên HĐQT có bằng đại
học trở lên
X4 là Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT
X5 là Số thành viên HĐQT không làm công tác quản lý, hay còn gọi là thành
viên HĐQT độc lập
X6 là Có cổ đông lớn trong HĐQT chiếm hơn 5% vốn, biến này nhận 2 giá trị
là 0 và 1
X7 là Nhà nước chủ sở hữu ngân hàng
X8 là Phần trăm cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ
69
β 0 là hằng số
β 1, β2, β3, β4, β5, β6, β7, β8 là các hệ số hồi quy
là sai số ngẫu nhiên
Phương trình hồi quy bội cho mô hình nghiên cứu 3 tác giả đề xuất như sau:
Y3 = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5+
Trong đó:
Y3 là Hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đo bằng lợi nhuận trên tài sản
(ROA)
X1 là R&D
X2 là Leverage
X3 là Quy mô của ngân hàng
X4 là Số năm hoạt động
X5 là Năm nghiên cứu
β 0 là hằng số
β 1, β2, β3, β4, β5 là các hệ số hồi quy
là sai số ngẫu nhiên
Phương trình hồi quy bội cho mô hình nghiên cứu 4 tác giả đề xuất như sau:
Y4 = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5 + β6*X6 + β7*X7 + β8*X8 +
β9*X9 + β10*X10 + β11*X11+
Trong đó:
Y4 là Hiệu quả hoạt động của ngân hàng
X1 là Quy mô của HĐQT
X2 là Số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT
X3 là Học vấn của HĐQT, được tính bằng số thành viên HĐQT có bằng đại
học trở lên
X4 là Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT
70
X5 là Số thành viên HĐQT không làm công tác quản lý hay còn gọi là thành
viên HĐQT độc lập
X6 là Có cổ đông lớn trong HĐQT chiếm hơn 5% vốn, biến này nhận 2 giá trị
là 0 và 1
X7 là Nhà nước chủ sở hữu ngân hàng
X8 là Phần trăm cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ
X9 là Quy mô của ngân hàng
X10 là Số năm hoạt động
X11 là Năm nghiên cứu
β 0 là hằng số
β 1, β2, β3, β4, β5, β6, β7, β8, β9, β10, β11 là các hệ số hồi quy
là sai số ngẫu nhiên
Kết quả hồi quy được dùng để phân tích:
- Đánh giá mức độ phù hợp hay đánh giá mức độ giải thích biến phụ thuộc bởi
các biến độc lập và biến kiểm soát (nếu có) của mô hình hồi quy thông qua chỉ số R2
- Đánh giá ý nghĩa của mô hình thông qua F-test
- Kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến thông qua hệ số phóng đại
phương sai VIF (Variance Inflation Factor) hoặc giá trị độ chấp nhận (tolerance).
Hệ số VIF ≥ 10 hoặc Tolerance ≤ 0,1 thì biến độc lập có hiện tượng đa cộng tuyến
và cần phải loại khỏi mô hình (Nguyễn Thị Mai Trang và Nguyễn Đình Thọ, 2007).
- Xác định mức độ tác động của các nhân tố tác động đến thông tin bất đối
xứng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng TMCP Việt Nam thông qua hệ số β.
Nhân tố có hệ số β càng lớn thì có thể kết luận là ảnh hưởng càng lớn tới thông tin
bất đối xứng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng được đưa vào nghiên cứu.
71
TÓM TẮT CHƯƠNG III
Chương 3 mô tả các phương pháp nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận
án. Luận án được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng với 4 mô
hình liên tiếp để kiểm tra mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc quản trị công ty với
thông tin bất đối xứng, giữa thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát với hiệu
quả hoạt động của ngân hàng TMCP Việt Nam được tính thông qua lợi nhuận trên
tài sản (ROA) và cuối cùng là giữa các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến
kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Nghiên cứu định lượng sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu 16 trên tổng
số 36 ngân hàng với các thông tin đã được các ngân hàng công bố công khai và xử
lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS phiên bản 18.
Tất cả các bước đã thực hiện trong suốt quá trình nghiên cứu được diễn giải cụ
thể trong chương này. Kết quả phân tích, bình luận, đánh giá cho các nội dung liên
quan được đề cập trong chương tiếp theo.
72
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong chương 4, tác giả sẽ trình bày kết quả nghiên cứu trên cơ sở phân tích
những dữ liệu đã thu thập được. Chương này bao gồm các nội dung:
(1) Tổng quan thực trạng quản trị công ty tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
(2) Thống kê mô tả mẫu.
(3) Kiểm định giả thuyết nghiên cứu.
4.1. Tổng quan Thực trạng quản trị công ty tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam
Hiệp ước ước Basel I có từ năm 1988 tuy vậy mãi năm 2005 các ngân hàng
Việt Nam mới chính thức bắt đầu thực hiện nhưng mức độ thực hiện tuân thủ cũng
như quản trị theo chuẩn mực quốc tế vẫn bộc lộ nhiều hạn chế.
Sau giai đoạn đầu tăng trưởng bùng nổ giai đoạn 2007-2008 (có 20 ngân hàng
tăng vốn điều lệ từ mức thấp nhất 500 tỷ VNĐ lên mức cao nhất 4.450 tỷ VNĐ), hệ
thống các tổ chức tín dụng Việt Nam xuất hiện rất nhiều bất ổn. Thứ nhất là nợ xấu
tăng rất cao, chiếm tới hơn 13% tổng dư nợ tín dụng (Fitch Report, 2010), đây là
một trong những chỉ số minh chứng cho thấy dấu hiệu tiền khủng hoảng.Thứ hai,
căng thẳng thanh khoản toàn hệ thống thường xuyên xảy ra, kéo các ngân hàng
thương mại nhỏ chạy đua lãi suất huy động lên mức rất cao (20%), lãi suất liên ngân
hàng có thời điểm lên tới mức kỷ lục 30%, các ngân hàng sử dụng mọi loại tài sản
(USD, vàng, giấy tờ có giá…) để cầm cố vay VND liên ngân hàng để đảm bảo
thanh khoản. Thứ ba, tình trạng sởhữu chéo diễn ra ở mức độ nghiêm trọng, vi
phạm nhiều quy định của Ngân hàng Trung ương. Nguyên nhân của tình trạng này
là do sự bùng nổ các ngân hàng giai đoạn 2007-2008 với yêu cầu quan trọng lúc đó
là các ngân hàng phải đáp ứng yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu, khoảng 1.000 tỷ
VNĐ đã buộc các ngân hàng phải liên kết lẫn nhau, mượn vốn và sở hữu lẫn nhau
để lách quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Nhóm nguyên nhân chính gồm: Thứ nhất, số lượng các tổ chức tín dụng quá
nhiều so với quy mô nền kinh tế, gây tình trạng cạnh tranh quyết liệt, thiếu lành
73
mạnh giữa các ngân hàng. Thứ hai, hoạt động quản trị rủi ro của các ngân hàng
thương mại rất yếu, không tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ dư
nợ cho vay, có tâm lý “ỷ lại” Ngân hàng Nhà nước khi gặp khó khăn với quan điểm
Ngân hàng Nhà nước không để bất kỳ ngân hàng thương mại nào đổ vỡ. Thứ ba,
tính minh bạch thông tin không được tuân thủ đầy đủ khiến các rủi ro diễn ra trong
thời gian dài mới phát hiện, khó khăn cho việc khắc phục (nợ xấu, sở hữu chéo…).
Thứ tư, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát mức độ tuân thủ luật đối với các ngân
hàng thương mại của các cơ quan chức năng rất hạn chế, không kịp thời phát hiện,
ngăn chặn và xử lý các vi phạm diễn ra hàng ngày tại các ngân hàng thương mại.
Thứ năm, hoạt động huy động - cho vay chứa nhiều rủi ro, chủ yếu là huy động tiền
gửi ngắn hạn để cho vay dài hạn dẫn đến mất thanh khoản. Thứ sáu, do hoạt động
cho vay, phân bổ vốn bất hợp lý. Các khoản vay chủ yếu dành cho các doanh
nghiệp Nhà nước, các tập đoàn, các tổng công ty lớn hoặc các doanh nghiệp có
quan hệ lâu năm với các ngân hàng. Thứ bảy, hoạt động kinh doanh xa rời các
nghiệp vụ cốt lõi của ngân hàng, tập trung đầu tư quá nhiều vào các lĩnh vực rủi ro
như chứng khoán, bất động sản… Cuối cùng, hoạt động cốt lõi của ngân hàng tập
trung chủ yếu vào tín dụng, chưa chú trọng phát triển các dịch vụ ngân hàng khác
như thẻ tín dụng, dịch vụ thanh toán điện tử… Những ngân hàng lớn huy động được
vốn lãi suất thấp đem cho vay liên ngân hàng với lãi suất cao làm vốn chạy lòng vòng
trong hệ thống, gây tăng chi phí vay vốn, đẩy lãi suất vay doanh nghiệp lên rất cao.
Tuy nhiên, khi xem xét các nguyên nhân trên khiến hệ thống các ngân hàng
thương mại gặp rủi ro như hoạt động quản trị rủi ro yếu kém, đầu tư ngoài ngành
tràn lan, sở hữu chéo phổ biến, phân bổ vốn bất hợp lý, không tuân thủ các quy định
ngân hàng… phần lớn đều xoay quanh vấn đề Quản trị công ty (gọi là Corporate
Governance). Một trong những vấn đề liên quan đến Quản trị công ty trong các
ngân hàng thương mại yếu kém được lý giải là do ở Việt Nam, thành phần và cơ
cấu hội đồng quản trị (HĐQT) chưa phù hợp, vai trò của một số thành viên chưa rõ
dàng, bị ảnh hưởng bởi các thành viên khác. Hoạt động còn chưa minh bạch.
74
Một số nghiên cứu cho thấy các ngân hàng thương mại chưa tuân thủ các
nguyên tắc quản trị công ty, còn nhiều lỗ hổng từ khuôn khổ pháp lý cho đến cách vận
hành. Các vấn đề chủ yếu là chưa tuân thủ các quy định của ngân hàng Nhà nước, hệ
thống kiểm soát nội bộ yếu, các chính sách bảo vệ cổ đông nhỏ chưa rõ ràng, thiếu cơ
chế công bố thông tin minh bạch. Quá trình chuyển hóa nhanh chóng của hệ thống ngân
hàng thương mại tại Việt Nam trong thập kỷ vừa qua gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế, gia tăng cạnh tranh quốc tế và yêu cầu thay đổi về cấu trúc hoạt động trong lĩnh
vực này. Việc này đã làm tăng áp lực lợi nhuận đối với ngân hàng thương mại và tạo ra
sự quan tâm đối với việc nâng cao hoạt động quản trị công ty nhằm đạt được thành công
đó. Với các ngân hàng thương mại, quản trị công ty giúp giảm rủi ro, tăng hiệu quả, tăng
tính minh bạch và tăng trưởng bền vững, đồng thời giúp các cơ quan lập pháp và giám
sát quản lý hiệu quả. Đối với các nhà đầu tư (NĐT), quản trị công ty cũng là một chỉ số
để NĐT và thị trường xác định công ty nào được tín nhiệm cao.Từ những vấn đề đã nêu
trên, có thể rút ra những vấn đề còn nổi cộm làm hạn chế hoạt động quản trị của các
NHTM Việt Nam:
Thứ nhất, quản lý rủi ro chưa được tốt. Tỷ lệ nợ xấu, sở hữu chéo, can thiệp của
chính quyền trung ương và địa phương trong hoạt động cho vay của ngân hàng, công tác
thanh tra giám sát ngân hàng… chưa thực sự phản ánh chính xác hoạt động của thị
trường tài chính Việt Nam.
Thứ hai, tại các NHTM, các thành viên độc lập đều thiếu và cộng hưởng với hạn
chế về năng lực của người điều hành dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp.
Thứ ba, mối quan hệ không minh bạch, rõ ràng giữa HĐQT, ban điều hành và ban
kiểm soát dẫn đến tình trạng thiếu tính khách quan đặc biệt là tính độc lập khi thực hiện
chức năng của mình.
Thứ tư, mô hình quản lý và tổ chức của các ngân hàng hiện nay còn thể hiện nhiều
nược điểm. Tại hầu hết các ngân hàng, mô hình tổ chức quản lý hiện tại được phân thành
hai cấp: quản trị điều hành và quản lý kinh doanh. Trong thực tế, sự tách biệt về chức
năng giữa HĐQT và ban điều hành chưa được tách biệt một cách rõ ràng. Điều này dẫn
75
đến một tình trạng là HĐQT một lúc đóng hai vai, vừa là người lập chiến lược vừa là
người thực thi các hoạt động kinh doanh. Đây là một điều không đúng vì chức năng
chính của HĐQT là quản lý và chịu trách nhiệm bảo toàn, phát triển nguồn vốn
cũng như ban hành các qui chế, cơ chế tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Bên
cạnh đó, sự thiếu kết hợp giữa các bộ phân trong NHTM và tổng hợp được các
nguồn thông tin nhằm xây dựng được chiến lược dài hạn cũng là một điểm yếu tồn
tại trong các ngân hàng của Việt Nam.
Thứ năm, quản trị nội bộ trong các NHTM cũng chưa được quan tâm đúng với tầm
quan trọng của mình. Quản trị nội bộ liên quan đến rất nhiều hoạt động như: nguồn nhân
lực, quản trị rủi ro, quản trị khách hàng… Các hoạt động này giúp các NHTM hoạt động
hiệu quả và nắm bắt được thị trường. Tuy vậy, việc đào tạo, nâng cao các kỹ năng cho
nhân viên lại chỉ được đào tạo mang tính chất ngắn hạn, thời vụ, tình thế,không có chiến
lược lâu dài.
Thứ sáu, hiện nay, hoạt động ngân hàng được điều chỉnh bởi Luật các Tổ chức
tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật doanh nghiệp (bắt buộc đối với tất cả các
loại hình ngân hàng), Luật chứng khoán (đối với các ngân hàng niêm yết hoặc IPO)
và các văn bản dưới luật như nghị định về hoạt động của bảo hiểm tiền gửi, nghị
định về phá sản v.v. So với doanh nghiệp nói chung, các quy định đối với ngân
hàng đặt ra yêu cầu cao hơn và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, xét trên góc độ thực tế
triển khai các luật, một số văn bản dưới luật đang được áp dụng chưa phù hợp dẫn
đến mục tiêu đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng chưa được
thực hiện tốt. Hiện tại, còn thiếu các văn bản áp dụng những thông lệ tốt nhất hay
những xu hướng mới trên thị trường. Điều này có thể thấy trong các quy định như
quy định về tỷ lệ an toàn vốn có khoảng cách khá lớn so với thông lệ, còn thiếu
hướng dẫn đo lường, ghi nhận, quản lý rủi ro đối với các công cụ phái sinh, rủi ro
hoạt động, chưa có quy định rõ về thâu tóm doanh nghiệp. Quy định về phá sản
chưa hiệu quả. Khả năng cưỡng chế thực thi thấp dẫn đến hiệu lực thi hành thấp.
Theo đánh giá và khảo sát hệ thống ngân hàng năm 2010, có tới 30% số lượng ngân
hàng có thông tin về thành viên hội đồng quản trị độc lập và không điều hành không
76
đạt đủ mức ½ theo quy định. Theo Trần Thị Thanh Tú và cộng sự (2011), mặc dù
tiêu chuẩn của thành viên độc lập đã được quy định, trên thực tế, trong một số
trường hợp thành viên độc lập không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn này.
Thứ bẩy, khuôn khổ quản trị hiện hành chưa bảo vệ được quyền cổ đông, đặc
biệt đối với cổ đông nhỏ. Các cổ đông chưa được tiếp cận thông tin liên quan và trọng
yếu của ngân hàng một cách kịp thời và thường xuyên. Chất lượng thông tin cung cấp
còn hạn chế. Đa số các ngân hàng lập báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán Việt
Nam. Sự chênh lệch giữa báo cáo tài chính lập theo chuẩn mực kế toán Việt Nam và
quốc tế khá lớn. Theo ước tính của Fitch hoặc Moody, từ năm 2006 đến nay, tỷ lệ nợ
xấu tính theo chuẩn mực IFRS luôn gấp hơn 2 lần tỷ lệ nợ xấu các ngân hàng Việt Nam
công bố. Việc công bố thông tin phi tài chính của các ngân hàng còn hạn chế. Các
thông phi tài chính theo yêu cầu của nguyên tắc OECD như việc xác định thành viên
Hội đồng Quản trị hoặc Ban Kiểm soát “độc lập”, thông tin ngoại trừ kế toán, kiểm
toán hoặc các thông tin về việc cơ quan quản lý yêu cầu các thành viên Hội đồng Quản
trị hoặc người có liên quan tới thành viên Hội đồng quản trị công bố, giải trình các giao
dịch cổ phiếu thường không được công bố. Hiện tại, chưa có quy định cụ thể trong luật
và điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng về việc công bố thông tin về các thỏa
thuận cổ đông. Điều này có thể gây sự mập mờ trong các hoạt động thâu tóm khi mà
các cổ đông lớn tập hợp hoặc thu mua cổ phần từ những cổ đông nhỏ. Đối với minh
bạch và công bố thông tin, các quy định về công bố thông tin chưa đầy đủ và hiệu lực
thi hành thấp. Đối với thông tin về các yếu tố rủi ro, theo quy định, các ngân hàng phải
công bố tại Thuyết minh báo cáo tài chính. Nội dung thông tin gồm: chính sách quản lý
rủi ro liên quan đến công cụ tài chính, rủi ro tín dụng, thị trường, lãi suất, rủi ro tiền tệ
và rủi ro thanh khoản và rủi ro giá cả thị trường khác. Thực tế, không phải ngân hàng
nào cũng thực hiện đúng quy định nêu trên. Nhiều trường hợp ngân hàng không có
thông tin về rủi ro hoặc công bố thông tin một cách chung chung. Nhà đầu tư chỉ tiếp
cận được với thông tin này đối với ngân hàng đã niêm yết. Ngoài ra, cần có sự đánh giá
mức độ phù hợp của các thông tin công bố với quy mô và mức độ phức tạp của các
hoạt động của từng ngân hàng.
77
Thứ tám, vấn đề tham nhũng. Một trong những thách thức lớn nhất của của nền
kinh tế là mức độ tham nhũng cao. Điều này một phần do chế độ chính sách thấp, hệ
thống kiểm soát nội bộ yếu. Bên cạnh đó mức độ dư thừa nguồn lực của các công ty
Nhà nước cũng là một nguyên nhân gây ra tham nhũng. Đối với ngân hàng thì tham
nhũng chủ yếu do: Luật không đầy đủ và Nguồn lực (tài chính..). Các khảo sát đối với
lãi suất cho vay chỉ ra rằng các nhân viên ngân hàng có lợi ích trong việc cho vay và tin
rằng những nhân viên này không phải chịu trách nhiệm về việc các khoản vay biến
thành nợ xấu. Các công ty nói rằng họ phải chi trả các khoản phí liên quan để vay được
tiền tuỳ thuộc vào các khu vực địa lý khác nhau mà có các mức chi phí khác nhau. Tuy
nhiên, tham nhũng liên quan đến việc quyết định riêng biệt của nhân viên, không mang
tính tổ chức, chủ yếu xảy ra đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ chín, vấn đề sở hữu nhà nước trong các ngân hàng. Một số nghiên cứu
cũng đã chỉ ra rằng yếu tố lớn nhất ngăn cản việc thiết lập cấu trúc quản trị công ty
trong ngân hàng đối với các ngân hàng tại Việt Nam đó chính là vấn đề sở hữu Nhà
nước. Với việc sở hữu chính của Nhà nước và các cổ đông chi phối đã gây cản trở
rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề này đã dần được giải quyết khi việc giảm dân sở hữu Nhà
nước, tăng sở hữu nước ngoài tại các ngân hàng thương mại đang được đẩy mạnh
thời gian gần đây.
4.2. Thống kê mô tả các ngân hàng được thu thập dữ liệu nghiên cứu
Tác giả đã thực hiện quá trình thu thập dữ liệu được công khai trên các báo
cáo thường niên, báo cáo tài chính được kiểm toán, các báo cáo và nguồn dữ liệu
khác trong Đại hội đồng cổ đông (GSM), các thông tin khác từ trang web của ngân
hàng và các web khác liên quan theo phương pháp được trình bày trong chương III.
4.2.1. Thống kê mô tả về đặc điểm của các ngân hàng TMCP luận án
nghiên cứu
- Về quy mô tổng tài sản, mẫu nghiên cứu chiếm quy mô khoảng 69,56% tổng
tài sản của các ngân hàng (bảng 4-1)
78
Bảng 4.1: Quy mô tài sản của mẫu
Về quy mô tài sản (2014)
Stt Ngân hàng % Lũy kế Giá trị tài sản (tỷ đồng)
1 Ngân hàng BIDV 724,814 13.26 13.26
2 Ngân hàng CTG 685,746 12.55 25.81
3 Ngân hàng VCB 576,530 10.55 36.36
4 Ngân hàng STB 290,861 5.32 41.68
5 Ngân hàng SCB 242,222 4.43 46.11
6 Ngân hàng MBB 204,409 3.74 49.85
7 Ngân hàng ACB 189,496 3.47 53.32
8 Ngân hàng VPB 179,295 3.28 56.6
9 Ngân hàng SHB 177,746 3.25 59.85
10 Ngân hàng TCB 172,744 3.16 63.01
11 Ngân hàng EIB 130,170 2.38 65.39
12 Ngân hàng VIB 77,440 1.42 66.81
13 Ngân hàng ABB 65,655 1.2 68.01
14 Ngân hàng OCB 44,290 0.81 68.82
15 Ngân hàng NCB 40,202 0.74 69.56
16 Ngân hàng HBB - 69.56
17 Khác 1,663,827 30.44 100
Tổng 5,465,447
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
Theo bảng 4-1, tuy chỉ có 15 ngân hàng (do ngân hàng HBB sáp nhập) nhưng
giá trị tài sản đã chiếm gần 70% của toàn hệ thống. Trong đó được chia thành 2
nhóm rõ rệt:
Thứ nhất là nhóm các ngân hàng gồm: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, Ngân hàng ngoại thương Việt nam và Ngân hàng công thương Việt nam, có
quy mô tài sản chiếm hơn một nửa (52,27%) trong tổng số các ngân hàng của mẫu
79
và chiếm 36,36% trong toàn bộ hệ thống. Đây đều là các ngân hàng thương mại cổ
phần nhà nước, có thời gian hoạt động lâu dài, có uy tín và có kinh nghiệm nhất
trong hệ thông các ngân hàng TMCP ở Việt Nam.
Thứ hai là 12 ngân hàng còn lại có quy mô tài sản chỉ chiếm có chưa đến một
nửa (47,73%) giá trị tài sản trong tổng số mẫu nghiên cứu và chiếm 33,2% trong
toàn hệ thống. Đây đều là các ngân hàng được thành lập sau này và nhà nước không
có cổ phần tại các ngân hàng này.
- Về quy mô vốn điều lệ, mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 63,15% tổng vốn điều
lệ của các ngân hàng (Bảng 4-2)
Bảng 4.2: Vốn điều lệ của các ngân hàng
%
Stt
Ngân hàng
Lũy kế %
Vốn điều lệ (2015) (tỷ đồng)
1 Ngân hàng CTG
37,234 12.07
12.07
2 Ngân hàng BIDV
31,481 10.21
22.28
3 Ngân hàng VCB
26,650 8.64
30.91
4 Ngân hàng STB
12,425 4.03
34.94
5 Ngân hàng EIB
12,355 4.01
38.95
6 Ngân hàng SCB
12,295 3.99
42.93
7 Ngân hàng MBB
11,593 3.76
46.69
8 Ngân hàng ACB
9,377 3.04
49.73
9 Ngân hàng TCB
8,878 2.88
52.61
10 Ngân hàng SHB
8,866 2.87
55.48
11 Ngân hàng VPB
8,056 2.61
58.09
12 Ngân hàng ABB
4,798 1.56
59.65
13 Ngân hàng VIB
4,250 1.38
61.03
14 Ngân hàng OCB
3,547 1.15
62.18
15 Ngân hàng NCB
3,010 0.98
63.15
16 Ngân hàng HBB
-
63.15
Khác
113,665 36.85
100.00
Tổng
308,480
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)
80
Cũng tương tự như quy mô tài sản, thống kê mô tả mẫu về vốn điều lệ cũng
tách các ngân hàng trong mẫu ra làm 2 nhóm:
Thứ nhất là nhóm các ngân hàng TMCP nhà nước với quy mô vốn điều lệ thấp
nhất là hơn 26 nghìn tỉ đồng, cao hơn gấp đôi ngân hàng xếp ngay sau là hơn 12
nghìn tỉ đồng. Tổng số vốn điều lệ của nhóm 3 ngân hàng này gần một nửa
(48,95%) trong tổng số vốn của các ngân hàng thuộc mẫu nghiên cứu và chiếm
30,91% tổng số vốn điều lệ trong toàn hệ thống. Các ngân hàng này đồng thời cũng
sở hữu tài sản ở mức vượt trội như đã nêu ở phần trên.
Thứ hai là nhóm 12 ngân hàng còn lại với số vốn chiếm hơn một nửa
(51,05%) trong tổng số vốn điều lệ của mẫu và chiếm 32,24% tổng số vốn điều lệ
của các ngân hàng trong toàn bộ hệ thống. Các ngân hàng này vẫn tập trung vào các
ngân hàng có thời gian hoạt động chưa lâu và thuộc hoàn toàn sở hữu tư nhân,
không có cổ phần của nhà nước.
- Về tính chất sở hữu của các ngân hàng:
Đến cuối năm 2015, toàn hệ thống còn 4 ngân hàng thương mại nhà nước là:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam,
Ngân hàng Công thương Việt Nam và cuối cùng là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam. Trong số này, tác giả tiến hành thu thập số liệu của 3
ngân hàng, riêng ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chưa cổ
phần hóa nên luận án không nghiên cứu. Như vậy, số lượng ngân hàng thương mại
nhà nước trong mẫu nghiên cứu chiếm 75% trên tổng mẫu. Các ngân hàng còn lại
(12 ngân hàng) là ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 50% trên tổng số 24 ngân
hàng thương mại cổ phần trên toàn hệ thống.
4.2.2. Thống kê mô tả biến độc lập là các yếu tố thuộc quản trị công ty
và kiểm định dạng phân phối của các thang đo biến độc lập
Kết quả thống kê mô tả các biến độc lập (bảng 4-3) cho thấy, trong giai đoạn
từ năm 2006 đến năm 2014:
- Số lượng thành viên HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 4 đến 11 thành
81
viên, nhưng với giá trị trung bình bằng 7,2411 < 7,5. Có thể kết luận, quy mô
HĐQT của các ngân hàng trong mẫu điều tra trong các năm này phần lớn nằm ở
mức từ 4 đến 7 thành viên.
- Số lượng thành viên nữ trong HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 0 đến 4
thành viên, nhưng với giá trị trung bình bằng 1 < 2. Có thể nhận xét: Số lượng thành
viên nữ trong HĐQT của các ngân hàng trong mẫu điều tra trong các năm này chỉ
nằm ở mức từ 0 đến 1 người, hay có thể nói số lượng thành viên nữ trong HĐQT là
không cao, nhiều ngân hàng trong những thời điểm nhất định hoàn toàn vắng bóng
thành viên HĐQT là nữ giới.
- Trình độ học vấn của các thành viên HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 0
đến 9 và với giá trị trung bình bằng 3,5887 < 4,5. Có thể nhận xét: phần lớn các
thành viên HĐQT tại các ngân hàng trong mẫu điều tra trong khoảng thời gian này
không có bằng cấp chuyên môn từ đại học trở lên về ngành ngân hàng, cá biệt tại
một vài thời điểm, một vài ngân hàng hoàn toàn không có thành viên nào trong
HĐQT có bằng cấp chuyên môn về ngân hàng từ đại học trở lên.
- Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT nằm trong mức từ 39,8 tuổi tới
57 tuổi và với giá trị trung bình là 49,517 tuổi > 48,4 tuổi. Có thể nhận xét: phần lớn
các thành viên HĐQT tại các ngân hàng trong mẫu điều tra trong giai đoạn này có
độ tuổi trung bình nằm trên 48,4 tuổi.
- Số lượng thành viên HĐQT độc lập nằm trong mức từ 0 tới tối đa là 3 thành
viên, với giá trị trung bình bằng 0.5248 nhỏ hơn nhiều so với mức trung bình là 1,5.
Như vậy, có thể kết luận: số lượng thành viên HĐQT độc lập tại các ngân hàng trong
mẫu điều tra phần lớn ở mức từ 1 thành viên trở xuống, có nhiều ngân hàng, tại nhiều
thời điểm, hoàn toàn không có thành viên HĐQT nào là thành viên độc lập.
- Về sự tồn tại của các cổ đông lớn trong ngân hàng, với mức trung bình bằng
0,7376 > 0,5. Có thể kết luận: phần lớn ngân hàng trong mẫu điều tra tại các thời
điểm khác nhau đều có sự xuất hiện của các cổ đông lớn, chỉ một số ít ngân hàng tại
một số ít thời điểm là có sự ngoại lệ.
82
- Về sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, giá trị min – max nằm trong khoảng từ
0% đến 30%, giá trị trung bình thì bằng 11,0138%. Như vậy, trong giai đoạn này, ở
phần lớn các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu chưa có sự tham gia tích cực của các
nhà đầu tư nước ngoài trong việc nắm giữ cổ phần của các ngân hàng thương mại
Việt Nam.
Cũng qua bảng 4-3 kết quả kiểm định Skewness và Kurtosis cho thấy giá trị
tuyệt đối của hai chỉ số này nằm trong giới hạn cho phép tương ứng là Skewness
nhỏ hơn 3 và Kurtosis 5. Những kết quả trên cho thấy thang đo biến độc lập có phân
phối chuẩn, đảm bảo yêu cầu thực hiện các kiểm định và phân tích tiếp theo ở các
phần sau.
83
Bảng 4.3: Mô tả thống kê các biến độc lập
Descriptive Statistics
N
Minimum
Maximum
Mean
Std. Deviation
Skewness
Kurtosis
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Std. Error
Statistic
Std. Error
4.00
11.00
7.2411
1.93058
.323
.204
-.746
.406
141
Boadsize
.00
4.00
1.0000
1.06904
.890
.204
.108
.406
141
Gender
.00
9.00
3.5887
2.17476
.635
.204
-.048
.406
141
Edu
39.80
57.00
49.5170
4.28990
-.245
.204
-.856
.406
141
BoardAge
.00
3.00
.5248
.77073
1.625
.204
2.477
.406
141
OutDir
.00
1.00
.7376
.44151
-1.092
.204
-.820
.406
141
Block
.00
1.00
.1915
.39488
1.585
.204
.520
.406
141
State
.510
.204
-1.259
.406
.0000
.3000
.110138
.1140753
141
FOWN
141
Valid N (listwise)
(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)
84
4.2.3. Thống kê mô tả biến phụ thuộc
Kết quả thống kê giá trị min, max của các biến phụ thuộc ROA ở bảng 4-4 cho
thấy, trong thời kỳ này phần lớn các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu tại phần lớn
các thời điểm có mức lợi nhuận trên tài sản ( bằng 0,010208) ở dưới mức trung bình
(bằng 0,01088).
Về giá trị kiểm định Skewness và Kurtosis các biến phụ thuộc đều cho kết quả
trị tuyệt đối của Skewness < 3 và trị tuyệt đối của Kurtosis < 5. Như vậy, các biến
phụ thuộc có dạng phân phối chuẩn, đủ điểu kiện để tiến hành các kiểm định và
phân tích tiếp theo.
85
Bảng 4.4: Mô tả thống kê các thang đo biến phụ thuộc
Descriptive Statistics
N
Minimum
Maximum
Mean
Std. Deviation
Skewness
Kurtosis
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Statistic
Std. Error
Statistic
Std. Error
RnD
141
.00
1.84E8
1.4765E8
5.04039E7
-2.093
.204
2.764
.406
Leverage
141
1.585649300
34.699886000
10.94623852733
4.777907111894
1.044
.204
3.533
.406
ROA
141
.00011112203
.02164836200
.0102081673204
.00509302641180
-.075
.204
-.646
.406
Valid N (listwise)
141
(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)
86
4.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công
ty với các biến thuộc thông tin bất đối xứng và giữa các biến thuộc
thông tin bất đối xứng với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
4.3.1. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị
công ty và biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến R&D
Theo bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty
và biến R&D (bảng 4-5), có 3 biến có giá trị tương quan giữa biến độc lập và
phụ thuộc ở mức 99% và có mối tương quan ngược chiều là biến: Số lượng
thành viên HĐQT, Số lượng thành viên HĐQT độc lập và biến phần trăm sở
hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Các biến độc lập còn lại không nhìn thấy mối
tương quan với biến phụ thuộc.
87
Bảng 4.5 : Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc R&D đại diện cho thông tin bất đối xứng với các biến độc lập thuộc quản trị công ty
Correlations
Boadsize
Gender
Edu
BoardAge OutDir
Block
State
FOWN
RnD
Pearson Correlation
1
Boadsize
Sig. (2-tailed)
N
141
Pearson Correlation
.159
1
Gender
Sig. (2-tailed)
.059
N
Pearson Correlation
141 .371**
141 .237**
1
Edu
Sig. (2-tailed)
.000
.005
N
141
141 .325**
.070
141 .246**
1
BoardAge Pearson Correlation
Sig. (2-tailed)
.000
.412
.003
N
141
Pearson Correlation
141 .399**
-.035
141 .198*
141 .168*
1
OutDir
Sig. (2-tailed)
.000
.683
.019
.046
N
141
141
141
Pearson Correlation
.142
141 -.242**
-.017
-.007
141 .198*
1
Block
Sig. (2-tailed)
.093
.004
.846
.937
.019
N
141
141
141
141
141
141
88
State
Pearson Correlation
.508**
.500**
.362**
.080
-.121
-.447**
1
Sig. (2-tailed)
.348
.000
.000
.152
.000
.000
N
141
141
141
141
141
141
141
FOWN
Pearson Correlation
.507**
-.069
.084
.432**
.371**
-.212*
.207*
1
Sig. (2-tailed)
.000
.415
.322
.000
.000
.012
.014
N
141
141
141
141
141
141
141
141
RnD
Pearson Correlation
-.369**
-.130
-.118
-.370**
-.112
-.031
-.126
-.391**
1
Sig. (2-tailed)
.000
.125
.162
.000
.188
.711
.136
.000
N
141
141
141
141
141
141
141
141
141
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)
89
4.3.2. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công
ty và biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến Leverage
Theo ma trận hệ số tương quan Bảng 4-6 giữa quản trị công ty và biến
Leverage đại diện cho thông tin bất đối xứng, có 2 biến có quan hệ cùng chiều với
biến Leverage ở mức 99% là biến: Trình độ học vấn của thành viên HĐQT và biến
Sở hữu nhà nước, có 1 biến có quan hệ cùng chiều với biến Leverage ở mức 95% là
biến: Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT.
90
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc Leverage với các biến độc lập thuộc quản trị công ty
Correlations
Gender
Edu
BoardAge
OutDir
Block
State
FOWN
Leverage
Boadsize 1
Boadsize
Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
Gender
1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .159 .059
Edu
1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .371** .000
141 .237** .005
N
BoardAge Pearson Correlation
1
Sig. (2-tailed)
141 .325** .000
141 .070 .412
141 .246** .003
OutDir
1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .399** .000
141 -.035 .683
141 .198* .019
141 .168* .046
Block
1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .142 .093
141 -.242** .004
141 -.017 .846
141 -.007 .937
141 .198* .019
State
1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .080 .348
141 .508** .000
141 .500** .000
141 .362** .000
141 -.121 .152
141 -.447** .000
FOWN
1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .507** .000
141 -.069 .415
141 .084 .322
141 .207* .014
141 .432** .000
141 .371** .000
141 -.212* .012
Leverage
1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .154 .068
141 .158 .061
141 .325** .000
141 .209* .013
141 .139 .100
141 -.143 .090
141 .492** .000
141 -.111 .192
N
141
141
141
141
141
141
141
141
141
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)
91
4.3.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công
ty và biến kiểm soát với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Theo ma trận hệ số tương quan giữa biến độc lập thuộc quản trị công ty với
hiệu quả hoạt động của ngân hàng, có 2 biến có mối tương quan với biến phụ thuộc
là biến Số lượng thành viên HĐQT và Số thành viên HĐQT độc lập và ở độ tin cậy
là 95%, riêng biến kiểm soát Năm nghiên cứu có mối tương quan ở mức là 99%.
Trong đó biến Số lượng thành viên HĐQT có mối quan hệ cùng chiều, còn biến Số
lượng thành viên HĐQT độc lập và biến Năm nghiên cứu lại có mối quan hệ ngược
chiều với hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Các biến còn lại không nhìn thấy sự
tương quan với biến phụ thuộc.
Một điểm đặc biệt là có sự tương quan rất chặt giữa biến độc lập là số năm
hoạt động của ngân hàng với yếu tố sở hữu nhà nước với giá trị tương quan ở mức
0.815**, điều này phản ánh một đặc điểm khá thực tế trong hệ thống các ngân hàng
ở Việt nam đó là các ngân hàng có tuổi đời lớn thường là các ngân hàng thuộc sở
hữu nhà nước trước đây và sau khi cổ phần hóa thì nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần
tại các ngân hàng này. Đây là một dấu hiệu của hiện tượng đa cộng tuyến, vì vậy
trong quá trình kiểm định kết quả hồi quy sau này giữa các biến độc lập thuộc yếu
tố quản trị công ty và các biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng, tác
giả sẽ tiến hành kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến trước nhằm loại bỏ những biến
bị đa cộng tuyến nếu có.
92
Bảng 4.7: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động của ngân hàng với các biến thuộc quản trị công ty Correlations
Year
FirmSize FirmAge Boadsize Gender
Edu
BoardAge
OutDir
Block
State
FOWN
ROA
Year
Pearson Correlation
1
Sig. (2-tailed)
N
FirmSize
Pearson Correlation
141 .460**
1
Sig. (2-tailed)
.000
N
FirmAge
Pearson Correlation
141 .224**
141 .733**
1
Sig. (2-tailed)
.008
.000
N
141
Boadsize
Pearson Correlation
141 .240**
141 .381**
.154
1
Sig. (2-tailed)
.004
.000
.069
N
141
141
Gender
Pearson Correlation
.018
141 .400**
141 .229**
.159
1
Sig. (2-tailed)
.831
.000
.006
.059
N
Edu
Pearson Correlation
141 .320**
141 .610**
141 .362**
141 .371**
141 .237**
1
Sig. (2-tailed)
.000
.000
.000
.000
.005
N
141
141
BoardAge
Pearson Correlation
.165
141 .404**
141 .409**
141 .325**
.070
141 .246**
1
Sig. (2-tailed)
.051
.000
.000
.000
.412
.003
N
141
141
141
141
141
141
141
93
OutDir
Pearson Correlation
.509**
.399**
.255**
.033
-.035
.198*
.168*
1
Sig. (2-tailed)
.000
.002
.695
.000
.683
.019
.046
N
141
141
141
141
Block
Pearson Correlation
.142
141 -.211*
141 -.583**
.104
141 -.242**
-.017
-.007
141 .198*
1
Sig. (2-tailed)
.093
.012
.000
.218
.004
.846
.937
.019
N
141
141
141
State
Pearson Correlation
.080
141 .769**
141 .815**
.012
141 .508**
141 .500**
141 .362**
-.121
141 -.447**
1
Sig. (2-tailed)
.348
.000
.000
.887
.000
.000
.000
.152
.000
N
141
141
141
141
FOWN
Pearson Correlation
141 .507**
.118
-.124
141 .351**
-.069
.084
141 .207*
141 .432**
141 .371**
141 -.212*
1
Sig. (2-tailed)
.000
.164
.143
.000
.415
.322
.014
.000
.000
.012
N
141
141
141
141
141
141
141
141
ROA
Pearson Correlation
141 .197*
-.131
-.119
141 -.527**
.031
-.158
.024
141 -.185*
.042
-.055
.072
1
Sig. (2-tailed)
.019
.122
.161
.000
.718
.061
.779
.028
.624
.519
.394
N
141
141
141
141
141
141
141
141
141
141
141
141
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)
94
4.3.4. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến đại diện cho thông
tin bất đối xứng và biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Theo ma trận hệ số tương quan bảng 4-8 giữa biến độc lập thuộc thông tin bất
đối xứng với hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cả 2 biến đại diện cho thông tin bất
đối xứng và biến kiểm soát là Năm nghiên cứu đều có mối tương quan ngược chiều
với biến phụ thuộc và ở độ tin cậy là 99%.
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động của ngân hàng với các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát Correlations
Year
FirmSize
FirmAge
RnD
Leverage
ROA
Year
Pearson Correlation
1
Sig. (2-tailed)
N
FirmSize
Pearson Correlation
1
141 .460**
Sig. (2-tailed)
.000
N
FirmAge
Pearson Correlation
141 .733**
1
141 .224**
Sig. (2-tailed)
.000
.008
N
141
141
RnD
Pearson Correlation
141 -.217**
-.010
1
-.035
Sig. (2-tailed)
.010
.904
.683
N
141
141
Leverage
Pearson Correlation
141 .454**
141 .433**
.039
1
.107
Sig. (2-tailed)
.000
.000
.642
.207
N
141
141
ROA
Pearson Correlation
-.131
-.119
141 -.335**
141 -.254**
141 -.527**
1
Sig. (2-tailed)
.122
.161
.000
.002
.000
N
141
141
141
141
141
141
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)
95
4.4. Kiểm định giả thuyết và phân tích hồi quy xác định mối quan hệ
giữa quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động của
các ngân hàng
Phân tích hồi quy thứ nhất được thực hiện để xác định mối quan hệ nhân quả
giữa biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D và các biến độc lập
thuộc quản trị công ty: Quy mô của HĐQT, Số lượng thành viên nữ trong HĐQT,
Số lượng thành viên HĐQT có bằng đại học trở lên, Độ tuổi trung bình của các
thành viên HĐQT, Số lượng thành viên HĐQT độc lập, Cổ đông lớn, Sở hữu nhà
nước và cuối cùng là Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.
Phân tích hồi quy thứ hai được thực hiện để xác định mối quan hệ nhân quả
giữa biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage và các biến độc
lập thuộc quản trị công ty.
Phân tích hồi quy thứ ba được thực hiện để xác định sự tác động của các biến
độc lập thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát Quy mô tài sản của ngân hàng,
Thời gian hoạt động và Năm nghiên cứu tới biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
Phân tích hồi quy thứ tư được thực hiện để xác định mối quan hệ nhân quả
giữa biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng và các biến độc lập đại
diện cho thông tin bất đối xứng, cùng với các biến kiểm soát Quy mô tài sản của
ngân hàng, Thời gian hoạt động và Năm nghiên cứu.
Mô hình hồi quy sẽ tìm ra các biến độc lập có tác động tới biến phụ thuộc và
các biến độc lập không tác động tới biến phụ thuộc. Với những biến có tác động,
mô hình hồi quy còn cho biết hướng tác động dương (+) hay âm (-), hay tác động là
thuận chiều hay ngược chiều. Đồng thời mô hình cũng mô tả mức độ tác động của
biến độc lập cụ thể là như thế nào qua đó giúp ta dự đoán được giá trị của biến phụ
thuộc khi biết trước giá trị của các biến độc lập. Các mô hình nghiên cứu của luận
án bao gồm một biến phụ thuộc và nhiều biến độc lập, vì vậy tác giả sử dụng mô
hình hồi quy tuyến tính bội để kiểm định (Nguyễn Đình Thọ, 2011).
96
Tác giả sử dụng hệ số xác định R2 điều chỉnh để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình hồi quy. Bởi theo Hair và cộng sự (1998), sử dụng hệ số xác định R2, mặc
dù vẫn có thể cho biết được các biến độc lập trong mô hình giải thích được bao
nhiêu % sự biến thiên của biến phụ thuộc, nhưng có nhược điểm lớn nhất là có nhiều biến độc lập không có ý nghĩa nhưng khi đưa vào mô hình vẫn làm giá trị R2 tăng lên, sử dụng giá trị R2 điều chỉnh (Adjusted R Square) sẽ khắc phục được nhược điểm này. Giá trị R2 điều chỉnh nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
Khi R2 điều chỉnh = 0 ta kết luận biến phụ thuộc và các biến độc lập không có
quan hệ với nhau.
Khi R2 điều chỉnh = 1 ta kết luận đường hồi quy phù hợp hoàn hảo.
Một vấn đề đặt ra thêm trong quá trình kiểm định hồi quy đó là sự phù hợp
của mô hình hồi quy tổng thể. Để kiểm định vấn đề này tác giả sử dụng kiểm định
F. Kiểm định này sẽ cho biết liệu các biến độc lập được xem xét trong mô hình có
liên hệ tuyến tính với biến phụ thuộc không, giá trị Sig của kiểm định này nếu nhỏ
hơn 0,05 thì mô hình được coi là phù hợp.
Ngoài ra, một mô hình được coi là phù hợp khi các biến độc lập trong mô hình
không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến, tức là các biến là không có tương quan quá
chặt chẽ với nhau. Hệ số VIF hoặc Tolerance sẽ được dùng để kiểm tra vấn đề này, nếu
hệ số Tolerance nhỏ hơn 0,1 tương ứng với VIF lớn hơn 10 (do Tolerance = 1/VIF) thì
lúc đó ta có thể kết luận có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra. Kết hợp với bảng ma trận
tương quan giữa các biến được tiến hành ở trên, ta sẽ cân nhắc để loại biến có hiện
tượng đa cộng tuyến ra khỏi mô hình.
4.4.1. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ nhất sự tác động
của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng
là R&D
Kiểm tra hệ số R2 điều chỉnh
Bảng 4-9 cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,202. Điều này cho thấy các
biến độc lập trong mô hình đã giải thích được 20,2% sự biến thiên của biến R&D.
97
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả kiểm định F được thể hiện trong Bảng 4-9 cho thấy giá trị F =
5,443***. Như vậy, với mức độ cho phép là 5% mối quan hệ này đảm bảo độ tin
cậy. Do đó, có thể kết luận các biến độc lập thuộc quản trị công ty có tác động đến
biến đại diện của thông tin bất đối xứng là R&D và mô hình hồi quy tuyến tính bội
phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Bảng 4.9: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 1
Mô hình
Mô hình 1
(Beta)
Biến
Số lượng thành viên HĐQT
-.169a
Số lượng thành viên nữ của HĐQT
-.097
Trình độ học vấn của HĐQT
.081
Kinh nghiệm của HĐQT
.048
Số thành viên HĐQT độc lập
-.235***
Cổ đông lớn
-.026
Sở hữu nhà nước
-.119
Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
-.243***
20,2%
R2 điều chỉnh
5.443***
F
N = 250 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001
Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4-9 cho thấy có 2 biến là: Số thành viên
HĐQT độc lập và Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài là có tác động tới
biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D với giá trị Sig < 0,05.
98
Mối quan hệ giữa các biến trong mô hình 1 được thể hiện trong phương trình hồi
quy sau:
Y1 = -0,235X1 - 0,243X2
Trong đó:
Y1: R&D
X1: Số lượng thành viên HĐQT độc lập
X2: Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của Số lượng thành
viên HĐQT độc lập và Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài < 0 cho thấy
các biến độc lập này tác động ngược chiều tới biến phụ thuộc.
Yếu tố mạnh nhất tác động tới thông tin bất đối xứng là yếu tố sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài, với hệ số Beta = -0.243, điều này phản ánh khi tỉ lệ sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố R&D sẽ giảm đi
0.243 đơn vị lệch chuẩn và qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin (do
thông tin bất đối xứng có cùng chiều biến thiên với R&D). Thực tế thì nhà đầu tư
nước ngoài thường có yêu cầu rất cao về vấn đề minh bạch hóa thông tin khi rót vốn
đầu tư, mua cổ phiếu của các ngân hàng, nên khi tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài tăng lên, đồng nghĩa với các yêu cầu về minh bạch hóa thông tin tăng lên, qua
đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.
Yếu tố tiếp theo có ảnh hưởng tới thông tin bất đối xứng là số lượng thành
viên của HĐQT độc lập, với hệ số Beta = -0.235, tức là khi tăng số lượng thành
viên của HĐQT độc lập lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố R&D sẽ giảm đi tương
ứng là 0.235 đơn vị lệch chuẩn kéo theo làm giảm tính bất đối xứng của thông tin
(do R&D có cùng chiều biến thiên với thông tin bất đối xứng). Điều này có thể
được giải thích là khi số lượng thành viên HĐQT độc lập tăng lên, mà các thành
viên này thường là các chuyên gia, các nhà nghiên cứu hoặc các nhà quản lý liên
quan đến lĩnh vực ngân hàng, việc giám sát thông tin một cách minh bạch sẽ dễ
dàng hơn, do đây là các thành viên có chuyên môn vững, những thông tin không
99
chính xác là nguồn gốc của tình trạng bất đối xứng về thông tin sẽ được kiểm soát
một cách chặt chẽ và qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện trong Bảng 4-10. Hệ
số phóng đại phương sai VIF của các biến độc lập được đưa vào phân tích ở mô
hình thứ nhất đều có giá trị < 10. Như vậy không thấy dấu hiệu của đa cộng tuyến
của các biến độc lập trong mô hình và các biến trong mô hình được chấp nhận.
Bảng 4.10: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 1 Coefficientsa
Collinearity Statistics
Model
Tolerance
VIF
1
(Constant)
Boadsize
.570
1.753
Gender
.693
1.443
Edu
.584
1.712
BoardAge
.711
1.406
OutDir
.736
1.358
Block
.679
1.473
State
.367
2.727
FOWN
.586
1.706
a. Dependent Variable: RnD
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
4.4.2. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ hai xác định sự tác
động của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối
xứng là Leverage
Kiểm tra hệ số R2 điều chỉnh
Bảng 4-11 cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,281. Điều này cho thấy các
biến độc lập trong mô hình đã giải thích được 28,1% sự biến thiên của biến
Leverage.
100
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả kiểm định F được thể hiện trong Bảng 4-11 cho thấy giá trị F =
7,829***. Như vậy, với mức độ cho phép là 5% mối quan hệ này đảm bảo độ tin
cậy.Do đó, có thể kết luận các biến độc lập thuộc quản trị công ty có tác động đến
biến đại diện cho thông tin bất đối xứng của ngân hàng là Leverage và mô hình hồi
quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Bảng 4.11: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 2
Mô hình
Mô hình 2 (Beta)
Biến
Số lượng thành viên HĐQT
Số lượng thành viên nữ của HĐQT
.138 -.148a
Trình độ học vấn của HĐQT
Kinh nghiệm của HĐQT
-.013 -.042
Số thành viên HĐQT độc lập
.223***
Cổ đông lớn
.098
Sở hữu nhà nước
.609*** -.184a
28.1%
Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài R2 điều chỉnh
7.829***
F N = 250 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001
Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4-11 cho thấy có 2 biến là: Số thành viên
HĐQT độc lập và Sở hữu nhà nước là có tác động tới biến phụ thuộc đại diện cho
thông tin bất đối xứng là Leverage với giá trị Sig < 0,05. Mối quan hệ giữa các biến
trong mô hình 2 được thể hiện trong phương trình hồi quy sau:
Y2 = 0,223X1 + 0,609X2
Trong đó:
Y2: Leverage
101
X1: Số lượng thành viên HĐQT độc lập
X2: Sở hữu của nhà nước
Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của Số lượng thành
viên HĐQT độc lập và Sở hữu nhà nước > 0 cho thấy các biến độc lập này tác động
cùng chiều tới biến phụ thuộc.
Yếu tố mạnh nhất tác động tới thông tin bất đối xứng là yếu tố sở hữu nhà
nước, với hệ số Beta chuẩn hóa = 0.609, điều này phản ánh khi yếu tố sở hữu nhà
nước tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì biến Leverage sẽ tăng lên 0.609 đơn vị
lệch chuẩn qua đó tăng tính bất đối xứng của thông tin (do Leverage biến thiên
cùng chiều với tính bất đối xứng của thông tin). Sự tham gia của nhà nước trong
việc góp vốn vào các công ty nói chung và ngân hàng nói riêng đã được nhiều
chuyên gia chỉ ra là kém hiệu quả. Rất nhiều trường hợp, thành viên HĐQT đại
diện cho phần vốn góp của nhà nước tại các ngân hàng hoàn toàn không có trình
độ chuyên môn về ngân hàng, cộng thêm nhà nước lúc đó tuy đóng vai trò là chủ
sở hữu nhưng đồng thời vẫn đóng vai trò là cơ quan quản lý. Vậy nên, các nhà
quản trị sẽ có xu hướng ít chia sẻ thông tin cũng như ít chia sẻ thông tin một
cách chính xác hơn, từ đó kéo theo tính bất đối xứng của thông tin trong các
ngân hàng có sở hữu nhà nước tăng lên.
Yếu tố tiếp theo có ảnh hưởng tới thông tin bất đối xứng là số lượng thành
viên của HĐQT, với hệ số Beta = 0.223, tức là khi tăng số lượng thành viên của
HĐQT lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố Leverage sẽ tăng lên 0.223 đơn vị lệch
chuẩn, kéo theo là thông tin bất đối xứng trong ngân hàng sẽ tăng lên (do thông tin
bất đối xứng biến thiên cùng chiều với Leverage). Sự tác động của Số lượng thành
viên HĐQT độc lập lúc này lại ngược lại với bên trên khi làm tăng tính bất đối xứng
của thông tin trong ngân hàng. Điều này được giải thích là khi số lượng thành viên
HĐQT độc lập tăng lên, số thành viên này luôn được coi là người ngoài cuộc so với
các thành viên HĐQT vì họ không sở hữu vốn góp, hay nói cách khác là không tận
hưởng thành quả hay gánh chịu những rủi ro cùng với các thành viên khác, thậm chí
một vài người trong số thành viên HĐQT độc lập này còn là người của cơ quan
quản lý, đứng ở vị trí đối lập với lợi ích của ngân hàng. Lúc đó, trong ngân hàng sẽ
102
nảy sinh một xu hướng hạn chế chia sẻ thông tin với những thành viên HĐQT độc
lập. Không hiếm các ngân hàng, các thành viên HĐQT độc lập hoàn toàn không biết
gì về các hoạt động do không được cung cấp các thông tin về hoạt động của ngân
hàng, đó chính là nguyên nhân làm cho tính bất đối xứng của thông tin trong các
ngân hàng này tăng lên.
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện trong Bảng 4-12. Hệ
số phóng đại phương sai VIF của các biến độc lập được đưa vào phân tích ở mô
hình thứ hai đều có giá trị < 10. Như vậy không thấy dấu hiệu của đa cộng tuyến
của các biến độc lập trong mô hình và các biến trong mô hình được chấp nhận.
Bảng 4.12: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 2
Coefficientsa
Collinearity Statistics
Model
Tolerance
VIF
.570
1.753
Boadsize
.693
1.443
Gender
.584
1.712
Edu
.711
1.406
BoardAge
.736
1.358
OutDir
.679
1.473
Block
.367
2.727
State
.586
1.706
FOWN
a. Dependent Variable: Leverage
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
4.4.3. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ
tác động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát tới
hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Ở phần này tác giả chạy liền một lúc 2 mô hình, gồm: mô hình thứ nhất xác
định mức độ ảnh hưởng của các biến kiểm soát tới biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt
động của ngân hàng (gọi tắt là mô hình 3a) và mô hình thứ hai xác định mức độ của
103
các biến kiểm soát và biến độc lập tới biến phụ thuộc (gọi tắt là mô hình 3b)
Kết quả kiểm định ở phần kiểm tra mối tương quan giữa các biến độc lập
thuộc quản trị công ty và biến kiểm soát với biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động
của ngân hàng cho thấy có dấu hiệu của hiện tượng đa cộng tuyến giữa 2 biến thời
gian hoạt động của ngân hàng và yếu tố sở hữu nhà nước. Vì vậy, tác giả tiến hành
kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến trong mô hình thông qua hệ số
phóng đại phương sai trước khi đi vào kiểm định hồi quy.
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện trong Bảng 4-13. Hệ
số phóng đại phương sai VIF của biến sở hữu nhà nước có giá trị = 11.671 > 10.
Như vậy có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến trong mô hình.
Bảng 4.13: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 3
Coefficientsa
Collinearity Statistics
Model
Tolerance
VIF
Year
.370
2.705
FirmSize
.147
6.781
FirmAge
.131
7.661
Boadsize
.461
2.171
Gender
.493
2.027
Edu
.484
2.067
BoardAge
.690
1.450
OutDir
.602
1.660
Block
.437
2.287
State
.086
11.671
FOWN
.559
1.788
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
Căn cứ vào nhận định ở phần kiểm tra hệ số tương quan, tác giả quyết định bỏ
biến kiểm soát Số năm hoạt động của ngân hàng ra khỏi mô hình và tiến hành kiểm
tra lại hiện tượng đa cộng tuyến.
104
Căn cứ vào bảng hệ số phóng đại phương sai của mô hình 3 sau khi chạy lại
(bảng 4-14) , Hệ số phóng đại phương sai VIF của các biến độc lập được đưa vào
phân tích ở mô hình thứ 3 sau khi loại biến đều có giá trị < 10. Như vậy không thấy
dấu hiệu của đa cộng tuyến của các biến độc lập trong mô hình và các biến trong
mô hình được chấp nhận
Bảng 4.14: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 3 sau khi loại biến
Coefficientsa
Collinearity Statistics
Model
Tolerance
VIF
Year
.424
2.359
FirmSize
.149
6.711
Boadsize
.492
2.034
Gender
.690
1.450
Edu
.538
1.859
BoardAge
.707
1.415
OutDir
.605
1.654
Block
.666
1.500
State
.143
7.005
FOWN
.561
1.783
Kiểm tra hệ số R2 điều chỉnh
Bảng 4-13 cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 3a là 0.283, điều
này cho thấy, nếu chưa có sự tham gia của các biến độc lập thì bản thân các biến
kiểm soát giải thích được 28,3% sự biến thiên của biến phụ thuộc. Cũng từ bảng 4- 15, tác giả rút ra được hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 3b là 0,413. Điều này cho
thấy có sự tác động của các biến kiểm soát và các biến độc lập thuộc quản trị công
ty tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam, và các biến thuộc mô
hình 3b giải thích được 41,3% sự biến thiên của hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng. Như vậy, có thể kết luận: các biến độc lập thuộc yếu tố quản trị công ty đã
đóng góp giải thích thêm được 13% sự biến thiên của biến phụ thuộc là hiệu quả
hoạt động của ngân hàng.
105
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả kiểm định F được thể hiện trong Bảng 4-13 cho thấy, với mô hình chỉ
có các biến kiểm soát, giá trị F =28.609***. Như vậy, mô hình diễn tả mối quan hệ
giữa các biến kiểm soát và biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng đảm
bảo độ tin vậy ở mức 99,9%. Với mô hình gồm cả biến kiểm soát và biến độc lập,
giá trị F= 10.848, giá trị sig = 0,000, như vậy, mối quan hệ này đảm bảo độ tin cậy
ở mức 99,9%. Do đó, có thể kết luận các biến kiểm soát và các biến độc lập thuộc
quản trị công ty có tác động đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng và mô hình hồi
quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.
Bảng 4.15:Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 3
Mô hình
Mô hình 3a (Beta)
Mô hình 3b (Beta)
Biến
Biến kiểm soát
Năm nghiên cứu
-.784***
Quy mô tài sản của ngân hàng
-.592*** .141a
.514***
Biến chính
Số lượng thành viên HĐQT
.206**
Số lượng thành viên nữ của HĐQT
.052
Trình độ học vấn của HĐQT
-.092
Kinh nghiệm của HĐQT
Số thành viên HĐQT độc lập
.046 -.097
Cổ đông lớn
Sở hữu nhà nước
-.017 -0.444**
0.114
0.413
Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài R2 điều chỉnh
0.283
28.609***
10.848***
F N = 141 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001
Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
106
Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4-15 cho thấy bốn biến là năm nghiên cứu,
quy mô tài sản của ngân hàng, số lượng thành viên HĐQT và sở hữu nhà nước ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng vì có giá trị Sig < 0,05. Mối quan hệ
giữa các biến kiểm soát và biến độc lập thuộc quản trị công ty với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng được thể hiện trong phương trình hồi quy sau:
Y3 = -0,784X1 + 0,514X2 + 0,206X3 – 0.444X4
Trong đó:
Y3: Hiệu quả hoạt động của ngân hàng
X1: Năm nghiên cứu
X2: Quy mô tài sản của ngân hàng
X3: Số lượng thành viên của HĐQT
X4: Sở hữu nhà nước
Phương trình hồi quy cho thấy hệ số Beta chuẩn hóa của năm nghiên cứu và
Sở hữu nhà nước lần lượt là -0,784 và -0,444 đều <0 cho thấy hai biến này tác động
ngược chiều tới biến phụ thuộc. Hệ số Beta chuẩn hóa của quy mô tài sản của ngân
hàng và số lượng thành viên HĐQT lần lượt bằng 0,514 và 0,206 đều > 0 cho thấy
hai biến này tác động thuận chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Như vậy theo phương trình trên thì khi năm nghiên cứu tăng một đơn vị lệch
chuẩn sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng giảm đi 0,784 đơn vị lệch chuẩn
(kết luận này chỉ đúng trong thời gian nghiên cứu từ 2006 đến 2014), hay nói cách khác
là trong thời gian từ 2006 đến 2014, hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng ngày càng
giảm. Kết luận này khớp với tình hình thực tế khi ở Việt nam, trong giai đoạn từ 2010
đến 2014 đã ghi nhận là những năm rất khó khăn của ngành ngân hàng.
Ở chiều ngược lại, khi quy mô tài sản của ngân hàng tăng lên 1 đơn vị lệch
chuẩn thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng lại tăng lên 0,514 đơn vị lệch chuẩn.
Điều này phản ánh thực tế trong thời gian qua, khi các ngân hàng có quy mô tài sản
nhỏ phải đối diện với câu chuyện làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị thua lỗ, bị sáp
nhập thì các ngân hàng có quy mô tài sản lớn tỏ ra vững vàng hơn, nói cách khác
107
quy mô tài sản lớn đã góp phần giúp các ngân hàng tiếp tục làm ăn hiệu quả trong
thời kỳ khó khăn 2010 đến 2014.
Tương tự, khi số lượng thành viên HĐQT tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì hiệu
quả hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên 0,206 đơn vị lệch chuẩn. Điều này khẳng
định khi số lượng thành viên HĐQT tăng lên đồng nghĩa với số người gánh vác
trọng trách sẽ tăng lên, các quyết định đưa ra được cân nhắc kỹ lưỡng hơn, nhìn
nhận ở nhiều góc độ khác nhau hơn và hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng
được cải thiện hơn.
Nhưng hiệu quả hoạt động thu được qua việc sở hữu quy mô tài sản lớn và
một số lượng thành viên HĐQT đông đảo bị giảm đáng kể đối với các ngân hàng có
yếu tố sở hữu nhà nước, với hệ số Beta điều chỉnh = -0.444, khi yếu tố sở hữu nhà
nước tăng lên một đơn vị lệch chuẩn thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng giảm đi
một lượng bằng 0.444 đơn vị lệch chuẩn. Ở mô hình 2, yếu tố sở hữu của nhà nước
được coi là một yếu tố làm tăng thêm tính bất đối xứng của thông tin qua đó gián
tiếp làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng, thì kết quả hồi quy ở mô hình 3b
lại phản ánh sự tác động bất lợi một cách trực tiếp của yếu tố sở hữu của nhà nước
đến hiệu quả ngân hàng. Yếu tố sở hữu nhà nước ở mô hình 3b thể hiện một thực tế
được các chuyên gia ngân hàng – tài chính đã chỉ ra trong việc điều hành các ngân
hàng có yếu tố sở hữu nhà nước đó là sự trì trệ, kém nhanh nhạy trước những thay
đổi của thị trường…kéo theo hệ quả tất yếu đó là hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng có yếu tố sở hữu nhà nước bị giảm sút hơn so với các ngân hàng có cùng quy
mô tài sản nhưng thuộc sở hữu hoàn toàn của tư nhân.
4.4.4. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ tư xác định mức độ
tác động của các biến đại diện thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát
tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Ở phần này, cũng giống như mục 4.4.3, tác giả tiến hành chạy liền lúc 2 mô
hình gồm: mô hình thứ nhất chỉ có các biến kiểm soát tác động tới biến phụ thuộc
(được ký hiệu là mô hình 4a) và mô hình thứ hai gồm các biến kiểm soát và biến
độc lập là các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng tác động tới biến phụ thuộc
là hiệu quả hoạt động của ngân hàng (ký hiệu là 4b)
108
Kiểm định hệ số R2 điều chỉnh Bảng 4-16 cho thấy, giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 4a là 29,6%. Giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 4b là 0,441. Như vậy hai biến độc lập đại diện
cho thông tin bất đối xứng cùng các biến kiểm soát có ý nghĩa giải thích được
44,1% sự biến động của biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động của ngân hàng, riêng
các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng giải thích thêm được 14,5% sự biến
động của biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Kiểm định độ phù hợp của mô hình
Kết quả kiểm định F được thể hiện trong Bảng 4-16 cho thấy giá trị F của mô
hình 4a bằng 20.636, giá trị sig = 0,000, giá trị F của mô hình 4b bằng 23.058***.
Như vậy, mối quan hệ giữa các biến kiểm soát, biến độc lập thông tin bất đối xứng
và biến phụ thuộc đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể kết
luận biến độc lập thông tin bất đối xứng và biến kiểm soát có tác động đến hiệu quả
hoạt động của ngân hàng và mô hình hồi quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu
và có thể sử dụng được.
Bảng 4.16: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 4
Mô hình
Mô hình 4a (Beta)
Mô hình 4b (Beta)
Biến
Biến kiểm soát
Năm nghiên cứu
-.621***
-.609***
Quy mô tài sản của ngân hàng
.240*
Số năm hoạt động
.302** -.202a
-.046
Biến chính
R&D
-.294***
-.267***
Leverage R2 điều chỉnh
0.441
0.296
20.636***
23.058***
F N = 141 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001
Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa
(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
109
Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4-16 cho thấy ba biến là Năm nghiên cứu, R&D
và Leverage có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng ở mức 99,9% vì có
giá trị Sig = 0,000. Biến quy mô tài sản của ngân hàng có ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt
động của ngân hàng ở mức 95% với giá trị Sig = 0.040 < 0.05. Mối quan hệ giữa các
biến kiểm soát và biến độc lập đại diện cho thông tin bất đối xứng với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng được thể hiện trong phương trình hồi quy sau:
Y4 = - 0,609X1 + 0,240X2 – 0.294X3 – 0.267X4
Trong đó:
Y4: Hiệu quả hoạt động của ngân hàng
X1: Năm nghiên cứu
X2: Quy mô tài sản của ngân hàng
X3: R&D
X4: Leverage
Phương trình hồi quy cho thấy hệ số Beta chuẩn hóa của hai biến đại diện cho
thông tin bất đối xứng và biến năm nghiên cứu đều < 0 cho thấy ba biến này tác
động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ở chiều ngược lại, biến
Quy mô tài sản của ngân hàng có hệ số Beta chuẩn hóa của năm nghiên cứu > 0 cho
thấy biến kiểm soát này tác động cùng chiều tới biến phụ thuộc.
Như vậy theo phương trình trên thì khi năm nghiên cứu tăng một đơn vị lệch
chuẩn sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng giảm đi 0,609 đơn vị lệch
chuẩn (kết luận này chỉ đúng trong thời gian nghiên cứu từ 2006 đến 2014), hay nói
cách khác là trong thời gian từ 2006 đến 2014, hiệu quả hoạt động của ngân hàng
càng ngày càng giảm.
Tiếp theo là biến Quy mô tài sản của ngân hàng với hệ số Beta chuẩn hóa =
0.240, tức là khi quy mô tài sản của ngân hàng tăng lên một đơn vị lệch chuẩn thì
hiệu quả hoạt động của ngân hàng tăng lên 0.240 đơn vị lệch chuẩn. Cơ chế tác
động của quy mô tài sản tới hiệu quả hoạt động đã được giải thích ở mô hình 3b.
110
Tiếp theo là biến R&D, với hệ số Beta chuẩn hóa = -0,294 . Tức là, khi R&D
tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn (kéo theo tính bất đối xứng của thông tin tăng lên) thì
hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ giảm đi 0,294 đơn vị lệch chuẩn.
Cuối cùng là biến Leverage với hệ số Beta chuẩn hóa = -0,267. Tức là, khi
Leverage tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn (kéo theo tính bất đối xứng của thông tin
tăng lên) thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ giảm đi 0,267 đơn vị lệch chuẩn.
Như vậy, nói chung khi thông tin bất đối xứng tăng lên thì hiệu quả hoạt động
của ngân hàng sẽ giảm đi, hay nói cách khác là mức độ bất đối xứng của thông tin
ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện trong Bảng 4.17. Hệ
số phong đại phương sai VIF của các biến kiểm soát được đưa vào phân tích ở mô
hình 4b đều có giá trị < 10. Như vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát và
biến độc lập đại diện cho thông tin bất đối xứng là không đáng kể và các biến trong
mô hình được chấp nhận.
Bảng 4.17: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 4b Coefficientsa
Collinearity Statistics
Model
Tolerance
VIF
Year
.739
1.354
FirmSize
.306
3.267
FirmAge
.415
2.407
RnD
.874
1.144
Leverage
.749
1.335 (Nguồn: nghiên cứu của tác giả)
4.4.4. Tổng hợp kết quả phân tích hồi qui của 4 mô hình
Từ các bảng kết quả hồi quy ở trên tác giả kết luận về các giả thuyết ở chương
2 như sau:
- Giả thuyết H2.5: Có sự tác động của yếu tố số lượng thành viên HĐQT độc
lập tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là R&D. Với Sig <0.01 giả thuyết
được chấp nhận với độ tin cậy 99%. Với hệ số Beta chuẩn hóa <0, ta có thể kết luận
111
số lượng thành viên HĐQT độc lập có tác động ngược chiều với thông tin bất đối
xứng, hay việc ngân hàng càng có nhiều thành viên HĐQT độc lập sẽ càng làm
giảm tính bất đối xứng của thông tin.
- Giả thuyết H2.8: Có sự tác động của tỉ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài tới
biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D. Với Sig <0.05, giả thuyết được
chấp nhận với độ tin cậy 95%. Với hệ số Beta chuẩn hóa <0, ta có thể kết luận tỉ lệ
sở hữu của cổ đông nước ngoài có tác động ngược chiều tới R&D qua đó tác động
ngược chiều tới thông tin bất đối xứng, hay việc tăng tỉ lệ sở hữu của cổ đông nước
ngoài sẽ làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.
- Giả thuyết H2.13: Có sự tác động của yếu tố số lượng thành viên HĐQT độc
lập tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là Leverage. Với Sig = 0.01 giả
thuyết được chấp nhận với độ tin cậy 99%. Với hệ số Beta chuẩn hóa > 0, ta có thể
kết luận số lượng thành viên HĐQT độc lập có tác động thuận chiều với thông tin
bất đối xứng, hay việc ngân hàng càng có nhiều thành viên HĐQT độc lập sẽ càng
làm tăng tính bất đối xứng của thông tin.
- Giả thuyết H2.15: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới biến
đại diện của thông tin bất đối xứng là Leverage. Với Sig < 0.001 giả thuyết được
chấp nhận với độ tin cậy 99,9%. Với hệ số Beta chuẩn hóa > 0, ta có thể kết luận sở
hữu nhà nước có tác động thuận chiều với thông tin bất đối xứng, hay các ngân
hàng có sở hữu nhà nước có xu hướng bất đối xứng trong thông tin cao hơn so với
các ngân hàng tư nhân.
- Giả thuyết H3.1: Có sự tác động của yếu tố số lượng thành viên HĐQT tới
hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Với Sig <0.05 giả thuyết được chấp nhận với độ
tin cậy 95%. Với hệ số Beta chuẩn hóa > 0, ta có thể kết luận số lượng thành viên
HĐQT tác động cùng chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, hay khi số lượng
thành viên HĐQT của ngân hàng tăng lên thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng
cũng tăng lên.
- Giả thuyết H3.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu nhà nước tới hiệu quả
hoạt động của ngân hàng. Với Sig <0.05 giả thuyết được chấp nhận với độ tin cậy
112
95%. Với hệ số Beta chuẩn hóa < 0, ta có thể kết luận yếu tố sở hữu nhà nước tác
động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
- Giả thuyết H1.1: Biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D có tác
động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Với Sig <0.001, giả thuyết
được chấp nhận với độ tin cậy 99,9%. Với hệ số Beta chuẩn hóa <0, có thể khẳng
định rằng biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D ảnh hưởng không tốt tới
hiệu quả hoạt động của ngân hàng, hay thông tin bất đối xứng có ảnh hưởng không
tốt tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
- Giả thuyết H1.2: Biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage có tác
động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Với Sig <0.001, giả thuyết
được chấp nhận với độ tin cậy 99,9%. Với hệ số Beta chuẩn hóa <0, có thể khẳng
định rằng biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage ảnh hưởng không tốt
tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tương tự như trên, tính bất đối xứng của
thông tin ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.
- Các giả thuyết còn lại, do Sig >0,05, nên với độ tin cậy 95% ta bác bỏ các
giả thuyết còn lại.
Mô hình còn lại sau khi kiểm tra sự phù hợp của các mô hình hồi quy:
(-)
% sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
Năm nghiên cứu,Quy mô tài sản ngân hàng Quy mô tài sản ngân
RnD
(-)
(-)
(-)
(+)
(-)
Leverage
Số lượng thành viên độc lập trong HĐQT
(+)
(-)
Hiệu quả hoạt động của ngân hàng
(+)
Sở hữu nhà nước
Quy mô HĐQT
Hình 4.1: Mô hình hồi quy kết quả của nghiên cứu
113
Như vậy, ta có một số nhận xét sau:
- Biến sở hữu nhà nước vừa tác động tới thông tin bất đối xứng, qua đó tác
động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, vừa tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt
động của ngân hàng, nhưng biến này dù tác động trực tiếp hay gián tiếp đều gây ra
hậu quả là làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Như vậy, có thể thấy đây là
một biến rất quan trọng trong quản trị công ty.
- Biến phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không tác động trực tiếp
tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng mà tác động thông qua thông tin bất đối xứng
sau đó mới tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, và về cơ bản thì biến
này sẽ làm giảm tính bất đối xứng của thông tin và qua đó làm tăng hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
- Biến số lượng thành viên HĐQT độc lập tác động thông qua thông tin bất đối
xứng sau đó mới tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhưng lại tác động
tới 2 biến đại diện của thông tin bất đối xứng theo 2 chiều hướng khác nhau, như
vậy biến này tác động tới mức độ bất đối xứng của thông tin trong ngân hàng theo 2
chiều khác nhau.
- Tính chất bất đối xứng của thông tin được đại diện bởi hai biến là R&D và
Leverage có tác động ngược chiều tới hiệu quả ngân hàng, tức là khi làm giảm tính
bất đối xứng của thông tin trong ngân hàng thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ
tăng lên.
114
TÓM TẮT CHƯƠNG IV
Chương 4 đã trình bày một cách đầy đủ các kết quả nghiên cứu của đề tài.
Theo đó, dữ liệu thu thập được đã được xử lý bằng phần mềm SPSS18. Đầu tiên là
thống kê mô tả mẫu. Kết quả này đã cho cái nhìn khái quát về số lượng và tỷ lệ các
nhóm khác nhau trong mẫu theo các tiêu chí như: Quy mô tài sản, Vốn điều lệ, Sở
hữu nhà nước... Tiếp theo tác giả tiến hành kiểm định mối tương quan giữa các biến
độc lập và biến phụ thuộc. Cuối cùng là chạy mô hình hồi quy để kiểm định các giả
thuyết nghiên cứu. Kết quả hồi quy cho thấy các giả thuyết H2.5, H2.8, H2.13,
H2.15, H3.1, H3.7, H1.1, H1.2 được chấp nhận và H2.1, H2.2, H2.3, H2.4, H2.6,
H2.7, H2.9, H2.10, H2.11, H2.12, H2.14, H2.16, H3.2, H3.3, H3.4, H3.5, H3.6,
H3.8 bị bác bỏ. Chương tiếp theo sẽ trình bày những nội dung cuối cùng của luận
án bao gồm tóm tắt kết quả nghiên cứu, thảo luận kết quả nghiên cứu, một số đề
xuất cho các nhà quản trị , những hạn chế của nghiên cứu và các hướng nghiên cứu
tiếp theo.
115
CHƯƠNG 5
KHUYẾN NGHỊ
5.1. Khuyến nghị đối với hoạt động quản trị tại ngân hàng
Để nâng cao năng lực quản trị trong hệ thống ngân hàng Việt Nam một cách
hiệu quả, cần làm tốt các điều kiện cần thiết như sau:
- Nâng cao năng lực thực thi của cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao nhận thức
của lãnh đạo ngân hàng và thực hiện thêm nhiều các nghiên cứu về lĩnh vực này.
- Việc thiết kế hoặc thay đổi chính sách cần có bước đi thận trọng. Khi thay
đổi quy định hay chính sách, cần thực hiện đánh giá hiệu quả chính sách sau một
thời gian thực thi hoặc trước khi tiếp tục thay đổi chính sách. Ví dụ, các chính sách
nhằm tăng tính độc lập và khả năng kiểm soát của HĐQT để bảo vệ tốt hơn quyền
lợi của cổ đông nhỏ hoặc chính sách hạn mức bảo hiểm tiền gửi để bảo vệ quyền lợi
người gửi tiền đều có các tác động ngoài dự kiến. Nếu HĐQT quá độc lập và số
lượng thành viên HĐQT nhiều có thể khó cho việc ra quyết định của ngân hàng.
Nếu hạn mức bảo hiểm tiền gửi quá cao, người gửi tiền lại quá ỷ lại vào sự bảo lãnh
của nhà nước mà không có động lực giám sát hoạt động ngân hàng.
- Các nguyên tắc quốc tế về quản trị công ty thường được khuyến khích áp dụng ở
tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng các nguyên tắc quốc tế vào từng nước sẽ
không mang lại lợi ích nếu khuôn khổ pháp lý và môi trường thể chế yếu. Để áp dụng
các nguyên tắc về quản trị công ty theo chuẩn mực quốc tế một cách hiệu quả vào hệ
thống ngân hàng Việt Nam, cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết và thực hiện nhiều
nghiên cứu hơn. Đầu tiên, cần thực hiện đánh giá tác động của quy định hiện hành của
Ngân hàng Nhà nước Việt nam về hoạt động và tổ chức ngân hàng đối với hiệu quả hoạt
động của hệ thống ngân hàng. Cần xác định các đặc trưng chính của hệ thống ngân hàng
Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Cần chú trọng nâng cao năng lực quản trị công ty của các NHTM Việt Nam.
Việc cải thiện chỉ số quản trị công ty (CGI) của các NHTM theo hướng chuẩn quốc
116
tế sẽ giúp các NHTM Việt Nam tiệm cận dần với các thông lệ và quy định quốc tế
về minh bạch và công khai hóa thông tin, tăng cường vai trò độc lập của Ban kiểm
soát, tách bạch giữa quyền quản lý và quyền sở hữu. Do đó, việc cải thiện năng lực
quản trị công ty trong NHTM Việt Nam, về dài hạn sẽ giúp các NHTM phát triển
một cách lành mạnh và sinh lợi. Nên xem xét xây dựng và công bố chỉ số CGI trong
ngân hàng làm căn cứ đánh giá quản trị công khai của ngân hàng, thúc đẩy thị
trường tài chính minh bạch và hiệu quả.
5.2. Khuyến nghị đối với Hội đồng quản trị
Để tăng cường vai trò của mình, HĐQT cần thực hiện những việc sau:
Thứ nhất, đối với thành viên HĐQT cần tăng cường năng lực và mức độ cẩn
trọng thông qua việc đánh giá HĐQT. Cụ thể, để nâng cao mức độ cẩn trọng của các
thành viên HĐQT, nhằm cung cấp thông tin cho cổ đông giám sát hiệu quả hoạt động
của từng thành viên HĐQT, HĐQT cần báo cáo ĐHCĐ hằng năm về những nội dung:
- Công tác giám sát đánh giá và cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của Ban
điều hành.
- HĐQT độc lập có thể kiểm chứng lại mức độ chính xác và hợp lý của những
thông tin tài chính và phi tài chính được cung cấp không thông qua BKS và KTNB.
- Chủ tịch HĐQT phải báo cáo trước ĐHCĐ hằng năm về việc đánh giá mức
độ hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm của HĐQT và từng thành viên HĐQT.
- Ngoài ra, nhằm nâng cao năng lực giám sát, các thành viên HĐQT thường
xuyên tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn về QTCT và công bố thông tin BCTC.
- Các thành viên HĐQT cần nắm rõ các trách nhiệm của mình. Thành viên
HĐQT cần tăng cường tham gia giám sát, báo cáo về các nguy cơ của công ty, và
đặc biệt là thiết lập cơ chế, chính sách, quy trình để bảo đảm môi trường kiểm soát
phù hợp. Công ty cần bảo đảm có bộ phận kiểm toán nội bộ đủ độ tin cậy, có trình
độ chuyên môn, báo cáo trực tiếp cho HĐQT.
Thứ hai, HĐQT cần tăng cường sự tham gia của những thành viên độc lập
trong HÐQT từ bên ngoài để nâng cao tính minh bạch, công khai trong quản trị
117
công ty, giảm nguy cơ lạm dụng quyền lực của những nguời quản lý, bảo vệ lợi ích
chính dáng của cổ đông giúp cho việc hoạch định chiến luợc,giám sát quá trình diều
hành hoạt động kinh doanhcủa công ty duợc hiệu quả hơn
Thứ ba, HĐQT cần lựa chọn những thành viên HÐQT có nhiều kinh nghiệm,
giỏi chiến luợc, am tường lĩnh vực kinh doanh của công ty; tuyệt đối tránh tình
trạng lựa chọn các quan chức hoặc công chức trong các cơ quan quản lý nhà nuớc
hoàn toàn xa lạ với hoạt động kinh doanh bầu làm thành viên HÐQT, nhất là ở
những ngân hàng có cổ đông nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Thứ tư, khuyến khích các cổ đông lớn tham gia HĐQT nhằm giảm mâu thuẫn
lợi ích trong ngân hàng. Để đảm bảo tính minh bạch và tăng cường sự giám sát của
HĐQT, NHTM cần phải tách bạch giữa chức năng giám sát của HĐQT với chức
năng điều hành kinh doanh của Ban điều hành, thành viên HĐQT không nên trực
tiếp phê duyệt các giao dịch kinh tế cụ thể. Đối với các khoản tín dụng/đầu tư lớn
cần phê duyệt của HĐQT thì toàn bộ HĐQT biểu quyết với vai trò giám sát của Hội
đồng quản trị đối với Ban điều hành.
Thứ năm, Phần lớn thành viên HDDQT đều phụ thuộc vào báo cáo của Ban
điều hành. Tuy vậy, các báo cáo này đều đã được chỉnh sửa nhằm mục đích thuyết
phục hơn là việc cung cấp những thông tin đáng tin cậy. Để khắc phục tình trạng
thiếu thông tin và thông tin ít chính xác, các thành viên HĐQT độc lập cần liên tục
truy cập các thông tin và phân tích từ những nguồn tin độc lập, khách quan và trung
lập. Cần thiết lập hệ thống cung cấp thông tin riêng để đảm bảo thu thập thông tin
nhanh chóng, chính xác. Ngoài kênh thu thập chính thống do Ban điều hành cung
cấp, các thành viên HĐQT độc lập cần có kênh thông tin khác từ các cổ đông, nhân
viên hoặc các bên liên quan khác.
Thứ sáu, các ngân hàng nên có một số lượng thành viên độc lập nhất định
tham gia hội đồng quản trị. Tuy vậy, để tăng cường vai trò của các thành viên độc
lập này, việc lựa chọn là rất quan trọng. Các thành viên này cần giữ cả vai trò giám
sát và người hỗ trợ đem lại các ý tưởng chiến lược cho ngân hàng.
118
Thứ bảy, HĐQT và Ban kiểm soát cần phải thiết lập hệ thống báo cáo định kỳ
(hàng quý) từ tất cả các bộ phận, đơn vị trong TCTD để báo cáo cho Ban kiểm soát
thông qua Kiểm toán nội bộ. Trên cơ sở đó, Ban kiểm soát/Kiểm toán nội bộ đánh
giá về mức độ nghiêm trọng của các tồn tại, sai phạm, rủi ro để tổng hợp các vấn đề
cần báo cáo cho HĐQT và Ngân hàng Nhà nước.
5.3. Khuyến nghị đối với sở hữu
Giảm sở hữu nhà nước trong ngân hàng nhằm tăng khả năng sinh lời điều này
phù hợp với chủ trương giảm dần vốn nhà nước. Tuy vậy phần vốn đại diện nhà
nước vẫn nên giữ cổ phần chi phối.
Các cổ đông nhà nước nên tham gia nhiều hơn vào vấn đề quản trị . Cổ đông này
cần khắt khe hơn với HĐQT, đặc biệt là trong vấn đề đánh giá, bổ nhiệm kiểm toán
độc lập, yêu cầu cung cấp thông tin về lai lịch của những thành viên HĐQT được đề
cử, cũng như chất lượng báo cáo của HĐQT và BKS. Cần thể hiện trách nhiệm của
mình trong các cuộc họp đại hội cổ đông.
Nhà nước, trong vai trò cổ đông lớn tai các ngân hàng thương mại cần giữ vai
trò “tiên phong” trong tăng cường quản trị công ty, tập huấn cho các thành viên
HĐQT được bổ nhiệm theo các thông lệ QTCT toàn cầu, cũng như yêu cầu áp dụng
những thông lệ này trong các công ty nhà nước có phần vốn lớn.
Cần xây dựng, thực hiện các chương trình tập huấn có chất lượng về QTCT
cho các thành viên HĐQT, Ban Giám đốc. Cần có báo cáo riêng về tình hình tập
huấn hàng năm của từng thành viên HĐQT, TGĐ và Thư ký công ty trong Báo cáo
thường niên. Phải quy định bắt buộc tập huấn về QTCT và xác định thời lượng tập
huấn cụ thể. Xây dựng các chương trình, tài liệu tập huấn, khảo sát trường hợp phù
hợp với Việt Nam và phản ánh những thông lệ tối ưu quốc tế.
5.4. Khuyến nghị đối với thông tin bất đối xứng
Việc hạn chế và giảm thiểu ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng sẽ giúp lành
mạnh hóa thị trường, đảm bảo ổn định tài chính và củng cố niềm tin, trong đó cần
chú trọng tăng cường các quy định công bố và minh bạch thông tin, đồng thời đẩy
119
mạnh hệ thống giám sát và các quy định đảm bảo an toàn vĩ mô. Để làm được điều
này hệ thống tài chính- ngân hàng của Việt Nam cần làm những việc như sau:
Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thông tin công bố cho cổ đông và cộng
đồng nhà đầu tư nói chung. Việc công khai thông tin của công ty hiện nay nhìn
chung còn ở mức chưa đáng kể. Công ty cần cung cấp bức tranh tổng thể, rõ ràng về
tình hình công ty, các chiến lược, nguy cơ của công ty, cũng như hoạt động của
HĐQT, BKS, tình hình tham dự các cuộc họp. Chất lượng báo cáo về các cơ chế,
chính sách, quy trình quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ còn nhiều hạn chế và cần
được cải thiện. Chất lượng báo cáo cả về thông tin tài chính và phi tài chính cũng
phải được cải thiện.
Để hạn chế “tâm lý ỷ lại”, một mặt chính phủ cần đẩy nhanh quá trình tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng, tăng tính hiệu quả của thị trường bằng cách kiên quyết giải
thể hoặc sáp nhập các tổ chức tín dụng gây ra quá nhiều tổn thất cho xã hội, trên cơ
sở phải để cho người chủ các tổ chức này phải trả giá cho những gì họ đã gây ra cho
nền kinh tế. Một khi chính phủ vẫn còn nương nhẹ cho những tổ chức này, không
những các tổ chức này tiếp tục hoạt động không hiệu quả, mà còn là tiền lệ xấu cho
tâm lý ỷ lại sau này. Chính phủ cần nhìn nhận rõ ràng tác hại của sở hữu chéo, ngăn
chặn và kiểm soát tình trạng sở hữu chéo và ảnh hưởng của nhóm lợi ích, không để
các ông chủ- do ỷ lại rằng sẽ không ai có thể đụng đến mình- lợi dụng ngân hàng
hay các tổ chức tài chính để cung cấp vốn cho các công ty sân sau của mình, gây
nên những hệ lụy khôn lường cho nền kinh tế.
Để hạn chế ảnh hưởng của “lựa chọn bất lợi” và “người ủy thác- đại diện” đối
với toàn hệ thống, cần tăng cường chức năng giám sát hệ thống tài chính, chú trọng
nhiều hơn vào các quy định bảo đảm an toàn vĩ mô nhằm quản lý tín dụng chặt chẽ
hơn, ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro của cả hệ thống. Nhà nước cần xem xét thay
đổi mô hình giám sát, tập trung hoàn thiện về mặt pháp lý, chức năng và quyền lực
của các tổ chức giám sát tài chính. Hiện nay, hệ thống giám sát tài chính của Việt
Nam được tổ chức theo mô hình giám sát theo thể chế (Trần Đăng Khâm, 2013).
Khi hệ thống tài chính phát triển hơn, mối liên kết giữa hệ thống ngân hàng, chứng
120
khoán, bất động sản trở nên chặt chẽ vào phụ thuộc vào nhau, mô hình này sẽ bộc lộ
nhiều nhược điểm như khả năng phối hợp không tốt giữa các cơ quan giám sát, khác
biệt về chính sách đối với các thị trường khác nhau, hạn chế sự kiểm soát đối với
các tổ chức tài chính hoạt động đa lĩnh vực (Trần Đăng Khâm, 2013). Chính vì vậy,
một mô hình giám sát thống nhất, tương tự như ở Anh, cần phải được xem xét để
tăng tính hiệu quả của việc giám sát, khắc phục nhược điểm của mô hình giám sát
theo thể chế. Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia, theo đúng tên gọi của tổ chức này,
cần phải được trao nhiều quyền và tăng cường vai trò nhiều hơn, với vị thế là tổ
chức giám sát tài chính cao nhất, tập trung điều phối giám sát tương tác giữa các thị
trường, chứ không chỉ làm chức năng tư vấn và tham mưu như hiện nay.
Cần tăng cường minh bạch hóa thông tin tài chính. Đối với Nhà nước, cần
thiết lập các quy định công bố thông tin để các bên tham gia thị trường đều được
tiếp cận với thông tin công bằng và như nhau. Để có được một cơ chế như vậy,
trước hết phải có chính sách đối xử một cách công bằng, tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh giữa các loại hình tổ chức tín dụng, có hoặc không có sở hữu nhà nước.
Chính phủ bên cạnh việc thiết lập các quy định chặt chẽ, yêu cầu công bố thông tin
đầy đủ và trung thực, cần có chế tài đủ mạnh để buộc các tổ chức tín dụng công bố
thông tin theo đúng quy định, tránh tình trạng như hiện nay rất nhiều các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam thường xuyên chậm công bố báo
cáo tài chính mà không bị xử lý thích đáng. Đối với các tổ chức tài chính, đã đến lúc
cần xem xét áp dụng các hệ thống chuẩn mực kế toán theo các tiêu chuẩn kế toán
quốc tế (như GAAP, IASC), các tiêu chuẩn Basel quốc tế cho hệ thống ngân hàng,
nhằm chuẩn hóa hệ thống thông tin tài chính theo hướng minh bạch, hội nhập.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để có thể thành lập công ty xếp hạng tín dụng
hay xếp hạng tín nhiệm các tổ chức tài chính và công ty một cách chuẩn mực và
chính thống nhằm giúp cung cấp thông tin đầy đủ hơn cho người dân và cả nền kinh
tế trong việc ra các quyết định tài chính.
HĐQT cần xây dựng hệ thống báo cáo trong đó quy định rõ nội dung, thời
gian phù hợp nhiệm vụ định hướng và giám sát có liên quan đến lập và công bố
121
như: nhận diện các hoạt động quản trị rủi ro, duy trì và cải tiến hệ thống kiểm soát
nội bộ để Ban điều hành cung cấp nhằm tránh tình trạng thông tin bất đối xứng giữa
HĐQT và Ban điều hành.
HĐQT cần tiếp nhận thường xuyên những thông tin phi tài chính như: thị
phần, sự hài lòng của nhân viên, hoạt động của đối thủ cạnh tranh, các kế hoạch dự
kiến của Ban điều hành…, để giám sát nội dung công bố liên quan đến thông tin phi
tài chính.
Để khắc phục tình trạng thiếu thông tin và thông tin ít chính xác, các thành
viên HĐQT độc lập cần liên tục truy cập các thông tin và phân tích từ những nguồn
tin độc lập, khách quan và trung lập. Cần thiết lập hệ thống cung cấp thông tin riêng
để đảm bảo thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác. Ngoài kênh thu thập chính
thống do Ban điều hành cung cấp, các thành viên HĐQT độc lập cần có kênh thông
tin khác từ các cổ đông, nhân viên hoặc các bên liên quan khác.
Tăng cường minh bạch thông tin để thị trường đặc biệt là cổ đông nhỏ có thể
tiếp cận thông tin một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Nên xem xét xây dựng và công bố chỉ số quản trị (CGI) trong ngân hàng làm
căn cứ đánh giá quản trị công khai của ngân hàng, thúc đẩy thị trường tài chính
minh bạch và hiệu quả.
Về phía các ngân hàng công bố thông tin cần tuân thủ những việc sau. Thứ
nhất, xây dựng quy chế rõ ràng, nghiêm ngặt về quản trị công ty và cần được phổ
biến rộng rãi tới các thành viên để mọi người cùng hiểu cùng thực hiện. Thứ hai,
nghiên cầm tình trạng người quản lý hay thành viên HĐQT là những người có khả
năng biết trước thông tin thực hiện việc mua bán cổ phiếu cho đến khi thông tin
được công bố.
5.5. Khuyến nghị về chính sách
Các ngân hàng cần rà soát hệ thống văn bản quản trị như điều lệ, quy chế quản
trị, kiểm soát v.v... liên quan đến quản trị công ty đảm bảo tuân thủ đúng các quy
định của luật pháp và phù hợp với nguyên tắc quốc tế.
122
HĐQT có vai trò và ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng tài sản và chi phí
hoạt động của ngân hàng. HĐQT đại diện tất cả các cổ đông (cả cổ đông lớn và
nhỏ) để lãnh đạo và giám sát ban điều hành, đảm bảo ngân hàng đạt được mục tiêu
đề ra. Do vậy, quy chế về quản trị công ty cần nêu trình tự và thủ tục đề cử, ứng cử,
bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm thành viên HĐQT. Để đảm bảo tăng cường tính độc
lập và khả năng đánh giá khách quan của HĐQT và BKS, NHTM cần tuân thủ các
điều sau:
Thứ nhất, cần công bố các tiêu chuẩn, thông tin về ứng viên tham gia HĐQT.
Các tiêu chuẩn để miễn nhiệm, bãi nhiệm, bổ sung thành viên HĐQT, ban giám
đốc, kế toán trưởng…. cũng phải rõ ràng.
Thứ hai, cần có qui trình, thủ tục để HĐQT có thể phối hợp hoạt động với ban
giám đốc, BKS…
Thứ ba, có qui định rõ ràng về hoạt động đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối
với đội ngũ quản lý, BKS, Tổng giám đốc…
Thứ tư, xây dựng rõ ràng các quy trình, thủ tục về việc thành lập và hoạt
động của các tiểu ban, ủy ban thuộc HĐQT nhằm tăng cường tính độc lập và khả
năng đánh giá khách quan của HĐQT và BKS.
Các ngân hàng nên công khai cho công chúng, cổ đông biết các quy chế, điều lệ
và các văn bản liên quan để giúp người gửi tiền và cổ đông nhỏ theo dõi được hoạt
động của ngân hàng. Ngân hàng cũng cần công bố thông tin liên quan đến quản trị
công ty như báo cáo về quản trị công ty, tình hình hoạt động kinh doanh, các biến động
nhân sự lớn, báo cáo tài chính kiểm toán, báo cáo thường niên. Ngoài ra, cơ chế chi trả
thù lao và mức chi trả thù lao của từng thành viên HĐQT và Ban kiểm soát cần được
công khai và thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên. Qua đó, quyền
lợi của cổ đông nhỏ và người gửi tiền được quan tâm hơn.
Các ngân hàng cần đa dạng hóa các kênh đào tạo liên quan đến kiến thức về
quản trị công ty như đào tạo, thảo luận nội bộ, tham gia các khóa học tổ chức bởi
Ngân hàng Nhà nước, các định chế tài chính quốc tế, hội nghị, hội thảo.
123
Nâng cao nhận thức của lãnh đạo NHTM Việt Nam về quản trị công ty theo
chuẩn quốc tế. Bản thân đội ngũ lãnh đạo tại các NHTM gồm thành viên HĐQT,
Ban Tổng giám đốc, Ban kiểm soát, Kế toán trưởng, giám đốc các chi nhánh…cần
tự nỗ lực, tăng cường tìm hiểu, nâng cao nhận thức về các nội dung của quản trị công
ty như quyền lợi của cổ đông và các chức năng sở hữu, sự đối xử bình đẳng với cổ
đông lớn cũng như cổ đông nhỏ lẻ, sự minh bạch trong điều hành và công bố thông tin.
Các cấp lãnh đạo cao nhất như Đại hội đồng cổ đông, HĐQT cần phải đảm bảo rằng
các nguyên tắc, quy chế, quy định về quản trị công ty, điều lệ công ty phải được thực
hành và tuân thủ, kể cả ở cấp điều hành cao nhất đến các cấp thấp hơn.
Ban lãnh đạo ngân hàng nhất thiết phải có nhận thức đúng đắn về vai trò của
Kiểm soát nội bộ và Kiểm toán nội bộ. Hoạt động này cần được lãnh đạo bởi một
thành viên HĐQT độc lập. Đặc biệt, trong cơ cấu điều hành hoạt động, vị trí Giám
đốc quản trị rủi ro có vai trò quan trọng, nên được trao quyền lực đủ để tiến hành
các hoạt động phòng ngừa, kiểm soát, ứng biến với các rủi ro trọng yếu liên quan
đến các hoạt động tín dụng, thị trường, hoạt động hay pháp lý.
5.6. Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước
Các cơ quan quản lý nhà nước (như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính,.. ) tác
động tới quản trị NHTM trước hết thông qua hệ thống các luật, các quy định liên
quan đến hoạt động ngân hàng. Nguyên tắc về quản trị NHTM của Ủy ban Basel
ban hành năm 2006 với 14 nguyên tắc và 6 nội dung gồm mô hình HĐQT, Ban điều
hành, công tác quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ, vai trò của người giám sát, quản
trị đối với ngân hàng có cơ cấu phức tạp, công khai và minh bạch thông tin. Hiện
nay, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng giai đoạn 2 và thúc đẩy quản trị công ty trong ngân hàng tốt. Do
vậy cơ quan quản lý nhà nước cần xem xét, đánh giá khả năng áp dụng và hiệu quả
áp dụng các nguyên tắc về quản trị công ty của Ủy ban Basel trong bối cảnh Việt
Nam. Trên cơ sở đó, xây dựng lộ trình áp dụng nguyên tắc này.
Việc áp dụng các nguyên tắc quốc tế về quản trị công ty hoặc xây dựng luật,
quy định mới về quản trị NHTM Việt Nam cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Tăng cường vai trò và năng lực thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước
và thúc đẩy việc cưỡng chế tuân thủ pháp luật.
124
- Xây dựng khung pháp lý để bảo vệ lợi ích của cổ đông nhỏ. Rà soát, điều
chỉnh và ban hành mới văn bản về hoạt động và quản trị công ty để phù hợp điều
kiện phát triển hệ thống ngân hàng. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới các chính sách
và việc thực thi các chính sách để bảo vệ quyền lợi và nâng cao trách nhiệm các cổ
đông nhất là cổ đông nhỏ.
- Tăng cường tính độc lập của HĐQT, Ban kiểm soát và tăng cường hiệu lực
thực thi của các quy định hiện hành. Tăng cường vai trò kiểm soát và tính độc lập
của HĐQT và Ban kiểm soát sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ, nâng
cao sự an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và làm tăng hiệu quả hoạt động
của ngân hàng.
- Nâng cao nhận thức và đào tạo thành viên HĐQT các NHTM về các vấn đề
quản trị công ty.
- Tăng cường minh bạch thông tin để thị trường đặc biệt là cổ đông nhỏ có thể
tiếp cận thông tin một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội Ngân hàng Việt nam và các trường cần tổ chức
các khóa đào tạo nhằm nâng cao năng lực quản trị công ty. Trong đó, có thể huy
động nguồn lực từ nhiều phía như sự tài trợ của các tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó,
tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức liên quan đến quản trị công ty thông
qua việc tổ chức các khóa đào tạo thường xuyên, các hội nghị, hội thảo, cử chuyên
gia đến đào tạo tại chỗ cho các cán bộ quản lý ngân hàng, gửi tài liệu đào tạo, tài
liệu tham khảo về quản trị công ty.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý như Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban giám sát
tài chính quốc gia, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần tăng cường các kiểm tra,
giám sát tình hình thực hiện quản trị công ty. Cần có khuôn khổ giám sát có hiệu
lực để giảm khoảng cách giữa quy định của Ngân hàng Nhà nước với thực tiễn thực
thi các quy định của ngân hàng.
Tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản có để đảm bảo an toàn cho hệ thống
ngân hàng hoặc không nên quá theo đuổi mục tiêu tăng trưởng tín dụng nếu khả
năng chịu đựng rủi ro hoặc quản lý của ngân hàng chưa tương xứng với quy mô
hoạt động.
125
Nên xem xét xây dựng và công bố chỉ số CGI trong ngân hàng làm căn cứ
đánh giá quản trị công khai của ngân hàng, thúc đẩy thị trường tài chính minh bạch
và hiệu quả.
5.7. Ngoài những kiến nghị đã nêu, tác giả để xuất một số kiến nghị sau:
Dựa vào kết quả nghiên cứu ta nhận thấy, mặc dù phần trăm sở hữu nước
ngoài không tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM
Việt Nam nhưng lại thông qua biến R&D làm tăng hiệu quả hoạt động. Vì vậy, đề
xuất các cơ quan tham mưu về chính sách nghiên cứu tăng cường tỷ lệ nắm giữ của
nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với mức độ phát triển kinh tế và đảm bảo an toàn
hệ thống tài chính.
Thông qua kết quả nghiên cứu tại chương bốn, ta cũng nhận thấy số lượng thành
viên độc lập trong HĐQT thông qua biến Leverge làm tăng hiệu quả hoạt động ngân
hàng thương mại. Trong thực tế cũng cho thấy, hiện nay, số lượng thành viên hội động
quản trị trong các ngân hàng chiếm một tỉ lệ còn thấp, khoảng từ một đến hai thành viên.
Số lượng này thấp hơn so với thế giới. Theo nghiên cứu thế giới để đạt được hiệu quả
hoạt động cũng như tăng cường tính minh bạch thì số lượng nên từ 5 đến 10 người.
Chính vì vậy, tác giả kiến nghị tăng cường số lượng thành viên độc lập trong HĐQT.
Ngoài hai kiến nghị đã nêu trên, qua nghiên cứu của mình, tác giả cũng đề
xuất tăng cường quy mô của hội động quản trị. Khi tăng qui mô hội đồng quản trị sẽ
tạo được cơ hội cho các cổ đông nhỏ được tham gia vào các hoạt động điều hành
chung, được đóng góp năng lực và có tiếng nói trong việc đưa ra các quyết sách của
ngân hàng, cũng như đảm bảo được quyền lợi của mình.
5.8. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo
Nghiên cứu có một số hạn chế như sau. Thứ nhất, chưa đi sâu nghiên cứu vấn
đề quản trị công ty trong khối ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và các
tổ chức tín dụng phi ngân hàng (HSBC, ANZ, Citibank, …). Thứ hai, chưa nghiên
cứu các biến khác cũng đại diện cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng như ROE.
Những hạn chế trên là những gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo như: mở rộng đối
tượng nghiên cứu là các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài hoặc các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng v.v…
126
KẾT LUẬN
Sau khi tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả đã đưa ra được
một mô hình nghiên cứu về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng, quản trị công
ty và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trên cơ sở mô hình nghiên cứu, tác giả đã
đưa ra các giả thuyết về mối quan hệ giữa ba nhân tố này.
Nghiên cứu cũng đã khẳng định được một số kết quả sau:
- Có sự tác động của các nhân tố quản trị công ty tới thông tin bất đối xứng
gồm: Tỉ lệ phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, Số lượng thành viên độc
lập trong HĐQT và Sở hữu nhà nước. Trong đó, yếu tố Số lượng thành viên độc lập
trong HĐQT có tác động vừa thuận chiều vừa ngược chiều tới thông tin bất đối
xứng và yếu tố Sở hữu nhà nước không chỉ tác động làm giảm hiệu quả hoạt động
một cách trực tiếp mà còn gián tiếp thông qua thông tin bất đối xứng tác động tiêu
cực tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
- Có 2 yếu tố thuộc quản trị công ty ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt
động của ngân hàng là Sở hữu nhà nước và Số lượng thành viên HĐQT, các yếu tố
Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và Số lượng thành viên HĐQT độc lập
không ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động mà ảnh hưởng thông qua thông
tin bất đối xứng. Các yếu tố còn lại gồm: Số lượng thành viên HĐQT là nữ giới,
Trình độ của HĐQT, Kinh nghiệm của HĐQT và Cổ đông lớn không có tác động
tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
- Đóng góp tiếp theo rất quan trọng của luận án là khẳng định có dấu hiệu
của sự ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
theo hướng tiêu cực, thông qua mối quan hệ ngược chiều giữa hai biến đại diện cho
thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các giải pháp chính như sau:
- Thứ nhất: Nên hạn chế, giảm bớt phần vốn của nhà nước vào các hoạt động
của ngân hàng bởi đây là yếu tố mà theo kết quả nghiên cứu của tác giả gây ảnh
hưởng không tốt tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Nhà nước chỉ nên đóng một
127
vai trò là nhà quản lý, là cơ quan tạo môi trường cho hoạt động của ngân hàng,
không nên đóng hai vai vừa là người quản lý, vừa là người bị quản lý thông qua vốn
góp vào các ngân hàng như hiện nay.
- Thứ hai: Nên tăng cường mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của yếu tố
thành viên độc lập trong HĐQT thông qua các cơ chế, các quy định cụ thể, hợp lý
cho sự hiện diện và vai trò của lực lượng này trong HĐQT. Nhằm qua đó giảm tính
bất đối xứng của thông tin và làm tăng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
TMCP của Việt nam.
- Thứ ba: Tăng cường ảnh hưởng của HĐQT thông qua việc tăng cả số lượng
và chất lượng của HĐQT vì đây là một yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
- Thứ tư: Cần có các cơ chế để quản lý chặt chẽ hơn việc công bố thông tin
trên cả hai khía cạnh là số lượng và chất lượng, như: tính kịp thời, đầy đủ và chính
xác của thông tin, qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin. Thực tế ở Việt
nam hiện nay, nhà nước mới chỉ quản lý phần nào hiệu quả đối với việc công bố
thông tin ở khía cạnh kịp thời, đầy đủ, nhưng còn tính chính xác vẫn là một vấn đề
nhức nhối. Mặc dù đã được đề cập nhưng vẫn còn những lỗ hổng trong quản lý, dẫn
tới nhiều thông tin công bố chưa được chính xác làm tăng mức độ bất đối xứng của
thông tin, trong khi nghiên cứu đã khẳng định thông tin bất đối xứng có tác động
tiêu cực tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
128
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đào Thị Thanh Bình, Hoàng Thị Hương Giang (2012), “Quản trị doanh nghiệp
ở các ngân hàng thương mại Việt Nam”, tạp chí Kinh tế và Phát triển số 183
năm 2012
2. Đoàn Hồng Phúc, Lê Văn Thông, “Tác động của tác động của quản trị doanh
nghiệp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau cổ phần hóa ở
Việt Nam” tạp chí Kinh tế và Phát triển số 203 tháng 5 năm 2014, trang 56-63.
3. Huỳnh Thế Du, Nguyễn Minh Kiều, Nguyễn Trọng Hoài (2005), Thông tin bất
cân xứng trong hoạt động tín dụng tại VN, Chương trình Giảng dạy Kinh tế
Fulbright
4. Lê Quang Cảnh, Lương Thái Bảo, Nguyễn Vũ Hùng (2015), “Quản trị doanh
nghiệp với kết quả hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân lớn ở Việt Nam”
tạp chí Kinh tế và Phát triển số 215 tháng 5 năm 2015, trang 10-19.
5. Trần Thị Thanh Tú, “Xây dựng bộ chỉ số đánh giá năng lực quản trị điều hành
của các NHTM Việt Nam”, báo cáo tổng kết quả thực hiện đề tài KH&CN cấp
ĐH Quốc Gia năm 2014.
6. Trần Thị Thanh Tú, Nguyễn Hồng Thúy, Nguyễn Tố Tâm (2014), “Xây dựng
mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công bố thông tin
của công ty niêm yết”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh,
Tập 30, Số 3 (2014) 26-36.
Tiếng Anh
1. Acharya, Viral V., Thomas Cooley, Matthew Richardson and Ingo Walter
(2010) “Manufacturing Tail Risk: A Perspective on the Financial Crisis of
2007-09”, Foundations and Trends in Finance, Volume 4, forthcoming.
2. Adams R B, Ferreira D.(2007), “A theory of friendly boards”, Journal of
Finance, Vol. 62, Issue.1, pp.217-250. Adjaoud, F., Zeghal, D., & Andaleeb, S.
(2007), “The effect of Board’s Quality on Performance: A Study of Canadi-an
Firms”, Corporate Governance, Vol. 15 No. 4, pp. 623-635.
129
3. Aerts, Walter, Denis Cormier, and Michel Magnan. "Corporate environmental
disclosure, financial markets and the media: An international perspective.
"Ecological Economics 64.3 (2008): 643-659.
4. Agrawal, Ajay, Christian Catalini, and Avi Goldfarb. "Friends, family, and the
flat world: The geography of crowdfunding." NBER Working Paper 16820
(2011).
5. Antoniadis I., Lazarides T.M, Sarrianides N. (2010), Ownership and
performance in the Greek banking sector, International Conferrence on applied
Economics - ICOAE 2010.
6. Bauer R., Guenster N., Otten R. (2004), “Empirical evidence on corporate
governance
in Europe: The effect on stock returns, firm value and
performance”, Journal of Asset management 5 (2), pp. 91 104.
7. Bebchuk, Lucian, Alma Cohen, and Allen Ferrell. "What matters in corporate
governance?." Review of Financial studies 22.2 (2009): 783-827.
8. Bhagat, S., & Black, B. (2002), “The Non-Correlation Between Board
Independence and Long-Term Firm Perfor- mance”, Journal of Corporation
Law, 27, 231-273.
9. Bhagat, Sanjai, and Brian Bolton. "Corporate governance and
firm
performance."Journal of corporate finance 14.3 (2008): 257-273.
10. Bolton Brian John (2006), “Corporate governance and firm performance”, Luận
án Tiến sĩ 3207729, Đại học Univesity of Colorado at Boulder.
11. Brown, L. D., Caylor, M., L. (2004), Corporate Governance and Firm
Performance, Retrieved Cornett, M. M., Marcus, A.J., & Tehranian, H. (2008),
“Corporate governanve and pay for performance: the im pact of earnings
management”, Jounal of finance Economics, 87, 357-373.
12. Casu B., Ferrari A., Girardone C., and J.O.S. Wilson (2016), Integration,
productivity and technological spillovers: Evidence for Eurozone banking
13. Coles, Jeffrey L., Naveen D. Daniel, and Lalitha Naveen. "Boards: Does one
size fit all?" Journal of financial economics 87.2 (2008): 329-356.
130
14. Cremers, M.K. và Nair, V.B. (2005), “Governance mechanisms and equity
prices”, Journal of Finance, Vol 60, P 2859–2894.
15. Dalton, D.R., and Kesner, I.F. (1987), :Composition and CEO duality in boards
of directors: an international per- spective”, Journal of International Business,
18, 33–42.
16. Degryse, Hans, and Abe De Jong. "Investment and internal finance:
Asymmetric information or managerial discretion?." International Journal of
Industrial Organization 24.1 (2006): 125-147.
17. Demirgüç-Kunt, Asli, and Enrica Detragiache. "Does deposit insurance
increase banking system stability? An empirical investigation." Journal of
monetary economics 49.7 (2002): 1373-1406.
18. Edwards, Meredith, and Robyn Clough. Corporate governance and
performance: an exploration of the connection in a public sector context.
Canberra: University of Canberra, 2005.
19. Eisenberg, T. Sundgren, S. Martin T. Wells (1998), “Larger Board Size and
Decreasing Firm Value in Small Firms”,Journal of Financial Economics, 48,
35 -54.
20. Eisenberg, Theodore, Stefan Sundgren, and Martin T. Wells. "Larger board size
and decreasing firm value in small firms."Journal of financial economics48.1
(1998): 35-54.
21. Eng, L.L. and Mak, Y.T. (2003), “Corporate governance and voluntary
disclosure”, Journal of Accounting & PublicPolicy, Vol. 22, pp 325-345.Fama,
E. F., & Jensen, M. C. (1983), “Separation of Ownership and Control”,
Journal of Law and Economics, 26(2), pp.301-325.
22. Fama, Eugene F., and Michael C. Jensen. "Separation of ownership and
control." The Journal of Law & Economics 26.2 (1983): 301-325.
23. Gillan, Stuart L. "Recent developments
in corporate governance: An
overview."Journal of corporate finance 12.3 (2006): 381-402.
24. Gompers, P., Ishii, J., Metrick, A., 2003. “Corporate governance and equity
prices. Quarterly”. Journal of Economics 118, 107–155
131
25. Gompers, P., L. Ishii, & A. Metrick (2003), “Corporate Governance and Equity
Prices”, Quarterly Journal of Eco- nomics, No.118, pp. 107-155.
26. Gompers, Paul A., Joy Ishii, and Andrew Metrick. "Extreme governance: An
analysis of dual-class firms in the United States." Review of Financial Studies
23.3 (2010): 1051-1088.
27. Gursory, G. and Aydogan, K. (2002), “Equity Ownership Structure, Risk
Taking, and Performance”, Emerging Market Finance & Trade, Vol. 38 No. 6,
pp. 6-20.
28. Hall, B. H., Lerner, J., 2009. “The financing of R&D and innovation”. NBER
Working paper no. w15325, 1-55.
29. Henry, D. (2004), “Corporate governance and ownership structure of target
companies and the outcome of takeoverbids”, Pacific-Basin Finance Journal,
No.12, pp.419-444.
30. Hermalin B. & M.Weisbach (2003), “Boards of directors as an endogenously
determined institution: a survey of the economic evidence”, Economic Policy
Review, 9, 7-26.
31. Himmelberg, C. P., Petersen, B. C., 1994. R&D and internal finance: a panel
study of small firms in high-tech industries". Review of Economics and
Statistics 76, 38-51.
32. James, C. and Houston, J. F. (1995), “CEO compensation and bank risk: Is
compensation in banking structured to promote risk taking?”, Journal of
Monetary Economics, Vol. 36, pp. 405-431.
33. Jensen Michael C. & Williams H. Meckling (1976), “Theory of the firm:
Managerial behavior, Agency costs andOwnership structure”, Journal of
Financial Economics, 3(4), 305-360.
34. Jensen, M. C. (1993), “The Modern Industrial Revolution, Exit and the Failure
of Internal Control Systems”, Journal of Finance, Vol. 48, No.3, pp.831-880.
35. Jensen, M. C. and Meckling, W. (1976), “Theory of the Firm: Managerial
Behaviour, Agency Costs and CapitalStructure”, Journal of Financial
Economics, Vol.3, pp. 305-360.
132
36. Jensen, M. C., & Meckling, W. (1976), “Theory of the firm:Managerial
behavior, agency cost and ownership struc- ture”, Journal of Financial
Economics, 3, 305-360.
37. Jensen, Michael C., and William H. Meckling. "Theory of the firm: Managerial
financial
behavior, agency costs and ownership structure." Journal of
economics 3.4 (1976): 305-360.
38. Jones Thomas M. (1995), “Instrumental Stakeholder Theory: A Synthesis of
Ethics and Economies”, The Academy of Management Review, 20(2), 404-437.
39. Krishnaswami, S., & Subramaniam, V. (1999). Information asymmetry,
valuation, and
the corporate spin-off decision. Journal of Financial
economics,53(1), 73-112.
40. Kyereboah-Coleman and Nicholas Biekpe (2007), “Corporate governance and
financing choices of firms: a panel data analysis”, The South African journal of
economics, Vol.74, p.670-681.
41. La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. (1997), “Investor
Protection and Corporate Valuation”, NBER working paper 7403 National
Bureau of Economics of Research, Cambridge, MA.
42. Lee Sanghoon (2009), “Corporate governance and firm performance”, Luận án
Tiến sĩ 3364922, Đại học The Uni- versity of Utah.
43. Levine (2004) “The Corporate Governance of Banks: A Concise Discussion of
Concepts and Evidence”. World Bank Policy Research Working Paper 3404,
September 2004.
44. Luc Laeven, Valencia and Fabian. Systemic banking crises database: An
update. No. 12-163. International Monetary Fund, 2012.
45. Luigi Zingales. "Why do companies go public? An empirical analysis."The
Journal of Finance 53.1 (1998): 27-64.
46. Macey J. R. and M. O'Hara (2003) “The Corporate Governance of Banks”.
Economic Policy Review, Vol. 9, No. 1, April.
47. Mathiesen, H. "What is Corporate Governance?." (2002).
133
48. Maw N, Lord Lane of Horsell, and Craig-Cooper, M. (1994) Maw on
Corporate Governance ed. by Alsbury, A., Dartmouth Publishing
49. McKnight, P.J & Mira, S. (2003), “Corporate governance Machanisms, Agency
cost and firm performance in Ukfirm”, Retrieved 18 th July, 2013, from
http://ssrn.com/abstract=246030.
50. Modigliani, Franco and Merton (1958), “The cost of capital, corporate finance
and the theory of investment”. American Economic Review vol 48, pp 261-297.
51. Molyneux Goddard, P. and Wilson, J.O.S., (2010) “Banking in the European
Union” Oxford Handbook of Banking. Oxford: Oxford University Press.
52. Mulbert, P. O. (2010). Corporate governance of banks after the financial crisis–
53. OECD, (2004), OECD Priciples of Corporate Governance, Paris.
54. Patrick Thomas, Breitzman, Anthony, and Margaret Cheney. "Technological
powerhouse or diluted competence: techniques for assessing mergers via patent
analysis." R&D Management 32.1 (2002): 1-10.
55. Penner, L. A., Dovidio, J. F., Piliavin, J. A., & Schroeder, D. A. (2005),
“Prosocial Behavior: Multilevel.
56. Peong Kwee Kim, Devinaga Rasinh and Rahayu Binti Tasnim (2012), A
Review of Corporate Governance: Ownership Structure of Domestic-Owned
Banks in Term of Government Connected Ownership, and Foreign Ownership
of Commercial Banks in Malaysia, Journal of Organizational Management
Studies, Vol. 2012 (2012)
57. Perspectives”, Annual Review of Psychology, Vol. 56, pp. 365-392.
58. Porta, R., F. Lopez-de-Silanes, A. Shleifer & R. Vishny (1996). “Law and
finance” NBER Working Paper No. 5661.
59. Rokwaro Massimiliano Kiruri (2013),The effect of ownership structure on bank
profitability in Kenya. European Journal of Management Sciences and
Economics, Vol. 1, Issue 2, March 2013.
60. Rose, C. (2007). Does Female Board Representation Influence Firm
134
Performance? The Danish Evidence. Corporate Governance: An International
Review, 15(2), 404-413.
61. Sale, Hillary A. "Banks: The Forgotten Partners in Fraud." U. Cin. L. Rev. 73
(2004): 139.
62. Shankman, A. (1999), “Reframing the debate between agency and stakeholder
theories of the firm”, Journal of Business Ethics.
63. Shleifer A. and R. W. Vishny (1997) “A Survey of Corporate Governance”,
WP 5554, NBER Working Paper Series.
64. Singh, M., & Davidson, W. N. (2007), ‘Agency Cost, Ownership Structure and
Corporate Governance Mechanisms”, Journal of Banking and Finance, 27,
793-816.
65. Stiglitz, Joseph E., and Andrew Weiss. "Asymmetric information in credit
markets and
its
implications
for macro-economics." Oxford Economic
Papers44.4 (1992): 694-724.
66. Yermack, D. (1996), “Higher market valuation of companies with a small
board of directors”, Journal of FinancialEconomics, 40, 185-212.
135
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả chạy thống kê mô tả các biến độc lập
Descriptive Statistics
Std.
N Minimum Maximum Mean
Skewness
Kurtosis
Deviation
Std.
Std.
Statistic Statistic
Statistic Statistic Statistic Statistic
Statistic
Error
Error
4.00
11.00 7.2411
1.93058
.323
.204
.406
-.746
Boadsize
141
4.00 1.0000
1.06904
.890
.00
.204
.406
.108
Gender
141
9.00 3.5887
2.17476
.635
.00
.204
.406
-.048
Edu
141
39.80
57.00 49.5170
4.28990
-.245
.204
.406
-.856
BoardAge
141
3.00
.5248
.77073
1.625
.00
.204
.406
2.477
OutDir
141
1.00
.7376
.44151
-1.092
.00
.204
.406
-.820
Block
141
1.00
.1915
.39488
1.585
.00
.204
.406
.520
State
141
.406
.0000
.3000 .110138
.1140753
.510
.204
-1.259
FOWN
141
Valid N
141
(listwise)
Phụ lục 2: Kết quả chạy thống kê mô ta các biến phụ thuộc
Descriptive Statistics
Std.
N
Minimum Maximum
Mean
Deviation
Skewness
Kurtosis
Std.
Std.
Statistic Statistic
Statistic
Statistic
Statistic Statistic
Error Statistic
Error
RnD
141
.00
1.84E8
1.4765E8 5.04039E
-2.093
.204
2.764
.406
7
Leverage
141 1.585649
34.69988
10.946238
4.777907
1.044
.204
3.533
.406
300
6000
52733
111894
ROA
141
.0001111
.0216483
.01020816
.0050930
-.075
.204
-.646
.406
2203
6200
73204
2641180
Valid N
141
(listwise)
136
Phụ lục 3: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc R&D đại diện cho thông tin bất đối xứng
với các biến độc lập thuộc quản trị công ty
Correlations
Boadsize
Gender
Edu
BoardAge
OutDir
Block
State
FOWN
Boadsize Pearson Correlation
1
Sig. (2-tailed)
.159 .059
.371** .000
.325** .000
.399** .000
.142 .093
.080 .348
.507** .000
RnD -.369** .000
Gender
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .159 .059
141 .237** .005
141 .070 .412
141 -.035 .683
141 -.242** .004
141 .508** .000
141 -.069 .415
141 -.130 .125
Edu
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .371** .000
141 .237** .005
141 .246** .003
141 .198* .019
141 -.017 .846
141 .500** .000
141 .084 .322
141 -.118 .162
N
BoardAge Pearson Correlation
141 1
Sig. (2-tailed)
141 .325** .000
141 .070 .412
141 .246** .003
141 .168* .046
141 -.007 .937
141 .362** .000
141 .207* .014
141 -.126 .136
OutDir
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .399** .000
141 -.035 .683
141 .198* .019
141 .168* .046
141 .198* .019
141 -.121 .152
141 .432** .000
141 -.370** .000
Block
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .142 .093
141 -.242** .004
141 -.017 .846
141 -.007 .937
141 .198* .019
141 -.447** .000
141 .371** .000
141 -.112 .188
State
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .080 .348
141 .508** .000
141 .500** .000
141 .362** .000
141 -.121 .152
141 -.447** .000
141 -.212* .012
141 -.031 .711
FOWN
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .507** .000
141 -.069 .415
141 .084 .322
141 .207* .014
141 .432** .000
141 .371** .000
141 -.212* .012
141 -.391** .000
RnD
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 -.369** .000
141 -.130 .125
141 -.118 .162
141 -.126 .136
141 -.370** .000
141 -.112 .188
141 -.031 .711
141 -.391** .000
N
141
141
141
141
141
141
141
141
141
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
137
Phụ lục 4: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc Leverage với các biến độc lập thuộc quản trị công ty
Correlations
Gender
Edu
OutDir
Block
State
FOWN
Boadsize
Boadsize 1
Leverage .154 .068
BoardAge .325** .000
.159 .059
.371** .000
.399** .000
.142 .093
.080 .348
.507** .000
Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
Gender
141 1
141 .159 .059
141 .237** .005
141 -.035 .683
141 -.242** .004
141 .508** .000
141 -.069 .415
141 .070 .412
141 .158 .061
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
Edu
141 1
141 .371** .000
141 .237** .005
141 .198* .019
141 -.017 .846
141 .500** .000
141 .084 .322
141 .246** .003
141 .325** .000
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
N
BoardAge Pearson Correlation
141 1
141 .325** .000
141 .070 .412
141 .246** .003
141 .168* .046
141 -.007 .937
141 .362** .000
141 .207* .014
141 .209* .013
Sig. (2-tailed)
OutDir
141 1
141 .399** .000
141 -.035 .683
141 .198* .019
141 .198* .019
141 -.121 .152
141 .432** .000
141 .168* .046
141 .139 .100
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
Block
141 1
141 .142 .093
141 -.242** .004
141 -.017 .846
141 .198* .019
141 -.447** .000
141 .371** .000
141 -.007 .937
141 -.143 .090
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
State
141 1
141 .080 .348
141 .508** .000
141 .500** .000
141 -.121 .152
141 -.447** .000
141 -.212* .012
141 .362** .000
141 .492** .000
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
FOWN
141 1
141 .507** .000
141 -.069 .415
141 .084 .322
141 .432** .000
141 .371** .000
141 -.212* .012
141 .207* .014
141 -.111 .192
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
Leverage
141 1
141 .154 .068
141 .158 .061
141 .325** .000
141 .139 .100
141 -.143 .090
141 .492** .000
141 -.111 .192
141 .209* .013
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141
141
141
141
141
141
141
141
141
N
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
138
Correlations
Gender
Edu
OutDir
Block
State
FOWN
Boadsize 1
Boadsize
Leverage .154 .068
Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.159 .059
BoardAge .325** .000
.371** .000
.399** .000
.142 .093
.080 .348
.507** .000
Gender
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .159 .059
141 .070 .412
141 .237** .005
141 -.035 .683
141 -.242** .004
141 .508** .000
141 -.069 .415
141 .158 .061
Edu
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .371** .000
141 .237** .005
141 .246** .003
141 .198* .019
141 -.017 .846
141 .500** .000
141 .084 .322
141 .325** .000
N
BoardAge Pearson Correlation
141 1
Sig. (2-tailed)
141 .325** .000
141 .070 .412
141 .246** .003
141 .168* .046
141 -.007 .937
141 .362** .000
141 .207* .014
141 .209* .013
OutDir
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .399** .000
141 -.035 .683
141 .168* .046
141 .198* .019
141 .198* .019
141 -.121 .152
141 .432** .000
141 .139 .100
Block
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .142 .093
141 -.242** .004
141 -.007 .937
141 -.017 .846
141 .198* .019
141 -.447** .000
141 .371** .000
141 -.143 .090
State
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .080 .348
141 .508** .000
141 .362** .000
141 .500** .000
141 -.121 .152
141 -.447** .000
141 -.212* .012
141 .492** .000
FOWN
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .507** .000
141 -.069 .415
141 .207* .014
141 .084 .322
141 .432** .000
141 .371** .000
141 -.212* .012
141 -.111 .192
Leverage
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
141 .154 .068
141 .158 .061
141 .209* .013
141 .325** .000
141 .139 .100
141 -.143 .090
141 .492** .000
141 -.111 .192
N
141
141
141
141
141
141
141
141
141
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
139
Phụ lục 5: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động
của ngân hàng với các biến thuộc quản trị công ty
Correlations
Year
Block
State
FOWN
Year
FirmSize FirmAge .224**
.460**
Boadsize Gender .018
.240**
1
Edu .320**
BoardAge OutDir .509**
.165
.104
.012
.351**
ROA -.527**
Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.004
.831
.000
.051
.000
.218
.887
.000
.008
.000
.000
FirmSize
141 1
141 .733**
141 .460**
141 .381**
141 .400**
141 .610**
141 .255**
141 -.211*
141 .769**
141 .404**
141 .118
141 -.131
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.000
.000
.000
.000
.000
.002
.012
.000
.000
.164
.122
FirmAge
141 .733**
141 1
141 .224**
141 .154
141 .229**
141 .362**
141 .033
141 -.583**
141 .815**
141 .409**
141 -.124
141 -.119
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.000
.008
.069
.006
.000
.695
.000
.000
.000
.143
.161
Boadsize
141 .381**
141 .154
141 .240**
141 1
141 .159
141 .371**
141 .399**
141 .142
141 .080
141 .325**
141 .507**
141 .197*
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.000
.069
.004
.059
.000
.000
.093
.348
.000
.000
.019
Gender
141 .400**
141 .229**
141 .018
141 .159
141 1
141 .237**
141 -.035
141 -.242**
141 .508**
141 .070
141 -.069
141 .031
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.000
.006
.831
.059
.005
.683
.004
.000
.412
.415
.718
Edu
141 .610**
141 .362**
141 .320**
141 .371**
141 .237**
141 1
141 .198*
141 -.017
141 .500**
141 .246**
141 .084
141 -.158
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.000
.000
.000
.000
.005
.019
.846
.000
.003
.322
.061
BoardAge
141 .404**
141 .409**
141 .165
141 .325**
141 .070
141 .246**
141 .168*
141 -.007
141 .362**
141 1
141 .207*
141 .024
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.051
.779
.000
.000
.000
.412
.003
.046
.937
.000
.014
140
OutDir
141 .509**
141 .255**
141 .033
141 .399**
141 -.035
141 .198*
141 .168*
141 1
141 .198*
141 -.121
141 .432**
141 -.185*
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.000
.002
.695
.683
.000
.019
.046
.019
.152
.000
.028
Block
141 .104
141 -.211*
141 -.583**
141 -.242**
141 .142
141 -.017
141 -.007
141 .198*
141 1
141 -.447**
141 .371**
141 .042
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.218
.012
.000
.004
.093
.846
.937
.019
.000
.000
.624
State
141 .012
141 .769**
141 .815**
141 .508**
141 .080
141 .500**
141 .362**
141 -.121
141 -.447**
141 1
141 -.212*
141 -.055
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.887
.000
.000
.000
.348
.000
.000
.152
.000
.012
.519
FOWN
141 .351**
141 .118
141 -.124
141 -.069
141 .507**
141 .084
141 .207*
141 .432**
141 .371**
141 -.212*
141 1
141 .072
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.000
.164
.143
.415
.000
.322
.014
.000
.000
.012
.394
ROA
141 -.527**
141 -.131
141 -.119
141 .031
141 .197*
141 -.158
141 .024
141 -.185*
141 .042
141 -.055
141 .072
141 1
N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)
.000
.122
.161
.718
.019
.061
.779
.028
.624
.519
.394
N
141
141
141
141
141
141
141
141
141
141
141
141
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
141
Phụ lục 6: Kết quả chạy kiểm định hệ số tương quan giữa các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Correlations
Year
FirmSize
FirmAge
RnD
Leverage
ROA
Year
Pearson Correlation
1
.460**
.224**
-.035
.107
-.527**
Sig. (2-tailed)
.000
.008
.683
.207
.000
141
141
141
141
141
141
N
FirmSize
Pearson Correlation
.733**
-.217**
.460**
1
.454**
-.131
Sig. (2-tailed)
.000
.000
.010
.000
.122
141
141
141
141
141
141
N
FirmAge
Pearson Correlation
1
-.010
.224**
.733**
.433**
-.119
.008
.000
.904
.000
.161
Sig. (2-tailed)
141
141
141
141
141
141
N
-.035
-.217**
-.010
1
.039
-.335**
RnD
Pearson Correlation
.683
.010
.904
.642
.000
Sig. (2-tailed)
141
141
141
141
141
141
N
.107
.454**
.433**
.039
1
-.254**
Leverage
Pearson Correlation
.207
.000
.000
.642
.002
Sig. (2-tailed)
141
141
141
141
141
141
N
-.254**
1
ROA
Pearson Correlation
-.527**
-.131
-.119
-.335**
.000
.122
.161
.000
.002
Sig. (2-tailed)
141
141
141
141
141
141
N
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
142
Phụ lục 7: Kết quả chạy hồi quy sự tác động của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là R&D
Model Summary
Model
Change Statistics
Adjusted R
Std. Error of
R Square
Sig. F
R
R Square
Square
the Estimate
Change
F Change
df1
df2
Change
.498a
.248
.202
4.50126E7
.248
5.443
8
132
.000
dim ension0 1
a. Predictors: (Constant), FOWN, Gender, BoardAge, Edu, Block, OutDir, Boadsize, State
ANOVAb
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
8.823E16
8
1.103E16
.000a
Residual
2.675E17
132
2.026E15
5.443
Total
3.557E17
140
a. Predictors: (Constant), FOWN, Gender, BoardAge, Edu, Block, OutDir, Boadsize, State
b. Dependent Variable: RnD
Coefficientsa
Model
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
B
Std. Error
t
Sig.
Beta
Tolerance
VIF
1
(Constant)
1.745E8
4.979E7
3.504
.001
Boadsize
-4425035.586
2608905.353
-1.696
-.169
.092
.570
1.753
Gender
-4552046.926
4274564.197
-1.065
-.097
.289
.693
1.443
Edu
1884032.306
2289030.248
.823
.081
.412
.584
1.712
BoardAge
564894.030
1051472.466
.537
.048
.592
.711
1.406
OutDir
-1.534E7
5751911.500
-2.667
-.235
.009
.736
1.358
Block
-2929573.026
1.046E7
-.280
-.026
.780
.679
1.473
State
-1.514E7
1.591E7
-.952
-.119
.343
.367
2.727
FOWN
-1.074E8
4.356E7
-2.466
-.243
.015
.586
1.706
a. Dependent Variable: RnD
143
Phụ lục 8: Kết quả chạy hồi quy xác định sự tác động của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là Leverage
Model Summary
Model
Change Statistics
Adjusted R
Std. Error of the
R Square
F
Sig. F
R
R Square
Square
Estimate
Change
Change
df1
df2
Change
1
132
.000
.567a
.322
.281 4.052255076014
.322
7.829
8
a. Predictors: (Constant), FOWN, Gender, BoardAge, Edu, Block, OutDir, Boadsize, State
ANOVAb
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
1028.434
8
128.554
7.829
.000a
Residual
2167.542
132
16.421
Total
3195.975
140
a. Predictors: (Constant), FOWN, Gender, BoardAge, Edu, Block, OutDir, Boadsize, State
b. Dependent Variable: Leverage
Model
Unstandardized Coefficients Std. Error
B
Sig.
1
(Constant)
9.489
4.482
t 2.117
.036
Coefficientsa Standardized Coefficients Beta
Collinearity Statistics VIF Tolerance
Boadsize
.342
.235
.138
1.457
.570
1.753
.148
Gender
-.662
.385
-.148
-1.721
.693
1.443
.088
Edu
-.028
.206
-.013
-.136
.584
1.712
.892
BoardAge
-.047
.095
-.042
-.495
.711
1.406
.621
OutDir
1.381
.518
.223
2.666
.736
1.358
.009
Block
1.055
.942
.098
1.121
.679
1.473
.264
State
7.370
1.432
.609
5.146
.367
2.727
.000
FOWN
-7.720
3.921
-.184
-1.969
.586
1.706
.051
a. Dependent Variable: Leverage
144
Phụ lục 9: Kết quả chạy hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ tác động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng trước khi loại biến FirmAge
Model Summary
Model
Adjusted R Square
R Square Change
df2
Sig. F Change
1 2
R .558a .677b
R Square .311 .459
.296 .413
Std. Error of the Estimate .00427280749207 .00390268457759
.311 .148
Change Statistics F Change 20.636 4.402
df1 3 8
137 129
.000 .000
a. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize b. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize, Boadsize, Gender, BoardAge, OutDir, Edu, FOWN, Block, State
Sum of Squares
Mean Square
ANOVAc df
Sig.
Model 1
.000a
Regression Residual
.001 .003
3 137
.000 .000
Total
.004
140
2
.000b
Regression Residual
.002 .002
11 129
.000 .000
Total
.004
140
F 20.636 9.948
a. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize b. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize, Boadsize, Gender, BoardAge, OutDir, Edu, FOWN, Block, State c. Dependent Variable: ROA
Coefficientsa
Model
Unstandardized Coefficients
B
Std. Error
Sig.
1
(Constant)
2.475
.323
t 7.669
.000
Collinearity Statistics Tolerance
Standardized Coefficients Beta
-.621 .302 -.202
.761 .371 .447
2
Year FirmSize FirmAge (Constant)
-.001 1.077E-14 -8.841E-5 3.262
.000 .000 .000 .422
-7.634 2.597 -1.900 7.724
.000 .010 .060 .000
Year FirmSize FirmAge Boadsize Gender Edu BoardAge OutDir Block State FOWN
-.002 1.770E-14 7.751E-5 .000 .000 .000 4.079E-5 -.001 .000 -.008 .006
.000 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .001 .001 .003 .004
-7.709 2.948 .986 1.914 1.095 -.672 .441 -1.219 .408 -2.632 1.639
-.821 .497 .177 .183 .101 -.063 .034 -.102 .040 -.582 .142
.000 .004 .326 .058 .276 .502 .660 .225 .684 .010 .104
VIF 1.315 2.697 2.238 2.705 6.781 7.661 2.171 2.027 2.067 1.450 1.660 2.287 11.671 1.788
.370 .147 .131 .461 .493 .484 .690 .602 .437 .086 .559
a. Dependent Variable: ROA
145
Phụ lục 10: Kết quả chạy hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ tác động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng sau khi loại biến FirmAge
Model Summary
Model
Change Statistics
Adjusted R Square
R Square Change
df2
Sig. F Change
1 2
.293 .162
138 130
Std. Error of the Estimate .00431299978710 .00390225299930
F Change 28.609 4.823
df1 2 8
R .541a .674b
R Square .293 .455
.000 .000
.283 .413 a. Predictors: (Constant), FirmSize, Year b. Predictors: (Constant), FirmSize, Year, Block, BoardAge, Gender, Boadsize, OutDir, Edu, FOWN, State
ANOVAc
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
.001
2
.001
.000a
28.609
Residual
.003
138
.000
Total
.004
140
2
Regression
.002
10
.000
.000b
10.848
Residual
.002
130
.000
Total
.004
140
a. Predictors: (Constant), FirmSize, Year
b. Predictors: (Constant), FirmSize, Year, Block, BoardAge, Gender, Boadsize, OutDir, Edu, FOWN, State
c. Dependent Variable: ROA
Coefficientsa
Model
Unstandardized Coefficients
B
Std. Error
Sig.
1
(Constant)
2.359
t 7.374
.000
.320
Standardized Coefficients Beta
Collinearity Statistics Tolerance
-.592 .141
.788 .788
2
Year FirmSize (Constant)
-.001 5.037E-15 3.114
-7.340 1.755 7.891
.000 .081 .000
.000 .000 .395
Year FirmSize Boadsize Gender Edu BoardAge OutDir Block State FOWN
-.002 1.830E-14 .001 .000 .000 5.483E-5 -.001 .000 -.006 .006
-7.880 3.064 2.234 .673 -1.039 .600 -1.163 -.210 -2.593 1.592
-.784 .514 .206 .052 -.092 .046 -.097 -.017 -.444 .138
.000 .003 .027 .502 .301 .550 .247 .834 .011 .114
VIF 1.269 1.269 2.359 6.711 2.034 1.450 1.859 1.415 1.654 1.500 7.005 1.783
.424 .149 .492 .690 .538 .707 .605 .666 .143 .561
.000 .000 .000 .000 .000 .000 .001 .001 .002 .004
a. Dependent Variable: ROA
146
Phụ lục 11: Kết quả chạy hồi quy theo mô hình thứ tư xác định mức độ tác động của các biến đại diện thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Model Summary
Model
Change Statistics
R Square
Adjusted R Square
Std. Error of the Estimate
R Square Change
F Change
df1
df2
Sig. F Change
1
137
.000
.311
.296
.00427280749207
.311
20.636
3
2
135
.000
R .558a .679b
.461
.441
.00380904451468
.149
18.696
2
a. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize b. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize, RnD, Leverage
ANOVAc
Model
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
.001
3
20.636
.000a
.000
Residual
.003
137
.000
Total
.004
140
2
Regression
.002
5
.000b
23.058
.000
Residual
.002
135
.000
Total
.004
140
a. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize b. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize, RnD, Leverage
c. Dependent Variable: ROA
Coefficientsa
Model
Standardized
Unstandardized Coefficients
Coefficients
Collinearity Statistics
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Tolerance
VIF
1
(Constant)
7.669
.000
2.475
.323
Year
-.001
.000
-.621
-7.634
.000
1.315
.761
FirmSize
1.077E-14
.000
.302
2.597
.010
2.697
.371
FirmAge
-8.841E-5
.000
-.202
-1.900
.060
.447
2
(Constant)
2.433
.292
8.336
.000
2.238
Year
-.001
.000
-.609
-8.274
.000
1.354
.739
FirmSize
8.559E-15
.000
.240
2.104
.037
3.267
.306
FirmAge
-2.033E-5
.000
-.046
-.472
.637
2.407
.415
RnD
-2.968E-11
.000
-.294
-4.346
.000
1.144
.874
Leverage
.000
.000
-.267
-3.650
.000
.749
1.335
a. Dependent Variable: ROA