BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN (cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)

NGUYỄN MẠNH HÀ

THÔNG TIN BẤT ĐỐI XỨNG, QUẢN TRỊ CÔNG TY VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản trị Kinh doanh Mã số: 62340102

LUẬN ÁN TIẾN SỸ

Người hướng dẫn khoa học:

1. TS. VŨ ĐÌNH HIỂN 2. TS. LƯƠNG THÁI BẢO

Hà Nội - 2016

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi

cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi

phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật .

Tôi xin cam đoan đề tài luận án “Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và

hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” là công trình nghiên

cứu của tôi.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Xác nhận của giáo viên hướng dẫn Nghiên cứu sinh

Nguyễn Mạnh Hà

ii

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu Trường Đại

học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận án này.

Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến TS. Vũ Đình Hiển và TS. Lương Thái Bảo

người hướng dẫn khoa học của luận án, đã giúp tôi những quy chuẩn về nội dung, kiến

thức và phương pháp nghiên cứu để hoàn thành luận án này.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những đồng nghiệp

đã tận tình hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.

Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả mọi người!

Tác giả

Nguyễn Mạnh Hà

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ vii

DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ viii

DANH MỤC HÌNH ............................................................................................ ix

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU ................................. 1

1.1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án ............................................................. 2

1.3. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................... 2

1.4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3

1.5. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 3

1.6. Kết quả đạt được của luận án .................................................................. 3

1.7. Bố cục luận án ........................................................................................... 3

1.8. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết dự kiến .............................................. 4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY, THÔNG TIN

BẤT ĐỐI XỨNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI .................................................................................................... 5

2.1. Tổng quan về quản trị công ty ................................................................. 5

2.1.1. Các định nghĩa về quản trị công ty .............................................................. 5

2.1.2. Tầm quan trọng của quản trị công ty ........................................................... 6

2.1.3. Một số mô hình quản trị công ty trên thế giới.............................................. 7

2.1.4. Sự khác biệt giữa quản trị công ty ngân hàng và công ty khác ...................... 16

2.1.5. Các lý thuyết về quản trị công ty và thang đo quản trị công ty .................. 20

2.2. Tổng quan về thông tin bất đối xứng ..................................................... 28

2.2.2. Các hình thức thông tin bất đối xứng .................................................... 30

2.2.3. Ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng ................................................. 31

2.2.4. Các nghiên cứu về thông tin bất đối xứng ............................................ 34

2.2.1. Khái niệm về thông tin bất đối xứng ......................................................... 28

iv

2.2.5. Cấu trúc biến thông tin bất đối xứng ..................................................... 37

2.3. Tổng quan về hiệu quả hoạt động của ngân hàng và phương pháp

đo lường ................................................................................................... 42

2.4. Tổng quan về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng, quản trị

công ty và hiệu quả hoạt động của ngân hàng ....................................... 46

2.4.1. Mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động ngân

hàng .......................................................................................................... 46

2.4.2. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và thông tin bất đối xứng ..................... 49

2.4.3. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động ngân hàng .............. 52

2.5. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết .......................................................... 60

Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 63

3.1.1. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 63

3.1.2. Mẫu nghiên cứu của luận án .................................................................. 64

3.1. Thiết kế nghiên cứu ................................................................................ 63

3.2.1. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 65

3.2.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 65

3.2. Nghiên cứu định lượng ........................................................................... 65

TÓM TẮT CHƯƠNG III .................................................................................. 71

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................................... 72

4.1. Tổng quan Thực trạng quản trị công ty tại các ngân hàng thương

mại Việt Nam .......................................................................................... 72

4.2.1. Thống kê mô tả về đặc điểm của các ngân hàng TMCP luận án

nghiên cứu ............................................................................................... 77

4.2.2. Thống kê mô tả biến độc lập là các yếu tố thuộc quản trị công ty và

kiểm định dạng phân phối của các thang đo biến độc lập ................... 80

4.2.3. Thống kê mô tả biến phụ thuộc.............................................................. 84

4.2. Thống kê mô tả các ngân hàng được thu thập dữ liệu nghiên cứu ....... 77

v

4.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty với

các biến thuộc thông tin bất đối xứng và giữa các biến thuộc thông tin

4.3.1. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty

và biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến R&D ................... 86

4.3.2. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty

và biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến Leverage ............. 89

4.3.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty

và biến kiểm soát với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng ........... 91

4.3.4. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến đại diện cho thông tin

bất đối xứng và biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân

hàng ......................................................................................................... 94

bất đối xứng với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng ......................... 86

4.4. Kiểm định giả thuyết và phân tích hồi quy xác định mối quan hệ

giữa quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động

4.4.1. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ nhất sự tác động của

các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối

xứng là R&D ........................................................................................... 96

4.4.2. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ hai xác định sự tác

động của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin

bất đối xứng là Leverage ........................................................................ 99

4.4.3. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ tác

động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát

tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng ................................................. 102

4.4.4. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ tư xác định mức độ tác

động của các biến đại diện thông tin bất đối xứng và các biến kiểm

soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng ......................................... 107

của các ngân hàng ................................................................................... 95

vi

4.4.4. Tổng hợp kết quả phân tích hồi qui của 4 mô hình ............................ 110

TÓM TẮT CHƯƠNG IV ................................................................................ 114

CHƯƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ....................................................................... 115

5.1. Khuyến nghị đối với hoạt động quản trị tại ngân hàng ...................... 115

5.2. Khuyến nghị đối với Hội đồng quản trị ............................................... 116

5.3. Khuyến nghị đối với sở hữu ................................................................. 118

5.4. Khuyến nghị đối với thông tin bất đối xứng ........................................ 118

5.5. Khuyến nghị về chính sách ................................................................... 121

5.6. Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước ........................... 123

5.8. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo .................... 125

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 126

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 128

PHỤ LỤC ......................................................................................................... 135

vii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CG Quản trị công ty

CGI Chỉ số quản trị công ty

Gov-score Điểm quản trị công ty

HĐQT Hội đồng quản trị

QTCT Quản trị công ty

R&D Nghiên cứu và phát triển

TGĐ Tổng giám đốc

TMCP Thương mại cổ phần

viii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: So sánh đặc điểm về mô hình quản trị công ty các nước ............. 14

Bảng 2.2: Lý thuyết người đại diện ............................................................ 22

Bảng 2.3: Các thước đo quản trị công ty ..................................................... 28

Bảng 4.1: Quy mô tài sản của mẫu .............................................................. 78

Bảng 4.2: Vốn điều lệ của các ngân hàng .................................................... 79

Bảng 4.3: Mô tả thống kê các biến độc lập .................................................. 83

Bảng 4.4: Mô tả thống kê các thang đo biến phụ thuộc ............................... 85

Bảng 4.5: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc

R&D đại diện cho thông tin bất đối xứng với các biến độc lập

thuộc quản trị công ty ................................................................. 87

Bảng 4.6: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc

Leverage với các biến độc lập thuộc quản trị công ty .................. 90

Bảng 4.7: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu quả

hoạt động của ngân hàng với các biến thuộc quản trị công ty ............ 92

Bảng 4.8: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu

quả hoạt động của ngân hàng với các biến đại diện cho thông

tin bất đối xứng và các biến kiểm soát ........................................ 94

Bảng 4.9: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 1 ...... 97

Bảng 4.10: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 1 ...................................... 99

Bảng 4.11: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 2 .. 100

Bảng 4.12: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 2 .................................... 102

Bảng 4.13: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 3 .................................... 103

Bảng 4.14: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 3 sau khi loại biến ......... 104

Bảng 4.15:Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 3 ... 105

Bảng 4.16: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 4 .. 108

Bảng 4.17: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 4b .................................. 110

ix

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu dự kiến ......................................................... 4

Hình 2.1: Mô hình quản trị công ty Mỹ, Anh .............................................. 10

Hình 2.2: Mô hình quản trị công ty kiểu Đức ............................................. 12

Hình 2.3: Mô hình công ty kiểu Nhật Bản .................................................. 13

Hình 2.4. Mô hình nghiên cứu .................................................................... 62

Hình 4.1: Mô hình hồi quy ...................................................................... 112

1

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lý do chọn đề tài

Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về quản trị công ty cũng như mối quan

hệ giữa Quản trị công ty (QTCT) với hiệu quả hoạt động của công ty hay mối quan

hệ giữa QTCT với thông tin bất đối xứng. Các kết quả về các mối quan hệ này cũng

hết sức khác nhau. Chẳng hạn, nghiên cứu của Hermalin và Weisbach (1998, 2003),

Bhagat và Black (2002) chỉ ra rằng sự độc lập ngày càng lớn của ban giám đốc có

mối quan hệ đồng biến tới kết quả hoạt động của công ty khi sự độc lập của ban

giám đốc được chọn làm thước đo cho quản trị của công ty. Nhưng gần đây, Bhagat

và Bolton (2008) phát hiện mối quan hệ nghịch biến giữa sự độc lập của ban giám

đốc với kết quả hoạt động của công ty, trong khi quy mô của ban giám đốc cũng có

mối quan hệ nghịch biến với kết quả hoạt động (Bhagat, Carey và Elson, 1999).

Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa QTCT và thông tin bất đối xứng có sự

đồng thuận cao hơn. Lý thuyết cho thấy, cơ chế QTCT tại các tổ chức ngân hàng

lớn bị ảnh hưởng lớn bởi thông tin bất đối xứng (Raheja, 2005 và Adams và

Ferreira, 2007). Bên cạnh đó, ảnh hưởng của cơ chế quản trị dường như xuất hiện

tại các lĩnh vực cụ thể và không có một cơ chế QTCT nào có thể phù hợp với mọi

loại hình công ty (Coles, Daniel và Naveen, 2008). Vì vậy, việc hiểu rõ vai trò của

thông tin bất đối xứng và mối quan hệ của thông tin bất đối xứng đối với cơ chế

QTCT đối với từng lĩnh vực là quan trọng để có những cơ chế quản trị phù hợp với

từng công ty thuộc các lĩnh vực khác nhau.

Tại Việt Nam gần đây cũng đã có nhiều hơn những nghiên cứu về mối quan hệ

giữa QTCT với hiệu quả hoạt động hay QTCT với thông tin bất đối xứng. Tuy vậy,

hầu như chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến mối quan hệ của ba nhân tố này trong

cùng một nghiên cứu hoặc việc đề cập đến rất mờ nhạt và không rõ ràng.

2

Chính vì vậy, xuất phát từ thực tế trên, tác giả thấy cần thiết có một nghiên cứu

thực nghiệm nhằm kiểm định mối quan hệ giữa ba nhân tố: thông tin bất đối xứng,

quản trị công ty , hiệu quả hoạt động ngân hàng trên cùng một mô hình, đặc biệt trong

lĩnh vực ngân hàng, một lĩnh vực tài chính có nhiều tính chất đặc thù. Do vậy, tác giả

lựa chọn đề tài “Thông tin bất đối xứng, quản trị công ty và hiệu quả hoạt động tại

các ngân hàng thương mại Việt Nam”.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án

Luận án có những mục tiêu chính như sau:

Thứ nhất, kiểm định mối quan hệ giữa quản trị công ty với thông tin bất đối xứng

trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.

Thứ hai, kiểm định mối quan hệ giữa quản trị công ty với hiệu quả hoạt động

của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.

Thứ ba, kiểm định mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt

động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.

Thứ tư, Trên cơ sở kiểm định các mối quan hệ, phân tích thực trạng quản trị

công ty tại các NHTMCP, để xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực quạn

trị, hạn chế thông tin bất đối xứng để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng

thương mại cổ phần Việt Nam.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

Với mục tiêu nghiên cứu như đã nêu trên, trong nghiên cứu này của mình, câu

hỏi nghiên cứu của tác giả như sau:

- Những yếu tố nào của quản trị công ty ảnh hưởng đến thông tin bất đối xứng

trong ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.

- Những yếu tố nào của thông tin bất đối xứng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt

động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.

- Những yếu tố nào của quản trị công ty ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động

của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.

3

1.4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là mối quan hệ giữa quản trị công ty, thông tin bất đối

xứng và hiệu quả hoạt động của NHTM

Phạm vi nghiên cứu: Quản trị công ty, thông tin bất đối xứng, hiệu quả hoạt

động của NHTM cổ phần niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội và TP Hồ chí

Minh từ năm 2006 đến năm 2014.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

- Quá trình nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng.

- Mẫu nghiên cứu gồm 16 ngân hàng thương mại được niêm yết trên sàn

chứng khoán Hà Nội và TP Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến 2014.

- Các biến được chia thành 04 nhóm:

o Nhóm thứ nhất, các biến đo lường quản trị công ty gồm 08 biến.

o Nhóm thứ hai, các biến đo lường thông tin bất đối xứng gồm 02 biến.

o Nhóm thứ ba, biến đo lường hiệu quả quản trị công ty gồm 01 biến.

o Nhóm thứ tư, các biến kiểm soát gồm 03 biến.

- Phương pháp phân tích dữ liệu: dùng phần mềm SPSS, Excel…

1.6. Kết quả đạt được của luận án

- Xây dựng được một hình nghiên cứu.

- Kiểm định được mối quan hệ giữa ba nhân tố: quản trị công ty, thông tin bất

đối xứng và hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.

- Đưa ra các kiến nghị đối với việc tăng cường hoạt động quản trị công ty và

giảm thiểu thông tin bất đối xứng tại ngân hàng thương mại Việt Nam.

1.7. Bố cục luận án

Bố cục của luận án dự kiến gồm 5 chương

Chương 1: Giới thiệu chung về nghiên cứu.

Chương 2: Cơ sở lý luận về quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu

quả hoạt động của ngân hàng thương mại

4

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu.

Chương 5: Kiến nghị.

1.8. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết dự kiến

H1: có mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động ngân hàng.

H2: có mối quan hệ giữa quản trị công ty và thông tin bất đối xứng.

H3: có mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động ngân hàng.

Thông tin bất đối xứng

Quản trị công ty

Hiệu quả hoạt động ngân hàng

Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu dự kiến

5

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY, THÔNG TIN

BẤT ĐỐI XỨNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1. Tổng quan về quản trị công ty

2.1.1. Các định nghĩa về quản trị công ty

Các nhà nghiên cứu đã có nhiều định nghĩa về quản trị công ty. Tuy vậy, các

nhà nghiên cứu thường phân chia định nghĩa quản trị công ty theo nghĩa rộng và

nghĩa hẹp. Financial Times (1997) coi “quản trị công ty có thể được hiểu theo

nghĩa hẹp là quan hệ của một công ty với các cổ đông, hoặc theo nghĩa rộng là quan

hệ của công ty với xã hội…”.

Các nhà nghiên cứu định nghĩa quản trị công ty theo nghĩa hẹp có thể kể đến

những nghiên cứu của Macey, (2008); Mathiesen (2002); Shleifer và Vishny

(1997); Maw (1994). Theo Mathiesen (2002) thì “quản trị công ty thường giới hạn

trong phạm vi câu hỏi về cải thiện hiệu suất tài chính”. Còn theo Shleifer và Vishny

(1997) thì “quản trị công ty giải quyết vấn đề cách thức các nhà cung cấp tài chính

cho công ty đảm bảo quyền lợi của mình để có thể thu về lợi tức từ các khoản đầu

tư của mình”. Theo tác giả khác như Macey, (2008) thì “mục đích của QTCT để

giảm những hoạt động rủi ro, trái luật của nhà quản lý và trái với kỳ vọng của nhà

đầu tư”.

Các nhà nghiên cứu định nghĩa QTCT theo nghĩa rộng được đề cập trong

nhiều nghiên cứu, có thể kể đến các định nghĩa của Mulbert (2010); Wells (2010);

Stuart Gillian (2006); Hillary Sale (2004), Luigi Zingales (1998). Ví dụ, tác giả

Mulbert (2010) coi “QTCT là quá trình ra quyết định của Hội đồng quản trị và các

nhà quản lý cao cấp nhằm đạt được mục tiêu của công ty và cổ đông”. Theo quan

điểm của các nhà nghiên cứu này, QTCT được định nghĩa là một tập hợp các mối

quan hệ giữa quản lý của một công ty, hội đồng quản trị, các cổ đông và các bên liên

6

quan khác. Một cơ chế QTCT được coi là phù hợp khi đảm bảo được hoạt động của

HĐQT và các nhà quản lý theo đuổi mục tiêu vì lợi ích của công ty và cổ đông của

mình (OECD, 2004). Stuart Gillian (2006) cho rằng “QTCT gắn liền với việc giải

quyết Thuyết đại diện, đó là giải quyết mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và nhà quản lý”.

Bên cạnh đó, Stuart Gillian (2006) cho rằng “có sự tách biệt giữa đối tượng bên trong

hoặc bên ngoài cung cấp vốn với các đối tượng quản lý (Internal) và sự cần thiết phải

có cơ chế để đảm bảo HĐQT không thực hiện các hoạt động kinh doanh rủi ro ảnh

hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp”. Một định nghĩa khác của Wells

(2010) khẳng định “QTCT là cơ chế để nhằm giảm thiểu các vấn đề do việc chia tách

quyền sở hữu và kiểm soát”. Nói cách khác, QTCT thực hiện chức năng kiểm tra các

vấn đề liên quan đến pháp lý, kinh tế, cơ chế xã hội nhằm thúc đẩy các nhà quản lý

thực thi công việc đảm bảo lợi ích của cổ đông và phát triển công ty.

Từ hai cách tiếp cận trên, ta nhận thấy tuy các nhà nghiên cứu có những cách

tiếp cận khác nhau về QTCT theo nghĩa hẹp và rộng nhưng giữa hai cách tiếp cận

này vẫn có những điểm tương đồng. Thứ nhất, cơ cấu của bộ máy quản lý công ty

xác định sự phân chia quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên khác nhau

trong công ty. Cấu trúc QTCT hoàn chỉnh và hiệu quả gồm các cấu phần: chủ sở

hữu, HĐQT, các Ủy ban giúp việc cho HĐQT, Ban điều hành cấp cao, cấp trung và

các nhân viên tác nghiệp trực tiếp. Thứ hai, cấu trúc QTCT được coi như một yếu tố

vô hình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các cổ đông, của người gửi tiền đảm bảo

tính minh bạch trong việc cung cấp các thông tin, báo cáo; tính tuân thủ các chuẩn

mực kế toán, kiểm toán quốc tế; văn hóa tổ chức và những chuẩn mực đạo đức. Thứ

ba, QTCT có thể coi là một trong những công cụ của quản lý nhằm giúp người chủ

công ty có thể kiểm soát được các hoạt động của giám đốc điều hành, ban kiểm

soát, hội đồng quản trị và một số đối tượng khác trong công ty.

2.1.2. Tầm quan trọng của quản trị công ty

Quản trị công ty được tạo ra với mục đích cuối cùng là ra các quyết định đúng

đắn để vận hành công ty thông qua việc xây dựng một cơ chế phân định rõ quyền và

trách nhiệm của mỗi thành phần liên quan đến công ty. Việc nhìn rõ trách nhiệm,

7

nghĩa vụ, quyền lợi của mình sẽ giúp các bên liên quan đưa ra các quyết định đúng

đắn vì lợi ích chung. Nếu công ty có hoạt động yếu kém, thì đó là lỗi của HĐQT

không thực hiện đúng vai trò của mình và hạn chế tình huống không ai chịu trách

nhiệm về những sai lầm trong hoạt động điều hành công ty. Trách nhiệm là những

gì giúp mọi người trong công ty đưa ra quyết định ở vị trí của mình. Điều này có thể

dẫn đến sa thải những vị trí không phù hợp hoặc không làm đúng vai trò của mình

hoặc có thể đánh giá đúng những người làm việc tốt để điều động, bổ nhiệm những

vị trí cấp cao.

Một khía cạnh quan trọng của QTCT là giảm rủi ro cho công ty. Việc thực thi

QTCT bên cạnh việc xác định vai trò của mỗi thành viên sẽ gắn trách nhiệm của họ

với từng hoạt động. Mỗi hoạt động sai lầm hoặc cố tình vi phạm sẽ chịu trách nhiệm

trước các qui định chung công ty cũng như các qui định của pháp luật. Bên cạnh đó,

đối với hoạt động kinh doanh, QTCT sẽ giúp công ty được chấp nhận rộng rãi hơn.

Điều này có được là do nguyên tắc minh bạch trong hoạt động, từ các vấn đề tài

chính, đầu tư đến định hướng chung trong hoạt động hay tầm nhìn của công ty cơ

bản sẽ được công khai.

2.1.3. Một số mô hình quản trị công ty trên thế giới

Căn cứ vào đặc điểm hệ thống tài chính và sự phân tách giữa sở hữu và quản

trị, các nhà nghiên cứu chia QTCT thành 3 mô hình sau: (1) Mô hình QTCT của các

nước Anh, Mỹ (Anglo-Saxon); (2) Mô hình QTCT của Đức; (3) Mô hình QTCT của

Nhật Bản. Lý thuyết về quản trị công ty quốc tế cho thấy những nhận thức cơ bản

về quản trị công ty, tuy nhiên thông tin chưa rõ ràng và chưa hoàn thiện. Nhận thức

của các nhà quản lý, lãnh đạo về mối quan hệ giữa hệ thống quản trị và giá trị kinh

tế của các công ty đóng vai trò ngày càng tăng đối với các quốc gia trong việc tìm

kiếm các cách thức xây dựng, phát triển thị trường và quyết định việc sẽ xây dựng

hệ thống kinh tế và hệ thống quản trị công ty như thế nào. Cấu trúc quản trị trên thế

giới đang phát triển khi chính phủ, các bên tư nhân và thị trường cố gắng tăng

cường sức mạnh của các công ty và nền kinh tế. Các nghiên cứu về cấu trúc chủ sở

hữu, lương và sự thay đổi kiểm soát được nghiên cứu nhiều. Điều này có thể phản

8

ánh vai trò thống trị của cấu trúc sở hữu trong các nền kinh tế đó, sự thống trị này

xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có liên quan đến mức độ phát triển của thị

trường, hệ thống luật... Mặc dù có nhiều minh chứng về cơ chế quản trị công ty

riêng lẻ nhưng rất ít bằng chứng và các nhân tố chứng tỏ có mối liên hệ giữa

chúng để có thể định hình được một cấu trúc quản trị tối ưu cho một công ty cụ

thể. Có nhiều tranh cãi về việc áp dụng hệ thống quản trị nào là tốt nhất. Có sự so

sánh giữa Mỹ, Đức, Nhật và Anh về quản trị công ty và tranh cãi về hệ thống quản

trị công ty giữa nền kinh tế dựa vào ngân hàng tại Đức, Nhật Bản và nền kinh tế

dựa vào thị trường như Mỹ và Anh. Quản trị công ty tại Mỹ phục thuộc rất lớn vào

thị trường trong khi quản trị công ty tại Nhật lại dựa nhiều vào mối quan hệ và

tương tác xã hội.

Quản trị công ty theo mô hình Anh, Mỹ

Các công ty theo mô hình quản trị kiểu Anh, Mỹ có những đặc điểm khá khác

biệt với các công ty có mô hình quản lý theo kiểu Đức, Nhật. Điều này thể hiện rất

rõ ở: phân bổ vốn; cấu trúc quản trị; vấn đề công bố thông tin; vấn đề sở hữu và

kiểm soát; vấn đề pháp lý, qui định QTCT.

Sở hữu tài sản ở Mỹ và Anh giống nhau do mức độ cổ phần hóa rất cao, trong

khi tại Đức, sở hữu tài sản lại tập trung hơn so với Mỹ. Sự khác biệt đưa các nhà

nghiên cứu đến sự khác biệt giữa nền kinh tế lấy thị trường là trung tâm (Mỹ và

Anh) so với nền kinh tế lấy ngân hàng làm trung tâm (Đức và Nhật). Tại Anh, Mỹ,

Hội đồng quản trị công ty đại diện cho lợi ích của cổ đông, có cơ chế hoạt động rõ

ràng. Về bản chất, sở hữu và kiểm soát hiếm khi tách biệt hoàn toàn với nhau tại bất

kỳ công ty nào, vì vậy, đối các cổ đông, hoạt động kiểm soát luôn tồn tại ở mức độ

nào đó liên quan đến sở hữu tài sản của họ, do đó cấu trúc chủ sở hữu là nhân tố

quan trọng của quản trị công ty. Bắt đầu từ sau 1980s nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều

công ty tại Mỹ ban giám đốc và các cổ đông sở hữu phần nhiều tài sản và mức sở

hữu này rất đáng kể (không còn hiện tượng sở hữu phân tán). Kết quả nghiên cứu

cho thấy các công ty niêm yết có tới 20% tài sản được nắm giữ bởi các cổ đông lớn.

Tuy nhiên, mức sở hữu này so với các nền kinh tế khác còn ở mức thấp.

9

Lý do giả định được đưa ra là sự gắn kết càng lớn giữa sở hữu và kiểm soát có

thể dẫn đến việc giảm mâu thuẫn về lợi ích trong công ty và khiến công ty được

quản lý tốt hơn. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa sở hữu, kiểm soát và giá trị công ty

thường phức tạp hơn vậy. Các nhà quản lý sở hữu công ty có thể đáp ứng tốt hơn

mối quan hệ lợi ích của nhà quản lý và cổ đông. Tuy nhiên nếu lợi ích đó không

được đảm bảo đầy đủ, việc sở hữu tài sản lớn hơn sẽ khiến các nhà quản lý nhiều cơ

hội để theo đuổi các mục tiêu cá nhân của họ mà không sợ phản đối, nó có thể là

xây dựng quyền lực cá nhân. Chính vì vậy tác động của sở hữu quản lý đối với giá

trị của công ty phụ thuộc vào việc đánh đổi giữa “cùng lợi ích” hay “xây dựng

quyền lực cá nhân”.

Tại Anh, Mỹ, vấn đề điển hình là việc sở hữu phân tán khiến các cổ đông

riêng lẻ nắm rất ít quyền và không có động lực mở rộng nguồn lực để kiểm soát các

nhà quản lý hoặc cố gắng tác động đến việc đưa ra quyết định của các nhà quản lý.

Hơn thế nữa việc chia nhỏ này cũng khiến các cổ đông khó hợp tác để thực hiện các

quyết định quan trọng. Tuy nhiên, đối với các cổ đông sở hữu lượng cổ phiếu đáng

kể thường có động lực lớn hơn để sử dụng nhằm mở rộng quyền kiểm soát và tác

động đến nhà quản lý. Tác động của sở hữu đối với các cổ đông lớn đối với đo

lường giá trị công ty phụ thuộc vào việc đánh đổi giữa chia sẻ lợi nhận giữa lợi ích

của các cổ đông lớn kiểm soát và việc sử nguồn lực bởi các cổ đông lớn. Ngoài ra,

đặc tính của Hội đồng quản trị cũng được xem xét một cách đầy đủ, nhất là mối

quan hệ giữa thành viên hội đồng quản trị độc lập và quy mô hội đồng quản trị.

Thông thường, các thành viên hội đồng quản trị đốc lập không liên quan gì đến kết

quả hoạt động tốt của công ty, nhưng gắn liền với các quyết định quan trọng như

các vấn đề sáp nhập, lương điều hành.

Về hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp: khi cơ chế kiểm soát bên trong

thất bại trên diện rộng khiến cổ phiếu bị mất giá do quản lý kém, sẽ kích thích nhà

đầu tư bên ngoài thu gom cổ phiếu trên thị trường để nắm quyền kiểm soát. Chính

vì vậy, các nhà quản lý luôn có động lực để giữ giá trị công ty, tránh bị thâu tóm.

Tuy nhiên, cơ chế này cũng có mặt hạn chế đó là việc thâu tóm sẽ tác động tiêu cực

10

đến quyền lợi của các cổ đông, thay vì trả cổ tức bằng tiền thì các nhà quản lý lại sử

dụng nguồn lực đó đi thâu tóm.

Vấn qui tắc thực hành quản trị công ty: mô hình mô hình tại Anh, Mỹ được

qui định bằng các bộ tiêu chuẩn thực hành (practice codes), báo cáo kiểm toán và

bộ tiêu chuẩn QTCT (corporate governance codes). Các quy chế đã được đưa ra để

khuyến cáo các công ty thực hiện như một cơ chế hướng dẫn các chuẩn mực và là

thước đo trong việc triển khai hoạt động QTCT. Luật bảo vệ cổ đông dường như

cần thiết trong điều kiện tài sản đầu tư phân tán. Việc không có sự liên kết giữa cấu

trúc chủ sở hữu và giá trị công ty có thể đơn giản có nghĩa là hệ thống bảo vệ chặt

chẽ tại Mỹ cho phép các công ty của Mỹ lựa chọn cơ chế quản trị tiềm năng để đạt

được một cấu trúc tối ưu.

Hình 2.1: Mô hình quản trị công ty Mỹ, Anh

Quản trị công ty theo mô hình Đức

Các mô hình các nước châu Âu được đặc trưng bởi mức độ tập trung vốn cao.

Cổ đông có lợi ích chung với công ty và cùng tham gia vào quản lý và kiểm soát

công ty. Những nhà quản lý chịu trách nhiệm cho một nhóm rộng hơn của các bên

liên quan, bên cạnh các cổ đông, chẳng hạn như các công đoàn, các đối tác kinh

11

doanh. Tại Đức, QTCT được coi là sự kết hợp của các nhóm lợi ích khác nhau

nhằm phối hợp các mục tiêu lợi ích chung. Đặc điểm khác biệt lớn giữa QTCT tại

Đức so với các nước là do mức độ phụ thuộc vào ngân hàng trong việc cấp tín dụng

thay vì thị trường chứng khoán (cứ 4 công ty mới có một công ty cổ phần hóa). Do

đó, hầu hết các công ty đều cần sự hỗ trợ từ phía các ngân hàng để phát triển sản

xuất và mở rộng hoạt động kinh doanh.

Về cấu trúc quản trị, các công ty theo mô hình này có đặc điểm sau. Thứ nhất,

mô hình của Đức qui định hai hội đồng với các thành viên riêng biệt, trong đó công ty

Đức có cấu trúc hai tầng ban bao gồm: ban quản lý (insiders, CEO) và ban kiểm soát

(đại diện lao động và đại diện cổ đông). Hai ban này hoàn toàn khác biệt, không ai

được kiêm nhiệm trong hai ban này. Ban giám đốc sẽ kiểm soát hoạt động sản xuất

kinh doanh trong khi ban kiểm soát sẽ kiểm soát hoạt động của ban quản lý. Thứ hai,

quy mô của các ban giám sát được thiết lập theo pháp luật và không thể thay đổi của

các cổ đông. Thứ ba, ở Đức và các nước khác theo mô hình này, quyền biểu quyết

được qui định theo tỷ lệ nhất định, phụ thuộc vào phần trăm cổ phiếu sở hữu.

Về cấu trúc sở hữu: Cơ chế sở hữu tập trung có tác dụng quan trọng, đó là các

cổ đông lớn có động lực thu thập tin và quản lý bởi vì họ muốn lợi nhuận thu được

cao. Tuy nhiên, mức độ sở hữu tập trung cao cũng có mặt trái của mình: thứ nhất,

mức độ đa dạng hóa thấp; thứ hai, hoạt động của doanh nghiệp phục vụ lợi ích của

cổ đông lớn nhiều hơn, do đó quyền lợi của các cổ đông nhỏ có thể không được

đảm bảo tối đa; thứ ba, việc nắm số lượng cổ đông lớn làm hạn chế hoạt động thâu

tóm, tuy nhiên đôi khi việc này có lợi đối với công ty.

Về mối quan hệ tín dụng, đối với công ty tại Đức, ngân hàng có ảnh hưởng

mạnh mẽ bởi những nguyên nhân sau: thứ nhất, đặc điểm ngân hàng tại Đức xuất

phát từ các ngân hàng gia đình, cung cấp các khoản vay dài hạn đối với các khách

hàng dài hạn; thứ hai, các ngân hàng Đức nắm giữ tài sản rất lớn tại các công ty và

vì vậy ngân hàng thường có đại diện trong ban kiểm soát.

12

Hình 2.2: Mô hình quản trị công ty kiểu Đức

Quản trị công ty theo mô hình Nhật Bản

Mô hình Nhật Bản khá khác biệt so với mô hình các nước Mỹ, Anh và cũng có

nhiều điểm khác biệt so với Đức.

Mô hình quản trị tại Nhật Bản bị chi phối bởi quan hệ giữa cổ đông và các

nghiệp đoàn, khách hàng, nhà cung cấp, người cho vay, chính phủ và các nhà quản

lý… Mọi quyết định quản lý đều nhằm mục đích cải thiện doanh thu và quy mô

công ty. Vì vậy, mô hình Nhật Bản là dựa trên kiểm soát nội bộ; nó không dựa

nhiều vào thị trường vốn mà chủ yếu dựa vào các ngân hàng giống như QTCT tại

Đức. Các cổ đông lớn tham gia nhiều vào quá trình quản lý công ty. Nói cách khác,

mô hình QTCT tại các nền kinh tế định hướng ngân hàng (nguồn vốn của doanh

nghiệp chủ yếu là vay ngân hàng) sử dụng hệ thống kiểm soát bên trong, trong khi

QTCT tại các nền kinh tế định hướng thị trường (nguồn vốn từ cổ phần hóa, nguồn

vốn vay ngân hàng chỉ chiếm phần nhỏ) sử dụng hệ thống kiểm soát bên ngoài. Hệ

thống quản trị của Nhật Bản tạo điều kiện cho việc giám sát và cung cấp tài chính

linh hoạt của cho công ty, đảm bảo hiệu quả kết nối giữa công ty và các ngân hàng,

như là đối tượng cho vay chính.

Về cấu trúc quản trị nội bộ: bao gồm Đại hội đồng cổ đông, HĐQT, các ủy

ban... HĐQT bao gồm các thành viên HĐQT được đại hội cổ đông bầu ra, các thành

13

viên đều có chức danh điều hành nhưng mỗi người có chức trách khác nhau. Trong

công ty có thiết lập ủy ban, có chức danh thành viên HĐQT độc lập. Vai trò của

thành viên độc lập không chỉ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh an toàn mà còn

tiếp nhận tư vấn từ bên ngoài và có vai trò trong nâng cao kết quả hoạt động kinh

doanh của công ty. Trong HĐQT có các ủy ban bao gồm: Ủy ban nhân sự, Ủy ban

Lao động, tiền lương và Ủy ban kiểm soát. Ủy ban nhân sự đề xuất việc bổ nhiệm

và bãi miễn thành viên HĐQT cho đại hội cổ đông. Trong Ủy ban này, số thành

viên HĐQT bên ngoài chiếm một nửa nên người có quyền lực cao nhất của công ty

cho dù có định lạm dụng quyền hạn lựa chọn người có lợi cho họ chăng nữa, thì

cũng không thể độc đoán quyết định. Ủy ban nhân sự có quyền đề nghị còn HĐQT

là cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm người điều hành và người đại diện

điều hành.

Về cơ chế lương, thưởng: Ủy ban quyết định thù lao quyết định nội dung thù

lao cho thành viên Hội đồng quản trị, ở đây, một nửa số thành viên là thành viên

Hội đồng quản trị bên ngoài. Với cơ chế này, các thành viên Hội đồng quản trị có

thể quyết định thù lao của nhà quản lý điều hành một cách khách quan. Hoạt động

giám sát của Hội đồng quản trị được giao cho Ban kiểm soát.

Hình 2.3: Mô hình công ty kiểu Nhật Bản

14

Về hoạt động minh bạch thông tin: Với mô hình thiết lập ủy ban, cổ đông có

thể tin tưởng hơn vào sự minh bạch trong hoạt động quản lý điều hành thông qua

thực hiện các quyền năng riêng biệt của các ủy ban. Việc giám sát có hiệu quả hoạt

động quản lý, điều hành Ban kiểm soát có ý nghĩa quan trọng để cổ đông tin tưởng

vào sự phát hiện và khởi kiện kịp thời các hành vi vi phạm của các thành viên Hội

đồng quản trị và người điều hành gây thiệt hại cho công ty và cổ đông. Nhìn chung,

giải quyết được những hạn chế liên quan đến giám sát không đầy đủ của Hội đồng

quản trị. Mặc dù vậy, vẫn còn có sự nghi ngờ về khả năng giám sát của thành viên

Hội đồng quản trị bên ngoài do họ thiếu hiểu biết về nội bộ công ty.

Bảng 2.1: So sánh đặc điểm về mô hình quản trị công ty các nước

Mỹ - Anh Đức (Châu Âu) Nhật Bản

trường chứng Hệ thống ngân hàng Hệ thống ngân hàng

Thị khoán Định hướng

Quyền sở hữu của cổ đông

Đảm bảo lợi ích Quyền sở hữu tài sản của cổ đông và mối quan hệ giữa công ty và nhân viên

Lợi ích của các đối tượng liên quan (các công ty xoay quanh một định chế tài chính) - keiretsu

Phân tán Tập trung

Tập trung theo tỷ lệ nắm giữ Cấu trúc sở hữu

Giám đốc điều hành Hội đồng quản trị Quản lý Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Ban kiểm soát

Bên ngoài Bên trong Bên trong

Hệ thống kiểm soát

GAAP IFRS GAAP và IFRS

Hệ thống kế toán

Trực tiếp chịu ảnh hưởng của chủ sở hữu Kỷ luật thị trường Minh bạch cao Điểm mạnh

Nhiều rào cản ngăn ngừa rủi ro Lợi ích đối với các bên

Thù địch Thân thiện

Hoạt động thâu tóm

15

Mỹ - Anh Đức (Châu Âu) Nhật Bản

Chiến lược tập trung vào chất lượng

Chiến lược

cạnh lược Chiến tranh, tập trung vào thị lợi trường và nhuận

Xu hướng tiếp cận dài hạn Hành vi Xu hướng tiếp cận ngắn hạn

Thông qua mua bán, sáp nhập và tăng trưởng nội sinh

Tăng trưởng

- Xu hướng nợ thấp - Xu hướng nợ cao

- Xu hướng nợ trên vốn chủ sở hữu cao

- Xu hướng giảm nợ/ vốn chủ sở hữu - Ít sử dụng các công cụ tài chính phức tạp Cung cấp tài chính

- Sử dụng các công cụ tài chính đa dạng và phức tạp

- Hỗ trợ lợi ích cổ đông

- Hỗ trợ các đối tượng liên quan (cổ đông, chủ nợ….) trung vào tăng

- Tập trưởng giá trị cổ phiếu Định hướng quản lý - Tập trong vào đảm bảo giá trị cho các đối tượng liên quan

- Phối hợp giữa kiểm soát và quản lý

- Chia tách giữa sở hữu và quản lý

Kiểm soát - Quản lý bởi các đối tượng có liên quan (ngân hàng, công ty, cổ đông)

- Giảm động lực đối với nhà đầu tư tham gia quản lý

- Dễ gây đổ vỡ - Chậm thay đổi

Khó thay đổi và thích nghi với cơ chế mới

- Thâu tóm dẫn đến độc quyền - Hệ thống có thể tạo ra xung đột Hạn chế

- Các nhà quản lý có thể thực hiện các hoạt động vì lợi ích cá nhân

16

2.1.4. Sự khác biệt giữa quản trị công ty ngân hàng và công ty khác

Nguyên nhân có sự khác biệt giữa QTCT ngân hàng và các công ty khác là do sự

tác động bởi sáu điểm khác biệt giữa hai loại hình công ty này gồm: (1) quy mô ảnh

hưởng của ngân hàng lớn hơn công ty phi tài chính; (2) hoạt động ngân hàng sử dụng

đòn bẩy tài chính lớn hơn công ty phi tài chính; (3) hoạt động của ngân hàng chịu tác

động bởi nhiều qui tắc; (4) cấu trúc vốn phức tạp hơn công ty phi tài chính; (5) thông

tin không đối xứng và sự lựa chọn đối nghịch trong ngân hàng nghiêm trọng hơn các

loại hình công ty khác và (6) tính chất phức tạp trong các hoạt động ngân hàng.

Quy mô ảnh hưởng của ngân hàng lớn hơn công ty phi tài chính

Quản trị công ty trong ngân hàng và lĩnh vực tài chính khác biệt với lĩnh vực

phi tài chính bởi vì mức độ tác động và gây ra rủi ro đối với nền kinh tế của ngân

hàng là rất lớn. Không giống như lĩnh vực phi tài chính, việc mất kiểm soát hệ

thống ngân hàng có thể gây ra đổ vỡ không chỉ một ngân hàng mà còn kéo theo cả

hệ thống tài chính và tác động đến cả nền kinh tế. Sự thất bại của họ có thể có

những hậu quả nghiêm trọng hơn do vị trí duy nhất của họ trong vai trò trung gian

tài chính và hệ thống thanh toán. Vì vậy, hoạt động của ngân hàng cần thiết phải

nằm trong một giới hạn quản trị nhất định và cơ chế để đảm bảo quyền lợi cho các

đối tượng liên quan chính là quản trị công ty

Hoạt động ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính lớn hơn công ty phi tài chính

Theo Acharya (2010) và Laeven (2012) thì các ngân hàng áp dụng tỷ lệ đòn

bẩy tài chính cao hơn rất nhiều so với công ty thông thường và tỷ lệ đòn bẩy điển

hình của một ngân hàng là khoảng 10. Đây là tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với hầu

hết các công ty phi tài chính. Shleifer và Vishny (1997) cho rằng nguồn vốn hoạt

động của ngân hàng dựa trên tiền gửi của người dân, công ty, tổ chức (gọi chung

là người gửi tiền) và chính vì điều này đã tạo ra động lực cho ngân hàng chấp

nhận rủi ro hơn so với các công ty phi tài chính. Việc càng chấp nhận rủi ro sẽ

tạo ra lợi nhuận lớn hơn, trong khi nếu hoạt động thất bại, phần lớn chi phí mất

đi sẽ đổ lên đầu người gửi tiền.

17

Mặc dù người gửi tiền có một cơ chế để tự bảo vệ, đó là hệ thống bảo hiểm

tiền gửi, nhưng chính hệ thống này đã tạo ra mặt trái của nó. Thứ nhất, người gửi

tiền sẽ không tìm kiếm một cơ chế để kiểm soát hoạt động của ngân hàng và trong

thực tế họ cũng không có đủ thông tin để tham gia vào quá trình kiểm soát này do

tính bất đối xứng thông tin cao. Người gửi hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống bảo

hiểm tiền gửi để tự bảo vệ mình khi có tình huống xấu xảy ra vì cơ bản họ ít nhạy

cảm với hoạt động của ngân hàng. Thứ hai, khi có hệ thống bảo hiểm, ngân hàng

yên tâm hơn trong việc chấp nhận rủi ro trong kinh doanh ở mức cao mà không sợ

chịu trách nhiệm lớn khi đổ vỡ. Trong hầu hết các trường hợp, rủi ro sẽ chuyển cho

xã hội và người gửi tiền khi có đổ vỡ. Vì vậy, các ngân hàng áp dụng tỷ lệ đòn bẩy

tài chính cao hơn rất nhiều so với công ty thông thường.

Quy tắc về hoạt động của ngân hàng nhiều hơn so với doanh nghiệp khác

Các ngân hàng hoạt động trên cơ sở các điều lệ, qui định riêng, được giám sát

bởi các cơ quan quản lý nhà nước chuyên biệt như Ngân hàng Trung ương, Ủy ban

giám sát tài chính quốc gia… Đồng thời, tham gia giám sát hoạt động của ngân

hàng còn có các nhà đầu tư nắm giữ chứng khoán do ngân hàng phát hành và người

gửi tiền vào ngân hàng. Nói cách khác, sự giám sát của các bên đòi ngân hàng phải

hoạt động với tính kỷ luật thị trường rất cao.

Hầu hết các quốc gia đều thực hiện các qui định đối với người có khối lượng

cổ phần lớn ở ngân hàng. Đối với một số cổ đông, các qui định này ngăn cản họ trở

thành các cổ đông chi phối. Điều này sẽ ngăn cản các cổ đông chi phối thực hiện

các hoạt động phục vụ lợi ích của họ thay vì lợi ích của số đông cổ đông. Một ví dụ

cụ thể là các ngân hàng được nắm bởi một số cổ đông chi phối, có thể là cá nhân, tổ

chức hoặc nhà nước, thực hiện các hoạt động cho vay sân sau đối với các công ty có

quan hệ với các cổ đông lớn hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh không minh

bạch, nhiều rủi ro nhưng ít bị kiểm soát.

Có thể thấy rằng ngân hàng có một số đặc tính đặc biệt so với các công ty

thông thường. Do đó đòi hỏi cơ chế quản trị cũng phức tạp hơn và rõ ràng hơn như

giám sát đội đồng quản trị, cơ chế thị trường kiểm soát… Ngân hàng là một định

18

chế tài chính mà mỗi bên liên quan đều có vai trò riêng biệt. Họ gồm các cổ đông,

người gửi tiền, chủ nợ, thành viên hội đồng quản trị, nhà quản lý, cơ quan bảo hiểm

tiền gửi, nhân viên, người nộp thuế… và tất cả các các bên liên quan này đều có lợi

ích cụ thể của mình. Do đó, lợi ích của tất cả các bên phải được đảm bảo chứ không

chỉ đảm bảo lợi ích của mỗi cổ đông. Để đảm bảo lợi ích của tất cả các bên phải có

một cơ chế cụ thể, đó chính là hệ thống quản trị công ty.

Cấu trúc vốn phức tạp hơn công ty phi tài chính

Một trong những đặc điểm chính phân biệt ngân hàng với các công ty phi tài

chính khác là cấu trúc vốn. Theo Macey và O'Hara (2003) ngân hàng hiện 2 tính

năng đặc biệt là vốn và khả năng thanh khoản. Về hai tính năng này có một số điểm

để phân biệt giữa giữa ngân hàng và công ty phi tài chính.

Thứ nhất, về khía cạnh quản lý, Luật các tổ chức tín dụng (2012) qui định

“Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ

khác của tổ chức tín dụng theo qui định của ngân hàng Nhà nước”. Một số khoản nợ

vay dài hạn gồm: vay chính phủ dài hạn, phát hành trái phiếu dài hạn… Đây là đặc

trưng khác nhau giữa tổ chức tài chính và doanh nghiệp thông thường.

Thứ hai, một yếu tố khác liên quan đến vốn của ngân hàng là khả năng thanh

khoản. Việc lựa chọn khách hàng cho vay còn phụ thuộc vào khả năng kinh doanh

và trả nợ của khách hàng đó, ngay cả kỳ hạn cho vay của các khoản vay, kỳ hạn huy

động… cũng phải cân nhắc phù hợp với tổng cho vay và tổng lượng tiền huy động

và vốn chủ sở hữu để đảm bảo tính thanh khoản. Việc đó đòi hỏi ngân hàng phải có

đủ khả năng tiếp cận nguồn vốn khả dụng ở mức hợp lý và đúng thời điểm cần thiết.

Điều này có nghĩa là ngân hàng có sẵn lượng ngân quỹ dự trữ trong tay hoặc có thể

tăng thêm bằng cách vay mượn hoặc bán bớt một số tài sản mà ngân hàng đang có.

Thứ ba, do sự nhạy cảm đối với sự thay đổi về lãi suất đầu tư, nhất là các

khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, việc nhà đầu tư tìm kiếm một ngân hàng

khác hoặc đầu tư vào một lĩnh vực khác hoàn toàn có thể xảy ra nhằm tìm kiếm lợi

nhuận cao hơn hoặc tìm một kênh trú ẩn an toàn. Bên cạnh đó, các khách hàng vay

19

tiền có thể trì hoãn yêu cầu vay vốn và chờ đợi biến động giảm của lãi suất,

chính sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng tới cả khách hàng gửi tiền, khách hàng vay

tiền và điều này đều tác động trực tiếp đến nguồn vốn của ngân hàng và khả

năng thanh khoản.

Chính sự khác biệt rất lớn về vốn và tính thanh khoản của ngân hàng với công

ty phi tài chính đã tạo nên sự khác biệt về quản trị công ty đối với hai đối tượng này

Thông tin không đối xứng và sự lựa chọn đối nghịch trong ngân hàng

nghiêm trọng hơn các loại hình công ty khác

Levine (2004) cho rằng một vấn đề luôn tồn tại trong lĩnh vực ngân hàng cần

có cơ chế để quản lý đó là “tính mờ”. Tính mờ này tạo ra sự phức tạp trong hoạt

động của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng có thể thay đổi thành phần rủi ro của

tài sản một cách nhanh chóng hơn so với hầu hết các ngành phi tài chính và họ có

thể dễ dàng che dấu các vấn đề bằng các mở rộng các khoản vay cho khách hàng.

Điều này dẫn đến một vấn đề nguy hiểm là các hoạt động thay đổi thành phần rủi ro

này rất khó giám sát đối với bên ngoài nhưng rất dễ thực hiện đối với ngân hàng. Hệ

quả là minh bạch thông tin luôn là vấn đề lớn trong quản trị công ty tại ngân hàng.

Sở dĩ có vấn đề trên vì trong hoạt động ngân hàng cần có một sự bảo mật

thông tin nhất định. Các nghiên cứu về quản trị công ty của ngân hàng sau khủng

hoảng tài chính 2008 đã chứng minh rằng kiểm soát chất lượng các khoản vay ngân

hàng khó khăn hơn rất nhiều so với kiểm soát chất lượng tài sản của các ngành phi

tài chính khác do tài sản của công ty nói chung có thể kiểm soát được bởi bên thứ

ba. Sự bất đối xứng về thông tin không chỉ tồn tại giữa chủ sở hữu và nhà quản lý

ngân hàng mà còn tồn tại giữa chủ sở hữu, người đi vay, người gửi tiền, nhà quản lý

và cơ quan giám sát. Vì vậy thông tin bất đối xứng luôn tồn tại trong hoạt động

ngân hàng do đặc điểm của vốn có của định chế tài chính này dù nhà quản lý muốn

hay không.

20

Hoạt động phức tạp hơn so với các loại hình khác

Hoạt động của ngân hàng không chỉ liên quan đến các khoản vay mà còn liên

quan đến các sản phẩm phức tạp khác như Chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản,

Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng... Đó là những khó khăn không chỉ cho người

ngoài (bên thứ ba) khi đánh giá chất lượng và mức độ rủi ro của hoạt động của ngân

hàng, mà còn cho các ngân hàng để phân tích rủi ro của ngân hàng khác. Người gửi

tiền, cổ đông và cơ quan quản lý đều liên quan đến sự vững mạnh của các cơ chế

quản trị công ty trong ngân hàng và làm cho việc phân tích quản trị công ty của các

ngân hàng phức tạp hơn các cổ ty phi tài chính (Casu, 2016). Như vậy, đối với các

ngân hàng, quản trị công ty cần phải được coi là nhiệm vụ sống còn, buộc các nhà

quản lý của ngân hàng phải bảo vệ lợi ích tốt nhất của tất cả các bên liên quan. Một

cơ chế công bằng, minh bạch và trách nhiệm là mục tiêu chính của quản trị công ty

trong ngân hàng giúp khuyến khích sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan. Việc

giữ ổn định hệ thống ngân hàng, tránh đổ vỡ là hết sức cần thiết, đòi hỏi công tác

quản trị trong tất cả lĩnh vực của hệ thống phải hiệu quả, chặt chẽ.

2.1.5. Các lý thuyết về quản trị công ty và thang đo quản trị công ty

2.1.5.1 Lý thuyết người đại diện

Quản trị công ty được xây dựng và phát triển trên lý thuyết được cho là nguồn

gốc và phổ biến là lý thuyết người đại diện. Theo lý thuyết này, “người đại diện” là

người sở hữu công ty nhưng không trực tiếp tham gia vào quản lý. Do đó, quản trị

công ty là cách thức hệ giải quyết mối quan hệ giữa cổ đông và hoạt động của công

ty. OECD (2004) đã đưa ra định nghĩa về QTCT mang nghĩa rộng hơn; OECD

(2004) cho rằng QTCT là tổng hòa các mối quan hệ đầy đủ giữa quản lý công ty,

các cổ đông, ban giám đốc và các bên có liên quan. QTCT sẽ là cơ sở để thiết lập

các mục tiêu của công ty và các phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu

cũng như kiểm soát các kết quả hoạt động.

21

Theo lý thuyết người đại diện, các cổ đông là chủ sở hữu của công ty sẽ trao

quyền quyết định điều hành các công việc hằng ngày cho Hội đồng quản trị. Ở đây,

vấn đề nảy sinh ở việc tách biệt giữa quyền kiểm soát và quyền sở hữu. Điều này có

thể dẫn đến việc lợi ích của chủ sở hữu có thể bị ảnh hưởng bởi những hành động tự

ý trong công việc của người đại diện.

Trong thực tế có những thành viên Hội đồng quản trị điều hành các hoạt

động của doanh nghiệp nhằm thỏa mãn các mục đích cá nhân hơn là đảm bảo

quyền lợi của cổ đông (James và Houston,1995). Bản chất của lý thuyết người

đại diện là tạo ra một cơ chế đảm bảo sự liên kết hiệu quả lợi ích của hai bên có

liên quan (sở hữu và điều hành), do đó sẽ làm giảm chi phí ủy quyền (Shankman,

1999). Theo như Jensen và Meckling (1976), chi phí ủy quyền bằng tổng của các

chi phí sau: thứ nhất, các chi phí chi ra bởi người ủy quyền gồm chi phí khuyến

khích, giám sát, và chi phí thi hành; thứ hai, chi phí ủy quyền nhằm luôn đưa ra

tín hiệu là nhà quản lý cần hành động vì lợi ích của người ủy quyền hay còn

được gọi là chi phí liên kết; cuối cùng là chi phí tổn thất do sự khác biệt giữa kết

quả thực tế do các quyết định của người đại diện mang lại và kết quả mong muốn

tối đa hóa lợi ích của người ủy quyền.

Theo như tác giả Đào Thị Thanh Bình (2012), lý thuyết người đại diện có ba

giả thiết chủ yếu sau:

Thứ nhất, các thị trường bình thường /cạnh tranh

Thứ hai, các mối quan hệ của thông tin bất đối xứng là mối quan hệ giữa chủ

sở hữu và nhà quản lý.

Thứ ba, cấu trúc vốn tối ưu đòi hỏi phải tận dụng đòn bẩy tài chính.

22

Bảng 2.2: Lý thuyết người đại diện

Nội dung chính của lý thuyết người đại diện

Mối quan hệ giữa người ủy quyền và người đại diện cần Ý tưởng chính

phản ánh được tính hiệu quả của thông tin và chi phí.

Hợp đồng giữa người người ủy quyền và người đại diện Cở sở phân tích

Lợi ích, tính hợp lý có khuôn khổ, và độ ngại rủi ro Các giả định chính cho

người ủy quyền

Giữa các thành viên có xung đột về mục tiêu

Hiệu quả được đem ra làm tiêu chí đánh giá

Thông tin giữa người ủy quyền và người đại diện có thể Các giả định chính cho

không trùng khớp doanh nghiệp

Giả định cho thông tin Thông tin được xem là mặt hàng có thể mua bán được

Hợp đồng ủy quyền (rủi ro về vi phạm quy chuẩn đạo Vấn đề hợp đồng

đức và lựa chọn bất lợi).

Chia sẻ rủi ro

Các mối quan hệ theo đó người ủy quyền và người đại Các vấn đề chính

diện có sự bất tương đồng về mục tiêu và quan điểm về

rủi ro (Ví dụ, chính sách thù lao, các qui định của công

ty, vấn đề lãnh đạo, quản lý gây ấn tượng, rò rỉ thông tin,

chính sách đa dạng hóa theo chuỗi giá trị, chi phí chuyển

đổi)

Nguồn: Eisenhard (1989) - trích bởi Đào Thị Thanh Bình (2012)

Lý thuyết người đại diện đã có rất nhiều ý tưởng giúp các công ty hoạt động

được hiệu quả hơn. Tuy vậy cũng như nhiều lý thuyết khác, lý thuyết này cũng

không thể tránh được những hạn chế xuất phát từ những giả định ban đầu của mình.

Một trong những thiếu sót của lý thuyết người đại diện mà nhiều nhà nghiên cứu

23

phê phán là chỉ hướng đến việc thoả mãn những nhu cầu của giám đốc điều hành và

các cổ đông lớn mà không chú trọng đến nhu cầu chính đáng của nhân viên, khách

2.1.5.2. Lý thuyết các bên có liên quan

hàng, hoặc môi trường làm việc.

Quản trị công ty chia các nhóm liên quan thành hai nhóm chính: bên trong và

bên ngoài công ty. Nhóm bên ngoài công ty gồm: cổ đông, chủ nợ, nhà cung cấp,

nhà cung cấp cho trả chậm, khách hàng và cơ quan quản lý. Nhóm bên trong hay

còn gọi là nhóm nội bộ công ty gồm: ban điều hành, nhân viên và HĐQT của công

ty. Tất cả các bên tham gia đều nằm trong quá trình giám sát hiệu quả hoạt động của

công ty hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng ở các cấp độ khác nhau và với các mục

tiêu khác nhau. Theo Barger (2004), bên liên quan trực tiếp và đóng vai trò chủ đạo

trong việc quản lý công ty để đảm bảo tất cả các mục tiêu của công ty được hoàn

thành và tài sản của cổ đông đạt được mức tối đa là: các cổ đông, HĐQT và nhân sự

quản lý cao cấp tham gia điều hành công ty hàng ngày thường được gọi là Giám đốc

điều hành hoặc Ban điều hành.

Tuy vậy, một khái niệm về QTCT khác chỉ ra rằng công ty không chỉ đơn

thuần là một cỗ máy đem lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư mà còn là một tổ chức xã

hội có nhiều mục đích khác hơn là mục đích phục vụ cổ đông (Đào Thị Thanh Bình,

2012). Định nghĩa truyền thống của các bên liên quan là “bất kì nhóm hay cá nhân

nào mà có thể ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi việc hoàn thành mục tiêu của công

ty” (Freeman 1984). Ý tưởng chung cho khái niệm về các bên liên quan là việc định

nghĩa lại công ty là gì. Khái niệm này xoay quanh vấn đề công ty là gì và hoạt động

của công ty cần thực hiện như thế nào.

Theo Friedman (2006), “doanh nghiệp nên được xem là nơi tổng hòa của các

bên liên quan và mục đích của doanh nghiệp là quản lý lợi ích, nhu cầu và quan

điểm của họ dựa trên một số nguyên tắc đạo đức. Việc quản lý các cổ đông được coi

như là công việc của nhà quản lý công ty”. Theo cách hiểu này, nhà quản lý thực

hiện hai công việc sau: thứ nhất, quản lý công ty vì lợi ích, quyền lợi cũng như đảm

bảo các bên liên quan duy trì lợi ích có quyền quyết định nhất định; thứ hai, phải

24

hành động như một người đại diện của cổ đông để đảm bảo công ty tồn tại cũng như

đảm bảo được quyền lợi của các nhóm có liên quan.

Có 3 cách tiếp cận lý thuyết các bên liên quan: mô tả / thực tiễn, mang tính

công cụ, và chuẩn tắc (Đào Thị Thanh Bình, 2012). Cụ thể: hướng thứ nhất (mô tả/

thực tiễn) hướng đến việc tìm hiểu cách thức ứng xử của nhà quản lý và các bên liên

quan khác và quan điểm của họ đối với hành động và vai trò của họ. Hướng thứ hai,

hướng mang tính công cụ hướng đến việc tìm hiểu nhà quản lý nên xử lý như thế

nào nếu như họ muốn được hỗ trợ và đạt lợi ích của chính họ. Trong một số nghiên

cứu, lợi ích cá nhân được hiểu như là lợi ích của công ty và lợi ích này chính là tối

đa hóa lợi nhuận hoặc tối đa hóa tài sản cổ đông. Điều này có nghĩa là nếu nhà quản

lý đối xử với các bên liên quan phù hợp với lý thuyết về các bên liên quan thì công

ty sẽ phát triển thành công trong dài hạn. Tuy nhiên, Donaldson và Preston (1995)

cho rằng các cách tiếp cận lý thuyết về các bên liên quan mặc dù khá khác nhau,

nhưng lại hỗ trợ lẫn nhau và cơ sở lý thuyết chuẩn tắc đóng vai trò quan trọng cho

2.1.5.3. Lý thuyết về nhà quản lý

lý thuyết này.

Ý tưởng chính của lý thuyết nhà quản lý là phản ánh quan niệm về bổn phận

và trách nhiệm đối với người khác dựa trên việc duy trì mối quan hệ giao ước. Theo

như Penner, Dovidio, Piliavin và Schroeder (2005) thì các hành vi quản lý là một

loại hành động xã hội nhằm mục đích ảnh hưởng tích cực lên người khác.

Có thể thấy, hầu hết các lý thuyết về quản trị công ty bắt nguồn từ lợi ích cá

nhân. Tuy vậy, lý thuyết về nhà quản lý lại không đề cao lợi ích cá nhân.

Trong khi “lý thuyết người đại diện” giả định rằng các nhà quản lý làm việc nhằm

cải thiện vị trí của chính họ; Hội đồng quản trị tìm cách kiểm soát nhà quản lý và do

đó, cần phải thu hẹp khoảng cách giữa hai đối trọng này, thì lý thuyết về nhà quản lý lại

chỉ ra rằng nhà quản lý còn tìm kiếm các lợi ích khác ngoài lợi ích về kinh tế như: vị trí

xã hội, lòng trắc ẩn, danh tiếng tốt, việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cảm giác

hài lòng về công việc và ý thức được làm việc vì mục đích tốt đẹp.

25

“Lý thuyết về nhà quản lý” cũng chỉ ra rằng các nhà quản lý tự họ muốn làm

tốt công việc, tối đa hóa lợi nhuận của công ty và đem lại lợi nhuận tốt cho các cổ

đông. Họ không nhất thiết làm việc này vì lợi ích tài chính của họ, mà họ cảm thấy

có một trách nhiệm cao cả đối với công ty. Khi một công ty thực hiện quản trị theo

trường phái này thì một số chính sách sẽ tự nhiên được thiết lập. Các công ty cần

mô tả cụ thể vai trò của nhà quản lý và mong đợi của họ đối với các nhà quản lý.

Các mong đợi này cần phải hướng đến việc đạt được mục tiêu công ty và khơi gợi

được ý thức của nhà quản lý về khả năng và giá trị của họ.

Lý thuyết về nhà quản lý cũng ủng hộ các nhà quản lý thực thi như lý thuyết

người đại diện, lý thuyết những người có liên quan, đồng thời chủ động thực hiện

2.1.5.4 Thang đo quản trị công ty

các mục tiêu của bản thân.

Như đã nói phần trên, thuật ngữ “quản trị công ty” ban đầu liên quan tới vấn

đề “người đại diện”. Ở cấp công ty, “người đại diện” là người sở hữu nhưng không

đồng thời quản lý công ty đó. Theo nghĩa này, quản trị công ty khởi nguồn từ khu

vực tư nhân và điều được quan tâm là mối quan hệ giữa cổ đông với công ty. OECD

(2004) đưa ra khái niệm rộng hơn về quản trị, được hiểu là tổng hòa các mối quan

hệ đầy đủ giữa quản lý công ty, ban giám đốc, cổ đông và những bên liên quan.

Quản trị công ty, vì vậy, sẽ là cơ sở mà qua đó các mục tiêu của công ty được thiết

lập và phương thức được đưa ra nhằm đạt được mục tiêu cũng như việc kiểm soát

kết quả hoạt động.

Quản trị cũng có thể được hiểu theo một cách khác, như các cách thức mà một

tổ chức ứng xử với các bên liên quan. Theo cách này, “quản trị có thể được xem xét

theo hai khía cạnh là quản trị bên trong và quản trị bên ngoài công ty” (World Bank,

1999). Quản trị bên ngoài công ty là cách thức ứng xử với các chủ thể bên ngoài

như chủ nợ, nhà cung ứng và những chủ thể khác bên ngoài tổ chức; quản trị bên

trong công ty tập trung vào ban giám đốc và lợi ích của các cổ đông.

26

Quản trị công ty vì vậy được đại diện bởi nhiều biến với nhiều cách thức khác

nhau. Hầu hết các nghiên cứu về chủ đề này đều sử dụng các thước đo liên quan tới

quản trị bên trong công ty. Chẳng hạn, Edward và Clough (2005) đã tổng hợp các

thước đo về quản trị công ty trong các nghiên cứu trước, các luật định về quản trị

công ty gồm có: quy mô ban giám đốc; sự tách biệt giữa chủ tịch và CEO (tính nhị

nguyên); thành viên HĐQT độc lập; sự cân bằng kỹ năng và năng lực của giám

đốc; ban kiểm soát và các ban khác. Edward và Clough (2005) cũng rà soát các

thước đo về quản trị bên ngoài công ty như: hoạt động của HĐQT, quá trình bổ

nhiệm minh bạch, giải trình với các nhà đầu tư. Một số nghiên cứu (Võ Đức và

Phan Thúy, 2013) sử dụng nữ thành viên Hội đồng quản trị và trình độ giáo dục

của thành viên Hội đồng quản trị như là các biến đại diện cho quản trị. Một số

nghiên cứu khác (Bhagat và Bolton, 2008) sử dụng vốn sở hữu và giá trị tài sản của

thành viên Hội đồng quản trị là các biến đại diện cho quản trị. Tác giả Lê Quang

Cảnh và cộng sự (2015), lại dùng thang đo gồm: qui mô Hội đồng quản trị, tính

kiêm nhiệm giữa chủ tịch và giám đốc điều hành, giới tính của CEO, các thành viên

độc lập của Hội đồng quản trị và qui mô của Hội đồng quản trị làm thước đo cho

biến quản trị công ty. Một nghiên cứu khác của Đào Thị Thanh Bình và cộng sự

(2012) lại dùng các biến như: số lượng thành viên Hội đồng quản trị, tỉ lệ quyền sở

hữu nước ngoài, đặc điểm và thành phần Hội đồng quản trị làm thước đo cho quản

trị công ty.

Một nghiên cứu khác của Nguyễn Hồng Sơn và cộng sự (2015) cũng lựa chọn

cấu trúc sở hữu trong đó có biến sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài là một

trong những thang đo quản trị công ty. Các nghiên cứu về quyền sở hữu của

Gursory và Aydogan (2002); Rokwaro (2013); Anstoniasidis (2010); Peong (2012)

cũng có cùng thước đo như trên nhưng thêm thước đo cổ đông lớn đối với quản trị

công. Trong nghiên cứu khác của Adams và Fereira (2007); Đoàn Hồng Phúc và

Lê Văn Thông (2014) các tác giả này cũng xây dựng các thước đo về quản trị công

ty gồm nhiều biến trong đó biến kinh nghiệm của Hội đồng quản trị là một trong

những thước đo được sử dụng.

27

Theo một cách khác, quản trị có thể được đo lường bằng các chỉ số tổng hợp.

Chẳng hạn, Gom- pers, Ishii, và Metrick (2003) xây dựng chỉ số G- index là một chỉ

số tổng hợp từ 24 biến, theo đó chỉ số G-index càng lớn sẽ biểu thị sự hạn chế nhiều

hơn đối với quyền của cổ đông. Một chỉ số tổng hợp khác được biết tới là chỉ số E-

index. Chỉ số này được Bebchuk, Cohen, và Ferrell (2009) xây dựng dựa trên 6 biến

trong 24 biến tạo thành chỉ số G- index. Quyền hạn của cổ đông càng thấp nếu chỉ

số này càng lớn. Những chỉ số này được xem là quản trị bên ngoài công ty và

thường được sử dụng để đánh giá tác động của quản trị tới kết quả hoạt động của

công ty. Tuy vậy, những chỉ số này ít được sử dụng vì khó thu thập số liệu để tính

toán (Cremers và Nair, 2005). Chính vì vậy, các thước đo riêng lẻ thường được sử

dụng nhiều hơn trong các phân tích thực nghiệm về quản trị và kết quả hoạt động

của công ty.

Từ những tổng kết về các thước đo quản trị công ty như đã nêu trên, tác giả sẽ

sử dụng tám thước đo gồm:

- Quy mô hội đồng quản trị

- Số lượng nữ giới trong hội đồng quản trị

- Trình độ học vấn của hội đồng quản trị

- Kinh nghiệm làm việc của hội đồng quản trị

- Số lượng thành viên độc lập của hội đồng quản trị

- Cổ đông lớn

- Sở hữu nhà nước

- Sở hữu nước ngoài

Đây là các thước đo đại diện cho quản trị công ty ngân hàng. Trong nghiên

cứu này của mình, tác giả sử dụng các thước đo riêng lẻ để tiến hành phân tích tác

động của quản trị tới kết quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại.

28

Bảng 2.3: Các thước đo quản trị công ty

Cách tính STT Tên nhân tố Ý nghĩa

1 Broad size Thành viên HĐQT Số lượng thành viên thuộc HĐQT

2 Gender Thành viên nữ thuộc Số lượng thành viên là nữ thuộc

HĐQT HĐQT

3 Edu Trình độ của HĐQT Thành viên có trình độ sau đại học

4 Board Age Kinh nghiệm làm việc Độ tuổi trung bình của các thành

của thành viên HĐQT viên HĐQT

5 Block Cổ đông lớn “1” nếu tỷ lệ nắm giữ cổ phần của

các cổ đông lớn hơn 5% (không tính

số cổ phiếu thuộc nhà nước) và “0”

nếu ngược lại

6 State Quyền sở hữu của nhà “1” nếu nhà nước làm chủ và “0”

nước nếu ngược lại

7 Fown Sở hữu nước ngoài Tỷ lệ % sở hữu

8 Outdir Số lượng thành viên Số lượng thành viên

độc lập của hội đồng Chú ý có thể tính bằng % độc lập

quản trị trên tổng số thành viên

(Nguồn: Tác giả )

2.2. Tổng quan về thông tin bất đối xứng

2.2.1. Khái niệm về thông tin bất đối xứng

Thông tin bất đối xứng, đôi khi được gọi là thất bại thông tin, có mặt bất cứ

khi nào một bên giao dịch kinh tế có thông tin đầy đủ hơn bên kia. Các mô hình lý

thuyết thông tin trong thị trường tài chính liên quan đến hai loại đối tượng: những

đối tượng có lợi thế thông tin và những đối tượng không có lợi thế thông tin; điều

29

này thường biểu hiện khi người bán một hàng hóa hay dịch vụ có kiến thức nhiều

hơn người mua hoặc người đi vay hiểu rõ về khả năng trả nợ của mình so với ngân

hàng. Thông tin bất đối xứng đóng một vai trò quan trọng trong việc kết hợp giữa lý

thuyết kinh tế cổ điển với hành vi kinh tế quan sát. Mức độ bất đối xứng thông tin

và những ảnh hưởng thông tin bất đối xứng gần như xảy ra trong mọi quan hệ kinh

tế, đặc biệt là trong trường hợp lựa chọn bất lợi hoặc rủi ro đạo đức. Do đó, thông

tin bất đối xứng là một trong những vấn đề cơ bản nhất được nhà kinh tế hiện đại

nghiên cứu. Đặc biệt, thông tin bất đối xứng được chú ý nhiều hơn nữa trong lĩnh

vực tài chính bởi vì một trong những điểm quan trọng nhất trong hoạt động thị

trường tài chính là hoạt động thu thập, tổng hợp và xử lý thông tin khác nhau về giá

cả thị trường. Do đó, việc nhận biết ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng về sự

tương tác giữa các chủ thể có vai trò quan trọng đối với việc hiểu biết về cách thức,

kết quả, hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính.

Solomon (2004) cho rằng các nhà quản lý có đầy đủ thông tin về hoạt động

kinh doanh của công ty, tuy nhiên các nhà quản lý thường không cung cấp những

thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư. Việc tìm kiếm các thông tin cần thiết của các

nhà đầu tư thường bao gồm thông qua kênh chính thức như báo cáo tài chính và các

kênh phi chính thức như tham gia các diễn đàn trao đổi thông tin, thuê tư vấn tài

chính. Tuy nhiên, những thông tin trên các diễn đàn và ý kiến của tư vấn tài chính

lại bắt nguồn từ chính báo cáo tài chính mà công ty cung cấp. Như vậy xảy ra

trường hợp là các nhà đầu tư phụ thuộc phần lớn vào việc công bố thông tin của

công ty, điều này sẽ dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm khi thông tin được

cung cấp không chính xác, hoặc không đầy đủ.

Điều này có nghĩa các đối tượng cùng giải quyết một vấn đề, cùng tham gia

một thị trường nhưng một bên giao dịch có các thông tin liên quan trong khi bên

kia không có hoặc không có đầy đủ. Nguyên nhân của điều này có thể do các lý

do sau: thứ nhất, nguồn thông tin khác nhau; thứ hai thời điểm tiếp nhận thông

tin khác nhau; thứ ba, do trình độ xử lý thông tin khác nhau của các bên nhận

được các luồng thông tin. Thông tin bất đối xứng là nguyên nhân dẫn đến thị

trường kém hiệu quả.

30

2.2.2. Các hình thức thông tin bất đối xứng

Trong thị trường tài chính nói chung và thị trường ngân hàng nói riêng, thông

tin bất đối xứng được biểu hiện thông qua: (1) lựa chọn đối nghịch, (2) tâm lý ỷ lại

và (3) chi phí giám sát.

Khi thông tin bị che đậy thì lựa chọn đối nghịch sẽ xảy ra và nó có trước khi thực

hiện một giao dịch trên trên thị trường. Trong trường hợp này, một bên sẽ phải quyết

định thực hiện giao dịch dựa trên thông tin bất đối xứng. Điều này sẽ dẫn đến lợi ích

của bên có được thông tin nhiều hơn sẽ có lợi ích nhiều hơn so với các bên khác.

“Tâm lý ỷ lại” là hiện tượng một bên đối tác che đậy hành vi sau khi ký kết

hợp đồng giao dịch dẫn đến việc tuân thủ không đúng hợp đồng giao dịch tạo bất lợi

cho một bên khác. Với các hợp đồng vay ngân hàng thì tâm lý ỷ lại phát sinh từ

phía bên đi vay. Việc bên đi vay nhận được số tiền giải ngân của ngân hàng nhưng

không thực hiện đúng các thông tin đã cung cấp trong hồ sơ đi vay mà thực hiện các

mục đích riêng, có thể là tìm kiếm một phương án kinh doanh có mức sinh lời cao

hơn, hoặc thậm chí đi gửi ngân hàng khác hoặc cho vay lại với lãi suất cao hơn lãi

suất đi vay cố định. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra, tuy nhiên mức độ rủi ro rất

cao khi không thu hồi được vốn để trả ngân hàng đúng hạn. Trong khi đó, các đơn

vị, chi nhánh ngân hàng đã hoàn thành việc thẩm định dự án và cho vay, nhưng

không có đơn vị giám sát hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp, hoàn toàn phụ

thuộc vào tính ràng buộc của hợp đồng vay. Với nhận thức như vậy, trong một giai

đoạn nhất định, ngân hàng thừa vốn không sẵn lòng để cung cấp vốn cho người đi

vay, dẫn đến khả năng thanh khoản bị ảnh hưởng, niềm tin với doanh nghiệp giảm.

“Chi phí giám sát” có liên quan chặt chẽ đến hành động không công khai của

người đi vay. Do có lợi thế biết rõ thông tin về hoạt động của mình, trong một số

trường hợp, người đi vay có thể công bố thông tin không đúng sự thật nhằm mục

đích đem lại lợi ích cho bản thân, gây thiệt hại cho người cho vay. Chính vì vậy,

người cho vay buộc phải có cơ chế giám sát người đi vay. Và việc giám sát này làm

phát sinh một khoản chi phí nhất định được gọi là chi phí giám sát. Đó là chi phí

thuê mướn các kiểm toán viên thực hiện việc giám sát này thay cho người cho vay

31

2.2.3. Ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng

Về khía cạnh “lựa chọn bất lợi” tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực, không chỉ

trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tuy nhiên, lựa chọn bất lợi trong hệ thống ngân

hàng rất phổ biến, nhất là hoạt động cho vay và phân bổ định mức tín dụng, lựa

chọn bất lợi cũng dễ xảy ra, do doanh nghiệp giữ những thông tin chính xác nhất về

dự án kinh doanh của họ, dự án có thể khả thi hoặc không. Khi đó, một mức lãi suất

trung bình cao hơn được đặt ra để bù đắp cho các rủi ro, dẫn đến loại bỏ các khách

hàng có khả năng trả nợ tốt do đầu tư vào các lĩnh vực ít rủi ro hơn và còn lại nhiều

hơn các khách hàng đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro cao và lợi nhuận cao (Stiglitz

và Weiss, 1981). Trong nghiên cứu của Awargal và các cộng sự (2011) đã chỉ ra

ảnh hưởng của lựa chọn bất lợi trong quá trình chứng khoán hóa các khoản cho vay

có thế chấp của hệ thống ngân hàng Mỹ trong thời gian từ 2004-2008, trong đó các

ngân hàng, do không có đầy đủ thông tin, đã giữ lại các khoản vay thực chất có độ

rủi ro cao hơn, trong khi lại tập hợp các khoản vay có độ rủi ro thấp thành các danh

mục và chuyển đổi thành các chứng khoán được đảm bảo bằng thế chấp (mortgage

backed securities- MBS) và bán ra thị trường. Đây được cho là một trong những

nguyên nhân làm tăng khả năng mất thanh khoản của ngân hàng, góp phần dẫn đến

khủng hoảng tài chính trên toàn hệ thống sau đó. Hệ thống ngân hàng Việt Nam

thời điểm những năm 2006-2008 vừa qua đã chịu tác động lớn của “lựa chọn bất

lợi”, đặc biệt cho vay bất động sản. Khi thị trường bất động sản đang đi lên, người

vay đầu tư bất động sản thì sẵn sàng chấp nhận lãi suất cao bất chấp họ phải đối mặt

với các mức độ rủi ro khác nhau. Ngân hàng thì trở nên bất cẩn, cho vay ào ào với

mức lãi suất ngày càng gia tăng, do không thể và có thể cũng không muốn đánh giá

khả năng trả nợ và tiềm lực của các loại khách hàng khác nhau. Lúc này các bên

tham gia thị trường đều bị mờ mắt bởi một tỉ suất lợi nhuận cao có vẻ như rất rõ

ràng ở hàng loạt dự án này. Đầu tư bất động sản chịu rủi ro cao hơn nhiều so với sản

xuất, ví dụ như, bánh ngọt hay phở. Lúc này, mặt bằng lãi suất đã bị đẩy lên rất cao,

có những dự án bất động sản có tỷ suất sinh lợi cao nhưng thực tế là rất rủi ro vay

được vốn, còn sản xuất bánh ngọt, phở hay những lĩnh vực đầu tư an toàn nhưng tỉ

32

suất lợi nhuận thấp thì không thể (Huỳnh Thế Du, 2005). Lựa chọn bất lợi làm cho

các đối tượng có khả năng trả nợ không giống nhau nhưng lại chịu mức lãi suất như

nhau, kết quả là thị trường tín dụng chỉ còn lại những đối tượng có khả năng trả nợ

thấp vay được vốn. Trong thực tế, khi doanh nghiệp khó khăn cần vay vốn nhằm

tránh đổ vỡ, họ buộc phải tìm kiếm các khoản vay lãi suất cao; nhằm tránh rủi ro, họ

cũng có thể tìm một phương án đầu tư khác để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn nhằm trả

nợ và tìm kiếm lợi nhuận giữ lại, điều này khiến cho mức độ rủi ro tăng cao hơn khi

mức lãi suất cho vay quá cao, vượt quá khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong bối

cảnh kinh tế nói chung khó khăn hoặc lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp đó khó

khăn. Như vậy thông tin bị che đậy đã khiến cho việc cho vay vốn trở nên không

kiểm soát được, nợ xấu chắc chắn xuất hiện khi thị trường đổ vỡ.

Về khía cạnh “tâm lý ỷ lại”. Một loạt các vụ đổ vỡ của các định chế tài chính

lớn ở các nước phát triển từ năm 2008 là do hệ quả này gây nên. Có thể coi trường

hợp của 2 tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac tại Mỹ là điển hình của “tâm lý ỷ

lại”. Đây thực chất là các công ty tư nhân nhưng lại được chính phủ Mỹ bảo trợ

(government sponsored enter- prises- GSEs), chuyên cung cấp các khoản vay có thế

chấp dưới chuẩn. Họ tập hợp các khoản vay này thành một danh mục và chuyển đổi

thành chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp (MBS). Các nhà đầu tư lao vào loại

chứng khoán mới này, do tin tưởng rằng độ rủi ro rất thấp vì nó được bán ra và bảo

đảm bởi các công ty được chính phủ bảo trợ. Bản thân các GSEs có mối liên hệ trực

tiếp với Bộ Tài chính Mỹ và được phép vay vốn với các điều khoản ưu đãi như Bộ

Tài chính Mỹ, do đó, mọi người đều cho rằng nó “quá lớn nên không thể đổ vỡ”

(Krugman, 2010). Tâm lý ỷ lại được coi là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng

“sản xuất và tiêu dùng” quá mức tối ưu sản phẩm tài chính MBS, đánh mất tính hiệu

quả của thị trường, và khi thị trường cho vay dưới chuẩn của Mỹ sụp đổ, Fannie

Mae và Fredie Mac hoàn toàn mất thanh khoản. Tương tự như vậy, hàng loạt các vụ

sụp đổ của Lehman Brothers, Bear Stearns được cho phần lớn là do tâm lý ỷ lại gây

nên, trong đó chính phủ Mỹ cuối cùng buộc phải cứu Fannie Mae và Fredie Mac,

còn Bear Stearns bị JP Morgan mua lại.

33

Tâm lý ỷ lại cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống ngân hàng Việt Nam

trong thời gian vừa qua, khi mà các ngân hàng dù đã trở nên quá yếu kém, khó có

thể trụ nổi nhưng vẫn nhận được những cam kết của Chính phủ giữ cho không bị

phá sản. Hậu quả là, các ngân hàng này dù bị nợ xấu làm cho tê liệt mọi hoạt động

cho vay, vẫn tiếp tục huy động tiền gửi từ dân cư với mức lãi suất cao. Sự “đảm bảo

không cho phá sản” của Chính phủ trong trường hợp này một mặt khiến các ông

chủ ngân hàng bất cẩn với mọi hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, điều này khiến

người dân vẫn có tâm lý tin tưởng để tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng để hưởng mức

lãi suất cao do các ngân hàng này đặt ra, không quan tâm nhiều đến những bất ổn-

tất cả đều là hệ quả của tâm lý ỷ lại.

Vấn đề “người ủy thác” và “đại diện”. Giám đốc hay nhà quản lý của các tổ

chức tài chính là người đại diện cho các cổ đông và nhà đầu tư để điều hành tổ chức

đó. Trong lĩnh vực tài chính, do tính chất đặc thù của ngành là đòi hỏi phải có sự am

hiểu chuyên môn nên cổ đông và nhà đầu tư thường phó thác cho người đại diện,

khiến cho các hệ quả của thông tin bất đối xứng càng dễ dàng có điều kiện xảy ra

(Pilbeam, 2010). Thế giới tài chính phát triển ngày nay đã sáng tạo ra quá nhiều các

công cụ tài chính và sản phẩm tài chính phái sinh mà chỉ có những người trong nghề

mới hiểu chính xác được và khi các công cụ này bị “người đại diện” lợi dụng cho

mục đích tư lợi cá nhân, bản thân “người ủy thác” cũng không thể phát hiện được.

Trường hợp đổ vỡ của quỹ hưu trí MGN thuộc tập đoàn Maxwell ở Anh xảy

ra đầu những năm 1990 là một điển hình của vấn đề người ủy thác và đại diện trong

lĩnh vực tài chính (Howells và Bain, 2008). Chủ của tập đoàn Maxwell đã lợi dụng

sự tin tưởng của các nhà đầu tư, dùng tiền của quỹ để đầu tư vào các công ty mà

Maxwell có mối liên hệ hoặc có tư lợi cá nhân, đi ngược với quy định của luật pháp

mà các nhà đầu tư không hề hay biết. Khi tập đoàn Maxwell sụp đổ, quỹ hưu trí này

đã không thể chi trả được tiền hưu cho người được hưởng.

Ở Việt Nam, vấn đề công ty sở hữu ngân hàng và sở hữu chéo gây nên những

hậu quả trầm trọng cho hệ thống ngân hàng là một biểu hiện của mâu thuẫn “người

ủy thác” và “đại diện”. “Người đại diện” ở đây là các chủ ngân hàng đã không kinh

34

doanh vì lợi ích và sự an toàn của “người ủy thác”- là người gửi tiền – mà lợi dụng

để đầu tư vào các dự án bất động sản của công ty sân sau của mình, hay các dự án

có độ rủi ro cao do họ góp cổ phần. Khi thị trường bất động sản suy sụp, nền kinh tế

rơi vào khó khăn, các công ty này không thể trả được nợ cho ngân hàng, nợ xấu từ

đó mà sinh ra chồng chất, đặt ngân hàng và người gửi tiền vào tình thế đầy rủi ro về

thanh khoản.

2.2.4. Các nghiên cứu về thông tin bất đối xứng

Lý thuyết về thông tin bất đối xứng được đưa ra bởi Akerlof (1970). Trong

nghiên cứu của mình, Akerlof đã phân tích thị trường xe hơi của Hoa Kỳ và chỉ ra

rằng thị trường sẽ đạt kết cục không hiệu quả khi một bên nắm thông tin tốt hơn bên

còn lại. Phần lớn nguời mua xe không có đầy đủ thông tin để phân biệt giữa những

xe hơi có chất lượng tốt hay kém. Ðiều này làm cho họ phải tự đặt ra một mức chất

lượng trung bình, từ đó đưa ra một mức giá trung bình có thể mua. Hệ quả tất yếu,

đó là trên thị trường có những chiếc xe có chất lượng tốt tuy nhiên không được bán

với đúng mức giá cao thích hợp, còn những chiếc xe có chất lượng kém lại được

bán với mức giá cao hon giá trị thực sự của nó. Cuối cùng trên thị trường chỉ còn lại

những chiếc xe có chất lượng kém (lemons). Từ nghiên cứu của Akerlof, Spence

(1973) và Stiglitz (1976) đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên của

thông tin. Spence (1973) đưa ra khái niệm về “phát tín hiệu” (signaling) và chỉ ra rằng

một bên trên thị trường có thể thuyết phục đối tác của mình về chất lượng sản phẩm

bằng cách cung cấp thêm thông tin về sản phẩm, từ đó làm giảm mức độ thông tin bất

đối xứng. Còn Stiglitz (1976) giới thiệu khái niệm “cơ chế sàng lọc” (screening) mô tả

tình huống một bên trên thị trường sẽ thu thập thông tin về khách hàng, từ đó đưa ra

các lựa chọn khác nhau cho các nhóm khách hàng khác nhau nhằm giảm thiểu rủi ro.

Như vậy, “phát tín hiệu” và “cơ chế sàng lọc” khác nhau về chủ thể nào sẽ hành động

trước trên thị trường. Từ những nghiên cứu mang tính nền tảng trên đây, năm 2001,

Akerlof, Spence và Stiglitz đã được trao giải thưởng Nobel cho những đóng góp của họ

trong việc phân tích thị trường có thông tin bất đối xứng.

35

Các ứng dụng của lý thuyết thông tin bất đối xứng rất đa dạng trên tất cả các

lĩnh vực của kinh tế xã hội, điển hình là ở thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, Yang

& Liau (2008) phân tích các nguồn hình thành nên thông tin bất đối xứng trên thị

trường chứng khoán. Trong số các lý do đó, một nguyên nhân quan trọng đó là sự

khác biệt giữa quyền điều hành (control rights) và quyền dòng tiền (cash flow

rights). Quyền điều hành đề cập tới mức độ của nguời sở hữu trong việc điều hành

quản lý hoạt động của công ty, trong khi quyền dòng tiền đề cập đến phần lợi nhuận

của công ty thuộc về sở hữu đó. Nếu nguời sở hữu nắm trong tay quyền điều hành

quản lý, nhưng lại không được hưởng những lợi ích bằng tiền từ việc làm của mình,

họ sẽ dễ dàng bị lôi kéo vào những giao dịch ngầm (insider trading) để thu lợi bất

chính dựa trên những thông tin mà họ có được về tổ chức.

Lý thuyết chung về ngân hàng, thuật ngữ thông tin bất đối xứng có thể được

thay thế bằng “tính mờ”. Nói chung, thuật ngữ tính mờ được sử dụng để làm rõ vấn

đề bất đối xứng thông tin luôn tồn tại trong lĩnh vực ngân hàng. Ví dụ, Flannery,

Kwan và Nimalendran 2004 sử dụng “tính mờ” như một đặc tính chủ yếu của tính

bất đối xứng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng. Họ định nghĩa “tính mờ” có nghĩa

là các nhà đầu tư vào ngân hàng không thể đánh giá về giá trị tài sản của ngân hàng

một cách chính xác nhưng những người bên trong hoặc các chuyên gia có khả năng

đánh giá đúng về vấn đề này.

Morgan (2002) cho rằng thông tin bất đối xứng gắn liền với đặc tính của ngân

hàng và tính bất đối xứng thông tin tại lĩnh vực ngân hàng rõ ràng hơn nhiều so với

các loại hình công ty khác. Điều này dựa trên đặc điểm ngân hàng giống như hộp

đen, dòng tiền đi vào và dòng tiền đi ra, nhưng những người bên ngoài ngân hàng

khó có thể quan sát hết những rủi ro trong quá trình vận động trung gian. Nói cách

khác, những người bên trong ngân hàng có nhiều thông tin về những rủi ro có thể

xảy ra khi dòng tiền luân chuyển bên trong hơn là những người bên ngoài ngân

hàng. Morgan cho rằng bản chất về tài sản của các công ty tài chính khác rất nhiều

so với các công ty khác. Ông cho rằng tài sản tài chính tạo ra nhiều vấn đề do đó

các ngân hàng có thể biến những tài sản ít rủi ro thành các khoản đầu tư nhiều rủi

36

ro, giống như việc nhận tiền gửi của người dân và cho vay các khoản vay nhiều rủi

ro hoặc đầu tư vào các dự án có thể dẫn đến thất bại và mất vốn. Hơn nữa, ông cũng

đánh giá các tài sản tài chính tạo ra sự không chắc chắn đối với các nhà đầu tư. Tuy

nhiên, Flannery, Kwan và Nimalendran (2004) không tìm thấy bằng chứng về sự

khác biệt về tính bất đối xứng thông tin khi so sánh giữa các ngân hàng và công ty

phi tài chính.

Levine (2004) thừa nhận rằng “những đối tượng ngoài ngân hàng không thể

theo dõi một cách đầy đủ về chất lượng của các khoản cho vay của ngân hàng”. Ông

cho rằng ngân hàng có thể giấu đi các vấn đề thông qua việc cung cấp các khoản

cho vay đối với khách hàng với mức lãi xuất cao khiến khách hàng có thể rơi vào

tình trạng mất khả năng thanh khoản, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cũng

như có thể gây ra tình trạng mất vốn của ngân hàng. Xa hơn nữa, ngân hàng có thể

thay đổi các thành tố rủi ro của tài sản khiến những người bên ngoài khó quan sát

hơn. Nói cách khác, tính chất liên quan đến nhiều đối tượng, đối tác, người gửi tiền,

cổ đông hoặc chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng khiến các đối tượng có liên

quan có cách nhìn khác nhau về hoạt động của ngân hàng khiến các cổ đông khó có

khả năng kiểm soát và đưa ra các quyết định quản lý hiệu quả.

Thông tin bất đối xứng là một đặc điểm phổ biến trong hoạt động của các ngân

hàng đòi hỏi các cơ quan quản lý cần phải luôn lưu tâm và cần có những quy định

rõ ràng nhằm tránh những rủi ro mang tính hệ thống ảnh hưởng đến cả hệ thống

ngân hàng cũng như cả nền kinh tế. Liên quan đến vấn đề này, các nhà quản lý trên

thế giới luôn nỗ lực đưa ra các quy định cụ thể và tạo ra các khung pháp lý chặt chẽ

để tránh các rủi ro này. Tuy nhiên, các nhà quản lý và làm luật cũng cần phải quan

tâm đến tính hiệu quả của các quy tắc thị trường. Điều này là do hiệu quả của các

quy tắc thị trường thường có tác động lớn hơn trong việc tạo ra những quy tắc về

tính minh bạch trong hoạt động của ngân hàng đối với các đối tượng bên ngoài. Về

vấn đề này, Flanery (1998) đã xây dựng một mô hình kết hợp giữa cơ chế thị trường

và hoạt động giám sát thông tin, mô hình này không những rút ngắn được thời gian

xác đinh những vấn đề của ngân hàng mà còn giúp các nhà quản lý có thể phản ứng

37

một cách nhanh chóng với các vấn đề phát sinh khi phát hiện các thông tin rủi ro.

Ông cho rằng việc giám sát hoạt động của thông tin thị trường có thể được cải thiện

nếu các nhà quản lý có thể kết hợp một cách hệ thống thông tin thị trường vào các

phân tích và các chương trình hành động của họ. Đối với vấn đề này, Ủy ban giám

sát ngân hàng Basel (Basel Committee on Banking Supervision) cho rằng cơ chế

quản trị công ty có thể giúp cải thiện hiệu quả quản lý.

2.2.5. Cấu trúc biến thông tin bất đối xứng

Các nghiên cứu cho thấy không có biện pháp nào là tối ưu để đo được mức độ

bất đối xứng của thông tin. Việc đo lường trực tiếp thông tin bất đối xứng là rất khó,

một trong những nguyên nhân đó là tính chất bất đối xứng không chỉ diễn ra giữa

người sở hữu, cổ đông với những nhà quản lý. Trong lĩnh vực ngân hàng, các đối

tượng liên quan có thể cả là người gửi tiền, cơ quan giám sát, tình bất đối xứng

thông tin cũng tồn tại trong Hội động quản trị, giữa Hội đồng quản trị và ban giám

đốc… Do đó, các nghiên cứu trên thế giới tập trung phát triển các biến đại diện có

thể đo lường được thay vì đo lường trực tiếp thông tin bất đối xứng. Các cách đo

lường này gắn liền với nhau nhưng chứa đựng thông tin riêng biệt.

Một trong những cách phổ biến nhất để đo lường là khoảng biến thiên giá giao

dịch cổ phiếu. Điều này dựa trên giả thuyết rằng việc thông tin bất đối xứng càng

lớn sẽ khiến cho khoảng biến thiên giá càng cao do nhà đầu tư khó dự đoán xu

hướng biến động giá (Denis Cormier, Michel Magnan and Walter Aerts, 2008).

Một số nghiên cứu khác cho rằng số lượng chuyên gia nghiên cứu có thể được

sử dụng để đại diện cho việc cung cấp thông tin về công ty. Càng có nhiều chuyên

gia nghiên cứu về công ty thì càng có nhiều thông tin được phơi bày và cung cấp

cho công chúng được biết tính bất đối xứng của thông tin càng giảm. Brennan và

Subrahmanyam (1995) lập luận số lượng nhà phân tích tăng làm giảm chi phí lựa

chọn bất lợi. Trong khi Chemmanur và Paeglis (2001) thấy rằng giá cổ phiếu tăng tỷ

lệ thuận với những số lượng phân tích của các chuyên gia.

38

Ở khía cạnh khác, sai số dự báo về lợi nhuận công ty của chuyên gia phân tích

cũng có thể là biến đại diện cho AI do số lượng nhà phân tích tài chính là chuyên

gia tìm kiếm và nghiên cứu về thông tin công ty. Ở nghĩa rộng, hiểu biết của họ về

tình trạng công ty sẽ được thị trường tiếp nhận. Sai số dự báo của nhà phân tích về

lợi nhuận của công ty có thể là biến đại diện mở rộng của thông tin bất đối xứng

giữa người bên trong và bên ngoài công ty. Gilson và cộng sự. (1997);

Krishnaswami và Subramaniam (1998) sử dụng dự báo sai số lợi nhuận công ty của

các chuyên gia như một biến đại diện của thông tin bất đối xứng.

Nghiên cứu khác của Allen (1993) cho rằng số lượng cổ đông cũng có thể là biến

đại diện do giá trị cổ phiếu thị trường phản ánh toàn bộ thông tin mà cổ đông có. Một

số thông tin mất phí, một số thông tin miễn phí. Điều này lý giải rằng số lượng cổ đông

có thể làm gia tăng số lượng thông tin cho thị trường, chính vì vậy làm giảm tính bất

đối xứng của thông tin.

Nghiên cứu của Vermaelen (1981) cũng cho thấy quy mô công ty làm giảm

thông tin bất đối xứng. Các công ty lớn có thể đối mặt với ít vấn đề thông tin bất đối

xứng bởi vì họ có có xu hướng trở thành các công ty lớn hơn, được thiết lập và trải

qua thời gian kiểm tra mức độ minh bạch thông tin trong hoạt động và đón nhận

nhiều sự chú ý từ thị trường và các nhà làm luật (Diamond and Verrecchia, 1991và

Harris, 1994). Quy mô công ty có thể tính bằng tổng tài sản hoặc giá trị thị trường

của vốn chủ sở hữu.

Chi phí nghiên cứu và phát triển cũng được coi là một thang đo đại diện cho

thông tin bất đối xứng. Trong thực tế, nghiên cứu phát triển (R&D) là một hoạt

động mà qua đó các công ty có thể đánh giá triển vọng tăng trưởng trong tương lai

bằng cách phát triển sản phẩm mới hoặc cải tiến, hoàn thiện và mở rộng qui mô của

mình. Chi phí nghiên cứu phát triển không chỉ là chi phí nghiên cứu sản phẩm, mà

trong lĩnh vực ngân hàng, đó có thể là chi phí để điều tra về khách hàng, phân khúc

doanh nghiệp, kiểm tra, giám sát chất lượng các khoản vay và việc thực hiện hợp

đồng vay của khách hàng. Đây được coi là chi phí nhằm tìm hiểu thông tin về thị

trường, đồng nghĩa với việc làm giảm tính bất đối xứng thông tin thị trường. Barth

39

và Kasznik (1999); Barth, Kasznik và McNichols (2001) cho rằng chi phí nghiên cứu

và phát triển đại diện cho tài sản vô hình và gắn liền trực tiếp với thông tin bất đối

xứng. Thông tin bất đối xứng càng cao sẽ khiến chi phí nghiên cứu phát triển càng cao.

Thông thường, các công ty thường dành khoảng 5% lợi nhuận cho hoạt động

nghiên cứu và phát triển (R&D). Tuy vậy, đối với một số ngành như : dược phẩm,

phần mềm, điện tử viễn thông… thì hoạt động này được các công ty đầu tư cao hơn

hẳn những ngành khác. Thông tin bất đối xứng được thể hiện một cách rõ ràng

trong các ngành công nghiệp cao có hoạt động đầu tư vào R&D một cách chuyên

sâu (Himmelberg và Petersen, 1994), ví dụ như ngành công nghệ sinh học. Sở dĩ có

điều này vì các nhà quản lý thông thường đã có nhiều thông tin bên trong công ty

hơn các đối tác bên ngoài, cộng với sự hiểu biết về sự thành công của các dự án

nghiên cứu phát triển sản phẩm, các thông số kỹ thuật liệu nó có thành công hay

không cũng như tính khả thi của sản phẩm khi tung ra thị trường (Hall và Lerner,

2009). Điều này làm tăng tính bất đối xứng thông tin. Aboody and Lev (2000)

chứng minh rằng giao dịch nội gián tăng cao tại các công ty có hoạt động R&D hơn

là các công ty không có R&D, đồng thời cho thấy R&D là một trong những nhân tố

chính dẫn đến thông tin bất đối xứng.

Đo lường thông tin bất đối xứng bằng chỉ số Tobin’s Q. Đây là chỉ số được

James Tobin đưa ra khái niệm Q vào cuối thập niên 1960. Ý tưởng của Tobin là nếu

thị trường đánh giá một doanh nghiệp cao hơn giá trị vật chất của doanh nghiệp đó

thì đấy là tín hiệu thị trường cho rằng doanh nghiệp có triển vọng phát triển. Khi Q

> 1, doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh đầu tư để tăng trưởng, ngược lại nếu Q < 1 thì

doanh nghiệp sẽ bán bớt tài sản vật chất hoặc giảm đầu tư xuống thấp. Lý thuyết

đầu tư của Tobin (1969) đưa ra một cơ chế, qua đó, chính sách tiền tệ có thể tác

động đến nền kinh tế thông qua kênh định giá cổ phiếu. Tobin định nghĩa q là thị

giá của một công ty trên chi phí thay thế vốn của công ty đó. Nếu hệ số q cao, công

ty sẽ đầu tư nhiều hơn vì việc huy động thêm vốn sẽ rẻ hơn do thị giá của công ty

khá cao so với chi phí huy động thêm vốn. Ngược lại, nếu hệ số q thấp, công ty sẽ

không gia tăng đầu tư vì chi phí huy động thêm vốn khá đắt.

40

Chính sách nới lỏng tiền tệ có thể làm tăng hệ số q qua 2 kênh. Thứ nhất, lãi

suất thấp sẽ không khuyến khích nhà đầu tư gửi tiền vào ngân hàng và họ sẽ vay

thêm vốn với chi phí thấp hơn trước. Nhà đầu tư sẽ phải tìm kiếm các kênh đầu tư

khác hấp dẫn hơn, một trong những kênh đầu tư đó là thị trường chứng khoán. Do

đó, thị giá cổ phiếu có thể sẽ tăng lên do cầu kéo. Thứ hai, lãi suất thấp còn làm cho

các công cụ có lãi suất cố định như trái phiếu sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn so với cổ

phiếu, nhà đầu tư có thể cũng sẽ chuyển từ kênh trái phiếu sang kênh cổ phiếu. Tóm

lại, chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ làm tăng giá cổ phiếu, và do đó, làm tăng hệ số q,

và kết quả là đầu tư cũng tăng theo.

Tobin’s Q được tính bằng tỷ số giữa giá thị trường của tài sản với giá trị thay

thế của tài sản. R. Bauer và các cộng sự (2004) đã đề xuất cách tính Tobin’s Q: giá

thị trường của tài sản được tính bằng cách cộng giá sổ sách của tài sản với giá thị

trường của cổ phiếu đang lưu hành, sau đó trừ đi giá sổ sách của cổ phiếu lưu hành,

còn giá trị thay thế của tài sản được tính bằng giá sổ sách của tài sản. Chỉ tiêu

Tobin’s Q phụ thuộc vào các giá trị vô hình của công ty, niềm tin của thị trường đối

với tương lai của công ty và phương pháp hạch toán giá trị sổ sách của tài sản. Ưu

điểm của chỉ tiêu này là dễ tính toán, giúp nhận dạng và ước lượng giá trị vô hình

không được ghi nhận trong báo cáo tài chính. Nhược điểm của chỉ tiêu này nằm ở

tâm lý nhà đầu tư và khả năng tuân thủ chuẩn mực kế toán.

Nghiên cứu trước đó cho thấy vấn đề thông tin bất đối xứng càng trở nên trầm

trọng đối với các công ty có cơ hội tăng trưởng mạnh (Smith and Watts (1992). Vì

vậy, biến đại diện được sử dụng để đo lường thông tin bất đối xứng là cơ hội đầu tư

(investment opportunities) (McLaughlin và cộng sự. (1998). Không giống như

ROA, ROE vẫn thường được sử dụng trong nhiều nghiên cứu, chỉ số Tobin’s Q có

ưu điểm nhất định. Nếu như ROA, ROE phản ánh kết quả trong quá khứ thì Tobin’s

Q phản ánh kỳ vọng tương lai của nhà đầu tư.

Tobin’Q = ( EMV + LMV)/(EBV + LBV)

Trong đó:

EMV: Giá trị thị trường của Vốn chủ sở hữu.

41

LMV: Giá trị thị trường của Nợ phải trả.

EBV: Giá trị sổ sách của Vốn chủ sở hữu.

LBV: Giá trị sổ sách của Nợ phải trả.

Đo lường thông tin bất đối xứng qua chỉ số đòn bẩy tài chính (Leverage) hay

nợ tài chính: Một công ty có chỉ số nợ tài chính cao có thể có mức biến động về lợi

nhuận cao hơn. Điều này khiến giá trị thực chất của công ty đó sẽ có mức biến động

lớn do sự biến động về lợi nhuận. Kết quả là mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính gắn

liền với tính bất đối xứng thông tin. Do tính chất bất đối xứng thông tin phụ thuộc

vào hoạt động công bố thông tin, tuy nhiên, thông tin của ngân hàng công bố ra

được chia làm hai trường hợp, thứ nhất là mức độ công bố thông tin; thứ hai là tính

chính xác của công bố thông tin.

Đối với mức độ công bố thông tin: Trong giai đoạn nhất định, thông tin bất đối

xứng sẽ giảm dần khi mức độ công bố thông tin tăng lên. Việc tuân thủ chế độ công

bố thông tin gắn liền với niềm tin của người gửi tiền và các bên liên quan tăng lên,

từ đó khiến người dân gửi tiền nhiều hơn, từ đó đòn bẩy tài chính tăng (leverage

tăng). Như vậy có thể nói, công bố thông tin tăng khiến thông tin bất đối xứng giảm

và đòn bẩy tài chính tăng. Điều này có nghĩa thông tin bất đối xứng có mối tương

quan ngược chiều với đòn bẩy tài chính. Nợ tài chính có thể được xem như là một

cơ chế để giảm thiểu thông tin bất đối xứng vì các chủ nợ thúc đẩy để theo dõi hành

vi của quản lý để bảo vệ yêu cầu của mình. Degryse và Jong (2006) cho rằng "đòn

bẩy tài chính và đặc biệt là nợ ngân hàng, là một cơ chế kỷ luật quan trọng làm

giảm vấn đề người đại diện (mâu thuẫn giữa chủ sở sở hữu và nhà quản lý)".

Bebchuk (2003) đồng ý với luận điểm này, trong đó đòn bẩy tài chính có thể hoạt

động như một cơ chế để hạn chế tính bất đối xứng thông tin.

Đối với mức độ chính xác của công bố thông tin: Trong trường hợp thông tin

được công bố đầy đủ, tuy nhiên mức độ chính xác thấp (nghĩa là thông tin được

cung cấp không đúng và có thể là cung cấp sai lệch vì mục đích của ngân hàng),

điều này phổ biến khi xảy ra những dấu hiệu khủng hoảng ngân hàng. Một ví dụ cụ

thể tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng luôn công bố thông tin nợ xấu ở mức xấp xỉ

42

3%, tuy nhiên trong thực tế mức nợ xấu của các cơ quan giám sát đánh giá không

chính thức mức nợ xấu các ngân hàng có thời điểm lên đến 10 - 15%. Như vậy,

thông tin công bố không đúng, nghĩa là thông tin bất đối xứng cao. Các ngân hàng

tìm cách mọi cách tăng vốn, tăng huy động để pha loãng mức nợ với mức lãi suất

huy động cao nhằm thu hút người gửi tiền. Tuy nhiên, người dân gửi tiền không

biết, họ vẫn gửi tiền cho ngân hàng vì lãi suất ngân hàng cao trong khi các kênh đầu

tư khác sinh lời ít. Như vậy mức độ chính xác thông tin thấp, khiến thông tin bất đối

xứng tăng và đòn bẩy tài chính cũng tăng. Trong trường hợp này, thông tin bất đối

xứng lại có quan hệ cùng chiều với đòn bẩy tài chính.

Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp đo lường bằng hai cách

thích hợp đối với tình trạng số liệu có thể lấy được tại Việt Nam, đó là chỉ số chi phí

nghiên cứu (R&D) và chỉ số đòn bẩy tài chính (Leverage).

2.3. Tổng quan về hiệu quả hoạt động của ngân hàng và phương

pháp đo lường

Hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần (corporate performance hoặc firm

performance) là chỉ tiêu rất quan trọng đối với các bên liên quan như cổ đông, ban

giám đốc, chủ nợ, nhà cung cấp, người tiêu thụ… trong việc ra quyết định kinh

doanh hoặc đầu tư. Hiệu quả hoạt động của công ty được đo lường bằng nhiều chỉ

tiêu khác nhau trong các nghiên cứu khoa học.

Trong các nghiên cứu của Berger & cộng sự, 1997; At.hanaso.glo.u & cộng

sự, 2008; Sufian, 2009; Anbar & Alpe.r, 2011, các tác giả sử dụng thường xuyên

sử dụng các tỷ số tài chính để đánh giá, phân tích hiệu quả hoạt động. Theo Rose

(2004) và Phan Thị Thu Hà (2011), chúng là các chỉ tiêu kế toán thuần túy và đối

với mục tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại thì ba số sau

đây được sử dụng phổ biến nhất: (1) lãi ròng NIM (Net Interest Margin); (2) lợi

nhuận trên tổng tài sản ROA (Return on Assets), và (3) lợi nhuận trên vốn chủ sở

hữu ROE (Return on Equity).

Theo Rose (2002) và Mishkin (2009), “lãi ròng NIM phản ánh năng lực của

đội ngũ quản trị trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu đến từ các

43

khoản cho vay, đầu tư và phí dịch vụ so với mức tăng của chi phí”. Một cách nhìn

khác là huy động hoặc đi vay với chi phí thấp, trong khi đại lợi nhuận tối đa để đạt

lợi nhuận cao nhất.

Lợi nhuận trên tổng tài sản ROA là một chỉ tiêu phản ánh tính hiệu quả của

việc quản lý các tài sản của tổ chức. Tiêu chí này đại diện cho năng lực quản trị

công ty trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng và lợi

nhuận. ROA được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động và đánh giá

tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế nói chung cũng như của ngân hàng nói

riêng. ROA thấp cho thấy hoạt động kém hiệu quả hoặc dàn trải dẫn đến lợi nhuận

không đủ trang trải cho các chi phí. Ngược lại, ROA cao cho thấy hiệu quả của

hoạt động cho vay là các tài sản trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Một chỉ

số ROA cao cũng phản ánh cơ cấu tài sản hợp lý của ngân hàng.

Cuối cùng, tiêu chí ROE là một thước đo khả năng sinh lời cho các cổ đông

và đây thường là một trong những tiêu chí quan trọng nhất đối với nhà đầu tư. Tiêu

chí này thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng

(Rose,2002; Saunders & cộng sự, 2006). Tiêu chí này cũng phản ánh mức độ đền bù

cho những rủi ro mà cổ đông chấp nhận khi họ đầu tư vào một tổ chức công ty nói

chung cũng như ngân hàng nói riêng.

Nghiên cứu của Hult và các cộng sự (2008) đánh giá cách thức đo lường hiệu

quả hoạt động trong các nghiên cứu khoa học đã công bố về công ty kinh doanh

quốc tế (international business), bao gồm các cấp độ tập đoàn, công ty và đơn vị

kinh doanh chiến lược (strategic business unit), cho thấy có ba tiêu chí đo lường

hiệu quả hoạt động được sử dụng là hiệu quả tài chính (financial performance), hiệu

quả kinh doanh (operation performance) hoặc hiệu quả tổng hợp (overall

performance).

Hiệu quả tài chính trong nhiều nghiên cứu bao gồm tỷ suất lợi nhuận trên vốn

đầu tư, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản, tỷ suất

lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, lợi nhuận biên, thu nhập cổ phần thường, thị giá cổ

phiếu, tăng trưởng doanh thu và Tobin’s Q.

44

Hiệu quả kinh doanh được đo lường bởi thị phần, tần suất giới thiệu sản phẩm

mới và sáng chế, chất lượng hàng hoá/dịch vụ, năng suất lao động, mức độ hài lòng

và duy trì lực lượng lao động.

Hiệu quả tổng hợp thường bao gồm uy tín, khả năng tồn tại, mức độ đạt được

mục tiêu, so sánh với đối thủ cạnh tranh…

Hiệu quả tài chính trong các nghiên cứu khoa học thường được đo lường

thông qua các tiếp cận sau: tiếp cận thị trường, tiếp cận từ báo cáo tài chính và tiếp

cận kết hợp.

Tiếp cận thị trường xem hiệu quả tài chính là tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư

(ROI) vào cổ phiếu của công ty đang xem xét. Chỉ tiêu này được tính bằng tỷ số

giữa tổng cổ tức và chênh lệch giá nhận được trong một khoảng thời gian so với vốn

đầu tư ban đầu. Cách tiếp cận này có ưu điểm là dựa trên thu nhập thực tế bằng tiền

của nhà đầu tư, nên có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu chịu ảnh

hưởng nhiều bởi tâm lý của nhà đầu tư (lạc quan hoặc bi quan về thị trường); đặc

biệt trên những thị trường chứng khoán mới phát triển (emerging market), việc giám

sát tuân thủ quy định pháp luật chưa chặt chẽ và thị trường kém hiệu quả về mặt

thông tin, nên giá chứng khoán dễ bị thao túng bởi hoạt động đầu cơ bất hợp pháp,

do đó ROI chưa phải là chỉ tiêu tốt để đo lường hiệu quả hoạt động của công ty.

Mặc khác, khi công ty thực hiện các nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu, phát hành quyền

mua cổ phẩn, cổ phiếu thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu… sẽ làm thị giá cổ phiếu

điều chỉnh tương ứng và làm công thức tính toán ROI trở nên rất phức tạp.

Cách tiếp cận thứ hai là dựa vào thông tin do công ty cung cấp, mà chủ yếu từ

báo cáo tài chính được kiểm toán. Theo cách tiếp cận này, những chỉ tiêu đo lường

hiệu quả tài chính chủ yếu là các tỷ suất lợi nhuận như tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài

sản (ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)... Hai chỉ tiêu này có quan

hệ với nhau vì ROE khuếch đại ROA thông qua đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, để đo

lường hiệu quả hoạt động trong nghiên cứu thì chỉ tiêu ROA toàn diện hơn do tính

đến khả năng khai thác toàn bộ tài sản của công ty. Ưu điểm của cách tiếp cận này

là dễ tính toán chỉ tiêu, nhưng nhược điểm lại nằm ở tính sẵn có và tính chính xác,

trung thực của thông tin từ báo cáo tài chính.

45

Cách tiếp cận thứ ba kết hợp cả hai khía cạnh thị trường và công ty, các nhà

nghiên cứu thường sử dụng chỉ tiêu Tobin’s Q hoặc tỷ số thị giá/giá sổ sách (PBV –

price to book value ratio). Tobin’s Q được tính bằng tỷ số giữa giá thị trường của tài

sản với giá trị thay thế của tài sản. R. Bauer và các cộng sự đã đề xuất cách tính

Tobin’s Q: giá thị trường của tài sản được tính bằng cách cộng giá sổ sách của tài sản

với giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành, sau đó trừ đi giá sổ sách của cổ phiếu

lưu hành, còn giá trị thay thế của tài sản được tính bằng giá sổ sách của tài sản. Chỉ tiêu

PBV tương tự như Tobin’s Q, nhưng không tính trên tổng tài sản, mà chỉ so sánh giá

thị trường và giá sổ sách của vốn chủ sở hữu, do đó PBV chưa được toàn diện bằng

Tobin’s Q. Chỉ tiêu Tobin’s Q phụ thuộc vào các giá trị vô hình của công ty, niềm tin

của thị trường đối với tương lai của công ty và phương pháp hạch toán giá trị sổ sách

của tài sản. Ưu điểm của chỉ tiêu này là dễ tính toán, giúp nhận dạng và ước lượng giá

trị vô hình không được ghi nhận trong báo cáo tài chính, nhưng nhược điểm của nó

nằm ở tâm lý nhà đầu tư và khả năng tuân thủ chuẩn mực kế toán.

Như vậy, hiệu quả hoạt động của công ty cổ phần được đo lường bằng nhiều

chỉ tiêu khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng khảo sát và nguồn dữ liệu. Mỗi chỉ tiêu

tính toán đều có ưu điểm và nhược điểm của nó.

Các nghiên cứu trước đã xây dựng các chỉ tiêu nhằm đánh giá kết quả hoạt

động của công ty dựa trên các quan điểm và mục tiêu nghiên cứu khác nhau.

Richard và cộng sự (2009) đã tiến hành rà soát các thước đo kết quả hoạt động công

ty từ các nghiên cứu trong nhóm năm tạp chí khoa học hàng đầu về quản lý giai

đoạn 2002-2007. Các tác giả này đã phát hiện có sự thống nhất cao về các thước đo

và cách kết hợp chúng để so sánh kết quả hoạt động công ty. Theo Bhagat và Bolton

(2008), các biến đại diện thông dụng nhất cho kết quả hoạt động của công ty gồm có:

Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) - tổng thu nhập trước khấu hao chia

cho tổng tài sản vào thời điểm cuối năm; Tobin’Q: chỉ tiêu này được tính toán bởi

(Gom- pers, Ishii và Metrick, 2003; Brainard và Tobin 1968); Lợi nhuận cổ phiếu:

thu nhập hỗn hợp trong một năm (gồm cả cổ tức); Tỷ lệ đòn bẩy tài chính- là tổng

nợ dài hạn chia tổng tài sản; Kết quả hoạt động hai năm gần nhất: dựa trên các chỉ

tiêu này, sự thay đổi kết quả hoạt động sẽ được tính toán, ví dụ tăng trưởng của

46

công ty. Vì hạn chế dữ liệu, các nghiên cứu về chủ đề này thường chỉ sử dụng chỉ

tiêu đơn lẻ để phản ánh kết quả hoạt động công ty, trong đó tỷ suất sinh lời trên tổng

tài sản, lợi nhuận trước thuế và khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước là các

thước đo thông dụng nhất.

Trong nghiên cứu này của mình tác giả sẽ sử dụng chỉ số tỷ suất sinh lời trên

tổng tài sản (ROA) vì chỉ số này được rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước sử

dụng cũng như chỉ số này được công bố rộng rãi.

2.4. Tổng quan về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng, quản trị

công ty và hiệu quả hoạt động của ngân hàng

2.4.1. Mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động

ngân hàng

Các nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ nhất định giữa hoạt động công bố

thông tin và hoạt động quản trị công ty. Lowenstein (1996) cho rằng “một cơ chế

công bố thông tin tốt là một cơ chế hiệu quả và hiệu suất nhất để các nhà quản lý

quản trị công ty tốt hơn”. Điều này chứng minh các công ty công bố thông tin tốt

hơn có thể có quản trị công ty tốt hơn. Bởi vậy, công bố và minh bạch thông tin góp

phần lớn vào công tác quản trị công ty và hoạt động của doanh nghiệp.

Abdul Rahman (2006) cho rằng “Công bố những thông tin phù hợp tăng

cường minh bạch và cung cấp lượng thông tin chính xác, sẽ giúp các cổ đông của

công ty và các bên liên quan có những hành động phù hợp với mục tiêu của họ”.

Ngoài ra, công bố thông tin về quản trị công ty rất quan trọng với các nhà đầu tư để

giúp họ có một bức tranh tốt về mức độ của các hoạt động giám sát công ty. Nó

cũng giúp các nhà đầu tư nhận biết và so sánh về việc thực thi quản trị công ty giữa

các công ty với nhau. Và nhờ đó, các nhà đầu tư có thể lựa chọn đầu tư dựa vào

mức độ công bố thông tin về quản trị công ty (Abdul Rahman và Rizal Salim,

2010). Quản trị công ty có vai trò như một cơ chế để giảm thiểu các vấn đề về đại

diện giữa các cổ đông và nhà quản lý. Việc tăng cường công bố thông tin của công

ty và việc thiết lập những hướng dẫn về quản trị công ty đã hỗ trợ cho các cổ đông

47

nhằm đảm bảo các nhà quản lý sẽ điều hành công ty dựa trên lợi ích của các cổ

đông. Chỉ thông qua việc công khai và minh bạch thông tin một cách hoàn chỉnh và

đầy đủ, các cổ đông mới có thể thấy tự tin về khoản đầu tư được vận hành một cách

tốt nhất cho lợi ích của họ.

Đối với vấn đề sử dụng đòn bẩy tài chính (leverage), (Andy, Chuck & Alison,

2002) cho rằng đòn bẩy tài chính là một công cụ nợ quan trọng. Bên cạnh vốn tự có,

đòn bẩy tài chính sẽ giúp các doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh một cách

nhanh chóng. Đối với lĩnh vực ngân hàng, mặc dù vốn chủ sở hữu là cao so với các

doanh nghiệp thông thường, nhưng việc sử dụng tiền gửi của người dân để cho vay

nhằm kiếm lợi nhuận là một cách thức đặc biệt chỉ các tổ chức tài chính, nhất là

ngân hàng mới có. Các khoản tiền gửi, được coi như khoản nợ của ngân hàng tạo ra

cơ hội tiềm năng rất lớn nếu được sử dụng hiệu quả. Pandey (2010) khẳng định rằng

các đòn bẩy tài chính được sử dụng bởi một công ty có khả năng kiếm được lợi

nhuận nhiều hơn so với các doanh nghiệp thông thường chỉ sử dụng nguồn vốn tự

có. Rõ ràng nhất là khi xem xét cấu trúc về vốn của doanh nghiệp nói riêng và ngân

hàng nói chung, chi phí vốn được xác định bởi các thành phần của cấu trúc vốn của

một công ty. Một cấu trúc vốn tối ưu là lúc công ty có tổng chi phí vốn thấp nhất,

trong trường hợp này tăng sử dụng nợ sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động và thu nhập

của cổ đông. Việc kết hợp giữa đòn bẩy tài chính và chi phí vốn tối ưu sẽ làm tăng

hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, khi xem xét khía cạnh ngược lại, Andy (2002) cho rằng việc sử

dụng đòn bẩy tài chính đến một giới hạn nhất định hoặc sử dụng đòn bẩy tài chính

quá mức sẽ dẫn đến kết quả hoạt động thấp. Điều này có thể nhìn rõ trên thị trường

ngân hàng, khi ngân hàng chạy đua thị phần, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất

huy động trong một thời gian nhất định và dự báo doanh nghiệp sẽ tăng cường vay

khi tăng trưởng chung của nền kinh tế ở mức cao. Vấn đề phát sinh là việc tăng lãi

suất huy động đẩy tỷ lệ đòn bẩy tài chính lên cao. Tuy nhiên, việc giải ngân của

ngân hàng lại hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu vốn và khả năng hấp thụ của doanh

nghiệp. Khi ngân hàng huy động nhiều nhưng doanh nghiệp không vay khiến nguồn

48

vốn ứ đọng, doanh thu của ngân hàng thấp trong khi chi phí lãi vay tăng cao, kết

quả là hiệu quả kinh doanh thấp. Điều này rất phổ biến đối với các quốc gia có hệ

thống tài chính, ngân hàng đang phát triển, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào vốn vay

ngân hàng hoặc các nền kinh tế đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng

không bền vững. Như vậy, đòn bẩy tài chính có thể tăng trưởng cùng chiều hoặc

ngược chiều với kết quả hoạt động của ngân hàng.

Đối với chi phí hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Các nghiên cứu

cho thấy xu thế hiện nay là các công ty tiến đẩy mạnh các hoạt động R&D nhằm

củng cố vị thế của mình trên thị trường bằng cách cải thiện doanh số bán hàng. Tuy

nhiên, những hiện nay vẫn chưa đồng thuận về những tác động của R&D tới thu

nhập và hiệu suất tài chính. Trước hết, Sougiannis (1994) cho rằng việc tăng chi phí

nghiên cứu sẽ làm tăng thu nhập ròng trong tương lai của doanh nghiệp. Chan

(1990) cho rằng chi phí nghiên cứu tăng sẽ làm giá cổ phiếu tăng. Canibano và

Garcia-Ayuso (2000) khẳng định lợi nhuận tăng cùng với chi phí R&D tăng.

Tuy nhiên nghiên cứu của Morbey (1989) cho thấy không có bất kỳ mối tương

quan nào giữa chi phí R&D và tăng trưởng lợi nhuận. Bên cạnh đó, Sundaram và

John (1996) cũng khẳng định không tìm thấy một mối quan hệ nào giữa chi phí R &

D và giá chứng khoán. Hai tác giả nhận thấy rằng phản ứng của thị trường phụ

thuộc vào mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực cụ thể thay vì phụ thuộc vào chi phí

R&D. Bên cạnh đó, việc tăng chi phí R&D tại một thời điểm nhất định, là một khía

cạnh cho thấy doanh nghiệp, ngân hàng chưa phát huy hết được hiệu quả về vốn do

chưa có đủ thông tin về thị trường, khách hàng, sản phẩm, nghĩa là hiệu quả hoạt

động chưa tốt, điều này áp dụng cho cả doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói

riêng. Trong nghiên cứu của mình, tác giả giả định có mối quan hệ giữa chi phí

R&D với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Ở phần trên tác giả đã quyết định lựa chọn sử dụng hai chỉ số là: Đòn bẩy tài

chính Leverage và chi phí R&D là đại diện để đánh giá mức độ bất đối xứng của

thông tin. Ở trên ta cũng đã kết luận thông tin bất đối xứng biến thiên cùng chiều

với đòn bẩy tài chính Leverage và chi phí R&D. Do đó, tác giả đưa ra hai giả thuyết

49

nghiên cứu để qua đó đánh giá sự tác động của thông tin bất đối xứng tới hiệu quả

hoạt động của ngân hàng, gồm:

- Giả thuyết H1.1: Chi phí R&D có tác động tới hiệu quả hoạt động của

ngân hàng.

- Giả thuyết H1.2: Chỉ số đòn bẩy tài chính Leverage có tác động tới hiệu quả

hoạt động của ngân hàng.

Nếu R&D và Leverage có tác động ngược hay thuận chiều tới hiệu quả hoạt

động của ngân hàng thì ta có thể có kết luận tương tự về tác động của thông tin bất

đối xứng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

2.4.2. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và thông tin bất đối xứng

Mặc dù có nhiều nghiên cứu trước đây về QTCT, tuy nhiên còn ít nghiên cứu

về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng và QTCT và mức độ thông tin bất đối

xứng. Nghiên cứu của Shleifer và Vishny (1997), Perotti và Thadden (2003),

Pawlina và Renneboog (2005) và Florackis và Ozkan (2009) cho thấy số cổ đông

càng lớn sẽ tỷ lệ nghịch với mức độ bất đối xứng thông tin và cải thiện hiệu quả

hoạt động của công ty. Ngược lại, nghiên cứu của Heflin và Shaw (2000) và

O'Neill và Swisher (2003), Belghitar và cộng sự (2011) cho thấy sở hữu tập trung

nhiều hơn sẽ khiến mức độ thông tin bất đối xứng cao hơn. Các nghiên cứu xem xét

mối quan hệ giữa quản trị công ty và bất đối xứng thông tin thường tập trung vào

một số khía cạnh hạn chế, các vấn đề cụ thể của quản trị công ty. Cai và cộng sự.

(2006), Hillier và McColgan (2006), Kanagaretnam và cộng sự (2007) và Holm và

Scholer (2010) thấy rằng HĐQT độc lập có liên quan ngược chiều với thông tin bất

đối xứng. Trong khi, Chen và Nowland (2010) cho rằng tăng thành viên độc lập

trong HĐQT sẽ đảm bảo lợi ích tốt hơn cho các cổ đông thiểu số. Wruck (1993) và

Kang, Kumar và Lee (2006) nghiên cứu về mức độ quan trọng của lương thưởng

đối với các giám đốc điều hành trong việc giảm thông tin bất đối xứng. Wruck

(1993 ) và Kang , Kumar và Lee (2006 ) kiểm định về vai trò của lương của giám

đốc điều hành trong việc giảm vấn đề mâu thuẫn giữa nhà quản lý và chủ sở hữu.

50

Chi và Scott-Lee (2010) cho rằng dòng tiền tự do càng lớn (free cash flow) càng lớn sẽ

ảnh hưởng đến hiệu quả QTCT. Chen và cộng sự . (2013 ) thấy rằng nhu cầu tài chính

bên ngoài tỷ lệ nghịch với tính bất đối xứng thông tin. Belghitar và Khan (2011 ) cho

rằng cơ chế quản trị nội bộ hiệu quả hơn đối với công ty có cơ hội tăng trưởng đầu tư

cao, trong khi cơ chế quản trị bên ngoài (ví dụ quản lý thị trường vốn) sẽ hiệu quả hơn

đối với các công ty có cơ hội tăng trưởng đầu tư thấp. Hallman và cộng sự. (2005) cho

rằng quản lý của ban giám đốc và động lực về lương của CEO có thể hoạt động như

một cơ chế có thể thay thế nhau. Nếu trong trường hợp này, mức độ thông tin bất đối

xứng cao có thể dẫn đến hoạt động quản trị kém đi và lương trả cho CEO cao hơn.

Tương tự, Williamson (1983) đồng ý rằng quản lý của ban giám đốc và thị trường đối

với kiểm soát công ty có thể hoạt động thay thế nhau như một cơ chế thay thế. Kết hợp

với lý thuyết chi phí (Demsetz and Lehn (1985), cho thấy các công ty với mức độ

thông tin bất đối xứng cao sẽ thuê ít thuê các giám đốc quản lý tập trung trong khi dựa

nhiều hơn vào thị trường để thắt chặt các hoạt động của nhà quản lý. Bởi vì quản trị có

thể đạt được thông qua nhiều kênh khác nhau, chúng ta tin tưởng rằng có tồn tại tác

động của thông tin bất đối xứng đến các cơ chế QTCT.

Nghiên cứu của Bushman và Smith (2003) nhấn mạnh thông tin trong báo cáo

tài chính đóng vai trò quan trọng như là nguồn thông tin chính đối với các nhà đầu

tư và nhà làm luật. Hai tác giả nhận định thông tin báo cáo tài chính không chỉ giúp

hạn chế các vấn đề liên quan đến thông tin bất đối xứng mà còn giúp HĐQT đưa ra

các quyết định quản lý quan trọng. Trong đó báo cáo tài chính giúp giảm các lựa

chọn đối nghịch và rủi ro thanh khoản, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính

của ngân hàng. Đồng thời giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro khi đầu tư. Bên

cạnh đó, các nghiên cứu trước đó đã chứng minh có mối quan hệ giữa lợi nhuận

kiếm được và kết quả điều hành của các nhà quản lý cao cấp.

Healy và Palepu (2001) cung cấp những lý thuyết rộng hơn về cung cấp thông

tin tự nguyện. Họ liệt kê những động lực phía sau các quyết định công bố thông tin.

Một trong những động lực chính là việc tham gia vào các giao dịch trong thị trường

vốn. Nói chung, các nhà quản lý có thông tin đầy đủ hơn so với các nhà đầu tư, khi

51

tham gia vào thị trường vốn, các nhà quản lý có xu hướng cung cấp thông tin tự

nguyện nhiều hơn nhằm giảm vấn đề thông tin bất đối xứng, giảm chi phí tài chính

bên ngoài, đồng thời đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư.

Các nghiên cứu trước đó cũng tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa cung

cấp thông tin tự nguyện và vấn đề QTCT. Ví dụ, Eng và Mak (2003) kiểm định tác

động của cấu trúc sở hữu và thành phần HĐQT đối với hoạt động công bố thông tin

tự nguyện. Họ phát hiện ra rằng khi các nhà quản lý có mức sở hữu thấp và sở hữu

của chính phủ ở mức cao sẽ gắn liền với mức công bố thông tin tốt hơn. Họ cũng

chứng minh số lượng các thành viên bên ngoài càng nhiều thì hoạt động công bố

thông tin càng giảm.

Nghiên cứu này khám phá các yếu tố của QTCT có thể được sử dụng để kiểm

soát vấn đề đại diện (agency problem) hoặc bằng cách tăng cường các hoạt động

giám sát hoặc bằng cách khuyến khích các hoạt động quản lý. Các yếu tố đó có thể

là tính độc lập và tích cực trong hoạt động của HĐQT, yếu tố về lương thưởng đối

với các nhà quản lý cấp cao nhằm giảm những hành vi mang tính chủ quan của nhà

quản lý có thể tác động tiêu cực đến hoạt động của công ty. Một yếu tố khác có thể

đề cập đến mức độ tập trung sở hữu của các cổ đông, điều này khác phức tạp do

việc sở hữu tập trung có thể theo dõi chặt chẽ hoạt động của các nhà quản lý và

kiểm soát hoạt động của các nhà quản lý sao cho có lợi nhất, tuy nhiên các cổ đông

chi phối cũng có thể khuyến khích các nhà quản lý điều hành công ty theo hướng có

lợi nhất cho mình mà ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Yếu tố

khác đó là việc vay nợ hay sử dụng đòn bẩy tài chính cải thiện hoạt động giám sát

hay nói ngược lại việc cải thiện hoạt động giám sát và công bố thông tin giúp hoạt

động vay nợ hoặc sử dụng đòn bẩy tài chính thuận lợi hơn. Chính vì vậy, nợ công ty

cũng có tác động nhất định đến mức độ thông tin bất đối xứng.Do các chỉ số

Leveragel và R&D là đại diện của thông tin bất đối xứng, nên các yếu tố thuộc quản

trị công ty sẽ có tác động tới 2 chỉ số R&D và Leverage. Vì vậy, tác giả đưa ra các

giả thuyết nghiên cứu nhằm qua đó đánh giá một cách gián tiếp sự ảnh hưởng của

các yếu tố thuộc quản trị công ty tới thông tin bất đối xứng như sau:

52

- H2.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới chi phí R&D

- H2.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới chi

phí R&D

- H2.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới chi phí R&D

- H2.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới chi phí R&D

- H2.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới chi

phí R&D

- H2.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới chi phí R&D

- H2.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới chi phí R&D

- H2.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới

chi phí R&D

- H2.9: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới đòn bẩy tài chính Leverage

- H2.10: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới

đòn bẩy tài chính Leverage

- H2.11: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới đòn bẩy tài

chính Leverage

- H2.12: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới đòn bẩy tài

chính Leverage

- H2.13: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới đòn

bẩy tài chính Leverage

- H2.14: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới đòn bẩy tài chính Leverage

- H2.15: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới đòn bẩy tài chính

Leverage

- H2.16: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới

đòn bẩy tài chính Leverage

2.4.3. Mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động ngân hàng

Có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa QTCT và hiệu quả hoạt động của

công ty. Cách thứ nhất là một đánh giá toàn diện về quản trị công ty bằng một chỉ

53

số mà người ta thường gọi là chỉ số QTCT. Cách thứ hai là nghiên cứu mối quan hệ

của những nhân tố trong quản trị công ty với hiệu quả QTCT.

Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng một công ty có HĐQT lớn có tác động

tiêu cực đáng kể đến giá trị công ty (Yermark, 1996). Tương tự như vậy, Eisenberg,

Sundgren và Wells (1998) chứng minh mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô

HĐQT với lợi nhuận tại các công ty nhỏ và vừa tại Phần Lan. Tuy nhiên, nghiên

cứu của Adams và Mehran (2005) không tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ giữa

quy mô ban giám đốc và kết quả hoạt động của công ty (tác giả đo lường bằng chỉ

số Tobin’Q). Tuy nhiên Andres và Valleado (2008) chứng minh có mối quan hệ phi

tuyến tính giữa quy mô HĐQT và kết quả hoạt động của ngân hàng. Trong nghiên

cứu của mình, các tác giả sử dụng bộ biến số gồm 69 ban giám đốc của các ngân

hàng thương mại lớn tại nhiều quốc gia khác nhau trong giai đoạn 10 năm từ 1995

đến 2005. Hai tác giả chứng minh rằng giới hạn trên của hình U ngược là khoảng 19

thành viên. Các tác giả cũng chứng minh rằng khi số lượng thành viên HĐQT đạt

đến con số 19 sẽ khiến hoạt động của ngân hàng (chỉ số Tobin’Q) bắt đầu suy giảm.

Nghiên cứu này gắn liền với quan điểm của Fama và Jensen (1983) là quy mô Hội

đồng quản trị phản ánh phạm vi và tính phức tạp trong hoạt động của các công ty.

Một nghiên cứu của Rose (2007) đã chỉ ra rằng không có mối quan hệ nào số lượng

thành viên là nữ giới trong Hội đồng quản trị tới thông tin bất đối xứng mà đại diện

cho thông in bất đối xứng ở đây là biến Tobin’Q.

Jensen và Mecking (1976) phát triển một mô hình giải thích về vấn đề mâu

thuẫn giữa chủ sở hữu và nhà quản lý trong công ty. Những kết quả nghiên cứu của

hai tác giả đã cung cấp một khía cạnh bên trong về mối quan hệ giữa sở hữu của các

nhà quản lý với vấn đề đại diện. Họ chứng minh rằng khi các nhà quản lý có ít sở

hữu thì vấn đề đại diện là rất lớn và vì vậy, các cổ đông buộc phải dựa vào cơ chế

quản trị bên ngoài để làm giảm bớt vấn đề đại diện này. Trong nghiên cứu khác của

DeYoung và cộng sự (2009), các tác giả chứng minh lợi nhuận của ngân hàng gắn

liền với lợi ích của các nhà quản lý được ngân hàng thuê. Nghiên cứu khác của

Ofek và Yermack (2000) chứng minh lương là động lực quan trọng đối với các nhà

quản lý có mức độ sở hữu thấp. Nói tóm lại, lương và sở hữu cổ phần của các nhà

54

quản lý có mối tương quan nhất định đến hoạt động quản trị cũng như tác động đến

2.4.3.1. Cách tiếp cận thông qua chỉ số quản trị công ty

hiệu quả hoạt động của ngân hàng .

Các nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa quản trị công ty (đại diện bởi

chỉ số quản trị công ty) và tình hình hoạt động của công ty. Rất nhiều nghiên cứu sử

dụng mối tương quan và hồi quy để kiểm tra mối quan hệ này. Kết quả rất đa dạng

do phụ thuộc vào yếu tố thời gian thu thập dữ liệu và các điều kiện cụ thể của quốc

gia đó. Gompers, Ishii & Metrick (2003) đã kiểm tra mối quan hệ giữa quản trị công

ty và tình hình hoạt độgn của 1.500 công ty niêm yết lớn của Mỹ. Chỉ số quản trị

công ty bao gồm quyền bỏ phiếu, tiếp quản mang tính thù địch v..v.. được sử dụng

như là đại diện cho các yếu tố quản trị công ty. Tình hình hoạt động được đo bằng

Tobin Q, lợi nhuận, tăng trưởng doanh thu. Kết quả cho thấy các công ty với quyền

lợi của các cổ đông cao hơn sẽ có giá trị lớn hơn, nghĩa là Tobin’s Q, lợi nhuận lớn

hơn, tăng trưởng doanh thu cao hơn, và chi phí vốn thấp hơn.

Brown (2004) nghiên cứu mối quan hệ giữa điểm quản trị công ty của họ (Gov –

Score) và tình hình hoạt động của công ty Mỹ được đại diện bởi tình hình hoạt động

(Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận, tăng trưởng doanh thu), định giá

(Tobin’s Q) và trả cổ tức cổ đông (lợi tức và việc mua lại cổ phiếu). Các kết quả chỉ ra

rằng trong năm 2002, các công ty có chỉ số Gov – Score thấp là những công ty có tình

hình hoạt động kém (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu và tỷ suất lợi nhuận thấp hơn),

định giá thấp hơn (Tobin’s Q thấp hơn) và trả ít cổ tức hơn cho các cổ đông.

Epps và Cereola (2008) phân tích mối quan hệ giữa quản trị công ty và tình

hình hoạt động của công ty sử dụng chỉ số Corporate Governance Quotient, được

cung cấp bởi ISS (Institutional Shareholder Services) cho hơn 800 công ty của Mỹ

từ năm 2002 đến 2004. Kết quả chỉ ra rằng không có mối tương quan nào giữa tình

hình hoạt động của công ty với đánh giá về quản trị công ty của các công ty này.

Daines, Gow & Larcker (2008) đo lường tình hình hoạt động của công ty bằng

các biến hiệu suất hoạt động (lợi nhuận trên tổng tài sản ROA), định giá (Tobin’s Q

55

và lợi nhuận của cổ phiếu). Nghiên cứu này cho thấy CGQ cao hơn thì Tobin’s Q

thấp. Có 2 nguyên nhân của kết quả này do (i) quản trị công ty là lựa chọn bên trong

của chính công ty hoặc (ii) có những sai số trong việc đánh giá quản trị công ty.

Tương tự, Daines, Gow & Larcker (2009), Vintila. G và Gherghina (2012) đã

nghiên cứu mối quan hệ thực nghiệm giữa các đánh giá quản trị công ty và tình hình

hoạt động của công ty niêm yết trên thị trường chứng khóan Mỹ. Nghiên cứu đưa ra

kết quả mối tương quan tỷ lệ nghịch giữa các chỉ số phụ về quản trị công ty (kiểm

toán, cấu trúc các hội đồng quản trị, quyền cổ đông và sự bồi thường được

cung cấp bởi Institutional Shareholder Services và tình hình hoạt động của công

ty. CGI có mối tương quan tỷ lệ nghịch với tỷ lệ đòn bẩy tài chính, Tobin’s Q

nhưng có mối tương quan tỷ lệ thuận với quy mô công ty. Với hồi quy, các nghiên

cứu chỉ ra rằng cứ tăng 1% CGI thì sẽ giảm 4% Tobin’s Q, cứ tăng 1% CGI sẽ giảm

9% giá trị sổ sách. Mối quan hệ giữa CGI và ROA chưa được xác định. Ngược lại,

B, Jang Hasung, Kim (2003) xem xét ảnh hưởng của quản trị công ty lên giá trị

công ty ở Hàn Quốc. Kết quả chỉ ra mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa chỉ số quản trị

công ty và tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách và Tobin’s Q. Một nghiên cứu

khác được thực hiện bởi Anderson. A và Gupta. P (2009) so sánh giữa các quốc gia

về quản trị công ty (được đo lường bởi Corporate Governance Quotient) và tình

hình hoạt động của công ty. Kết quả cho thấy mối tương quan tỷ lệ thuận và tỷ lệ

2.4.3.2. Cách tiếp cận thông qua một số nhân tố của quản trị công ty tác

động đến hiệu quả hoạt động

nghịch phụ thuộc vào cấu trúc tài chính của quốc gia và hệ thống pháp lý.

Mối quan hệ giữa số lượng thành viên Hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt

động của ngân hàng.

Có 2 trường phái khác nhau về mối quan hệ giữa quy mô của Hội đồng quản

trị (HĐQT) và hiệu suất công ty. Trường phái đầu tiên cho rằng quy mô của HĐQT

càng nhỏ thì đóng góp càng nhiều vào thành công của công ty (Lipton and Lorsch,

1992; Jensen, 1993; Yermack, 1996). Trường phái thứ hai lại cho rằng HĐQT với

quy mô lớn hơn sẽ làm tăng hiệu suất công ty. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô

56

HĐQT lớn sẽ hỗ trợ và tư vấn quản lý công ty hiệu quả hơn do sự phức tạp của môi

trường kinh doanh và văn hóa công ty (Klein, 1998). Thêm vào đó, quy mô HĐQT

lớn hơn sẽ quy tập được nhiều thông tin hơn. Vì vậy, hiệu suất công ty sẽ được nâng

cao với quy mô HĐQT lớn hơn (Dalton and ctg, 1999).

Số lượng thành viên hội đồng lớn sẽ gặp khó khăn trong quá trình giám sát và

kết hợp giữa các thành viên cho các quyết định nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Khi số

lượng thành viên HĐQT quá lớn, các thành viên gặp vấn đề “người đi xe miễn phí”

(free rider). Một số thành viên không tích cực tham gia vào hoạt động của Hội

đồng, mà trông chờ vào ứng xử của các thành viên khác. Điều này làm cho hoạt

động giám sát và kiểm soát ban giám đốc từ phía HĐQT trở nên kém hiệu quả và

vấn đề đại diện sẽ gia tăng. Các nghiên cứu của tác giả như Eisenberg và các cộng

sự (1998); Yermack (1996) cho rằng quy mô HĐQT và giá trị công ty có mối quan

hệ âm. Các nghiên cứu của các tác giả Singh và Davidson (2007) hay Cornett và

cộng sự (2008) cũng cho rằng qui mô HĐQT có quan hệ ngược chiều với: lợi

nhuận, hiệu quả sử dụng tài sản hay hiệu quả hoạt động của công ty. Trong các

nghiên cứu khác của các tác giả Jensen (1993); Kyereboah (2007) cho rằng qui mô

của HĐQT nếu được giới hạn thì hiệu quả hoạt động giám sát sẽ tốt nhưng việc trao

đổi thông tin và ra quyết định sẽ gặp khó khăn hơn.

Giả thuyết nghiên cứu:

H3.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Mối quan hệ giữa thành viên nữ thuộc hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt

động của ngân hàng

Thành viên nữ thuộc HĐQT là đối tượng xuất hiện thường xuyên trong các

nghiên cứu thực nghiệm. Họ phản ánh sự đặc trưng, đa dạng của HĐQT (Dutta và

Bose, 2006). Hơn nữa, theo nghiên cứu của Smith và cộng sự. (2006), có ba nguyên

nhân chính : (1) Thành viên nữ thường có hiểu biết về thị trường sâu rộng hơn so

với thành viên nam. Do đó, những hiểu biết của họ sẽ làm tăng tính hiệu quả trong

những quyết định của HĐQT; (2) Việc thành viên nữ xuất hiện trong HĐQT sẽ tạo

57

nên hình ảnh đẹp hơn cho công ty trong mắt cộng đồng và đóng góp tích cực vào

hiệu suất của công ty; (3) Các thành viên khác trong HĐQT sẽ được nâng cao hiểu

biết về môi trường kinh doanh trong trường hợp thành viên nữ được bổ nhiệm.

Thêm vào đó, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng thành viên nữ thuộc HĐQT sẽ gây

ảnh hưởng tích cực đến các nhân viên nữ khác trong công ty trong việc phát triển sự

nghiệp. Kết quả là hiệu suất công ty sẽ được nâng cao mọi mặt (trực tiếp và gián

tiếp) với sự có mặt của thành viên nữ trong HĐQT.

Giả thuyết nghiên cứu:

H3.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới hiệu

quả hoạt động của ngân hàng

Mối quan hệ giữa trình độ của Hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt động

của ngân hàng

HĐQT là một cơ chế quản trị nội bộ công ty và là hệ thống kiểm soát

cao nhất có chức năng giám sát các quyết định của các cấp quản lý một cách hiệu

quả để gia tăng hiệu quả hoạt động của công ty.

Vai trò chính của HĐQT là quản trị nội bộ công ty (Fama, 1980). HĐQT là bộ

máy điều hành của công ty (Fama và Jensen, 1983). Những quyết định đúng đắn

của HĐQT sẽ nâng cao hiệu suất công ty. Để đạt được điều này, thành viên HĐQT

phải được trang bị đầy đủ kiên thức về tài chính, kế toán, marketing, thông tin hệ

thống, luật pháp và các mảng khác liên quan đến quá trình quản lý.

Những yêu cầu trên đồng nghĩa với việc mỗi thành viên trong HĐQT sẽ đóng

góp một phần quan trọng và tích cực trong quá trình quản trị công ty và hiệu suất

công ty hay nói cách khác hiệu quả hoạt động của công ty phụ thuộc vào trình độ

chuyên môn của các thành viên HĐQT (Adams và Fereira 2007) (Nicholson và

Kiel, 2004; Fairchild và Li, 2005; Adam và Ferreira, 2007).

Giả thuyết nghiên cứu:

H3.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới hiệu quả hoạt động

của ngân hàng

58

Mối quan hệ giữa kinh nghiệm làm việc của hội đồng quản trị với hiệu quả

hoạt động của ngân hàng

Có nhiều quan điểm cho rằng thành viên HĐQT với thâm niên làm việc cao sẽ

có nhiều kinh nghiệm trong quản lý hơn. Những kinh nghiệm này được cho là sẽ

đóng góp nâng cao hiệu suất công ty nhiều hơn. Tuy nhiên, thành viên lâu năm

thường có xu hướng quyết liệt và độc tài hơn. Những phẩm chất khác nhau của

thành viên HĐQT sẽ quyết định sự thành bại của công ty (Carlson và Karlsson,

1970). Thành viên HĐQT với độ tuổi trung bình cao hơn sẽ phải đối mặt với nhiều

áp lực hơn trong việc thay đổi môi trường làm việc và điều này sẽ cản trở việc thực

hiện các quyết định chiến lược (Child, 1975).

Mặc dù có nhiều tranh cãi xung quanh mối quan hệ giữa kinh nghiệm của HĐQT

và hiệu suất công ty, theo lý thuyết về hạn chế nguồn lực, thành viên với nhiều kinh

nghiệm sẽ đối phó tốt hơn trong môi trường kinh doanh bằng cách làm việc theo nhóm

hiệu quả, đóng góp tích cực vào hiệu suất công ty (Wegge và cộng sự., 2008).

Giả thuyết nghiên cứu:

H3.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới hiệu quả hoạt

động của ngân hàng

Mối quan hệ giữa thành viên HĐQT độc lập với hiệu quả hoạt động của

ngân hàng

Sự độc lập của HĐQT lớn hơn được nhận thức như một cơ chế giám sát và giữ

vai trò quan trọng trong việc hạn chế và kiểm soát vấn đề đại diện. Kết quả nghiên

cứu của McKnight và Mira (2003) và Henry (2004) cũng cho thấy chi phí đại diện

sẽ thấp hơn nếu số lượng thành viên độc lập trong HĐQT cao hơn. Nghiên cứu

Fama và Jensen (1983) khám phá ra rằng các thành viên HĐQT bên trong do sở hữu

nhiều thông tin hơn thường cấu kết với các nhà quản trị để đưa ra những quyết định

chống lại các cổ đông. Do vậy, HĐQT với các thành viên bên ngoài sẽ làm tăng khả

năng giám sát nên sẽ loại bỏ được cơ bản vấn đề đại diện. Bhagat và Black (2002)

sử dụng tỷ lệ các thành viên độc lập trừ tỷ lệ các thành viên bên trong làm biến đại

59

diện và kết quả cho thấy rằng mức độ độc lập của HĐQT có tương quan dương có ý

nghĩa đến hiệu quả trong ngắn hạn.

Giả thuyết nghiên cứu:

H3.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới hiệu

quả hoạt động của ngân hàng

Mối quan hệ giữa cổ đông lớn với hiệu quả hoạt động của của ngân hàng

Các nghiên cứu thực nghiệm về cổ đông lớn của Shleifer và Vishny (1997) kết

luận rằng các cổ đông lớn có ảnh hưởng quan trọng trong điều hành quản lý công

ty: (1) Cổ đông nhỏ sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng từ việc lạm

dụng quyền lực trong quá trình vận hành công ty; (2) Sự quản lý khắt khe của nhóm

cổ đông lớn có thể cản trở hoạt động của công ty. Việc điều hành quản lý sẽ không

thay đổi để thích ứng kịp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.

Mặc dù có nhiều tranh cãi về tác động của cổ đông lớn tới hoạt động công ty,

nhiều nghiên cứu đều nhận thấy sự quan trọng của họ. Cụ thể, cổ đông lớn đóng vai

trò quan trọng trong việc điều hành công ty do họ có đủ kỹ năng, thời gian và theo

sát hoạt động của công ty. Denis và McConnell (2003), Becker và cộng sự. (2011)

nhận định quyền lực điều hành tập trung vào nhóm cổ đông lớn về cơ bản sẽ tác

động tích cực đến công ty.

Giả thuyết nghiên cứu:

H3.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Mối quan hệ giữa quyền sở hữu nhà nước với hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Cổ đông nhà nước cũng như các cổ đông khác, cũng có những xung đột lợi ích

nhưng cũng phải đảm bảo hiệu quả hoạt động cho nhà nước. Ngoài ra, các công ty có

cổ phần nhà nước thường xuất phát từ những công ty nhà nước cổ phần hóa và có

những ưu đãi hơn so với các công ty cổ phần khác như ưu đãi hơn từ các chính sách

nhà nước, có nhiều tài sản hơn, có mối quan hệ với ngân hàng nên việc tiếp cận các

nguồn vốn bên ngoài dễ dàng hơn, chi phí vốn thấp hơn (Borisova và Megginson,

2011; Sun và cộng sự, 2002) nên hiệu quả hoạt động được kỳ vọng cao hơn

60

Giả thuyết nghiên cứu:

H3.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới hiệu quả hoạt động

của ngân hàng

Mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài với hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Các cổ đông nước ngoài thường là những nhà đầu tư chuyên nghiệp, kỹ năng

hiện đại kiểm soát và ngăn chặn những hành động gây thiệt hại cho cổ đông của

người quản lý. Theo nghiên cứu của Vinh (2010) về sở hữu nhà đầu tư nước ngoài

trên sàn HOSE từ 2007 đến 2009 thì các nhà đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào

những công ty lớn, tỷ lệ vốn hóa thị trường trên vốn chủ sở hữu cao và có tỷ lệ nợ

thấp. Ngoài ra, Jeon và cộng sự (2010) cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài thích

những công ty có lớn, ổn định, có nhiều cơ hội đầu tư hơn. Hơn nữa, các nhà đầu tư

nước ngoài thường có kinh nghiệm quản trị, có khả năng điều hành, có quan hệ thị

trường và đối tác lớn nên thường hỗ trợ công ty hoạt động hiệu quả hơn

Giả thuyết nghiên cứu:

H3.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới

hiệu quả hoạt động của ngân hàng

2.5. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết

Sau khi tổng quan các lý thuyết liên quan đến QTCT, thông tin bất đối xứng

và hiệu quả hoạt động ngân hàng, tác giả có các giả thuyết như sau:

Phần tác động của thông tin bất đối xứng tới hiệu quả hoạt động của ngân

hàng, có 2 giả thuyết:

- H1.1: Chi phí R&D có tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

- H1.2: Chỉ số đòn bẩy tài chính Leverage có tác động tới hiệu quả hoạt động của

ngân hàng.

Phần tác động của quản trị công ty tới thông tin bất đối xứng, có 16 giả thuyết:

- H2.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới chi phí R&D

61

- H2.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới chi

phí R&D

- H2.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới chi phí R&D

- H2.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới chi phí R&D

- H2.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới chi

phí R&D

- H2.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới chi phí R&D

- H2.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới chi phí R&D

- H2.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới chi

phí R&D

- H2.9: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới đòn bẩy tài chính Leverage

- H2.10: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới đòn

bẩy tài chính Leverage

- H2.11: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới đòn bẩy tài chính

Leverage

- H2.12: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới đòn bẩy tài chính

Leverage

- H2.13: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới đòn bẩy

tài chính Leverage

- H2.14: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới đòn bẩy tài chính Leverage

- H2.15: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới đòn bẩy tài chính

Leverage

- H2.16: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới đòn

bẩy tài chính Leverage

Phần tác động của quản trị công ty tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, có 8

giả thuyết:

- H3.1: Có sự tác động của quy mô HĐQT tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng

62

- H3.2: Có sự tác động của số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT tới hiệu

quả hoạt động của ngân hàng

- H3.3: Có sự tác động của trình độ học vấn của HĐQT tới hiệu quả hoạt động

của ngân hàng

- H3.4: Có sự tác động của kinh nghiệm làm việc của HĐQT tới hiệu quả hoạt

động của ngân hàng

- H3.5: Có sự tác động của số lượng thành viên độc lập trong HĐQT tới hiệu quả

hoạt động của ngân hàng

- H3.6: Có sự tác động của yếu tố cổ đông lớn tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng

- H3.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới hiệu quả hoạt động của

ngân hàng

- H3.8: Có sự tác động của phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tới hiệu

quả hoạt động của ngân hàng

Thông tin bất đối xứng - Chi phí R&D - Leverage

Hiệu quả hoạt động của ngân hàng

- ROA

Quản trị công ty - Quy mô của HĐQT - Số lượng thành viên nữ trong HĐQT - Trình độ học vấn của HĐQT - Kinh nghiệm của HĐQT - Số lượng thành viên HĐQT độc lập - Cổ đông lớn - Sở hữu nhà nước - Tỉ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài

Biến kiểm soát - Năm nghiên cứu - Quy mô tài sản của ngân hàng - Số năm hoạt động

Hình 2.4. Mô hình nghiên cứu

63

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong chương II, tác giả đã tổng quan những mô hình tiêu biểu nghiên cứu về

đề tài và đề xuất mô hình nghiên cứu của luận án với tám yếu tố thuộc quản trị công

ty tác động đến thông tin bất đối xứng, các yếu tố thuộc quản trị công ty tác động

đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng như tác động của thông tin bất đối xứng

tác động tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng

Đồng thời, tác giả tổng quan các nghiên cứu trước đó, tìm ra mô hình phù

hợp, tổng kết thực tiễn tại Việt Nam để đưa ra các giả thuyết và mô hình nghiên cứu

cho luận án.

Chương III, tác giả sẽ giới thiệu về phương pháp nghiên cứu mà tác giả sẽ sử

dụng để kiểm tra sự phù hợp của mô hình cũng như các giả thuyết tác giả đã nêu ra

ở chương 2. Nội dung chương bao gồm hai phần chính, thứ nhất là: thiết kế nghiên

cứu và thứ hai là nghiên cứu định lượng.

3.1. Thiết kế nghiên cứu

3.1.1. Phương pháp nghiên cứu

Quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và

đo lường bằng phần mềm SPSS phiên bản 18.

Tác giả dự kiến nghiên cứu định lượng với 16 ngân hàng thương mại cổ phần

đã niêm yết trên thị trường chứng khoán (VN-index và Hnx-index) và các ngân

hàng cổ phần được giao dịch trên thị trường OTC trong giai đoạn từ giai đoạn 2006

(thời điểm bắt đầu mở cửa) đến năm 2014, gồm cả các ngân hàng thương mại cổ

phần và ngân hàng thương mại mà nhà nước nắm cổ phần chi phối. Dữ liệu được

thu thập từ các nguồn thông tin thứ cấp và dữ liệu được công bố công khai của các

ngân hàng bao gồm báo cáo thường niên, các bản báo cáo tài chính đã được kiểm

toán, các báo cáo và nguồn dữ liệu khác trong các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông

(GSM), các thông tin khác từ trang web của ngân hàng và các web khác liên quan.

64

Dữ liệu thu thập được dùng để phân tích tương quan, kiểm định mô hình nghiên cứu

và các giả thuyết bằng phương pháp hồi quy bội với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS

phiên bản 18. Thời gian thực hiện nghiên cứu từ năm 2014 đến năm 2015.

3.1.2. Mẫu nghiên cứu của luận án

3.1.2.1. Tổng thể nghiên cứu

Tổng thể nghiên cứu của luận án được xác định là những ngân hàng đã niêm

yết trên hai sàn chứng khoán (VN-index và Hnx-index) và các ngân hàng cổ phần

được giao dịch trên thị trường OTC trong giai đoạn từ giai đoạn 2006 (thời điểm bắt

3.1.2.2. Chọn mẫu nghiên cứu

đầu mở cửa) đến năm 2014.

Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên được tác giả quyết định sử dụng trong

chọn mẫu nghiên cứu. Với 16 ngân hàng trên tổng số 36 NHTM của Việt nam,

trong thời gian từ 2006 đến 2014, với mỗi năm, mỗi ngân hàng được coi là một biến

quan sát, như vậy tổng thể ta có 144 biến quan sát, riêng ngân hàng HBB bị sáp

nhập năm 2012 nên chỉ có số liệu tới năm 2011, như vậy tổng số biến quan sát chỉ

còn là 141 biến quan sát.

- Về số lượng ngân hàng:

Đến cuối năm 2014, số lượng ngân hàng của toàn hệ thống là 36 ngân hàng.

Đến cuối 2015 số lượng ngân hàng trên toàn hệ thống chỉ còn lại 28 ngân hàng.

Như vậy nếu tính đến hết năm 2015 thì số lượng ngân hàng nghiên cứu là 15 ngân

hàng (ngân hàng HabuBank đã bị sáp nhập nên số mẫu chỉ còn 15 ngân hàng từ số

mẫu 16 ngân hàng ban đầu) trên tổng số 36 ngân hàng, tức là chiếm khoảng 53,57%

số lượng ngân hàng của toàn hệ thống.

- Về quy mô tổng tài sản, mẫu nghiên cứu chiếm quy mô khoảng 69,56% tổng

tài sản của các ngân hàng

- Về quy mô vốn điều lệ, mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 63,15% tổng vốn điều

lệ của các ngân hàng

- Về số lượng các ngân hàng thương mại nhà nước:

65

Đến cuối năm 2015, toàn hệ thống còn 4 ngân hàng thương mại nhà nước là:

Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Việt Nam. Trong số này, tác giả tiến hành thu thập số liệu của 3 ngân hàng, riêng

ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chưa cổ phần hóa nên

luận án không nghiên cứu. Như vậy, số lượng ngân hàng thương mại nhà nước

trong mẫu nghiên cứu chiếm 75% trên tổng mẫu.

Như vậy, có thể khẳng định, mẫu nghiên cứu mang tính đại diện khá cao, đủ

điều kiện để đưa vào nghiên cứu.

3.2. Nghiên cứu định lượng

3.2.1. Mục tiêu nghiên cứu

- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H1.1 và H1.2, đồng thời

đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và các

biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng

- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H2.1, H2.2, H2.3, H2.4,

H2.5, H2.6, H2.7 và H2.8, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến quản

trị công ty tới biến phụ thuộc là R&D.

- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H2.9, H2.10, H2.11,

H2.12, H2.13, H2.14, H2.15 và H2.16, đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của

các biến quản trị công ty tới biến phụ thuộc là Leverage.

- Phân tích hồi quy bội để kiểm định các giả thuyết H3.1, H3.2, H3.3, H3.4,

H3.5, H3.6, H3.7 và H3.8 đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến quản

trị công ty và các biến kiểm soát tới biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của các

ngân hàng thương mại cổ phần của Việt nam.

3.2.2. Phương pháp nghiên cứu

Dữ liệu sau khi được thu thập, tác giả tiến hành lọc dữ liệu, làm sạch dữ liệu,

mã hóa, nhập liệu và sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 18 để phân tích dữ liệu.

Tiếp theo, dữ liệu đã được làm sạch và nhập vào phần mềm, vì mỗi nhân tố

66

chỉ được đo lường bằng một biến quan sát nhất định nên các bước kiểm tra độ tin

cậy của các thang đo, phân tích nhân tố sẽ được bỏ qua. Nghiên cứu sẽ đi thẳng vảo:

(1) Phân tích mối quan hệ giữa:

- Các biến độc lập thuộc vấn đề quản trị công ty và các biến phụ thuộc đại diện

cho thông tin bất đối xứng

- Các biến quản trị công ty và biến kiểm soát với biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt

động của ngân hàng được đo thông qua chỉ số lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA)

- Các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và biến kiểm soát với biến phụ

thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đo thông qua chỉ số lợi nhuận trên

tổng tài sản (ROA)

(2) Phân tích mô hình hồi quy bội:

Mô hình hồi quy bội MLR (Multiple Linear Regression) biểu diễn mối quan

hệ giữa các biến độc lập có số lượng từ hai biến trở lên với một biến phụ thuộc định

lượng (Nguyễn Đình Thọ, 2011).

Để kiểm định mối quan hệ và chiều tác động giữa các biến độc lập thuộc

yếu tố quản trị công ty và thông tin bất đối xứng, mối quan hệ và chiều tác động

giữa các biến độc lập thuộc yếu tố quản trị công ty với nhau, mối quan hệ và

chiều tác động giữa các biến thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát với

hiệu quả hoạt động của ngân hàng đánh giá thông qua chỉ số lợi nhuận trên tài

sản (ROA), tác giả sử dụng phương pháp phân tích ma trận tương quan với chỉ

số Pearson correlation coefficient. Hệ số tương quan được ký hiệu là r và có giá

trị trong khoảng -1 ≤ r ≤ +1.

Giá trị r > 0 thể hiện mối tương quan đồng biến giữa các biến phân tích và

ngược lại giá trị r < 0 thể hiện mối quan hệ nghịch biến. Giá trị r = 0 chỉ ra rằng các

biến được đưa vào phân tích không có mối quan hệ với nhau.

| r | → 1: mối quan hệ giữa các biến đưa vào nghiên cứu càng chặt chẽ.

| r | → 0: mối quan hệ giữa các biến được đưa vào phân tích càng yếu.

Sau khi có kết luận sơ bộ về quan hệ tuyến tính giữa các biến độc lập với nhau

67

và với biến phụ thuộc, tác giả sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính để mô hình

hóa mối quan hệ nhân quả của các biến độc lập và các biến kiểm soát (nếu có) với

các biến phụ thuộc. Mô hình hồi quy tuyến tính được chạy và kiểm định với mức ý

nghĩa 5%. Nghiên cứu thực hiện hồi quy bội sử dụng phương pháp Enter, tức là các

biến được đưa vào cùng một lúc để nghiên cứu.

Luận án nghiên cứu sự ảnh hưởng của tất cả các biến độc lập thuộc phạm trù

quản trị công ty tới thông tin bất đối xứng, sự tác động của các biến đại diện cho

thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của các ngân

hàng thương mại cổ phần Việt Nam, và sự ảnh tác động của các nhân tố thuộc quản

trị công ty và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng TMCP

Việt Nam . Do đó để phân tích được tác động của các biến độc lập, tác giả phân tích

bốn mô hình hồi quy gồm:

Mô hình 1 xem xét sự ảnh hưởng của tất cả các biến nhân tố thuộc phạm trù

quản trị công ty tới biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D.

Mô hình 2 xem xét sự ảnh hưởng của tất cả các biến nhân tố thuộc phạm trù

quản trị công ty tới biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage.

Mô hình 3 xem xét sự tác động của thông tin bất đối xứng và tất cả các biến

kiểm soát tác động tới biến chịu tác động là hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Mô hình 4 xem xét sự tác động của các nhân tố thuộc phạm trù quản trị công

ty và các biến kiểm soát tới biến phụ thuộc là hiệu quả trong hoạt động của ngân

hàng được đo bằng lợi nhuận trên tài sản (ROA).

Phương trình hồi quy bội cho mô hình nghiên cứu 1 tác giả đề xuất như sau:

Y1 = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5 + β6*X6 + β7*X7 + β8*X8+

Trong đó:

Y1 là R&D

X1 là Quy mô của HĐQT

X2 là Số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT

68

X3 là Học vấn của HĐQT, được tính bằng số thành viên HĐQT có bằng đại

học trở lên

X4 là Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT

X5 là Số thành viên HĐQT độc lập

X6 là Có cổ đông lớn trong HĐQT chiếm hơn 5% vốn, biến này nhận 2 giá trị

là 0 và 1

X7 là Nhà nước chủ sở hữu ngân hàng

X8 là Phần trăm cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ

β 0 là hằng số

β 1, β2, β3, β4, β5, β6, β7, β8 là các hệ số hồi quy

là sai số ngẫu nhiên

Phương trình hồi quy bội cho mô hình nghiên cứu 1 tác giả đề xuất như sau:

Y2 = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5 + β6*X6 + β7*X7 + β8*X8+

Trong đó:

Y2 là Leverage

X1 là Quy mô của HĐQT

X2 là Số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT

X3 là Học vấn của HĐQT, được tính bằng số thành viên HĐQT có bằng đại

học trở lên

X4 là Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT

X5 là Số thành viên HĐQT không làm công tác quản lý, hay còn gọi là thành

viên HĐQT độc lập

X6 là Có cổ đông lớn trong HĐQT chiếm hơn 5% vốn, biến này nhận 2 giá trị

là 0 và 1

X7 là Nhà nước chủ sở hữu ngân hàng

X8 là Phần trăm cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ

69

β 0 là hằng số

β 1, β2, β3, β4, β5, β6, β7, β8 là các hệ số hồi quy

là sai số ngẫu nhiên

Phương trình hồi quy bội cho mô hình nghiên cứu 3 tác giả đề xuất như sau:

Y3 = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5+

Trong đó:

Y3 là Hiệu quả hoạt động của ngân hàng được đo bằng lợi nhuận trên tài sản

(ROA)

X1 là R&D

X2 là Leverage

X3 là Quy mô của ngân hàng

X4 là Số năm hoạt động

X5 là Năm nghiên cứu

β 0 là hằng số

β 1, β2, β3, β4, β5 là các hệ số hồi quy

là sai số ngẫu nhiên

Phương trình hồi quy bội cho mô hình nghiên cứu 4 tác giả đề xuất như sau:

Y4 = β0 + β1*X1 + β2*X2 + β3*X3 + β4*X4 + β5*X5 + β6*X6 + β7*X7 + β8*X8 +

β9*X9 + β10*X10 + β11*X11+

Trong đó:

Y4 là Hiệu quả hoạt động của ngân hàng

X1 là Quy mô của HĐQT

X2 là Số lượng thành viên là nữ giới trong HĐQT

X3 là Học vấn của HĐQT, được tính bằng số thành viên HĐQT có bằng đại

học trở lên

X4 là Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT

70

X5 là Số thành viên HĐQT không làm công tác quản lý hay còn gọi là thành

viên HĐQT độc lập

X6 là Có cổ đông lớn trong HĐQT chiếm hơn 5% vốn, biến này nhận 2 giá trị

là 0 và 1

X7 là Nhà nước chủ sở hữu ngân hàng

X8 là Phần trăm cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ

X9 là Quy mô của ngân hàng

X10 là Số năm hoạt động

X11 là Năm nghiên cứu

β 0 là hằng số

β 1, β2, β3, β4, β5, β6, β7, β8, β9, β10, β11 là các hệ số hồi quy

là sai số ngẫu nhiên

Kết quả hồi quy được dùng để phân tích:

- Đánh giá mức độ phù hợp hay đánh giá mức độ giải thích biến phụ thuộc bởi

các biến độc lập và biến kiểm soát (nếu có) của mô hình hồi quy thông qua chỉ số R2

- Đánh giá ý nghĩa của mô hình thông qua F-test

- Kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến thông qua hệ số phóng đại

phương sai VIF (Variance Inflation Factor) hoặc giá trị độ chấp nhận (tolerance).

Hệ số VIF ≥ 10 hoặc Tolerance ≤ 0,1 thì biến độc lập có hiện tượng đa cộng tuyến

và cần phải loại khỏi mô hình (Nguyễn Thị Mai Trang và Nguyễn Đình Thọ, 2007).

- Xác định mức độ tác động của các nhân tố tác động đến thông tin bất đối

xứng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng TMCP Việt Nam thông qua hệ số β.

Nhân tố có hệ số β càng lớn thì có thể kết luận là ảnh hưởng càng lớn tới thông tin

bất đối xứng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng được đưa vào nghiên cứu.

71

TÓM TẮT CHƯƠNG III

Chương 3 mô tả các phương pháp nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận

án. Luận án được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng với 4 mô

hình liên tiếp để kiểm tra mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc quản trị công ty với

thông tin bất đối xứng, giữa thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát với hiệu

quả hoạt động của ngân hàng TMCP Việt Nam được tính thông qua lợi nhuận trên

tài sản (ROA) và cuối cùng là giữa các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến

kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Nghiên cứu định lượng sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu 16 trên tổng

số 36 ngân hàng với các thông tin đã được các ngân hàng công bố công khai và xử

lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS phiên bản 18.

Tất cả các bước đã thực hiện trong suốt quá trình nghiên cứu được diễn giải cụ

thể trong chương này. Kết quả phân tích, bình luận, đánh giá cho các nội dung liên

quan được đề cập trong chương tiếp theo.

72

CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Trong chương 4, tác giả sẽ trình bày kết quả nghiên cứu trên cơ sở phân tích

những dữ liệu đã thu thập được. Chương này bao gồm các nội dung:

(1) Tổng quan thực trạng quản trị công ty tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.

(2) Thống kê mô tả mẫu.

(3) Kiểm định giả thuyết nghiên cứu.

4.1. Tổng quan Thực trạng quản trị công ty tại các ngân hàng

thương mại Việt Nam

Hiệp ước ước Basel I có từ năm 1988 tuy vậy mãi năm 2005 các ngân hàng

Việt Nam mới chính thức bắt đầu thực hiện nhưng mức độ thực hiện tuân thủ cũng

như quản trị theo chuẩn mực quốc tế vẫn bộc lộ nhiều hạn chế.

Sau giai đoạn đầu tăng trưởng bùng nổ giai đoạn 2007-2008 (có 20 ngân hàng

tăng vốn điều lệ từ mức thấp nhất 500 tỷ VNĐ lên mức cao nhất 4.450 tỷ VNĐ), hệ

thống các tổ chức tín dụng Việt Nam xuất hiện rất nhiều bất ổn. Thứ nhất là nợ xấu

tăng rất cao, chiếm tới hơn 13% tổng dư nợ tín dụng (Fitch Report, 2010), đây là

một trong những chỉ số minh chứng cho thấy dấu hiệu tiền khủng hoảng.Thứ hai,

căng thẳng thanh khoản toàn hệ thống thường xuyên xảy ra, kéo các ngân hàng

thương mại nhỏ chạy đua lãi suất huy động lên mức rất cao (20%), lãi suất liên ngân

hàng có thời điểm lên tới mức kỷ lục 30%, các ngân hàng sử dụng mọi loại tài sản

(USD, vàng, giấy tờ có giá…) để cầm cố vay VND liên ngân hàng để đảm bảo

thanh khoản. Thứ ba, tình trạng sởhữu chéo diễn ra ở mức độ nghiêm trọng, vi

phạm nhiều quy định của Ngân hàng Trung ương. Nguyên nhân của tình trạng này

là do sự bùng nổ các ngân hàng giai đoạn 2007-2008 với yêu cầu quan trọng lúc đó

là các ngân hàng phải đáp ứng yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu, khoảng 1.000 tỷ

VNĐ đã buộc các ngân hàng phải liên kết lẫn nhau, mượn vốn và sở hữu lẫn nhau

để lách quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Nhóm nguyên nhân chính gồm: Thứ nhất, số lượng các tổ chức tín dụng quá

nhiều so với quy mô nền kinh tế, gây tình trạng cạnh tranh quyết liệt, thiếu lành

73

mạnh giữa các ngân hàng. Thứ hai, hoạt động quản trị rủi ro của các ngân hàng

thương mại rất yếu, không tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ dư

nợ cho vay, có tâm lý “ỷ lại” Ngân hàng Nhà nước khi gặp khó khăn với quan điểm

Ngân hàng Nhà nước không để bất kỳ ngân hàng thương mại nào đổ vỡ. Thứ ba,

tính minh bạch thông tin không được tuân thủ đầy đủ khiến các rủi ro diễn ra trong

thời gian dài mới phát hiện, khó khăn cho việc khắc phục (nợ xấu, sở hữu chéo…).

Thứ tư, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát mức độ tuân thủ luật đối với các ngân

hàng thương mại của các cơ quan chức năng rất hạn chế, không kịp thời phát hiện,

ngăn chặn và xử lý các vi phạm diễn ra hàng ngày tại các ngân hàng thương mại.

Thứ năm, hoạt động huy động - cho vay chứa nhiều rủi ro, chủ yếu là huy động tiền

gửi ngắn hạn để cho vay dài hạn dẫn đến mất thanh khoản. Thứ sáu, do hoạt động

cho vay, phân bổ vốn bất hợp lý. Các khoản vay chủ yếu dành cho các doanh

nghiệp Nhà nước, các tập đoàn, các tổng công ty lớn hoặc các doanh nghiệp có

quan hệ lâu năm với các ngân hàng. Thứ bảy, hoạt động kinh doanh xa rời các

nghiệp vụ cốt lõi của ngân hàng, tập trung đầu tư quá nhiều vào các lĩnh vực rủi ro

như chứng khoán, bất động sản… Cuối cùng, hoạt động cốt lõi của ngân hàng tập

trung chủ yếu vào tín dụng, chưa chú trọng phát triển các dịch vụ ngân hàng khác

như thẻ tín dụng, dịch vụ thanh toán điện tử… Những ngân hàng lớn huy động được

vốn lãi suất thấp đem cho vay liên ngân hàng với lãi suất cao làm vốn chạy lòng vòng

trong hệ thống, gây tăng chi phí vay vốn, đẩy lãi suất vay doanh nghiệp lên rất cao.

Tuy nhiên, khi xem xét các nguyên nhân trên khiến hệ thống các ngân hàng

thương mại gặp rủi ro như hoạt động quản trị rủi ro yếu kém, đầu tư ngoài ngành

tràn lan, sở hữu chéo phổ biến, phân bổ vốn bất hợp lý, không tuân thủ các quy định

ngân hàng… phần lớn đều xoay quanh vấn đề Quản trị công ty (gọi là Corporate

Governance). Một trong những vấn đề liên quan đến Quản trị công ty trong các

ngân hàng thương mại yếu kém được lý giải là do ở Việt Nam, thành phần và cơ

cấu hội đồng quản trị (HĐQT) chưa phù hợp, vai trò của một số thành viên chưa rõ

dàng, bị ảnh hưởng bởi các thành viên khác. Hoạt động còn chưa minh bạch.

74

Một số nghiên cứu cho thấy các ngân hàng thương mại chưa tuân thủ các

nguyên tắc quản trị công ty, còn nhiều lỗ hổng từ khuôn khổ pháp lý cho đến cách vận

hành. Các vấn đề chủ yếu là chưa tuân thủ các quy định của ngân hàng Nhà nước, hệ

thống kiểm soát nội bộ yếu, các chính sách bảo vệ cổ đông nhỏ chưa rõ ràng, thiếu cơ

chế công bố thông tin minh bạch. Quá trình chuyển hóa nhanh chóng của hệ thống ngân

hàng thương mại tại Việt Nam trong thập kỷ vừa qua gắn liền với sự phát triển của nền

kinh tế, gia tăng cạnh tranh quốc tế và yêu cầu thay đổi về cấu trúc hoạt động trong lĩnh

vực này. Việc này đã làm tăng áp lực lợi nhuận đối với ngân hàng thương mại và tạo ra

sự quan tâm đối với việc nâng cao hoạt động quản trị công ty nhằm đạt được thành công

đó. Với các ngân hàng thương mại, quản trị công ty giúp giảm rủi ro, tăng hiệu quả, tăng

tính minh bạch và tăng trưởng bền vững, đồng thời giúp các cơ quan lập pháp và giám

sát quản lý hiệu quả. Đối với các nhà đầu tư (NĐT), quản trị công ty cũng là một chỉ số

để NĐT và thị trường xác định công ty nào được tín nhiệm cao.Từ những vấn đề đã nêu

trên, có thể rút ra những vấn đề còn nổi cộm làm hạn chế hoạt động quản trị của các

NHTM Việt Nam:

Thứ nhất, quản lý rủi ro chưa được tốt. Tỷ lệ nợ xấu, sở hữu chéo, can thiệp của

chính quyền trung ương và địa phương trong hoạt động cho vay của ngân hàng, công tác

thanh tra giám sát ngân hàng… chưa thực sự phản ánh chính xác hoạt động của thị

trường tài chính Việt Nam.

Thứ hai, tại các NHTM, các thành viên độc lập đều thiếu và cộng hưởng với hạn

chế về năng lực của người điều hành dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp.

Thứ ba, mối quan hệ không minh bạch, rõ ràng giữa HĐQT, ban điều hành và ban

kiểm soát dẫn đến tình trạng thiếu tính khách quan đặc biệt là tính độc lập khi thực hiện

chức năng của mình.

Thứ tư, mô hình quản lý và tổ chức của các ngân hàng hiện nay còn thể hiện nhiều

nược điểm. Tại hầu hết các ngân hàng, mô hình tổ chức quản lý hiện tại được phân thành

hai cấp: quản trị điều hành và quản lý kinh doanh. Trong thực tế, sự tách biệt về chức

năng giữa HĐQT và ban điều hành chưa được tách biệt một cách rõ ràng. Điều này dẫn

75

đến một tình trạng là HĐQT một lúc đóng hai vai, vừa là người lập chiến lược vừa là

người thực thi các hoạt động kinh doanh. Đây là một điều không đúng vì chức năng

chính của HĐQT là quản lý và chịu trách nhiệm bảo toàn, phát triển nguồn vốn

cũng như ban hành các qui chế, cơ chế tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Bên

cạnh đó, sự thiếu kết hợp giữa các bộ phân trong NHTM và tổng hợp được các

nguồn thông tin nhằm xây dựng được chiến lược dài hạn cũng là một điểm yếu tồn

tại trong các ngân hàng của Việt Nam.

Thứ năm, quản trị nội bộ trong các NHTM cũng chưa được quan tâm đúng với tầm

quan trọng của mình. Quản trị nội bộ liên quan đến rất nhiều hoạt động như: nguồn nhân

lực, quản trị rủi ro, quản trị khách hàng… Các hoạt động này giúp các NHTM hoạt động

hiệu quả và nắm bắt được thị trường. Tuy vậy, việc đào tạo, nâng cao các kỹ năng cho

nhân viên lại chỉ được đào tạo mang tính chất ngắn hạn, thời vụ, tình thế,không có chiến

lược lâu dài.

Thứ sáu, hiện nay, hoạt động ngân hàng được điều chỉnh bởi Luật các Tổ chức

tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật doanh nghiệp (bắt buộc đối với tất cả các

loại hình ngân hàng), Luật chứng khoán (đối với các ngân hàng niêm yết hoặc IPO)

và các văn bản dưới luật như nghị định về hoạt động của bảo hiểm tiền gửi, nghị

định về phá sản v.v. So với doanh nghiệp nói chung, các quy định đối với ngân

hàng đặt ra yêu cầu cao hơn và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, xét trên góc độ thực tế

triển khai các luật, một số văn bản dưới luật đang được áp dụng chưa phù hợp dẫn

đến mục tiêu đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng chưa được

thực hiện tốt. Hiện tại, còn thiếu các văn bản áp dụng những thông lệ tốt nhất hay

những xu hướng mới trên thị trường. Điều này có thể thấy trong các quy định như

quy định về tỷ lệ an toàn vốn có khoảng cách khá lớn so với thông lệ, còn thiếu

hướng dẫn đo lường, ghi nhận, quản lý rủi ro đối với các công cụ phái sinh, rủi ro

hoạt động, chưa có quy định rõ về thâu tóm doanh nghiệp. Quy định về phá sản

chưa hiệu quả. Khả năng cưỡng chế thực thi thấp dẫn đến hiệu lực thi hành thấp.

Theo đánh giá và khảo sát hệ thống ngân hàng năm 2010, có tới 30% số lượng ngân

hàng có thông tin về thành viên hội đồng quản trị độc lập và không điều hành không

76

đạt đủ mức ½ theo quy định. Theo Trần Thị Thanh Tú và cộng sự (2011), mặc dù

tiêu chuẩn của thành viên độc lập đã được quy định, trên thực tế, trong một số

trường hợp thành viên độc lập không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn này.

Thứ bẩy, khuôn khổ quản trị hiện hành chưa bảo vệ được quyền cổ đông, đặc

biệt đối với cổ đông nhỏ. Các cổ đông chưa được tiếp cận thông tin liên quan và trọng

yếu của ngân hàng một cách kịp thời và thường xuyên. Chất lượng thông tin cung cấp

còn hạn chế. Đa số các ngân hàng lập báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán Việt

Nam. Sự chênh lệch giữa báo cáo tài chính lập theo chuẩn mực kế toán Việt Nam và

quốc tế khá lớn. Theo ước tính của Fitch hoặc Moody, từ năm 2006 đến nay, tỷ lệ nợ

xấu tính theo chuẩn mực IFRS luôn gấp hơn 2 lần tỷ lệ nợ xấu các ngân hàng Việt Nam

công bố. Việc công bố thông tin phi tài chính của các ngân hàng còn hạn chế. Các

thông phi tài chính theo yêu cầu của nguyên tắc OECD như việc xác định thành viên

Hội đồng Quản trị hoặc Ban Kiểm soát “độc lập”, thông tin ngoại trừ kế toán, kiểm

toán hoặc các thông tin về việc cơ quan quản lý yêu cầu các thành viên Hội đồng Quản

trị hoặc người có liên quan tới thành viên Hội đồng quản trị công bố, giải trình các giao

dịch cổ phiếu thường không được công bố. Hiện tại, chưa có quy định cụ thể trong luật

và điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng về việc công bố thông tin về các thỏa

thuận cổ đông. Điều này có thể gây sự mập mờ trong các hoạt động thâu tóm khi mà

các cổ đông lớn tập hợp hoặc thu mua cổ phần từ những cổ đông nhỏ. Đối với minh

bạch và công bố thông tin, các quy định về công bố thông tin chưa đầy đủ và hiệu lực

thi hành thấp. Đối với thông tin về các yếu tố rủi ro, theo quy định, các ngân hàng phải

công bố tại Thuyết minh báo cáo tài chính. Nội dung thông tin gồm: chính sách quản lý

rủi ro liên quan đến công cụ tài chính, rủi ro tín dụng, thị trường, lãi suất, rủi ro tiền tệ

và rủi ro thanh khoản và rủi ro giá cả thị trường khác. Thực tế, không phải ngân hàng

nào cũng thực hiện đúng quy định nêu trên. Nhiều trường hợp ngân hàng không có

thông tin về rủi ro hoặc công bố thông tin một cách chung chung. Nhà đầu tư chỉ tiếp

cận được với thông tin này đối với ngân hàng đã niêm yết. Ngoài ra, cần có sự đánh giá

mức độ phù hợp của các thông tin công bố với quy mô và mức độ phức tạp của các

hoạt động của từng ngân hàng.

77

Thứ tám, vấn đề tham nhũng. Một trong những thách thức lớn nhất của của nền

kinh tế là mức độ tham nhũng cao. Điều này một phần do chế độ chính sách thấp, hệ

thống kiểm soát nội bộ yếu. Bên cạnh đó mức độ dư thừa nguồn lực của các công ty

Nhà nước cũng là một nguyên nhân gây ra tham nhũng. Đối với ngân hàng thì tham

nhũng chủ yếu do: Luật không đầy đủ và Nguồn lực (tài chính..). Các khảo sát đối với

lãi suất cho vay chỉ ra rằng các nhân viên ngân hàng có lợi ích trong việc cho vay và tin

rằng những nhân viên này không phải chịu trách nhiệm về việc các khoản vay biến

thành nợ xấu. Các công ty nói rằng họ phải chi trả các khoản phí liên quan để vay được

tiền tuỳ thuộc vào các khu vực địa lý khác nhau mà có các mức chi phí khác nhau. Tuy

nhiên, tham nhũng liên quan đến việc quyết định riêng biệt của nhân viên, không mang

tính tổ chức, chủ yếu xảy ra đối với các doanh nghiệp Nhà nước.

Thứ chín, vấn đề sở hữu nhà nước trong các ngân hàng. Một số nghiên cứu

cũng đã chỉ ra rằng yếu tố lớn nhất ngăn cản việc thiết lập cấu trúc quản trị công ty

trong ngân hàng đối với các ngân hàng tại Việt Nam đó chính là vấn đề sở hữu Nhà

nước. Với việc sở hữu chính của Nhà nước và các cổ đông chi phối đã gây cản trở

rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề này đã dần được giải quyết khi việc giảm dân sở hữu Nhà

nước, tăng sở hữu nước ngoài tại các ngân hàng thương mại đang được đẩy mạnh

thời gian gần đây.

4.2. Thống kê mô tả các ngân hàng được thu thập dữ liệu nghiên cứu

Tác giả đã thực hiện quá trình thu thập dữ liệu được công khai trên các báo

cáo thường niên, báo cáo tài chính được kiểm toán, các báo cáo và nguồn dữ liệu

khác trong Đại hội đồng cổ đông (GSM), các thông tin khác từ trang web của ngân

hàng và các web khác liên quan theo phương pháp được trình bày trong chương III.

4.2.1. Thống kê mô tả về đặc điểm của các ngân hàng TMCP luận án

nghiên cứu

- Về quy mô tổng tài sản, mẫu nghiên cứu chiếm quy mô khoảng 69,56% tổng

tài sản của các ngân hàng (bảng 4-1)

78

Bảng 4.1: Quy mô tài sản của mẫu

Về quy mô tài sản (2014)

Stt Ngân hàng % Lũy kế Giá trị tài sản (tỷ đồng)

1 Ngân hàng BIDV 724,814 13.26 13.26

2 Ngân hàng CTG 685,746 12.55 25.81

3 Ngân hàng VCB 576,530 10.55 36.36

4 Ngân hàng STB 290,861 5.32 41.68

5 Ngân hàng SCB 242,222 4.43 46.11

6 Ngân hàng MBB 204,409 3.74 49.85

7 Ngân hàng ACB 189,496 3.47 53.32

8 Ngân hàng VPB 179,295 3.28 56.6

9 Ngân hàng SHB 177,746 3.25 59.85

10 Ngân hàng TCB 172,744 3.16 63.01

11 Ngân hàng EIB 130,170 2.38 65.39

12 Ngân hàng VIB 77,440 1.42 66.81

13 Ngân hàng ABB 65,655 1.2 68.01

14 Ngân hàng OCB 44,290 0.81 68.82

15 Ngân hàng NCB 40,202 0.74 69.56

16 Ngân hàng HBB - 69.56

17 Khác 1,663,827 30.44 100

Tổng 5,465,447

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)

Theo bảng 4-1, tuy chỉ có 15 ngân hàng (do ngân hàng HBB sáp nhập) nhưng

giá trị tài sản đã chiếm gần 70% của toàn hệ thống. Trong đó được chia thành 2

nhóm rõ rệt:

Thứ nhất là nhóm các ngân hàng gồm: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt

Nam, Ngân hàng ngoại thương Việt nam và Ngân hàng công thương Việt nam, có

quy mô tài sản chiếm hơn một nửa (52,27%) trong tổng số các ngân hàng của mẫu

79

và chiếm 36,36% trong toàn bộ hệ thống. Đây đều là các ngân hàng thương mại cổ

phần nhà nước, có thời gian hoạt động lâu dài, có uy tín và có kinh nghiệm nhất

trong hệ thông các ngân hàng TMCP ở Việt Nam.

Thứ hai là 12 ngân hàng còn lại có quy mô tài sản chỉ chiếm có chưa đến một

nửa (47,73%) giá trị tài sản trong tổng số mẫu nghiên cứu và chiếm 33,2% trong

toàn hệ thống. Đây đều là các ngân hàng được thành lập sau này và nhà nước không

có cổ phần tại các ngân hàng này.

- Về quy mô vốn điều lệ, mẫu nghiên cứu chiếm khoảng 63,15% tổng vốn điều

lệ của các ngân hàng (Bảng 4-2)

Bảng 4.2: Vốn điều lệ của các ngân hàng

%

Stt

Ngân hàng

Lũy kế %

Vốn điều lệ (2015) (tỷ đồng)

1 Ngân hàng CTG

37,234 12.07

12.07

2 Ngân hàng BIDV

31,481 10.21

22.28

3 Ngân hàng VCB

26,650 8.64

30.91

4 Ngân hàng STB

12,425 4.03

34.94

5 Ngân hàng EIB

12,355 4.01

38.95

6 Ngân hàng SCB

12,295 3.99

42.93

7 Ngân hàng MBB

11,593 3.76

46.69

8 Ngân hàng ACB

9,377 3.04

49.73

9 Ngân hàng TCB

8,878 2.88

52.61

10 Ngân hàng SHB

8,866 2.87

55.48

11 Ngân hàng VPB

8,056 2.61

58.09

12 Ngân hàng ABB

4,798 1.56

59.65

13 Ngân hàng VIB

4,250 1.38

61.03

14 Ngân hàng OCB

3,547 1.15

62.18

15 Ngân hàng NCB

3,010 0.98

63.15

16 Ngân hàng HBB

-

63.15

Khác

113,665 36.85

100.00

Tổng

308,480

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả)

80

Cũng tương tự như quy mô tài sản, thống kê mô tả mẫu về vốn điều lệ cũng

tách các ngân hàng trong mẫu ra làm 2 nhóm:

Thứ nhất là nhóm các ngân hàng TMCP nhà nước với quy mô vốn điều lệ thấp

nhất là hơn 26 nghìn tỉ đồng, cao hơn gấp đôi ngân hàng xếp ngay sau là hơn 12

nghìn tỉ đồng. Tổng số vốn điều lệ của nhóm 3 ngân hàng này gần một nửa

(48,95%) trong tổng số vốn của các ngân hàng thuộc mẫu nghiên cứu và chiếm

30,91% tổng số vốn điều lệ trong toàn hệ thống. Các ngân hàng này đồng thời cũng

sở hữu tài sản ở mức vượt trội như đã nêu ở phần trên.

Thứ hai là nhóm 12 ngân hàng còn lại với số vốn chiếm hơn một nửa

(51,05%) trong tổng số vốn điều lệ của mẫu và chiếm 32,24% tổng số vốn điều lệ

của các ngân hàng trong toàn bộ hệ thống. Các ngân hàng này vẫn tập trung vào các

ngân hàng có thời gian hoạt động chưa lâu và thuộc hoàn toàn sở hữu tư nhân,

không có cổ phần của nhà nước.

- Về tính chất sở hữu của các ngân hàng:

Đến cuối năm 2015, toàn hệ thống còn 4 ngân hàng thương mại nhà nước là:

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam,

Ngân hàng Công thương Việt Nam và cuối cùng là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn Việt Nam. Trong số này, tác giả tiến hành thu thập số liệu của 3

ngân hàng, riêng ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chưa cổ

phần hóa nên luận án không nghiên cứu. Như vậy, số lượng ngân hàng thương mại

nhà nước trong mẫu nghiên cứu chiếm 75% trên tổng mẫu. Các ngân hàng còn lại

(12 ngân hàng) là ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 50% trên tổng số 24 ngân

hàng thương mại cổ phần trên toàn hệ thống.

4.2.2. Thống kê mô tả biến độc lập là các yếu tố thuộc quản trị công ty

và kiểm định dạng phân phối của các thang đo biến độc lập

Kết quả thống kê mô tả các biến độc lập (bảng 4-3) cho thấy, trong giai đoạn

từ năm 2006 đến năm 2014:

- Số lượng thành viên HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 4 đến 11 thành

81

viên, nhưng với giá trị trung bình bằng 7,2411 < 7,5. Có thể kết luận, quy mô

HĐQT của các ngân hàng trong mẫu điều tra trong các năm này phần lớn nằm ở

mức từ 4 đến 7 thành viên.

- Số lượng thành viên nữ trong HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 0 đến 4

thành viên, nhưng với giá trị trung bình bằng 1 < 2. Có thể nhận xét: Số lượng thành

viên nữ trong HĐQT của các ngân hàng trong mẫu điều tra trong các năm này chỉ

nằm ở mức từ 0 đến 1 người, hay có thể nói số lượng thành viên nữ trong HĐQT là

không cao, nhiều ngân hàng trong những thời điểm nhất định hoàn toàn vắng bóng

thành viên HĐQT là nữ giới.

- Trình độ học vấn của các thành viên HĐQT thay đổi nằm trong khoảng từ 0

đến 9 và với giá trị trung bình bằng 3,5887 < 4,5. Có thể nhận xét: phần lớn các

thành viên HĐQT tại các ngân hàng trong mẫu điều tra trong khoảng thời gian này

không có bằng cấp chuyên môn từ đại học trở lên về ngành ngân hàng, cá biệt tại

một vài thời điểm, một vài ngân hàng hoàn toàn không có thành viên nào trong

HĐQT có bằng cấp chuyên môn về ngân hàng từ đại học trở lên.

- Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT nằm trong mức từ 39,8 tuổi tới

57 tuổi và với giá trị trung bình là 49,517 tuổi > 48,4 tuổi. Có thể nhận xét: phần lớn

các thành viên HĐQT tại các ngân hàng trong mẫu điều tra trong giai đoạn này có

độ tuổi trung bình nằm trên 48,4 tuổi.

- Số lượng thành viên HĐQT độc lập nằm trong mức từ 0 tới tối đa là 3 thành

viên, với giá trị trung bình bằng 0.5248 nhỏ hơn nhiều so với mức trung bình là 1,5.

Như vậy, có thể kết luận: số lượng thành viên HĐQT độc lập tại các ngân hàng trong

mẫu điều tra phần lớn ở mức từ 1 thành viên trở xuống, có nhiều ngân hàng, tại nhiều

thời điểm, hoàn toàn không có thành viên HĐQT nào là thành viên độc lập.

- Về sự tồn tại của các cổ đông lớn trong ngân hàng, với mức trung bình bằng

0,7376 > 0,5. Có thể kết luận: phần lớn ngân hàng trong mẫu điều tra tại các thời

điểm khác nhau đều có sự xuất hiện của các cổ đông lớn, chỉ một số ít ngân hàng tại

một số ít thời điểm là có sự ngoại lệ.

82

- Về sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, giá trị min – max nằm trong khoảng từ

0% đến 30%, giá trị trung bình thì bằng 11,0138%. Như vậy, trong giai đoạn này, ở

phần lớn các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu chưa có sự tham gia tích cực của các

nhà đầu tư nước ngoài trong việc nắm giữ cổ phần của các ngân hàng thương mại

Việt Nam.

Cũng qua bảng 4-3 kết quả kiểm định Skewness và Kurtosis cho thấy giá trị

tuyệt đối của hai chỉ số này nằm trong giới hạn cho phép tương ứng là Skewness

nhỏ hơn 3 và Kurtosis 5. Những kết quả trên cho thấy thang đo biến độc lập có phân

phối chuẩn, đảm bảo yêu cầu thực hiện các kiểm định và phân tích tiếp theo ở các

phần sau.

83

Bảng 4.3: Mô tả thống kê các biến độc lập

Descriptive Statistics

N

Minimum

Maximum

Mean

Std. Deviation

Skewness

Kurtosis

Statistic

Statistic

Statistic

Statistic

Statistic

Statistic

Std. Error

Statistic

Std. Error

4.00

11.00

7.2411

1.93058

.323

.204

-.746

.406

141

Boadsize

.00

4.00

1.0000

1.06904

.890

.204

.108

.406

141

Gender

.00

9.00

3.5887

2.17476

.635

.204

-.048

.406

141

Edu

39.80

57.00

49.5170

4.28990

-.245

.204

-.856

.406

141

BoardAge

.00

3.00

.5248

.77073

1.625

.204

2.477

.406

141

OutDir

.00

1.00

.7376

.44151

-1.092

.204

-.820

.406

141

Block

.00

1.00

.1915

.39488

1.585

.204

.520

.406

141

State

.510

.204

-1.259

.406

.0000

.3000

.110138

.1140753

141

FOWN

141

Valid N (listwise)

(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)

84

4.2.3. Thống kê mô tả biến phụ thuộc

Kết quả thống kê giá trị min, max của các biến phụ thuộc ROA ở bảng 4-4 cho

thấy, trong thời kỳ này phần lớn các ngân hàng trong mẫu nghiên cứu tại phần lớn

các thời điểm có mức lợi nhuận trên tài sản ( bằng 0,010208) ở dưới mức trung bình

(bằng 0,01088).

Về giá trị kiểm định Skewness và Kurtosis các biến phụ thuộc đều cho kết quả

trị tuyệt đối của Skewness < 3 và trị tuyệt đối của Kurtosis < 5. Như vậy, các biến

phụ thuộc có dạng phân phối chuẩn, đủ điểu kiện để tiến hành các kiểm định và

phân tích tiếp theo.

85

Bảng 4.4: Mô tả thống kê các thang đo biến phụ thuộc

Descriptive Statistics

N

Minimum

Maximum

Mean

Std. Deviation

Skewness

Kurtosis

Statistic

Statistic

Statistic

Statistic

Statistic

Statistic

Std. Error

Statistic

Std. Error

RnD

141

.00

1.84E8

1.4765E8

5.04039E7

-2.093

.204

2.764

.406

Leverage

141

1.585649300

34.699886000

10.94623852733

4.777907111894

1.044

.204

3.533

.406

ROA

141

.00011112203

.02164836200

.0102081673204

.00509302641180

-.075

.204

-.646

.406

Valid N (listwise)

141

(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)

86

4.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công

ty với các biến thuộc thông tin bất đối xứng và giữa các biến thuộc

thông tin bất đối xứng với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

4.3.1. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị

công ty và biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến R&D

Theo bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công ty

và biến R&D (bảng 4-5), có 3 biến có giá trị tương quan giữa biến độc lập và

phụ thuộc ở mức 99% và có mối tương quan ngược chiều là biến: Số lượng

thành viên HĐQT, Số lượng thành viên HĐQT độc lập và biến phần trăm sở

hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Các biến độc lập còn lại không nhìn thấy mối

tương quan với biến phụ thuộc.

87

Bảng 4.5 : Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc R&D đại diện cho thông tin bất đối xứng với các biến độc lập thuộc quản trị công ty

Correlations

Boadsize

Gender

Edu

BoardAge OutDir

Block

State

FOWN

RnD

Pearson Correlation

1

Boadsize

Sig. (2-tailed)

N

141

Pearson Correlation

.159

1

Gender

Sig. (2-tailed)

.059

N

Pearson Correlation

141 .371**

141 .237**

1

Edu

Sig. (2-tailed)

.000

.005

N

141

141 .325**

.070

141 .246**

1

BoardAge Pearson Correlation

Sig. (2-tailed)

.000

.412

.003

N

141

Pearson Correlation

141 .399**

-.035

141 .198*

141 .168*

1

OutDir

Sig. (2-tailed)

.000

.683

.019

.046

N

141

141

141

Pearson Correlation

.142

141 -.242**

-.017

-.007

141 .198*

1

Block

Sig. (2-tailed)

.093

.004

.846

.937

.019

N

141

141

141

141

141

141

88

State

Pearson Correlation

.508**

.500**

.362**

.080

-.121

-.447**

1

Sig. (2-tailed)

.348

.000

.000

.152

.000

.000

N

141

141

141

141

141

141

141

FOWN

Pearson Correlation

.507**

-.069

.084

.432**

.371**

-.212*

.207*

1

Sig. (2-tailed)

.000

.415

.322

.000

.000

.012

.014

N

141

141

141

141

141

141

141

141

RnD

Pearson Correlation

-.369**

-.130

-.118

-.370**

-.112

-.031

-.126

-.391**

1

Sig. (2-tailed)

.000

.125

.162

.000

.188

.711

.136

.000

N

141

141

141

141

141

141

141

141

141

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).

(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)

89

4.3.2. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công

ty và biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là biến Leverage

Theo ma trận hệ số tương quan Bảng 4-6 giữa quản trị công ty và biến

Leverage đại diện cho thông tin bất đối xứng, có 2 biến có quan hệ cùng chiều với

biến Leverage ở mức 99% là biến: Trình độ học vấn của thành viên HĐQT và biến

Sở hữu nhà nước, có 1 biến có quan hệ cùng chiều với biến Leverage ở mức 95% là

biến: Độ tuổi trung bình của các thành viên HĐQT.

90

Bảng 4.6: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc Leverage với các biến độc lập thuộc quản trị công ty

Correlations

Gender

Edu

BoardAge

OutDir

Block

State

FOWN

Leverage

Boadsize 1

Boadsize

Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

Gender

1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .159 .059

Edu

1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .371** .000

141 .237** .005

N

BoardAge Pearson Correlation

1

Sig. (2-tailed)

141 .325** .000

141 .070 .412

141 .246** .003

OutDir

1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .399** .000

141 -.035 .683

141 .198* .019

141 .168* .046

Block

1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .142 .093

141 -.242** .004

141 -.017 .846

141 -.007 .937

141 .198* .019

State

1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .080 .348

141 .508** .000

141 .500** .000

141 .362** .000

141 -.121 .152

141 -.447** .000

FOWN

1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .507** .000

141 -.069 .415

141 .084 .322

141 .207* .014

141 .432** .000

141 .371** .000

141 -.212* .012

Leverage

1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .154 .068

141 .158 .061

141 .325** .000

141 .209* .013

141 .139 .100

141 -.143 .090

141 .492** .000

141 -.111 .192

N

141

141

141

141

141

141

141

141

141

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).

(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)

91

4.3.3. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến thuộc quản trị công

ty và biến kiểm soát với biến hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Theo ma trận hệ số tương quan giữa biến độc lập thuộc quản trị công ty với

hiệu quả hoạt động của ngân hàng, có 2 biến có mối tương quan với biến phụ thuộc

là biến Số lượng thành viên HĐQT và Số thành viên HĐQT độc lập và ở độ tin cậy

là 95%, riêng biến kiểm soát Năm nghiên cứu có mối tương quan ở mức là 99%.

Trong đó biến Số lượng thành viên HĐQT có mối quan hệ cùng chiều, còn biến Số

lượng thành viên HĐQT độc lập và biến Năm nghiên cứu lại có mối quan hệ ngược

chiều với hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Các biến còn lại không nhìn thấy sự

tương quan với biến phụ thuộc.

Một điểm đặc biệt là có sự tương quan rất chặt giữa biến độc lập là số năm

hoạt động của ngân hàng với yếu tố sở hữu nhà nước với giá trị tương quan ở mức

0.815**, điều này phản ánh một đặc điểm khá thực tế trong hệ thống các ngân hàng

ở Việt nam đó là các ngân hàng có tuổi đời lớn thường là các ngân hàng thuộc sở

hữu nhà nước trước đây và sau khi cổ phần hóa thì nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần

tại các ngân hàng này. Đây là một dấu hiệu của hiện tượng đa cộng tuyến, vì vậy

trong quá trình kiểm định kết quả hồi quy sau này giữa các biến độc lập thuộc yếu

tố quản trị công ty và các biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng, tác

giả sẽ tiến hành kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến trước nhằm loại bỏ những biến

bị đa cộng tuyến nếu có.

92

Bảng 4.7: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động của ngân hàng với các biến thuộc quản trị công ty Correlations

Year

FirmSize FirmAge Boadsize Gender

Edu

BoardAge

OutDir

Block

State

FOWN

ROA

Year

Pearson Correlation

1

Sig. (2-tailed)

N

FirmSize

Pearson Correlation

141 .460**

1

Sig. (2-tailed)

.000

N

FirmAge

Pearson Correlation

141 .224**

141 .733**

1

Sig. (2-tailed)

.008

.000

N

141

Boadsize

Pearson Correlation

141 .240**

141 .381**

.154

1

Sig. (2-tailed)

.004

.000

.069

N

141

141

Gender

Pearson Correlation

.018

141 .400**

141 .229**

.159

1

Sig. (2-tailed)

.831

.000

.006

.059

N

Edu

Pearson Correlation

141 .320**

141 .610**

141 .362**

141 .371**

141 .237**

1

Sig. (2-tailed)

.000

.000

.000

.000

.005

N

141

141

BoardAge

Pearson Correlation

.165

141 .404**

141 .409**

141 .325**

.070

141 .246**

1

Sig. (2-tailed)

.051

.000

.000

.000

.412

.003

N

141

141

141

141

141

141

141

93

OutDir

Pearson Correlation

.509**

.399**

.255**

.033

-.035

.198*

.168*

1

Sig. (2-tailed)

.000

.002

.695

.000

.683

.019

.046

N

141

141

141

141

Block

Pearson Correlation

.142

141 -.211*

141 -.583**

.104

141 -.242**

-.017

-.007

141 .198*

1

Sig. (2-tailed)

.093

.012

.000

.218

.004

.846

.937

.019

N

141

141

141

State

Pearson Correlation

.080

141 .769**

141 .815**

.012

141 .508**

141 .500**

141 .362**

-.121

141 -.447**

1

Sig. (2-tailed)

.348

.000

.000

.887

.000

.000

.000

.152

.000

N

141

141

141

141

FOWN

Pearson Correlation

141 .507**

.118

-.124

141 .351**

-.069

.084

141 .207*

141 .432**

141 .371**

141 -.212*

1

Sig. (2-tailed)

.000

.164

.143

.000

.415

.322

.014

.000

.000

.012

N

141

141

141

141

141

141

141

141

ROA

Pearson Correlation

141 .197*

-.131

-.119

141 -.527**

.031

-.158

.024

141 -.185*

.042

-.055

.072

1

Sig. (2-tailed)

.019

.122

.161

.000

.718

.061

.779

.028

.624

.519

.394

N

141

141

141

141

141

141

141

141

141

141

141

141

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).

(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)

94

4.3.4. Kiểm định hệ số tương quan giữa các biến đại diện cho thông

tin bất đối xứng và biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Theo ma trận hệ số tương quan bảng 4-8 giữa biến độc lập thuộc thông tin bất

đối xứng với hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cả 2 biến đại diện cho thông tin bất

đối xứng và biến kiểm soát là Năm nghiên cứu đều có mối tương quan ngược chiều

với biến phụ thuộc và ở độ tin cậy là 99%.

Bảng 4.8: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động của ngân hàng với các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát Correlations

Year

FirmSize

FirmAge

RnD

Leverage

ROA

Year

Pearson Correlation

1

Sig. (2-tailed)

N

FirmSize

Pearson Correlation

1

141 .460**

Sig. (2-tailed)

.000

N

FirmAge

Pearson Correlation

141 .733**

1

141 .224**

Sig. (2-tailed)

.000

.008

N

141

141

RnD

Pearson Correlation

141 -.217**

-.010

1

-.035

Sig. (2-tailed)

.010

.904

.683

N

141

141

Leverage

Pearson Correlation

141 .454**

141 .433**

.039

1

.107

Sig. (2-tailed)

.000

.000

.642

.207

N

141

141

ROA

Pearson Correlation

-.131

-.119

141 -.335**

141 -.254**

141 -.527**

1

Sig. (2-tailed)

.122

.161

.000

.002

.000

N

141

141

141

141

141

141

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

(Nguồn: Nghiên cứu của tác giả)

95

4.4. Kiểm định giả thuyết và phân tích hồi quy xác định mối quan hệ

giữa quản trị công ty, thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động của

các ngân hàng

Phân tích hồi quy thứ nhất được thực hiện để xác định mối quan hệ nhân quả

giữa biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D và các biến độc lập

thuộc quản trị công ty: Quy mô của HĐQT, Số lượng thành viên nữ trong HĐQT,

Số lượng thành viên HĐQT có bằng đại học trở lên, Độ tuổi trung bình của các

thành viên HĐQT, Số lượng thành viên HĐQT độc lập, Cổ đông lớn, Sở hữu nhà

nước và cuối cùng là Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.

Phân tích hồi quy thứ hai được thực hiện để xác định mối quan hệ nhân quả

giữa biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage và các biến độc

lập thuộc quản trị công ty.

Phân tích hồi quy thứ ba được thực hiện để xác định sự tác động của các biến

độc lập thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát Quy mô tài sản của ngân hàng,

Thời gian hoạt động và Năm nghiên cứu tới biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động của

ngân hàng.

Phân tích hồi quy thứ tư được thực hiện để xác định mối quan hệ nhân quả

giữa biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng và các biến độc lập đại

diện cho thông tin bất đối xứng, cùng với các biến kiểm soát Quy mô tài sản của

ngân hàng, Thời gian hoạt động và Năm nghiên cứu.

Mô hình hồi quy sẽ tìm ra các biến độc lập có tác động tới biến phụ thuộc và

các biến độc lập không tác động tới biến phụ thuộc. Với những biến có tác động,

mô hình hồi quy còn cho biết hướng tác động dương (+) hay âm (-), hay tác động là

thuận chiều hay ngược chiều. Đồng thời mô hình cũng mô tả mức độ tác động của

biến độc lập cụ thể là như thế nào qua đó giúp ta dự đoán được giá trị của biến phụ

thuộc khi biết trước giá trị của các biến độc lập. Các mô hình nghiên cứu của luận

án bao gồm một biến phụ thuộc và nhiều biến độc lập, vì vậy tác giả sử dụng mô

hình hồi quy tuyến tính bội để kiểm định (Nguyễn Đình Thọ, 2011).

96

Tác giả sử dụng hệ số xác định R2 điều chỉnh để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình hồi quy. Bởi theo Hair và cộng sự (1998), sử dụng hệ số xác định R2, mặc

dù vẫn có thể cho biết được các biến độc lập trong mô hình giải thích được bao

nhiêu % sự biến thiên của biến phụ thuộc, nhưng có nhược điểm lớn nhất là có nhiều biến độc lập không có ý nghĩa nhưng khi đưa vào mô hình vẫn làm giá trị R2 tăng lên, sử dụng giá trị R2 điều chỉnh (Adjusted R Square) sẽ khắc phục được nhược điểm này. Giá trị R2 điều chỉnh nằm trong khoảng từ 0 đến 1.

Khi R2 điều chỉnh = 0 ta kết luận biến phụ thuộc và các biến độc lập không có

quan hệ với nhau.

Khi R2 điều chỉnh = 1 ta kết luận đường hồi quy phù hợp hoàn hảo.

Một vấn đề đặt ra thêm trong quá trình kiểm định hồi quy đó là sự phù hợp

của mô hình hồi quy tổng thể. Để kiểm định vấn đề này tác giả sử dụng kiểm định

F. Kiểm định này sẽ cho biết liệu các biến độc lập được xem xét trong mô hình có

liên hệ tuyến tính với biến phụ thuộc không, giá trị Sig của kiểm định này nếu nhỏ

hơn 0,05 thì mô hình được coi là phù hợp.

Ngoài ra, một mô hình được coi là phù hợp khi các biến độc lập trong mô hình

không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến, tức là các biến là không có tương quan quá

chặt chẽ với nhau. Hệ số VIF hoặc Tolerance sẽ được dùng để kiểm tra vấn đề này, nếu

hệ số Tolerance nhỏ hơn 0,1 tương ứng với VIF lớn hơn 10 (do Tolerance = 1/VIF) thì

lúc đó ta có thể kết luận có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra. Kết hợp với bảng ma trận

tương quan giữa các biến được tiến hành ở trên, ta sẽ cân nhắc để loại biến có hiện

tượng đa cộng tuyến ra khỏi mô hình.

4.4.1. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ nhất sự tác động

của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng

là R&D

Kiểm tra hệ số R2 điều chỉnh

Bảng 4-9 cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,202. Điều này cho thấy các

biến độc lập trong mô hình đã giải thích được 20,2% sự biến thiên của biến R&D.

97

Kiểm định độ phù hợp của mô hình

Kết quả kiểm định F được thể hiện trong Bảng 4-9 cho thấy giá trị F =

5,443***. Như vậy, với mức độ cho phép là 5% mối quan hệ này đảm bảo độ tin

cậy. Do đó, có thể kết luận các biến độc lập thuộc quản trị công ty có tác động đến

biến đại diện của thông tin bất đối xứng là R&D và mô hình hồi quy tuyến tính bội

phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.

Bảng 4.9: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 1

Mô hình

Mô hình 1

(Beta)

Biến

Số lượng thành viên HĐQT

-.169a

Số lượng thành viên nữ của HĐQT

-.097

Trình độ học vấn của HĐQT

.081

Kinh nghiệm của HĐQT

.048

Số thành viên HĐQT độc lập

-.235***

Cổ đông lớn

-.026

Sở hữu nhà nước

-.119

Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài

-.243***

20,2%

R2 điều chỉnh

5.443***

F

N = 250 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001

Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4-9 cho thấy có 2 biến là: Số thành viên

HĐQT độc lập và Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài là có tác động tới

biến phụ thuộc đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D với giá trị Sig < 0,05.

98

Mối quan hệ giữa các biến trong mô hình 1 được thể hiện trong phương trình hồi

quy sau:

Y1 = -0,235X1 - 0,243X2

Trong đó:

Y1: R&D

X1: Số lượng thành viên HĐQT độc lập

X2: Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài

Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của Số lượng thành

viên HĐQT độc lập và Phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài < 0 cho thấy

các biến độc lập này tác động ngược chiều tới biến phụ thuộc.

Yếu tố mạnh nhất tác động tới thông tin bất đối xứng là yếu tố sở hữu của nhà

đầu tư nước ngoài, với hệ số Beta = -0.243, điều này phản ánh khi tỉ lệ sở hữu của

nhà đầu tư nước ngoài tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố R&D sẽ giảm đi

0.243 đơn vị lệch chuẩn và qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin (do

thông tin bất đối xứng có cùng chiều biến thiên với R&D). Thực tế thì nhà đầu tư

nước ngoài thường có yêu cầu rất cao về vấn đề minh bạch hóa thông tin khi rót vốn

đầu tư, mua cổ phiếu của các ngân hàng, nên khi tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước

ngoài tăng lên, đồng nghĩa với các yêu cầu về minh bạch hóa thông tin tăng lên, qua

đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.

Yếu tố tiếp theo có ảnh hưởng tới thông tin bất đối xứng là số lượng thành

viên của HĐQT độc lập, với hệ số Beta = -0.235, tức là khi tăng số lượng thành

viên của HĐQT độc lập lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố R&D sẽ giảm đi tương

ứng là 0.235 đơn vị lệch chuẩn kéo theo làm giảm tính bất đối xứng của thông tin

(do R&D có cùng chiều biến thiên với thông tin bất đối xứng). Điều này có thể

được giải thích là khi số lượng thành viên HĐQT độc lập tăng lên, mà các thành

viên này thường là các chuyên gia, các nhà nghiên cứu hoặc các nhà quản lý liên

quan đến lĩnh vực ngân hàng, việc giám sát thông tin một cách minh bạch sẽ dễ

dàng hơn, do đây là các thành viên có chuyên môn vững, những thông tin không

99

chính xác là nguồn gốc của tình trạng bất đối xứng về thông tin sẽ được kiểm soát

một cách chặt chẽ và qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.

Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến

Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện trong Bảng 4-10. Hệ

số phóng đại phương sai VIF của các biến độc lập được đưa vào phân tích ở mô

hình thứ nhất đều có giá trị < 10. Như vậy không thấy dấu hiệu của đa cộng tuyến

của các biến độc lập trong mô hình và các biến trong mô hình được chấp nhận.

Bảng 4.10: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 1 Coefficientsa

Collinearity Statistics

Model

Tolerance

VIF

1

(Constant)

Boadsize

.570

1.753

Gender

.693

1.443

Edu

.584

1.712

BoardAge

.711

1.406

OutDir

.736

1.358

Block

.679

1.473

State

.367

2.727

FOWN

.586

1.706

a. Dependent Variable: RnD

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

4.4.2. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ hai xác định sự tác

động của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối

xứng là Leverage

Kiểm tra hệ số R2 điều chỉnh

Bảng 4-11 cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh là 0,281. Điều này cho thấy các

biến độc lập trong mô hình đã giải thích được 28,1% sự biến thiên của biến

Leverage.

100

Kiểm định độ phù hợp của mô hình

Kết quả kiểm định F được thể hiện trong Bảng 4-11 cho thấy giá trị F =

7,829***. Như vậy, với mức độ cho phép là 5% mối quan hệ này đảm bảo độ tin

cậy.Do đó, có thể kết luận các biến độc lập thuộc quản trị công ty có tác động đến

biến đại diện cho thông tin bất đối xứng của ngân hàng là Leverage và mô hình hồi

quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.

Bảng 4.11: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 2

Mô hình

Mô hình 2 (Beta)

Biến

Số lượng thành viên HĐQT

Số lượng thành viên nữ của HĐQT

.138 -.148a

Trình độ học vấn của HĐQT

Kinh nghiệm của HĐQT

-.013 -.042

Số thành viên HĐQT độc lập

.223***

Cổ đông lớn

.098

Sở hữu nhà nước

.609*** -.184a

28.1%

Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài R2 điều chỉnh

7.829***

F N = 250 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001

Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4-11 cho thấy có 2 biến là: Số thành viên

HĐQT độc lập và Sở hữu nhà nước là có tác động tới biến phụ thuộc đại diện cho

thông tin bất đối xứng là Leverage với giá trị Sig < 0,05. Mối quan hệ giữa các biến

trong mô hình 2 được thể hiện trong phương trình hồi quy sau:

Y2 = 0,223X1 + 0,609X2

Trong đó:

Y2: Leverage

101

X1: Số lượng thành viên HĐQT độc lập

X2: Sở hữu của nhà nước

Phương trình hồi quy cho thấy các hệ số Beta chuẩn hóa của Số lượng thành

viên HĐQT độc lập và Sở hữu nhà nước > 0 cho thấy các biến độc lập này tác động

cùng chiều tới biến phụ thuộc.

Yếu tố mạnh nhất tác động tới thông tin bất đối xứng là yếu tố sở hữu nhà

nước, với hệ số Beta chuẩn hóa = 0.609, điều này phản ánh khi yếu tố sở hữu nhà

nước tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì biến Leverage sẽ tăng lên 0.609 đơn vị

lệch chuẩn qua đó tăng tính bất đối xứng của thông tin (do Leverage biến thiên

cùng chiều với tính bất đối xứng của thông tin). Sự tham gia của nhà nước trong

việc góp vốn vào các công ty nói chung và ngân hàng nói riêng đã được nhiều

chuyên gia chỉ ra là kém hiệu quả. Rất nhiều trường hợp, thành viên HĐQT đại

diện cho phần vốn góp của nhà nước tại các ngân hàng hoàn toàn không có trình

độ chuyên môn về ngân hàng, cộng thêm nhà nước lúc đó tuy đóng vai trò là chủ

sở hữu nhưng đồng thời vẫn đóng vai trò là cơ quan quản lý. Vậy nên, các nhà

quản trị sẽ có xu hướng ít chia sẻ thông tin cũng như ít chia sẻ thông tin một

cách chính xác hơn, từ đó kéo theo tính bất đối xứng của thông tin trong các

ngân hàng có sở hữu nhà nước tăng lên.

Yếu tố tiếp theo có ảnh hưởng tới thông tin bất đối xứng là số lượng thành

viên của HĐQT, với hệ số Beta = 0.223, tức là khi tăng số lượng thành viên của

HĐQT lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì yếu tố Leverage sẽ tăng lên 0.223 đơn vị lệch

chuẩn, kéo theo là thông tin bất đối xứng trong ngân hàng sẽ tăng lên (do thông tin

bất đối xứng biến thiên cùng chiều với Leverage). Sự tác động của Số lượng thành

viên HĐQT độc lập lúc này lại ngược lại với bên trên khi làm tăng tính bất đối xứng

của thông tin trong ngân hàng. Điều này được giải thích là khi số lượng thành viên

HĐQT độc lập tăng lên, số thành viên này luôn được coi là người ngoài cuộc so với

các thành viên HĐQT vì họ không sở hữu vốn góp, hay nói cách khác là không tận

hưởng thành quả hay gánh chịu những rủi ro cùng với các thành viên khác, thậm chí

một vài người trong số thành viên HĐQT độc lập này còn là người của cơ quan

quản lý, đứng ở vị trí đối lập với lợi ích của ngân hàng. Lúc đó, trong ngân hàng sẽ

102

nảy sinh một xu hướng hạn chế chia sẻ thông tin với những thành viên HĐQT độc

lập. Không hiếm các ngân hàng, các thành viên HĐQT độc lập hoàn toàn không biết

gì về các hoạt động do không được cung cấp các thông tin về hoạt động của ngân

hàng, đó chính là nguyên nhân làm cho tính bất đối xứng của thông tin trong các

ngân hàng này tăng lên.

Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến

Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện trong Bảng 4-12. Hệ

số phóng đại phương sai VIF của các biến độc lập được đưa vào phân tích ở mô

hình thứ hai đều có giá trị < 10. Như vậy không thấy dấu hiệu của đa cộng tuyến

của các biến độc lập trong mô hình và các biến trong mô hình được chấp nhận.

Bảng 4.12: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 2

Coefficientsa

Collinearity Statistics

Model

Tolerance

VIF

.570

1.753

Boadsize

.693

1.443

Gender

.584

1.712

Edu

.711

1.406

BoardAge

.736

1.358

OutDir

.679

1.473

Block

.367

2.727

State

.586

1.706

FOWN

a. Dependent Variable: Leverage

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

4.4.3. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ

tác động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát tới

hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Ở phần này tác giả chạy liền một lúc 2 mô hình, gồm: mô hình thứ nhất xác

định mức độ ảnh hưởng của các biến kiểm soát tới biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt

động của ngân hàng (gọi tắt là mô hình 3a) và mô hình thứ hai xác định mức độ của

103

các biến kiểm soát và biến độc lập tới biến phụ thuộc (gọi tắt là mô hình 3b)

Kết quả kiểm định ở phần kiểm tra mối tương quan giữa các biến độc lập

thuộc quản trị công ty và biến kiểm soát với biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động

của ngân hàng cho thấy có dấu hiệu của hiện tượng đa cộng tuyến giữa 2 biến thời

gian hoạt động của ngân hàng và yếu tố sở hữu nhà nước. Vì vậy, tác giả tiến hành

kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến trong mô hình thông qua hệ số

phóng đại phương sai trước khi đi vào kiểm định hồi quy.

Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến

Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện trong Bảng 4-13. Hệ

số phóng đại phương sai VIF của biến sở hữu nhà nước có giá trị = 11.671 > 10.

Như vậy có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến trong mô hình.

Bảng 4.13: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 3

Coefficientsa

Collinearity Statistics

Model

Tolerance

VIF

Year

.370

2.705

FirmSize

.147

6.781

FirmAge

.131

7.661

Boadsize

.461

2.171

Gender

.493

2.027

Edu

.484

2.067

BoardAge

.690

1.450

OutDir

.602

1.660

Block

.437

2.287

State

.086

11.671

FOWN

.559

1.788

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

Căn cứ vào nhận định ở phần kiểm tra hệ số tương quan, tác giả quyết định bỏ

biến kiểm soát Số năm hoạt động của ngân hàng ra khỏi mô hình và tiến hành kiểm

tra lại hiện tượng đa cộng tuyến.

104

Căn cứ vào bảng hệ số phóng đại phương sai của mô hình 3 sau khi chạy lại

(bảng 4-14) , Hệ số phóng đại phương sai VIF của các biến độc lập được đưa vào

phân tích ở mô hình thứ 3 sau khi loại biến đều có giá trị < 10. Như vậy không thấy

dấu hiệu của đa cộng tuyến của các biến độc lập trong mô hình và các biến trong

mô hình được chấp nhận

Bảng 4.14: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 3 sau khi loại biến

Coefficientsa

Collinearity Statistics

Model

Tolerance

VIF

Year

.424

2.359

FirmSize

.149

6.711

Boadsize

.492

2.034

Gender

.690

1.450

Edu

.538

1.859

BoardAge

.707

1.415

OutDir

.605

1.654

Block

.666

1.500

State

.143

7.005

FOWN

.561

1.783

Kiểm tra hệ số R2 điều chỉnh

Bảng 4-13 cho thấy giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 3a là 0.283, điều

này cho thấy, nếu chưa có sự tham gia của các biến độc lập thì bản thân các biến

kiểm soát giải thích được 28,3% sự biến thiên của biến phụ thuộc. Cũng từ bảng 4- 15, tác giả rút ra được hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 3b là 0,413. Điều này cho

thấy có sự tác động của các biến kiểm soát và các biến độc lập thuộc quản trị công

ty tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam, và các biến thuộc mô

hình 3b giải thích được 41,3% sự biến thiên của hiệu quả hoạt động của các ngân

hàng. Như vậy, có thể kết luận: các biến độc lập thuộc yếu tố quản trị công ty đã

đóng góp giải thích thêm được 13% sự biến thiên của biến phụ thuộc là hiệu quả

hoạt động của ngân hàng.

105

Kiểm định độ phù hợp của mô hình

Kết quả kiểm định F được thể hiện trong Bảng 4-13 cho thấy, với mô hình chỉ

có các biến kiểm soát, giá trị F =28.609***. Như vậy, mô hình diễn tả mối quan hệ

giữa các biến kiểm soát và biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng đảm

bảo độ tin vậy ở mức 99,9%. Với mô hình gồm cả biến kiểm soát và biến độc lập,

giá trị F= 10.848, giá trị sig = 0,000, như vậy, mối quan hệ này đảm bảo độ tin cậy

ở mức 99,9%. Do đó, có thể kết luận các biến kiểm soát và các biến độc lập thuộc

quản trị công ty có tác động đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng và mô hình hồi

quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được.

Bảng 4.15:Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 3

Mô hình

Mô hình 3a (Beta)

Mô hình 3b (Beta)

Biến

Biến kiểm soát

Năm nghiên cứu

-.784***

Quy mô tài sản của ngân hàng

-.592*** .141a

.514***

Biến chính

Số lượng thành viên HĐQT

.206**

Số lượng thành viên nữ của HĐQT

.052

Trình độ học vấn của HĐQT

-.092

Kinh nghiệm của HĐQT

Số thành viên HĐQT độc lập

.046 -.097

Cổ đông lớn

Sở hữu nhà nước

-.017 -0.444**

0.114

0.413

Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài R2 điều chỉnh

0.283

28.609***

10.848***

F N = 141 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001

Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

106

Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4-15 cho thấy bốn biến là năm nghiên cứu,

quy mô tài sản của ngân hàng, số lượng thành viên HĐQT và sở hữu nhà nước ảnh

hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng vì có giá trị Sig < 0,05. Mối quan hệ

giữa các biến kiểm soát và biến độc lập thuộc quản trị công ty với hiệu quả hoạt

động của ngân hàng được thể hiện trong phương trình hồi quy sau:

Y3 = -0,784X1 + 0,514X2 + 0,206X3 – 0.444X4

Trong đó:

Y3: Hiệu quả hoạt động của ngân hàng

X1: Năm nghiên cứu

X2: Quy mô tài sản của ngân hàng

X3: Số lượng thành viên của HĐQT

X4: Sở hữu nhà nước

Phương trình hồi quy cho thấy hệ số Beta chuẩn hóa của năm nghiên cứu và

Sở hữu nhà nước lần lượt là -0,784 và -0,444 đều <0 cho thấy hai biến này tác động

ngược chiều tới biến phụ thuộc. Hệ số Beta chuẩn hóa của quy mô tài sản của ngân

hàng và số lượng thành viên HĐQT lần lượt bằng 0,514 và 0,206 đều > 0 cho thấy

hai biến này tác động thuận chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Như vậy theo phương trình trên thì khi năm nghiên cứu tăng một đơn vị lệch

chuẩn sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng giảm đi 0,784 đơn vị lệch chuẩn

(kết luận này chỉ đúng trong thời gian nghiên cứu từ 2006 đến 2014), hay nói cách khác

là trong thời gian từ 2006 đến 2014, hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng ngày càng

giảm. Kết luận này khớp với tình hình thực tế khi ở Việt nam, trong giai đoạn từ 2010

đến 2014 đã ghi nhận là những năm rất khó khăn của ngành ngân hàng.

Ở chiều ngược lại, khi quy mô tài sản của ngân hàng tăng lên 1 đơn vị lệch

chuẩn thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng lại tăng lên 0,514 đơn vị lệch chuẩn.

Điều này phản ánh thực tế trong thời gian qua, khi các ngân hàng có quy mô tài sản

nhỏ phải đối diện với câu chuyện làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị thua lỗ, bị sáp

nhập thì các ngân hàng có quy mô tài sản lớn tỏ ra vững vàng hơn, nói cách khác

107

quy mô tài sản lớn đã góp phần giúp các ngân hàng tiếp tục làm ăn hiệu quả trong

thời kỳ khó khăn 2010 đến 2014.

Tương tự, khi số lượng thành viên HĐQT tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn thì hiệu

quả hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên 0,206 đơn vị lệch chuẩn. Điều này khẳng

định khi số lượng thành viên HĐQT tăng lên đồng nghĩa với số người gánh vác

trọng trách sẽ tăng lên, các quyết định đưa ra được cân nhắc kỹ lưỡng hơn, nhìn

nhận ở nhiều góc độ khác nhau hơn và hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng

được cải thiện hơn.

Nhưng hiệu quả hoạt động thu được qua việc sở hữu quy mô tài sản lớn và

một số lượng thành viên HĐQT đông đảo bị giảm đáng kể đối với các ngân hàng có

yếu tố sở hữu nhà nước, với hệ số Beta điều chỉnh = -0.444, khi yếu tố sở hữu nhà

nước tăng lên một đơn vị lệch chuẩn thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng giảm đi

một lượng bằng 0.444 đơn vị lệch chuẩn. Ở mô hình 2, yếu tố sở hữu của nhà nước

được coi là một yếu tố làm tăng thêm tính bất đối xứng của thông tin qua đó gián

tiếp làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng, thì kết quả hồi quy ở mô hình 3b

lại phản ánh sự tác động bất lợi một cách trực tiếp của yếu tố sở hữu của nhà nước

đến hiệu quả ngân hàng. Yếu tố sở hữu nhà nước ở mô hình 3b thể hiện một thực tế

được các chuyên gia ngân hàng – tài chính đã chỉ ra trong việc điều hành các ngân

hàng có yếu tố sở hữu nhà nước đó là sự trì trệ, kém nhanh nhạy trước những thay

đổi của thị trường…kéo theo hệ quả tất yếu đó là hiệu quả hoạt động của các ngân

hàng có yếu tố sở hữu nhà nước bị giảm sút hơn so với các ngân hàng có cùng quy

mô tài sản nhưng thuộc sở hữu hoàn toàn của tư nhân.

4.4.4. Kết quả phân tích hồi quy theo mô hình thứ tư xác định mức độ

tác động của các biến đại diện thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát

tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Ở phần này, cũng giống như mục 4.4.3, tác giả tiến hành chạy liền lúc 2 mô

hình gồm: mô hình thứ nhất chỉ có các biến kiểm soát tác động tới biến phụ thuộc

(được ký hiệu là mô hình 4a) và mô hình thứ hai gồm các biến kiểm soát và biến

độc lập là các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng tác động tới biến phụ thuộc

là hiệu quả hoạt động của ngân hàng (ký hiệu là 4b)

108

Kiểm định hệ số R2 điều chỉnh Bảng 4-16 cho thấy, giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 4a là 29,6%. Giá trị hệ số R2 điều chỉnh của mô hình 4b là 0,441. Như vậy hai biến độc lập đại diện

cho thông tin bất đối xứng cùng các biến kiểm soát có ý nghĩa giải thích được

44,1% sự biến động của biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động của ngân hàng, riêng

các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng giải thích thêm được 14,5% sự biến

động của biến phụ thuộc là hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Kiểm định độ phù hợp của mô hình

Kết quả kiểm định F được thể hiện trong Bảng 4-16 cho thấy giá trị F của mô

hình 4a bằng 20.636, giá trị sig = 0,000, giá trị F của mô hình 4b bằng 23.058***.

Như vậy, mối quan hệ giữa các biến kiểm soát, biến độc lập thông tin bất đối xứng

và biến phụ thuộc đảm bảo độ tin cậy với mức độ cho phép là 5%. Do đó, có thể kết

luận biến độc lập thông tin bất đối xứng và biến kiểm soát có tác động đến hiệu quả

hoạt động của ngân hàng và mô hình hồi quy tuyến tính bội phù hợp với tập dữ liệu

và có thể sử dụng được.

Bảng 4.16: Kết quả chạy hồi quy và đánh giá độ phù hợp của mô hình 4

Mô hình

Mô hình 4a (Beta)

Mô hình 4b (Beta)

Biến

Biến kiểm soát

Năm nghiên cứu

-.621***

-.609***

Quy mô tài sản của ngân hàng

.240*

Số năm hoạt động

.302** -.202a

-.046

Biến chính

R&D

-.294***

-.267***

Leverage R2 điều chỉnh

0.441

0.296

20.636***

23.058***

F N = 141 ; ap ≤ 0.1; *p ≤ 0.05; **p ≤ 0.01; ***p ≤ 0.001

Tất cả hệ số tương quan đã được chuẩn hóa

(Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

109

Kết quả phân tích hồi quy Bảng 4-16 cho thấy ba biến là Năm nghiên cứu, R&D

và Leverage có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng ở mức 99,9% vì có

giá trị Sig = 0,000. Biến quy mô tài sản của ngân hàng có ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt

động của ngân hàng ở mức 95% với giá trị Sig = 0.040 < 0.05. Mối quan hệ giữa các

biến kiểm soát và biến độc lập đại diện cho thông tin bất đối xứng với hiệu quả hoạt

động của ngân hàng được thể hiện trong phương trình hồi quy sau:

Y4 = - 0,609X1 + 0,240X2 – 0.294X3 – 0.267X4

Trong đó:

Y4: Hiệu quả hoạt động của ngân hàng

X1: Năm nghiên cứu

X2: Quy mô tài sản của ngân hàng

X3: R&D

X4: Leverage

Phương trình hồi quy cho thấy hệ số Beta chuẩn hóa của hai biến đại diện cho

thông tin bất đối xứng và biến năm nghiên cứu đều < 0 cho thấy ba biến này tác

động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ở chiều ngược lại, biến

Quy mô tài sản của ngân hàng có hệ số Beta chuẩn hóa của năm nghiên cứu > 0 cho

thấy biến kiểm soát này tác động cùng chiều tới biến phụ thuộc.

Như vậy theo phương trình trên thì khi năm nghiên cứu tăng một đơn vị lệch

chuẩn sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng giảm đi 0,609 đơn vị lệch

chuẩn (kết luận này chỉ đúng trong thời gian nghiên cứu từ 2006 đến 2014), hay nói

cách khác là trong thời gian từ 2006 đến 2014, hiệu quả hoạt động của ngân hàng

càng ngày càng giảm.

Tiếp theo là biến Quy mô tài sản của ngân hàng với hệ số Beta chuẩn hóa =

0.240, tức là khi quy mô tài sản của ngân hàng tăng lên một đơn vị lệch chuẩn thì

hiệu quả hoạt động của ngân hàng tăng lên 0.240 đơn vị lệch chuẩn. Cơ chế tác

động của quy mô tài sản tới hiệu quả hoạt động đã được giải thích ở mô hình 3b.

110

Tiếp theo là biến R&D, với hệ số Beta chuẩn hóa = -0,294 . Tức là, khi R&D

tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn (kéo theo tính bất đối xứng của thông tin tăng lên) thì

hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ giảm đi 0,294 đơn vị lệch chuẩn.

Cuối cùng là biến Leverage với hệ số Beta chuẩn hóa = -0,267. Tức là, khi

Leverage tăng lên 1 đơn vị lệch chuẩn (kéo theo tính bất đối xứng của thông tin

tăng lên) thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ giảm đi 0,267 đơn vị lệch chuẩn.

Như vậy, nói chung khi thông tin bất đối xứng tăng lên thì hiệu quả hoạt động

của ngân hàng sẽ giảm đi, hay nói cách khác là mức độ bất đối xứng của thông tin

ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến

Kết quả kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến được thể hiện trong Bảng 4.17. Hệ

số phong đại phương sai VIF của các biến kiểm soát được đưa vào phân tích ở mô

hình 4b đều có giá trị < 10. Như vậy tính đa cộng tuyến của các biến kiểm soát và

biến độc lập đại diện cho thông tin bất đối xứng là không đáng kể và các biến trong

mô hình được chấp nhận.

Bảng 4.17: Hệ số phóng đại phương sai mô hình 4b Coefficientsa

Collinearity Statistics

Model

Tolerance

VIF

Year

.739

1.354

FirmSize

.306

3.267

FirmAge

.415

2.407

RnD

.874

1.144

Leverage

.749

1.335 (Nguồn: nghiên cứu của tác giả)

4.4.4. Tổng hợp kết quả phân tích hồi qui của 4 mô hình

Từ các bảng kết quả hồi quy ở trên tác giả kết luận về các giả thuyết ở chương

2 như sau:

- Giả thuyết H2.5: Có sự tác động của yếu tố số lượng thành viên HĐQT độc

lập tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là R&D. Với Sig <0.01 giả thuyết

được chấp nhận với độ tin cậy 99%. Với hệ số Beta chuẩn hóa <0, ta có thể kết luận

111

số lượng thành viên HĐQT độc lập có tác động ngược chiều với thông tin bất đối

xứng, hay việc ngân hàng càng có nhiều thành viên HĐQT độc lập sẽ càng làm

giảm tính bất đối xứng của thông tin.

- Giả thuyết H2.8: Có sự tác động của tỉ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài tới

biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D. Với Sig <0.05, giả thuyết được

chấp nhận với độ tin cậy 95%. Với hệ số Beta chuẩn hóa <0, ta có thể kết luận tỉ lệ

sở hữu của cổ đông nước ngoài có tác động ngược chiều tới R&D qua đó tác động

ngược chiều tới thông tin bất đối xứng, hay việc tăng tỉ lệ sở hữu của cổ đông nước

ngoài sẽ làm giảm tính bất đối xứng của thông tin.

- Giả thuyết H2.13: Có sự tác động của yếu tố số lượng thành viên HĐQT độc

lập tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là Leverage. Với Sig = 0.01 giả

thuyết được chấp nhận với độ tin cậy 99%. Với hệ số Beta chuẩn hóa > 0, ta có thể

kết luận số lượng thành viên HĐQT độc lập có tác động thuận chiều với thông tin

bất đối xứng, hay việc ngân hàng càng có nhiều thành viên HĐQT độc lập sẽ càng

làm tăng tính bất đối xứng của thông tin.

- Giả thuyết H2.15: Có sự tác động của yếu tố sở hữu của nhà nước tới biến

đại diện của thông tin bất đối xứng là Leverage. Với Sig < 0.001 giả thuyết được

chấp nhận với độ tin cậy 99,9%. Với hệ số Beta chuẩn hóa > 0, ta có thể kết luận sở

hữu nhà nước có tác động thuận chiều với thông tin bất đối xứng, hay các ngân

hàng có sở hữu nhà nước có xu hướng bất đối xứng trong thông tin cao hơn so với

các ngân hàng tư nhân.

- Giả thuyết H3.1: Có sự tác động của yếu tố số lượng thành viên HĐQT tới

hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Với Sig <0.05 giả thuyết được chấp nhận với độ

tin cậy 95%. Với hệ số Beta chuẩn hóa > 0, ta có thể kết luận số lượng thành viên

HĐQT tác động cùng chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, hay khi số lượng

thành viên HĐQT của ngân hàng tăng lên thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng

cũng tăng lên.

- Giả thuyết H3.7: Có sự tác động của yếu tố sở hữu nhà nước tới hiệu quả

hoạt động của ngân hàng. Với Sig <0.05 giả thuyết được chấp nhận với độ tin cậy

112

95%. Với hệ số Beta chuẩn hóa < 0, ta có thể kết luận yếu tố sở hữu nhà nước tác

động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

- Giả thuyết H1.1: Biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D có tác

động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Với Sig <0.001, giả thuyết

được chấp nhận với độ tin cậy 99,9%. Với hệ số Beta chuẩn hóa <0, có thể khẳng

định rằng biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là R&D ảnh hưởng không tốt tới

hiệu quả hoạt động của ngân hàng, hay thông tin bất đối xứng có ảnh hưởng không

tốt tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.

- Giả thuyết H1.2: Biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage có tác

động ngược chiều tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Với Sig <0.001, giả thuyết

được chấp nhận với độ tin cậy 99,9%. Với hệ số Beta chuẩn hóa <0, có thể khẳng

định rằng biến đại diện cho thông tin bất đối xứng là Leverage ảnh hưởng không tốt

tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tương tự như trên, tính bất đối xứng của

thông tin ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.

- Các giả thuyết còn lại, do Sig >0,05, nên với độ tin cậy 95% ta bác bỏ các

giả thuyết còn lại.

Mô hình còn lại sau khi kiểm tra sự phù hợp của các mô hình hồi quy:

(-)

% sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài

Năm nghiên cứu,Quy mô tài sản ngân hàng Quy mô tài sản ngân

RnD

(-)

(-)

(-)

(+)

(-)

Leverage

Số lượng thành viên độc lập trong HĐQT

(+)

(-)

Hiệu quả hoạt động của ngân hàng

(+)

Sở hữu nhà nước

Quy mô HĐQT

Hình 4.1: Mô hình hồi quy kết quả của nghiên cứu

113

Như vậy, ta có một số nhận xét sau:

- Biến sở hữu nhà nước vừa tác động tới thông tin bất đối xứng, qua đó tác

động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, vừa tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt

động của ngân hàng, nhưng biến này dù tác động trực tiếp hay gián tiếp đều gây ra

hậu quả là làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Như vậy, có thể thấy đây là

một biến rất quan trọng trong quản trị công ty.

- Biến phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không tác động trực tiếp

tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng mà tác động thông qua thông tin bất đối xứng

sau đó mới tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng, và về cơ bản thì biến

này sẽ làm giảm tính bất đối xứng của thông tin và qua đó làm tăng hiệu quả hoạt

động của ngân hàng.

- Biến số lượng thành viên HĐQT độc lập tác động thông qua thông tin bất đối

xứng sau đó mới tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhưng lại tác động

tới 2 biến đại diện của thông tin bất đối xứng theo 2 chiều hướng khác nhau, như

vậy biến này tác động tới mức độ bất đối xứng của thông tin trong ngân hàng theo 2

chiều khác nhau.

- Tính chất bất đối xứng của thông tin được đại diện bởi hai biến là R&D và

Leverage có tác động ngược chiều tới hiệu quả ngân hàng, tức là khi làm giảm tính

bất đối xứng của thông tin trong ngân hàng thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng sẽ

tăng lên.

114

TÓM TẮT CHƯƠNG IV

Chương 4 đã trình bày một cách đầy đủ các kết quả nghiên cứu của đề tài.

Theo đó, dữ liệu thu thập được đã được xử lý bằng phần mềm SPSS18. Đầu tiên là

thống kê mô tả mẫu. Kết quả này đã cho cái nhìn khái quát về số lượng và tỷ lệ các

nhóm khác nhau trong mẫu theo các tiêu chí như: Quy mô tài sản, Vốn điều lệ, Sở

hữu nhà nước... Tiếp theo tác giả tiến hành kiểm định mối tương quan giữa các biến

độc lập và biến phụ thuộc. Cuối cùng là chạy mô hình hồi quy để kiểm định các giả

thuyết nghiên cứu. Kết quả hồi quy cho thấy các giả thuyết H2.5, H2.8, H2.13,

H2.15, H3.1, H3.7, H1.1, H1.2 được chấp nhận và H2.1, H2.2, H2.3, H2.4, H2.6,

H2.7, H2.9, H2.10, H2.11, H2.12, H2.14, H2.16, H3.2, H3.3, H3.4, H3.5, H3.6,

H3.8 bị bác bỏ. Chương tiếp theo sẽ trình bày những nội dung cuối cùng của luận

án bao gồm tóm tắt kết quả nghiên cứu, thảo luận kết quả nghiên cứu, một số đề

xuất cho các nhà quản trị , những hạn chế của nghiên cứu và các hướng nghiên cứu

tiếp theo.

115

CHƯƠNG 5

KHUYẾN NGHỊ

5.1. Khuyến nghị đối với hoạt động quản trị tại ngân hàng

Để nâng cao năng lực quản trị trong hệ thống ngân hàng Việt Nam một cách

hiệu quả, cần làm tốt các điều kiện cần thiết như sau:

- Nâng cao năng lực thực thi của cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao nhận thức

của lãnh đạo ngân hàng và thực hiện thêm nhiều các nghiên cứu về lĩnh vực này.

- Việc thiết kế hoặc thay đổi chính sách cần có bước đi thận trọng. Khi thay

đổi quy định hay chính sách, cần thực hiện đánh giá hiệu quả chính sách sau một

thời gian thực thi hoặc trước khi tiếp tục thay đổi chính sách. Ví dụ, các chính sách

nhằm tăng tính độc lập và khả năng kiểm soát của HĐQT để bảo vệ tốt hơn quyền

lợi của cổ đông nhỏ hoặc chính sách hạn mức bảo hiểm tiền gửi để bảo vệ quyền lợi

người gửi tiền đều có các tác động ngoài dự kiến. Nếu HĐQT quá độc lập và số

lượng thành viên HĐQT nhiều có thể khó cho việc ra quyết định của ngân hàng.

Nếu hạn mức bảo hiểm tiền gửi quá cao, người gửi tiền lại quá ỷ lại vào sự bảo lãnh

của nhà nước mà không có động lực giám sát hoạt động ngân hàng.

- Các nguyên tắc quốc tế về quản trị công ty thường được khuyến khích áp dụng ở

tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, việc áp dụng các nguyên tắc quốc tế vào từng nước sẽ

không mang lại lợi ích nếu khuôn khổ pháp lý và môi trường thể chế yếu. Để áp dụng

các nguyên tắc về quản trị công ty theo chuẩn mực quốc tế một cách hiệu quả vào hệ

thống ngân hàng Việt Nam, cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết và thực hiện nhiều

nghiên cứu hơn. Đầu tiên, cần thực hiện đánh giá tác động của quy định hiện hành của

Ngân hàng Nhà nước Việt nam về hoạt động và tổ chức ngân hàng đối với hiệu quả hoạt

động của hệ thống ngân hàng. Cần xác định các đặc trưng chính của hệ thống ngân hàng

Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.

Cần chú trọng nâng cao năng lực quản trị công ty của các NHTM Việt Nam.

Việc cải thiện chỉ số quản trị công ty (CGI) của các NHTM theo hướng chuẩn quốc

116

tế sẽ giúp các NHTM Việt Nam tiệm cận dần với các thông lệ và quy định quốc tế

về minh bạch và công khai hóa thông tin, tăng cường vai trò độc lập của Ban kiểm

soát, tách bạch giữa quyền quản lý và quyền sở hữu. Do đó, việc cải thiện năng lực

quản trị công ty trong NHTM Việt Nam, về dài hạn sẽ giúp các NHTM phát triển

một cách lành mạnh và sinh lợi. Nên xem xét xây dựng và công bố chỉ số CGI trong

ngân hàng làm căn cứ đánh giá quản trị công khai của ngân hàng, thúc đẩy thị

trường tài chính minh bạch và hiệu quả.

5.2. Khuyến nghị đối với Hội đồng quản trị

Để tăng cường vai trò của mình, HĐQT cần thực hiện những việc sau:

Thứ nhất, đối với thành viên HĐQT cần tăng cường năng lực và mức độ cẩn

trọng thông qua việc đánh giá HĐQT. Cụ thể, để nâng cao mức độ cẩn trọng của các

thành viên HĐQT, nhằm cung cấp thông tin cho cổ đông giám sát hiệu quả hoạt động

của từng thành viên HĐQT, HĐQT cần báo cáo ĐHCĐ hằng năm về những nội dung:

- Công tác giám sát đánh giá và cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của Ban

điều hành.

- HĐQT độc lập có thể kiểm chứng lại mức độ chính xác và hợp lý của những

thông tin tài chính và phi tài chính được cung cấp không thông qua BKS và KTNB.

- Chủ tịch HĐQT phải báo cáo trước ĐHCĐ hằng năm về việc đánh giá mức

độ hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm của HĐQT và từng thành viên HĐQT.

- Ngoài ra, nhằm nâng cao năng lực giám sát, các thành viên HĐQT thường

xuyên tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn về QTCT và công bố thông tin BCTC.

- Các thành viên HĐQT cần nắm rõ các trách nhiệm của mình. Thành viên

HĐQT cần tăng cường tham gia giám sát, báo cáo về các nguy cơ của công ty, và

đặc biệt là thiết lập cơ chế, chính sách, quy trình để bảo đảm môi trường kiểm soát

phù hợp. Công ty cần bảo đảm có bộ phận kiểm toán nội bộ đủ độ tin cậy, có trình

độ chuyên môn, báo cáo trực tiếp cho HĐQT.

Thứ hai, HĐQT cần tăng cường sự tham gia của những thành viên độc lập

trong HÐQT từ bên ngoài để nâng cao tính minh bạch, công khai trong quản trị

117

công ty, giảm nguy cơ lạm dụng quyền lực của những nguời quản lý, bảo vệ lợi ích

chính dáng của cổ đông giúp cho việc hoạch định chiến luợc,giám sát quá trình diều

hành hoạt động kinh doanhcủa công ty duợc hiệu quả hơn

Thứ ba, HĐQT cần lựa chọn những thành viên HÐQT có nhiều kinh nghiệm,

giỏi chiến luợc, am tường lĩnh vực kinh doanh của công ty; tuyệt đối tránh tình

trạng lựa chọn các quan chức hoặc công chức trong các cơ quan quản lý nhà nuớc

hoàn toàn xa lạ với hoạt động kinh doanh bầu làm thành viên HÐQT, nhất là ở

những ngân hàng có cổ đông nhà nước giữ cổ phần chi phối.

Thứ tư, khuyến khích các cổ đông lớn tham gia HĐQT nhằm giảm mâu thuẫn

lợi ích trong ngân hàng. Để đảm bảo tính minh bạch và tăng cường sự giám sát của

HĐQT, NHTM cần phải tách bạch giữa chức năng giám sát của HĐQT với chức

năng điều hành kinh doanh của Ban điều hành, thành viên HĐQT không nên trực

tiếp phê duyệt các giao dịch kinh tế cụ thể. Đối với các khoản tín dụng/đầu tư lớn

cần phê duyệt của HĐQT thì toàn bộ HĐQT biểu quyết với vai trò giám sát của Hội

đồng quản trị đối với Ban điều hành.

Thứ năm, Phần lớn thành viên HDDQT đều phụ thuộc vào báo cáo của Ban

điều hành. Tuy vậy, các báo cáo này đều đã được chỉnh sửa nhằm mục đích thuyết

phục hơn là việc cung cấp những thông tin đáng tin cậy. Để khắc phục tình trạng

thiếu thông tin và thông tin ít chính xác, các thành viên HĐQT độc lập cần liên tục

truy cập các thông tin và phân tích từ những nguồn tin độc lập, khách quan và trung

lập. Cần thiết lập hệ thống cung cấp thông tin riêng để đảm bảo thu thập thông tin

nhanh chóng, chính xác. Ngoài kênh thu thập chính thống do Ban điều hành cung

cấp, các thành viên HĐQT độc lập cần có kênh thông tin khác từ các cổ đông, nhân

viên hoặc các bên liên quan khác.

Thứ sáu, các ngân hàng nên có một số lượng thành viên độc lập nhất định

tham gia hội đồng quản trị. Tuy vậy, để tăng cường vai trò của các thành viên độc

lập này, việc lựa chọn là rất quan trọng. Các thành viên này cần giữ cả vai trò giám

sát và người hỗ trợ đem lại các ý tưởng chiến lược cho ngân hàng.

118

Thứ bảy, HĐQT và Ban kiểm soát cần phải thiết lập hệ thống báo cáo định kỳ

(hàng quý) từ tất cả các bộ phận, đơn vị trong TCTD để báo cáo cho Ban kiểm soát

thông qua Kiểm toán nội bộ. Trên cơ sở đó, Ban kiểm soát/Kiểm toán nội bộ đánh

giá về mức độ nghiêm trọng của các tồn tại, sai phạm, rủi ro để tổng hợp các vấn đề

cần báo cáo cho HĐQT và Ngân hàng Nhà nước.

5.3. Khuyến nghị đối với sở hữu

Giảm sở hữu nhà nước trong ngân hàng nhằm tăng khả năng sinh lời điều này

phù hợp với chủ trương giảm dần vốn nhà nước. Tuy vậy phần vốn đại diện nhà

nước vẫn nên giữ cổ phần chi phối.

Các cổ đông nhà nước nên tham gia nhiều hơn vào vấn đề quản trị . Cổ đông này

cần khắt khe hơn với HĐQT, đặc biệt là trong vấn đề đánh giá, bổ nhiệm kiểm toán

độc lập, yêu cầu cung cấp thông tin về lai lịch của những thành viên HĐQT được đề

cử, cũng như chất lượng báo cáo của HĐQT và BKS. Cần thể hiện trách nhiệm của

mình trong các cuộc họp đại hội cổ đông.

Nhà nước, trong vai trò cổ đông lớn tai các ngân hàng thương mại cần giữ vai

trò “tiên phong” trong tăng cường quản trị công ty, tập huấn cho các thành viên

HĐQT được bổ nhiệm theo các thông lệ QTCT toàn cầu, cũng như yêu cầu áp dụng

những thông lệ này trong các công ty nhà nước có phần vốn lớn.

Cần xây dựng, thực hiện các chương trình tập huấn có chất lượng về QTCT

cho các thành viên HĐQT, Ban Giám đốc. Cần có báo cáo riêng về tình hình tập

huấn hàng năm của từng thành viên HĐQT, TGĐ và Thư ký công ty trong Báo cáo

thường niên. Phải quy định bắt buộc tập huấn về QTCT và xác định thời lượng tập

huấn cụ thể. Xây dựng các chương trình, tài liệu tập huấn, khảo sát trường hợp phù

hợp với Việt Nam và phản ánh những thông lệ tối ưu quốc tế.

5.4. Khuyến nghị đối với thông tin bất đối xứng

Việc hạn chế và giảm thiểu ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng sẽ giúp lành

mạnh hóa thị trường, đảm bảo ổn định tài chính và củng cố niềm tin, trong đó cần

chú trọng tăng cường các quy định công bố và minh bạch thông tin, đồng thời đẩy

119

mạnh hệ thống giám sát và các quy định đảm bảo an toàn vĩ mô. Để làm được điều

này hệ thống tài chính- ngân hàng của Việt Nam cần làm những việc như sau:

Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thông tin công bố cho cổ đông và cộng

đồng nhà đầu tư nói chung. Việc công khai thông tin của công ty hiện nay nhìn

chung còn ở mức chưa đáng kể. Công ty cần cung cấp bức tranh tổng thể, rõ ràng về

tình hình công ty, các chiến lược, nguy cơ của công ty, cũng như hoạt động của

HĐQT, BKS, tình hình tham dự các cuộc họp. Chất lượng báo cáo về các cơ chế,

chính sách, quy trình quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ còn nhiều hạn chế và cần

được cải thiện. Chất lượng báo cáo cả về thông tin tài chính và phi tài chính cũng

phải được cải thiện.

Để hạn chế “tâm lý ỷ lại”, một mặt chính phủ cần đẩy nhanh quá trình tái cấu

trúc hệ thống ngân hàng, tăng tính hiệu quả của thị trường bằng cách kiên quyết giải

thể hoặc sáp nhập các tổ chức tín dụng gây ra quá nhiều tổn thất cho xã hội, trên cơ

sở phải để cho người chủ các tổ chức này phải trả giá cho những gì họ đã gây ra cho

nền kinh tế. Một khi chính phủ vẫn còn nương nhẹ cho những tổ chức này, không

những các tổ chức này tiếp tục hoạt động không hiệu quả, mà còn là tiền lệ xấu cho

tâm lý ỷ lại sau này. Chính phủ cần nhìn nhận rõ ràng tác hại của sở hữu chéo, ngăn

chặn và kiểm soát tình trạng sở hữu chéo và ảnh hưởng của nhóm lợi ích, không để

các ông chủ- do ỷ lại rằng sẽ không ai có thể đụng đến mình- lợi dụng ngân hàng

hay các tổ chức tài chính để cung cấp vốn cho các công ty sân sau của mình, gây

nên những hệ lụy khôn lường cho nền kinh tế.

Để hạn chế ảnh hưởng của “lựa chọn bất lợi” và “người ủy thác- đại diện” đối

với toàn hệ thống, cần tăng cường chức năng giám sát hệ thống tài chính, chú trọng

nhiều hơn vào các quy định bảo đảm an toàn vĩ mô nhằm quản lý tín dụng chặt chẽ

hơn, ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro của cả hệ thống. Nhà nước cần xem xét thay

đổi mô hình giám sát, tập trung hoàn thiện về mặt pháp lý, chức năng và quyền lực

của các tổ chức giám sát tài chính. Hiện nay, hệ thống giám sát tài chính của Việt

Nam được tổ chức theo mô hình giám sát theo thể chế (Trần Đăng Khâm, 2013).

Khi hệ thống tài chính phát triển hơn, mối liên kết giữa hệ thống ngân hàng, chứng

120

khoán, bất động sản trở nên chặt chẽ vào phụ thuộc vào nhau, mô hình này sẽ bộc lộ

nhiều nhược điểm như khả năng phối hợp không tốt giữa các cơ quan giám sát, khác

biệt về chính sách đối với các thị trường khác nhau, hạn chế sự kiểm soát đối với

các tổ chức tài chính hoạt động đa lĩnh vực (Trần Đăng Khâm, 2013). Chính vì vậy,

một mô hình giám sát thống nhất, tương tự như ở Anh, cần phải được xem xét để

tăng tính hiệu quả của việc giám sát, khắc phục nhược điểm của mô hình giám sát

theo thể chế. Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia, theo đúng tên gọi của tổ chức này,

cần phải được trao nhiều quyền và tăng cường vai trò nhiều hơn, với vị thế là tổ

chức giám sát tài chính cao nhất, tập trung điều phối giám sát tương tác giữa các thị

trường, chứ không chỉ làm chức năng tư vấn và tham mưu như hiện nay.

Cần tăng cường minh bạch hóa thông tin tài chính. Đối với Nhà nước, cần

thiết lập các quy định công bố thông tin để các bên tham gia thị trường đều được

tiếp cận với thông tin công bằng và như nhau. Để có được một cơ chế như vậy,

trước hết phải có chính sách đối xử một cách công bằng, tạo môi trường cạnh tranh

lành mạnh giữa các loại hình tổ chức tín dụng, có hoặc không có sở hữu nhà nước.

Chính phủ bên cạnh việc thiết lập các quy định chặt chẽ, yêu cầu công bố thông tin

đầy đủ và trung thực, cần có chế tài đủ mạnh để buộc các tổ chức tín dụng công bố

thông tin theo đúng quy định, tránh tình trạng như hiện nay rất nhiều các công ty

niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam thường xuyên chậm công bố báo

cáo tài chính mà không bị xử lý thích đáng. Đối với các tổ chức tài chính, đã đến lúc

cần xem xét áp dụng các hệ thống chuẩn mực kế toán theo các tiêu chuẩn kế toán

quốc tế (như GAAP, IASC), các tiêu chuẩn Basel quốc tế cho hệ thống ngân hàng,

nhằm chuẩn hóa hệ thống thông tin tài chính theo hướng minh bạch, hội nhập.

Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để có thể thành lập công ty xếp hạng tín dụng

hay xếp hạng tín nhiệm các tổ chức tài chính và công ty một cách chuẩn mực và

chính thống nhằm giúp cung cấp thông tin đầy đủ hơn cho người dân và cả nền kinh

tế trong việc ra các quyết định tài chính.

HĐQT cần xây dựng hệ thống báo cáo trong đó quy định rõ nội dung, thời

gian phù hợp nhiệm vụ định hướng và giám sát có liên quan đến lập và công bố

121

như: nhận diện các hoạt động quản trị rủi ro, duy trì và cải tiến hệ thống kiểm soát

nội bộ để Ban điều hành cung cấp nhằm tránh tình trạng thông tin bất đối xứng giữa

HĐQT và Ban điều hành.

HĐQT cần tiếp nhận thường xuyên những thông tin phi tài chính như: thị

phần, sự hài lòng của nhân viên, hoạt động của đối thủ cạnh tranh, các kế hoạch dự

kiến của Ban điều hành…, để giám sát nội dung công bố liên quan đến thông tin phi

tài chính.

Để khắc phục tình trạng thiếu thông tin và thông tin ít chính xác, các thành

viên HĐQT độc lập cần liên tục truy cập các thông tin và phân tích từ những nguồn

tin độc lập, khách quan và trung lập. Cần thiết lập hệ thống cung cấp thông tin riêng

để đảm bảo thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác. Ngoài kênh thu thập chính

thống do Ban điều hành cung cấp, các thành viên HĐQT độc lập cần có kênh thông

tin khác từ các cổ đông, nhân viên hoặc các bên liên quan khác.

Tăng cường minh bạch thông tin để thị trường đặc biệt là cổ đông nhỏ có thể

tiếp cận thông tin một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác.

Nên xem xét xây dựng và công bố chỉ số quản trị (CGI) trong ngân hàng làm

căn cứ đánh giá quản trị công khai của ngân hàng, thúc đẩy thị trường tài chính

minh bạch và hiệu quả.

Về phía các ngân hàng công bố thông tin cần tuân thủ những việc sau. Thứ

nhất, xây dựng quy chế rõ ràng, nghiêm ngặt về quản trị công ty và cần được phổ

biến rộng rãi tới các thành viên để mọi người cùng hiểu cùng thực hiện. Thứ hai,

nghiên cầm tình trạng người quản lý hay thành viên HĐQT là những người có khả

năng biết trước thông tin thực hiện việc mua bán cổ phiếu cho đến khi thông tin

được công bố.

5.5. Khuyến nghị về chính sách

Các ngân hàng cần rà soát hệ thống văn bản quản trị như điều lệ, quy chế quản

trị, kiểm soát v.v... liên quan đến quản trị công ty đảm bảo tuân thủ đúng các quy

định của luật pháp và phù hợp với nguyên tắc quốc tế.

122

HĐQT có vai trò và ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng tài sản và chi phí

hoạt động của ngân hàng. HĐQT đại diện tất cả các cổ đông (cả cổ đông lớn và

nhỏ) để lãnh đạo và giám sát ban điều hành, đảm bảo ngân hàng đạt được mục tiêu

đề ra. Do vậy, quy chế về quản trị công ty cần nêu trình tự và thủ tục đề cử, ứng cử,

bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm thành viên HĐQT. Để đảm bảo tăng cường tính độc

lập và khả năng đánh giá khách quan của HĐQT và BKS, NHTM cần tuân thủ các

điều sau:

Thứ nhất, cần công bố các tiêu chuẩn, thông tin về ứng viên tham gia HĐQT.

Các tiêu chuẩn để miễn nhiệm, bãi nhiệm, bổ sung thành viên HĐQT, ban giám

đốc, kế toán trưởng…. cũng phải rõ ràng.

Thứ hai, cần có qui trình, thủ tục để HĐQT có thể phối hợp hoạt động với ban

giám đốc, BKS…

Thứ ba, có qui định rõ ràng về hoạt động đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối

với đội ngũ quản lý, BKS, Tổng giám đốc…

Thứ tư, xây dựng rõ ràng các quy trình, thủ tục về việc thành lập và hoạt

động của các tiểu ban, ủy ban thuộc HĐQT nhằm tăng cường tính độc lập và khả

năng đánh giá khách quan của HĐQT và BKS.

Các ngân hàng nên công khai cho công chúng, cổ đông biết các quy chế, điều lệ

và các văn bản liên quan để giúp người gửi tiền và cổ đông nhỏ theo dõi được hoạt

động của ngân hàng. Ngân hàng cũng cần công bố thông tin liên quan đến quản trị

công ty như báo cáo về quản trị công ty, tình hình hoạt động kinh doanh, các biến động

nhân sự lớn, báo cáo tài chính kiểm toán, báo cáo thường niên. Ngoài ra, cơ chế chi trả

thù lao và mức chi trả thù lao của từng thành viên HĐQT và Ban kiểm soát cần được

công khai và thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên. Qua đó, quyền

lợi của cổ đông nhỏ và người gửi tiền được quan tâm hơn.

Các ngân hàng cần đa dạng hóa các kênh đào tạo liên quan đến kiến thức về

quản trị công ty như đào tạo, thảo luận nội bộ, tham gia các khóa học tổ chức bởi

Ngân hàng Nhà nước, các định chế tài chính quốc tế, hội nghị, hội thảo.

123

Nâng cao nhận thức của lãnh đạo NHTM Việt Nam về quản trị công ty theo

chuẩn quốc tế. Bản thân đội ngũ lãnh đạo tại các NHTM gồm thành viên HĐQT,

Ban Tổng giám đốc, Ban kiểm soát, Kế toán trưởng, giám đốc các chi nhánh…cần

tự nỗ lực, tăng cường tìm hiểu, nâng cao nhận thức về các nội dung của quản trị công

ty như quyền lợi của cổ đông và các chức năng sở hữu, sự đối xử bình đẳng với cổ

đông lớn cũng như cổ đông nhỏ lẻ, sự minh bạch trong điều hành và công bố thông tin.

Các cấp lãnh đạo cao nhất như Đại hội đồng cổ đông, HĐQT cần phải đảm bảo rằng

các nguyên tắc, quy chế, quy định về quản trị công ty, điều lệ công ty phải được thực

hành và tuân thủ, kể cả ở cấp điều hành cao nhất đến các cấp thấp hơn.

Ban lãnh đạo ngân hàng nhất thiết phải có nhận thức đúng đắn về vai trò của

Kiểm soát nội bộ và Kiểm toán nội bộ. Hoạt động này cần được lãnh đạo bởi một

thành viên HĐQT độc lập. Đặc biệt, trong cơ cấu điều hành hoạt động, vị trí Giám

đốc quản trị rủi ro có vai trò quan trọng, nên được trao quyền lực đủ để tiến hành

các hoạt động phòng ngừa, kiểm soát, ứng biến với các rủi ro trọng yếu liên quan

đến các hoạt động tín dụng, thị trường, hoạt động hay pháp lý.

5.6. Khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước

Các cơ quan quản lý nhà nước (như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính,.. ) tác

động tới quản trị NHTM trước hết thông qua hệ thống các luật, các quy định liên

quan đến hoạt động ngân hàng. Nguyên tắc về quản trị NHTM của Ủy ban Basel

ban hành năm 2006 với 14 nguyên tắc và 6 nội dung gồm mô hình HĐQT, Ban điều

hành, công tác quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ, vai trò của người giám sát, quản

trị đối với ngân hàng có cơ cấu phức tạp, công khai và minh bạch thông tin. Hiện

nay, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc tái cơ cấu hệ

thống ngân hàng giai đoạn 2 và thúc đẩy quản trị công ty trong ngân hàng tốt. Do

vậy cơ quan quản lý nhà nước cần xem xét, đánh giá khả năng áp dụng và hiệu quả

áp dụng các nguyên tắc về quản trị công ty của Ủy ban Basel trong bối cảnh Việt

Nam. Trên cơ sở đó, xây dựng lộ trình áp dụng nguyên tắc này.

Việc áp dụng các nguyên tắc quốc tế về quản trị công ty hoặc xây dựng luật,

quy định mới về quản trị NHTM Việt Nam cần tập trung vào các vấn đề sau:

- Tăng cường vai trò và năng lực thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước

và thúc đẩy việc cưỡng chế tuân thủ pháp luật.

124

- Xây dựng khung pháp lý để bảo vệ lợi ích của cổ đông nhỏ. Rà soát, điều

chỉnh và ban hành mới văn bản về hoạt động và quản trị công ty để phù hợp điều

kiện phát triển hệ thống ngân hàng. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới các chính sách

và việc thực thi các chính sách để bảo vệ quyền lợi và nâng cao trách nhiệm các cổ

đông nhất là cổ đông nhỏ.

- Tăng cường tính độc lập của HĐQT, Ban kiểm soát và tăng cường hiệu lực

thực thi của các quy định hiện hành. Tăng cường vai trò kiểm soát và tính độc lập

của HĐQT và Ban kiểm soát sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ, nâng

cao sự an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và làm tăng hiệu quả hoạt động

của ngân hàng.

- Nâng cao nhận thức và đào tạo thành viên HĐQT các NHTM về các vấn đề

quản trị công ty.

- Tăng cường minh bạch thông tin để thị trường đặc biệt là cổ đông nhỏ có thể

tiếp cận thông tin một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác.

Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội Ngân hàng Việt nam và các trường cần tổ chức

các khóa đào tạo nhằm nâng cao năng lực quản trị công ty. Trong đó, có thể huy

động nguồn lực từ nhiều phía như sự tài trợ của các tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó,

tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức liên quan đến quản trị công ty thông

qua việc tổ chức các khóa đào tạo thường xuyên, các hội nghị, hội thảo, cử chuyên

gia đến đào tạo tại chỗ cho các cán bộ quản lý ngân hàng, gửi tài liệu đào tạo, tài

liệu tham khảo về quản trị công ty.

Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý như Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban giám sát

tài chính quốc gia, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần tăng cường các kiểm tra,

giám sát tình hình thực hiện quản trị công ty. Cần có khuôn khổ giám sát có hiệu

lực để giảm khoảng cách giữa quy định của Ngân hàng Nhà nước với thực tiễn thực

thi các quy định của ngân hàng.

Tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản có để đảm bảo an toàn cho hệ thống

ngân hàng hoặc không nên quá theo đuổi mục tiêu tăng trưởng tín dụng nếu khả

năng chịu đựng rủi ro hoặc quản lý của ngân hàng chưa tương xứng với quy mô

hoạt động.

125

Nên xem xét xây dựng và công bố chỉ số CGI trong ngân hàng làm căn cứ

đánh giá quản trị công khai của ngân hàng, thúc đẩy thị trường tài chính minh bạch

và hiệu quả.

5.7. Ngoài những kiến nghị đã nêu, tác giả để xuất một số kiến nghị sau:

Dựa vào kết quả nghiên cứu ta nhận thấy, mặc dù phần trăm sở hữu nước

ngoài không tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM

Việt Nam nhưng lại thông qua biến R&D làm tăng hiệu quả hoạt động. Vì vậy, đề

xuất các cơ quan tham mưu về chính sách nghiên cứu tăng cường tỷ lệ nắm giữ của

nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với mức độ phát triển kinh tế và đảm bảo an toàn

hệ thống tài chính.

Thông qua kết quả nghiên cứu tại chương bốn, ta cũng nhận thấy số lượng thành

viên độc lập trong HĐQT thông qua biến Leverge làm tăng hiệu quả hoạt động ngân

hàng thương mại. Trong thực tế cũng cho thấy, hiện nay, số lượng thành viên hội động

quản trị trong các ngân hàng chiếm một tỉ lệ còn thấp, khoảng từ một đến hai thành viên.

Số lượng này thấp hơn so với thế giới. Theo nghiên cứu thế giới để đạt được hiệu quả

hoạt động cũng như tăng cường tính minh bạch thì số lượng nên từ 5 đến 10 người.

Chính vì vậy, tác giả kiến nghị tăng cường số lượng thành viên độc lập trong HĐQT.

Ngoài hai kiến nghị đã nêu trên, qua nghiên cứu của mình, tác giả cũng đề

xuất tăng cường quy mô của hội động quản trị. Khi tăng qui mô hội đồng quản trị sẽ

tạo được cơ hội cho các cổ đông nhỏ được tham gia vào các hoạt động điều hành

chung, được đóng góp năng lực và có tiếng nói trong việc đưa ra các quyết sách của

ngân hàng, cũng như đảm bảo được quyền lợi của mình.

5.8. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo

Nghiên cứu có một số hạn chế như sau. Thứ nhất, chưa đi sâu nghiên cứu vấn

đề quản trị công ty trong khối ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và các

tổ chức tín dụng phi ngân hàng (HSBC, ANZ, Citibank, …). Thứ hai, chưa nghiên

cứu các biến khác cũng đại diện cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng như ROE.

Những hạn chế trên là những gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo như: mở rộng đối

tượng nghiên cứu là các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài hoặc các tổ chức tín

dụng phi ngân hàng v.v…

126

KẾT LUẬN

Sau khi tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả đã đưa ra được

một mô hình nghiên cứu về mối quan hệ giữa thông tin bất đối xứng, quản trị công

ty và hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trên cơ sở mô hình nghiên cứu, tác giả đã

đưa ra các giả thuyết về mối quan hệ giữa ba nhân tố này.

Nghiên cứu cũng đã khẳng định được một số kết quả sau:

- Có sự tác động của các nhân tố quản trị công ty tới thông tin bất đối xứng

gồm: Tỉ lệ phần trăm sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, Số lượng thành viên độc

lập trong HĐQT và Sở hữu nhà nước. Trong đó, yếu tố Số lượng thành viên độc lập

trong HĐQT có tác động vừa thuận chiều vừa ngược chiều tới thông tin bất đối

xứng và yếu tố Sở hữu nhà nước không chỉ tác động làm giảm hiệu quả hoạt động

một cách trực tiếp mà còn gián tiếp thông qua thông tin bất đối xứng tác động tiêu

cực tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

- Có 2 yếu tố thuộc quản trị công ty ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt

động của ngân hàng là Sở hữu nhà nước và Số lượng thành viên HĐQT, các yếu tố

Tỉ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và Số lượng thành viên HĐQT độc lập

không ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động mà ảnh hưởng thông qua thông

tin bất đối xứng. Các yếu tố còn lại gồm: Số lượng thành viên HĐQT là nữ giới,

Trình độ của HĐQT, Kinh nghiệm của HĐQT và Cổ đông lớn không có tác động

tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

- Đóng góp tiếp theo rất quan trọng của luận án là khẳng định có dấu hiệu

của sự ảnh hưởng của thông tin bất đối xứng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng

theo hướng tiêu cực, thông qua mối quan hệ ngược chiều giữa hai biến đại diện cho

thông tin bất đối xứng và hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các giải pháp chính như sau:

- Thứ nhất: Nên hạn chế, giảm bớt phần vốn của nhà nước vào các hoạt động

của ngân hàng bởi đây là yếu tố mà theo kết quả nghiên cứu của tác giả gây ảnh

hưởng không tốt tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Nhà nước chỉ nên đóng một

127

vai trò là nhà quản lý, là cơ quan tạo môi trường cho hoạt động của ngân hàng,

không nên đóng hai vai vừa là người quản lý, vừa là người bị quản lý thông qua vốn

góp vào các ngân hàng như hiện nay.

- Thứ hai: Nên tăng cường mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của yếu tố

thành viên độc lập trong HĐQT thông qua các cơ chế, các quy định cụ thể, hợp lý

cho sự hiện diện và vai trò của lực lượng này trong HĐQT. Nhằm qua đó giảm tính

bất đối xứng của thông tin và làm tăng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng

TMCP của Việt nam.

- Thứ ba: Tăng cường ảnh hưởng của HĐQT thông qua việc tăng cả số lượng

và chất lượng của HĐQT vì đây là một yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của

ngân hàng.

- Thứ tư: Cần có các cơ chế để quản lý chặt chẽ hơn việc công bố thông tin

trên cả hai khía cạnh là số lượng và chất lượng, như: tính kịp thời, đầy đủ và chính

xác của thông tin, qua đó làm giảm tính bất đối xứng của thông tin. Thực tế ở Việt

nam hiện nay, nhà nước mới chỉ quản lý phần nào hiệu quả đối với việc công bố

thông tin ở khía cạnh kịp thời, đầy đủ, nhưng còn tính chính xác vẫn là một vấn đề

nhức nhối. Mặc dù đã được đề cập nhưng vẫn còn những lỗ hổng trong quản lý, dẫn

tới nhiều thông tin công bố chưa được chính xác làm tăng mức độ bất đối xứng của

thông tin, trong khi nghiên cứu đã khẳng định thông tin bất đối xứng có tác động

tiêu cực tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

128

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đào Thị Thanh Bình, Hoàng Thị Hương Giang (2012), “Quản trị doanh nghiệp

ở các ngân hàng thương mại Việt Nam”, tạp chí Kinh tế và Phát triển số 183

năm 2012

2. Đoàn Hồng Phúc, Lê Văn Thông, “Tác động của tác động của quản trị doanh

nghiệp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau cổ phần hóa ở

Việt Nam” tạp chí Kinh tế và Phát triển số 203 tháng 5 năm 2014, trang 56-63.

3. Huỳnh Thế Du, Nguyễn Minh Kiều, Nguyễn Trọng Hoài (2005), Thông tin bất

cân xứng trong hoạt động tín dụng tại VN, Chương trình Giảng dạy Kinh tế

Fulbright

4. Lê Quang Cảnh, Lương Thái Bảo, Nguyễn Vũ Hùng (2015), “Quản trị doanh

nghiệp với kết quả hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân lớn ở Việt Nam”

tạp chí Kinh tế và Phát triển số 215 tháng 5 năm 2015, trang 10-19.

5. Trần Thị Thanh Tú, “Xây dựng bộ chỉ số đánh giá năng lực quản trị điều hành

của các NHTM Việt Nam”, báo cáo tổng kết quả thực hiện đề tài KH&CN cấp

ĐH Quốc Gia năm 2014.

6. Trần Thị Thanh Tú, Nguyễn Hồng Thúy, Nguyễn Tố Tâm (2014), “Xây dựng

mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công bố thông tin

của công ty niêm yết”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh,

Tập 30, Số 3 (2014) 26-36.

Tiếng Anh

1. Acharya, Viral V., Thomas Cooley, Matthew Richardson and Ingo Walter

(2010) “Manufacturing Tail Risk: A Perspective on the Financial Crisis of

2007-09”, Foundations and Trends in Finance, Volume 4, forthcoming.

2. Adams R B, Ferreira D.(2007), “A theory of friendly boards”, Journal of

Finance, Vol. 62, Issue.1, pp.217-250. Adjaoud, F., Zeghal, D., & Andaleeb, S.

(2007), “The effect of Board’s Quality on Performance: A Study of Canadi-an

Firms”, Corporate Governance, Vol. 15 No. 4, pp. 623-635.

129

3. Aerts, Walter, Denis Cormier, and Michel Magnan. "Corporate environmental

disclosure, financial markets and the media: An international perspective.

"Ecological Economics 64.3 (2008): 643-659.

4. Agrawal, Ajay, Christian Catalini, and Avi Goldfarb. "Friends, family, and the

flat world: The geography of crowdfunding." NBER Working Paper 16820

(2011).

5. Antoniadis I., Lazarides T.M, Sarrianides N. (2010), Ownership and

performance in the Greek banking sector, International Conferrence on applied

Economics - ICOAE 2010.

6. Bauer R., Guenster N., Otten R. (2004), “Empirical evidence on corporate

governance

in Europe: The effect on stock returns, firm value and

performance”, Journal of Asset management 5 (2), pp. 91 104.

7. Bebchuk, Lucian, Alma Cohen, and Allen Ferrell. "What matters in corporate

governance?." Review of Financial studies 22.2 (2009): 783-827.

8. Bhagat, S., & Black, B. (2002), “The Non-Correlation Between Board

Independence and Long-Term Firm Perfor- mance”, Journal of Corporation

Law, 27, 231-273.

9. Bhagat, Sanjai, and Brian Bolton. "Corporate governance and

firm

performance."Journal of corporate finance 14.3 (2008): 257-273.

10. Bolton Brian John (2006), “Corporate governance and firm performance”, Luận

án Tiến sĩ 3207729, Đại học Univesity of Colorado at Boulder.

11. Brown, L. D., Caylor, M., L. (2004), Corporate Governance and Firm

Performance, Retrieved Cornett, M. M., Marcus, A.J., & Tehranian, H. (2008),

“Corporate governanve and pay for performance: the im pact of earnings

management”, Jounal of finance Economics, 87, 357-373.

12. Casu B., Ferrari A., Girardone C., and J.O.S. Wilson (2016), Integration,

productivity and technological spillovers: Evidence for Eurozone banking

13. Coles, Jeffrey L., Naveen D. Daniel, and Lalitha Naveen. "Boards: Does one

size fit all?" Journal of financial economics 87.2 (2008): 329-356.

130

14. Cremers, M.K. và Nair, V.B. (2005), “Governance mechanisms and equity

prices”, Journal of Finance, Vol 60, P 2859–2894.

15. Dalton, D.R., and Kesner, I.F. (1987), :Composition and CEO duality in boards

of directors: an international per- spective”, Journal of International Business,

18, 33–42.

16. Degryse, Hans, and Abe De Jong. "Investment and internal finance:

Asymmetric information or managerial discretion?." International Journal of

Industrial Organization 24.1 (2006): 125-147.

17. Demirgüç-Kunt, Asli, and Enrica Detragiache. "Does deposit insurance

increase banking system stability? An empirical investigation." Journal of

monetary economics 49.7 (2002): 1373-1406.

18. Edwards, Meredith, and Robyn Clough. Corporate governance and

performance: an exploration of the connection in a public sector context.

Canberra: University of Canberra, 2005.

19. Eisenberg, T. Sundgren, S. Martin T. Wells (1998), “Larger Board Size and

Decreasing Firm Value in Small Firms”,Journal of Financial Economics, 48,

35 -54.

20. Eisenberg, Theodore, Stefan Sundgren, and Martin T. Wells. "Larger board size

and decreasing firm value in small firms."Journal of financial economics48.1

(1998): 35-54.

21. Eng, L.L. and Mak, Y.T. (2003), “Corporate governance and voluntary

disclosure”, Journal of Accounting & PublicPolicy, Vol. 22, pp 325-345.Fama,

E. F., & Jensen, M. C. (1983), “Separation of Ownership and Control”,

Journal of Law and Economics, 26(2), pp.301-325.

22. Fama, Eugene F., and Michael C. Jensen. "Separation of ownership and

control." The Journal of Law & Economics 26.2 (1983): 301-325.

23. Gillan, Stuart L. "Recent developments

in corporate governance: An

overview."Journal of corporate finance 12.3 (2006): 381-402.

24. Gompers, P., Ishii, J., Metrick, A., 2003. “Corporate governance and equity

prices. Quarterly”. Journal of Economics 118, 107–155

131

25. Gompers, P., L. Ishii, & A. Metrick (2003), “Corporate Governance and Equity

Prices”, Quarterly Journal of Eco- nomics, No.118, pp. 107-155.

26. Gompers, Paul A., Joy Ishii, and Andrew Metrick. "Extreme governance: An

analysis of dual-class firms in the United States." Review of Financial Studies

23.3 (2010): 1051-1088.

27. Gursory, G. and Aydogan, K. (2002), “Equity Ownership Structure, Risk

Taking, and Performance”, Emerging Market Finance & Trade, Vol. 38 No. 6,

pp. 6-20.

28. Hall, B. H., Lerner, J., 2009. “The financing of R&D and innovation”. NBER

Working paper no. w15325, 1-55.

29. Henry, D. (2004), “Corporate governance and ownership structure of target

companies and the outcome of takeoverbids”, Pacific-Basin Finance Journal,

No.12, pp.419-444.

30. Hermalin B. & M.Weisbach (2003), “Boards of directors as an endogenously

determined institution: a survey of the economic evidence”, Economic Policy

Review, 9, 7-26.

31. Himmelberg, C. P., Petersen, B. C., 1994. R&D and internal finance: a panel

study of small firms in high-tech industries". Review of Economics and

Statistics 76, 38-51.

32. James, C. and Houston, J. F. (1995), “CEO compensation and bank risk: Is

compensation in banking structured to promote risk taking?”, Journal of

Monetary Economics, Vol. 36, pp. 405-431.

33. Jensen Michael C. & Williams H. Meckling (1976), “Theory of the firm:

Managerial behavior, Agency costs andOwnership structure”, Journal of

Financial Economics, 3(4), 305-360.

34. Jensen, M. C. (1993), “The Modern Industrial Revolution, Exit and the Failure

of Internal Control Systems”, Journal of Finance, Vol. 48, No.3, pp.831-880.

35. Jensen, M. C. and Meckling, W. (1976), “Theory of the Firm: Managerial

Behaviour, Agency Costs and CapitalStructure”, Journal of Financial

Economics, Vol.3, pp. 305-360.

132

36. Jensen, M. C., & Meckling, W. (1976), “Theory of the firm:Managerial

behavior, agency cost and ownership struc- ture”, Journal of Financial

Economics, 3, 305-360.

37. Jensen, Michael C., and William H. Meckling. "Theory of the firm: Managerial

financial

behavior, agency costs and ownership structure." Journal of

economics 3.4 (1976): 305-360.

38. Jones Thomas M. (1995), “Instrumental Stakeholder Theory: A Synthesis of

Ethics and Economies”, The Academy of Management Review, 20(2), 404-437.

39. Krishnaswami, S., & Subramaniam, V. (1999). Information asymmetry,

valuation, and

the corporate spin-off decision. Journal of Financial

economics,53(1), 73-112.

40. Kyereboah-Coleman and Nicholas Biekpe (2007), “Corporate governance and

financing choices of firms: a panel data analysis”, The South African journal of

economics, Vol.74, p.670-681.

41. La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. (1997), “Investor

Protection and Corporate Valuation”, NBER working paper 7403 National

Bureau of Economics of Research, Cambridge, MA.

42. Lee Sanghoon (2009), “Corporate governance and firm performance”, Luận án

Tiến sĩ 3364922, Đại học The Uni- versity of Utah.

43. Levine (2004) “The Corporate Governance of Banks: A Concise Discussion of

Concepts and Evidence”. World Bank Policy Research Working Paper 3404,

September 2004.

44. Luc Laeven, Valencia and Fabian. Systemic banking crises database: An

update. No. 12-163. International Monetary Fund, 2012.

45. Luigi Zingales. "Why do companies go public? An empirical analysis."The

Journal of Finance 53.1 (1998): 27-64.

46. Macey J. R. and M. O'Hara (2003) “The Corporate Governance of Banks”.

Economic Policy Review, Vol. 9, No. 1, April.

47. Mathiesen, H. "What is Corporate Governance?." (2002).

133

48. Maw N, Lord Lane of Horsell, and Craig-Cooper, M. (1994) Maw on

Corporate Governance ed. by Alsbury, A., Dartmouth Publishing

49. McKnight, P.J & Mira, S. (2003), “Corporate governance Machanisms, Agency

cost and firm performance in Ukfirm”, Retrieved 18 th July, 2013, from

http://ssrn.com/abstract=246030.

50. Modigliani, Franco and Merton (1958), “The cost of capital, corporate finance

and the theory of investment”. American Economic Review vol 48, pp 261-297.

51. Molyneux Goddard, P. and Wilson, J.O.S., (2010) “Banking in the European

Union” Oxford Handbook of Banking. Oxford: Oxford University Press.

52. Mulbert, P. O. (2010). Corporate governance of banks after the financial crisis–

53. OECD, (2004), OECD Priciples of Corporate Governance, Paris.

54. Patrick Thomas, Breitzman, Anthony, and Margaret Cheney. "Technological

powerhouse or diluted competence: techniques for assessing mergers via patent

analysis." R&D Management 32.1 (2002): 1-10.

55. Penner, L. A., Dovidio, J. F., Piliavin, J. A., & Schroeder, D. A. (2005),

“Prosocial Behavior: Multilevel.

56. Peong Kwee Kim, Devinaga Rasinh and Rahayu Binti Tasnim (2012), A

Review of Corporate Governance: Ownership Structure of Domestic-Owned

Banks in Term of Government Connected Ownership, and Foreign Ownership

of Commercial Banks in Malaysia, Journal of Organizational Management

Studies, Vol. 2012 (2012)

57. Perspectives”, Annual Review of Psychology, Vol. 56, pp. 365-392.

58. Porta, R., F. Lopez-de-Silanes, A. Shleifer & R. Vishny (1996). “Law and

finance” NBER Working Paper No. 5661.

59. Rokwaro Massimiliano Kiruri (2013),The effect of ownership structure on bank

profitability in Kenya. European Journal of Management Sciences and

Economics, Vol. 1, Issue 2, March 2013.

60. Rose, C. (2007). Does Female Board Representation Influence Firm

134

Performance? The Danish Evidence. Corporate Governance: An International

Review, 15(2), 404-413.

61. Sale, Hillary A. "Banks: The Forgotten Partners in Fraud." U. Cin. L. Rev. 73

(2004): 139.

62. Shankman, A. (1999), “Reframing the debate between agency and stakeholder

theories of the firm”, Journal of Business Ethics.

63. Shleifer A. and R. W. Vishny (1997) “A Survey of Corporate Governance”,

WP 5554, NBER Working Paper Series.

64. Singh, M., & Davidson, W. N. (2007), ‘Agency Cost, Ownership Structure and

Corporate Governance Mechanisms”, Journal of Banking and Finance, 27,

793-816.

65. Stiglitz, Joseph E., and Andrew Weiss. "Asymmetric information in credit

markets and

its

implications

for macro-economics." Oxford Economic

Papers44.4 (1992): 694-724.

66. Yermack, D. (1996), “Higher market valuation of companies with a small

board of directors”, Journal of FinancialEconomics, 40, 185-212.

135

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Kết quả chạy thống kê mô tả các biến độc lập

Descriptive Statistics

Std.

N Minimum Maximum Mean

Skewness

Kurtosis

Deviation

Std.

Std.

Statistic Statistic

Statistic Statistic Statistic Statistic

Statistic

Error

Error

4.00

11.00 7.2411

1.93058

.323

.204

.406

-.746

Boadsize

141

4.00 1.0000

1.06904

.890

.00

.204

.406

.108

Gender

141

9.00 3.5887

2.17476

.635

.00

.204

.406

-.048

Edu

141

39.80

57.00 49.5170

4.28990

-.245

.204

.406

-.856

BoardAge

141

3.00

.5248

.77073

1.625

.00

.204

.406

2.477

OutDir

141

1.00

.7376

.44151

-1.092

.00

.204

.406

-.820

Block

141

1.00

.1915

.39488

1.585

.00

.204

.406

.520

State

141

.406

.0000

.3000 .110138

.1140753

.510

.204

-1.259

FOWN

141

Valid N

141

(listwise)

Phụ lục 2: Kết quả chạy thống kê mô ta các biến phụ thuộc

Descriptive Statistics

Std.

N

Minimum Maximum

Mean

Deviation

Skewness

Kurtosis

Std.

Std.

Statistic Statistic

Statistic

Statistic

Statistic Statistic

Error Statistic

Error

RnD

141

.00

1.84E8

1.4765E8 5.04039E

-2.093

.204

2.764

.406

7

Leverage

141 1.585649

34.69988

10.946238

4.777907

1.044

.204

3.533

.406

300

6000

52733

111894

ROA

141

.0001111

.0216483

.01020816

.0050930

-.075

.204

-.646

.406

2203

6200

73204

2641180

Valid N

141

(listwise)

136

Phụ lục 3: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc R&D đại diện cho thông tin bất đối xứng

với các biến độc lập thuộc quản trị công ty

Correlations

Boadsize

Gender

Edu

BoardAge

OutDir

Block

State

FOWN

Boadsize Pearson Correlation

1

Sig. (2-tailed)

.159 .059

.371** .000

.325** .000

.399** .000

.142 .093

.080 .348

.507** .000

RnD -.369** .000

Gender

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .159 .059

141 .237** .005

141 .070 .412

141 -.035 .683

141 -.242** .004

141 .508** .000

141 -.069 .415

141 -.130 .125

Edu

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .371** .000

141 .237** .005

141 .246** .003

141 .198* .019

141 -.017 .846

141 .500** .000

141 .084 .322

141 -.118 .162

N

BoardAge Pearson Correlation

141 1

Sig. (2-tailed)

141 .325** .000

141 .070 .412

141 .246** .003

141 .168* .046

141 -.007 .937

141 .362** .000

141 .207* .014

141 -.126 .136

OutDir

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .399** .000

141 -.035 .683

141 .198* .019

141 .168* .046

141 .198* .019

141 -.121 .152

141 .432** .000

141 -.370** .000

Block

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .142 .093

141 -.242** .004

141 -.017 .846

141 -.007 .937

141 .198* .019

141 -.447** .000

141 .371** .000

141 -.112 .188

State

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .080 .348

141 .508** .000

141 .500** .000

141 .362** .000

141 -.121 .152

141 -.447** .000

141 -.212* .012

141 -.031 .711

FOWN

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .507** .000

141 -.069 .415

141 .084 .322

141 .207* .014

141 .432** .000

141 .371** .000

141 -.212* .012

141 -.391** .000

RnD

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 -.369** .000

141 -.130 .125

141 -.118 .162

141 -.126 .136

141 -.370** .000

141 -.112 .188

141 -.031 .711

141 -.391** .000

N

141

141

141

141

141

141

141

141

141

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).

137

Phụ lục 4: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc Leverage với các biến độc lập thuộc quản trị công ty

Correlations

Gender

Edu

OutDir

Block

State

FOWN

Boadsize

Boadsize 1

Leverage .154 .068

BoardAge .325** .000

.159 .059

.371** .000

.399** .000

.142 .093

.080 .348

.507** .000

Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

Gender

141 1

141 .159 .059

141 .237** .005

141 -.035 .683

141 -.242** .004

141 .508** .000

141 -.069 .415

141 .070 .412

141 .158 .061

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

Edu

141 1

141 .371** .000

141 .237** .005

141 .198* .019

141 -.017 .846

141 .500** .000

141 .084 .322

141 .246** .003

141 .325** .000

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

N

BoardAge Pearson Correlation

141 1

141 .325** .000

141 .070 .412

141 .246** .003

141 .168* .046

141 -.007 .937

141 .362** .000

141 .207* .014

141 .209* .013

Sig. (2-tailed)

OutDir

141 1

141 .399** .000

141 -.035 .683

141 .198* .019

141 .198* .019

141 -.121 .152

141 .432** .000

141 .168* .046

141 .139 .100

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

Block

141 1

141 .142 .093

141 -.242** .004

141 -.017 .846

141 .198* .019

141 -.447** .000

141 .371** .000

141 -.007 .937

141 -.143 .090

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

State

141 1

141 .080 .348

141 .508** .000

141 .500** .000

141 -.121 .152

141 -.447** .000

141 -.212* .012

141 .362** .000

141 .492** .000

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

FOWN

141 1

141 .507** .000

141 -.069 .415

141 .084 .322

141 .432** .000

141 .371** .000

141 -.212* .012

141 .207* .014

141 -.111 .192

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

Leverage

141 1

141 .154 .068

141 .158 .061

141 .325** .000

141 .139 .100

141 -.143 .090

141 .492** .000

141 -.111 .192

141 .209* .013

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141

141

141

141

141

141

141

141

141

N

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

138

Correlations

Gender

Edu

OutDir

Block

State

FOWN

Boadsize 1

Boadsize

Leverage .154 .068

Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.159 .059

BoardAge .325** .000

.371** .000

.399** .000

.142 .093

.080 .348

.507** .000

Gender

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .159 .059

141 .070 .412

141 .237** .005

141 -.035 .683

141 -.242** .004

141 .508** .000

141 -.069 .415

141 .158 .061

Edu

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .371** .000

141 .237** .005

141 .246** .003

141 .198* .019

141 -.017 .846

141 .500** .000

141 .084 .322

141 .325** .000

N

BoardAge Pearson Correlation

141 1

Sig. (2-tailed)

141 .325** .000

141 .070 .412

141 .246** .003

141 .168* .046

141 -.007 .937

141 .362** .000

141 .207* .014

141 .209* .013

OutDir

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .399** .000

141 -.035 .683

141 .168* .046

141 .198* .019

141 .198* .019

141 -.121 .152

141 .432** .000

141 .139 .100

Block

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .142 .093

141 -.242** .004

141 -.007 .937

141 -.017 .846

141 .198* .019

141 -.447** .000

141 .371** .000

141 -.143 .090

State

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .080 .348

141 .508** .000

141 .362** .000

141 .500** .000

141 -.121 .152

141 -.447** .000

141 -.212* .012

141 .492** .000

FOWN

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .507** .000

141 -.069 .415

141 .207* .014

141 .084 .322

141 .432** .000

141 .371** .000

141 -.212* .012

141 -.111 .192

Leverage

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

141 .154 .068

141 .158 .061

141 .209* .013

141 .325** .000

141 .139 .100

141 -.143 .090

141 .492** .000

141 -.111 .192

N

141

141

141

141

141

141

141

141

141

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).

139

Phụ lục 5: Kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc hiệu quả hoạt động

của ngân hàng với các biến thuộc quản trị công ty

Correlations

Year

Block

State

FOWN

Year

FirmSize FirmAge .224**

.460**

Boadsize Gender .018

.240**

1

Edu .320**

BoardAge OutDir .509**

.165

.104

.012

.351**

ROA -.527**

Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.004

.831

.000

.051

.000

.218

.887

.000

.008

.000

.000

FirmSize

141 1

141 .733**

141 .460**

141 .381**

141 .400**

141 .610**

141 .255**

141 -.211*

141 .769**

141 .404**

141 .118

141 -.131

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.000

.000

.000

.000

.000

.002

.012

.000

.000

.164

.122

FirmAge

141 .733**

141 1

141 .224**

141 .154

141 .229**

141 .362**

141 .033

141 -.583**

141 .815**

141 .409**

141 -.124

141 -.119

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.000

.008

.069

.006

.000

.695

.000

.000

.000

.143

.161

Boadsize

141 .381**

141 .154

141 .240**

141 1

141 .159

141 .371**

141 .399**

141 .142

141 .080

141 .325**

141 .507**

141 .197*

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.000

.069

.004

.059

.000

.000

.093

.348

.000

.000

.019

Gender

141 .400**

141 .229**

141 .018

141 .159

141 1

141 .237**

141 -.035

141 -.242**

141 .508**

141 .070

141 -.069

141 .031

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.000

.006

.831

.059

.005

.683

.004

.000

.412

.415

.718

Edu

141 .610**

141 .362**

141 .320**

141 .371**

141 .237**

141 1

141 .198*

141 -.017

141 .500**

141 .246**

141 .084

141 -.158

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.000

.000

.000

.000

.005

.019

.846

.000

.003

.322

.061

BoardAge

141 .404**

141 .409**

141 .165

141 .325**

141 .070

141 .246**

141 .168*

141 -.007

141 .362**

141 1

141 .207*

141 .024

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.051

.779

.000

.000

.000

.412

.003

.046

.937

.000

.014

140

OutDir

141 .509**

141 .255**

141 .033

141 .399**

141 -.035

141 .198*

141 .168*

141 1

141 .198*

141 -.121

141 .432**

141 -.185*

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.000

.002

.695

.683

.000

.019

.046

.019

.152

.000

.028

Block

141 .104

141 -.211*

141 -.583**

141 -.242**

141 .142

141 -.017

141 -.007

141 .198*

141 1

141 -.447**

141 .371**

141 .042

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.218

.012

.000

.004

.093

.846

.937

.019

.000

.000

.624

State

141 .012

141 .769**

141 .815**

141 .508**

141 .080

141 .500**

141 .362**

141 -.121

141 -.447**

141 1

141 -.212*

141 -.055

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.887

.000

.000

.000

.348

.000

.000

.152

.000

.012

.519

FOWN

141 .351**

141 .118

141 -.124

141 -.069

141 .507**

141 .084

141 .207*

141 .432**

141 .371**

141 -.212*

141 1

141 .072

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.000

.164

.143

.415

.000

.322

.014

.000

.000

.012

.394

ROA

141 -.527**

141 -.131

141 -.119

141 .031

141 .197*

141 -.158

141 .024

141 -.185*

141 .042

141 -.055

141 .072

141 1

N Pearson Correlation Sig. (2-tailed)

.000

.122

.161

.718

.019

.061

.779

.028

.624

.519

.394

N

141

141

141

141

141

141

141

141

141

141

141

141

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). *. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).

141

Phụ lục 6: Kết quả chạy kiểm định hệ số tương quan giữa các biến đại diện cho thông tin bất đối xứng và biến kiểm soát với hiệu quả hoạt động của ngân hàng

Correlations

Year

FirmSize

FirmAge

RnD

Leverage

ROA

Year

Pearson Correlation

1

.460**

.224**

-.035

.107

-.527**

Sig. (2-tailed)

.000

.008

.683

.207

.000

141

141

141

141

141

141

N

FirmSize

Pearson Correlation

.733**

-.217**

.460**

1

.454**

-.131

Sig. (2-tailed)

.000

.000

.010

.000

.122

141

141

141

141

141

141

N

FirmAge

Pearson Correlation

1

-.010

.224**

.733**

.433**

-.119

.008

.000

.904

.000

.161

Sig. (2-tailed)

141

141

141

141

141

141

N

-.035

-.217**

-.010

1

.039

-.335**

RnD

Pearson Correlation

.683

.010

.904

.642

.000

Sig. (2-tailed)

141

141

141

141

141

141

N

.107

.454**

.433**

.039

1

-.254**

Leverage

Pearson Correlation

.207

.000

.000

.642

.002

Sig. (2-tailed)

141

141

141

141

141

141

N

-.254**

1

ROA

Pearson Correlation

-.527**

-.131

-.119

-.335**

.000

.122

.161

.000

.002

Sig. (2-tailed)

141

141

141

141

141

141

N

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

142

Phụ lục 7: Kết quả chạy hồi quy sự tác động của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là R&D

Model Summary

Model

Change Statistics

Adjusted R

Std. Error of

R Square

Sig. F

R

R Square

Square

the Estimate

Change

F Change

df1

df2

Change

.498a

.248

.202

4.50126E7

.248

5.443

8

132

.000

dim ension0 1

a. Predictors: (Constant), FOWN, Gender, BoardAge, Edu, Block, OutDir, Boadsize, State

ANOVAb

Model

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

1

Regression

8.823E16

8

1.103E16

.000a

Residual

2.675E17

132

2.026E15

5.443

Total

3.557E17

140

a. Predictors: (Constant), FOWN, Gender, BoardAge, Edu, Block, OutDir, Boadsize, State

b. Dependent Variable: RnD

Coefficientsa

Model

Standardized

Unstandardized Coefficients

Coefficients

Collinearity Statistics

B

Std. Error

t

Sig.

Beta

Tolerance

VIF

1

(Constant)

1.745E8

4.979E7

3.504

.001

Boadsize

-4425035.586

2608905.353

-1.696

-.169

.092

.570

1.753

Gender

-4552046.926

4274564.197

-1.065

-.097

.289

.693

1.443

Edu

1884032.306

2289030.248

.823

.081

.412

.584

1.712

BoardAge

564894.030

1051472.466

.537

.048

.592

.711

1.406

OutDir

-1.534E7

5751911.500

-2.667

-.235

.009

.736

1.358

Block

-2929573.026

1.046E7

-.280

-.026

.780

.679

1.473

State

-1.514E7

1.591E7

-.952

-.119

.343

.367

2.727

FOWN

-1.074E8

4.356E7

-2.466

-.243

.015

.586

1.706

a. Dependent Variable: RnD

143

Phụ lục 8: Kết quả chạy hồi quy xác định sự tác động của các yếu tố quản trị công ty tới biến đại diện của thông tin bất đối xứng là Leverage

Model Summary

Model

Change Statistics

Adjusted R

Std. Error of the

R Square

F

Sig. F

R

R Square

Square

Estimate

Change

Change

df1

df2

Change

1

132

.000

.567a

.322

.281 4.052255076014

.322

7.829

8

a. Predictors: (Constant), FOWN, Gender, BoardAge, Edu, Block, OutDir, Boadsize, State

ANOVAb

Model

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

1

Regression

1028.434

8

128.554

7.829

.000a

Residual

2167.542

132

16.421

Total

3195.975

140

a. Predictors: (Constant), FOWN, Gender, BoardAge, Edu, Block, OutDir, Boadsize, State

b. Dependent Variable: Leverage

Model

Unstandardized Coefficients Std. Error

B

Sig.

1

(Constant)

9.489

4.482

t 2.117

.036

Coefficientsa Standardized Coefficients Beta

Collinearity Statistics VIF Tolerance

Boadsize

.342

.235

.138

1.457

.570

1.753

.148

Gender

-.662

.385

-.148

-1.721

.693

1.443

.088

Edu

-.028

.206

-.013

-.136

.584

1.712

.892

BoardAge

-.047

.095

-.042

-.495

.711

1.406

.621

OutDir

1.381

.518

.223

2.666

.736

1.358

.009

Block

1.055

.942

.098

1.121

.679

1.473

.264

State

7.370

1.432

.609

5.146

.367

2.727

.000

FOWN

-7.720

3.921

-.184

-1.969

.586

1.706

.051

a. Dependent Variable: Leverage

144

Phụ lục 9: Kết quả chạy hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ tác động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng trước khi loại biến FirmAge

Model Summary

Model

Adjusted R Square

R Square Change

df2

Sig. F Change

1 2

R .558a .677b

R Square .311 .459

.296 .413

Std. Error of the Estimate .00427280749207 .00390268457759

.311 .148

Change Statistics F Change 20.636 4.402

df1 3 8

137 129

.000 .000

a. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize b. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize, Boadsize, Gender, BoardAge, OutDir, Edu, FOWN, Block, State

Sum of Squares

Mean Square

ANOVAc df

Sig.

Model 1

.000a

Regression Residual

.001 .003

3 137

.000 .000

Total

.004

140

2

.000b

Regression Residual

.002 .002

11 129

.000 .000

Total

.004

140

F 20.636 9.948

a. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize b. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize, Boadsize, Gender, BoardAge, OutDir, Edu, FOWN, Block, State c. Dependent Variable: ROA

Coefficientsa

Model

Unstandardized Coefficients

B

Std. Error

Sig.

1

(Constant)

2.475

.323

t 7.669

.000

Collinearity Statistics Tolerance

Standardized Coefficients Beta

-.621 .302 -.202

.761 .371 .447

2

Year FirmSize FirmAge (Constant)

-.001 1.077E-14 -8.841E-5 3.262

.000 .000 .000 .422

-7.634 2.597 -1.900 7.724

.000 .010 .060 .000

Year FirmSize FirmAge Boadsize Gender Edu BoardAge OutDir Block State FOWN

-.002 1.770E-14 7.751E-5 .000 .000 .000 4.079E-5 -.001 .000 -.008 .006

.000 .000 .000 .000 .000 .000 .000 .001 .001 .003 .004

-7.709 2.948 .986 1.914 1.095 -.672 .441 -1.219 .408 -2.632 1.639

-.821 .497 .177 .183 .101 -.063 .034 -.102 .040 -.582 .142

.000 .004 .326 .058 .276 .502 .660 .225 .684 .010 .104

VIF 1.315 2.697 2.238 2.705 6.781 7.661 2.171 2.027 2.067 1.450 1.660 2.287 11.671 1.788

.370 .147 .131 .461 .493 .484 .690 .602 .437 .086 .559

a. Dependent Variable: ROA

145

Phụ lục 10: Kết quả chạy hồi quy theo mô hình thứ ba xác định mức độ tác động của các yếu tố thuộc quản trị công ty và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng sau khi loại biến FirmAge

Model Summary

Model

Change Statistics

Adjusted R Square

R Square Change

df2

Sig. F Change

1 2

.293 .162

138 130

Std. Error of the Estimate .00431299978710 .00390225299930

F Change 28.609 4.823

df1 2 8

R .541a .674b

R Square .293 .455

.000 .000

.283 .413 a. Predictors: (Constant), FirmSize, Year b. Predictors: (Constant), FirmSize, Year, Block, BoardAge, Gender, Boadsize, OutDir, Edu, FOWN, State

ANOVAc

Model

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

1

Regression

.001

2

.001

.000a

28.609

Residual

.003

138

.000

Total

.004

140

2

Regression

.002

10

.000

.000b

10.848

Residual

.002

130

.000

Total

.004

140

a. Predictors: (Constant), FirmSize, Year

b. Predictors: (Constant), FirmSize, Year, Block, BoardAge, Gender, Boadsize, OutDir, Edu, FOWN, State

c. Dependent Variable: ROA

Coefficientsa

Model

Unstandardized Coefficients

B

Std. Error

Sig.

1

(Constant)

2.359

t 7.374

.000

.320

Standardized Coefficients Beta

Collinearity Statistics Tolerance

-.592 .141

.788 .788

2

Year FirmSize (Constant)

-.001 5.037E-15 3.114

-7.340 1.755 7.891

.000 .081 .000

.000 .000 .395

Year FirmSize Boadsize Gender Edu BoardAge OutDir Block State FOWN

-.002 1.830E-14 .001 .000 .000 5.483E-5 -.001 .000 -.006 .006

-7.880 3.064 2.234 .673 -1.039 .600 -1.163 -.210 -2.593 1.592

-.784 .514 .206 .052 -.092 .046 -.097 -.017 -.444 .138

.000 .003 .027 .502 .301 .550 .247 .834 .011 .114

VIF 1.269 1.269 2.359 6.711 2.034 1.450 1.859 1.415 1.654 1.500 7.005 1.783

.424 .149 .492 .690 .538 .707 .605 .666 .143 .561

.000 .000 .000 .000 .000 .000 .001 .001 .002 .004

a. Dependent Variable: ROA

146

Phụ lục 11: Kết quả chạy hồi quy theo mô hình thứ tư xác định mức độ tác động của các biến đại diện thông tin bất đối xứng và các biến kiểm soát tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Model Summary

Model

Change Statistics

R Square

Adjusted R Square

Std. Error of the Estimate

R Square Change

F Change

df1

df2

Sig. F Change

1

137

.000

.311

.296

.00427280749207

.311

20.636

3

2

135

.000

R .558a .679b

.461

.441

.00380904451468

.149

18.696

2

a. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize b. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize, RnD, Leverage

ANOVAc

Model

Sum of Squares

df

Mean Square

F

Sig.

1

Regression

.001

3

20.636

.000a

.000

Residual

.003

137

.000

Total

.004

140

2

Regression

.002

5

.000b

23.058

.000

Residual

.002

135

.000

Total

.004

140

a. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize b. Predictors: (Constant), FirmAge, Year, FirmSize, RnD, Leverage

c. Dependent Variable: ROA

Coefficientsa

Model

Standardized

Unstandardized Coefficients

Coefficients

Collinearity Statistics

B

Std. Error

Beta

t

Sig.

Tolerance

VIF

1

(Constant)

7.669

.000

2.475

.323

Year

-.001

.000

-.621

-7.634

.000

1.315

.761

FirmSize

1.077E-14

.000

.302

2.597

.010

2.697

.371

FirmAge

-8.841E-5

.000

-.202

-1.900

.060

.447

2

(Constant)

2.433

.292

8.336

.000

2.238

Year

-.001

.000

-.609

-8.274

.000

1.354

.739

FirmSize

8.559E-15

.000

.240

2.104

.037

3.267

.306

FirmAge

-2.033E-5

.000

-.046

-.472

.637

2.407

.415

RnD

-2.968E-11

.000

-.294

-4.346

.000

1.144

.874

Leverage

.000

.000

-.267

-3.650

.000

.749

1.335

a. Dependent Variable: ROA