BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

VŨ HỒNG LOAN

VĂN HỌC VIỆT NAM TIẾP NHẬN

VĂN HỌC XÔ VIẾT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2005

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cổng trình nào

khác.

VŨ HỒNG LOAN

Tác giả luận án

3

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... 3

MỤC LỤC ................................................................................................................. 4

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 6

01. Sự cần thiết của đề tài và mục đích nghiên cứu ..................................................... 6

0.2 - Phạm vi đề tài và đối tượng nghiên cứu ............................................................... 7

0.3 - Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 12

0.4 - Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 15

0.5 - Những đóng góp mới của luận án ...................................................................... 16

0.6 - Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ........................................................ 16

Chương 1: VĂN HỌC XÔ VIẾT VỚI CÔNG CHÚNG VIỆT NAM ...............18

1.1- Con đường cách mạng XHCN ở Việt Nam và sự tiếp nhận nền văn học Xô viết

....................................................................................................................................... 18

1.2. Quá trình giao lưu văn hóa Việt Nam - Liên Xô ................................................. 23

1.3 - Độc giả Việt Nam đối với văn học Xô viết .......................................................... 33

1.3.1 – Một lớp đọc giả mới...................................................................................... 33

1.3.2- Một lớp độc giả của thời kỳ chiến tranh kéo dài ............................................ 42

1.4 - Văn học Xô viết trong bức tranh dịch thuật ở Việt Nam ................................... 43

1.4.1 - Bức tranh dịch thuật: những con số biết nói.................................................. 43

1.4.2 - Bức tranh dịch thuật: những bước đi của đời sống chính trị - xã hội, sự vận

động của nhu cầu thị hiếu ......................................................................................... 50

Chương 2: VĂN HỌC VIỆT NAM TIẾP NHẬN VĂN HỌC XÔ VIẾT TRÊN

BÌNH DIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ LÝ LUẬN VĂN HỌC .......................57

4

2.1 - Văn học Việt Nam tiếp nhận mô hình tổ chức của văn học Xô viết .................. 57

2.2 - Văn học Việt Nam tiếp nhận lí luận văn học Xô viết ......................................... 63

2.2.1 - Lý luận văn học Xô viết trong đời sống chính tri xã hội Việt Nam .............. 63

2.2.2 - Lý luận văn học Xô viết và văn học Xô viết trong nhà trường Việt Nam..... 92

Chương 3: DẤU ẤN CỦA VĂN HỌC XÔ VIẾT TRONG SÁNG TÁC VĂN

HỌC VIỆT NAM .................................................................................................101

3.1 - Dấu ấn của văn học Xô viết trong sáng tác văn học Việt Nam giai đoạn 1945 -

1975 ............................................................................................................................. 101

3.2 - Hệ quả của sự ảnh hưởng ................................................................................. 115

3.2.1. Một nền văn học giàu tinh thần sử thi .......................................................... 115

5

MỞ ĐẦU

01. Sự cần thiết của đề tài và mục đích nghiên cứu

Văn học Việt Nam trong quá trình phát triển đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai

đoạn - phụ thuộc vào điều kiện và đòi hỏi cụ thể của thời đại - có diện mạo đặc trưng và

giá trị riêng của mình. Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám được coi là một "giai đoạn

mở đầu cho một thời kỳ văn học mới chưa có tiền lệ" [120: 10] - một nền văn học được

sinh ra, tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất

đất nước và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, một nền văn học có "sự biến đổi toàn

diện từ mối quan hệ văn học với đời sống nhà văn và công chúng, đến quan niệm nghệ

thuật, các thể tài, thể loại và thỉ pháp''[120:11], đồng thời cũng là một nền văn học "bước

đầu xây dựng theo mô hình mới, chưa có kinh nghiệm bao nhiêu, do đó khó tránh khỏi

những lệch lạc ấu trĩ" [134: 48]. Trong quá trình hình thành và phát triển một nền văn

học với những đặc điểm nêu trên có sự ảnh hưởng không nhỏ của quan hệ quốc tế. Quan

hệ quốc tế đó trong vài thập niên vừa qua chủ yếu thu gọn trong phạm vi ảnh hưởng của

phe XHCN, trước hết là Liên Xô.

Tổng kết và khép lại thế kỉ XX, văn học Việt Nam thế kỉ XXI trong tiến trình hoá

nhập với văn học hiện đại thế giới không thể không mang theo trong hành trang của mình

những thành qua và kinh nghiệm của quá khứ vẫn còn mới nguyên. Có thể nói, đây là

thời điểm đã đủ độ lùi của thời gian, đã bắt đầu hội đủ những nhân tố để chúng ta, với

một tinh thần cầu thị và ý thức dân tộc, nhìn lại và đánh giá toàn diện, khách quan một

thực trạng lịch sử rất đáng trân trọng của chúng ta, đồng thời rút ra những bài học thiết

thực nhất cho quá trình hội nhập với cộng đồng quốc tế, trước hết là tiếp tục mối quan hệ

tốt đẹp, hứa hẹn trải dài trên nhiều thời kỳ lịch sử tiếp theo với một nền văn hoá thân

thiết, quý giá đối với tâm hồn người Việt - nền văn hóa Nga. Giờ đây Liên Xô không còn

nữa. Trên vũ đài lịch sử, tái hiện nước Nga như một cường quốc văn hoá, một dân tộc có

nền văn hiến vĩ đại đã trải qua nhiều bước phát triển thăng trầm, đột biến hết sức phức

6

tạp. Chúng ta đứng trước sự tất yếu phải tiếp tục và đổi mới những mối quan hệ văn hoá

với Nga và các nước trước kia là thành viên của Liên bang Xô viết . "Muốn thành công

trong việc hệ trọng này, thiết tưởng cần nhìn lại chặng đường đã qua, đánh giá khách

quan và công bằng kết qua của gần nửa thế kỉ giao lưu văn hoá Nga trong khuôn khổ

Liên bang Xô viết, rút ra những bài học thiết thực, từ đó đề ra những đường hướng chủ

trương xác đáng, phù hợp với những nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá nhà nước trong giai

đoạn mới."[28: 592]

Trước những yêu cầu chính đáng trên, với một tinh thần thực sự cầu thị, với niềm

mong muốn nền văn học nước nhà ngày càng đi vào quỹ đạo phát triển, với tình yêu sâu

bền đối với nền văn hoá, văn học Nga, chúng tôi lựa chọn và tiến hành khảo sát đề tài

Văn học Việt Nam tiếp nhận văn học Xô viết. Thực hiện đề tài, chúng tôi xác định

hướng đến những mục đích sau đây:

0.1.1 -Tìm hiểu quá trình tiếp nhận văn học Xô viết ở Việt Nam trong vòng hai

phần ba thế kỉ qua trên bình diện lý luận và sáng tác, từ đó rút ra một số đặc điểm của văn

học Việt Nam trong giai đoạn ảnh hưởng của nền văn học này, nhận chân giá trị của một

thời kỳ văn học nước nhà.

0.1.2 - Tìm hiểu cách tiếp nhận của công chúng Việt Nam đối với văn học Xô viết ,

lý giải cách tiếp nhận đó nhằm rút ra những bài học trong mối bang giao văn hóa với Nga

trong thời gian tiếp theo.

0.2 - Phạm vi đề tài và đối tượng nghiên cứu

0.2.1 - Đối tượng nghiên cứu trực tiếp trong giới hạn phạm vi của luận án là mối

quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Xô viết giai đoan 1945 – 1975, giai đoạn

được đánh giá "là thời kỳ phát triển độc tôn của lý luận văn học và mỹ học hiện thực xã

hội chủ nghĩa" [198: 13]. Văn học thành thị miền Nam cùng thời gian này cũng nằm

trong tầm khảo sát của luận án, nhưng ở mức độ ít hơn, vì dòng văn học này tiếp nhận

văn học Xô viết ở khía cạnh khác, chịu ảnh hưởng về lý luận văn học, trong sáng tác văn

học không quan sát thấy rõ rệt.

7

Văn học Xô viết hiện diện và có những tác động đến văn học Việt Nam trong cả các

giai đoạn trước 1945 và sau 1975, nhưng không rõ rệt như thời kỳ chúng tôi xác định.

Nếu như những tác động của nó trong giai đoạn trước 1945 còn lẻ tẻ, chưa thành hiện

tượng có tính hệ thống, quy mô, thì những tác động và ảnh hưởng của nền văn học đó

trong thời kỳ sau 1975, nhất là từ thời kỳ Đổi mới văn học, tuy vẫn tiếp tục bền bỉ, nhưng

không còn đậm đặc và mang tính "thuần nhất" nữa. Cuộc giao lưu của văn học Việt Nam

đã mở rộng hơn phạm vi đóng khung trước đây. Tuy nhiên giai đoạn trước 1945 và giai

đoạn sau 1975 sẽ luôn được chúng tôi dùng để đối chiếu trong khi đặt đối tượng nghiên

cứu trong tiến trình của văn học Việt Nam trong thế kỉ XX - kỉ nguyên nó gia nhập vào

dòng chảy của văn học hiện đại thế giới.

0.2.2 - Đối tượng và phạm vi khảo sát thứ hai của chúng tôi là văn học Xô viết từ

1917 đến 1991 trong sự tiếp nhận của người Việt Nam, với diện mạo chủ yếu mà nó trình

diện trước công chúng nước ta giai đoạn 1945- 1975.

Nền văn học Nga vĩ đại thế kỉ XX là một chỉnh thể nghệ thuật đa dạng và phức tạp,

được cấu thành từ nhiều bộ phận, đại thể là từ ba bộ phận lớn sau:

- Văn học Nga đầu thế kỉ XX.

- Văn học Nga Xô viết (dòng văn học chủ lưu của nền văn học Nga trong thời kỳ

tồn tại xã hội Xô viết, được tính từ 1917 đến 1991).

- Văn học Nga Hải ngoại (dòng văn học do nhiều thế hệ Nga lưu vong viết).

Chúng tôi sẽ chỉ khảo sát bộ phận văn học Xô viết trong sự tiếp nhận của người

Việt Nam. Ngay trong bộ phận này, xét về một số phương diện và tính chất, cũng không

phải là một nền văn học "thuần nhất" theo nguyên tắc sáng tác hiện thực XHCN. Nhưng

những tính chất không "thuần nhất", "phi hiện thực XHCN" này chỉ được chúng tôi dùng

để đối chiếu, chứ không được xem như đối tượng chủ yếu của quá trình khảo sát.

0.2.3 - Hai đối tượng trên được khảo sát song song với việc phân tích môi trường

văn hoá, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của giai đoạn hình thành một nền văn học mới “chưa

có tiền lệ”.

8

Khi đặt một thời kỳ văn học nào đó vào tiến trình phát triển của nền văn học dân

tộc, cần tính đến rất nhiều giá trị, đặc điểm truyền thống văn hoá của dân tộc để nhìn thấy

sự tương tác của các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Có như thế mới nhận chân

được ý nghĩa và vị trí của những gì nền văn học đạt được trong những bước khởi đầu và

phát triển. Bakhtin yêu cầu: "Cần phải nghiên cứu văn học và tác phẩm văn học như

những hệ thống chỉnh thể ở hai cấp liên đới. Hệ thống chỉnh thể của tác phẩm gia nhập

hệ thống chỉnh thể của văn học, hệ thống chỉnh thể của văn học gia nhập hệ thống chỉnh

thể của văn hóa, và chỉ cố hệ văn hoá mới quan hệ tương tác trực tiếp với những lĩnh vực

khác của đời sống xã hội. Khổng thể tách rời văn học khỏi hệ văn hoá và "vượt mặt" văn

hoá, liên hệ trực tiếp với các nhân tố chính trị - kinh tế- xã hội. Những nhân tố ấy tác

động đến văn hoá trong chỉnh thể của nó và chỉ thông qua nó mà ảnh hưởng đến văn

học'' [dẫn theo 28: 182].

Luận án của chúng tôi là công trình mang tính ứng dụng, cho nên, tuy sử dụng

những thành tựu của Mỹ học tiếp nhận, chúng tôi xin phép không triển khai phần lý

thuyết, chỉ xin đưa ra cách hiểu của mình về lý thuyết ấy trong việc ứng dụng đối với đề

tài luận án này.

Tác phẩm văn học là kết qua sáng tạo của nhà văn, và kết qua đó tồn tại, kéo dài đời

sống của mình trong cảm thụ, thưởng thức của độc giả. Cho nên, đối tượng của Mỹ học

tiếp nhận không chỉ là tác phẩm, tác giả, mà còn là hoạt động giao tiếp của người sáng

tác và người đọc cổ quan hệ liên minh với nhau. Đời sống của từng tác phẩm văn học

(mở rộng ra là hiện tượng văn học, nền văn học với những quan điểm triết mỹ của mình)

có những số phận khác nhau, phụ thuộc rất nhiều vào môi trường tiếp nhận. Và không

hiếm khi khi môi trường tiếp nhận thay đổi, số phận của hiện tượng văn học cũng thay

đổi. Nghĩa là giá trị của văn học, bên cạnh những mặt "bất biến", có cả (thậm chí nhiều

hơn) những mặt "khả biến".

Cái mặt "khả biến "này liên quan đến tầm tiếp nhận từ bên trong văn bản và liên

quan cũng không kém đến yêu cầu xã hội, tức là liên quan đến người đọc của một xã hội

nhất định, một thời kỳ nhất định. Cho nên xác định đời sống một hiện tượng văn học

9

không phải là một việc làm đơn giản, và mối quan hệ giữa hiện tượng văn học với người

đọc là một qua trình gập ghềnh, biến động. Dựa vào cách hiểu trên, chúng tôi thấy cần

thiết vừa nhấn mạnh chức năng xã hội của văn học, lại vừa phải chú ý đến việc xác định

đặc điểm nghệ thuật của nó. Việc làm này sẽ luôn đặt "cái xã hội" trong liên quan với

"cái nghệ thuật", luôn chú ý đến vai trò tích cực của công chúng nghệ thuật, trình độ tiếp

nhận của người đọc.

Văn học Việt Nam thời kỳ chịu ảnh hưởng văn học Xô viết là một giai đoạn đặc biệt

trong tiến trình văn học thế kỉ XX của nước ta. Trong mối quan hệ này văn học Xô viết

đóng vai trò "hiện tượng văn học " = "cái được tiếp nhận", còn văn học Việt Nam là

"chủ thể tiếp nhận". Công trình khảo sát của chúng tôi nhằm đối chiếu hai nền văn học

song song theo lịch đại để thấy những ánh xạ, những tương phản trên đối tượng nghiên

cứu, chỉ ra các khả năng trong tiếp nhận hiện tượng văn học.

Xuất phát từ quan điểm như trên, khi tiến hành khảo sát đối tượng, chúng tôi sẽ nhìn

đối tượng từ chức năng xã hội - lịch sử của nó: sự đáp ứng của văn học Xô viết đối với

những yêu cầu nội tại của văn học Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, điều đó

mang lại ý nghĩa thời sự của hiện tượng văn học. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ luôn lưu ý

những giá trị có khả năng vượt qua những giới hạn của thời gian, mang tính nhân loại

phổ quát, tính vĩnh cửu cũng của chính hiện tượng văn học ấy, nhằm đánh giá, tổng kết

chặng đường đã qua, rút ra những bài học cho việc tiếp nhận văn hoá thế giới trong thời

gian tới của văn học Việt Nam

Khi tiếp cận giá trị của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 chúng tôi thấy nhất

thiết phải đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử - xã hội -chính trị cụ thể cũng như ương tiến

trình văn học nước nhà thế kỉ XX đang vươn mình nỗ lực hoá nhập với văn học hiện đại

thế giới. Cái được, cái chưa được của nó cần phải khách quan nhìn nhận trong những

đóng góp mới và riêng mà nó đem đến cho tiến trình văn học dân tộc, trong đó những tất

định của hoàn cảnh luôn đáng được lưu tâm.

Xác định phạm vi nghiên cứu như vậy, chúng tôi chủ yếu sẽ tham khảo và sử dụng

các loại tài liệu sau đây:

10

- Những công trình nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam, văn học Xô viết , cũng

như những văn bản tác phẩm của hai nền văn học có liên quan đến đề tài. Trong nhóm tài

liệu này chúng tôi chú ý nhiều nhất đến một số công trình của các nhà nghiên cứu uy tín

như Đặc điểm cơ bản của nền văn học mới Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Quá trình

hiện đại hoá của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX của Nguyễn Đăng Mạnh, Mấy

ghi nhận về sự đổi mới tư duy nghệ thuật và hình tượng con người trong văn học ta

thập kỉ qua, Lý luận và phê bình văn học của Trần Đình Sử, Thách thức của sáng tạo,

thách thức của văn hoá của Lê Ngọc Trà, Văn học và hiện thực của Phong Lê, Văn học

Việt Nam trong thời đại mới của Nguyễn Văn Long, Văn học Xô viết thời gian gần đây

của Hoàng Ngọc Hiến... Vai trò của văn học Xô viết trong việc đổi mới xã hội Xô viết

của E.p. Chelyshev...

- Những trước tác kinh điển và công trình nghiên cứu macxít về văn hóa văn học,

như K.Marx, F.Engels, Lenin về văn học và nghệ thuật, Đề cương về văn hoá Việt

Nam của Trường Chinh, KMarx - F.Engels, V.LLenin và một số vấn đề lí luận văn

nghệ của Hà Minh Đức...

- Những tài liệu đề cập đến vấn đề giao lưu văn hoá, văn học Việt Nam - Nga như

Đôi nét cơ bản về giao lưu văn hoá Việt Nam - Thế giới từ sau Cách mạng tháng Tám

của Phạm Vĩnh Cư, Bước đầu tìm hiểu quá trình phổ biến văn học Xô viết ở Việt Nam,

cỗ xe tam mây Không phải của riêng ai của Thúy Toàn...

- Những bài viết về lý thuyết tiếp nhận văn học, văn học so sánh của các tác giả

trong và ngoài nước.

- Những sáng tác thường hay được nhắc đến của văn học Xô viết và văn học Việt

Nam, như Người mẹ (M. Gorki), Thép đã tôi thế đấy (N. Ostrovski), Đội cận vệ thanh

niên (A. Fadeev), Đất vỡ hoáng, Sông Đông êm đềm, Họ chiến đấu vì tổ quốc (M.

Solokhov), Con đường đau khổ (A. Tolstoi)..., Bão biển (Chu Văn), Cái sân gạch (Đào

Vũ), Vùng trời (Hữu Mai), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu)...

11

Tóm lại, luận án được xây dựng trên cơ sở những kiến thức văn học sử Việt Nam

và Nga, lý luận văn học, triết học Mácxít

0.3 - Lịch sử vấn đề

Với đối tượng khảo sát khá đa dạng đã được xác định trên đây cùng với khối tư liệu

tương đối bề bộn cần phải xử lý, song lịch sử vấn đề được chúng tôi xem xét lại không

quá dàn trải, mà chỉ tập trung vào vấn đề cốt lõi: quá trình đánh giá tiếp nhận văn học

Xô viết ở Việt Nam qua từng thời kỳ diễn ra như thế nào, đã thu được kết quả đến đâu,

trên cơ sở đổ xác định hướng đi tiếp của công trình.

Về vấn đề này có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Do bề rộng của đề tài

nên chúng tôi xin phép không dừng lại ở những bài viết nghiên cứu cách tiếp cận của

người Việt Nam đối với từng tác gia, từng tác phẩm văn học Xô viết. Loại này có một số

lượng rất lớn, tập trung nói nhiều nhất về M. Gorki, M. Maiakovski, c. Paustovski, s.

Esenin, c. Simonov, A. Fadeev, N. Ostrovski, M. Solokhov... Các bài viết thường bày tỏ

những ấn tượng tốt đẹp, sự tin cậy, gắn bó tâm hồn của bạn đọc Việt Nam đối với các

nghệ sĩ Xô viết . Nguyễn Đình Chiến trong bài Sergei Esenin bộc bạch: "Nếu phải chọn

một nhà thơ tiêu biểu cho những phẩm chất thi sĩ, từ dung nhan dáng điệu đến tâm hồn

tính cách, tôi dứt khoat sẽ chọn Sergei Esenin [...]. Cùng với Puskin, Esenỉn là nhà thơ

Nga được nhân dân ta yêu quý nhất [...] Tôi có thể nói, Esenin là ngôi sao Kim của thi ca

Nga, luôn luôn tỏa ra một thứ ánh sáng trong trẻo, dịu dàng và mãnh liệt Một thứ ánh

sáng vĩnh cửu." [22: 42, 64]. Bình luận về bài thơ điện ảnh Nỗi khổ không của riêng ai

của nhà thơ c. Simonov viết về chiến tranh ở Việt Nam, Hà Xuân Trường viết: "Nỗi khổ

không phải của riêng ai không phải chỉ là một sự phẫn nộ đối với một sự độc ác nhất,

một sự tàn bạo nhất không có gì so sánh được, mà còn là tâm tình, là suy nghĩ của một

qủa tim, một tâm tình rung cảm với những gì cao quý nhất của loài người" [220: 603].

Nếu liệt kê những bài viết như vậy sẽ phải lập một bản danh sách dài vô kể.

Chúng tôi dừng lại lược thuật một số bài viết, công trình nghiên cứu cách tiếp nhận

của độc giả Việt Nam đối với cả nền văn học Xô viết mà trong đó bao gồm tất cả những

tác gia quen thuộc đối với chúng ta như đã nêu trên. Trước hết chúng tôi muốn nói đến

12

một loạt bài viết của Thúy Toàn về mối giao lưu giữa hai nền văn học Việt Nam - Nga

Xô viết, như Vài nét về văn học Xô viết ở Việt Nam (1977), Bước đầu tìm hiểu quá

trình phổ biến vấn học Xô viết ở Việt Nam (1977), Nhà xuất bản Văn học giới thiệu

vấn học Nga Xô viết ở Việt Nam (1989), Bước đầu tìm hiểu thơ ca Nga ở Việt Nam

(2005). Trong chùm bài này Thúy Toàn đã đưa ra cho chúng ta một cái nhìn vừa khái

quát vừa cụ thể về quá trình du nhập văn học Nga Xô viết vào Việt Nam qua từng thời

kỳ, chủ yếu dưới góc độ dịch thuật và xuất bản. Qua từng thời kỳ ấy, chúng ta thấy văn

học Nga Xô viết ngày càng trở nên thân thuộc gần gũi vì sách Nga đã chiếm một tỉ lệ lớn

nhất trên thị trường sách dịch: "Nhìn lại quá trình sự hiện diện của văn học Nga ở Việt

Nam, ta thây chỉ trong vòng nửa thế kỉ, từ chỗ công chúng Việt Nam chưa hề biết gì về

thơ ca Nga, bắt đầu được tiếp cận qua vài bản dịch các bài thơ lẻ tẻ, đến nay họ có thể

tìm hiểu và thưởng thức thơ ca Nga bằng tiếng Việt của hàng trăm nhà thơ Nga" [208:

178]. Với tư cách một độc giả yêu quý văn học Nga Xô viết, Thúy Toàn băn khoăn: "Hơn

nửa thế kỉ có mặt ở Việt Nam, thơ ca Nga đã để lại dấu ấn gì trong đời sống tinh thần xã

hội, trong thơ ca Việt Nam? Nó ảnh hưởng đến đâu?" [208: 179]. Niềm băn khoăn ấy

không phải của riêng Thúy Toàn. Trong các bài viết Ảnh hưởng to lớn của văn học Xô

viết ở Việt Nam (1987), Nhìn lại văn học Nga thế kỉ XX (1995), Văn học Xô viết trong

nhà trường PTTH (1997)..., Nguyễn Hải Hà khẳng định lại những giá trị trường tồn của

văn học Xô viết, đòi hỏi có cách tiếp cận mới đối với nó, đồng thời đặt ra cho mình

nhiệm vụ tìm hiểu quá trình thâm nhập và ảnh hưởng của văn học Xô viết trong đời sống

tinh thần xã hội, trong văn học Việt Nam. Việc ấy một người không thể làm nổi, rất cần

trông mong vào đội ngũ kế cận: "Liên Xô đã sụp đổ nhưng còn lại mãi với nhân loại nền

văn học Nga vĩ đại đòi hỏi nhiều công sức và trông đợi ở đội ngũ các nhà Nga học trẻ

tuổi, tiếc thay hiện còn rất thưa thớt ở Việt Nam" [58: 8].

Thật vậy, những công trình chuyên sâu về tiếp nhận, ảnh hưởng của văn học Xô viết

đối với văn học Việt Nam chỉ thấy lác đác: Đạo đức nhân vật trong văn học Xô viết và

văn học Việt Nam hiện đại (1987) của Lưu Liên, Văn học Nga Xô viết tại thành thị

miền Nam giai đoạn 1954 -1975 (1998) của Phạm Thị Phương, Sự tiếp nhận kịch Xô

13

viết ở Việt Nam (2001) của Tất Thắng, Suy nghĩ từ việc tiếp nhận văn học Nga thời Xô

viết ở Việt Nam (2001) của Nguyễn Văn Kha... Những công trình này tuy có đưa ra cái

nhìn tổng thể về một giai đoạn hay một vài ảnh hưởng về thể, nhưng cái nhìn đó vẫn chưa

bao quát được một bề rộng. Trong khi khảo sát quá trình đô thị miền Nam tiếp nhận văn

học Nga Xô viết, Phạm Thị Phương lưu ý đến cơ chế chính trị - xã hội nhiều khi tác động

và quy định thái độ của công chúng. Phan Hồng Giang trong bài Văn hóa - văn nghệ

Liên Xô trong quá trình cải tổ hiện nay (Tạp chí Thông tin Văn hoá văn nghệ số

1/1988) đưa ra một cái nhìn phác thảo về việc nhận định lại các quan niệm văn hoá nghệ

thuật của các nhà lãnh đạo Liên Xô, trong đó đề cao tinh thần tự phê phán, tinh thần nhìn

thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật: chưa chú ý thích đáng những đặc thù của lĩnh vực văn

hóa nghệ thuật, ít chấp nhận tranh luận, xem nhẹ lời dạy chí lí của Lênin về việc tự do

sáng tạo chân chính của người nghệ sĩ, có khuynh hướng dùng biện pháp cấm đoán... Đặc

biệt, bài viết nêu lên những bài học về cơ chế chính sách về văn hoá, về quản lý văn hoá

đã không khuyến khích chất lượng, mang tính bình quân số lượng. Cách nhìn nhận cởi

mở trên đây của nước bạn khuyến khích chúng ta một cách tiếp cận mới. Phạm Vĩnh Cư

trong các bài viết Mấy suy nghĩ về giao lưu văn hoá Việt Nam - Nga (1993), Giao lưu

văn hoá Việt Nam - Nga - Đông Âu dưới góc độ giá trị (1994), Đôi nét cơ bản về giao

lưu văn học Việt Nam - thế giới từ sau Cách mạng tháng Tám (1995) cũng đặt ra

những vấn đề ảnh hưởng văn học, nhưng nhìn sự ảnh hưởng ấy rộng hơn, ở cả phương

diện lý luận, cơ chế nhà nước và bình diện văn hoá. Đó là cách đặt vấn đề khoa học nhằm

lý giải khách quan, toàn diện và hiệu qua về những hiện tượng "văn hoá phi vật chất".

Chỉ ra những thành tựu rực rỡ mà văn học Việt Nam đạt được trong mối giao lưu văn hoá

Nga Xô viết, Phạm Vĩnh Cư không ngần ngại chỉ ra những mặt hạn chế của quá trình tiếp

nhận. Đó là sự chưa thật sự thấu hiểu của chúng ta về văn hoá, văn học Nga Xô viết và

một cách tiếp nhận, ảnh hưởng "thiếu tinh thần độc lập tự chủ". Vì lợi ích lâu dài của mối

bang giao hai nước, ông khẩn thiết đòi hỏi: "Chúng ta phải khám phá lại nền văn hoá ấy,

tiếp thu lại kho tàng tinh hoá của nó, hiểu nó đến tận gốc và thiết lập quan hệ đối thoại,

đối tác với nó" [28: 604].

14

Đồng quan điểm trên, Hoàng Ngọc Hiến trong Về vấn đề nghiên cứu ảnh hưởng

của văn học nghệ thuật Xô viết tới văn học nghệ thuật của ta (1996) cũng đề nghị

nghiên cứu ảnh hưởng của văn học Xô viết cần phải lưu ý ba vấn đề: 1).Về thiết chế quản

lý văn học, 2). Về lý luận và tư tưởng, 3). Về phương diện các tác phẩm. Sau khi phân

tích sự cần thiết của phường hướng trên, Hoàng Ngọc Hiến kết luận: "Tóm lại, nghiên

cứu ảnh hưởng của văn học nghệ thuật Xô viết, không thể chỉ giới hạn ở ảnh hưởng của

những tác phẩm. Cần nghiên cứu cả lĩnh vực thiết chế và lĩnh vực lý luận, tư tưởng thì

mới thấy rằng trong đời sống văn hoá xã hội ta thời kỳ vừa qua, văn hoá Xô viết có ảnh

hưởng toàn diện và to lớn trong đó có những tác động tích cực rất lớn, sâu sắc đồng thời

cũng có những mặt tiêu cực" [73: 92].

Tiếp thu các ý kiến có tính chất chỉ dẫn của các nhà phế bình và nghiên cứu văn

học, dưới sự chỉ đạo của hai giáo sư hướng dẫn Mai Quốc Liên và Nguyễn Văn Hạnh,

chúng tôi xây dựng luận án của mình thành những bộ phận cấu thành của quá trình và

tổng thể tiếp nhận, đi từ ảnh hưởng cơ cấu thiết chế, lý luận tư tưởng đến ảnh hưởng

trong đời sống xã hội và đến sáng tác văn học. Với phương hướng ấy và với quy mô có

giới hạn của công trình, chúng tôi sẽ không có điều kiện đi sâu vào phân tích, đối chiếu

so sánh một tác giả, một tác phẩm chuyên biệt nào, mà chỉ có thể xem xét vấn đề ở tầm

khái quát.

0.4 - Phương pháp nghiên cứu

Từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và mục đích của luận án, chúng tôi thực hiện

đề tài này theo các phương pháp nghiên cứu sau đây: lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống

kê, so sánh.

Với phương pháp lịch sử, đề tài của chúng tôi sẽ tìm thấy sự hỗ trợ trong việc xác

định lại những điều kiện lịch sử - xã hội - chính trị - kinh tế làm phát sinh, phát triển sự

vật, hiện tượng. Cụ thể là văn học Xô viết được đón nhận trong hoàn cảnh như thế nào,

hoàn cảnh ấy tác động gì đến việc tiếp thu nội dung, tư tưởng, hình thức tác phẩm văn

học .

15

Tiếp cận vấn đề bằng phương pháp xã hội giúp chúng tôi xác lập lại tầm đón nhận,

thị hiếu thẩm mỹ của các thế hệ độc giả khác nhau, xác lập khả năng tồn tại, phát sinh

những hướng tiếp cận khác lạ so với ban đầu.

Việc thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh giúp chúng tôi nhìn nhận sự vật trong

một hệ thống, không sa đà vào những chi tiết vụn vặt, nhưng vẫn làm nổi bật được những

hiện tượng chủ yếu với những đặc điểm cơ bản của nó.

0.5 - Những đóng góp mới của luận án

0.5.1 - Có thể coi đây là công trình nghiên cứu tổng hợp đầu tiên ở nước ta về việc

tiếp nhận, ảnh hưởng toàn diện của văn học Xô viết đối với văn học Việt Nam thông qua

những ảnh hưởng mở rộng của cả hệ thống thượng tầng kiến trúc xã hội.

0.5.2 - Thực hành hướng nghiên cứu mới theo lý thuyết tiếp nhận để khảo sát từ

điểm đến diện một hiện tượng có tính chất quy mô, bao trùm cả một thời kỳ lịch sử, đưa

ra cái nhìn khái quát về phạm trù độc giả hết sức đa dạng, phức tạp, đầy khả thể biến

động của thời kỳ ấy.

0.6 - Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Luận án cố gắng đưa ra một cái nhìn tổng thể về những tiền đề xuất hiện ở nước ta

tạo điều kiện cho việc tiếp nhận văn học Xổ viết. Những lập luận của luận án chứng minh

rằng xu hướng phát triển văn học cách mạng từ sau 1945 là một sự lựa chọn tự nguyện,

có ý thức, xuất phát từ yêu cầu nội tại và nhiệm vụ chính trị của một giai đoạn mới trong

lịch sử. Điều này cần thiết cho việc lý giải về sự gắn bó tương tác nhiều mặt trong mối

quan hệ Việt Nam - Liên Xô, cũng như về tác động sâu sắc của văn học Xô viết trong

nhiều lĩnh vực văn hoá - xã hội Việt Nam. Trong mối quan hệ này Việt Nam mãi mãi sẽ

ghi nhận sự giúp đỡ ân tình to lớn chưa từng có của một quốc gia anh em đối với mình.

Mối bang giao kéo dài hơn nửa thế kỉ này có tác động lớn đến sự thay đổi diện mạo văn

hoá Việt Nam, từ đội ngũ trí thức, tính chất công chúng đến các bước vận động của đời

sống vật chất tinh thần xã hội.

16

Trên cơ sở những lập luận trên, luận án cho thấy văn học Việt Nam, với ý thức tự

nguyện, đã tiếp thu hầu hết mô hình, thiết chế văn học ở Liên Xô cũng như các

paradigme (bộ khung các khái niệm cơ bản) lý luận Xô viết.

Quan niệm rằng ảnh hưởng văn học là khâu quan trọng của quá trình tiếp nhận, luận

án đặt ra nhiệm vụ khảo sát sự tiếp nhận văn học Xô viết ở Việt Nam đã diễn ra cụ thể

như thế nào ở phương diện thực hành quan trọng bậc nhất của đời sống xã hội là sáng tác

văn học. Luận án chủ trương không đi sâu vào đối chiếu cụ thể một số tác giả, tác phẩm

chuyên biệt nào, mà cố gắng đưa ra cái nhìn tổng quát về sự ảnh hưởng dẫn đến những

đặc điểm, hệ quả gì cho văn học Việt Nam.

Đứng trước những thách thức mới của nhu cầu hội nhập văn hóa, vì một nền văn

học theo định hướng XHCN đậm đà bản sắc dân tộc, chúng tôi coi việc nghiên cứu đề tài

có ý nghĩa thực tiễn đáng kể. Một mặt luận án khẳng định tính đúng đắn trong việc tiếp

tục phát triển quan hệ với nền văn hóa, văn học Nga trên một tầm cao mới, mặt khác nhìn

nhận lại một số đặc điểm của nền văn học Việt Nam trong giai đoan ảnh hưởng văn học

Xô viết trên cơ sở đó nhận chân giá trị của nền văn học nước nhà.

Luận án gồm 207 trang. Ngoài phần mở đầu (16 trang), kết luận (5 trang), thư mục

tham khảo (21 trang), phần chính văn của luận án dược cấu tạo thành ba chương:

Chương 1: VĂN HỌC XÔVIET VỚI CÔNG CHÚNG VIỆT NAM (53 trang).

Chương 2: VĂN HỌC VIỆT NAM TIẾP NHẬN MÔ HÌNH Tổ CHỨC VÀ LÝ

LUẬN VĂN HỌC XÔVIÊT (57 trang).

Chương 3 : DÂU ẤN CỦA VĂN HỌC XÔ VIẾT TRONG SÁNG TÁC VĂN HỌC

VIỆT NAM (55 trang)

17

Chương 1: VĂN HỌC XÔ VIẾT VỚI CÔNG CHÚNG VIỆT NAM

1.1- Con đường cách mạng XHCN ở Việt Nam và sự tiếp nhận nền văn học Xô

viết

Sau hàng ngàn năm bị chế độ phong kiến đè nặng, nhiều thập niên nằm dưới ách đô

hộ của thực dân Pháp, bước sang thế kỉ XX, Việt Nam đã cố gắng đi tìm con đường giành

độc lập, hồi sinh dân tộc. Sau nhiều lần, nhiều phương hướng lựa chọn, cuối cùng Việt

Nam đã quyết định đi theo con đường giải phóng dân tộc của cách mạng vô sản. Luận

cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đến với nhà cách mạng Nguyễn Ái

Quốc như một thứ ánh sáng cho người đang đi trong đêm tối. Đến năm 1945 cuộc cách

mạng của Lênin đã đi được một chặng đường vẻ vang, đạt được nhiều thành tựu đáng noi

theo. Sự vận dụng sáng tạo những luận điểm Lênin vào cách mạng Việt Nam của lãnh tụ

Nguyễn Ái Quốc đã đưa đến thành công cho Cách mạng tháng Tám năm 1945 và công

cuộc kháng chiến kiến quốc trong thời gian kế tiếp. Nếu như lúc này nhiều dân tộc

phương Tây còn phân vân về con đường XHCN thì Việt Nam cũng như một số nước

châu Á lại thấy đó là con đường phù hợp và hiện thực nhất của mình: cuộc cách mạng vô

sản, biến người lao động thành những chủ nhân của đất nước - một sự đổi đời vĩ đại nhất

trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. Và giữa bầu trời Việt Nam còn tăm tối ấy, cách

mạng và văn học Nga Xô viết đã đến, doi một ánh sáng mới, - "ánh sáng từ phương Bắc

tới", - đầu đề một bài viết của học giả Đặng Thai Mai [131], - vào đời sống tinh thần xã

hội. Và ánh sáng đó là nguyện vọng, là ước mong của người dân mất nước, mong mỏi

một con đường giải thoát.

Bước sang thế kỉ XX, văn hóa phương Tây du nhập vào nước ta dưới nhiều hình

thức, trong đó con đường vào của văn hóa Nga - Xô viết đem đến một ấn tượng đặc biệt.

Đó không phải là sự khuất phục do vũ lực hay đồng tiền mà là sự chinh phục của tư duy

khoa học, của cả một kho tàng văn học nghệ thuật được chiếu sáng bởi tư tưởng nhân văn

- một sự chinh phục trí tuệ và trái tim. Đặng Thanh Lê lưu ý đến tính khác biệt trong

18

bước khởi nguyên cho mối quan hệ văn hóa giữa Việt Nam với Nga-Xô viết: "Có thể nói,

gương mặt Puskin, Tolstoi, Maiakovskiy Fadeev... đến với tâm hồn Việt Nam không bị

phản quang bởi mối quan hệ xâm lược - bị xâm lược, mối quan hệ thống trị - bị thống trị.

Ngược lại, trước khi nhận diện được chiều sâu triết lí và về vẻ đẹp ngôn từ triết học, văn

học Trung Quốc và Pháp, trước khi có thể tiếp cận một cách hệ thống, toàn diện văn hóa

và văn học Mỹ, Việt Nam phải đối đầu với cung tên của Trung Quốc cổ xưa, súng đạn

của Pháp thời hiện đại và B52 của Mỹ đương đại." [100: 4].

Những thành tựu của nhà nước Liến Xô đã khích lệ nhân dân Việt Nam tin tưởng

vào một xã hội tương lai tốt đẹp. Nước Nga Xô viết chỉ một thời gian ngắn sau Cách

mạng tháng Mười 1917 đã nhanh chóng vươn lên, trở thành một cường quốc lớn mạnh,

chiến thắng trong Đệ Nhị Thế Chiến, giải phóng nhiều dân tộc châu Âu, mở đường cho

các dân tộc thuộc địa ở các châu lục khác, trong đó có Việt Nam, vùng lên. Nước Nga Xô

viết với chế độ ưu việt đã trở thành ước mơ của người dân Việt thuộc địa (như từng được

thể hiện trong câu thơ nổi tiếng của Tố Hữu "Lão ngồi mơ nước Nga", hay như trong bài

hát Mơ Liên Xô vắt phổ biến trước kia). Được sự hỗ trợ và khích lệ bởi chiến thắng của

Hồng quân Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân lao động

Việt Nam đã "rũ bùn đứng dậy sáng lòa" (Nguyễn Đình Thi), tiến hành cuộc tổng khởi

nghĩa, đập tan ách đô hộ của Pháp - Nhật. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám làm

nhân dân Việt Nam càng tin tưởng con đường mà mình đã lựa chọn, tự tin vào sức mạnh

của mình để đi tiếp con đường trường chinh kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự

giúp đỡ của Liên Xổ trong hai cuộc kháng chiến và trong sự nghiệp xây dựng đất nước

của chúng ta đã ngày càng thắt chặt tình thân giữa hai dân tộc: "Nửa thế kỉ qua dân tộc

Việt Nam đã từ trong đêm tối của nổ dịch đột ngột bước ra vùng sáng lòa của hai cuộc

kháng chiến vừa khốc liệt vừa kéo dài. Trong thoáng chốc con người Việt Nam đã xé bỏ

được lớp kén dày của sự bạc nhược, an phận, ích kỉ, trở thành trang hảo hán dám quên

thân vì đại nghĩa" [90: 63]. Một câu hỏi đặt ra: Chủ thuyết nào, tổ chức chính trị nào đã

làm thay đổi được tinh thần một dân tộc ưiệt để và nhanh chóng thế? Đó là niềm tin ở

thực tiễn, ở thành quả to lớn của Liên Xô cùng phe XHCN mà người dân Việt Nam thấy

19

được. Học thuyết Mác-xit (cũng như các lý thuyết khác) đối với dân ta - những người

thuở lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đa số là thất học, nghèo đói - không phải là

thứ dễ hiểu. Chưa chắc đã hiểu, nhưng họ tin vào cái đang diễn ra. Nguyễn Khải cảm

nhận: "Học thuyết Mác-xit vốn xa lạ với người nông dân Việt Nam, nhưng tác động của

nó tới đông đảo quần chúng thật mãnh liệt và tức thì. Lần đầu tiên một học thuyết nổi

danh dám suy tôn những người thất học và bần cùng là nhân vật chính của lịch sử hiện

đại, là chủ nhân ông đích thực của đất nước họ trong hiện tại và trong tương lai. Rằng

họ có sức mạnh dời non lấp biển, có thể đánh bại mọi kẻ xâm lược và kiến tạo một xã hội

công bằng nhất trong lịch sử loài người" [90: 64]. Đối với nhiều người trí thức khác thì,

như Tố Hữu hồi tưởng: "Chúng tôi giác ngộ chủ nghĩa Mác do nhiều nhân tố, nhiều ảnh

hưởng cộng lại. Một phần là do thân phận bị bạc đãi, hạnh phúc bị tổn thương. Một phần

rất quan trọng do sự giáo dục của Đảng, cửa văn học cách mạng, văn học yêu nước tiến

bộ. Chủ nghĩa cộng sản đến, hợp với nguyện vọng cửa mình, vì chủ nghĩa cộng sản giải

phóng loài người có mình trong đó, gạt tất cả buồn đau [...]. Buổi đầu đến với chủ nghĩa

cộng sản, với Đảng, tôi thấy nó như một thiên thần với hào quang lãng mạn và rất nhiều

mộng tưởng" [83: 15]. Cũng như thế, Như Phong trong bài Nhớ lại buổi đầu gặp gỡ đã

khẳng định vai trò của văn học Xô viết đối với người thanh niên trí thức trước cách

mạng: "Những tác phẩm văn học này được chúng tôi chuyền tay đọc đến nhàu nát, đã

vào trong những câu chuyện hàng ngày của chúng tôi, và ở một số bạn mà tôi biết, đã

góp phần định đoạt cho cả một cuộc đời đấu tranh quên mình cho sự nghiệp cách mạng

của Đảng" [158: 405]. Sức hấp dẫn, sức thu phục nhân tâm của nền văn hoá, văn học Xô

viết được nhìn thây trong chế độ XHCN ưu việt, là chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng

của giai cấp công nhân như đỉnh cao của trí tuệ loài người, là tấm gương xây dựng đất

nước từ lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp lớn bậc nhất trên thế giới. Chế độ đó

hứa hẹn một thế giới tốt đẹp, huy hoàng chưa từng có trong lịch sử mà so với nó, tất cả

các giai đoạn trước là "Trái đất còn nức nở/ Nhân loại chửa thành người/Đêm ngàn năm

man rợ" (Tố Hữu).

20

Rõ ràng việc Việt Nam tiếp nhận con đường cách mạng và cơ chế xã hội Xô viết là

một quá trình có cân nhắc và tự nguyện, (và chúng ta không lẻ loi trong việc lựa chọn

này). Con đường và cơ chế xã hội cũng như cơ chế văn hóa ấy luôn là một tấm gương đi

trước cho chúng ta noi theo: "Chúng ta đang có nhiều vấn đề mà lịch sử Liên Xô đã trải

qua: những vấn đề của bước đi ban đầu, thời kì quá độ, thái độ đối với văn học quá khứ,

những vấn đề của chiến tranh và sau chiến tranh, những vấn đề của sự nghiệp xây dựng

xã hội chủ nghĩa trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ [...]. Chứng tôi có

thể đặt ngay những vấn đề mới nhất của văn học xã hội chủ nghĩa qua kinh nghiệm của

Liên Xô như vấn đề tính đa dạng, phong phú của văn học, vấn đề tính Đảng và bản chất

thẩm mỹ của nó, vấn đề tính nhân đạo trong văn học, thái độ đối với kho tàng văn hóa

quá khứ và của loài người, vấn đề sự phát triển mới của phương pháp hiện thực xã hội

chủ nghĩa, vấn đề về hình tượng tiêu cực và hình tượng tích cực, vấn đề phản ánh chiến

tranh và vấn đề lao động sản xuất. Rõ ràng những vấn đề trên không phải chỉ là những

vấn đề văn học của Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển mà nó đang là

những vấn đề nóng hổi của văn học Việt Nam. Việt Nam không cần phải chờ 30 hay 50

năm xây dựng chủ nghĩa xã hội mới đặt được và giải quyết mà vấn đề mà Liên Xô đang

đặt ra." [44].

Những tương đồng, những mối dây thân thiết ấy khiến người Việt Nam, rất tự

nhiên, tiếp nhận mô hình, hiện tượng văn hóa - chính trị - xã hội Liên Xô như một điều gì

đó gắn bó cốt tử, một thái độ vừa thân thương vừa ngưỡng mộ, "vừa là đồng chí vừa là

anh em". Những năm đầu cách mạng, nhân dân ta đã được nuôi dưỡng trong tinh thần

đoàn kết gắn bó với Liên Xô và Trung Quốc, coi họ là những dân tộc lớn tràn đầy ý chí

cách mạng và tình cảm quốc tế vô sản. Tình cảm ấy được thể hiện bằng hành động cụ

thể: "Khi Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, Trung Quốc, Chế Lan Viên

đã sáng tác một bài thơ lớn với những câu thơ dài dồn dập tựa là sóng biển, như reo lên,

tràn đầy sảng khoai để chào mừng sự kiện vĩ đại này." [76: 73]. Để chuẩn bị lễ khai

giảng trường Trung học Nguyễn Văn Tố (trường Trung học kháng chiến đầu tiên của

Nam bộ) Hoàng Xuân Nhị đã thức thâu đêm mấy hôm liền để phiên dịch vở kịch Vấn đề

21

Nga củaC. Simonov. Trong khung cảnh ấy ông đã ghi nhận những tình cảm tự hào về đất

nước anh em: "Tôi nghĩ đến nhiều và hào hứng đến Cách mạng tháng Mười, Lênin vĩ đại,

đến đất nước Liên Xô, một phần sáu địa cầu, mênh mông, hiên ngang, hùng vĩ cả một đất

trời từ phía Đại Tây Dương đến tận Thái Bình Dương, lại giáp cả Bắc Băng Dương kì lạ

nữa... Tôi nghĩ đến xã hội, những người dân Xô viết lộng gió bốn phương, đến Gorki,

Maiakovski, những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ và những nhà bác học Xô viết nổi tiếng

khắp thế giới... Đúng, Cách mạng tháng Mười tuyệt diệu, chiến thắng tuyệt diệu đập tan

chủ nghĩa phát xít, bản thân Liên Xô là ánh sáng lớn giữa thế gian, là công ơn lớn cho

toàn nhân loại" [151: 365].

Người Việt Nam hết lòng ngưỡng mộ nền văn học Xô viết, một nền văn học đầy

những thành tựu vẻ vang, coi đó là "nền văn học tiêu biểu nhất cho thế giới hiện nay"

[161], là nền văn học "hơn hẳn bất cứ nền văn học nào" [158] và: "Văn học Liên Xô [...]

là văn học cửa giai cấp công nhân và của loài người tiến bộ toàn thể giới" [...]. Khi xem

một cuốn phim Liên Xô trong đó có cảnh người Liên Xô chống đế quốc phát xít thì các

em nhỏ Việt Nam gọi ngay Liên Xô là "bên ta" [161].

Văn hóa Nga - Xô viết là cánh cửa mở ra nhiều chân trời tri thức mới cho người

Việt Nam, nói như Vương Trí Nhàn, là "phương tiện tốt" cho biết bao người "tìm đến với

những nền văn hóa khác", nối bạn đọc Việt Nam với thế giới. Vương Trí Nhàn thổ lộ

rằng trong những năm từ khoảng 1986 về trước, sách báo Liên Xô đối với một số người

làm khoa học xã hội ở Việt Nam đã thực sự là một nguồn năng lượng, nguồn ánh sáng,

một thư'tài liệu tham khảo không có không đựơc. "Ở đấy chúng tôi vừa có dịp học hỏi lí

luận cơ bản, vừa tiếp nhận những kiến thức cụ thể về văn hóa thế giới, và đối với phê

bình mà xét, ở đấy chứng toi có dịp quan sát cái cách người ta hành nghề, tức áp dụng lí

luận vào việc xem xét những tác phẩm đang làm nên khuôn mặt sinh động của văn học

đương thời." [...] Văn chương nghệ thuật, văn hóa Liên Xô [...] đã là cái cửa sổ duy nhất,

nối chúng tôi với thế giới. Nhờ đó, chúng tôi biết được rằng, trên đời này, còn có những

nền văn học khác, những người cầm bút khác." [148: 231].

22

Đi theo con đường của Liên Xô, Việt Nam từ sau năm 1945, suốt trong thời trường

chinh kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), chống Mỹ (1954 - 1975) và đến tận khi

Liên bang Xô viết tan vỡ (1991), đã tiếp thu một mô hình nhà nước XHCN của Liên Xổ

về mọi mặt, trong đó nổi bật là nền văn hóa. Ở lĩnh vực này, sự tiếp thu, có thể nói, dựa

trên tinh thần tự nguyện, tìm thấy trong đó những cơ sở thực tế cho việc phát ưiển một

nền văn hoá, văn học mới của dân tộc.

1.2. Quá trình giao lưu văn hóa Việt Nam - Liên Xô

Giao lưu Việt Nam - Nga giai đoạn 1945 - 1991 thực chất là giao lưu với nền văn

hoá của người Nga và các dân tộc khác trong Liên bang Xô viết từ sau Cách mạng tháng

Mười, hợp nhất vào một phạm trù bao trùm được gọi là "Văn hoá Xô viết ".

Khác với những cuộc giao lưu văn hóa trước đó, tiến trình giao lưu văn hóa Việt

Nam - Liên Xô được tiến hành trong một mối quan hệ bình đẳng song phương. Yếu tố

quyết định cho mối quan hệ này là vị thế độc lập của nhà nước Việt Nam sau thắng lợi

của Cách mạng Tháng Tám. "Chỉ trở thành một quốc gia độc lập, một thành viên bình

đẳng cửa cộng đồng xã hội chủ nghĩa và cộng đồng thế giới, chúng ta mới có thể làm chủ

được tiến trình giao lưu văn hóa - tinh thần với thế giới bên ngoài nhằm phục vụ cho

những mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước" [26: 81]. Nếu như trước kia, trong sự

tiếp xúc ban đầu, các sứ giả văn hóa phương Tây đến Việt Nam là nhà truyền giáo, nhà

buôn... thì sứ giả văn hóa Nga là những sứ giả văn hóa chuyên nghiệp đích thực. Đó là

đội ngũ các học giả, các nhà văn hóa, các nhà nhân văn và nghệ sĩ mang sứ mệnh giao

lưu văn hóa song phương bình đẳng.

Sự trao đổi văn hóa với Liên Xô diễn ra khá sớm, từ trước 1945, thể hiện rõ hơn

trong kháng chiến chống Pháp. Trong điều kiện địa lý tách biệt và tài liệu khan hiếm,

Nguyễn Thành Long đã phải biên soạn Kể lại tiểu thuyết Xô viết để phổ biến những tài

liệu nhiều người mong muốn đọc song không có mà đọc, cho ta thấy nhu cầu tìm tới văn

học nước bạn là rất tha thiết. Điều ấy càng được khẳng định bằng việc hàng loạt tác phẩm

văn học Nga - Xô viết được in ấn sau đó, giữa khung cảnh chiến tranh khốc liệt.

23

Kể từ khi Hiệp định hợp tác văn hóa Việt Nam - Liên Xô được kí kết (15.2.1957),

quan hệ văn hóa giữa hai nước thật sự trải rộng trên nhiều lĩnh vực: giáo dục, văn hóa,

nghệ thuật, báo chí, phát thanh, điện ảnh... Không thể phủ nhận những giúp đỡ to lớn chí

tình và thiết thực của Liên Xô đối với chúng ta, góp phần quyết định cho công cuộc

kháng chiến và sự phát ữiển một xã hội Việt Nam ngày một phồn vinh hơn. Việt Nam

thật sự đã tiếp thu được nhiều thành tựu khoa học và giáo dục của một nhà nước XHCN

tiên tiến nhất: Liên Xô đã giúp chúng ta xây dựng và trang bị các viện nghiên cứu, cung

cấp tài liệu khoa học, nhận đào tạo cán bộ khoa học. Từ năm 1955 đến 1964, có 3911

sinh viên đại học, nghiên cứu sinh, thực tập sinh Việt Nam học tập và nghiên cứu tại Liên

Xô. [số liệu 141: 120]. Hàng trăm chuyên gia Liên Xô, các giáo sư tiến sĩ, các nhà giáo

dục nổi tiếng cũng sang làm việc tại các trường đại học Việt Nam. Bước sang 1965, trong

cuộc chiến tranh leo thang của Mỹ phá hoại miền Bắc, nhiều cơ sở vật chất phục vụ khoa

học và giáo dục của ta bị tổn thất nặng nề, nhưng số lượng trí thức của ta vẫn tiếp tục

tăng nhờ Liên Xô ngày càng tăng cường giúp Việt Nam đào tạo một lực lượng lớn cán bộ

khoa học và công nhân kĩ thuật (so với năm 1955, số lượng cán bộ khoa học kỹ thuật của

Việt Nam năm 1974 tăng 94 lần) [81: 309]. "Từ 1970, sách báo tiếng Nga về Thư viện

Quốc gia phố Tràng Thi đã khá đầy đủ. Thư viện quốc gia ở Hà Nội còn được thư viện

Lênin ở Liên Xô tặng cho những bộ sách quý in ra từ những năm trước. Căn cứ vào báo

chí để tìm sách, cứ lo cuốn Moskva coi là quan trọng, ở Hà Nội đã có tới 4-5 cuốn. Một

số báo liên quan đến văn học như tờ Văn học nước ngoài có từ 1955, báo Văn học có từ

1964, Thế giới mới có từ 1960." [148: 228].

Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, trong suốt 15 năm (1975 -1991) quan hệ

trao đổi văn hóa giữa Việt Nam - Liên Xô vẫn được duy trì tích cực và có hiệu qua. Hai

bên tiếp tục kí kết các hiệp định, kế hoạch đào tạo. Nhiều hình thức mới hoạt động trao

đổi văn hóa diễn ra sôi nổi: Những ngày văn hóa Liên Xô, Tháng phim Liên Xô, Triển

lãm về đất nước, con người và văn hóa Liên Xô... (Trong khi đó ở Liên Xô cũng diễn ra

các hoạt động tương tự để giới thiệu về Việt Nam). Bên cạnh những hoạt động giao lưu

về nghệ thuật, sự hợp tác giữa các viện nghiên cứu, nhà hát, nhà xuất bản, trường học,

24

thư viện, viện bảo tàng... của hai nước cũng rất mật thiết. Riêng lĩnh vực xuất bản, Nhà

xuất bản Sự thật (Việt Nam) và các Nhà xuất bản Tiến bộ, cầu vồng (Liên Xô) luôn phối

hợp với nhau trong việc dịch và phát hành sách báo. Độc giả Việt Nam những năm 70, 80

không thể quên được những cuốn sách dày dặn, giấy trắng, in ấn, trình bày công phu, đẹp

đẽ được nước bạn chuyển sang Việt Nam với một số lượng lớn và với một giá rất rẻ.

Văn học Xô viết có mặt trong nhiều lĩnh vực sinh hoạt tinh thần xã hội Việt Nam

mấy mươi năm qua. Điều đó được thể hiện rõ, trước hết, ở ứong các lĩnh vực thông tin

đại chúng như phim ảnh, sân khấu, báo chí, phát thanh...

Kịch Xô viết có mặt trên sân khấu Việt Nam từ rất sớm, và trải qua các thời điểm

lịch sử, luôn theo sát kịp thời phục vụ kịp thời yêu cầu khán thính giả nước ta. Các

chuyên gia đạo diễn Vasiliev, Munakhov đã sang ta mở những lớp huấn luyện về sân

khấu, giảng dạy phương pháp dàn dựng kịch theo hệ thống lí luận Stanislavski về lịch sử

kịch Nga - Xô viết. vở kịch Xô viết lần đầu tiên được dàn dựng trên sân khấu (nghiệp dư)

Việt Nam vào năm 1948. Đó là vở Vấn đề Nga của C. Simonov (ra đời năm 1946, được

giải thưởng Stalin năm 1947). Kịch bản được Hoàng Xuân Nhị dịch từ bản tiếng Anh và

được một số cán bộ Viện Văn hóa kháng chiến cùng học viên trường trung học kháng

chiến Nguyễn Văn Tố dàn dựng, biểu diễn ở rừng U Minh tháng 11/1948. Ấn tượng về

vở kịch Xô viết đầu tiên ở Việt Nam thật cảm động: "Sân khấu dựng ở ven rừng: ván

tràm, khống có mái che. Ánh đèn măng-xông đủ sáng để biểu diễn. Người xem rất đông,

đến gần một nghìn: cán bộ của các cơ quan phân ban, quân đội (thời ấy còn gọi là Vệ

quốc đoàn), học sinh và bà con trong vùng.[...] Các khán giả ngồi trong bổng tối, trên

đầu là bầu trời u Minh, trăng sao, muỗi tấn công từ mọi phía... Buổi biểu diễn kéo dài

đến khuya, với một sức hấp dẫn đặc biệt, với một không khí cảm thông, đồng tình, đồng

điệu không lường trước được. Ai nấy đều lặng lẽ nghe lấy từng lời, từng câu, từng màn,

từng hồi; chuyện xẩy ra ở Hoa Kì tận bên kìa Thái Bình Dương, xem chừng chẳng quen

thuộc chút nào với bà con nông dân vùng u Minh hẻo lánh, phần lớn còn thất học, thế

nhưng không ai bảo ai mà trật tự được giữ tới mức lí tưởng!". Dịch giả, đồng thời vừa là

người tham gia dàn dựng vở kịch, vừa là khán giả, lí giải điều gì đã hấp dẫn người xem

25

đến thế như sau: "Tôi nghĩ: nguyên nhân sâu nhất, chính là tấm lòng của người dân Việt

Nam bị mất nước, mồ côi giữa thế giới, đau xót muôn phần, nghèo khổ, bị áp bức bóc lột,

hướng về Liên Xô, đất nước của Lênin, của Cách mạng tháng Mười, của CNXH đầu tiên,

gương sáng cho ta và cho nhân loại" [151: 368]. Trên sân khấu mang tính chuyên nghiệp

hơn, một vở kịch Xô viết nữa được chính thức dàn dựng tại Hội nghị chỉnh huân của văn

nghệ sĩ (1952), là vở Chuyến xe tự do của U. Lienninski. Tham gia vở diễn có các tên

tuổi nổi tiếng như Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Trúc Quỳnh, vở Hàng ngũ hòa bình trở thành

vở kịch Xô viết đầu tiên được dàn dựng quy mô và công diễn rộng rãi trên sân khấu Việt

Nam, trong Đại hội văn công toàn quốc (1954), khi thủ đô Hà Nội vừa sạch bóng quân

thù. Từ khi hòa bình lập lại, và nhất là từ những năm 60 trở đi kịch Xô viết thật sự được

mùa trên sân khấu Việt Nam, có những tác động lớn lao. Văn học dịch đã có công lớn

trong việc giới thiệu tới công chúng những tác phẩm kịch kinh điển của kịch nghệ Nga -

Xô viết . Nhưng cũng không hiếm trường hợp vở được diễn trước rồi mới được in thành

sách sau, ví dụ như Chuyến xe tự do của U. Lieninski, Chung việc gia đình của Macten

(dựng năm 1958), Câu chuyện Ieccut của Arbuzov (dựng năm 1969)...

Trong những năm chống Mỹ, công chúng Việt Nam được thưởng thức những vở

kịch có nội dung ca ngợi chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Liên Xô trong cách mạng và

chiến tranh, ca ngợi lãnh tụ Lênin: Xâm lược (Leonov), Đội cận vệ thanh niên

(Gherasimov dựng theo tác phẩm của Fadeev), Đồng hồ chuông điện Kremli

(Pogodin)...

Từ sau 1975, khán giả trong cả nước được theo dõi những kịch phẩm Xô viết về đề

tài lao động sản xuất, quản lý kinh tế như Biên bản một cuộc họp của Ghelman (dựng

năm 1976), Lên đường may mắn, Vào đời của Rozov (dựng năm 1976, 1978), Chúng tôi

kí tên dưới đây của Ghelman (dựng năm 1983)... vở Lời phấn truyền của các vì sao của

A. Manezov được trình diện dưới một hình thức đặc biệt: nó được chuyển thành tuồng -

một hình thức sân khấu kịch hát dân tộc. Vở Trái tim chó (dựng theo tác phẩm của

Bulgakov) của Nhà hát tuổi trẻ Việt Nam dàn dựng nhân kỉ niệm 70 năm Cách mạng

tháng Mười đã gây một tiếng vang lớn, gây nên những cuộc trao đổi, bình luận sôi nổi.

26

Kịch Liên Xô đã đóng một vai trò to lớn trong việc giáo dục thẩm mỹ và tư tưởng

của công chúng Việt Nam, là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống sân khấu và

sinh hoạt văn hóa của khán giả, đồng thời cũng thể hiện những bước đi của đời sống tinh

thần xã hội nước ta. Nhà nghiên cứu Tất Thắng ghi nhận: "Có những vở cắm một cái mốc

trong kịch sử Việt Nam như Liuba, Câu chuyện Iếccut, kịch bộ ba về Lênin (Đồng hồ

chuông điện Kremli, Khúc thứ ba bi tráng, Người cầm súng). Có vở trở thành một sự

kiện làm xốn xao dư luận sân khấu và người xem như Hãy lãng quên tên Erostrat, có vở

là một đầu mối của những cuộc tranh luận học thuật rất thú vị về nghệ thuật kịch, nghệ

thuật đạo diễn, nghệ thuật diễn viên như Dinulia, có vở trở thành sự kiện mở đầu cho

một loại hình sân khấu, như Đối điện với mọi người trở thành vở kịch đánh dấu sự ra

đời của sân khấu nhỏ Thành phố Hồ Chí Minh. Có vở là tiết mục biểu diễn suốt mấy chục

năm mà người xem vẫn đông, như Cô bé đánh trống, có vở đánh dấu sự lớn mạnh của

một đoàn kịch như Masa của đoàn kịch nói Hải Phòng, có vở "gãi đúng chỗ ngứa " của

giới kịch Việt Nam khi họ truy tìm câu trả lời cho một băn khoăn, như vở Biên bản một

cuộc họp, một bằng chứng không thể chối cãi về khả năng vượt lên trên những chuyện

điều hành, chuyện khoa học kĩ thuật của kịch về đề tài sản xuất để đi sâu vào những vấn

đề đạo đức tinh thần của con người đồng thời; có những thời kì kịch Xô viết đã hầu như

chiếm một vị trí áp đảo trong bảng kịch mục của các nhà hát ở thủ đô Hà Nội. Điều đó là

hay hay dở thì còn phải xét, nhưng đó là một sự thật." [180: 489].

Điện ảnh Xô viết có một vị trí quan trọng cho sự hình thành và phát triển của nhiều

nền điện ảnh xã hội chủ nghĩa và dân tộc độc lập, trong đó có Việt Nam. Điện ảnh miền

Bắc Việt Nam ngay từ khi mới thành lập (1953) đã nhận được sự giúp đỡ chí tình của

người anh cả Liên Xô về nhiều mặt tinh thần cũng như vật chất. Carmen, Esurin Mukhin

là những nhà quay phim Xô viết đầu tiên có mặt ở Việt Nam trong những ngày quân dân

ta đang tiêu diệt cứ điểm Điện Biên Phủ. Các đồng chí đã góp phần quan trọng cho việc

hoàn thành bộ phim tài liệu màu dài Việt Nam trên đường thắng lợi. Sau khi hòa bình

lập lại, Liên Xô nhiều lần cử các chuyên gia sang nước ta dìu dắt hướng dẫn đào tạo các

khóa đạo diễn, diễn viên, chủ nhiệm đầu tiên ở Việt Nam... Không ngừng tiếp thu những

27

tinh hoá của nền điện ảnh Xô viết , điện ảnh Việt Nam dần lớn mạnh. Nhiều bộ phim

truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình được đánh giá cao và nhận được những giải thưởng

tại các cuộc Liên hoan phim Quốc tế Moskva như Nước về Bắc Hưng Hải, Ông Gióng,

Cánh đồng hoang... Trong những chặng đường chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất

nước, khán giả Việt Nam đã coi các bộ phim Xô viết là nhu cầu tinh thần không thể thiếu

được của mình. Ngay từ trong những năm tháng chiến tranh gian khổ chống thực dân

Pháp, người Việt Nam đã được xem các bộ phim Xô viết đầy ấn tượng như Satco đi tìm

hạnh phúc, Trường ca Sibir, Công phá Bá Linh... Đối với chúng ta, nền điện ảnh Xô

viết là lời trình bày hùng hồn nhất những thay đổi to lớn trong đời sống nhân dân các

nước xã hội chủ nghĩa. Người Việt Nam không thể nào quên được những bộ phim Liên

Xô như Chiến hạm Potemkin, Chapaev, Sông Đông êm đềm, Đàn sếu bay qua, Người

thứ bôn mốt, Bài ca người lính, Bình minh ở đây yên tĩnh, Moskva không tin vào

những giọt nước mắt... Nghệ thuật cũng như nội dung nhân bản của những tác phẩm

điện ảnh đó đã thật sự chinh phục trái tim của khán giả thế hệ kháng chiến chống Mỹ.

Cùng chung một lí tưởng, nhân dân Việt Nam tìm thấy trong các bộ phim Xô viết nhiều

bài học bổ ích và mối đồng cảm sâu sắc. Sự xuất hiện của những bộ phim Xô viết như

Tiền thưởng (Chuyển thể từ vở kịch Biên bản một cuộc họp), Đất, Người cùng thời đại

với anh, Hoa Calina đỏ, Sám hối... vào những năm Việt Nam bước vào thời kỳ kinh tế

thị trường, chuyển mình hội nhập đã gây xôn xao, buộc không ít khán giả trăn trở suy

nghĩ trước những vấn đề còn tồn đọng trong tổ chức xã hội.

Rõ ràng, giao lưu văn hóa Liên Xô - Việt Nam là một quá trình liên tục và phát triển

trong mối quan hệ hữu nghị và hợp tác sâu rộng, thu được nhiều thành qủa tốt đẹp. Trong

mối quan hệ này, Việt Nam mãi mãi ghi nhận sự giúp đỡ ân tình to lớn chưa từng thấy

của một quốc gia bên ngoài đối với mình.

Văn hóa Nga, con người Nga trở nên thân thiết với trái tim người Việt Nam. Các

nhà văn nhà thơ Liên Xô như Evgheni Dolmatovski, Anatoli Soữonov, Boris Polevoi,

Lev Eydlin, Leonid Sobolev, Sergey Orlov, Borodin, Nonetchvili, Iuri Rykhey, Evgheni

Evtouchenko, Rimma Kazanova, R. Karmen... đã đến đất nước ta với những cảm tình

28

thắm thiết của những người bạn và những chiến hữu. Paven Antokolski thể hiện ân tình

ấy qua lời tâm sự với Nguyễn Xuân Sanh: "Sang thăm quê hương anh, tôi đã sống lại

đúngcuộc sống thực của tôi" [169: 207]. Nhà văn và nhà đạo diễn điện ảnh Liên Xô

Karmen có mặt ở chiến khu Việt Bắc suốt những năm 1953 - 1954 ghi chép lại bằng

những trang văn và những thước phim quý giá về cuộc sống và cuộc kháng chiến của

chúng ta. Các nhà Việt Nam học người Nga như N. Niculin, M. Tkasov, E. Dolmatovski...

nhiều chục năm qua đã nhiệt tâm theo dõi, giới thiệu các hoạt động văn học, các tác phẩm

văn học của ta trên văn đàn nước nước ngoài. Nhiều nhà văn, nhà thơ Xô viết cũng như

tác phẩm họ trở nên thân thuộc, như Gorki, Ostrovski, Polevoi, Simonov, Fadeev,

Paustovski, Solokhov... Tác phẩm Người mẹ, Thép đã tôi thế đấy, Đội cận vệ thanh

niên... trở thành sách gối đầu giường của biết bao thế hệ thanh niên Việt Nam. Thơ ca

Nga trở thành thân thương đối với công chúng nước ta hơn nửa thế kỉ qua. Con đường

của nó đến với chúng ta thật đa dạng và cũng thật "trữ tình", thật "thơ" - không chỉ thông

qua phiên dịch, mà còn bằng các phim ảnh, biểu diễn trên sân khấu, và nhất là bằng các

ca khúc. Những giai điệu và ca từ đẹp đẽ của bài Đôi bờ, Cachiusa, Chiều hải cảng, Đàn

sếu bay, Cánh đồng Nga, Triệu triệu bông hồng... đã theo người Việt Nam suốt dặm

đường của hai cuộc chiến tranh cho đến bây giờ, và có lẽ là mãi mãi.

Người có ảnh hưởng lớn lao nhất đối với nhiều thế hệ độc giả Việt Nam là nhà văn

vô sản lão thành M. Gorki. Tên tuổi và sáng tác của ông xuất hiện rất sớm, từ ừước Cách

mạng tháng Tám 1945, là cơ sở vững chắc trong cuộc tranh luận của phái nghệ thuật vị

nhân sinh với phái nghệ thuật vị nghệ thuật. Tác phẩm Người mẹ của ông được nhiều

chiến sĩ cách mạng nghe kể lại trong nhà tù đế quốc, được dịch ngay từ 1937, được đón

nhận nồng nhiệt. Trong thời kỳ đen tối, sách báo tiến bộ bị ngăn cấm, Nguyễn Đình Thi,

Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Đặng Thai Mai, Tố Hữu, Học Phi... say mê đọc, "đọc thâu

đêm" "mải mê, nhiều lúc bồn chồn như là những trang sách dội lửa vào người". Năm

1936, khi Gorki mất, trong bài điếu văn trên báo Hồn trẻ, Hải Triều đã ca ngợi nhà văn

với những lời lẽ trang trọng nhất: "Xưa nay trong lịch sử thế giới có một số người mà sự

nghiệp của họ, tinh thần của họ không những ảnh hưởng một quốc gia, một xã hội, mà

29

lực lượng của họ có thể vượt lên hết thảy biên cảnh mà chi phối, điều khiển cả một bầu

trời. Những hạng người như thê đời sống cửa họ là một tang chứng in dấu vào lòng tất

cả mọi người. Cái chết của Gorki ngày nay cũng đúng vào trường hợp ấy.[...] Sự nghiệp

của Gorki đối với Liên bang Xô viết, đối với thể giới vô sản vĩ đại quá, hùng tráng quá!

Cái thân thể sáng suốt của ông, các công trình bao la của ông chẳng khác nào như một

lá cờ cắm trên mặt trận cho sự kiến thiết một xã hội mới, sự đào tạo những nhân tài mới

vậy." [215]. Trong suốt quá trình tồn tại xã hội Xô viết , Gorki có một vị trí hết sức quan

trọng ở nước ta. Ông được trân trọng gọi là "Beethoven của văn học Việt Nam" (Phan

Hồng Giang). Hầu hết các tác phẩm, các bài phát biểu được công bố ở Liên Xổ của ông

đều được dịch ra tiếng Việt. Sáng tác cũng như quan điểm nghệ thuật - tư tưởng của ông

trở thành mẫu mực cho văn học Việt Nam. Các nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật Việt

Nam dành cho Gorki nhiều công trình khoa học dày dặn (Mác-xim Gơ-rơ-ki, sự nghiệp

sáng tác văn học - Hoàng Xuân Nhị, Nxb Sự thật, 1959; Mác-xim Go-rki - Nguyễn Kim

Đính, Nxb Văn hóa, 1980; Gorki với văn nghệ dân gian - Hồ Sĩ Vịnh, Nxb Văn hóa,

1986...)

Câu nói của nhân vật Paven Corsaghin nổi tiếng trong tác phẩm Thép đã tôi thế đấy

(N. Ostrovski): "Cái quý giá nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có một

lần, phải sống sao cho ra sống để đến khi nhắm mắt xuôi tay khỏi phải ân hận về dĩ văng

tỉ tiện và đớn hèn, để có thể tự hào mà nói rằng, tất cả đời ta, tất cả sức ta đã hiến dâng

cho sự nghiệp cao đẹp nhất: sự nghiệp giải phóng loài người" đã trở thành châm ngôn

sống của thanh niên thế hệ chống Mỹ. Câu nói đó được chép tay, học thuộc lòng, thành

đề thi trong nhiều kì thi tốt nghiệp, chuyển cấp. Bản thân tác giả Thép đã tôi thế đấy

cũng trở thành tấm gương sáng chói cho biết bao người Việt Nam vươn lên trong cuộc

sống ngặt nghèo. Từ năm 1957 đến năm 1965 Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam đã 4

lần phát động phong trào học tập tinh thần cách mạng của Paven Corsaghin, báo Tiền

phong 5 lần tổ chức thi tìm hiểu về nhân vật và nhà văn huyền thoại này. Cho mãi đến

ngày nay, mặc dù Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu không còn nữa, nhưng

thanh niên Việt Nam thế hệ mới vẫn không ngừng yêu mến con người lý tưởng của cha

30

anh mình. Năm 1997, nhân dịp kỉ niệm 80 năm Cách mạng tháng Mười, báo Tuổi trẻ mở

trang trao đổi về tác phẩm của N. Ostrovski, đã nhận được những phản hồi sôi nổi.

Nhà văn C. Simonov có một vị trí đặc biệt trong trái tim chúng ta. Bản thân ông

suốt đời mang một mối tình sâu nghĩa nặng với Việt Nam. Từ khi Cách mạng tháng Tám

thành công, ông luôn quan tâm đến mỗi chặng đường, sự kiện lịch sử nước ta, ủng hộ hết

lòng đối với hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta, viết những bài báo ca ngợi cuộc chiến

của người dân Việt Nam, lên án tội ác của đế quốc. Simonov - như một sứ giả văn hóa,

người đồng chí chung một chiến hào - đã có mặt và cùng nhân dân Việt Nam chia lửa ở

tuyến lửa Vĩnh Linh năm 1970. Những xúc động của chuyến đi được ghi lại trong tập thơ

Việt Nam, mùa đông năm 1970, bản trường ca Nỗi đau không của riêng ai - một tác

phẩm, như lời định giá của Phạm Vĩnh Cư, "xứng đáng được đặt ngang hàng với những

áng thơ văn quốc tế hay nhất nói về Việt Nam". Trong tác phẩm đó có những câu đầy xúc

động:

Tôi tự mình nằm xuống, thay cho ai đó

Lên chỗ ai kia, trong lòng tự nguyện

Nằm trên ruộng lúa dưới bom rơi

Tồi thấy mình sống lại tuổi đôi mươi

Như năm bốn mốt đã nằm ở Birisov

Trong cuộc chiến tranh xưa

Tưởng như đã cuối cùng.

(Hoàng Trung Thông dịch)

Người Việt Nam đáp lại tấm tình sâu nặng ấy của c. Simonov cũng thật là nồng

nhiệt. Thậm chí chúng ta đến với ông từ trước, rất sớm, trong những ngày đầu kháng

chiến chống Pháp. Bài thơ Nhớ chăng Alesa và nhất là Đợi anh về của C.Simonov qua

bản dịch tài hoá của Tố Hữu có sức sống trường tồn trong lòng nhiều thế hệ độc giả, từ

Bắc chí Nam, được các chiến sĩ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến yêu thích, chép

31

trong những cuốn sổ tay, thuộc nằm lòng. V. Maiakovski - nhà thơ hàng đầu của nền thi

ca Xô viết, của nền văn học vô sản thế giới - được độc giả Việt Nam nhìn như một thần

tượng, một tượng đài không chỉ trong nghệ thuật, mà còn trong tư tưởng, trong sự lựa

chọn lý tưởng sống hết mình, phục vụ cách mạng XHCN.

Có những nhà văn, nhà thơ một khi đã đến thì mãi mãi ỏ lại, lâu bền trong tâm hồn

độc giả. Đó là trường hợp K. Paustovski với bạn đọc Việt Nam. Lặng lẽ và đằm thắm,

thiết tha, trang văn của Paustovski cứ ngấm sâu dần trong tâm khảm chúng ta. Bắt đầu là

truyện ngắn Chuyến xe đêm, (in trong tập Truyện ngắn Liên Xô xuất bản năm 1957 - tức

là chỉ một năm sau khi truyện đó được giới thiệu ở Liên Xô), sau đó là tập Bông hồng

vàng, Bình minh mưa, nhà văn Nga Xô viết làm cho "không ít tấm lòng Việt Nam đã

hướng về ông như nơi trú ngụ bình yên của lòng người [...] Ông nghiêm nhiên trở thành

nhà văn Xô viết có uy tín văn chương to lớn, nếu như không phải là gần như tuyệt đối,

với đông đảo người đọc, người viết chúng ta" [48: 749]. (Có lẽ cần nói thêm rằng

Paustovski không phải là người có tên trong danh sách những nhà văn nhận giải thưởng

quốc gia về văn học ở Liên Xô). Ngoài Esenin, có lẽ ít có nhà văn Xô viết nào lại gợi

nhiều cảm xúc thơ cho người Việt Nam như tác giả Bông hồng vàng, Lẵng qủa thông,

Bình minh mưa, Tuyết... đến thế: Ở một phương trời xa xôi cách nước Nga vời vợi, ở

một thời gian và khung cảnh lùi xa thời Paustovski sống, độc giả Việt Nam vẫn bâng

khuâng cùng xao xuyến với những nỗi niềm của nhà văn:

Những con đường Pau dẫn chúng mình đi

Qua hết tuổi thơ đến bây giở anh mới gặp

[...] Bên lối vườn bâng khuâng

Trang sách Pau đã đọc

Trong hầm dài chiến tranh

Là nỗi nhớ da diết

Cuối con đường có em...

32

Những năm ấy không quên

Bom rền hai mái núi

Con đường trôi ở giữa

Bọn anh chốt mé rừng

Trang sách Pau đã đọc

Suốt một mùa nhớ nhung

Nxb Văn Nghệ, tp. HCM, 1986)

(Trần Nhật Thu - Gặp gỡ mùa gió chướng,

Trong quá trình xây dựng và gìn giữ văn hóa dân tộc, Việt Nam đã sớm có những

giao lưu văn hóa. Sau cuộc tiếp xúc với văn hóa Trung Hoá, và Pháp, hơn nửa thế kỉ qua

chúng ta có mối quan hệ mật thiết với nền văn hóa Nga. Nền văn học Nga vốn giàu

truyền thống nhân bản và đạo lý đã thật sự trở nến thân thuộc với người Việt Nam. Một

cái tên của một nền văn hoá có thể phải chịu quy luật của sự tồn vong, nhưng hủy diệt

hay lãng quên những yếu tố của nền văn hoá đó không phải là chuyện dễ. Chế độ xã hội

Xô viết giờ đây không còn nữa, và cùng với nó, nền văn học mang tên một thời kỳ đang

lùi dần vào dĩ văng, nhưng rất nhiều giá trị của nền văn học ấy đã trồ thành di sản tinh

thần của người Việt Nam, sẽ được chúng ta mãi mãi trân trọng và yêu quý

1.3 - Độc giả Việt Nam đối với văn học Xô viết

1.3.1 – Một lớp đọc giả mới

So với độc giả văn học trung đại và độc giả văn học 1932 - 1945, độc giả Việt Nam

giai đoan 1945 - 1975 có một sự thay đổi căn bản về số lượng và khuynh hướng tư tưởng

thẩm mỹ.

Trước thế kỉ XX, do sự kinh tế nghèo nàn, kĩ thuật in ấn lạc hậu, số lượng tác phẩm

được xuất bản rất hạn chế. Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân

Hương... đều được chép tay, và dĩ nhiên với một số lượng hết sức ít ỏi. Điều ấy có nghĩa

33

là số người được đọc những bản viết ấy cũng hết sức ít ỏi. Chính số lượng rất mỏng ấy

đem lại bộ mặt thuần nhất cho giới đọc sách: họ đều là những người có học vấn Hán,

Nho học - những học vấn khá chuyên biệt và cao, vì họ không những đọc được mà còn

phải viết được. Người sáng tác và người thưởng thức đều phải là những "tao nhân mặc

khách". David G. Maư cho biết trước thế kỉ XX ở Việt Nam số người biết chữ Nôm và

Hán Việt ở trình độ vài trăm từ đủ để đọc được gia phả và các loại văn bằng khế ước

thông thường là khoảng 25% những người trên 15 tuổi. Còn số người biết chữ Nôm, Hán

đến trình độ có thể sáng tác hay thưởng thức các tác phẩm văn học thì không thể vượt quá

5%. [136: 34]. Tóm lại, người đọc sách trước thế kỉ XX là một số lượng hết sức ít ỏi, ít

đến nỗi không thể hình thành được một "giới" như chúng ta hôm nay vẫn gọi "giới độc

giả", và mặt bằng tiếp nhận nghệ thuật của họ khá là thuần nhất. (Trong cuốn Từ điển An

Nam - Lusitan - Latin của Alexandre de Rhodes xuất bản tại Rome năm 1651, cuốn Đại

Nam Quốc âm Tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của xuất bản tại Sài Gòn năm 1895 đều

không tìm thấy từ "độc giả" hay "người đọc".)

Độc giả, với tư cách một tầng lớp xã hội, cũng như với tư cách một trong những

thành tố quan trọng làm nên sinh hoạt văn học chỉ thực sự xuất hiện ở nước ta vào đầu

thế kỉ XX, khi ngành báo chí và xuất bản phát triển. Với số lượng được nhân bản lớn và

nhanh, tác phẩm trở thành một thứ "hàng hóa" mà người đọc trở thành "khách tiêu thụ",

thưởng thức. Tuy nhiên, ngay ở đầu thế kỉ XX, khối khách hàng này vẫn giữ lại diện mạo

tương đối thuần nhất như trước kia: Họ đều là những người có trình độ học vấn cao -

những nhà Hán học, Nho học và Tây học. Và dĩ nhiên số lượng không phải là quá đông

đảo.

Tính chất tương đối thuần nhất và sự giới hạn số lượng ấy được tiếp tục quan sát

trong thế hệ độc giả Thơ Mới 1932 - 1945. Họ hầu hết là những thị dân và trí thức. Và họ

khá trẻ. Theo David G. Man, vào cuối thập niên 30 chỉ khoảng 10% dân số Việt Nam biết

chữ quốc ngữ. Đây cũng là một loại độc giả cũng khá là chuyên biệt, có học vấn khá cao.

số người này tiếp thu một vốn kiến thức Tây học, được giáo dục thẩm mỹ phương Tây,

được trau dồi vốn kiến thức văn học mới, có tinh thần đón nhận những cách tân mới mẻ.

34

Phải nói đây là một sự may mắn cho phong trào Thơ Mới cũng như nhóm Tự Lực văn

đoàn, vì đã gặp được chính loại độc giả lí tưởng của mình - những độc giả cùng chung

với các tác giả một trường lớp học, một thầy dạy. Trong bước đường thành công của

mình các thế hệ cầm bút sau này không được hưởng cái thuận lợi ấy.

Độc giả Việt Nam sau 1945 và nhất là sau 1954 - thời kỳ tiếp nhận văn học Nga Xô

viết mạnh mẽ nhất - có sự thay đổi về số lượng và tính chất. Đó là công chúng mang tính

đại trà, kết qua của chương trình giáo dục các cấp (cả ở miền Bắc và cả ở miền Nam) đều

được Việt hóa, các phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ... Hoài Thanh trong Báo

cáo tổng kết 8 năm văn nghệ kháng chiến đã cho thấy nhu cầu văn hóa và trình độ của

công chúng là một đại lượng không ngừng tăng lên: "Chưa nói bề sâu, riêng bề mặt phát

triển của phong trào cũng rất đáng chú ý [...] Ngày trước, trung bình một quyển truyện

chỉ phát hành được 2.000 bản cho toàn Đông Dương. Bây giờ đây, chỉ phát hành từ khu

Bốn trở ra trung bình cũng đã 2.000 bản. Có quyển từ khu Bôn trở ra đã phát hành đến

40.000 bản" [179].

Số lượng độc giả thời kỳ này là một đại lượng đông đảo và luôn phát triển. Đồng

thời với quá trình phát triển này, tính chất thuần nhất chấm dứt. Sự phân hóa diễn ra khá

rõ rệt ở mọi phương diện, cấp độ: 1. Phân hóa về tuổi tác: nhờ các phong trào xóa nạn

mù chữ, chính sách phổ cập giáo dục và nhờ hệ thống phát hành sách báo cũng như hệ

thống thư viện trải rộng từ thành thị đến nông thôn, độc giả không dừng lại ở một lứa tuổi

như thời 1932 - 1945 nữa, mà xê dịch từ 9, 10 tuổi đến 80, 90 tuổi. 2. Phân hóa về tầng

lớp xã hội: lúc này độc giả không còn giới hạn trong một vài tầng lớp ở thành thị nữa mà

mở rộng xuống tận nông thôn, lên miền núi. 3. Phân hóa về văn hóa: trước hết về trình

độ học vấn, độc giả lúc này là khái niệm bao hàm những người từ trình độ học vấn thấp

nhất mới thoát nạn mù chữ đến các giáo sư tiến sĩ; thứ nữa, là sự khác nhau về ảnh hưởng

văn hóa: ngoài việc tiếp tục chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoá, Pháp, nhiều độc giả còn

chịu ảnh hưởng văn hóa Nga, văn hóa Đông Âu và văn hóa các quốc gia nói tiếng Anh.

Sinh hoạt tinh thần của nước ta trong thời gian tiếp nhận văn hóa, văn học Xô viết khá

phức tạp. Giáo sư Lê Ngọc Trà nhận định: "Sinh hoạt tinh thần cửa dân tộc ta trong nửa

35

sau thế kỉ XX chịu ảnh hưởng cửa ba luồng văn hóa chính: văn hóa truyền thống (Nho,

Phật, Lão), văn hóa Phương Tây (Pháp, Mỹ, Nga) và văn hóa vô sản. Ở các đô thị miền

Nam trước 1975 ảnh hưởng chủ yếu là văn hóa truyền thống và văn hóa Phương Tây

(Pháp, Mỹ). Ở miền Bắc từ 1954, văn hóa vổ sản, văn hóa truyền thống và văn hóa Liên

Xô giữ vai trò chủ yếu. Song nhìn trong toàn bộ, nhất là từ ỉ975 văn hóa vô sản là bộ

phận chủ đạo quan trọng nhất vì nó là chính thống, gắn liền với chủ trương lãnh đạo của

Đảng và chính sách cửa Nhà nước" [212: 254].

Tất cả những điều trên cho chúng ta thấy, một mặt, đó là thành tựu lớn lao của cách

mạng, đã có công gầy dựng và phát triển một xã hội gồm lực lượng đông đảo người biết

đọc biết viết, thực sự đưa người lao động thành những chủ nhân có trình độ học vấn

nhằm xây dựng CNXH; mặt khác, cho thấy độc giả giờ đây đã trở thành một khái niệm

mở rộng vô cùng và hết sức phức tạp. Điều này có ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận văn

học, trong đó có văn học Xô viết.

Độc giả của văn học Xô viết ở Việt Nam, như ta thấy, là lớp độc giả không thuần

nhất về lứa tuổi, về tầng lớp xã hội, về trình độ văn hóa. Nói đến sự phân hóa về lứa tuổi,

ta hiểu đó không phải chỉ là kết qua của giáo dục phổ cập, mà còn là hệ qua của độ dài

thời gian hình thành lớp công của công chúng được hình thành, phát triển và tồn tại trong

vòng hơn nửa thế kỉ (có thể lấy con số tương đối là từ những năm 40 đến năm 1991). Nửa

thế kỉ không phải là một thời gian quá dài, nhưng điều đáng nói là trong thời gian ấy xã

hội Việt Nam đã diễn ra những biến động phức tạp, khiến cho bộ mặt văn học không phải

là một khối thống nhất như ở những thế kỉ trước, mà bị chia cắt thành từng giai đoạn,

từng vùng, từng bộ phận: văn học cách mạng giai đoạn trước 1945, văn học kháng chiến

và văn học vùng tạm chiếm giai đoạn 1945 - 1954, văn học miền Bắc XHCN, văn học đô

thị miền Nam và văn học giải phóng miền Nam giai đoạn 1954 -1975, văn học thời kỳ

đổi mới từ sau Nghị quyết 05 của Bộ chính trị về văn hóa văn nghệ (1986) (Đó là chưa

kể đến bộ phận văn học của người Việt Nam ở hải ngoại). Tương ứng với từng giai đoạn,

từng bộ phận ấy là những bộ mặt công chúng có những khác biệt. Cho đến bây giờ không

phải tất cả các giai đoạn, các bộ phận văn học ấy được khảo sát và tổng kết một cách thấu

36

đáo. Điều đó cho thấy dựng lại bức tranh công chúng thời kỳ này là một vấn đề lí thú

nhưng hết sức phức tạp, dễ gây nhiều tranh cãi, bất đồng.

Mức độ phân hóa cũng là điều đáng nói. Thật ra, sự phân hóa độc giả văn học Xô

viết ở Việt Nam đã không diễn ra tức thì, ít ra ở giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám

1945, nhưng giai đoạn này khá ngắn ngủi, độc giả văn học Nga Xô viết lúc này thực chất

cũng là độc giả của văn học 1932 - 1945 mà tính thuần nhất của nó ta đã biết. Sự phân

hoá bắt đầu diễn ra sau Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, nhưng

ngay trong sự phân hoá này, độc giả vẫn mang một tâm trạng khá chung: nồng nhiệt, tin

tưởng vào tính ưu việt của văn học và xã hội Xô viết. Điều ấy không chỉ là tâm trạng của

những người đi kháng chiến, mà có thể quan sát thấy trong vùng tạm chiếm. Có thể lí giải

điều ấy bằng những thành tựu có sức thuyết phục của công cuộc kiến thiết và bảo vệ đất

nước của nhân dân Xô viết , bằng việc thông tin đại chúng còn có phần hạn chế, những

tiêu cực trong xã hội Xô viết vẫn nằm "đằng sau bức màn thép" (như cách thường gọi của

báo chí phương Tây lúc đó). Sự phân hóa thật sự diễn ra dữ dội vào giai đoạn 1954 -

1975, không chỉ giữa hai miền Nam - Bắc với những chính thể khác nhau, mà còn trong

cùng một miền, giữa những cách tiếp cận khác nhau.

Sau Hiệp định Genève, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền Bắc -Nam với các

chính thể khác nhau. Tại miền Bắc quá trình giao lưu chính trị - văn hóa - xã hội với Liên

Xô được đẩy mạnh. Người dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa có điều kiện tiếp xúc rộng rãi

với văn học Nga không còn phải thông qua tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc nữa, mà đã

bằng tiếng Nga - một thứ ngoại ngữ từ đấy chiếm một vị trí ưu thắng so với các ngoại

ngữ khác. Một đội ngũ Nga học được hình thành và phát triển ngày càng lớn mạnh:

những chuyên gia lí luận, văn học Nga, các nhà dịch thuật tiếng Nga nổi tiếng nhất đều

được sinh ra từ giai đoạn này. Trong lịch sử tiếp nhận văn học nước ngoài ở Việt Nam

có thể coi đây là một trong những thời kì tiếp nhận mạnh mẽ, với một tốc độ nhanh

chóng nhất (mà trước kia không thấy đối với văn học Trung Quốc, văn học Pháp). Thời

kỳ tiếp nhận này đã mang cho văn học Việt Nam một bộ mặt khởi sắc, điều đó không thể

phủ nhận được, mặc dù không phải không có những bề trái khó tránh khỏi của nó.

37

Diện mạo văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1945 đến 1975 biến đổi toàn diện từ

mối quan hệ văn học với đời sống nhà văn và công chúng đến các quan niệm nghệ thuật,

các thể tài, thể loại, thi pháp. Con người quần chúng là một phát hiện nghệ thuật quan

trọng của nền văn học này, mọi lĩnh vực văn học nghệ thuật đều nhằm tới mục tiêu trước

tiên là phản ánh và phục vụ nó. Nhân vật đại chúng trong văn học của chúng ta là những

nguyên mẫu từ người công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức - và đồng thời họ cũng là

người đọc, người viết. Trong hoàn cảnh này, với yêu cầu người viết cần tuân thủ cách

viết có khuynh hướng, thì người đọc cũng đọc văn học theo tinh thần, tâm thế tự nguyện

chấp hành kỉ luật và với ý thức bảo vệ những tôn ti trật tự đã được đưa ra. Cho nên xảy ra

nhiều trường hợp khi người viết "đi trật đường ray", lập tức bị một số người có trách

nhiệm lãnh đạo văn nghệ "điều chỉnh" ngay, ví dụ như trường hợp Bùi Hiển với tác phẩm

Ánh mắt, Hà Minh Tuân với Vào đời, Nguyên Ngọc với Mạch nước ngầm, hoặc Con

nai đen và thơ không vần của Nguyễn Đình Thi chẳng hạn.

Trong lịch sử nước ta, từ trước cho đến thời kỳ tiếp nhận văn học Xô viết, chưa có

lúc nào văn học nói chung và văn học dịch nói riêng dành cho nhiều lứa tuổi, nhiều đối

tượng đến thế: Sách cho trẻ em, cho phụ nữ, cho tầng lớp bình dân, cho trí thức có học

vấn cao, cho các ngành nghề khác nhau... Đáng kể nhất là sách dành cho thanh thiếu niên.

Những tác phẩm văn học Liên Xô dành cho lứa tuổi này đã dần dần trở thành một trong

những yếu tố hình thành và bồi dưỡng trí lực, năng lực, đạo đức của vài thế hệ người Việt

Nam, ngay từ thuở ấu thơ. Văn hóa Xô viết cũng đem đến những kiến thức chuyên sâu về

nhiều ngành khoa học và nghệ thuật, đào tạo, bồi dưỡng một thế hệ chuyên gia cao cấp

của Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận rằng ý thức văn hóa vô sản đã "đóng

khung" nhiều cách tiếp cận, hạn chế tầm nhìn rộng đối với những thành tựu văn hóa "phi

vô sản", làm cho độc giả khó tiếp thu những kiến thức văn hóa - triết học hiện đại. Bản

thân văn học và khoa nghiên cứu văn học Liên Xô, so với văn học thế giới hiện đại, cũng

có nhiều bước tiến chậm. Chủ nghĩa hình thức ra đời ở Nga vào những thập niên đầu thế

kỉ XX nhưng bị cấm đoán, trong khi đó được các nước Phương Tây đón nhận như những

thành tựu rực rỡ, góp phần đáng kể vào sự đổi mới khoa nghiên cứu phê bình ở Pháp. Ở

38

những nền văn học vô sản nói chung và văn học Việt Nam nói riêng, khuynh hướng nhất

mực đề cao đại chúng dần dần phần nào đã kìm hãm sự phát triển trình độ của độc giả

cũng như bản thân tiến trình của văn học, làm cho nó khó hội nhập vào dòng chung của

văn học nghệ thuật hiện đại thế giới.

Nhìn đại thể, độc giả văn học Xô viết thời kỳ này ở miền Bắc là lớp người tin

tưởng, nồng nhiệt đối với mọi chủ trương chính sách, đường lối sáng tác của văn học Xô

viết. Đã cho rằng mọi cái là đúng đắn, họ tin yêu và không tranh cãi. Có thể coi đây cũng

là một kiểu công chúng lý tưởng của văn học Xô viết, một kiểu độc giả không còn thấy

nhiều được nữa vào những giai đoạn sau. Có thể lấy lời bình của Tất Thắng về sự tiếp

nhận nồng nhiệt của độc giả Việt Nam đối với sân khấu Xô viết để khẳng định điều đó:

"Liên Xô có thể không còn, nhưng văn học Xô viết và kịch Xổ viết thì sẽ mãi mãi đi vào

lịch sử văn học, lịch sử kịch nhân loại như một dấu ấn không thể phai mờ, và kịch Xô viết

đã đi vào lịch sử tiếp nhận kịch nước ngoài ở Việt Nam như một thời kì rực rỡ." [180:

489]. Tuy nhiên, như chúng tôi từng lưu ý, tính không thuần nhất là đặc điểm nổi bật

của độc giả văn học Xô viết, và đặc điểm này đã tìm thấy ngay trong một vùng địa lý, và

ngay trong thời kỳ mà văn học Xô viết tìm được người đọc lý tưởng.

Do điều kiện chính trị - xã hội, tình hình tiếp nhận văn học Xô viết của miền Nam

giai đoạn 1954 - 1975 dĩ nhiên không giống như ồ miền Bắc. Một điều hiển nhiên cho

thấy trong vòng gần 1/4 thế kỉ văn học Nga Xô viết từng có mặt, tồn tại và bắt đầu bén rễ

trong lòng xã hội miền Nam. Các tác giả Xô viết có mặt ở đây ít hơn, được lựa chọn đưa

vào theo tiêu chí khác so với ở miền Bắc. Nếu như ở miền Bắc ta thấy chủ yếu tên tuổi

những nhà văn của các giải thưởng Lênin, Stalin (Gorki, Seraíimovich, Fadeev,

Ostrovski, Solokhov, Simonov, Fedin, Leonov...) thì ở miền Nam, bên cạnh việc dịch tác

phẩm của M. Gorki, Paustovski, Solokhov, ta còn thấy những tên tuổi mà miền Bắc ít

người biết đến: Soljenitsyn, Bulgacov, Doudinsev, Pasternac, Kazacov, Necrasov... – tóm

lại, những nhà văn mà người ta nhìn thấy ít nhiều có xu hướng phản đối chế độ Xô viết.

Tuy thế việc dịch và giới thiệu này chưa cho ta một khái niệm về một nền văn học Nga

Xô viết toàn diện: chỉ thấy sự hiện diện chủ yếu của văn xuôi, còn các dịch phẩm thi ca

39

hầu như vắng bóng, cũng không thấy sự có mặt của kịch. Dĩ nhiên các tác phẩm lí luận

văn học Xô viết (kể cả Timofeev lẫn Bakhtin) cũng chưa từng xuất hiện. Cả một thời gian

dài ở đây chưa có một chuyên gia nào về văn học Nga Xô viết, việc giới thiệu nền văn

học này chủ yếu do các nhà dịch thuật đảm nhiệm và cũng chỉ dừng lại ở mức độ giới

thiệu mà thôi. Tuy tác phẩm văn học Nga Xô viết được phát hành rộng rãi trên thị trường

sách báo, nhưng trong chương trình khung của các trường đại học chưa thấy sự hiện diện

chính thức của dòng văn học này.

Khác với độc giả ở miền Bắc, một bộ phận không nhỏ độc giả ở miền Nam là lớp

người tiếp tục truyền thống văn học 1932 - 1945, tiếp thu thêm những nghệ thuật hiện đại

thế giới, nên nó có những cách tiếp cận của mình về các hiện tượng văn học. Độc giả văn

học Xô viết ở đây dường như không mang tính đại chúng, (điều này khác với ở miền

Bắc), nhưng cũng không thuần nhất theo kiểu của nó. Hiện nay chưa có công trình nào

khảo sát một cách hệ thống và khoa học, đưa ra kết luận khách quan về lớp độc giả này.

Còn về thái độ của họ trong việc đánh giá văn học Xô viết, theo chúng tôi cảm nhận, khá

phức tạp. Có một số xu hướng chủ yếu sau đây:

- Phản bác đường lối sáng tác của văn học Xô viết, nhấn mạnh tính chính trị hóa của

nó làm bóp nghẹt tinh thần tự do sáng tác của người nghệ sĩ. Quan điểm này được bộc lộ

trong bài viết của nhiều học giả miền Nam, điển hình là Tràng Thiên (tức Võ Phiến), Chế

Vũ, Hoàng Văn Chí...

- Tìm thấy trong nền văn học Xô viết những giá trị nghệ thuật, giá trị nhân đạo chân

chính. Trần Thiện Đạo không thể không khách quan công nhận "một số thành tựu đáng

kể" của văn chương Xô viết "không phải nhờ vào ý hướng chống đối của tác giả [...] mà

chính ở khía cạnh nghệ thuật đích thực của tác phẩm" [42] Những định giá như thế của

độc giả thành thị miền Nam đối với văn học Nga được quan sát rõ trong trường hợp nhìn

nhận Gorki, Paustovski, Pasternac... Người ta nhìn Gorki không chỉ như chủ soái của

phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa mà mình không tán thành, mà còn thấy trong

ông một niềm tin mãnh liệt vào con người, thấy rằng "ở trong con người tăm tối nhất",

nhà nhân đạo chủ nghĩa Gorki "quả quyết vẫn còn thấy một góc nhỏ trời xanh"[186].

40

Trong cuộc phỏng vấn của tạp chí Bách khoa năm 1959 về truyện ngắn ngoại quốc,

nhiều ý kiến gặp gỡ nhau một cách thú vị khi cùng bàn đến phong cách nghệ thuật của

Paustovski. Nghĩa là, độc giả đến với văn học Xô viết còn xuất phát từ cảm nhận nghệ

thuật, nhìn nhận tác phẩm như một phương tiện bộc lộ và giao tiếp giữa con người với

con người, phát hiện và thưởng thức những giá trị thẩm mỹ đích thực.

- Đến với văn học Xô viết, độc giả miền Nam còn tìm thấy những vấn đề lớn của

nhân loại, trong đó có những vấn đề được đặt ra ngay trong bản thân hoàn cảnh xã hội

miền Nam lúc đó: vấn đề chiến tranh và hoá bình, cách mạng và bạo lực, tình thương và

hận thù... Có thể quan sát thấy xu hướng này trong cách tiếp cận với các tác phẩm của

Solokhov, Soljenitsyn, và nhất là Pasternac. Bên cạnh nhiều ý kiến cho rằng Bác sĩ

Zivago là một tác phẩm chống đối chính quyền Xô viết, có nhiều người đề nghị một cái

nhìn không đơn thuần và thô thiển như thế. Theo họ, đây là một tác phẩm mang tính triết

lý truyền thống của văn học Nga: triết lý về cuộc sống và con người. Vũ Đình Lưu cho

rằng qua tác phẩm, Pasternac ''muốn đạt tới cái gì là vĩnh cửu và phổ hiến của con người,

tức là cái lý tuần hoàn, triết lý tin tưởng ở con người, ở cái gì là liên tục trong con người

mặc dù con người phải trải qua những lao lung thê thảm của biến cố" [126]. Những quan

sát thấy trên cho ta thấy độc giả miền Nam không hề thuần nhất trong việc tiếp nhận văn

học Xô viết. Và một điều nữa cũng rất đáng lưu ý: văn học miền Nam có tiếp nhận văn

học Xô viết, nhưng không chịu ảnh hưởng. (Với văn học Nga thì có lẽ khác).

Hai mảng văn học Bắc - Nam nước ta sau 1975 đã được quy về một mối, trở thành

nền văn học của một đất nước thống nhất. Tính chất không thuần nhất của việc tiếp nhận

văn học trong giai đoạn này được quan sát trong sự phân chia thành hai chặng với sự

chuyển biến căn bản về tư duy văn học. Từ 1975 đến 1985 tình hình chính trị xã hội ở

Liên Xô và các nước Đông Âu bắt đầu có những xáo trộn, gây tâm lí bất ổn trong công

chúng. Tuy nhiên, trên đại thể, văn học Việt Nam giai đoạn này vẫn là sự nối dài của nền

văn học cách mạng - sử thi, tiếp tục chịu sự chi phối của đường lối văn nghệ Xô viết .

Văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1985 được coi là văn học thời kỳ đổi mới. Ở chặng

thứ hai (chưa kết thúc) này, xét đối tượng nghiên cứu, chỉ tính đến 1991 - thời điểm Liên

41

Xô tan rã, nền văn học Xô viết chấm dứt, sự đổi mới chưa toàn diện, nó được nhìn nhận

như những hiện tượng hơn là những giá trị, âm hưởng chủ đạo của dòng văn học chủ

lưu trước kia vẫn tiếp tục chi phối mạnh mẽ các sáng tác. Như đã lưu ý d phần đầu luận

án, trong quá trình phân tích, chúng tôi chủ yếu chỉ dừng lại ở giai đoạn Việt Nam chịu

ảnh hưởng văn học Xô viết rõ nhất - đó là giai đoạn 1945 - 1975; còn thời gian trước

1945 và sau 1975 sẽ được dùng để tham khảo và đối chiếu.

1.3.2- Một lớp độc giả của thời kỳ chiến tranh kéo dài

Độc giả Việt Nam giai đoạn đang xét là những người thuộc nhiều thế hệ nối tiếp từ

những năm 40. Khoảng thời gian từ 1930 đến 1975 ở nước ta diễn ra một cuộc cách

mạng và hai cuộc chiến tranh lớn. Điều đó không thể không tác động đến việc hình thành

một số đặc điểm của lớp công chúng hai miền Bắc - Nam trước 1975. Và những đặc điểm

ấy sẽ còn lưu lại dấu vết mãi sau này, sau khi chiến tranh đã chấm dứt. Độc giả miền Bắc

là những con người từng trải nghiệm đau thương mất mát, có vốn sống dồi dào, kinh

nghiệm đấu tranh, nhưng đôi khi tỏ ra "nguyên tắc", "cứng rắn" trong xử thế đời thường.

Thế giới thẩm mỹ được hình thành và bị đóng khung rất lâu trong hoàn cảnh thời chiến,

đôi khi họ khó khăn mới trở về tiếp nhận cái bình thường mà trước đây bị khuất lấp trong

hiện thực hoành tráng và những trang văn chương mang tính sử thi. Điều nữa có thể nhận

thấy ở lớp độc giả này là họ có số lượng đông đảo nhưng trong điều kiện chiến tranh kéo

dài, chưa được chuẩn bị văn hoá kỹ lưỡng nên mặt bằng dân trí chưa cao. Thẩm thấu văn

chương rất cần tài năng tự thân, nhưng vẫn phải có bề dày văn hoá, thiên hướng thẩm mỹ.

Với những đặc tính trên, ta có thể hiểu vì sao đa số độc giả thời kỳ này chưa quen tiếp

xúc với những tác phẩm đa thanh, nhiều nghĩa, với những thể loại văn học khó.

Độc giả thành thị miền Nam giai đoạn 1945 — 1975, như chúng tôi đã nêu, thực

chất là lớp công chúng tiếp tục truyền thống văn học 1932 -1945, tiếp thu thêm những

nghệ thuật hiện đại thế giới, nên có cách thẩm định văn chương khổng giống như đại đa

số độc giả miền Bắc. Dẫu có thế, trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt lâu dài, việc phản

ánh, nghiền ngẫm về hiện thực chiến tranh, về thân phận con người cũng là một khuynh

hướng độc giả nơi này muốn tìm thấy trong văn học. Cùng hướng về mối quan tâm ấy,

42

nhưng khi chiến tranh đã chấm dứt, cái nhìn của công chúng hai miền nhiều khi vẫn "lệch

pha" trong lý giải hiện thực cũng như nghệ thuật. Những sự 'lệch pha" như thế cho thấy

dấu vết bền bỉ của một thời lịch sử đã qua.

1.4 - Văn học Xô viết trong bức tranh dịch thuật ở Việt Nam

1.4.1 - Bức tranh dịch thuật: những con số biết nói

Những trang dịch thuật văn học Xô viết xuất hiện khá sớm ở Việt Nam. Có thể coi

bản dịch sớm nhất có lẽ là của Vũ Ngọc Phan (một đoạn Thời thơ ấu của M. Gorki đăng

trên tạp chí Pháp Việt số 195 ra ngày 1/8/1936). Một điều thú vị, ít ai biết, là Tố Hữu

trước thời gian bị bắt giam (tức trước 1939), đã dịch Người mẹ của M. Gorki. [dẫn theo

207: 330]. Vào những năm 30 một số người được biết đến tác phẩm này qua bản dịch của

Hoàng Quang Giụ. Trong danh mục mà chúng tôi thống kê thì những bản dịch kế tiếp

theo là Trong tù, Người mẹ (M. Gorki) do Ngô Vĩnh dịch năm 1946 - nxb Tân Việt,

cũng năm đó Lê Mộng Lân dịch Chuyện chân quê (Ivan Tourgurmov) - nxb Đại học.

Bài thơ Đợi anh về của C. Simonov (Tố Hữu dịch qua bản tiếng Pháp) in trong Văn nghệ

số 2 năm 1948. Năm 1949 có tập truyện cho thiếu nhi Misa của Polevoi (Vũ Ngọc Phan

dịch) - nxb Văn nghệ, Họ chiến đấu vì tổ quốc của M. Solokhov. Năm 1950 số lượng

sách dịch văn học Xô-viết là 8 ấn phẩm (trong đó có tác phẩm đầu tiên dành cho độc giả

nhỏ tuổi): Thời gian ủng hộ chúng ta (I. Erenburg), Tôi đã học viết như thế nào, Vài

đoạn lí luận văn học (M. Gorki), Suối thép (Serafimovich), Vệ quốc chiến (tập truyện

nhiều tác giả), Chỉ vì gù (Vatilevka), Hai chiến sĩ (Simonov), Tập truyện nhi đồng.

Từ cột mốc 1950 trở đi, số lượng sách văn học Xô viết mỗi năm mỗi tăng, nhất là

sau Hiệp định Hợp tác văn hóa Việt - Xô được kí vào 1957, việc dịch văn học Xô viết

được thúc đẩy trông thấy.

Nhà xuất bản Văn hóa vừa ra đời (1957) đã dựng hẳn một kế hoạch sách dịch rất

quy mô gồm hơn 300 tên sách văn học thế giới, trong đó dành cho văn học Nga - Xô viết

hơn 20 đầu sách: "Chỉ cần nhìn lại tên sách được tuyển chọn, ở đây đã thấy rằng việc

giới thiệu văn học Nga - Xô viết ở Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới có ý thức

43

hơn, đầy đủ hơn, khoa học hơn" [207: 46]. Quá trình ấy tiếp diễn liên tục đến sau ngày

đất nước thống nhất, kể cả trong những thời gian chiến tranh ác liệt nhất (những năm 70),

và thời kỳ khủng hoảng văn học dịch (cuối những năm 80). Thúy Toàn tổng kết: "Chỉ

trong vòng 40 năm qua (bài viết năm 1989), từ khi Nhà xuất bản Văn học đi vào thực

hiện kế hoạch xuất bản có quy cả, gắn với Hiệp định hợp tác văn hóa Việt - Xô được kí

kết năm 1957, đã có hơn 100 tên sách của các tác giả Nga, tác giả Xô viết ra đời, nhiều

tác phẩm được tái bản, mỗi lần tái bản đều được sửa chữa bổ sung, thậm chí được dịch

lại một bản mới" [207: 49]. Tạp chí Văn học nước ngoài ra đời, là nơi giới thiệu thường

xuyên, có hệ thống các nhà văn nước ngoài, trong đó số nhà văn Nga hiện đại khá nhiều.

Số ấn bản sách dịch văn học Xô viết khá cao: hai tập Sáng tạo, nghệ thuật, con

người (M. Khravchenco) mỗi tập được in ra 62.000 bản, Mạnh hơn nguyên tử (G.

Berotco) - 40.200 bản, Chuyện thường ngày ở huyện (V. Oveskin) - 23.000 bản. Nhưng

số ấn bản lớn nhất phải kể đến là sách dịch dành cho lứa tuổi học sinh: mỗi tác phẩm in ra

từ vài ngàn đến vài chục ngàn: 30.000, 50.000, thậm chí lên đến 60.000, 80.000 bản, như

tập truyện Volodia Ulianov (nhiều tác giả) - 60.085 bản, Dưới gốc nấm (V. Sucheev) -

70.300 bản, Mùa thu ở Khakhovca (Baklanov) -80.000 bản, và kỉ lục nhất có lẽ là cuốn

Xi-ôn-cốp-xki (K. Antaiski) -120.300 bản.

Về thể loại, sách dịch văn học Xô viết ở miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975,

(cũng như trong cả nước giai đoạn sau 1975 đến 1991), khá là phong phú: truyện ngắn,

truyện vừa, tiểu thuyết, kịch, bút kí, tiểu luận, phóng sự, thơ trữ tình, trường ca, lý luận,

nghiên cứu...

Những tác giả được dịch nhiều nhất ở miền Bắc Việt Nam là M. Gorki, Erenburg,

Polevoi, Solokhov. Tiêu biểu là Gorki - 22 ấn phẩm với nhiều lần tái bản: Trong tù

(1946), Người mẹ (1946, 1955, 1966, 1967, 1976, 1984), Tôi học viết như thế nào

(1950, 1960), Vài đoạn lí luận văn học (1950), Các ông đứng về phe nào, hỡi các ông

trùm văn hóa (1955), Tuyển tập thơ truyện (1956), Tập truyện ngắn (1957, 1970,

1985), Dưới đáy (1957), Những mẩu truyện nước Ý (1958), Thời thơ ấu (1959, 1964,

1971, 1976), Kiếm sống (1964, 1971, 1976), Những trường đại học của tôi (1964, 1971,

44

1976), Văn học Xô viết - báo cáo trước Đại hội Nhà văn Xô viết lần I (1961, Con chim

sẻ nhỏ (1962), Bàn về văn học (1965, 1970), Foma Gordeev (1965), Ở Mỹ (1967),

Những kẻ thù (1967), Bà vợ (1978), Truyền kì lạ của Epxâyca (1987).

Xếp thứ hai là tác phẩm của B. Polevoi: Misa (1946), Thiếu nhi Liên Xô chiến đấu

(1951), Một bản anh hùng ca ra đời (1953), Chị Maria (1955), Niềm hy vọng hòa bình

(1955), Nấm mồ người chiến sĩ vô danh (1956) , Người Xô viết chúng tôi (1961, 1977),

Viết kí sự (1961), Vàng (1962), Hậu phương bao la (1977), Kết cục (1985).

I. Erenburg cũng có một số lượng tác phẩm đáng được kể đến: Thời gian ủng hộ

chúng ta (1950, 1954), Bão táp (1961, 1984, 1985), Công việc của nhà văn (1956), Một

thị trấn yên tĩnh (1961), Những người cùng thời, Pari sụp đổ(1987).

Tính về số lần in ấn nhiều nhất phải kể đến cuốn Người mẹ của M. Gorki: không

kể bản dịch bị thất lạc của Tố Hữu và bản dịch của Hoàng Quang Giũ mà chúng tôi chưa

có trong tay, thì tác phẩm được in ấn đến 6 lần. Lần 1: 1946 (Nxb Phụ nữ), 2: 1955 (Nxb

NDLĐ), 3: 1966 (Nxb GD), 4: 1967 (nxb Văn học), 5: 1976 (nxb Văn học), 6: 1984 (nxb

Văn học), (ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 có 6 tác phẩm của Gorki, nhưng không có

cuốn Người mẹ).

(Tương tự thế, ở giai đoạn sau, Chuyện thường ngày ở huyện của V. Oveskin

(Phạm Mạnh Hùng dịch) đã được in và tái bản 3 lần: Nxb TPMới, 1978, 1979, lần 3 -

năm 1984, in tại Liên Xô.)

Tác phẩm có nhiều bản dịch vẫn là Người mẹ: Không kể bản dịch thất lạc của Tố

Hữu, chúng ta biết tác phẩm được Hoàng Quang Giụ, Ngô Vĩnh, Nhị Mai, Đỗ Xuân Hà

và Phan Thao lần lượt dịch ra tiếng Việt.

Đội ngũ dịch thuật văn học Nga - Xô viết ở Việt Nam hết sức đa dạng và năng

động. Ban đầu, vai trò dịch thuật là do các trí thức Tây học (Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đình

Thi, Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Hoàng Trung Thông, Huỳnh Lý.. ) đảm

nhiệm, cho nên hầu hết các tác phẩm văn học Nga Xô viết được dịch từ tiếng Pháp. Đây

là lớp dịch giả tài ba và có tâm huyết, nên bản dịch của họ thường khá thành công, "được

45

coi chẳng khác nào các sáng tác mẫu mực, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của

sáng tác văn học nói chung" [207; 96]. Có thể lấy bản dịch Đợi anh về của Tố Hữu để

thấy rõ nhận định trên. Tuy nhiên, cuộc sống càng ngày càng đòi hỏi sự năng động, việc

dịch tác phẩm từ thứ tiếng nguyên tác được đặt ra như một yêu cầu thiết yếu. Từ 1960,

những cuốn dạy tiếng Nga cho người Việt bắt đầu xuất hiện, phổ biến nhất là cuốn do

Dương Văn Thành biên soạn (dùng làm tài liệu dạy trên đài Tiếng nói Việt Nam). Hàng

loạt sinh viên được gửi sang Liên Xô tu nghiệp. Thế hệ dịch thuật buổi đầu ấy dần dần

chuyển giao công việc cho những cây bút trẻ hơn, những người đã chiếm lĩnh được ngôn

ngữ Nga: Cao Xuân Hạo, Vũ Thư Hiên, Phạm Mạnh Hùng, Phan Hồng Giang, Hoàng

Ngọc Hiến, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Hải Hà, Thái Hà, Thái Bá Tân, Mộng Quỳnh, Lê

Khánh Trường, Nguyễn Thụy ứng, Phạm Vĩnh Cư, Bằng Việt, Thúy Toàn, Đoàn Tử

Huyên... Con số dịch giả này rất đông, họ thành công nhờ vừa chiếm lĩnh được ngoại ngữ

(Trung, Pháp, Anh, Nga...) vừa am hiểu và say mê văn chương. Đây là một thế hệ chuyên

gia mới không chỉ trong lĩnh vực dịch thuật mà cả nghiên cứu văn học Nga và họ là

những nhà khoa học của một ngành khoa học chưa từng có trong truyền thống. Nhiều

người trong số dịch giả kể trên được tu nghiệp ở nước bạn về, nhưng cũng không hiếm

trường hợp tự học tiếng Nga mà trình độ dịch thuật đạt tới mức hoàn hảo (Cao Xuân Hạo

với bản dịch Con đường đau khổ, Phạm Mạnh Hùng với Rừng Nga, Chuyện thường

ngày ở huyện, Nguyễn Thụy Ứng với Sông Đông êm đềm...). Từ đây Việt Nam thật sự

có một đội ngũ dịch thuật tiếng Nga đầy tiềm lực. Một số dịch giả chuyên nghiệp dần dần

đã chọn được cho mình nhà văn và phong cách phù hợp để dịch: Vũ Thư Hiên, Mộng

Quỳnh chinh phục độc giả bằng việc chuyển tải lại một ngôn ngữ dịu dàng nên thơ của

Paustovski, Nguyễn Thụy ứng tỏ ra mẫn cảm đặc biệt khi phiên dịch Solokhov sắc sảo,

dữ dội mà mặn mòi duyên dáng, Thúy Toàn với Puskin, Hoàng Ngọc Hiến với

Maiakovski, Đoàn Tử Huyên với Bulgacov... Giải thưởng văn học dịch được đặt ra từ

trong kháng chiến chống Pháp cũng là một yếu tố thúc đẩy dịch thuật văn học Nga - Xô

viết. Tiếng Nga trở thành một chiếc cầu nối độc giả Việt Nam không những với văn học

Nga mà còn với những nền văn học nước ngoài khác: "Có một hồi, không kể tiểu thuyết

46

Liên Xô mà cả cả tiểu thuyết Anh, Pháp, Mỹ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha v.v... thậm chí cả

truyện Trung Quốc hiện đại đều được dịch từ tiếng Nga". [147]

Nhìn vào danh mục sách dịch văn học Nga - Xô viết ở miền Bắc giai đoạn 1945 -

1975, một điều dễ nhận thấy là ngoài tác phẩm văn học cổ điển Nga, các sách còn lại

phần lớn thường là của các tác giả giải thưởng Nhà nước (B. Polevoi, M. Solokhov, ì.

Erenburg, L. Sobolev, c. Simonov, A.Tolstoi, A. Fadeev, N. Ostrovski, B. Gorbatov, N.

Pogodin...) Ở Liên Xô thời gian đó tác phẩm của các vị này được tái bản nhiều lần với số

lượng ấn bản cao.

Bức tranh dịch thuật văn học Nga - Xô viết của miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954

- 1975 cũng rất ấn tượng. Qua những con số thống kê, ta thấy việc nhập cảng và dịch

sách khá nhộn nhịp. Nhịp độ phát triển của sách dịch từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm

cho tới những ngày trước khi chính quyền Sài Gòn chấm dứt càng ngày càng gia tăng.

Tạp chí Bách khoa số xuân Giáp Dần (1974) thống kê sách dịch năm 1972 là 60% tổng

đầu số sách được xuất bản, và đến năm 1973 đã tăng lên xấp xỉ 80%. Nguyên nhân chính

của việc tăng vọt tỷ lệ sách dịch như vậy là từ 1972 các nhà xuất bản gặp khó khăn trong

vấn đề kiểm duyệt, nên quay sang dịch truyện.

Sau khi miền Nam giải phóng một năm, vào tháng 7/1976, ta có cuộc điều tra thống

kê đầu sách. Trong bốn thư viện lớn ở Sài Gòn, khai thác trên 8 tạp chí khác nhau, người

ta đã đưa ra một con số khổng lồ về các tác phẩm văn học nước ngoài được dịch ở miền

Nam giai đoạn 1954 -1975, trong đó số sách văn học Nga - Xô viết là 120 (so với sách

văn học Đức là 57, Ý là 58. Nhật là 71, Anh là 91, Mỹ là 273, Trung Quốc, Đài Loan,

Hồng Kông là 399) [dẫn theo 40: 309]. Con số này cho ta thấy sách văn học Nga - Xô viết

chiếm một tỉ lệ đáng kể giữa các tác phẩm văn học nước ngoài ở đây.

Xã hội miền Nam trước 1975 là nơi giao lưu của hai nền văn hóa Đông - Tây. Văn

học Trung Hoa, Đài Loan, Hồng Kông cùng với văn học cổ điển cũng như hiện đại Pháp,

Anh, Mỹ... có nhiều ảnh hưởng sâu đậm tới các mặt cuộc sống tinh thần đô thị miền

Nam. So với những nền văn học này, văn học Nga - Xô viết đến với độc giả miền Nam

có muộn mằn hơn một chút, nhưng vẫn có một vị trí nhất định trên văn đàn. Nhiều tác

47

phẩm lớn có giá trị được giới thiệu, trong đó có những cuốn sách gây ấn tượng mạnh mẽ,

được dư luật bàn tán sôi nổi, ví dụ như Bác sĩ Zivago của Pasternac chẳng hạn.

Theo chúng tôi, xã hội miền Nam những năm 1954 - 1975 có những cơ sở chính trị

- xã hội - văn hóa cho phép du nhập sách văn học Nga -Xô viết như sau:

1. Mối quan hệ mật thiết với phương Tây và sự quan tâm đến nền văn hóa phương

Tây đã hình thành nên một lớp độc giả mới chịu ảnh hưởng nền văn hóa đó. Văn học Nga

- Xô viết được coi là một trong những bộ phận cấu thành của nền văn hóa phương Tây.

2. Do đặc điểm của chế độ chính trị đối lập, người ta lưu tâm tới văn học Xô-viết

như đến một vùng đất xa lạ, có xu hướng tìm ra những "bí ẩn đằng sau bức màn thép".

3. Cơ cấu nhà xuất bản miền Nam mang tính chất tư nhân và có sự cạnh tranh, thu

hút khách hàng. Đó cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy việc và dịch và

giới thiệu một loạt các nhà văn Xô viết.

Nếu như ở miền Bắc số sách của các tác giả được giải Nhà nước thường đứng hàng

đầu, thì ở miền Nam người ta chú ý hơn đến các tác giả giải Nobel văn chương như

Soljetnisyn, Pasternac, Solokhov... Và nếu như M.Gorki là tác giả văn học Xô viết đứng

hàng đầu về danh mục ấn phẩm được dịch sang tiếng Việt ở miền Bắc thì người giữ vị trí

đó ở miền Nam là Soljetnitsyn. Hầu hết các tác phẩm chính yếu cho tới lúc bấy giờ của

ông đều được chuyển ngữ: Một ngày trong đời Ivan Denisovich (1970), Vòng đầu địa

ngục (1971, 1973 - ba bản dịch và các nhà xuất bản khác nhau), Khu ung thư (1971),

Bất ngờ tại ga Krechetovka (1973), Ngôi nhà của Machiona, Vì đại cuộc (1974), Quần

đảo ngục tù (1974). Ngoài ra trên các tạp chí Bách Khoa, Văn... còn trích đăng một số

truyện ngắn cũng như một số đoạn trích tác phẩm của ông: Gian nhà của Machiona,

Đám cưới lễ phục sinh, Bàn tay phải...

Soljenitsyn được giới thiệu nhiều nhất trong số những nhà văn mà người ta gọi là có

xu hướng "chống đối", "phản nghịch" đối với chính quyền Xô viết . Xếp hàng phía sau

nhà văn này có thể kể đến B. Pasternac, A. Siniavski, I. Daniel, V. Doudinsev. Tên tuổi

của Soljenitsyn nổi bật trên thị trường sách báo những năm 70, sau khi nhà văn nhận giải

48

thưởng Nobel văn chương. Các nhà xuất bản thi nhau dịch tác phẩm của ông. Cùng một

lúc trên thị trường có tới ba bản dịch khác nhau (của Hải Triều, Vũ Minh Thiều, Thanh

Tâm Tuyền) cho cuốn Tầng đầu địa ngục. Tác phẩm Quần đảo Gulắc được đăng tải một

lúc trên hai tờ báo lớn nhất Sài Gòn lúc đó là tờ Sóng Thần của Chu Tử và tờ Dân Chủ

của đảng Dân Chủ do Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu.

Một điều dễ nhận thấy là tác phẩm văn học Xô viết được chọn dịch ở đây không là

sách có thể dành cho bất kỳ loại độc giả nào, vì thường là những cuốn sách không dễ đọc.

Để thực sự hiểu Bác sĩ Zivago, Quần đảo ngục tù, Một ngày trong đời Ivan Denisovich,

số phận con người... không phải đơn giản. Ngay như đọc Paustovski, để thấy cái hay của

trang văn không phải bất cứ độc giả bình dân nào cũng cảm nhận được. Như chúng tôi đã

ghi nhận ở phần trước, độc giả của văn học Nga, và nhất là của văn học Xô viết ở miền

Nam không mang tính đại chúng. Một trong những dấu hiệu ấy là sự vắng bóng các tác

phẩm dành cho lứa tuổi thiếu nhi. (Trong khi ấy ở miền Bắc, loại sách này chiếm một tỉ

lệ rất lớn, với số ấn bản rất cao).

Sách dịch ở miền Nam thường xảy ra hiện tượng cùng một tác phẩm nhưng có

nhiều bản dịch khác nhau. Ví dụ như các bản dịch tác phẩm của Soljetnisyn như vừa nêu,

hay như cuốn Bác sĩ Zivago của Pasternac có tới ba bản dịch (Trương Văn và Sơn Tịnh -

1959, Nguyễn Hữu Hiệu - 1973, Văn Tư và Mậu Hải - 1973); Mưa trong bình minh của

Paustovski có 2 bản dịch, một của Bửu Kế (1955), một của Vũ Minh Thiều (1966). Điều

này có thể do cơ cấu nhà xuất bản ở đây mang tính chất tư nhân, có sự cạnh tranh, thu hút

khách hàng, và không loại trừ khả năng có nhu cầu dịch mới tác phẩm.

Hàng ngũ dịch giả, nhìn chung, có trình độ học vấn khá cao. Trong số họ có những

người có vốn ngoại ngữ hoàn hảo, có năng lực văn chương và trách nhiệm nghề nghiệp,

cho nên bản dịch của họ đáng tin cậy. (Nguyễn Hiến Lê, Đỗ Khánh Hoán, Bửu Ý,

Nguyễn Hữu Hiệu...). Tất cả các tác phẩm văn học Nga - Xô viết được dịch sang tiếng

Việt ở đây đều thông qua bản tiếng Anh hoặc Pháp, bởi ở Sài Gòn lúc ấy chưa có ai

thông thạo tiếng Nga. Và có lẽ, thời ấy, chỉ thông qua tiếng Anh, Pháp mới có thể tiếp

cận được với tác phẩm của các nhà văn Xô viết đang còn bị cấm đoán. (Tô Hoài trong

49

Chiều chiều có kể rằng ở Hà Nội lúc đó chỉ có 2 cuốn Bác sĩ Zivago (bằng tiếng Pháp),

một phân phối về thư viện trường Nguyễn Ai Quốc, một do Tô Hoài được phân công cất

giữ)[80; 139].

Những con số phác thảo trên đây là những con số biết nói, cho ta thấy một bức tranh

toàn cảnh hết sức rực rỡ và đa dạng về một nền văn học dịch Liên Xô ở Việt Nam, qua đó

ta có thể cảm nhận được những cách tiếp cận khác nhau về cùng một nền văn học.

1.4.2 - Bức tranh dịch thuật: những bước đi của đời sống chính trị - xã hội, sự vận

động của nhu cầu thị hiếu

Quá trình dịch thuật văn học Xô viết ở Việt Nam đã thể hiện khá rõ những bước đi

của đời sống chính trị - xã hội và sự vận động của nhu cầu thị hiếu của chúng ta trong

suốt hơn nửa thế kỉ. Cùng với văn học Việt Nam mảng văn học dịch này đã đánh dấu

những cột mốc cho một chặng đường khó phai mờ trong lịch sử dân tộc.

Các tác phẩm Trong tù, Người mẹ (M. Gorki), Misa (Polevoi), Họ chiến đấu vì tổ

quốc (Solokhov), Thời gian ủng hộ chúng ta (Erenburg), Suối thép (Serafimovich), Hai

chiến sĩ (Simonov) - những tác phẩm của các nhà văn - chiến sĩ hàng đầu của nhân dân

Xô viết - xuất hiện vào những năm 1946 - 1950 đã trở thành một nguồn động viên to lớn

đối với các cán bộ, chiến sĩ ở chiến khu Việt Bắc. Các tác phẩm nổi tiếng của văn xuôi

Xô viết như Thép đã tôi thế đấy, Tinh cầu, Người Xô viết chúng tôi được giới thiệu rộng

rãi bằng nhiều cách và được tiếp nhận như một luồng gió mới thổi vào sinh hoạt tinh thần

của cuộc kháng chiến. Đặc biệt cuốn Tỉnh ủy bí mật của nhà hoạt động xã hội A.

Fedorov do Chủ tịch Hồ Chí Minh (bút danh là Nguyễn Du Kích) dịch và giới thiệu in

bằng giấy do', đã gây ấn tượng không thể nào quên cho độc giả Việt Nam thời kì đó.

Bài thơ Đợi anh về từng nổi tiếng khắp Liên bang Xô viết, cả ở hậu phương lẫn tiền

tuyến, trong những năm Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (1941 - 1945), từ năm 1947 đã vang

lên ở chiến khu Việt Bắc, rồi lan rộng ra cả nước qua "bản dịch tuyệt vời" của Tố Hữu

(lời Simonov). Bài thơ còn tiếp tục vang lên trên khắp nẻo đường trong cuộc kháng chiến

tiếp theo của nhân dân ta, trở thành lời nhắn gửi tha thiết mong đợi người chiến thắng trở

50

về. Ở Sài Gòn bản dịch tài hoá đó đã được Phạm Duy phổ nhạc, trở nên rất phổ biến.

Trong hoàn cảnh chiến tranh, bài thơ có sức truyền cảm ghê gớm, ở cả những phe phái

đối lập. Sau 1975, bài thơ được đưa vào chương trình lớp 6 bậc THCS như một bài đọc

thêm.

Hòa bình lập lại, bên cạnh những dịch phẩm viết về chiến tranh, xuất hiện càng

ngày càng nhiều hơn những cuốn sách về xây dựng kinh tế. Chỉ trong vòng 2 năm, từ

1955 đến 1957, trên giá sách dịch đã có hàng loạt tác phẩm viết về đề tài lao động, như

Hàng ngữ hòa bình (Phuskin), Sau lúc tan tầm (Piatniki), Bút kí của một kỹ sư

(Potvoiski), Miền mỏ Dolbass (Gorbatov)... Những cuốn sách đó của đất nước anh em

cho chúng ta những kinh nghiệm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển

kinh tế. Công cuộc xây dựng đất nước gắn liền với việc xây dựng một nền văn hóa, văn

học mới, cho nên cùng với loại sách này, chúng ta tiếp tục công việc đã bắt đầu ngay từ

trong thời kì cuối cuộc kháng chiến: giới thiệu mảng sách lí luận văn học. Sau cuốn Vài

quan điểm văn học nghệ thuật, lí luận văn nghệ (Jdanov) và cuốn Hiện thực xã hội

chủ nghĩa (A. Tolstoi, Fadeev) xuất bản năm 1951, 1954, thời gian này chúng ta dịch

thêm một số tác phẩm, bài báo chính luận của Gorki, Lenin, một số tác phẩm về kinh

nghiệm viết văn của Erenburg, Antonov...

Thời kì tiếp theo, tiểu thuyết và mảng sách lí luận tiếp tục được chú ý. "Năm 1962

sách Nga - Liên Xô kể cả tiểu thuyết lẫn lí luận, kinh nghiệm sáng tác, in ra chiếm tới 22

trong số 57 cuốn sách dịch. Qua năm 1963, tỉ lệ này là 15/55, và tới 1964, đại khái vẫn

vậy". [148: 227]. Bên cạnh loại sách này chúng ta dịch thêm khá nhiều tác phẩm cho lứa

tuổi thiếu niên, nhi đồng. Sách Liên Xô trở thành thân thuộc với bạn đọc nhỏ tuổi Việt

Nam, góp một phần không nhỏ trong việc hình thành học vấn, thế giới thẩm mỹ của thế

hệ học trò những năm ấy. Trong danh mục sách những năm 60 - 70 ta thấy sách dành cho

tuổi nhỏ chiếm hơn Vi tổng số sách dịch văn học Nga - Xô viết. Loại sách này càng tăng

hơn nữa từ 1965 trở đi. Nguyên do là từ cuối 1963 đầu 1964 "một số tác phẩm như Tấc

đất của Baklanov, Chuyện núi đồi và thảo nguyên của Aitmatov hoặc các phim Bài ca

người lính, Người thứ 41... bị phê phán mạnh mẽ, coi như có hại tới tinh thần phấn đấu

51

cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước".[48: 227]. Sự kiện này tác

động đến việc chọn sách dịch. Dịch sách cho nhi đồng có vẻ "an toàn" hơn. Hệ quả là

"cho tới 1978, tác phẩm Nga dịch sang tiếng Việt không những giảm về số lượng, mà còn

được khuôn vào một định hướng rõ rệt, là gần như chỉ dịch các tác phẩm cổ điển (trừ

Dostoievski) và các tác phẩm được giải thường Stalin" [148: 227].

Để thấy nhu cầu thị hiếu không ngừng vận động được thể hiện rõ trong dịch thuật,

chúng tôi xin mở rộng thời gian khảo sát tới sau cột mốc 1975. Chuyện thường ngày ở

huyện (Oveskin) được dịch vào năm 1978, đúng lúc nước ta đang triển khai thực hiện

Nghị quyết của Đảng lần thứ 5. "Cuốn sách hướng dẫn đông đảo bạn đọc, trở thành sách

gối đầu giường của nhiều cán bộ ở các địa phương, được Thành ủy TP. Hồ Chí Minh cho

đăng tải trên báo Sài Gòn giải phóng, được cải biên thành kịch bản đưa lên màn ảnh

truyền hình" [207: 257]. Có tỉnh ủy Đảng cộng sản Việt Nam đã yêu cầu cán bộ các cấp

dưới nên đọc và học tập kinh nghiệm công tác nông thôn qua sáng tác của Oveskin"

[161: 434]. Từ cuốn sách này, đài truyền hình Việt Nam đã dàn dựng một vở kịch do các

diễn viên nổi tiếng của Nhà hát kịch đảm nhiệm, gây tiếng vang lớn một thời.

Sau 1975 đến 1985, trong cả nước, ta thấy cách chọn sách dịch mảng văn học Xô

viết, về căn bản, không thay đổi nhiều lắm. Ở những năm 80 đề tài về chiến tranh bắt đầu

được nhìn ở một tầm khái quát khác. Trong những năm này nổi bật trong danh mục sách

dịch là những tác phẩm viết về chiến tranh của C. Simonov (Những người sống và

những người chết), I. Bondarev (Tuyết bỏng, Lựa chọn, Bến bờ, Trò chơi, Các tiểu

đoàn xin chỉ viện). V. Rasputin (Hãy sống và nhớ lấy), V. Bycov (Bài ca núi Anpơ,

Gắng sống đến bình minh), A. Ivanov (Tiếng gọi vĩnh cửu), B. Vasiliev (Và nơi đây

bình minh yên tĩnh, Tên anh chưa cổ trong danh sách)... Cuộc chiến tranh Vệ quốc của

nhân dân Xô viết (1941 - 1945) và cuộc kháng chiến trường kì 30 năm của dân tộc Việt

Nam đã đang lùi vào quá khứ, nhưng tiếng vọng của nó vẫn âm vang, một âm điệu vẫn

thống thiết, nhưng đã trở nên thâm trầm trong chiêm nghiệm, triết lý sâu xa. Điều này thể

hiện rất rõ trong các sách được chọn dịch trên. Bắt đầu từ cuối thập niên 80 trở đi ta thấy

trên giá sách dịch bắt đầu xuất hiện một số tên tuổi tác giả Xô viết cũng như tác phẩm của

52

họ mà độc giả Việt Nam những thập niên trước ít hoặc chưa được biết đến như o. Bergol

(Những ngôi sao ban ngày, 1987), B. Pasternac (Thơ tình cho Lara, Bác sĩ Zivago,

1988), M. Bulgacov (Trái tim chó, 1988), Doudinsev (Sống không chỉ bằng bánh mì,

1988), A. Rybacov (Những đứa con phố Arbat, 1988, 1990).

Sau Hội nghị sách xuất bản toàn quốc (1984) đến 1989 sách văn học Nga - Xô viết

được bung ra dịch ồ ạt. Theo con số của Thúy Toàn, khoảng 1984 - 1989 tất cả các nhà

xuất bản cho ra chừng 300 đầu sách văn học Nga - Xô viết [207: 27]. Nhưng từ 1989 trở

đi, do xóa bỏ chế độ bao cấp, xóa bỏ chế độ hai giá đối với giấy, các nhà xuất bản chuyển

sang hạch toán kinh doanh, việc chọn dịch và in tác phẩm buộc phải tuân theo kinh tế thị

trường. Bạn đọc không thích những tác phẩm "có vấn đề", hầu như không còn chấp nhận

văn học Liên Xô nữa, mà chuyển tới những sách đại chúng ăn khách của phương Tây.

Nhìn vào bảng thống kê sau đây ta sẽ thấy rõ điều đó:

Năm Tổng số Anh Pháp Mỹ Nga-Xô viết Trung Quốc

1998 236 42 36 35 12 23

1990 120 26 30 28 2 1

1991 362 33 57 78 6 16

1992 119 13 19 42 0 1

Thúy Toàn nhận định về tình trạng trên: "Trong vòng 4 năm đó, sách Anh, Pháp,

Mỹ chiếm từ 1/2 đến 2/3 tổng số sách dịch, trong số này hầu hết là best seller của văn

hóa đại chúng tập trung vào một số tác giả ăn khách nhất của Mỹ là D. Stin, J. Colin, H.

Robin, s. Sendon - chiếm tới 1/4 tổng số 199 đầu sách Mỹ. Sách trình thám kinh dị của J.

H. Chays chiếm tới 30 cuốn, của A. Cristin chiếm tới 20 cuốn". [207:30]. Sau năm 1991,

việc in ấn tác phẩm văn học Xô viết bị thu hẹp lại. Không chỉ có độc giả rộng rãi bị tước

khả năng đọc các tác phẩm nghệ thuật Xô viết mà ngay cả các chuyên gia văn học nước

ngoài cũng khó khăn tiếp cận với tình ữạng hiện thời của văn học Nga đương đại.

53

Quá trình trên cho chúng ta thấy sách dịch văn học Xô viết luôn tuân theo dòng diễn

tiến của lịch sử xã hội với những nhu cầu từng bước thay đổi.

Ở miền Nam giai đoạn trước 1975 sách văn học Nga - Xô viết được dịch chủ yếu

cũng theo tình hình thời sự văn học.

Những năm 50 và những năm đầu 60 ta thấy sách của các tác giả có văn phong cổ

điển (Puskin, Lermontov, L.Tolstoi, Turgenev) chiếm ưu thế. Từ giữa những năm 60 trở

đi, thị trường sách báo có sự chuyển hướng trong việc chọn dịch. Những nhà văn cổ điển

dần dần nhường chỗ cho các tác giả có tính chất hiện đại hơn như Dostoievski, Pasternac,

Solzetnisyn... Cùng với sự kiện Pasternac được giải thưởng Nobel văn chương vào năm

1958, tại các thành thị miền Nam tác phẩm của ông được cấp tốc dịch. Chỉ sau sự kiện

này một năm ở Sài Gòn đã có bản lược dịch tác phẩm Bác sĩ Zivago (bản của Trương

Văn và Sơn Tịnh). Cùng với tên tuổi của Pasternac báo chí bắt đầu nhắc đến một nhà văn

Xô viết khác - M. Solokhov, nhưng trong sự đối sánh. Theo họ, tác phẩm của Solokhov là

nhằm biện hộ cho "một chính sách tàn ác dã man, chống lại sự sống, phẩm giá và tình

thương của nhân loại" [17]. Năm 1965, tới lượt Solokhov nhận giải thưởng Nobel, tên

tuổi và tác phẩm của ông lại bung ra, nhưng với những quan điểm có phần không giống

trước. Họ gọi ông là "nhà văn xuất sắc nhất của phong trào hiện thực xã hội", rằng "nghệ

thuật của ông rất điêu luyện và tràn đầy sức sống". [231] Trong năm đó Tập san Văn có

một số chuyên san dành riêng về Solokhov (số 45/1965), trích đăng một số truyện ngắn

của ông. Năm 1967 nhà xuất bản Sống Mới cho tái bản lại hai tập Đất vỡ hoang.

Báo chí dịch đăng Evtusenco sau sự kiện ông sang Pháp (1968) và cho đăng tải một

loạt bài tự truyện của mình. Tập san Văn số 9 (cùng năm đó) dịch một số thi phẩm của

nhà thơ trẻ này.

Tên tuổi của Soljenitsyn nổi bật trên thị trường sách báo những năm 70, sau khi ông

nhận giải thưởng Noben văn chương. Trong một thời gian dài Soljenitsyn trở thành trung

tâm chú ý của các phương tiện thông tin đại chúng. Trên nhiều lĩnh vực văn hóa đời sống

người ta có thể bắt gặp tên tuổi ông. Xuất hiện hàng loạt tác phẩm và bài viết về ông, thư

ngỏ, diễn văn, trả lời phỏng vấn của ông. Nhiều báo, tạp chí đã đăng tải một loạt các bài

54

nghiên cứu, khảo luận, giới thiệu của các tác giả nước ngoài và Sài Gòn (Harrison

Salisbury, Max Hayward, Michel Gordey, Tràng Thiên, Hoàng Hải Thủy, Đào Trường

Phúc, Lê Vũ...) viết về nhà văn.

Soljenitsyn cũng là một trong những tác giả văn học Nga - Xô viết được dịch cuối

cùng trên thị trường sách báo miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954- 1975.

Những điều trên đây cho chúng ta thấy quá trình dịch thuật và tiếp thụ văn học Xô

viết ở Việt Nam luôn nằm trong mối tương quan với phong trào chính trị xã hội. Văn học

dịch vừa phản ánh những bước đi của đời sống vật chất, tinh thần xã hội, vừa cho ta thấy

những chuyển biến của nhu cầu thị hiếu của các thế hệ độc giả nước ta trong vòng hơn

nửa thế kỉ qua.

Lịch sử tiếp nhận văn học Xô viết của người Việt Nam là một quá trình có bề dày

thời gian, bắt đầu từ khi chúng ta biết về đất nước XHCN đầu tiên trên thế giới, qua

những chặng đường phát triển của xã hội ấy, cho tới khi nhà nước Xô viết chấm dứt sự

tồn tại. Trong thời kỳ bí mật đấu tranh cách mạng, người Việt Nam đã hướng về đất nước

- con người - văn hoá Xô viết như hướng đến "mặt ười chân lý" làm trái tim ta "bừng

nắng hạ", hướng đến một "miền đất hứa" cho chúng ta con đường đi đến thiên đường của

độc lập - tự do - hạnh phúc. Những năm 40 - 50, thời kỳ cách mạng và kháng chiến chống

thực dân Pháp, người Việt Nam tìm thấy ở người đồng chí, người anh cả Liên Xô một

chỗ dựa vững chắc về tinh thần. Sự tương đồng về ý thức hệ đưa đến sự tương đồng

nhiều mặt về mặt văn chương nghệ thuật. Nhiều người Việt Nam đọc Người mẹ của M.

Gorki như một tác phẩm nghệ thuật mẫu mực, noi gương Pavel Vlasov, Pavel Corsaghin

như những tấm gương về lý tưởng sống và đấu tranh cách mạng. Bước vào những thập

niên 60 - 70, thời kỳ xây dựng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước, tình

cảm của người Việt Nam càng trở nên gắn bó với đất nước - con người Xô viết . Mối

quan hệ hai nước Việt Nam - Liên Xô thắt chặt hơn trong mối bang giao cấp nhà nước,

giữa hai Đảng cầm quyền, thể hiện trong nhiều lĩnh vực chính trị - văn hoá -đời sống,

trong đó có cả sự quản lý văn hoá - văn học, đưa đến nhiều thành tựu, nhưng đồng thời

cũng xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực. Trong những năm 80 - 90 công cuộc cải tổ của

55

Liến Xô, nhất là trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, có một ảnh hưởng lớn lao đối với đời

sống tinh thần của Việt Nam. Chính trong tinh thần đổi mới này, cả Liên Xô và Việt Nam

đều có cái nhìn cởi mở hơn trong cách đánh giá văn chương nghệ thuật. Cũng trong tinh

thần ấy, chúng ta một lần nữa nhìn lại những chặng đường tiếp nhận văn hoá - văn học

Xô viết , với ý thức "gạn đục khơi trong", đánh giá đúng đắn, khách quan di sản quá khứ,

cả thành tựu và những mặt hạn chế. Cách tiếp cận mới này giúp chúng ta hiểu rõ bản thân

mình hơn trong cuộc tiếp nhận lớn của thế kỉ qua.

56

Chương 2: VĂN HỌC VIỆT NAM TIẾP NHẬN VĂN HỌC XÔ

VIẾT TRÊN BÌNH DIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ LÝ LUẬN

VĂN HỌC

2.1 - Văn học Việt Nam tiếp nhận mô hình tổ chức của văn học Xô viết

Cơ chế của một nền văn học có vai trò mang tính quyết định cho đường hướng phát

triển cũng như tiềm năng của nền văn học đó, ảnh hưởng lâu dài đến nhiều lĩnh vực văn

hóa khác. Cơ chế văn học thể hiện rõ nét mối quan hệ (có thể là tòng thuộc, có thể là độc

lập) với thiết chế chính tri - xã hội và phản ánh những quan niệm của xã hội ấy về văn

học nghệ thuật.

Tiếp nhận một cơ chế nhà nước như Liên Xô về cả hạ tầng lẫn thượng tầng kiến

trúc, Việt Nam đồng thời cũng tiếp nhận từ Liên Xô bộ máy hành chính điều hành văn

học (từ cơ cấu, phương hướng, lề lối hoạt động của Hội Nhà văn, nhà xuất bản tới khâu

quản lý sáng tác). Mô hình này tồn tại suốt một thời gian dài, để lại những dấu ấn (cả tích

cực lẫn tiêu cực) khó phai mờ trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam.

Sau Cách mạng tháng Mười ở Liên Xô có nhiều tổ chức văn học (Prolekun, RAPP,

Liên hiệp các nhà thơ, nhóm Perevan, nhóm Anh em Serapionov...). Ngày 23/ 4/1932

Trung ương Đảng Cộng sản ra Nghị quyết về việc xây dựng lại và thống nhất các tổ chức

văn học nghệ thuật, từ 1934 trở đi chỉ còn một tổ chức thống nhất là Hội Nhà văn Liên

Xô với con số hội viên lên đến hàng ngàn và có một thế lực đáng nể trọng trong đời sống

văn hóa Xô viết. Hầu hết các nhà văn trong Hội được trả lương như viên chức nhà nước,

được hưởng các ưu đãi của nhà nước (nhà cửa, chế độ nghỉ mát, huân huy chương, danh

hiệu nghệ sĩ công huân, anh hùng lao động...). Sự trợ cấp của nhà nước còn thể hiện ở

khâu xuất bản, phát hành và tuyên truyền sách: tính giá giấy rẻ, bao cấp cho việc phát

thanh và truyền hình phổ biến tác phẩm. Dễ dàng thấy rằng nhà văn thành đạt ở Liên Xô

rất được nể trọng. Tên tuổi của họ được lây đặt danh cho đường phố, quảng trường, công

viên văn hóa, nhà hát, xưởng phim, giải thưởng... "Nhà thơ Nga Andrei Demenchev từng

57

có một cuộc sống mà nhiều nhà văn phương Tây phải ghen tỵ và thèm muôn: viết xong

những dòng cuối cùng của bản thảo ông đưa ngay tới Nhà văn Xô viết (nhà xuất bản

quốc gia lớn nhất Liên Xô) và tác phẩm của ông được in ra hàng trăm ngàn bản để bán

với giá rất rẻ qua các quầy sách đặt trước. Thơ ông được phổ nhạc và truyền thanh khắp

toàn quốc. Ông có việc làm hàng ngày đầy uy thế với tư cách tổng biên tập tờ tạp chí văn

học Tuổi trẻ (Iunost). ông được sự trọng vọng kính nể của Hội Nhà văn Liên Xô: căn hộ

thoáng rộng ở Moskva, những kì nghỉ gần như cho không tại khu nghỉ mát của Hội Nhà

văn có tên gọi là Nhà Sáng tạo, và xe Volga đen bóng" [137].

Tạp chí ra hàng tháng của Hội Nhà văn Liên Xô là tờ Novyi Mù (Thếgiới mới), số

trang luôn hơn 200, khổ to, mỗi lần phát hành là cả triệu bản, có lúc lên đến kỉ lục là 1,5

triệu bản - một con số khổng lồ làm phương Tây phải ngạc nhiên. Không phải ngẫu nhiên

mà những năm đó từng lưu truyền một câu nói nổi tiếng: “Ở Liên Xô đọc còn thích thú

hơn sống”.

Kết quả của việc bảo trợ như thế đối với văn học là sự kích thích to lớn, làm cho

trong một thời gian ngắn bộ mặt văn hóa quốc dân thay đổi rất đáng kể. "Mặc dầu còn

nghèo, Nhà nước Liên Xô vẫn dành cho sự nghiệp phát triển văn hóa [...] với những cố

gắng và những khoản chi phí đáng kể[...] thời giờ và những nguồn lực to lớn được dồn

cho việc in ấn các loại sách" [15: 36]. Trên thế giới, Liên Xô là nơi phát hành sách báo

nhiều nhất, dân Liên Xô là dân đọc sách báo nhiều nhất, đọc mọi chỗ, mọi nơi. Sách Liên

Xô là loại hàng rẻ nhất, góp phần làm nên một đất nước có trình độ dân trí cao. So với xã

hội thời Nga hoàng rõ ràng đây là một thành tựu lớn; so với các nước phương Tây, đây là

một kết quả đáng nể trọng. Người ta ước tính rằng "trong nửa sau những năm 60, hàng

năm có 7000 đầu sách được xuất bản với số lượng 430 triệu bản" [81: 248].

Ở Việt Nam, Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập năm 1943, Hội Văn nghệ Việt

Nam ra đời năm 1948, Hội nhà văn được thành lập vào năm 1957, sau này ở các địa

phương trong cả nước là các Hội văn nghệ tỉnh và thành phố, cũng có phương thức hoạt

động tương tự: văn nghệ sĩ được tập hợp trong các hội sáng tác, cơ cấu và cách làm việc

của các hội này chủ yếu giống như mọi cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước.

58

(Trong Điều lệ của Hội Nhà văn Việt Nam ghi rõ đây là "tổ chức chính trị xã hội nghề

nghiệp tự nguyện"). Văn nghệ sĩ chuyên nghiệp là những cán bộ ương biên chế, giống

như các nhân viên ăn lương nhà nước. Và với cơ cấu như vậy, theo Lại Nguyên Ân "cớ

những mặt tốt, đã từng phát huy hiệu quả", nhưng ngay cạnh đó lại có "những mặt hạn

chế, làm phát sinh tiêu cực" [6: 231]. Việc in ấn xuất bản ở Việt Nam, do điều kiện eo

hẹp chung của kinh tế quốc dân, có khó khăn hơn ở Liên Xô, nhưng cũng nằm trong sự

bao cấp về nhiều mặt, tạo điều kiện cho việc phát triển số lượng sách ngày càng tăng,

phục vụ nhu cầu của người đọc - một lực lượng đang ngày càng phát triển đông đảo. Nếu

như số ấn bản cho mỗi đầu sách thời kì 1930 - 1945 là khoảng 2.000 - 3.000 cuốn, ở miền

Nam thời kì 1954 -1975 cũng tương tự, thì ở miền Bắc giai đoạn trước 1975 số ấn bản rất

cao, có khi lên đến cả chục ngàn cuốn, chủ yếu để phân phối cho các thư viện địa phương

theo chính sách bao cấp của nhà nước. Bùi Ngọc Tấn trong Một thời để mất cho biết

cuốn truyện kí Sống giữa những người anh hùng (in chung với Châu Diên) được

"Trung ương Đoàn Thanh niên phát động học tập trong cả nước, in ba lần liên tiếp với

số lượng 15 vạn'' [178, 41]. "Cái được" trông thấy trước mắt nhất (và cũng chỉ là cái

trước mắt) là trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn do chiến tranh liên miên, kinh

tế chưa phát triển, chế độ lương tháng và một số quyền lợi dành cho văn nghệ sĩ rõ ràng

đã bảo đảm cho cuộc sống hàng ngày để họ có thể an tâm viết văn. "Cái được" hơn cả

chính là ở sự bảo đảm ổn định trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá.

Nằm dưới sự bảo trợ và bao cấp của nhà nước như vậy, cho nên đồng thời việc "sản

xuất văn chương" của người sáng tác lại cũng nằm dưới sự quản lí của nhà nước. Việc

này biểu hiện trong suốt thời gian dài của sự tồn tại nhà nước Xô viết , rõ nhất là dưới

thời Stalin. Năm 1934 trong Đại hội lần thứ I của Hội Nhà văn , Andrei Jdanov thay mặt

Đảng và chính phủ chính thức hoạch định đường lối sáng tác: chủ nghĩa hiện thực xã hội

chủ nghĩa. Và từ đó hàng ngũ văn nghệ sĩ đã được sắp xếp, con đường sáng tác được quy

định rõ rệt. Điều này được một chuyên gia Xô viết học người Pháp ghi nhận: "Việc kiểm

soát văn hoá do cơ quan cao nhất thực hiện, Đảng Cộng sản tập trung đầu mối về các

hoạt động văn hóa" [15: 38]. Hãy nghe chính các nhà văn Xô viết cũng thừa nhận điều

59

đó: "C. Simonov kể rằng Staỉin tham gia quản lí công việc của Hội Nhà văn rất cụ thể.

Cử chủ tịch và tổng thư kí hội, xấc định tổng biên tập các báo, tạp chí văn học... việc ấy

cần có ý kiến Stalỉn đã đành; đến cả việc mở rộng quy mô một cơ quan ngôn luận như

báo Văn học, hoặc ấn định mức nhuận bút của các loại tác phẩm, những việc đó cũng

được bàn bạc trong các buổi họp do Stalin chủ tọa [...] Chính Stalin đặt ra các loại giải

(hạng nhất, hạng nhì, hạng ba); lại chính Stalỉn cân nhắc đề cho giải từng tác phẩm cụ

thể.[...] Không có chỉ tiết nhỏ nào lọt qua mắt Stalin cả" [149: 141].

Đảng và Nhà nước ở Liên Xô, cũng như ở Việt Nam, coi văn hoá văn nghệ là lĩnh

vực cực kỳ quan trọng đối với đời sống tinh thần xã hội, liên quan đến sự nghiệp cách

mạng văn hóa - tư tưởng, đến thắng lợi của cách mạng XHCN. Vì thế, không chỉ trên

những đường lối chung, mà nhiều khi Đảng và Nhà nước còn quan tâm sâu sắc, lãnh đạo

và chỉ đạo những việc cụ thể. Sự quan tâm quá mức cần thiết của chính quyền vào văn

học - một lĩnh vực vốn đòi hỏi cao về tính năng động và tự do sáng tạo, đã để lại những

hậu quả không lường trước. Nhà nước dành cho nhà văn những Ưu đãi, một sự quan tâm

với thiện chí ban đầu khá là tốt đẹp, nhưng hậu quả lại tạo ra những mầm mông một chủ

nghĩa quan liêu, giáo điều trong văn học. Một quy ước bất thành văn bản dần dần được

hình thành: nhà nước lo chỗ ăn, chỗ ở, việc in ấn, tổ chức dư luận, bù lại, người viết phải

viết theo một số đề tài được quy định sẩn, một phương pháp sáng tác rõ ràng. Fadeev

phải viết lại Đội cận vệ thanh niên vì bản thứ nhất "không thể hiện rõ vai trò của Đảng"

(C. Simonov cho là bản thứ nhất hay hơn vì giàu chất thơ), không sao hoàn thành tiểu

thuyết Ngành luyện kim đen vì đó là đề tài được "đặt hàng", không thuộc sở trường của

ông. Khói quê hương của C. Simonov bị phê phán vì "đi trật đường ray", trường ca lừng

danh Quyền tưởng nhớ của Tvardovski - Tổng biên tập tạp chí Novyi Mri (Thế giới mới)

không được công bố cũng vì lẽ đó, rồi bản thân Novyi Mri bị đình bản một thời gian và bị

thay toàn bộ ban biên tập cũng vì lẽ đó. Chủ nghĩa quan liêu làm cho nội dung văn học

trở nên nghèo nàn, hình thức trở nên đơn điệu, nhợt nhạt. Claude Ligny trên tờ Esprit

tháng 2/1959 trích dẫn ghi nhận của một nhà văn Xô viết rằng trong hầu hết tiểu thuyết

bấy giờ người dân Nga không còn nói tục, không đánh lộn, không nhậu nhẹt nữa; họ bây

60

giờ chỉ nâng cốc nhấp môi tí chút vào những dịp đám cưới hay để trịnh trọng cất tiếng

chúc mừng đứa trẻ - người công dân tương lai của nông trường, mới ra đời. Độc giả giở

đến bất cứ tác phẩm nào lúc này đều thấy nói đến "cuộc tiến triển không ngừng lớn mạnh

của xã hội Xô viết không còn mâu thuẫn", đến "cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái tốt

hơn".

Cách thức quản lí còn chi phối và ảnh hưởng đến các hoạt động nghề nghiệp của

người cầm bút. "Trong khi từng người viết lo giữ gìn, cả giới văn học lo giữ gìn, xét nét

nhau... thì bộ máy văn học vì nhiều lí do lại trở nên nặng nề, cồng kềnh quá mức. Tôn tỉ

trật tự khắc nghiệt được lập ra. Trật tự này dựa theo trình độ nghề nghiệp một phần,

nhưng phần chủ yếu, do vị thế mà người viết dành được trong cơ chế [...] Tóm lại, tài

năng nghệ thuật phải đổi ra ngạch bậc, chỗ đứng thì mới "có ý nghĩa thực tế". [149:

145]. Cuốn tiểu thuyết Chức vụ mới của A. Bach (viết năm 1964, in năm 1986) phần nào

đã cho ta thấy cơ chế quan liêu trước đây đã thu hẹp con người, làm biến chất tài năng ra

sao. Trên báo Tin tức (Izvestie) ngày 1/1/1988, B.Vasiliev than phiền rằng không hiếm

khi nhà văn thấy những đãi ngộ của Nhà nước như một thứ ràng buộc ngòi bút, "khiến

cho cả người được nhận lẫn người chưa được nhận đều cảm thấy mất hết thoải mái".

Báo Sự thật (Pravda) ngày 28/ 8/1988 thống kê: từ 1924 đến 1951 có tới 1.735 tác giả

được nhận giải thưởng văn học nghệ thuật. Nhưng điểm lại, tờ báo nhận định, chỉ có một

vài tác phẩm thật sự có giá trị, còn hầu hết là những tác phẩm "thường thường bậc trung",

những đề tài và cách viết an toàn, theo đúng đường ray được định sẩn. Những tác phẩm

như thế nhanh chóng bị rơi vào lãng quên. Trong khi đó có những nghệ sĩ thực sự tài

năng như Paustovski, Tendriacov... trong đời không nhận được giải thưởng, danh hiệu gì,

vẫn được bạn đọc càng ngày càng ái mộ.

Cũng với cơ chế quản lí văn hóa trên, trong một thời gian dài nhà văn Việt Nam

được hưởng lương trong biên chế, họ sống bằng lương và nhuận bút sáng tác chỉ là phần

phụ thêm. Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng đất nước, chế độ sắp xếp trả lương cho

hầu hết các nhà văn hội viên Việt Nam có thể không gây tác hại gì cho cảm hứng lớn

hướng về giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Nhưng tình trạng đó kéo dài tất nảy

61

sinh những điều bất cập, nhất là khi đất nước đã chuyển sang thời bình. Khi nhà văn

không sống bằng việc bán sản phẩm (tác phẩm) của mình mà sống bằng lương, đã hạn

chế rất nhiều sự năng động sáng tạo. Cơ chế tổ chức và hoạt động của Hội Nhà văn trong

quá trình tồn tại của mình không phải không gây những thắc mắc. Trong bài phát biểu

chào mừng Hội nhà văn Việt Nam tròn 30 tuổi (1957 - 1987) Nguyễn Đình Thi đã từng

nêu những thiếu sót và bất hợp lí của khâu quản lí kiểu đó là không "tạo điều kiện cho

công việc sáng tác": “Cơ quan Hội Nhà văn, trong quy định hiện nay, được coi như một

cơ quan hành chính sự nghiệp, xếp ngang với một Vụ. Cơ chế tổ chức như vậy hoàn toàn

không thích hợp với chức năng cửa Hội là một đoàn thể của những người làm công việc

sáng tác. Về chế độ thừ lao của tác phẩm, gọi là chế độ nhuận bút, được hình thành từ

những năm chiến tranh, đã trở thành vô lí”[185: 219].

Vương Trí Nhàn viết: "Từ sau cách mạng, khỉ nói về nghề viết văn, chúng ta thường

hay nói đây là một công tác cách mạng mà không xem là một nghề kiếm sống. Đại khái

thấy ai có năng khiếu viết lách là các cơ quan báo chí xuất bản liền kéo về làm công việc

cận kề với sáng tác như phóng viên, biên tập viên. Rồi dần dần, trong những trường hợp

đặc cách mà lớp người trên 40 này mới có vài người được hưởng, còn chủ yếu dành cho

các ngồi bút cao niên, tách ra thành sáng tác chuyên nghiệp, không phải làm gì mà vẫn

được hưởng lương đều đều, lên lương đều đều, việc xếp lương và lên lương này dựa vào

thâm niên tham gia cách mạng, chứ không phải chất lượng sáng tác. Còn nhuận bút là

chuyện phụ, thêm thắt vào cho đỡ tủi, cả người trả lẫn người nhận đều hiểu không ai

sống bằng nhuận bút, thôi Nhà nước đã quy định vậy, thì ta cũng theo vậy. Nói gọn lại, là

đến nay chúng ta chỉ có những cán bộ viết văn chứ không có những người viết vân sống

bằng nghề nghiệp của mình" [145: 141]. Trong chế độ bao cấp trước kia số ấn bản cho

mỗi đầu sách, như đã biết, là rất lớn, nhưng sách thật sự có giá trị không thì chưa biết và

mức phát hành không thay đổi nhuận bút trả cho người viết, do đó, con số ấn bản này

không làm thay đổi tình hình sinh hoạt văn học cũng như mức thu nhập của nhà văn.

Không phải ngẫu nhiên mà nhiều các nhà văn Việt Nam đều có "nghề câu cơm" khác,

chứ không mưu sinh được hoàn toàn nhờ ngòi bút.

62

Sự đồng nhất tư cách nhà văn với tư cách cán bộ nhà nước ăn lương hành chính đã

tạo nên một lớp nhà văn hành chính, một nền văn học, mà Lại Nguyên Ân có lần, trong

tạp chí Tác Phẩm Mới số 6/1992, mượn từ dùng của Vũ Tú Nam, đã định nghĩa: "Nền

văn học mà chúng ta có hiện giờ, theo một nghĩa nào đó, chính là nền-văn-học-cán-bộ".

Nền văn học này trở thành một bộ phận trong guồng máy nhà nước, mà ở đó mỗi người

cầm bút là một công chức được trả lương và có nghĩa vụ làm tròn bổn phận của kẻ ăn

lương. Với đặc tính này, người cầm bút, một cách rất tự nhiên, dần dần hình thành thói

quen viết trung thành với với các quan điểm, chính sách Nhà nước, coi đó là trách nhiệm

đối với xã hội, tập thể, dẫn đến hệ quả là trong nền văn hóa - văn học hành chính này

bảng giá trị văn học bị khuynh loát bởi những yếu tố ngoài văn học. Hiện tượng này cũng

từng đã xảy ra ở Liên Xô: "Việc kiểm soát văn hóa cũng được thực hiện thông qua việc

thay thế hệ thống giá trị và các quy định đang chi phối từng xã hội đặc thù bằng một hệ

thống giá trị chung, được thống nhất quy định" [15:38]. Theo bảng giá trị này, địa vị, học

vị, tuổi tác của người cầm bút nhiều khi có tầm quan trọng hơn sáng tác của anh ta.

Nhìn nhận lại một số hạn chế của cách quản lý văn hóa - văn học như vậy là việc

làm và thái độ cầu thị cần thiết cho chúng ta trong những chặng đường phát triển tiếp

theo của văn học nước nhà. Viện sĩ D. Likhachev vững tin vào việc làm ấy: "Chúng ta

phải học cách biết thừa nhận những sai lầm của mình bởi vì việc thừa nhận những sai

lầm không hề làm giảm phẩm giá của con người, của xã hội, trái lại còn gây nên ý thức

về niềm tin và sự tổn trọng đôi với con người cũng như đổi với xã hội." [105]

2.2 - Văn học Việt Nam tiếp nhận lí luận văn học Xô viết

2.2.1 - Lý luận văn học Xô viết trong đời sống chính tri xã hội Việt Nam

Lý luận của văn học Xô viết có nguồn gốc và đặc điểm riêng làm nên tính chất cá

biệt của nó.

Tính chất thứ nhất là chính trị hóa văn học. Từ thế kỉ trước, trong quá trình phát

triển, lí luận văn học Nga luôn luôn tồn tại đồng thời hai khuynh hướng đối lập nhau. Một

đằng chủ trương nhấn mạnh nội dung, coi nhẹ hình thức: nội dung mới là bản thể của văn

63

học, văn học là công cụ của đấu tranh giai cấp, không để ý đến đặc điểm tự thân của văn

học. (Điển hình là lí luận văn nghệ hiện thực chủ nghĩa do phái cách mạng dân chủ gồm

Chernysevski, Dobroliubov... làm đại biểu). "Truyền thống này làm thành một đặc điểm

riêng biệt của văn học Nga, một nền văn học thực hiện chức năng của triết học, xã hội

học, đạo đức học ngay cả ở thời kỳ mà khoa học xã hội đã đi sâu vào chuyên môn hoá"

[3: 18]. Một đằng, ngược lại, lại nhấn mạnh đặc tính tự thân của văn học, cho hình thức

mới là bản thể của văn học, phản đối việc coi văn học như là công cụ đấu tranh giai cấp,

đề cao cá tính của nhà văn, thậm chí tuyệt đối hóa hình thức, hoàn toàn cắt đứt mối quan

hệ giữa văn học và đời sống. (Đại diện cho lý luận "thuần nghệ thuật" của phái tự do này

là A.v. Droiýinine, v.p. Botkin, p. A. Annenkov). Sang thế kỉ XX hai khuynh hướng đối

lập này vẫn cùng tồn tại suốt hơn 70 năm qua trong xã hội Xô viết và không ngừng luận

chiến với nhau, làm phát sinh rất nhiều trường phái nghệ thuật khác nhau. Trên con

đường hình thành, văn học Xô-viết - nền văn học nảy sinh từ bão táp cách mạng và cuộc

nội chiến khốc liệt - đã chịu ảnh hưởng của khuynh hướng thứ nhất, nhìn thấy mối liên

kết giữa văn học và chính trị, coi văn nghệ là công cụ phục vụ, tuyên truyền cho chính trị,

do đó văn học phụ thuộc vào chính trị. (Và dĩ nhiên thuyết "nghệ thuật vị nghệ thuật" và

thuyết "hình thức chủ nghĩa" bị phê phán nghiêm khắc.) Những khẩu hiệu về chủ nghĩa

nhân đạo mới gắn liền với việc khẳng định vai trò tiên phong của tính giai cấp, khẳng

định nguyên tắc tập trung hóa và phân chia bình quân chủ nghĩa tất cả, bất kể lĩnh vực vật

chất hay tinh thần. M. Epstein ghi nhận: "Trong xã hội Xô viết những năm 1920 - 1930

các quá trình "phì đại" diễn ra trong khắp các lĩnh vực đời sống xã hội. Ở đây ưu thẳng

thuộc về tư tưởng cộng đồng, tính xã hội hóa, chủ nghĩa cá nhân bị kết án là một tội lỗi

trầm trọng, là tàn dư của quá khứ. Chủ nghĩa tập thể được xem như một nguyên tắc đạo

đức cao nhất. Kinh tế được xây dựng trên cơ sở công hữu hóa sở hữu cá thể. Cái xã hội

đứng cao hơn cái cá nhân. Tồn tại xã hội quy định ý thức. Trong nhà máy, công xưởng,

nông trang và trong các chung cư thành phố diễn ra phong trào giáo dục con người mới,

con người mới ấy phải trở thành một "đinh ốc" thừa hành tự giác của bộ máy tập thể

khổng lồ." [47: 275]. Chủ nghĩa hiện thực XHCN đã xuất hiện trong tình hình ấy, đã hoàn

toàn gắn khái niệm chính trị và văn học vào với nhau. Các vấn đề thuần túy văn học luôn

64

có sự tham gia góp ý của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Các đường hướng, khái

niệm, thuật ngữ lí luận đều gắn với ý nghĩa chính trị. Ví dụ, người hoạch định chính thức

cho phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp sáng tác chủ yếu trong văn

học Xô viết là Jdanov - nhân vật chủ chốt lúc bấy giờ của Đảng Cộng sản; hay như, "điển

hình trong nghệ thuật" được định nghĩa như là "phạm trù cơ bản của tính Đảng biểu hiện

trong nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa", là "sự nhất trí với bản chất hiện tượng lịch sử xã

hội nhất định".

Tính chất thứ hai của lí luận Xô viết là tính triết học hóa. Nhiều khái niệm văn học,

hiện tượng văn học được lí giải dưới ánh sáng của triết học biện chứng duy vật, đặc biệt

là của phản ánh luận của Lênin. Không ít các lí giải ấy khá là thuyết phục, song không

phải bất cứ khái niệm lý luận nào cũng có thể dùng chiếc chìa khóa triết học để khám

phá, nhiều khi chìa khóa ấy còn làm cho cái cần được lí giải lại trở nên trừu tượng, trống

rỗng.

Tính chất thứ ba của lí luận Xô viết là tính biệt lập. Lý luận Xô viết được hình

thành đồng thời với quá trình xây dựng một mô hình xã hội mới lần đầu tiên trên thế giới

- một mô hình đối đầu về mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa với một phe đáng

gờm là chủ nghĩa tư bản do Mỹ đứng đầu. Hai bên dàn trận phong tỏa lẫn nhau, chống

chọi với nhau. Lẽ tất nhiên, nằm trong thế đối đầu với các hệ thống lý luận khác ở

phương Tây, lý luận Xô viết tự cô lập mình và không chấp nhận những gì khác mình,

nhất là với những biểu hiện của chủ nghĩa hình thức, trong nước cũng như ngoài nước.

Khi đi ra nước ngoài, trong đó có Việt Nam, lý luận Xô viết đã mang theo những

đặc tính trên, và chúng ta chấp nhận nó như một sự hợp lí. Trần Độ nhận xét: "Việt Nam

tiếp xúc với văn học Xô viết gần sát ngay sau khi tiếp xúc với tư tưởng Mác-Lênin, và vì

vậy, gần như đồng thời [...]. Nhìn lại lịch sử Liên Xô và lịch sử văn học Xô viết, chúng ta

sung sướng thấy có một sự thống nhất giữa văn học Xô viết và văn học Việt Nam về

phương hướng tư tưởng, thống nhất về yêu cầu tỉnh Đảng và thống nhất về yêu cầu

phong phú, đa dạng của văn học. Những công trình lí luận văn học của Liên Xô giúp

chúng ta nhìn ra rõ hơn những vấn đề của mình." [44].

65

Với sự ra đời của Đảng Cộng Việt Nam, khuynh hướng tư tưởng mỹ học mácxit, lí

luận Xô viết đã xuất hiện ở Việt Nam từ năm đầu thập niên 30. Trong cuộc tranh luận

trên báo chí về quan điểm giữa hai phái Nghệ thuật vị nhân sinh (đại diện là Hải Triều)

và Nghệ thuật vị nghệ thuật (đại diện là Hoài Thanh) từ 1935 đến 1939 những tư tưởng

ấy công khai xuất hiện, nhất là khái niệm Tả thực xã hội (Realisme socialiste). Khái niệm

ấy được sử dụng như một thuật ngữ của một nền văn học mới của giai cấp vô sản với các

đại biểu ưu tú của nó là M. Gorki, H. Barbusse và R.Rolland. Ở Việt Nam, nó được

khẳng định như một yếu tố của nền văn học xây dựng cuộc sống mới: "Chủ nghĩa tả thực

xã hội cốt ở sự tả một cách chân thật, rành mạch những hiện trạng qua khứ hay hiện tại,

làm thế nào cho sự tả thực ấy có thể đưa quần chúng đến giác ngộ, tranh đấu để kiến

thiết xã hội chủ nghĩa" [215]. Đến năm 1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam của

Đảng mà ông Trường Chinh chấp bút, thuật ngữ này lại xuất hiện một cách eụ thể và sinh

động hơn. Căn cứ vào thực tiễn đời sống tinh thần trong nước bấy giờ, đồng thời kết hợp

với xu thế phát triển mang tính cách mạng trong việc xây dựng một nền văn hóa - văn

nghệ mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, thuật ngữ Tả thực xã hội chủ nghĩa được sử dụng

để chỉ khuynh hướng của một nền văn nghệ mới. Sau 5 năm triển khai và thực hiện Đề

cương văn hóa, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai, trong văn kiện Chủ nghĩa

Mác và văn hóa Việt Nam (1948), Trường Chinh đã chuyển thuật ngữ này thành thuật

ngữ Hiện thực xã hội chả nghĩa. Và vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chã nghĩa chính

thức được hình thành. Danh ngữ ấy, từ đó, trong một thời gian dài, gắn liền với sự phát

triển của nền văn học Việt Nam: "Về sáng tác văn nghệ, lấy chủ nghĩa hiện thực xã hội

chủ nghĩa làm gấc [...] không những chúng tả đúng xã hội cũ vì sao phải chết, mà còn tả

đúng xã hội mới vì sao tất nhiên sẽ ra đời và trật tự mới đại khái sẽ ra sao. Trong khi bày

tỏ sự thật hiện tại, chúng chỉ vạch con đường trước mắt cửa lịch sử. Cho nên trong thời

đại chúng ta hiện nay, văn hóa cách mạng nhất là văn hóa hiện thực xã hội chủ nghĩa".

[20: 19, 31]. Cùng với nó là sự hiện diện của nhiều khái niệm lí luận quan trọng khác,

cùng chi phối, không chỉ văn học, mà còn nhiều lĩnh vực khác của đời sống văn hóa tinh

thần nước ta, nổi bật nhất là nguyên tắc tính đảng. Và cũng bắt đầu từ đây, chính trị thâm

nhập vào vào hầu hết các hoạt động tinh thần xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật. Văn

66

chương với tư cách là vũ khí của cách mạng đã "tải đạo" cách mạng vào tiến trình văn

học tạo nên một mầu sắc riêng biệt và những giá trị mới cho văn học.

Chủ nghĩa hiện thực mà trước hết là một khái niệm triết học, sau mới thành một

khái niệm nghệ thuật, chỉ một trào lưu tư tưởng nghệ thuật hoặc phong cách nghệ thuật ra

đời ở phương Tây thế kỉ XIX. Chủ nghĩa hiện thực được giai cấp vô sản trong buổi đầu

bước vào đấu tranh chính tri đón nhận như một vũ khí đắc dụng để nhận thức các mặt

tiêu cực và tha hóa của con người trong xã hột tư sản. Trong bối cảnh những năm đầu thế

kỉ XX, văn học Việt Nam nhìn thấy trong chủ nghĩa hiện thực một trách nhiệm nội tại là

gánh lấy những xung động và sứ mệnh của lịch sử. Yêu cầu nội tại này có nguồn gốc từ

tình yêu chân thành, sâu sắc, trăn trở đối với những vấn đề bức xúc của thời đại, của quần

chúng lao khổ. Trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, chiến tranh liên miên, người nghệ sĩ

có lương tri không thể nhắm mắt, né tránh trách nhiệm đối với quốc dân, dân tộc. Điều đó

cắt nghĩa vì sao văn học Việt Nam thế kỉ XX lại sẩn sàng trải lòng đón nhận và gắn bó

đến thế với chủ nghĩa hiện thực. Và cũng trong tâm thế như vậy người Việt Nam đến với

chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa hiện thực và Xã hội chủ nghĩa là hai khái niệm của các lĩnh vực khác

nhau, lần đầu tiên được ghép lại (không phải là không có phần khiên cưỡng) thành một

thuật ngữ chỉ một đường hướng sáng tác của một giai đoạn văn học nhất định của một số

nền văn học vô sản. Tại Đại hội các nhà văn Liên Xô lần thứ I (1934) nó được khẳng

định là phương pháp sáng tác chủ yếu của văn học Xô viết . Trong bản Dự thảo điều lệ

Hội nhà văn Liên Xô có ghi rõ: "Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp

chủ yếu của văn học và phê bình văn học Xô viết, phương pháp đòi hỏi người nghệ sĩ

phải miêu tả một cách chân thực và cụ thể— lịch sử hiện thực trong sự phát triển cách

mạng của nó. Ở đây tính chân thực và tính cụ thể - lịch sử của việc miêu tả nghệ thuật

phải kết hợp với nhiệm vụ cải tạo vàgiáo dục tư tưởng đối với người lao động theo tinh

thần xã hội chủ nghĩa” [dẫn theo 170: 310].

Hiện thực có nghĩa là chân thực phản ánh cuộc sống như nó diễn ra, nội dung sự

việc là quan trọng và cách nói ra hay nhất là rõ ràng nhất, dễ hiểu nhất, không khuyến

67

khích sự tìm kiếm thuần về mặt hình thức. Và xã hội chủ nghĩa thêm vào như một định

ngữ để minh định bản chất của cái hiện thực được phản ánh. Hai khái niệm này cộng lại

với nhau đòi hỏi nhà văn diễn giải những vấn đề của người lao động trong đời sống hàng

ngày, người chiến sĩ trong cuộc đấu sức giai cấp và cách mạng mà tương lai tươi sáng là

kết cục trông thấy trước. Xuất xứ từ một thời cơ cách mạng, phát triển nhiều thập niên

trong khí hậu triền miên một chủ nghĩa xã hội cứu thế, trong sự tách biệt với bên ngoài,

chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi cấp thiết một loại công dân trung thành và

phấn đấu cho một xã hội trong sự cạnh tranh với phần còn lại của thế giới. Một thời đại

với nhiều biến cố từ 1917 - 1945 rồi những năm tháng cũng rất biến động sau đó đã tác

động và cuốn hút ào ạt nhiều thế hệ công chúng và nhà văn đến với hiện thực đít nước,

nhìn hiện thực đó trong phát triển biện chứng, kết cục tốt đẹp. Sống trong thời nội chiến,

làm quen với chính sách NÉP, với sự nỗ lực vĩ đại của những kế hoạch năm năm hoành

tráng, sự hưng khởi rộn ràng của Liên bang Nga Xô viết trong đại hòa tấu hệ thống

XHCN trên thế giới, các thế hệ đó tin tưởng vào cuộc sống, vào những ý nghĩa mà đang

được chứng thực. Việt Nam đón nhận chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đồng thời với

cuộc cách mạng - một "cuộc hồi sinh mầu nhiệm" (Hoài Thanh) trong cả cảm xúc văn

chương, cho nên cũng trong tinh thần tin cậy và tươi sáng đó.

Từ những năm 30, 40 trở đi, lý luận văn học mácxit đã thực sự bám rễ vào thực tiễn

của văn học Việt Nam để trở thành một bộ phận hữu cơ trong lý luận đấu tranh cách

mạng giải phóng dân tộc, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.

Từ sau 1954 đến 1975 đất nước lại phải tiếp tục chịu đựng một cuộc chiến tranh khốc liệt

và ở trong tình thế quốc gia bị chia đôi, trong một thế giới cũng bị phân đôi, con người

càng thấy phải nỗ lực đấu tranh cho một hiện thực tươi sáng. Nghĩa là xã hội Việt Nam từ

đầu thế kỉ XX đến những năm gần đây trải qua một thời kì lịch sử đáng ghi nhớ với nhiều

biến động, với nhiều giá trị mới, xác tín mới được hình thành, củng cố. Và một khi đã là

những xác tín, thành thói quen, người ta nhiều khi không phải suy tư và bàn cãi nữa, đôi

khi không còn cần phải gò ép bằng kỉ luật của ý thức hệ.

68

Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải thể hiện một nội

dung và hình thức rõ ràng nhất, dễ hiểu nhất chính là sự phù hợp với yêu cầu về tính đại

chúng trong văn học. Trong Đại hội văn hóa toàn quốc ngày 19/7/1948, Trường Chinh

giải thích thế nào là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn nghệ, nhấn mạnh

đến tính rõ ràng, dễ hiểu của văn chương. Sau khi trích Engels, ông dẫn tài liệu Tự do

sáng tác của nhà văn Xô viết A.Tolstoi: "Nhiệm vụ của người nghệ sĩ là rút trong sự thật

cái gì là điển hình, cái gì mà bạn đọc có thể nhìn một cái là thấy ngay; thu lượm những

việc, ý niệm, mâu thuẫn vào trong một hình ảnh sinh động và chỉ ra con đường thật nó

đưa đến một tương lai thật" [20:3]. Ít lâu sau, tiếp tục bàn thêm về hiện thực xã hội chủ

nghĩa nhà văn Nguyễn Đình Thi trong bài Tìm nghĩa Hiện thực mới in trong Văn Nghệ

số 10 tháng 3/1949 cũng khẳng định điều đó một lần nữa.

Từ đây chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã được định nghĩa một cách rõ ràng,

và trong một thời gian dài người ta lặp lại những định nghĩa đó, tin rằng như thế mới là

nghệ thuật đích thực. Người ta thấy cần thiết "phải chống lại các khuynh hướng trừu

tượng, thần bí trong nghệ thuật Tác phẩm nghệ thuật phải trong sáng, giản dị, đến được

với mọi người. Đề tài, chủ đề, cách thể hiện rõ ràng, đó là một biểu hiện của tính đảng và

tính nhân dân trong văn nghệ ta. Nghệ thuật xã hội chủ nghĩa không chấp nhận lối viết

mập mờ, lẫn lộn có tính chất biểu tượng hai mặt. Nội dung lành mạnh đòi hỏi biểu hiện ở

một hình thức trong sáng, giản dị." [46: 300].

Người đặt nền móng cho nguyên tắc tính đảng trong văn học là Marx và Engels, và

người kế thừa, phát triển và thực hiện nguyên tắc này trong hoàn cảnh cụ thể là Lenin.

Những luận điểm quan trọng của nó được thể hiện trong bài báo nổi tiếng Tổ chức của

Đảng và vấn nghệ Đảng (1905). Bài báo đó sau này được coi là văn kiện quan trọng

trong việc thể hiện cương lĩnh cách mạng của văn học vô sản, được áp dụng vào nhiều

bình diện, từ triết học đến các khoa học kinh tế và văn học nghệ thuật. Ra đời trong hoàn

cảnh đấu tranh chính trị gay gắt giữa nhiều phe phái đối lập, nguyên tắc này đòi hỏi "mỗi

khi đánh giá một sự biến, phải trực tiếp và công khai đứng trên quan điềm của một tập

đoàn xã hội nhất định'' [117:525]. Nguyên tắc tính đảng được đặt ra trước nhà văn như

69

một trách nhiệm có tính nguyên tắc trong việc phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng

Cộng sản, trở thành nền móng lí luận của văn học cách mạng vô sản và được coi như linh

hồn của tác phẩm văn học cách mạng. Việt Nam trên con đường hình thành, phát triển

một thể chế xã hội mới, một nền văn học mới đã tiếp thu nguyên tắc này. Trong Đại hội

văn nghệ toàn quốc lần thứ III (1962), nguyên tắc tính đảng được khẳng định vững chắc

về tư tưởng lẫn tổ chức, cả về lí luận lẫn thực tiễn, trong chỉnh thể to lớn là trào lưu, lẫn

chỉnh thể nhỏ hơn là người nghệ sĩ và tác phẩm. Nguyễn Khải trăn trở: "Hình như có một

khoảng cách nào đó với giữa người cầm bút với người cầm quyền [...] Phần tôi, mỗi lần

có va chạm ấy tôi luôn luôn là người nhân nhượng trước tiên. Lý do rất đơn giản: tôi là

một Đảng viên, tôi phải chấp hành đầy đủ các nghị quyết của Đảng. Đó là sự ràng buộc

tự nguyện của tôi từ ngày vào Đảng" [90: 64].

Có lẽ nên nhìn lại hoàn cảnh ra đời của bài báo Tổ chức Đảng và văn nghệ tính

Đảng, để thấy rằng đây không phải là công trình lí luận văn học thuần túy, và càng không

nên dùng để áp dụng vào mọi hoàn cảnh, thời đại. Bài báo của Lênin về văn học Đảng ra

đời trong một hoàn cảnh đấu tranh giai cấp gay gắt, mà tính không khoan nhượng của các

phe phái đối lập là sự sống còn, không phải là bài báo nói về văn học nói chung. Chúng

ta không nên máy móc áp dụng quan điểm đó vào giai đoạn bất kì nào cũng được trong

lịch sử. Ở bài báo đó Lênin với tư cách một lãnh tụ viết chủ yếu về công tác tổ chức (chỉ

đến cuối cùng mới đề cập rất ít về nội dung của tác phẩm văn học, mà không phải tất cả

nằm trong nguyên tắc tính đảng mà Người đề ra). Từ bài báo này, các nhà văn Xô viết rút

ra nguyên tắc tính đảng như một phạm trù thuộc tính khuynh hướng của tác phẩm (tức là

tính tư tưởng của nhà văn). Khi sang Việt Nam, tính đảng trở thành một thuộc tính quan

trọng của văn học, bao trùm nhiều lĩnh vực văn hóa.

Nguyên tắc tính đảng cũng như khái niệm Hiện thực xã hội chủ nghĩa có mối quan

hệ có tính chất chỉ đạo đối với những khái niệm lí luận khác, như tính dân tộc, tính đại

chúng, tính điển hình, thuyết không xung đột, bi kịch lạc quan...

Tính đại chúng là một yêu cầu của văn nghệ Việt Nam, về cơ bản, phù hợp với

phương hướng của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, được đặt ra trong Đề cương văn

70

hóa Việt Nam 1943 lúc đầu rất sơ lược, chỉ để chống những văn hóa xa rời quần chúng

hoặc phản lại đông đảo quần chúng. Nhưng sau đó nhận thức lại vị trí, vai trò của văn

hoá, Đảng đã điều chỉnh dần từ khái niệm đại chúng thành khái niệm tính nhân dân và

sau cùng là tính nhân văn của văn hóa. Nhìn lại, đặt vấn đề đang xét vào hoàn cảnh lịch

sử cụ thể, ta thấy những nhận thức khe khắt, có phần cực đoan, vào thời điểm 1943, sắp

tổng khởi nghĩa, có thể lại là cần thiết (những nhận thức này rồi sẽ dần dần được điều

chỉnh qua các văn kiện mới của Đảng sau này, khi đất nước bước vào xây dựng kiến

thiết). Trong một hoàn cảnh như vậy, những vấn đề văn hóa không thể mang tính nghệ

thuật thuần túy, và lịch sử đòi hỏi sự cần thiết tìm một tư thế chính trị văn hóa trước khi

nói đến văn hóa. Cho nên, có thể nói, Đề cương văn hóa Việt Nam là sự trả lời nhu cầu

cấp bách nổi lên trong thời điểm trọng đại của lịch sử. Nó đã làm trọn trách nhiệm lịch sử

đặt ra và góp phần quan trọng vào thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, đồng

thời góp phần tạo cơ sở xây dựng một nền lí luận của nền văn hóa mới trong kháng chiến

chống Pháp. Văn học Việt Nam suốt chặng đường phát triển từ 1945 đến sau 1975 một

thời gian (trùng với thời kỳ tiếp nhận văn học Xô viết) là “giai đoạn văn học hướng về

đại chúng, trước hết là công nông binh” [134: 52]. Tính hướng về đại chúng của văn học

giai đoạn này là một sự hợp lý và cần thiết, vì "cách mạng và kháng chiến phải dựa hẳn

vào công nông và trước hết nhằm giải phóng công nông. Cho nên văn học phục vụ chính

trị, cổ vũ chiến đấu tất phải hướng về công nông binh. Đây là đối tượng phản ánh, là

công chúng văn học, là lực lượng sáng tác.'' [134: 52].

Yêu cầu về tính đại chúng trong văn học đã đem đến cho giai đoạn văn học này một

sắc diện riêng so với những giai đoạn văn học trước đó, nhưng lại là một sắc diện chung

cho hầu hết các tác phẩm thời kỳ này.Giác ngộ về vai trò vĩ đại của quần chúng, văn

nghệ sĩ cảm thấy vui sướng được phục vụ cho quần chúng, cho cách mạng. Họ đến gần

với cuộc sống của nhân dân hơn, cùng nhân dân "nhập cuộc", tham gia vào những biến

động lớn của đất nước và trong quá trình ấy họ đã trưởng thành về tư tưởng cũng như bút

lực. Lực lượng sáng tác giai đoạn này rất hùng hậu, nhiều cây bút nổi lên trong những

phong trào sáng tác đại trà, đặc biệt là trong quân đội. Nguyễn Văn Long nhận định:

71

"Con người quần chúng là một phát hiện nghệ thuật quan trọng bậc nhất của nền văn

học thời kì kháng chiến chống Pháp, và nó còn tiếp tục chi phối văn học các giai đoạn

sau." [120: 21].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra câu hỏi: Viết cho ai? Viết gì? Viết như thế nào? Trong

đó "Viết cho ai" được đặt ra như phương châm đầu tiên của văn nghệ kháng chiến. Viết

cho đông đảo quần chúng mới thoát nạn mù chữ. Viết những gì quần chúng đang mong

mỏi. Viết là nhằm cho công chúng hiểu và yêu thích. Văn học mất dần đi vẻ trang trọng,

cách biệt, chỉ dành riêng cho một đối tượng hẹp có học thức ở thành thị. Các phong trào

văn nghệ quần chúng, báo tường, các cuộc thi viết đại trà... không những mở rộng đối

tượng đọc mà cả đối tượng viết. Các nhà văn trong kháng chiến chấp nhận một cách tự

giác chủ trương văn nghệ "hướng về đại chúng" của Đảng. Họ cảm phục quần chúng

công nông đã làm nên những sự nghiệp to lớn trong cách mạng và kháng chiến, tự hào vì

được phục vụ khối cộng đồng ấy, được gắn bó với nó. Tách rời khỏi khối cộng đồng đó

họ thấy mình thật "nhỏ bé", thậm chí "tội lỗi". Trong những ngày "ở rừng" Nam Cao viết

bất cái gì, từ một tin ngắn đến bài dài, viết xong đều ''đưa cho một chú giao thông người

Thổ đọc trước và hỏi xem có hiểu cả không. Chỗ nào chú không hiểu viết lại, chữ nào

chú chưa quen thay bằng chữ khác" [dẫn theo 104: 735]. Thói quen viết ngắn, dễ hiểu này

sẽ còn ảnh hưởng lâu dài, và đến cả lĩnh vực thi ca. (Tế Hanh thổ lộ: "Tôi muốn viết

những bài thơ dễ hiểu/ Như những lời mộc mạc trong ca dao").

Những thành tựu văn học của văn học giai đoạn này là không thể phủ định được,

nhưng bên cạnh đó, chính tính chất "đại chúng" này cũng ngăn trở không ít sự phát triển

của tiến trình văn học. Tính đại chúng trong văn học đã phát huy được sức mạnh tập hợp

lực lượng trong sự nghiệp của cộng đồng, đó là một chủ trương đúng đắn và kịp thời cho

một giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, ngay cả khi rất mực hợp lý, có những chủ

trương vẫn để lại những hậu quả lâu dài, cần được khắc phục khi đã không còn thích hợp.

Quan niệm văn chương bắt nguồn từ đại chúng, phải phục vụ đại chúng và cần được sự

công nhận của quần chúng bình dân, xét một cách toàn diện, không phải là một định lí

hữu hiệu trong mọi thời điểm để đo lường mọi giá trị nghệ thuật. (Trong Diễn văn đọc tại

72

Đại hội vấn nghệ toàn quốc lần thứ II(12/1962), ông Trường Chinh nêu rõ: Công chúng

đóng vai trò quyết định trong thẩm bình tác phẩm văn học. Nếu có sự khác nhau giữa

người viết và công chúng thì lỗi chắc chắn ở tác giả.)

Coi quần chúng là độc giả, thậm chí là nhà phê bình có thẩm quyền cao nhất,

nghiễm nhiên sẽ dẫn đến một hệ quả là: thước đo cao nhất của thành công trong văn

chương là sự ái mộ của quần chúng mà đại đa số chưa được trang bị kiến thức cần thiết

để tiếp cận những thử nghiệm mới mẻ trong hoạt động sáng tạo. Cũng trong tinh thần như

thế, viết cái gì vượt quá tầm cảm thụ của đại chúng là bị quy kết "khó hiểu", "trừu

tượng", "suy đồi". Bài học của nhóm Xuân thu nhã tập muốn đổi mới một chút vào thập

niên 40 cho chúng ta thấy rõ điều đó. Với cách đánh giá hệ thống giá trị coi tư tưởng

chính trị được đặt lên hàng đầu, bên cạnh đó là tính hiện thực và tác dụng giáo dục của

tác phẩm, ta thấy sự phân chia thứ bậc hết sức rõ ràng và dứt khoat của ba dòng văn học

cách mạng, hiện thực và lãng mạn trước 1945. Kết quả là một số hiện tượng văn học có ý

nghĩa lớn như Thơ Mới, Tự Lực văn đoàn, Hàn Mạc Tử... một thời chưa được đánh giá

đúng mức.

Văn học sử tiếp nhận có những minh chứng cho thấy rằng bên cạnh những tác phẩm

bất hủ, nhất là văn học dân gian, được quần chúng khắp hành tinh biết đến và yêu mến,

không phải bất cứ tác phẩm nào được giới bình dân yêu thích đều là tác phẩm lớn, và

ngược lại, không phải bất cứ tác phẩm lớn nào cũng được quần chúng hiểu, ái mộ, thông

thạo. Thơ Nôm của Nguyễn Trãi - nhà tư tưởng thân dân, là mảng sáng tác có giá trị,

nhưng không phải bất cứ người bình dân nào cũng thuộc. Có bao nhiêu người đọc được

Dostoievski, Kafka, Hemingway...? Hội họa Ấn tượng, Siêu thực, nhạc thính phòng, nhạc

hoá tấu... không phải là loại hình nghệ thuật mà bất cứ người bình dân nào cũng am hiểu

và yêu thích. Những tác phẩm nghệ thuật đích thực thường có xu hướng chống lại mô

hình về cái đẹp đã hóa thạch, nghĩa là chống lại sự chờ đợi về cái quen thuộc của người

đọc, nó tồn tại như một sự phản đề những quan niệm thẩm mỹ cũ mòn, dễ hiểu. Cho nên,

có thể nói, những tác phẩm văn chương giá trị, tự bản chất nó, mang không ít những bất

đồng với ý kiến quen thuộc của đại chúng. Và, để tiến trình văn học tiếp tục phát triển,

73

không phải bản thân tác phẩm mà chính quần chúng mới là người có bổn phận giải hòa

những bất đồng đó.

Chủ nghĩa hiện thực yêu cầu tuân thủ tính điển hình hoá, thể hiện cho được bộ mặt

tinh thần và bộ mặt xã hội của con người: bộ mặt tinh thần là những chiều sâu bên trong

của tâm hồn con người, bộ mặt xã hội thể hiện trong mối quan hệ giữa nhân vật với

những người xung quanh. Con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa không bao giờ xuất

hiện như một cá nhân lẻ loi mà phải biết gắn bó mình trong quyền lợi của tập thể, mà vẫn

khẳng định bản sắc riêng của mình.

Năm 1957 Bùi Hiển bị phê phán nặng nề vì không tuân thủ tính điển hình như chủ

nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa quan niệm khi viết một truyện ngắn có tên là Ánh mắt:

ba thanh niên học sinh Huế ngày đầu cách mạng hăng hái rủ nhau sung vào đoàn Vệ quốc

với những ý nghĩ hào hùng có phần lãng mạn. Vỡ mặt trận, họ chạy lên chiến khu, tư

tưởng bắt đầu chao đảo. Một anh chết, một anh bỏ trốn, còn lại anh thứ ba thoát hiểm,

đang đêm lần vào xóm (vùng bị chiếm). Bị bà con xua đuổi, anh bỏ đi. Chỉ có một em bé

gái lần trong đêm tối trao cho anh mấy củ khoai và nói chuyện với anh. Tảng sáng anh

thức dậy, tìm đường về quê sống, thì lại thấy em bé gái. Anh đuổi em bé đi nhưng ánh

mắt của em vẫn trìu mến dõi theo bước chân anh và người chiến sĩ đã bước về phía chiến

khu.

Bùi Hiển nhớ lại: "Truyện Ánh mắt in ra trên tạp chí Văn nghệ do Hoàng Trung

Thông phụ trách, tòa báo liền nhận được bức thư dài 2 trang lớn của một nhà giáo phê

phán kịch liệt: ba người lính ấy khổng điển hình cho người chiến sĩ Vệ quốc, phần lớn mà

như họ thì làm sao có chiến thắng Điện Biên Phủ, có tình quân dân cá nước. Kết luận:

một truyện xấu." [76: 66].

Vào những năm 60 - 70 một số tác phẩm, quan điểm đi chệch con đường chung đã

bị phê phán gay gắt. Mạch nước ngầm của Nguyên Ngọc bị đánh giá là "tiêu cực, bi

quan", vì "tác giả không tìm được cách giải quyết đúng đắn mâu thuẫn tiến bộ và lạc

hậu, đánh giá thấp vai trò lãnh đạo tập thể của Đảng và không nhìn rõ tác dụng giáo dục

của tập thể đối với cá nhân" [224: 82]. vở kịch Con nai đen của Nguyễn Đình Thi bị

74

ngưng công diễn vì “quá thiên về cách thể hiện rắc rối ly kỳ [...] cho nên sức truyền cảm

cửa hình thức nghệ thuật đối với người xem đã bị hạn chế. Nhất là về mặt chính trị, điều

không có lợi là vở kịch có thể làm cho người ta hiểu lầm về mặt này hay mặt kia'”[224:

83].

Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học các lãnh tụ cách mạng vô sản Marx -

Engels và Lenin đặc biệt quan tâm đến những tác phẩm thuộc khuynh hướng hiện thực

(Marx, Engels cho rằng trong Tấn trò đời của Banzac các vị học được nhiều "chi tiết

kinh tế" hơn cả ở các nhà sử học, kinh tế học, thống kê chuyên nghiệp đương thời cộng

lại, Lenin thì coi Lev Tolstoi như "tấm gương phản chiếu cách mạng Nga"). Xuất phát từ

quan niệm xem văn học như một hình thái ý thức xã hội, phản ánh và góp phần cải tạo

hiện thực, ở Liên Xô từ những năm 30 có một định hướng rằng chỉ văn học hiện thực mới

có giá trị cao. Trên định hướng này, những gì đi chệch ra ngoài chủ nghĩa hiện thực thì bị

phê phán, bị coi là kém giá trị. Một khi chủ nghĩa hiện thực chỉ chấp nhận một khuynh

hướng hoành tráng, quy mô, chỉ chấp nhận một sự khái quát dưới "hình thức của bản thân

đời sống", thì tất cả những khuynh hướng khác, những cách khái quát khác đều bị đầy lùi.

Sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa là phải tuân thủ nguyên tắc "chân

thực, lịch sử, cụ thể, lạc quan trong quá trình phát triển cách mạng", cho nên những gì

không nói lên sự phát triển lạc quan đều bị hạ giá và lên án; bởi lẽ sự nghiệp xây dựng

XHCN, trong mong muốn và trong các dự án to nhỏ là luôn "đi từ thắng lợi này đến

thắng lợi khác", nếu có vấp váp, khó khăn thì "thắng lợi và thành công vẫn là cơ bản". Có

thể thấy rằng khái niệm chủ nghĩa hiện thực XHCN là một khái niệm nghệ thuật bị chính

trị hóa, nó xuất hiện và tồn tại trong một bối cảnh lịch sử cụ thể với những yêu cầu mang

tính vật chất trước mắt và trở thành một phạm trù thẩm mỹ của một thời đại trong khu

vực địa lý nhất định. Trong ứng dụng nó đã bị chi phối bởi thuyết ý chí - một thuyết

muốn con đường phát triển của văn hóa là con đường thẳng tắp, do ý chí lãnh đạo quy

định. Viện sĩ D. Likhachev nghiêm khắc nhận định lại: "Sự xuất hiện của chủ nghĩa cổ

điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực trong nghệ thuật là tự phát, "vô thức", và

chỉ mãi về sau mới được lí giải trong sáng tác. Bởi vậy, việc tạo dựng phong cách chủ

75

nghĩa hiện thực XHCN là hoàn toàn không bình thường và không dẫn tới một phong cách

riêng biệt nào cả. Người ta đã tạo ra một huyền thoại nhằm mục đích chính trị là đặt

nghệ thuật trong khuôn khổ chính trị. Phong cách chủ nghĩa hiện thực XHCN - đó là

phong cách làm việc của cơ quan kiểm duyệt chính thống và chỉ có thế mà thôi."[106: 24]

Như vậy là, chủ nghĩa hiện thực xã hội chả nghĩa và phương pháp sáng tác hiện

thực xã hội chủ nghĩa từ phương ười văn học Xô viết đã thật sự thâm nhập, bén rễ trổ

cành tươi tốt và ngự trị trong một thời gian dài ở Việt Nam. Đó là một sự thực lịch sử.

Với nó, chúng ta đã tìm thấy những sự thích hợp cho hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử Việt

Nam vừa qua. Và với nó, văn học Việt Nam đã trưởng thành, có những thành tựu không

thể bác bỏ - thành tựu, trước hết, gắn bó với những bước thăng trầm của lịch sử cách

mạng, kháng chiến và công cuộc kiến thiết nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng cũng trong

quá trình phát triển, phương pháp sáng tác này đã dần bộc lộ những hạn chế lịch sử cả

trên phương diện lí luận lẫn sáng tác mà nay chúng ta đang cần nhìn nhận lại: "Nhiều

thiên kiến chính trị chủ quan, nhiều cách hiểu có phần công thức, thậm chí giáo điều đã

biển chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong không ít trưởng hợp trở thành một thiết

chế nghệ thuật gò ép, thiếu tính năng động, thiểu khả năng thích ứng với nghệ thuật

phong phú, đa dạng. Quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống trở nên nghèo nàn, đơn điệu

bởi công thức tái hiện cuộc sống dưới chính hình thức của bản thân đời sống" [196: 7].

Có thể nói, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã hoàn kết sứ mệnh lịch sử của mình

cho một giai đoạn văn học gắn liền với chính trị. Thế kỉ XX đề ra yêu cầu giải phóng dân

tộc khỏi chủ nghĩa thực dân, rồi tiếp tục là hai cuộc chiến tranh để giành lại và bảo vệ nền

độc lập, tiến tới thống nhất đất nước, văn học đã hướng vào mục tiêu chính trị ấy, đóng

góp cho sự nghiệp của dân tộc. Do nhu cầu cách mạng, do các nhiệm vụ cấp bách có liên

quan đến vận mệnh dân tộc, văn học chỉ được phép đặt vào tầm quan sát của mình những

mặt tích cực, có lợi cho tập thể, sự nghiệp dân tộc. Có lợi - đôi khi có nghĩa là phải hy

sinh cái phần quan trọng, cốt lõi trong diện mạo chung của hiện thực. Cách mạng có khi

thoái trào, cuộc sống có lúc nhiều tiêu cực, nhưng người viết phải biết tránh hoặc có cái

nhìn lạc quan. Đó là những yêu cầu, hay như lời của Phong Lê, đó là "một tất định của

76

lịch sử"[ 103:26], mà chúng ta phải chấp nhận trong văn học một thời. Bước sang một

giai đoạn mới, văn học Việt Nam đang càng ngày càng đòi hỏi những tầm nhìn, phương

hướng rộng mở hơn. Trong cuộc gặp gỡ vào tháng 10/1987 với giới văn nghệ sĩ, Tổng bí

thư Đảng Nguyễn Văn Linh nhận định: "Trước đây ta thường có quan niệm giản đơn: hễ

đã nói tới XHCN là chỉ cổ những điều tốt đẹp. Quan niệm như vậy rõ ràng là ảo tưởng

ngây thơ. Trước đây, có lúc tôi từng nghĩ như vậy [...] Trong sáng tác thường thiên về

hướng ca ngợi một chiều, "tô hồng. Ai viết về người không tốt, việc không tốt thường bị

mang tiếng là "bôi đen"[108].

Nguyễn Khải, người từng kêu gọi: "Văn học phải cắt nghĩa và đề cập tới những vấn

đề nóng hổi nhất của đời sống" [88], từng được tiếng là nhà văn sắc sảo trong việc phát

hiện và phản ánh hiện thực, tác giả của những Xung đột, Tầm nhìn xa, Chủ tịch huyện...

giờ đây cũng nhìn lại những cái từng được coi là chân lí: "Nhiều khi tôi cảm thấy cái hiện

thực xã hội chủ nghĩa cứ làm hại mình, vì hiện thực xã hội chủ nghĩa là không được phê

phán, là cuối cùng phải tốt đẹp, cứ đến đoạn kết là mình phải lãng mạn. Cả một mảng

viết về nông thôn của tôi coi như bỏ đi" [88].

Phong Lê, nhà lý luận trước kia nổi tiếng với những quan điểm "cứng rắn", nay

cũng đề nghị: "Hôm nay không riêng văn học chúng ta, mà rộng hơn, văn học của chủ

nghĩa xã hội nói chung đang tiến hành một cuộc tổng kiểm kê, với những đánh giá khác

nhau, các kết quả kiểm tra có khác nhau: nhưng đường hướng chung là sự tất yếu phải

nhận thức lại, đánh giá lại, không chỉ bản thân văn học, mà còn là rộng hơn - tất cả

những gì chi phối đến văn học, làm nền tảng cho văn học." [104: 576].

Một hệ thống triết mỹ nào, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không thể tiên liệu được tất

cả những đột biến, phát sinh mà trong hoàn cảnh lúc nó ra đời không hề có dấu hiệu dự

báo. Lý luận cần phù hợp với thực tiễn vì lí luận không đẻ ra thực tiễn mà nó được sinh ra

từ thực tiễn, chịu sự khảo nghiệm và điều chỉnh của thực tiễn. Lý luận mácxit của chúng

ta cũng vậy. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cũng không nên đơn giản hóa sự phức tạp thực tế

của quá trình văn học sử thời kì Xô viết. Sự hình và phát triển của nó có những hoàn cảnh

cụ thể, không phải là không hợp quy luật cuộc sống, ít ra cũng là sự phù hợp với những

77

yêu cầu của một thời kì, phản ánh một thời kì lịch sử đầy biến động và phức tạp. vả lại,

gắn với phương pháp sáng tác này, bên cạnh những tác phẩm xoàng xĩnh, có không ít

những tác phẩm sừng sững như những tượng đài bất diệt về tài năng nghệ thuật, nội dung

độc đáo, giúp cho nhiều thế hệ độc giả nhận chân lịch sử trong sự vận động của nó.

Tóm lại, ngay từ những năm 1940 trở đi lí luận Xô viết đã bắt đầu có mặt trong đời

sống văn học nước ta và sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhất từ những năm 1950 trở đi,

với phương châm học tập toàn diện Liên Xô, lí luận Xô viết đã trở thành hệ tham chiếu

chủ chốt cho việc xây dựng lí luận văn học đương đại Việt Nam. Thời kỳ 1954 - 1975 có

thể coi là thời kỳ độc tôn của lý luận và mỹ học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Lí luận Việt

Nam tiếp thu hầu như toàn bộ những khái niệm cơ bản của bộ khung cơ bản của lí luận

Xô viết: tính Đảng, tính dân tộc, tính đại chúng, phương pháp hiện thực XHCN, tính cách

điển hình, hình tượng người anh hùng...Tùy từng hoàn cảnh, chúng ta tiếp nhận những

khái niệm ấy, tuy có lúc không tránh khỏi máy móc, nhưng không phải là không có chọn

lọc phù hợp và có sáng tạo. Anh hưởng này có nhiêu mặt tích cực giúp chúng ta xây dựng

được một nền lí luận hiện đại trên cơ sở duy vật biện chứng, phù hợp với sự vận động nội

tại của tiến trình văn học, đáp ứng yêu cầu khách quan của cuộc đấu tranh vì mục tiêu

giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Nền lý luận mà chúng ta chính thức có từ sau

1954 đã khẳng định vai trò to lớn trong việc kiến tạo và phát triển một nền văn học cách

mạng phát triển trong hoàn cảnh đặc thù của chiến tranh. Đó là một đường lối đề cao tư

tưởng văn nghệ phục vụ "nhân sinh", phục vụ Tổ quốc, công cuộc kháng chiến và kiến

quốc, nhấn mạnh đến tính nhân dân, tính chiến đấu, khai thác vốn cổ dân tộc - những

điều hoàn toàn phù hợp với giai đoạn lịch sử vừa qua. Bên cạnh đó, cùng với những được

- mất của quá trình ảnh hưởng này, đã đến lúc, ta có thể khách quan nhìn lại một cách

thấu đáo để nhận chân giá trị cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc tiếp

thu tri thức nhân loại. Qua thời gian, những biểu hiện giáo điều trong tư duy lý luận dần

bộc lộ. Trong những quan điểm như tính chính trị, tính đảng trong văn học, yêu cầu phản

ánh hiện thực, chức năng giáo dục hàng đầu của văn học... không phải là không có những

hạt nhân hợp lý của nó, nhưng chúng, cũng như nhiều chân lý khác của cuộc sống sinh

78

động, không phải là những định luật nhất thành bất biến, mà cần sự bổ sung, củng cố

trong thực tế. Trong vận dụng thực tế vừa qua, nhiều khi chúng lại bị tuyệt đối hóa và

quy phạm hoá nên trở thành phiến diện, mất đi sức sống sinh động.

Hệ thống lý luận văn học nước ta được hình thành từ nhiều nguồn, chủ yếu là từ

đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng và nhà nước, từ những thành tựu lý luận và kinh

nghiệm sáng tác trong và ngoài nước, trong đó các công trình lí luận văn nghệ Xô viết có

một ý nghĩa chủ chốt. Lý luận văn nghệ Xô viết vào Việt Nam, như ta thấy, bằng nhiều

ngả: bằng những văn kiện văn hóa - chính trị, bằng con đường phiên dịch các sách, bài

viết của các chuyên gia chính thống hàng đầu, bằng việc mời các chuyên gia sang giảng

dạy và viết giáo trình.

Để thấy rõ việc du nhập, ảnh hưởng của sách nghiên cứu và lí luận Xô-viết ở nước

ta, chúng tôi tạm lập một bảng thống kê về sách nghiên cứu văn học và lý luận văn học

đã được dịch ở Việt Nam. Thời gian được thống kê trong bảng danh mục bắt đầu từ khi

cuốn sách dịch về lĩnh vực này xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam cho đến thời điểm 1991.

Thời gian thống kê được kéo dài là vì trên thực tế, tình hình nghiên cứu lý luận và văn

học của chúng ta từ sau 1975 đến trước khi Liên bang Xô viết tan rã không có gì thay đổi

căn bản lắm. Điều đó phần nào cho ta hình dung thấy nền lý luận của chúng ta khá kiên

định trong định hướng, bên cạnh đó, không phải là lĩnh vực nhậy bén lắm trong việc nắm

bắt những chuyển biến mới của thời đại.

DANH MỤC SÁCH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VÀ LÍ LUẬN XÔ VIẾT ĐÃ

ĐƯỢC DỊCH Ở VIỆT NAM

(đến năm 1991)

79

80

81

82

83

Nhìn vào bảng thống kê trên chúng ta thấy vào những năm 50, khi đất nước bước

vào xây dựng một nền văn hóa mới, những tác phẩm mang tính lí luận Xô viết, với tư

cách là các công trình dịch thuật, đã xuất hiện ở Việt Nam. (Trên thực tế từ những năm

30 các nhà lí luận mácxit Hải Triều, Hải Thanh đã nghiến cứu và giới thiệu về Gorki, đã

dùng lí luận và sáng tác của nhiều nhà văn Liên Xô để luận chiến với phái nghệ thuật vị

nghệ thuật).

Sau cách mạng, và nhất là trong thời kỳ kháng chiến, dù điều kiện khó khăn, nhưng

việc tiếp cận tài liệu lý luận Xô viết vẫn được duy trì. Các văn kiện, tài liệu của các nhà

lãnh đạo Liên Xô liên quan đến đường lối văn nghệ XHCN được lưu ý nhiều hơn cả (tác

phẩm của Lenin, M. Gorki, Jdanov, Fadeev). Trong bảng thống kê trên chúng tôi không

kể tên một cuốn sách "có ảnh hưởng lớn đến việc chỉ đạo đường lối văn nghệ và xây

dựng lý luận văn học, văn nghệ nước ta, [...] một cuốn sách mở đầu cho loại "sách kinh

điển" của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn học nghệ thuật nước ta" [45: 484] - đó là cuốn

Bàn về văn học nghệ thuật của Mao Trạch Đông (Nxb Văn nghệ, Hà Nội, 1955). Hai bài

diễn văn của Mao Trạch Đông đọc tại Hội nghị Văn nghệ Diên An (tháng 51 1942) từng

được giới thiệu ở Việt Nam và đã có ảnh hưởng nhất định đối với đường lối văn nghệ

nước ta từ năm 1949, nay được in trong cuốn sách này. Trong những cuốn sách đó một

loạt vấn đề cơ bản của văn học và nghệ thuật mácxít được nêu lên và được đặt ra như

84

những nhiệm vụ của nền văn học mới: chức năng của văn nghệ, chức phận của nhà văn,

mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, tính giai cấp và tính Đảng của văn học nghệ

thuật... Tất cả những tư tưởng trên ảnh hưởng lớn đến giới lý luận phê bình văn học trong

một thời gian dài. Nghĩa là, với lý luận văn nghệ Xô viết, bên cạnh việc tiếp nhận trực

tiếp từ Liên Xô, chúng ta còn hiểu nó gián tiếp qua hệ thống lý luận văn nghệ Trung

Quốc thời gian đó. Điều này làm chúng ta không ít khi hiểu sai lạc một số nội dung lý

luận Xô viết.

Những năm hòa bình lập lại, nhất là từ những năm 60 trở đi, bên cạnh những tác

phẩm về đường lối chỉ đạo văn nghệ là những tác phẩm lí luận về thể loại văn học, về

"bếp núc" văn học (tác phẩm của M. Gorki, Antonov, Erenburg, Chucovski, Polevoi,

Vaisfen...). Những cuốn sách dịch về kinh nghiệm viết văn của các nhà văn Xô viết

không chỉ giúp ích cho các nhà văn Việt Nam (trong thời kỳ xâm nhập thực tế lao động

sản xuất) những bài học về cách phản ánh hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền

Bắc, mà còn là "những điểm tựa cho các nhà lý luận của ta khi luận giải về văn học nghệ

thuật, nhất là văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa" [45:486]. Trong loại sách này, đáng

để ý nhất là 2 tập sách Bàn về văn học của M. Gorki. Nhiều luận điểm trong cuốn sách

đó, như lập trường giai cấp của nhà văn, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn, vấn

đề điển hình hóa của văn học hiện thực chủ nghĩa... được "các nhà lý luận phê bình của ta

coi trọng gần ngang bằng với tư tưởng nghệ thuật của Mác, Engels, Lenin." [45: 486]

Trong các sách thuộc loại giáo trình cơ bản, tác phẩm Nguyên lý lý luận văn học

(1962) của L.Timofiev đóng một vai trò hết sức quan trọng: Có thể nói cơ sở lí luận của

chúng ta bắt nguồn từ chính bộ sách "nguyên lý" này, nó là cơ sở cho việc biên soạn sách

giáo khoa về lí luận văn học ở bậc đại học, là cơ sở cho các loại trích dẫn của các văn

bản, cho các cuộc thảo luận văn nghệ lớn nhỏ. Cuốn sách này ra mắt cùng lúc với bộ

Lịch sử văn học Xô viết của chuyên gia Melich Nubarov (được mời sang giảng dạy ở Đại

học Tổng hợp khi ấy vừa mới thành lập). Cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát

triển của văn học và Sáng tạo nghệ thuật hiện thực, con người của M. Khravchenco

cũng có vai trò tương tự, nhất là cuốn thứ nhất (từ 1970 đến 1979 được tái bản ở Liên Xô

85

4 lần, năm 1978 được dịch sang tiếng Việt, được nồng nhiệt đón nhận), cuốn thứ hai

được in năm 1984 với con số kỉ lục là 62.000 bản. Những tác giả của những cuốn sách

này thuộc hàng những chuyên gia lí luận chính thống nổi tiếng ở Liên Xô, sách của họ

không chỉ được dịch ở Việt Nam mà còn ở các nước XHCN khác, đặc biệt là Trung

Quốc, và có ảnh hưởng rộng trong giới lý luận những nước đó vào những năm 70 - 80.

Cho đến năm 1991, ở ta chưa thấy chính thức dịch một tác giả nào thuộc trường phái

hình thức Nga - trường phái rất nổi tiếng trên thế giới nhưng vẫn bị bài bác ở Liến Xô lúc

đó. (Trong Báo cáo về vụ việc Akhmatova và Zosenco năm 1946, nhà tư tưởng hàng đầu

lúc đó là Jdanov đã nhận định nặng nề: "Những kẻ theo chủ nghĩa Tượng trưng, chủ

nghĩa Hình ảnh, VỊ lai đủ loại, đã ngoi lên trong xã hội. Chúng tách biệt với nhân dân,

tuyên bố luận điểm "nghệ thuật vị nghệ thuật", truyền bá văn học phi tư tưởng, che giấu

sự thối rữa về tư tưởng và đạo đức trong khi chạy theo những hình thức đẹp không có nội

dung [...] Những nhà thơ và những nhà tư tưởng của giai cấp thống trị đã chạy trốn khỏi

hiện thực trần trụi, núp vào những đám mây mù trên cao của tôn giáo thần bí, vào những

tình cảm cá nhân tủn mủn và đào bới cái tâm hồn nông cạn của mình" [47].

Trên đây là những đặc điểm cơ bản về cách hiểu, cách tiếp nhận lí luận Xô viết ở

nước ta, dĩ nhiên có thể có những cách tiếp cận khác, ngoại lệ, phi hệ thống, nhưng thực

sự là đặc điểm cơ bản thì phải thể hiện một cách có hệ thống ở giai đoạn văn học ấy [...]

phải gắn với dòng chủ lưu, dòng chính thông trong giai đoạn văn học ", còn những ngoại

lệ "không phải là yếu tố phổ biển và chiếm ưu thế" [134: 49]. Quá trình tiếp nhận như

trình bày ở trên để lại những hệ qua khác nhau, (nếu không gọi là trái ngược) như sau:

Trước hết, thấy rất rõ lí luận chính thống tác đông rất lâu bền tới văn hóa, văn

học Việt Nam. Những khái niệm lí luận trên có một sức sống lâu bền trong đời sống văn

hóa - văn nghệ nước ta, trở thành thói quen trong nếp tư duy của giới nghiên cứu và đại

học, không phải chỉ của một thế hệ, mặc dù có nhiều điều đã bị thực tiễn bác bỏ.

Ở Liên Xô vào những năm 70, 80, khi Liên bang chưa giải thể, có nhiều khái niệm

lí luận của những năm 50 đã được xem xét lại, nhiều định thức văn học bị triệu hồi,

nhưng ở Việt Nam chúng vẫn tiếp tục được duy trì. Biểu hiện dễ thấy nhất của hiện tượng

86

này là trong giảng dạy lí luận văn học, văn học sử Nga - Xô viết: Rất nhiều, nếu như

không nói là hầu hết, các bài viết trong Lịch sử văn học Nga của Nxb Giáo dục - giáo

trình chính thức dùng cho khoa Ngữ văn các trường ĐH - đều là những bài viết cách đây

vài chục năm, khi mà quan điểm thẩm mỹ của chúng ta có những điều khác xa bây giờ.

Có lẽ không phải là quá đáng lắm khi rất nhiều ý kiến cho rằng bị đóng khung trong tầm

nhìn, lí luận văn học của Việt Nam suốt mấy thập niên qua không hề tiến triển. So với

cuốn Văn học khái luận của Đặng Thai Mai xuất bản từ năm 1944 với những cuốn lí

luận văn học ở cuối thế kỉ XX, chúng ta thấy sự khác biệt không nhiều lắm: những vấn đề

quan tâm và những quan điểm chính trong các vấn đề ấy vẫn là những băn khoăn về thể

loại, về chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa văn học và chính tri hay đạo đức, về

tính năng phản ánh hiện thực hay bộc lộ tâm tình của văn học...

Ảnh hưởng dai dẳng hơn cả đến tiến trình văn học Việt Nam là hai định thức trong

lí thuyết chính thống: Thuyết không xung đột và Bi kịch lạc quan - làm cho người đọc

không thê tiếp nhận được bi kịch chân chính. Ở Liên Xô, những định thức này đã được

xem xét lại, mới đầu là điều chỉnh, sau bị xóa bỏ, còn ở Việt Nam, thậm chí cho đến bây

giờ, không ít người vẫn coi chúng là hợp lí. cần lưu ý rằng ngay trong lúc hai thuyết này

đang sung sức nhất, thì ở Liên Xô đã có những sáng tác đầy âm hưởng bi kịch chân

chính, đi ra ngoài khung quy định của lí luận. Đó là hiện thực cuộc cách mạng và nội

chiến với những mâu thuẫn nội tại sâu sắc, những trăn trở vật vã, những tìm tòi và lầm

lạc, những thất vọng và mất mát của con người... đã được soi chiếu vào một số kiệt tác

như Sông Đông êm đềm, Nghệ nhân và Margarita, Bác sĩ Zivago... Những ghi nhận này

cho chúng ta thấy việc tiếp nhận của chúng ta không phải không có những cái giáo điều,

cố hữu.

Sự ấu trĩ thâm căn cố đế ấy dĩ nhiên cũng ăn sâu vào lĩnh vực sáng tác. Suốt những

năm 50, 60, 70 rất nhiều tác phẩm văn xuôi ngắn cũng như dài nước ta đều có chung một

khuôn mặt không chỉ về kết cấu, xung đột và kết thúc lạc quan mà còn về cả chủ đề, ngôn

ngữ, giọng điệu, cảm xúc, cách xử lí cảm xúc... Trong một cuộc nói chuyện, nhà văn Tô

Hoài từng phát biểu đại ý rằng ngày trước chỉ cần đọc vài trang là người ta có thể phân

87

biệt được Nam Cao với Nguyên Hồng, Xuân Diệu với Huy Cận, Nhất Linh với Nguyễn

Công Hoán, còn thời chống Mỹ ông không thể phân biệt các nhà văn khác nhau ở chỗ

nào. Có thể hiểu đây là một cách nói gây ấn tượng trước công chúng, là một nhận xét

định tính hơn là định lượng, và văn học kháng chiến không phải là hoàn toàn vắng bóng

những tác giả độc đáo, nhưng xét bề mặt chung, ta thấy nhận xét đó có những cơ sở nào

đó. Ví dụ, viết về nông thôn hay một nhà máy đều có dạng thức chung thế này: một nông

trường (công xưởng) nào đó ban đầu không tiến kịp các nông trường bạn, vì một ai đó

trong giới lãnh đạo không có năng lực hay sai sót gì đó, hay vì thợ chưa có ý thức... Thế

rồi xảy ra "cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái tốt hơn", những kẻ bất lực hay sai sót đã

được thay thế hay tỉnh ngộ, tự sửa chữa, lề lối làm việc được cải tiến, rồi mọi việc lại tiến

nhanh, cùng sự lớn mạnh của toàn quốc, ai ai đều phấn khởi. Đến những năm 80, khi văn

học đã bước vào thời kỳ đổi mơi, tình trạng này vẫn quan sát thấy trong nhiều tác phẩm.

Trong Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Những người đi từ trong rừng ra của

Nguyễn Minh Châu, Hòn đảo một mình của Lê Minh, Sao đổi ngôi của Chu Văn...

những nguyên tắc, chuẩn mực của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa vẫn

chi phối mạnh mẽ cảm hứng sáng tạo, phương thức tổ chức xây dựng cốt truyện, lựa chọn

nhân vật: vẫn là những bức tranh tập thể đông đảo, những gương "điển hình", những vệt

sáng tối, tích cực và tiêu cực, tiến tiến và lạc hậu đan cài nhau, xung đột với nhau mà

cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người mới, con người sống và hành động vì quyền

lợi của số đông. Kiểu khuôn sáo, đơn điệu này không phải đã hoàn toàn chấm dứt trong

văn học nước ta ngay cả vào những năm đầu thế kỉ XXI này.

Bên cạnh đó, có một hướng tiếp nhận khác, cho ta thấy thực tế rộng hơn khung lí

luận: Mặc dù CNHT XHCN được ưu tiên hàng đầu, nhưng trong sáng tác có thể quan sát

thấy những biểu hiện sinh động hơn: có những tác phẩm tuyên bố là chủ nghĩa hiện thực

xã hội chủ nghĩa, song ta vẫn nhặt nhạnh được trong chúng những uyển chuyển của bút

pháp khá khác so với phương pháp được tuyên bố.

Trong thực tế cuộc sống, công chúng có nhu cầu cần được tiếp cận không chỉ nền

văn học Xô viết, mà cả những nền văn học khác nhau của thế giới. Để đáp ứng nhu cầu

88

ấy, văn học dịch đã đứng ra làm nhiệm vụ hỗ trợ cho bộ phận sáng tác. Và thế là một loạt

tác gia văn học cận - hiện đại tiến bộ của thế giới được giới thiệu cho độc giả Việt Nam,

như Puskin, Gogol, Tolstoi, Turgenev, Sekhov, Hugo, Banzac, Daudet, Flaubert, Goethe,

Heine, T.Mann, Defoe, W.Scott, Hemingway, M. Twain, o. Henri, J.London... "Như vậy

là, mặc cho có sự hạn chế chật hẹp của CNHT XHCN trên bình diện lí luận, nhưng

trên bình diên thực tiễn, văn học đã khai phá cho mình một con đường riêng: Văn học thể

giới qua phong phú, nên công chúng không thể chối bỏ nó được" [30: 77]. Trong lĩnh vực

lí luận, vào những năm ở Liên Xô diễn ra sự phê bình gay gắt chủ nghĩa hình thức, lên án

"nghệ thuật vị nghệ thuật" là "phi tư tưởng", thì ở Việt Nam đã diễn ra một cuộc tranh

luận văn học nổi tiếng vào bậc nhất từ xưa cho đến nay trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Đó

là cuộc tranh luận trên báo chí kéo dài từ 1935 đến 1939 giữa một bên là Hoài Thanh,

Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Phan Văn Dật... cổ súy cho quan điểm "nghệ thuật vị

nghệ thuật" với một bên là Hải Triều, Hồ Xanh, Phan Văn Hùm... cổ súy cho quan điểm

"nghệ thuật vị nhân sinh". Cho đến gần đây, đánh giá về cuộc tranh luận này, nhiều ý

kiến đều mặc nhiên thừa nhận sự thắng lợi của phe Hải Triều, cho rằng phe của Hoài

Thanh có nhiều mặt bất hợp lí. Giờ đây nhìn lại, dù chưa phải đã đi đến tận cùng của khái

niệm, nhưng rất nhiều nhận định của phe Hoài Thanh đã tỏ ra gần với chân lí hơn, và

nhất là ta cần đánh giá cao sự chân thành và dũng cảm của các chính kiến ấy.

Tính chất chân thành và dũng cảm ấy một lần nữa được thể hiện qua những tìm tòi

thể nghiệm mới của nhóm Xuân thu nhã tập vào đầu thập niên 40. Dù chưa mấy thành

công trong sáng tác cũng như trong nỗ lực xây dựng một hệ thống lí thuyết cho riêng

mình, nhưng Xuân thu nhã tập ít ra cũng là những cố gắng đầu tiên nhắc nhở mọi người

về sự hiện hữu của một chân trời khác trong văn học, chân trời của tiềm thức, của thế giới

phi chủ thể tính và của ngôn ngữ như một kết cấu đa tầng, đa phương. Xuất hiện năm

1956, Nhân văn Giai phẩm thử dấy lên một đợt đổi mới nữa, trước hết ở tinh thần sáng

tạo ngôn ngữ, cố đi những bước cách tân trong thi ca, và không thể nói là họ đã không có

những thành công nhất định.

89

Với tính năng động, nhiều độc giả đã không chỉ đọc những gì người ta quy định,

còn tìm đến những vùng mình quan tâm. Bùi Hiển nhớ lại rằng những năm 50 ông cùng

một số người biết tiếng Pháp chăm chú đọc tạp chí Litterature sovietique để tìm mẫu mực

trong văn học Liên Xô, đã phát hiện ra những "vùng gây thắc mắc": "Tôi nhớ đã tìm thấy

câu nhận xét này trong một bài phê bình và chuyền cho anh em đọc: văn xuôi chúng ta

(Liên Xồ) vẫn còn nặng nề về những hình tượng có tính fonctionne (chức năng) hơn là

humain (tính người). Vậy là lúc đó văn học nước bạn cũng đã chỉ ra được nhược điểm

khá cơ bản của mình. Tiếc rằng nhìn ra sai sót thì dễ nhưng sửa chữa uốn nắn là một

việc khó khăn phức tạp hơn" [76: 69].

Hay như là Vương Trí Nhàn từng ghi nhận: "Tổng hợp tài liệu đã đọc, tôi không chỉ

biết thêm về việc xây dựng hình tượng con người trong nhiều tiểu thuyết Xô viết đã dịch

(như Thép đã tôi thế đấy, Con đường đau khổ...) hoặc sự có mặt cửa những nhà văn nhà

thơ trên mặt trận hồi 1941 -1945, cũng như trên các công trường xây dựng về sau, mà

còn biết thêm vô số chuyện linh tinh khác: Fadeev tự tử; Tvardovski bị đánh bật khỏi

chức Tổng biên tập tờ Novyi Mir; Evtushenko, cùng với những Voznesenski,

Akhmadulina... vừa được mơn trớn, vừa bị phê phán" [...] Việc tìm đọc những tài liệu

như vậy giúp cho người đọc không chỉ bổ sung, cân bằng vốn kiến thực bị giới hạn và

phiến diện, mà còn góp phần hình thành những phản ứng tích cực, những ứng xử văn hóa

uyển chuyển hơn, những thói quen làm việc khách quan và khoa học: "Một cuốn hồi kí

hết sức chủ quan như Con người năm tháng cuộc đời của Ehrenbourg với tôi gần như

cuốn sách gối đầu giường, tôi phải xoay xỏa đọc bằng hết, vì nó luôn luôn giúp mình

sáng ra trong việc tìm hiểu số phận trớ trêu của những người cầm bút viết văn xung

quanh. Ngược lại, từ những kinh nghiệm riêng về cách sông, cách làm việc của những

Nguyễn Tuân , Xuân Diệu, Chế Lan Viên... trong nước, tôi thấy dễ dàng hơn hẳn trong

việc đánh giá con người và cách cư xử của những Leonov, Surkov, Simonov... Sự tương

đồng về chế độ chính trị - ở trong cùng một phe, như lúc ấy, người ta hay nói - đã giúp

chúng tôi nhận biết từng biến thái nhỏ diễn ra trong đời sống văn hoá nghệ thuật ở

Moskva, Leningrad" [...] "Bản thân tôi thấy rất kính trọng một số chuyên gia như

90

Andreev, Baỉachova, Veỉỉkovski, Anastasiev... Cái vốn văn hóa của họ rất rộng, cách vận

dụng lí luận của họ lại nhuần nhị. Có thể nói, qua những người này, tôi học được nhiều

điều, kể cả lí luận, xem ra có phần nhiều hơn so với các nhà lí luận chuyên nghiệp như

Khravchenko, Sutchkov" [148: 230].

Trường hợp của Phạm Vĩnh Cư cũng vậy. Không chỉ hiểu biết những kiến thức

được nhà trường trang bị, ông còn biết rất sớm cả những kiến thức văn học sử và lí luận

bị coi là "ngoài luồng" lúc bấy giờ. Từ những năm 1960, khi đang theo học khoa Ngữ

Văn ĐHTH Lomonosov, ông đã được trực tiếp làm quen với Bakhtin - cả con người lẫn

trước tác. Ông nói về cuốn sách lý luận lừng danh của Bakhtin: "Về mọi phương diện, nó

không giống một tí nào những công trình nghiên cứu văn học mà chúng tôi bấy lâu nay

được hoặc phải đọc theo chương trình đào tạo.'' Những kiến thức như thế, với Phạm

Vĩnh Cư, cũng như với nhiều độc giả năng động, là "những khía cạnh chân lí trước kia

mình chưa nhìn thấy" [27: 92].

Trước những tiếng dội của các biến động trong đời sống văn chương Xô viết vào

đời sống văn chương Việt Nam, từ những năm 60 - 70, một số nhà lý luận nước ta (Lê

Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh, Mai Thúc Luân...) đã chủ động tiếp nhận những cái mới, đề

xướng các quan điểm khoa học mới mẻ, như lý thuyết tiếp nhận văn học với việc đề cao

vai trò người đọc (Nguyễn Văn Hạnh), hay lý luận "phá vỡ logich cuộc sống" (Mai Thúc

Luân). Tiếc thay, những quan điểm mẫn cảm mà giờ đây đã được thực tế kiểm định và

chấp nhận ấy, lúc đó đều bị quy vào trường ảnh hưởng của các quan niệm nghệ thuật tư

sản hoặc xét lại.

Cách tiếp nhận chủ động có thể quan sát thấy ở bình diện rộng hơn, trong giới độc

giả rộng rãi. Trong nhà trường, từ cấp phổ thông đến bậc đại học, mặc dù chỉ được làm

quen với Gorki, Maiakovski, Ostrovski, Fadeev, Polevoi, A. Tolstoi..., nhưng họ vẫn biết

đến và dành nhiều mối ưu ái, thiện cảm, thậm chí tình yếu nồng cháy cho những tác giả

Xô viết khác như Esenin, Blok, Pasternac, Tvardovski, Prishvin, Paustovski...

91

Trong gần 5 thập niên qua Liên Xô đã là đối tác chính trong giao lưu văn hóa với ta,

thay thế vị trí Trung Hoá ngày xưa và Pháp sau này. Không thể phủ nhận nền văn học Xô

viết với những thành tựu to lớn thực tế đạt được đã ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều lĩnh vực

văn hóa - chính trị -xã hội Việt Nam. Một nền văn học phục vụ các cuộc kháng chiến, cổ

vũ chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt Nam đã tìm được sự hỗ trợ tinh thần to lớn ở xã

hội và văn học Xô viết. Vô cùng trân trọng biết bao giá trị mà quá trình giao lưu này đã

đem lại, nhưng nhất thiết chúng ta cần có cái nhìn khách quan, thấu tình đạt lý khi nhìn

nhận không ít vấn đề, nhằm rút ra những bài học trên con đường phát triển mới.

2.2.2 - Lý luận văn học Xô viết và văn học Xô viết trong nhà trường Việt Nam

Với mục tiêu cung cấp tri thức toàn diện cho các cử nhân Ngữ văn, cùng với các

môn học khác, Lý luận văn học và Văn học nước ngoài có một vị trí quan trọng ứong

chương trình đào tạo. Thiếu kiến thức này, đối tượng sẽ bị hạn chế hiểu biết chung về văn

hóa nhân loại, sẽ gặp không ít trở ngại trong việc lĩnh hội kiến thức thuộc các bộ môn

khác như triết học, nghệ thuật, và thậm chí cả văn học nước nhà. Không thể bác bỏ một

thực tế rằng ở nước ta lâu nay Lý luận văn học Xô viết và Văn học Xô viết đã hỗ trợ rất

nhiều cho việc lĩnh hội các tri thức liên ngành ấy.

Ở Việt Nam trước 1954 lý luận văn học chưa phải là một bộ môn độc lập trong

nghiên cứu cũng như giảng dạy, tức là chưa có một vị trí chính thức trong số các chuyến

ngành của khoa học xã hội và nhân văn trong nhà trường. Năm 1956, khi nền giáo dục

Đại học được mở lại ở Hà Nội, do nhu cầu thiết yếu của khoa Văn, bộ môn lý luận văn

học được thành lập. Đội ngũ giảng dạy bộ môn này là những người chưa từng được đào

tạo bài bản, chính quy, vừa tự học, vừa tự soạn giáo trình và dạy. Suốt những năm 60 hầu

hết sinh viên văn khoa được biết đến bộ môn lý luận văn học chủ yếu thông qua cuốn

giáo trình của GS Nguyễn Lương Ngọc và bộ sách Nguyên lý lý luận văn học của L.

Timofeev. Ở Liên Xô, bộ sách của L. Timofeev được coi là sách giáo khoa chính thức

giảng dạy cho khoa văn các trường đại học tổng hợp và đại học sư phạm. Được dịch sang

tiếng Việt, bộ sách này, cùng với cuốn Những phạm trù mỹ học cơ bản của Viện

HLKHLX, mau chóng là "kim chỉ nam" cho chúng ta xây dựng những cuốn giáo trình về

92

lý luận văn học với cùng một kết cấu và cùng những vấn đề cơ bản. Trịnh Bá Đĩnh nhận

xét về giáo trình lý luận của chúng ta: "Kết cấu của chúng thường gồm hai phần: Phần

một, các vấn đề nguyên lý chung (tính Đảng, tính nhân dân, tính giai cấp, bản chất và

chức năng của văn học và nghệ thuật...) là sự vay mượn từ cuốn Nguyên lý mĩ học Mác -

Lênin. Phần hai đi sâu vào đặc tính của văn học (văn học và hiện thực, hình tượng văn

học, nội dung và hình thức, kết cấu và ngôn ngữ...) là sự tham khảo rõ ràng cuốn Nguyên

lý lý luận văn học." [45: 486]. Và điều đáng nói, cho đến nay, qua một thời gian khá dài

phát triển, mô hình giáo trình lý luận văn học như trên, về căn bản, chưa có sự thay đổi.

Những cuốn sách giáo khoa lý luận Xô viết đóng một vai trò to lớn trong việc xây

dựng một nền lý luận non trẻ Việt Nam trong những bước đi ban đầu, góp phần đào tạo

khối tri thức cho nhiều thế hệ những nhà lý luận nước ta. Việc du nhập và tiếp thụ hệ

thống tri thức lý luận từ Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu (đã được Liên Xô hoá)

vào nhà trường Việt Nam là điều đương nhiên của một nhà nước theo mô hình CNXH.

Tuy nhiên cũng phải nói rằng những gì chúng ta tiếp nhận từ Liến Xô những năm ấy

không phải là toàn bộ thành tựu lý luận của bạn, mà chỉ là một bộ phận đã được lựa chọn

ít ra qua hai lần thẩm định: lần thứ nhất, qua hệ thống Đại học Liên Xô với cách tiếp cận

chính thống; lần hai, qua cách chọn của chúng ta. Nhìn lại, bộ sách của Timofeev ta thấy

còn những vấn đề cơ bản của văn học bị bỏ qua, chẳng hạn như chưa bàn đến về yếu tố

ngôn từ trong định nghĩa về hình tượng văn học, cách triển khai lí luận còn chưa mở

rộng, chỉ dựa trên kinh nghiệm văn học trong qúa khứ. Cũng có cái nhìn chưa được rộng

mở như vậy trong một số quan điểm của M.Khravchenco, ví dụ, khái niệm "văn học so

sánh". Với cách trình bày của mình, thực chất ông đã lấy thuật ngữ "phương pháp so sánh

lịch sử" để thay thế cho nó: dùng phương pháp loại hình để phân biệt loại hình Puskin với

loại hình Gogol trong văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX. Nghĩa là ông đã làm so sánh văn

học trong bộ môn văn học sử dân tộc chứ không phải là làm nghiên cứu các mối quan hệ

giữa các nền văn học dân tộc. Nguyễn Văn Dân cho rằng: "Sở dĩ có sự lẫn lộn khái niệm

như vậy là vì quan điểm của Khravchenco vẫn nằm trong một mạch tư tưởng chính thống

của phương pháp luận nghiên cứu văn học Xô viết" [31: 53]. (Đại Bách khoa toàn thư

93

Liên Xô ghi: Văn học so sánh là một trào lưu phản động của lí luận văn nghệ tư sản [...]

gắn bó mật thiết với hệ tư tưởng phản động của chủ nghĩa thế giới).

Từ sau năm 1954, văn học Nga - Xô viết trở thành một trong những bộ môn văn học

nước ngoài đầu tiên được đưa vào chương trình giáo dục các cấp ở nước ta. Từ những

năm 60, chúng ta bắt đầu chọn dịch một số giáo trình, trong đó có bộ (gồm 2 tập) của

Melich Nubarov (một chuyên gia có học vị Phó tiến sĩ, chưa mấy nổi tiếng ở Liên Xô).

Dựa trên những bộ giáo trình văn học sử ở Liên Xô chúng ta bắt đầu biên soạn giáo trình

Lịch sử văn học Nga - Xô viết, cũng lựa chọn tác gia và phân kì văn học theo những tiêu

chí của các tác giả Xô viết. Những chuyên gia văn học Nga Xô viết hàng đầu của Việt

Nam được chuyên gia Nga sang đào tạo (Hoàng Xuân Nhị, Đỗ Hồng Chung), hoặc được

cử sang tu nghiệp tại Liên Xô (Nguyễn Kim Đính, Hoàng Ngọc Hiến...) Những vị này là

những tác giả của các bộ giáo trình văn học Nga Xô viết, các công trình lí luận ở Việt

Nam.

Ngay trong kháng chiến chống Pháp giáo sư Hoàng Xuân Nhị đã tự học tiếng Nga

để trực tiếp nghiên cứu các tác phẩm văn học Nga, và năm 1950 ông đã viết xong cuốn

giáo trình Lịch sử văn học Nga. Sau ông, đội ngũ nghiên cứu và viết giáo trình văn học

Nga - Xô viết ngày càng đông dần lên: Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Hải

Hà, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Trường Lịch, Huy Liên, Đỗ Xuân Hà. Cho đến nay,

ngoài cuốn giáo trình đầu tiên về văn học Nga của Hoàng Xuân Nhị, khoa Ngữ văn các

trường đại học và cao đẳng coi các giáo trình của các tác giả trên (nhà xuất bản Đại Học

& THCN 1981, 1982, 1985, 1989, 1990, nhà xuất bản Giáo Dục năm 1996, 1997, hợp

nhất, có chỉnh lí) làm giáo trình chính thức và cơ bản để học tập và nghiên cứu văn học

Nga - Xô-viết. Cuốn giáo trình của chuyên gia Liên Xô M. Nubarov được coi như tài liệu

tham khảo chính thức. Riêng đối với các trường đại học sư phạm có thêm cuốn giáo trình

Văn học Xô viết của tác giả Đỗ Xuân Hà và Nguyễn Hải Hà (nhà xuất bản Giáo Dục năm

1987). Tất cả những tác giả Việt Nam trên đây thuộc lứa các nhà Nga học đầu tiên của

nước ta, hầu hết họ được tu nghiệp ở nước bạn, trở thành những chuyên gia hàng đầu về

văn học Nga - Xô viết.

94

Theo các giáo trình trên, các tác giả Xô viết sau đây được lựa chọn để đưa vào

giảng dạy và học tập: M. Gorki, V. Maiakovski, A. Tolstoi, N. Ostrovski, A. Fadeev, M.

Solokhov, L. Leonov. Ngoài việc cung cấp kiến thức văn học sử về một nền văn học xã

hội chủ nghĩa, chương trình Văn học Xô viết, cùng với các bộ môn văn học nước ngoài

khác và bộ môn lí luận văn học còn trang bị cho các cử nhân tương lai những kiến thức

hệ thống về lí luận và phê bình văn học.

Văn học Nga - Xô viết cồn được chính thức nghiên cứu tại các khoa Tiếng Nga của

trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ (nay là Đại học ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà

Nội). Các tác giả Xô viết trong chương trình bắt buộc là M. Gorki, s. Esenin, M.

Solokhov và Iu. Bondarev, tác giả tự chọn là A, Tolstoi và A. Tvardovski. Mục đích của

bộ môn là giới thiệu những tinh hoá trong kho tàng phong phú và đồ sộ của nền văn học

ngôn ngữ nguồn, đồng thời nâng cao các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của người học qua

ngôn ngữ tác phẩm văn học.

Trải qua mấy thập niên, chương trình giáo dục trên đã thu được những kết qua tốt

đẹp. Nhiều thế hệ cử nhân Ngữ Văn ra trường với một vốn kiến thức văn học Nga - Xô

viết dồi dào. Lượng kiến thức ấy được bổ trợ thêm bằng sách báo văn học Xô viết đã đem

lại cho chúng ta một lứa độc giả văn học Xô viết có trình độ khá cao.

Trong chương trình giáo dục trường phổ thông các cấp trải qua các giai đoạn trước

khi chỉnh lí, sau khi chỉnh lí đều có sự hiện diện của các tác gia văn học Xô viết . Học

sinh được làm quen với những thi phẩm ngắn, những đoạn trích hay của V. Maiakovski,

M. Gorki, M. Prisvin, I. Erenburg, Tr. Aitmatov, A. Solokhov... Những đoạn trích này

phù hợp với lứa tuổi, mang tính giáo dục cao. Nhiều áng thơ văn hay đã đi vào tâm hồn

đối tượng, mở mang thêm kiến thức, bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ cho các em. Trải qua

thời phổ thông, hẳn ít học sinh nào có thể quên được những ấn tượng đẹp đẽ của bài

Lòng yêu nước của I. Erenburg (trong chương trình lớp 6) hay Người thầy đầu tiên của

Tr. Aitmatov (trong chương trình lớp 9). Khái niệm "yêu nước" có vẻ trừu tượng đã được

các em hiểu cụ thể hơn trong những gì gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày quanh ta,

được thể hiện trong đoạn văn đẹp của Erenburg: "Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu

95

những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ

sông, yêu vị thơm chua chát cửa trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu

mạnh...". Lời lẽ thật dung dị, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người, có tính giáo dục nhưng không

sa đà vào việc răn dạy một cách gượng ép. Nhiệm vụ giáo dục của đoạn trích Người thầy

đầu tiên được nâng cao hơn: không chỉ là giáo dục đạo đức mà còn giáo dục về cách sống

- sống như thế nào để phát huy được mặt tích cực trong bản thân mỗi người. Thầy giáo

Đuysen đã giúp cô gái Antynai bất hạnh dám tin vào bản thân mình để lựa chọn một cách

sống. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc cho lứa tuổi học sinh sắp bước chân vào

đời.

Văn học Xô viết trong chương trình giáo dục đã phát huy được nhiều tác dụng trong

việc hình thành và giáo dục năng lực thẩm mỹ cũng như đạo đức tư tưởng cho học sinh,

sinh viên Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn lại, ta thấy có không ít vấn đề đã đến lúc cần được

cân nhắc lại.

Bộ mặt của môn học Văn học Nga - Xô viết mà ta thấy hiện nay dễ gây một cảm

giác đơn điệu, rập khuôn. Điều đó trước hết liên quan đến giáo trình văn học sử. Rất

nhiều, nếu như không nói là hầu hết, các bài viết ương Lịch sử văn học Nga của Nxb

Giáo dục - giáo trình chính thức dùng cho khoa Ngữ văn các trường ĐH - đều là những

bài viết cách đây vài chục năm, khi mà quan điểm thẩm mỹ cửa chúng ta có những điều

khác xa bây giờ.

Lâu nay Văn học Nga Xô viết được trình diện như một bộ môn đã bị chính trị hóa

trong việc lựa chọn các giá trị, trong đó không hiếm những giá trị nhất thời được suy tôn,

nhưng chưa chắc được công chúng độc giả ủng hộ lâu bền. Lịch sử văn học Nga nhiều

khi được nhìn dưới dạng lịch sử đấu tranh của các phong cách giữa các giai Gấp đang đấu

tranh và thay thế nhau trên vũ đài chính trị. Việc phân kì văn học sử Nga thế kỉ XIX bị

"ép" vào khung "ba giai đoạn của phong trào giải phóng dân tộc"; còn phần kì văn học

Xô viết luôn dựa ừên trục thời gian, theo tiến trình lịch sử của xã hội. Trong các cuộc đấu

tranh đó chủ nghĩa hiện thực được coi là giá trị cao nhất của tác phẩm và sáng tác của các

nhà văn lãng mạn cách mạng, dân chủ cách mạng được coi là những thành tựu cao nhất

96

của văn học. "Các tác phẩm [...] do do yêu cầu kết cấu theo nội dung của chuyên đề, tuy

không có chương riêng về phương pháp hiện thực mới (tức hiện thực XHCN - V.H.L),

nhưng đặc điểm của phương pháp này đã lan tỏa trong các lập luận khi đề cập đến sự

nghiệp sáng tác văn học". [124: 462]. Thuộc tính của văn học bị liên hệ với những khái

niệm chính ứị xã hội, coi là được biểu hiện rõ nhất trong bài viết của Lenin về tính Đảng

- một bài viết không bàn về lịch sử văn học nói chung. Từ đó dẫn đến một tiêu chí chung

khi đánh giá từng tác phẩm văn học: tính giai cấp, tính cách mạng, tinh thần chống đối

nhà nước phong kiến và nhà thờ... Tất cả những điều trên thật sự làm ta cảm thấy mệt

mỏi, nhàm chán.

Nhìn tổng thể, ta thấy bấy lâu nay văn học Xô viết trong nhà trường (và không chỉ

trong nhà trường) được hình dung như một bộ môn vắng bóng rất nhiều gương mặt làm

nên giá trị và bộ mặt đích thực của nền văn học này: chúng ta không hề đề cập đến, dù

trong phần Khái quát, M. Bulgakov, B. Pilnhac, O. Mandelstam, Pasternac, Akhmatova...

Việc nghiên cứu từng tác gia được lựa chọn trong chương trình cũng chưa thật toàn diện.

Đơn cử trường hợp M. Gorki. Độc giả Việt Nam quen thuộc với M. Gorki từ nhiều thập

niên nay, coi ông là nhà văn gần gũi và yêu mến nhất của mình, nhưng không phải đã

hoàn toàn hiểu đúng con người nghệ sĩ của ông. Trong những tài liệu về ông, ta chỉ biết

ông như một nhà sáng lập ra nền văn học Xô viết , người khai sinh cho chủ nghĩa hiện

thực xã hội chủ nghĩa, lá cờ đầu trong việc giáo dục tinh thần lạc quan cách mạng cho

tầng lớp vô sản. Chúng ta đã không biết đến một Gorki - một thiên tài bẩm sinh được nảy

nở trong lòng cuộc sống Nga mãnh liệt, từ trong lòng nhân dân Nga tài hoá, một nhà

nghệ sĩ ngôn từ, nhà nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc với trái tim đa cảm đầy nỗi phiền lo cho

nước Nga. Đúng như nhà Nga học Nguyễn Hải Hà nhận định: “Con đường của Gorki có

lúc chứa mâu thuẫn chứ không phẳng phiu như thường trình bày. Thế giới nghệ thuật của

ông cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ. cần phải đọc lại Gorki” [59: 39].

Thật ra lúc bấy giờ để có cách tiếp cận khác, đối với chúng ta, không phải là dễ. Vì

đó cũng chính là chương trình giáo dục của nhà nước Xô viết những năm ấy - chương

trình mà ta đã áp dụng một cách máy móc. Và đó cũng là cả nền văn học được trình bày

97

như nó được ấn hành, lý giải, xử lý một cách tuy tiện thời ấy. V. Muromski viết: "Đành

phải ghi nhận một cách đau khổ rằng chúng ta đã nghiên cứu không phải lịch sử văn học

Xô viết có trong thực tể mà là lịch sử đã được chế biến một cách thỏa đáng. Do sự "rơi

rụng " của nhiều tên tuổi, do các kiểu làm ngơ khác nhau, do "những điều bí mật" được

bảo vệ nghiêm ngặt, do những sự cấm đoán và hạn chế việc phổ biến tư liệu v.v... cho

nên lịch sử văn học Xô viết trong một thời gian dài được giới thiệu trong chương trình

nghiên cứu và các sách giáo khoa nếu như không phản ánh dưới dạng bị bóp méo thì dù

sao cũng là dưới dạng bị cắt xén, đẽo gọt." [138: 19]. Những ghi ấy càng cho ta thấy

cách tiếp cận như thế ở Việt Nam đối với văn học nói chung và văn học Nga - Xô viết nói

riêng đều bị lịch sử quy định, và có tính lịch sử.

Văn học Việt Nam trong vòng hơn nửa thế kỉ qua đã có sự tiếp xúc mãnh liệt với

văn hoá, văn học Liên Xô. Sự tiếp xúc, giao lưu này là một quy luật tất yếu của các nước

có định hướng XHCN trên thế giới. Trong một thế giới phân đôi, chúng ta cùng Liên Xô

và các nước XHCN ở cùng một chiến tuyến, chung kẻ thù, chung hệ tư tưởng, chung một

cơ cấu chế độ chính trị - kinh tế, đã ngày càng xích lại gần nhau, tương trợ, nương tựa và

học hỏi lẫn nhau để cùng khẳng định. Nền văn hoá XHCN trong mấy mươi năm qua,

khách quan mà nhận định, đã thu được nhiều thành quả rực rỡ, trong đó nhiều giá trị tinh

thần đã trở thành tài sản tinh thần của loài người và của dân tộc Việt Nam, góp phần vào

sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước, bồi đắp thêm lý tưởng thẩm mỹ và

lý tưởng nhân văn cho công dân trong một thời đại mới của lịch sử nước ta. Những thành

quả đó không ai có thể phủ nhận được và cần được bảo vệ và tiếp tục khẳng định. Bên

cạnh đó, thời gian đã cho thấy có nhiều bộc lộ tiêu cực trong mối giao lưu này, cái tiêu

cực nảy sinh từ bản thân yếu tố được tiếp nhận cũng như trong nhân tố tiếp nhận. Sự

hạn chế trong cuộc tiếp nhận này là chúng ta đã đóng vai trò một "người nhận" chưa thật

chủ động. Trong hoàn cảnh mấy chục năm chiến tranh liên miên, kinh tế chưa phát triển,

chúng ta nhận được sự viện trợ về vật chất lẫn tinh thần, trong đó có thành quả lý luận

văn học, từ Liên Xô. Trong hoàn cảnh chỉ nhận được tri thức gần như từ một nguồn duy

nhất ấy, dù là những tri thức cần thiết, chúng ta vẫn khó có thể thoát khỏi cái nhìn phiến

98

diện, khi bỏ qua nhiều hướng tiếp cận khác. Đã đến thời điểm đủ có độ lùi về thời gian để

chúng ta nhìn thấy những hạn chế bị lịch sử quy định, và, xuất phát từ tinh thần thực sự

cầu thị, vì lợi ích lâu dài và ý nghĩa thiết thực của sự trao đổi văn hoá văn minh của nước

ta với thế giới, chúng ta nhìn thẳng vào những nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó, rút ra

những bài học, - những bài học vô cùng quý báu, không nên để thành vô ích khi chúng ta

đã mất không biết bao giá trị máu xương để có được. Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự

hạn chế này là chúng ta chưa hiểu thấu đáo, tận tường nền văn hoá mà chúng ta giao lưu.

Nguyên nhân đó lại dẫn đến nguyên nhân thứ hai (mà cũng là hệ quả của nó): Do không

hiểu thấu đáo nền văn hoá giao lưu, chúng ta sao chép máy móc những điểm hạn chế của

nền văn hoá đó, trong khi đó lại bỏ qua không ít những mặt mạnh của nó. Nếu như một

số nước Đông Âu, trong quá trình giao lưu với "người anh cả", đã có những ứng xử khác

chúng ta, vì trước khi Liên Xô và hệ thống XHCN ra đời, các dân tộc châu Âu đã có mối

giao lưu và hiểu biết sâu sắc về nhau, thì chúng ta đến với văn hoá Xô viết trong khi chưa

được chuẩn bị ở mức độ kỹ lưỡng cần thiết, ít ra như là so với tiếp xúc với văn hoá Pháp,

cho cuộc giao lưu quy mô. "Thiếu sự hiểu biết thấu đáo, toàn diện về qua khứ lịch sử, về

những đặc điểm nền tảng của quốc gia đế chế Nga - những đặc điểm ấy quy định một

phần rất cơ bản cái mô hình CNXH được xây dựng ở Liên Xô sau Cách mạng tháng

Mười mà bây giờ chúng ta gọi là CNXH quan liêu bao cấp - chúng ta du nhập khá thụ

động và máy móc mổ hình ấy vào nước ta, coi nó là mô hình có giá trị phổ biến. Và mô

hình mà chúng ta đã sao chép ấy lại bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có

lĩnh vực văn hoá - tư tưởng." [28: 614].

Trong vòng hơn nửa thế kỉ qua văn học Xô viết đã có một ảnh hưởng rộng lớn trong

đời sống tinh thần xã hội Việt Nam. Sự tiếp nhận này được đặt ra trong tình thế lịch sử

đặc biệt, đưa đến những sự khác biệt giữa các giai đoạn, các miền đất nước. Trong tình

thế chiến tranh kéo dài, một nền văn học phục vụ chiến đấu, cổ vũ cho công cuộc xây

dựng chế độ XHCN ở miền Bắc đã tìm thấy sự hỗ trợ tinh thần to lớn từ người anh cả

Liên Xô. Từ đây đã ra đời và trưởng thành một nền văn học vô sản Việt Nam với những

đặc tính riêng so với những nền văn học giai đoạn trước đó. Văn học Xô viết được đón

99

nhận ở các đô thị miền Nam trong sự ảnh hưởng pha trộn phức tạp các nền văn hóa Âu -

Mỹ được coi như một sản phẩm mang cả tính chính trị lẫn tính nghệ thuật trong thế

tranh luận với văn học miền Bắc và vấn học phe XHCN. Như vậy, ở Việt Nam, văn học

Xô viết đã hiện diện vừa như một tấm gương phản ánh (trong ý nghĩa tích cực lẫn tiêu

cực) đời sống xã hội, vừa như một vũ khí tinh thần trong cuộc chiến giữa hai phía, mà kết

thúc trong xu thế thắng lợi về chính trị của nền văn học vô sản, còn về tư tưởng vẫn là

vấn đề tiếp tục phải tranh luận trong thời kì văn học đổi mới của một đất nước thống nhất

nhưng lại trong cục diện một thế giới chia đôi và sự tan vỡ của phe xã hội chủ nghĩa.

Những điều trên cho thấy ảnh hưởng của văn hóa - văn học Xô viết ở Việt Nam thời

kì hậu Xô viết vẫn chưa kết thúc, và nó cần được lí giải một cách khách quan, nhằm đạt

được những xử thế hợp lý, hợp tình.

100

Chương 3: DẤU ẤN CỦA VĂN HỌC XÔ VIẾT TRONG SÁNG

TÁC VĂN HỌC VIỆT NAM

3.1 - Dấu ấn của văn học Xô viết trong sáng tác văn học Việt Nam giai đoạn

1945 - 1975

Cùng với sự xuất hiện của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới vào năm 1917,

một nền văn học nghệ thuật mới, khác về chất so với các nền văn học nghệ thuật trước

đó, ra đời - nền văn học vô sản.

Điểm cơ bản trong quan niệm văn học vô sản được các nhà lí luận và nghiên cứu

Nga - Xô viết thời kỳ đầu như V. Lunacharski, B. Friche, P. Kogan, V. Pereverzev, M.

Olminski... xác định như một hình thái hoạt động của ý thức hệ, do đó, nó luôn có tính

giai cấp. Giai cấp vô sản cần phải xây dựng ý thức hệ tư tưởng của giai cấp mình, nền

văn học của mình.Ý thức hệ vô sản có tính chất cách mạng, chống lại tư tưởng tư sản,

hướng về CNXH. Những điều này phải được thể hiện không phải chỉ ở chủ đề tác phẩm

văn học, mà cả ở nội dung, hình thức và các thủ pháp sáng tạo. Các nhà lí luận nhấn

mạnh bản chất giai cấp của mọi hiện tượng văn học và xem mọi tác phẩm văn học, cả nội

dung hình thức lẫn thủ pháp nghệ thuật, đều bị quy định bởi bản chất giai cấp của tác giả,

đều biểu hiện lập trường giai cấp của tác giả. Do đó, chìa khoa để khám phá tác phẩm nhà

văn - đó là "tâm lý giai cấp", và qua đó làm sáng tỏ mối quan hệ của tác phẩm với cuộc

đấu tranh giai cấp. Trong lĩnh vực văn học giai cấp vô sản phải đưa ra được cái mới về

nguyên tắc, khám phá ra giá trị nghệ thuật theo cách của mình. Cái mới trong nguyên tắc

đó là: Thứ nhất, văn học là sự phản ánh đời sống hiện thực xã hội, là một loại hình thái ý

thức xã hội. Nó phản ánh đời sống bằng hình tượng điển hình hoá (điển hình chính diện,

điển hình phản diện, nghĩa là tốt - xấu rạch ròi.) Thứ hai, văn học là kiến trúc thượng

tầng, được quyết định bởi cơ sở kinh tế chính trị xã hội, cho nên văn học là kiến trúc

thượng tầng của nền kinh tế chính trị nhất định, cần phải phục vụ cho nền kinh tế chính

trị nhất định, nghĩa là văn học tòng thuốc chính trị, phúc vụ đường lối chính trị nhất định.

101

Thứ ba, nhà văn trong xã hội có giai cấp, phải thuộc về một giai cấp nhất định, phải miêu

tả cuộc sống trên lập trường của một giai cấp nhất định. Thứ tư, văn học là một loại

nhận thức đối với cuộc sống, giúp con người hiểu biết đời sống hiện thức, cho nên chức

năng trước tiên của nó phải là chức năng giáo dục. Quan niệm này đã có vai trò và ảnh

hưởng to lớn trong việc hình thành và phát triển các nền văn học vô sản trên thế giới,

trong đó có Việt Nam. Trên thực tế, nền văn học Nga - Xô viết vào thời kỳ mới hình

thành ấy phức tạp và đa dạng hơn nhiều. Bên cạnh, và ngược lại với khuynh hướng được

gọi là "trường phái nghiên cứu xã hội học" này còn có một khuynh hướng khác được gọi

là "trường phái chủ nghĩa hình thức" phát triển song song. Các đại diện của khuynh

hướng thứ hai ấy là V. Shklovski, O. Brik, B. Eikhenbaum... quan niệm rằng văn học là

một hiện tượng đặc biệt: văn học chỉ là văn học chứ không là gì khác và việc nghiên cứu

nó phải phụ thuộc vào đặc trứng bản thể của nó, "tính văn học" của nó, do đó, trước hết

cần nghiên cứu nghệ thuật ngôn ngữ - bản thân "chất liệu" của tác phẩm. Tuy cả hai

khuynh hướng này đều có những cực đoan, nhưng đã có vai trò to lớn trong việc tấn công

vào tất cả những gì thuộc về "chế độ cũ", dọn đường cho chặng đường mới của văn học.

Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, với định hướng XHCN, đã lựa

chọn xây dựng một nền văn học mới - nền văn học vô sản - theo khuynh hướng thứ

nhất. Với Cách mạng tháng Tám 1945, một thể chế chính trị - xã hội mới được thiết lập,

và cùng với nó, những hệ giá trị tinh thần mới được xác lập. Những hệ giá trị tinh thần

đó được nhìn thấy từ ương chính nền văn học được sinh ra từ cuộc Cách mạng tháng

Mười 1917 long ười lở đất, kéo theo sự hình thành cả một hệ thống văn học mới - văn

học các nước XHCN. Rất nhiều các nghệ sĩ ưu tú Việt Nam thời kỳ trước cách mạng đã

có mặt trong buổi đăng quang chế độ mới với tinh thần nhập cuộc, hồ hởi hoá mình vào

dòng thác mãnh liệt của các biến cố lịch sử đất nước. Sau 1945, Việt Nam liên tiếp bước

vào hai cuộc kháng chiến chống hai đế quốc hùng mạnh. Hoàn cảnh chiến tranh đã khiến

cho việc lựa chọn khuynh hướng văn học sớm dứt khoat hơn. Văn học Việt Nam từ một

nước hàng ngàn năm chịu ảnh hưởng nền văn hoá Trung Hoá, cả trăm năm chịu ảnh

hưởng nền văn hoá Pháp và Tây Âu, mới trước đó hầu như biết rất ít về văn hoá Nga, nay

102

trở thành thành viên chính thức trong một cộng đồng mới của thế giới mà văn hoá Nga là

đối tượng giao lưu chính. Sự nghiệp đấu tranh chung, hệ tư tưởng chung, chế độ chính trị

- xã hội giống nhau - tất cả những nhân tố ấy khiến hai nền văn học có chung lý tưởng,

quan điểm, nội dung tư tưởng, đối tượng phản ánh..., tìm thấy sự cảm thông, sẻ chia, sự

tương trợ và học hỏi lẫn nhau.

Văn học Việt Nam từ những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám 1945 đã tìm thấy

trong những thử nghiệm của văn học Xô viết những điều mình đang tìm kiếm. Văn học

Xô viết với tính định hướng tư tưởng có khả năng chuyển tải nhanh chóng nhiệt tình cách

mạng cho hàng triệu người đọc mới thoát nạn mù chữ có một sức lôi cuốn đối với nền

văn học của nước Việt Nam dân chủ cộng hoá trẻ tuổi. Đào Tuấn Ảnh nói về sức lôi

cuốn, những đặc điểm phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam của nền văn học Xô viết như

sau: “Đứng trên bình diện cảm hứng, đó là văn học lãng mạn cách mạng. Đứng trên bình

diện loại hình thì đó là văn học phổ cập, đại chúng. Có thể nói, đây là thời kỳ đẹp nhất

của sự kết hợp giữa chính trị cửa giai cấp đang lên với văn học nghệ thuật trong chức

năng chả yểu của nó là khai sáng, truyền bá những tư tưởng cấp thiết của giai cấp, của

thời đại. Văn học sẵn sàng tự nguyện biến mình thành công cụ phục vụ nhà nước cách

mạng, thể hiện những mục đích lý tưởng cao cả của nó” [3: 18].

Cùng với năm tháng, theo từng thời kỳ, ảnh hưởng phương pháp -phong cách sáng

tác, hệ chủ đề của văn học Xô viết đối với văn học Việt Nam ngày càng sâu sắc, bao trùm

hầu khắp các bình diện trong sáng tác. Lưu Liên xác định: "Hai nền văn học Xô viết và

Việt Nam là cùng sáng tác theo phương pháp hiện thực XHCN. Bằng phương pháp khoa

học, tiên tiến này, hai nền văn học đã phản ánh chả nghĩa anh hùng cách mạng và chả

nghĩa nhân đạo cách mạng, tinh thần dân chủ, lòng yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản,

những nét tiêu biểu của hai nước, những truyền thống lớn của văn học hai nước" [112:

13] Phương pháp hiện thực chủ nghĩa vã tính chủ quan, khuynh hướng phản ánh

trực diện, buộc chất liệu phục tùng tư tưởng đã định sẵn đã gặp thời đại cách mạng và

chiến tranh như gặp miếng đất phù hợp để phát triển và có cơ sở trở thành độc tôn

trong đời sống văn học nước ta thời kỳ ấy.

103

Nhân vật chính của văn học Xô viết cũng chính là các nhân vật của văn học Việt

Nam: những con người của cộng đồng chủ nghĩa xã hội -những con người của "đất nước

thanh xuân và vĩ đại / Được sinh ra trong lao động, đấu tranh" (Maiakovski). Đó là

người lính, người công nhân và người nông dân. Nhiều kinh nghiệm xây dựng ba hình

tượng nhân vật ấy trong văn học Việt Nam được đúc rút từ trong văn học Xô viết. Ví dụ

như người công nhân chẳng hạn: Lịch trình của đề tài văn học về giai cấp công nhân ở

Liên Xô và Việt Nam không tách rời khỏi lịch sử của nhà nước XHCN và phương pháp

hiện thực XHCN. Người công nhân trong văn học Xô viết có thể coi là bắt đầu từ cuốn

tiểu thuyết Người mẹ của Gorki - tác phẩm mở đầu cho đề tài lao động trong văn học

hiện thực XHCN. Ngay trong những ngày đầu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, theo sát

"dấu vết nóng hổi" các sự kiện của những phong trào Kể hoạch năm năm, hàng loạt các

tác phẩm về người công nhân thời kỳ công nghiệp, tập thể hoá đã xuất hiện, như Xi măng

(F. Glatkov), Thời gian tiến lên (V. Kataev), Vùng mỏ Dolbass (B. Gorbatov)... Đề tài

này càng ngày càng được khẳng định trong những năm 50 - 60 như một đề tài bức thiết

của văn học Xô viết . Bức tranh chung của đề tài này là cuộc đấu tranh chống phương

thức sản xuất lỗi thời, những khát vọng đạt kỉ lục trong lao động, những xung đột tâm lý

giữa riêng và chung, như Xa Mạc-tư-khoa (V. Azhaev), Gia đình Xhurbin (V.

Kochetov), Hãy làm quen với Bulaev (Kozhevnikov)... Đề tài này ương văn học nước ta

ra đời ngay trong kháng chiến chống Pháp (Vùng mỏ) và những năm đầu sau ngày hoá

bình lập lại (Lên công trường, Ngọn lửa gang, Suối gang..) và mang dấu tích ảnh hưởng

của văn học Xô viết khá rõ. F. Glatkov có tác phẩm Xi măng viết về người công nhân

nhà máy, Huy Phương cũng viết về đối tượng ấy trong cuốn tiểu thuyết cũng mang tên Xi

măng mang đầy cảm hứng lãng mạn và những kiếm tìm đạo đức của người chủ nhân mới

của đất nước, giống như tác phẩm của Glatkov. B. Gorbatov có tiểu thuyết Vùng mỏ

Dolbass thì Võ Huy Tâm cũng có tác phẩm Vùng mỏ viết về những người thợ mỏ. (Cái

tựa Suối gang của Xuân Cang làm ta liên tưởng đến tên tác phẩm của Serafmovich, mặc

dù Suối thép viết về chiến tranh, về những người lính chiến.) Một loạt các tác phẩm dịch

Xô viết vào những năm 50 - 60 - 70, như Thời gian tiến lên (V. Kataev), Xa Mạc-tư-

khoa (V. Azhaev), Hãy làm quen với Bulaev (Kozhevnikov), Đi vào cơn giông

104

(Granin), Muối của đất (G. Markov), Tiếng gọi vĩnh cửu (A. Ivanov)... đã cho các tác

giả Việt Nam những bài học, hình mẫu xây dựng những xung đột tư tưởng, đạo đức trong

các tác phẩm viết về thời kỳ công nghiệp hoá, như Trước lửa (Xuân Cang), Gang ra

(Nguyễn Thành Long), Thung lũng Cô tan (Lê Phương).

Song song với tuyến đề tài về giai cấp công nhân và công cuộc xây dựng các cơ sở

công nghiệp ở thành phố, văn học Xô viết những năm đó còn phát triển đề tài về quan hệ

XHCN ở nông thôn - đề tài về người nông dân. Sau Đất vỡ hoang (M. Solokhov), tuyến

đề tài này tiếp tục vang dội bằng hàng loạt tác phẩm: Họ hàng lớn (M. Stelmakh), Đá

đen (M. Gusejn), Chuyện thường ngày ở huyện (V. Oveskin), Ghi chép của một kỹ sư

nông học (S. Voronin)... Theo sát truyền thống Solokhov, các nhà văn khai thác chủ đề

sự hình thành một cộng đồng lịch sử mới không chỉ về mặt sự kiện mà còn về quá trình

hình thành ý thức xã hội chủ nghĩa của tập thể và của cá nhân người lao động. Hai loại

hình tượng trung tâm xuyên suốt các tiểu thuyết của tuyến này là nhân vật trung nông

khắc phục ý thức tư hữu và khẳng định thái độ xã hội chủ nghĩa (kiểu Majdannikov), và

nhân vật người cộng sản dẫn đầu công cuộc tập thể hoá, giúp đỡ người nông dân xác lập

ý thức xã hội chủ nghĩa (kiểu Davydov). Các tác phẩm trên đều được dịch sang tiếng

Việt, góp phần giúp các nhà văn Việt Nam xây dựng đề tài về người lao động mới ở nông

thôn. Đọc các tác phẩm Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm (Đào Vũ), Bão biển (Chu Văn), Đất

làng, Buổi sáng (Nguyễn Thị Ngọc Tú)... ta dễ nhận thấy các nhà văn Việt Nam học tập

được các tác phẩm Xô viết những nguyên tắc điển hình hoá, xây dựng cốt truyện và tính

cách, phân tích tâm lý, giải quyết mâu thuẫn...Cách triển khai đề tài như thế tìm thấy

được trong các tác phẩm văn học Việt Nam thời kỳ đầu hoá bình và kéo dài cho tới

những năm 70.

Hình tượng người lính là nét chung của hai nền văn học Xô viết -Việt Nam, được

hình thành trong hoàn cảnh cách mạng và chiến tranh của hai dân tộc trong thế kỉ XX.

Trước thế kỉ XX không phải không có những cuộc chiến tranh và không phải trong văn

học ở mỗi nước chưa từng nói về người lính, nhưng người lính thật sự trở thành biểu

tượng của thời đại, thành nhân vật chính của văn học mang tính hệ thống, quy mô thì chỉ

105

đến văn học Nga thời kỳ Xô viết và văn học Việt Nam sau 1945 - nền văn học cách mạng

vô sản - mới có. Từ người lính trong đạo quân Igor của văn học Nga cổ xưa đến người

lính trong chiến tranh Ai quốc 1812 và người lính trên tuyến phòng ngự Sevastopol trong

các tác phẩm của L.Tolstol vẫn còn xa mới đạt được ý nghĩa biểu trưng thời đại như hình

tượng người lính trong văn học Nga thời Xô viết . Lịch sử đất nước Việt Nam là lịch sử

chống ngoại xâm với biết bao chiến công hiển hách nhưng trong văn học hầu như chỉ để

lại tên tuổi của các vị tướng lĩnh mà gần như vắng bóng hình ảnh người lính bình thường.

Từ hình ảnh người chinh phu trong tâm tưởng của người chinh phụ đến hình ảnh anh lính

thú "nón dấu, bao vàng" trong buổi tiễn đưa "nước mắt như mưa" vẫn không làm cho

người lính trở thành một đề tài quán xuyến toàn bộ cả văn chương bác học lẫn văn học

bình dân thời kỳ trung đại. Chỉ có trong văn học vô sản và trong thời đại cách mạng đề tài

này mới thật sự hình thành. Hiện thực cách mạng và chiến tranh đã cho văn học Xô viết

và văn học Việt Nam điều kiện và chất liệu phát triển nó. Ngô Thảo nhận xét: "Dễ

thường, ba mươi năm qua, không một người cầm bút Việt Nam nào chưa một đôi lần viết

về người lính, hướng về người lính như một đối tượng tìm hiểu, phát hiện, ca ngợi [...].

Xuất hiện trong văn học, anh bộ đội là một nhân vật vừa rất mới lại vừa rất động." [181:

9].

Cách mạng, nội chiến, chiến tranh giữ nước đã lùi dần về quá khứ, nhưng trong văn

học Xô viết đề tài về chiến tranh, về người lính chưa bao giờ bị lãng quên. Các nhà văn

thuộc nhiều thế hệ, trong đó có Furmannov, Serafimovich, Solokhov, Fadeev, Simonov,

Bergol, Bondarev, Baklanov, Bykov... luôn trở đi trở lại với đề tài này. Họ tìm thấy trong

đề tài một thuộc tính của thời đại: chủ nghĩa anh hùng, và người anh hùng ở đây xuất

hiện như đặc điểm tiêu biểu của toàn thể nhân dân. Người anh hùng không còn ở trên cõi

cao vời vợi, mà gắn liền với cuộc sống trần thế, gắn với cuộc đấu tranh của nhân dân để

thực hiện lý tưởng thẩm mỹ, bộc lộ phẩm chất của mình - chủ nghĩa nhân đạo cao cả.

Nghĩa là, nội dung thẩm mỹ của phạm trù người lính - người anh hùng trong văn học hiện

thực XHCN là gắn liền khăng khít với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Cho nên ta thấy gắn

với đề tài này là loại truyện anh hùng viết về những tên tuổi, chiến công có thật và cảm

106

hứng lạc quan, cảm hứng ca ngợi. Phẩm chất anh hùng của người lính trong văn học

hiện thực XHCN không gắn với cái bi, mà gắn với cảm hứng khám phá cội nguồn của

đạo đức, của chiến công. Họ là những con người kiên cường, dũng mãnh, vượt qua mọi

hoàn cảnh khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, những sợ hãi, kinh hoàng, phản bội, yếu

đuối bất lực của con người không được chấp nhận. Những người lính trong các tác phẩm

của Furmanov, Fadeev, Ostrovski... thể hiện rõ những điều đó. Với quan niệm và tiếp cận

như thế, văn học Xô viết một thời không tán thành hình ảnh người lính trong tác phẩm

Trở về của Platonov như một hiện tượng "lẻ loi", "tiêu cực", và Việt Nam kịch liệt phê

phán các bộ phim Bài ca người lính, Khi đàn sếu bay qua hay một số truyện ngắn của

Aitmatov, (cũng như rất dễ dị ứng trước kiểu viết về người lính của Bảo Ninh sau này).

Việc văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng văn học Xô viết ở nhiều cấp độ khác nhau

như mô phỏng, phóng tác, tiếp thu đề tài, xây dựng hình tượng nhân vật... được không ít

ý kiến ghi nhận. Hoàng Trung Thông viết: "Người mẹ của Gorki, Suối thép của

Seraflmovich, Thép đã tôi thế đây của Ostrovski, Chiến bại của Fadeev, Đất vỡ hoang

cửa Soỉokhov, thơ Maiakovski và nhiều tác phẩm xuất sắc khác đã trở thành người bạn

thân tình nhất, gần gũi nhất của chúng ta từ những năm còn trẻ và mới bắt đầu học viết"

[191: 78]. Vương Trí Nhàn viết: "Tô Hoài là một trong những nhà văn đứng ở hàng đầu

của nền văn học hiện đại Việt Nam [...]. Ấy vậy mà trong kháng chiến chống Phấp một

trong những cuốn sách đầu tiên của ông được in ở Việt Bắc là Lão đồng chí (1948) lại là

một cuốn phóng tác. Trong một hồi kí in trong tập Cách mạng kháng chiến và đời sống

văn học 1945 - 1954, Tô Hoài đã chi rõ: Lão đồng chí được viết phỏng theo tiểu thuyết

Những người bất khuất của Gorbatov. Một trường hợp khác, cũng đáng lưu ý là cuốn

Trước giờ nổ súng của Lê Khâm (Phan Tứ). [...] Huỳnh Lý cho rằng: "Trước giờ nổ

súng không thể ra đời, nếu không có cuốn Tinh cầu (tức Ngôi sao) của Kazakevich dịch

ra từ tiếng Pháp từ trước, sau cũng được dịch ra tiếng Việt (Huỳnh Lý đã viết điều này

trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập VI)". [148: 231] vương Trí Nhàn cho biết

thêm: "Như chỗ tôi nhớ, trong khi chuẩn bị cho tập Dấu chân người lính, một trong

107

những cuốn sách Nguyễn Minh Châu đút trong ngăn kéo là Tấc đất của Baklanov". [148:

228].

Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: "Ảnh hưởng của văn xuôi Nga Xô viết tới văn học

Việt Nam đương đại chắc chắn là có và không thể là nhỏ. Có một số trường hợp nhận ra

được. Chẳng hạn, ảnh hưởng của phong cách trữ tình nhẹ nhàng, tinh tế của Paustovski

trong một số truyện ngắn của Đỗ Chu thời trẻ, giọng văn trong một số truyện ngắn của

Nguyễn Huy Thiệp khiển ta nghĩ đến giọng văn trong Thời thơ ấu của M. Gorki. [13:

90].

Nguyễn Văn Dân ghi nhận sự tiếp thu và ảnh hưởng văn học Xô viết trong sáng tác

văn học Việt Nam như sau: "Ở miền Bắc, trong giai đoạn từ ỉ954 - 1975 phương pháp

hiện thực XHCN chiếm ưu thể trong đời sống xã hội. Văn học hiện thực XHCN nước

ngoài được khai thác tới mức tối đa để bổsung cho đội ngữ văn học trong nước, trong

các nền văn học này, văn học Xô viết chiếm vị trí số một: Người mẹ của Gorki, Đội cận

vệ thanh niên của Fadeev, Thép đã tôi thế đấy của N, Ostrovski, Đất vỡ hoang của

Solokhov được coi là những tác phẩm "kinh điển " của văn học cách mạng" [30: 77]. Giở

nhiều trang sách văn học Việt Nam giai đoạn gần đây chúng ta dễ dàng tìm thấy dấu ấn

rất đậm của những bức chân dung mang sức cổ vũ lớn lao như Pavel Vlatsov, Pavel

Korsaghin, Chapaev, Davydov, Nagunov, Maretsev, Cosevoi... Hệ thống chân dung này

gắn bó mật thiết với các nhân vật anh hùng trong hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam kéo

dài gần nửa thế kỉ. Sự ảnh hưởng văn học Xô viết đối với văn học Việt Nam, như Nguyễn

Văn Dân quan sát, "không thể hiện dưới dạng sao chép máy móc, mà chúng cung cấp cho

nhà văn những nguyên tắc và thủ pháp nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực XHCN: đó là

cách đặt vấn đề chủ đạo, cách kết cấu cốt truyện, cách xây dựng nhân vật điển hình, cách

giải quyết mâu thuẫn... Và mặc dù không phải sao chép, nhưng đôi khi các thủ pháp đó

thể hiện rõ đến nỗi chúng ta có thể nhận ngay ra nguyên mẫu của tác phẩm chịu ảnh

hưởng. Đó là trường hợp của Đất vỡ hoang đối với bộ tiểu thuyết 2 tập Cái sân gạch và

Vụ lúa chiêm của Đào Vũ." [30:77].

108

Nhận định trên hoàn toàn có cơ sở khi ta đối chiếu tác phẩm của Đào Vũ và tác

phẩm của Solokhov viết về phong trào hợp tác hoá: cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái

cũ, giữa tiến bộ và bảo thủ, giữa chung và riêng, những điển hình tốt - xấu... có nhiều

tương đồng và đều được giải quyết theo tinh thần lạc quan cách mạng. Đặc biệt nhân vật

lão Am cùng với những dằn vặt nội tâm "vào hay không vào hợp tác xã" rất dễ cho chúng

ta sự liên hệ trực tiếp với nhân vật trung nông Majdannikov. Các điển hình văn học trong

Đất vỡ hoang còn tìm thấy lại trong nhiều tác phẩm khác viết về đề tài xây dựng cuộc

sống mới ở nông thôn, rõ nhất là trong Bão biển của Chu Văn (Davydov - Tiệp, cụ Ba Bơ

- già Suca...)

Đề tài về chiến tranh, về hình tượng người lính của các nhà văn Việt Nam cũng tìm

thấy trong văn học Xô viết xu hướng chung và những tấm gương. Trần Cương viết:

"Những truyện và tiểu thuyết về đề tài chiến tranh của Fadeev, Furmanov, Ostrovski,

Simonov... đã đến với chúng ta từ hơn 20 năm nay, bay giờ nhìn lại chúng ta thấy rất

quen thuộc, bởi lẽ những truyện và tiểu thuyết ấy có cùng một hướng tiếp cận như chúng

ta đã thấy trong hầu khắp các truyện và tiểu thuyết cửa chúng ta viết về đề tài chiến

tranh. Đó là hướng tái hiện hiện thực chiến tranh và đồng thời ca ngợi, khẳng định chất

anh hùng của người chiến sĩ cách mạng biểu hiện trong chiến tranh". [29: 45]. Với cách

triển khai như vậy, hơn bất cứ đề tài nào, đề tài chiến tranh (ở Việt Nam cũng như ở Liên

Xô) sẽ được thể hiện với màu sắc sử thi rõ hơn cả. Điều này chúng tôi sẽ phân tích rõ hơn

ở phần 3.2.1 của luận án.

Thơ ca Xô viết để lại dấu ấn trong thơ ca Việt Nam là điều khó phủ nhận được,

nhưng mức độ ảnh hưởng ấy sâu đậm đến đâu, có gì khác so với sự ảnh hưởng trước đó

của nền thi ca Trung Hoa và thi ca Pháp đối với văn học Việt Nam? Sẽ cần có (không

phải chỉ một) công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề phức tạp và lý thú này, đưa ra

những kiến giải khoa học, về hiện tượng mà chúng tôi đề cập sau: thi ca Xô viết được

dịch và được đông đảo độc giả Việt Nam yêu thích, thuộc lòng và rõ ràng có ảnh hưởng

đến sáng tác của các nghệ sĩ nước ta, nhưng sự ảnh hưởng ấy không sâu sắc bằng và chưa

đem lại thành tựu rực rỡ như ảnh hưởng của văn học Trung Hoa đã đem lại cho văn học

109

Việt Nam nhiều thể loại hình thức thơ, hay ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, nhất là

chủ nghĩa tượng trưng trong thi ca Pháp đã làm xuất hiện cả một trào lưu thơ ở ta có tên

là Thơ Mới.

Thơ Xô viết dưới nhiều hình thức (phiên dịch, ca khúc, phim ảnh) đã được lưu

truyền sâu rộng trong đời sống tinh thần của chúng ta ngay sau Cách mạng tháng Tám.

Sức sống kì diệu và trường tồn của những bài thơ như Đợi anh về, Aliosa nhớ chăng (C.

Simonov), các ca khúc Cachiusa (thơ M. Isakovski), Chiều ngoại ô Moskva (thơ M.

Matusovski), Đôi bờ (thơ Sedoi)... trong lòng công chúng Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua

có thể cho phép ta nói rằng đối với nhiều người, thơ ca Xô viết vừa là qùa tặng đẹp đẽ

của bạn, vừa là tài sản và niềm tự hào của ta. Trong vòng một thời gian hoàn toàn không

dài, từ chỗ biết đôi ba nhà thơ Nga thế kỉ XIX, công chúng Việt Nam đã được tiếp xúc

với hàng loạt các nhà thơ Nga cổ điển cũng như hiện đại. Qua các thế hệ nối tiếp, số

người dịch thơ Nga -Xô viết ngày càng đông. Không chỉ dịch thơ, người Việt Nam còn

làm rất nhiều thơ bày tỏ xúc cảm, ấn tượng, kỉ niệm về thi ca Nga - Xô viết cũng như về

từng tác giả, từng tác phẩm. Thúy Toàn cho rằng "so với việc tiếp cận và phổ biến thơ

Trung Quốc suốt mấy thế kỉ, thơ Pháp trong gần một trăm năm đô hộ Việt Nam, bức

tranh toàn cảnh của thơ ca Nga ở Việt Nam, xem ra, rõ ràng phong phú hơn, ngoạn mục

hơn" [208: 180]. Có thể nói việc phổ biến thơ ca Nga - Xô viết khá rộng, nhưng ảnh

hưởng thì xem ra không được hiệu quả như vậy, nếu so với ảnh hưởng của thi ca nước

ngoài vào Việt Nam ở các giai đoạn trước. Nhà thơ Việt Nam xúc động trước thi ca Nga,

bày tỏ tình cảm về nó nhiều hơn là chịu ảnh hưởng trong sáng tác. Có thể dùng nhận định

của Hoàng Ngọc Hiến để kiến giải điều này: "Ảnh hưởng của những tác phẩm văn học

Xô viết tới nhà văn Việt Nam rất khấc ảnh hưởng của những tác phẩm văn học Pháp tới

những tác giả văn học Việt Nam thời bấy giờ. Thời Pháp thuộc, những người viết văn

phần lớn học ở nhà trường Pháp - Việt, họ nắm được tiếng Pháp tương đối vững, đủ để

đọc được tác phẩm từ nguyên tác. Chính vì thế thơ Pháp thời này có ảnh hưởng sâu sắc,

tạo ra cả một trào lưu thơ rất quan trọng gọi là Thơ Mới. Thời kì sau này, các nhà văn

Việt Nam đọc văn học Nga chủ yếu qua những bản dịch. Thơ qua những bản dịch thường

110

là mất gần hết. Chính vì vậy sự tiếp xức với thơ Nga không tạo ra được gì đáng kể, còn ở

thời kì trước sự tiếp xúc với thơ Pháp đã tạo ra trào lưu Thơ Mới" [73: 90].

Dấu ấn của thơ Xô viết trong văn học Việt Nam có thể quan sát trong nhiều thời kỳ.

Theo chúng tôi, các nhà thơ thế hệ sau, nhìn chung, tiếp thu cảm hứng - nội dung - tư

tưởng nhiều hơn; còn các nhà thơ thế hệ trước, ngoài những ảnh hưởng ấy còn ảnh hưởng

về hình thức, nhất là hình thức "thơ nói", "thơ bậc thang". Đỗ Lai Thúy nhận xét: "Thơ

Trần Dần, Lê Đạt phần nào cách tân dưới ảnh hưởng của thơ Maiakovski. Trước hết,

tinh thần sáng tạo ngôn ngữ của Maiakovski thời Vị lai, thời "Đám mây mặc quần " đã

truyền cho các nhà thơ Việt Nam này sự nhận thức ngôn ngữ. Còn Maiakovski thời "cộng

sản ngoài Đảng", thời đồng nhất cách mạng thi ca với cách mạng xã hội, đã làm sống lại

ở một xứ sở khác lối thơ diễn đàn với cách nói khoa trương và thể thơ bậc thang". [193]

Đọc một số bài thơ của Trần Dần (Hãy đi mãi, Nhất định thắng..), nếu không nhìn

tên tác giả ghi dưới tác phẩm, e là không ít người ngỡ đó là thơ của Maiakovski, vì những

câu thơ ấy không chỉ giống về hình thức thơ, lối ngắt nhịp, mà còn giống ở tinh thần

quyết liệt, nồng nhiệt, thái độ phân minh, cách nói ngoa ngôn, đầy hình ảnh phóng đại,

tượng trưng mà cụ thể đến ngỡ ngàng kiểu Vị lai, ("Trái đất đeo bom/ trước ngực", "Bạo

lực còn khua/ môi mõm mốc xì", "Khẩu đại bác mỏi nhừ/ vẫn sủa ", ''Con thò lò ngày

đêm hai mặt đói meo/ còn quay tít/ trên kiếp người hạ giá"). Và đây, một tinh thần

Maiakovski hoàn toàn, một tinh thần Maiakovski tuyệt đối:

[...]

Tôi có thể mắc nhiều

tội lỗi

chẳng bao giờ qua ngu sỉ

mắc tội: nằm ì!

han rĩ

khác gì cái chết?

111

chết con tim chẳng còn dám

đau thương

chết khối óc

chẳng còn dám nghĩ!

Nếu

tôi chửa đến ngày thổ huyết

phổi tôi còn xâu xé mãi lời thơ

Tôi có thể mặc thây

ngàn tiếng chửi tục tằn

trừ tiếng chửi: -

"Sống không sáng tạo! "

Nếu tôi bị gió sương

đầu độc

một hôm nào ngã xuống

giữa đường đi

tôi sẽ ngã

như người lính trận

hai bàn tay chết cứng

vẫn ôm cờ.

(Hãy đi mãi - 1957)

Có thể thấy đây là sự ảnh hưởng có ý thức, tuy nhiên, ảnh hưởng ấy không được

thực hiện đến cùng, không có điều kiện phát tán, lan rộng, vì các nhà thơ của nhóm Nhân

văn Giai phẩm "hoặc quá hưng phấn nội dung chính trị nên chưa hoàn toàn hiến thân

112

cho thi pháp, hoặc họ mới chỉ đi được những bước đầu tiên thì bị khựng lại, nên những

cách tân thực sự về thi pháp của họ chỉ thực hiện vào thời hậu Nhân văn, khỉ họ bị cách

lỵ hầu như hoàn toàn với xã hội, khi bản thân họ, với tư cách một nghệ sĩ, bị đặt vào tình

thế "cách tân hay chết". [193]. Phạm Tiến Duật cũng nhận định rằng "sự ảnh hưởng này

về mặt hình thức cũng chỉ là nhỏ bé", rồi nói thêm: “Tác động thơ ca Nga đến thơ Việt

Nam nằm ở con đường khác, con đường phi ngôn ngữ” [32]. "Con đường phi ngôn ngữ"

trong ảnh hưởng văn học là thế nào, phải chăng cũng là một hình thức, một cấp độ ảnh

hưởng đáng chú ý - ảnh hưởng về linh hồn, tư tưởng? Nếu thế, với một hoàn cảnh tiếp tục

thuận lợi, với sự cộng hưởng của hai truyền thống thi ca Việt - Nga, ảnh hưởng ấy biết

đâu về sau chẳng hứa hẹn những thành công trong sáng tạo nghệ thuật của thơ ca Việt

Nam.

Nhìn chung, hơn nửa thế kỉ qua văn học Xô viết đã thật sự bén rễ ứong đời sống văn

học Việt Nam. Nhiều hiện tượng, quy luật, thành tựu của văn học nước bạn đã trở thành

tài sản văn hoá của chúng ta, góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo đặc biệt của một giai

đoạn văn học trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam thế kỉ XX. Mỗi giai đoạn văn

học đều có những đặc điểm khu biệt của mình, văn học Việt Nam giai đoạn tiếp nhận văn

học Xô viết cũng vậy: nó kết hợp yếu tố ngoại nhập với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của

mình để tạo nên một nền văn học có mặt bằng rộng hơn so với văn học giai đoạn trước,

đáp ứng đầy hiệu quả phục vụ những yêu cầu của lịch sử đất nước, nhưng chưa có đỉnh

cao đột xuất. Tuy có sự cộng sinh ấy, ảnh hưởng bao trùm của văn học Xô viết trong văn

học Việt Nam vẫn chưa tới thời kỳ chín muồi, tạo nên sự đột phá trong sáng tạo nghệ

thuật. (Vả lại, đỉnh cao đột xuất cũng như sự đột phá trong sáng tạo không phải là hiện

tượng có thể xuất hiện trong bất cứ thời kì nào của văn học dân tộc).

Giai đoạn sau 1975 văn học Việt Nam bắt đầu có những dấu hiệu tìm tòi những

hình thức thích ứng với thời kỳ mới. Công cuộc đổi mới văn học được Đảng Cộng sản

Việt Nam chính thức khởi xướng vào năm 1986. "Perestroika" ở Liên Xô có một tác

dụng to lớn cho sự đổi mới này. Những nguyên tắc về dân chủ, công khai, về tự do sáng

tạo mà "Perestroika" đề ra đã khơi dậy những suy nghĩ mới, những tìm tòi sáng tạo trong

113

giới trí thức, văn nghệ sĩ nước ta. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt

Nam (1987) đã mở ra một cách nhìn mới về vị trí và chức năng của văn nghệ, tạo nên sự

đổi mới căn bản trong văn học thời kỳ này. "Nền tảng của mọi sự đổi mới trong văn học

thời kỳ này bắt nguồn từ sự tự ý thức của văn học, tức là giác ngộ của văn học về vai trò

của nó trong xã hội, quan hệ giữa văn học và chính trị, ý nghĩa của nó với con

người"[213: 33].

Nghĩa là ảnh hưởng của văn học Xô viết đối với văn học Việt Nam quan sát thấy ở

nhiều giai đoạn. Trong từng giai đoạn, những ảnh hưởng đó đã phần nào làm nên diện

mạo của nền văn học Việt Nam. Văn học giai đoạn 1945 - 1975 cho thấy điều đó rõ nhất.

Ảnh hưởng của văn học Xô viết giai đoạn từ sau 1975, nhất là sau thời kỳ đổi mới, đối

với văn học Việt Nam đã bước đầu tạo nên sự đổi mới khá căn bản, một diện mạo mới,

tiếc rằng ảnh hưởng ấy đã đặt dấu chấm dứt sự tồn tại của một nền văn học mang tên một

thể chế chính trị vào năm 1991. (Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự ảnh hưởng một nền văn

hoá thường không thể chấm dứt cùng lúc với sự cáo chung của nền văn hoá đó: ảnh

hưởng của văn học Xô viết, với tất cả các điểm mạnh, điểm yếu của nó vẫn lưu lại dấu

vết lâu bền ở Việt Nam vào những giai đoạn sau).

Bàn về ảnh hưởng của nền văn học này trong sáng tác ở Việt Nam, chúng tôi chủ

yếu xem xét giai đoạn ảnh hưởng tiêu biểu nhất, mang những đặc trưng nhất của thời Xô

viết , là giai đoạn 1945 - 1975. Ảnh hưởng ấy quan sát thấy rất rõ ở mọi phương diện: thể

loại, đề tài, phong cách, phương pháp sáng tác, trong đó phương pháp hiện thực XHCN là

khâu quan trọng nhất, có thể nói, nó bao gồm và chi phối những mặt còn lại. Lại Nguyên

Ân định nghĩa: "Chủ nghĩa hiện thực XHCN là hiện tượng đặc thù trong văn hoá nghệ

thuật nhân loại thế kỉ XX: đây là lần đầu tiên một số nguyên tắc về khuynh hướng nghệ

thuật được đề lên như những chuẩn mực mang tính pháp quy, được coi là độc tôn trong

toàn bộ đời sống của các nền vâm học dân tộc. Chủ nghĩa hiện thực XHCN là một trong

những nhân tố bề sâu để cấu thành một thiết chế văn học đặc biệt, mang tính nhà nước

rõ rệt: trên lãnh thổ mỗi quốc gia XHCN chỉ có một tổ chức nhà văn duy nhất; cương

lĩnh sáng tác được chính thống hóa, trở thành phương tiện quản lí văn học. Với chủ

114

nghĩa hiện thực XHCN, các nền văn học dân tộc trở nên chính trị hoá rõ rệt, nội dung

văn học được ưu tiên cho việc diễn đạt đường lối chính trị của đảng Cộng sản cầm

quyền." [7: 93]. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực trong mọi phương diện văn học nghệ

thuật ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua để lại nhiều hệ qua với nhiều mặt tích cực thiết

yếu và tiêu cực tất yếu, chi phối đời sống tinh thần xã hội trong nhiều thập niên và tiếp

tục tác động dai dẳng trong giai đoạn hiện nay. Những hệ qua đó chúng tôi sẽ lần lượt

điểm qua trong phần viết dưới đây.

3.2 - Hệ quả của sự ảnh hưởng

3.2.1. Một nền văn học giàu tinh thần sử thi

Thắng lợi của cách mạng XHCN ở Liên Xô mở ra một thời đại lịch sử mới, thời đại

của các cuộc cách mạng xây dựng trên thế giới một mô hình xã hội văn minh mới. Điều

ấy đem đến cho văn học một không khí hưng phấn, cổ vũ những người cầm bút xây dựng

những tác phẩm mang hơi hướng sử thi cao rộng - sử thi của sự biến cải mà cách mạng

đem đến cho con người, cho xã hội.

Tinh thần sử thi được nảy sinh trong văn học nghệ thuật như sự lý giải những sự

kiện lớn lao nhất có tính chất bước ngoặt của đời sống nhân dân, phản ánh những bức

tranh rộng lớn về đời sống chính trị xã hội của cộng đồng. Văn học Xô viết mở đầu chính

bằng tinh thần này. Đó là các tác phẩm hoành tráng Diệu pháp hề, 150.000.000 (V.

Maiakovski), Mười hai (A. Blok).... Hình thức đồ sộ thể hiện các sự kiện lớn lao tiếp tục

được tìm thấy trong hàng loạt tiểu thuyết sau đó, như Nước Nga lau dòng máu (A.

Veselyi), Suối thép (A. Serafimovich), Chiến bại (A. Fadeev), Sông Đông êm đềm, Đất

vỡ hoang (M. Solokhov), Con đường đau khổ (A. Tolstoi), Mùa hè kì lạ (K. Fedin),

Bão táp (I. Erenburg), Mùa xuân trên sông Oder (E. Kazakevich), Vây hãm (A.

Chakovski), Bến bờ (I. Bondarev), Tiếng gọi vĩnh cửu (A. Ivanov), Rừng Nga (L.

Leonov), Pari sụp đổ, Bão táp (I.Erenbuarg), Cánh đồng bà mẹ, Một ngày dài hơn thế

kỉ (Ch. Aitmatov)... Bộ ba tác phẩm của C. Simonov Những người sống và những

người chết, Người ta sinh ra chưa phải là lính, Mùa hè cuối cùng là bức tranh sử thi

tiêu biểu và quy mô về đề tài chiến tranh. C. Simonov đã bao quát và tái hiện một khối tư

115

liệu khổng lồ thuộc nhiều bình diện, trong đó có nhiều nhân vật lịch sử, biến cố trọng đại

trải ra trên một không gian và thời gian dài, rộng. Một lực lượng đông đảo nhân vật tham

gia, hoá mình vào sự sống và cuộc đấu tranh của toàn dân, hành động của họ được nhìn

trong ý nghĩa của các chuỗi biến cố lịch sử, tình cảm cốt lõi của họ là nghĩa vụ đối với tổ

quốc, với cộng đồng. Với tiểu thuyết Ngày hôm trước viết về những "ngày hôm trước"

của phong trào tập thể hoá nông nghiệp, V. Belov trình bày những suy nghĩ của mình về

những vấn đề lớn đầy tính sử thi: vận mệnh của đất nước, số phận của người nông dân,

tiền đồ của văn hoá dân gian... cảm hứng sử thi ấy tiếp tục kéo dài đến những thập niên

sau. Tính sử thi tràn ngập không chỉ trong hình thức văn xuôi dài hơi, mà còn trong

những hình thức đoản thiên như truyện ngắn, kí, thơ... Số phận con người của Solokhov,

Tính cách Nga của A. Tolstoi, Tiếp cõi xa lại cõi xa của Tvardovski... là những minh

chứng về điều đó. Với vài chục trang sách, tác phẩm Số phận con người đã xâu chuỗi tất

cả những sự kiện lớn nhất của nửa đầu thế kỉ XX, trở thành bản tổng kết một giai đoạn

lịch sử hào hùng và đau thương của nhân dân Xô viết trong công cuộc kiến thiết và bảo

vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạc khắc nên bức tượng đồng về biểu tượng con

người trong thế kỉ XX với số phận gian truân, thử thách nghiệt ngã, trọng trách vinh

quang và lý tưởng nhân văn cao đẹp của nó.

Tinh thần sử thi quán xuyến toàn bộ nền văn học Xô viết và Việt Nam, xâm nhập

vào từng thể loại, kể cả thể loại có quy mô nhỏ, nhưng thể hiện rõ hơn cả là trong tiểu

thuyết - thể loại có quy mô bảo đảm cho chất sử thi được thể hiện rộng rãi. Mọi tìm tòi

thể hiện tính sử thi dồn vào thể loại này, một kiểu biên niên sử ghi nhận sự hình thành,

phát triển một cộng đồng mới trong cách mạng, chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Ở Việt Nam, giai đoạn này, tiểu thuyết đã phát triển, nhưng truyện ngắn mới thực sự

là thể loại trọng tâm. Và tinh thần sử thi đã tìm thấy nội dung phản ánh cuộc sống của

cộng đồng trong hàng loạt truyện ngắn.

Nỗ lực miêu tả những sự kiện lớn đã tìm thấy sự tương hợp trong hình thức sử thi

được kết hợp với việc nỗ lực trình bày thế giới bên trong con người. Tính sử thi của

những trang tiểu thuyết viết về chiến tranh thể hiện trong việc miêu tả diện mạo của chiến

116

tranh, đồng thời cho thấy sự hình thành con người, nhất là sự giác ngộ chủ nghĩa quốc tế

của công dân Xô viết, sự phong phú của chủ nghĩa yêu nước, sự tăng cường chủ nghĩa lạc

quan lịch sử. Sau chiến tranh, khi xã hội Xô viết trở lại hoá bình, biên niên sử nghệ thuật

những năm 50 trở đi chủ yếu thể hiện quan hệ xã hội chủ nghĩa ở nông thôn và công cuộc

xây dựng cơ sở công nghiệp ở thành thị (Đất vỡ hoang của M. Solokhov, Họ hàng lớn

của M. Stelmakh, Đá đen của M. Gusein...). Các nhà văn trình bày một cộng đồng lịch sử

mới trong cái quá trình hình thành ý thức xã hội chủ nghĩa trong lao động. Trung tâm chú

ý của tiểu thuyết thời kỳ này sự khắc phục ý thức tư hữu của người trung nông, khẳng

định thái độ mới của người cổng dân đối với sở hữu xã hội chủ nghĩa, ca ngợi vị trí tiên

phong của người cộng sản trong công cuộc tập thể hoá.

Trong nhiều tác phẩm Xô viết có quy mô và tính chất sử thi, nhất là những tác phẩm

ra đời trong những năm 20 - 30, ta thấy gương mặt cá nhân bị lẫn vào cộng đồng: tâm lý

quần chúng được đưa lên vị trí hàng đầu. Quan niệm thống nhất, thậm chí đồng nhất cá

nhân với tiến trình lịch sử khiến cho nội tâm, mâu thuẫn cá nhân phức tạp nhanh chóng

được nhà văn giải phóng khỏi diễn tiến cốt truyện, nhằm tập trung miêu tả nhịp độ nhanh

chóng, vũ bão của sự kiện. Serafimovich diễn giải điều đó khi nói về Suối thép của mình:

"Các chi tiết sinh hoạt sẽ làm chậm và làm nghèo cuộc vận động anh hùng và mục đích

anh hùng của quần chúng." [dẫn theo 174: 74]. Quan điểm này được thể hiện rất rõ trong

tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy - cuốn sách gối đầu giường một thời của vài thế hệ thanh

niên Việt Nam. Tác phẩm gồm hơn 400 trang mà có hơn 250 sự kiện lớn nhỏ, nghĩa là

trung bình cứ hơn một trang là phải dựng một sự kiện mới, khiến nhân vật chính Pavel

Corsaghin bị cuốn hút vào tốc độ bão táp của các tình tiết, trưởng thành nhanh chóng

không cần trải qua diễn biến tâm lý phức tạp. Các nhân vật khác của cuốn tiểu thuyết

cũng được xây dựng theo cách thức tương tự. Với số lượng trang như vậy mà có tới gần

200 nhân vật, nghĩa là trung bình cứ hơn hai trang là một nhân vật được dựng lên với sự

chồng chất nhiều tính cách khắc hoá sơ lược nhưng cùng loại. Lối xây dựng tính cách

nhân vật như vậy quan sát thấy trong nhiều tác phẩm khác của văn xuôi Xô viết thời kỳ

117

đầu, dần dần được khắc phục trong các giai đoạn sau, nhưng không ít khi vẫn lưu lại như

một "công thức" quen thuộc, vẫn được dễ dàng chấp nhận.

Nền văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 ra đời và phát triển trong

hoàn cảnh chiến tranh đã tự đặt ra mục tiêu cao nhất là phục vụ những nhiệm vụ chính trị

của toàn dân tộc. Lấy cuộc đấu tranh và xây dựng đất nước làm đề tài chính, lấy số phận

của cộng đồng làm đối tượng phân tích, lấy cảm hứng anh hùng ca làm cảm hứng nền

tảng, văn học Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975 đã phản ánh những chuyển động kỳ vĩ của

lịch sử dân tộc, đề cao sức mạnh và vẻ đẹp của cộng đồng Việt Nam. Tự bản thân hiện

thực đó đã đem đến cho chúng ta một tinh thần sử thi trong sáng tác văn học. Tinh thần

ấy lại gặp một sự tương đồng, tương hỗ của văn học Xô viết, tạo nên một dòng văn học

mang tính sử thi đầy khởi sắc.

Tiểu thuyết được coi là một thể loại mới trong văn học Việt Nam. Trước Cách mạng

tháng Tám 1945 thể loại này mới hình thành chưa được bao lâu, thành tựu chưa có bề

dày, còn mang tính chất ngắn gọn, rõ ràng và sự phát triển chủ đề tương đối nhanh chóng.

Từ 1954 đến 1960 thành tựu tiểu thuyết được thể hiện rõ rệt qua hàng loạt những tác

phẩm của Nguyên Ngọc (Đất nước đứng lên), Lê Khâm (Trước giờ nổ súng, Bên kia

biên giới), Hữu Mai (Cao điểm cuối cùng), Trần Dần (Người người lớp lớp), Bùi Đức

Ai (Một truyện chép ở bệnh viện)... Thời điểm thể loại này phát triển nhanh về con số là

những năm 60 trỏ đi. Trong vòng 3 năm 1960 - 1962 thể loại văn xuôi dài hơi này có tới

20 cuốn (Sóng gầm của Nguyên Hồng, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Vỡ

bờ của Nguyễn Đình Thi, Cái sân gạch của Đào Vũ, Xung đột của Nguyễn Khải, Đi

bước nữa của Thế Phương, Mùa lạc của Nguyễn Khải...). Bước sang thời kỳ chống Mỹ

(1961 - 1975), thể loại này gặt hái những vụ bội thu về số lượng (Cửa biển của Nguyên

Hồng, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành, Gia

đình má Bảy, Mần và tôi của Phan Tứ, Vùng trời của Hữu Mai, Dấu chân người lính

của Nguyễn Minh Châu, Bão biển của Chu Văn, Đất làng của Nguyễn Thị Ngọc Tú,

Thung lũng Côtan của Lê Phương, Xi măng của Huy Phương... cảm hứng sử thi bao

trùm rõ rệt trong các tác phẩm trên, nơi mà nhân dân như một hình tượng của quá trình

118

thức tỉnh cách mạng. Các nhà văn dựng lại bầu không khí sôi nổi của một thời kỳ đấu

tranh bảo vệ và kiến thiết đất nước của cộng đồng, trong đó mỗi cá nhân hoá vào tập thể,

sống và hành động vì lợi ích của số đông. Mỗi nhân vật đứng trước sự lựa chọn gay gắt

giữa cái cũ và cái mới, giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và tập thể, và trưởng

thành trong những thử thách đó như sự khẳng định tính ưu việt của một chế độ xã hội

tươi đẹp đã giáo dục nên những mẫu người lý tưởng của thời đại. Với cách thể hiện như

vậy, đại đa số các nhân vật không có tâm lý quá phức tạp. Những đặc điểm trên mang rõ

dấu ấn từ nền văn học Xô viết mà chúng ta tiếp nhận thông qua mảng dịch thuật thời ấy.

Cảm hứng lịch sử và tư duy sử thi quán xuyến hầu hết các tác phẩm lớn trước

những năm 80 viết về đề tài chiến tranh và đấu tranh xây dựng cuộc sống mới. Các nhà

văn Việt Nam nỗ lực dựng lại bức tranh xã hội -lịch sử rộng lớn với nhiều biến cố, sự

kiện lịch sử có thật được tái hiện và chi phối đến số phận của các nhân vật. Cũng giống

như Solokhov trong Họ chiến đấu vì tổ quốc, Fadeev trong Đội cận vệ thanh niên, A.

Tolstoi trong Con đường đau khổ..., các nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trong Sống mãi

với thủ đô, Nguyễn Đình Thi trong Vỡ bờ, Nguyên Hồng trong Cửa biển, Nguyễn Minh

Châu trong Dấu chân người lính... đã hướng đến xây dựng những con người làm chủ đất

nước, làm chủ dân tộc. Đó là những nhân vật có lý tưởng, xả thân vì nghĩa lớn, có ý chí

và nghị lực để vượt qua mọi gian lao thử thách, luôn lạc quan tin tưởng vào thắng lợi cuối

cùng. Trong Sống mãi vôi thủ đô, Vỡ bờ, Cửa biển... các tác giả đã dựng lại những bức

tranh xã hội rộng lớn với nhiều tuyến nhân vật phát triển trong mối xung đột giai cấp, gia

đình, với nhiều biến cố lịch sử có thật tác động, chi phối đến số phận con người. Trong

Dấu chân người tính Nguyễn Minh Châu đã dựng lại một không khí hào hùng của các

thế hệ "lớp cha trước, lớp con sau/Đã thành đồng chí chung câu quân hành". Chúng ta

thử lắng nghe âm hưởng anh hùng ca chiến trận của chiến dịch Khe Sanh: "Không ai có

tài nào phân biệt hoặc đếm được có bao nhiêu đơn vị, cũng không thể biết nay là đường

rừng hay là quảng trường, là rừng cây hay rừng súng đạn, rừng người. Người ta chỉ biết

đông đúc và chật chội... là tiếng ồn ào của cuộc sống, là đàn ông cần lao đang san một

nửa tể đi đánh giặc... Không thể nào tả hết những khuôn mặt chiến sĩ, những khuôn mặt

119

chỉ huy, những khuôn mặt tầng tầng lớp lớp người đang nối tiếp nhau đi ra từ trên dốc,

từ dưới suối, từ khắp ngỗ ngách của rừng, mặt người nào cũng đẫm mồ hôi và bừng bừng

như say". Những âm hưởng như thế, nhữhg con người như thế đã trở thành vẻ đẹp lý

tưởng, vẻ đẹp quen thuộc của một thời. Những con người trong hầu hết các tác phẩm như

thế được nhìn nhận hết sức rạch ròi địch - ta, xấu - tốt, thấp hèn - cao cả. Những người

lính thuộc hai thế hệ cha - con (Kinh - Lữ) thật sự là những con người lý tưởng của một

cộng đồng đang cùng một chiến hào vì sự nghiệp chung cao cả. Những khúc mắc riêng

tư, nếu có, cũng trở nên nhỏ bé, dễ chìm đi giữa dòng sử thi bao la của sự kiện.

Cách dựng không khí sử thi và thể hiện tính cách nhân vật sử thi của Đào Vũ trong

Cái sân gạch, của Chu Văn trong Bão biển rất đễ liên tưởng một cách trực tiếp đến Đất

vỡ hoang của M. Solokhov. Đất nước Việt Nam trong thời kỳ tập thể hoá nông nghiệp

được khái quát và điển hình hoá qua nhữtig sự kiện xảy ra ở xã Sa Ngoại (cũng như vai

trò của xã Gremiatri Lok đối với cả đất nước Xô viết những năm 30). Cuộc sống ở nông

thôn trong thời kỳ này đặc biệt khó khăn, rối ren. Kẻ thù của phong trào tập thể hoá ở

trong hai cuốn tiểu thuyết hết sức phức tạp: kẻ thù công khai là bọn phản cách mạng, bọn

lưu manh ném đá giấu tay, và kẻ thù bên trong - nguy hiểm không kém - là những tàn dư

lạc hậu trong người nông dân chân chất, cả tin, dễ bị lung lạc làm theo lời xúi bẩy của

bọn phản động. Cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ đầy những cam go, trắc trở, khắc

họa sắc nét những mâu thuẫn chuyển biến của thời đại cùng với thế giới nội tâm phong

phú của con người. Hai thiên tiểu thuyết đưa ta đến dần với sự biến đổi to lớn của người

nông dân đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, chứa đầy những giai điệu mãnh liệt báo hiệu

mùa xuân của nhân loại đang đến gần. Nhiều nhân vật của Chu Văn nhắc nhở người đọc

các nhân vật của Solokhov, tiêu biểu hơn cả là Tiệp - nhân vật trung tâm của Bão biển.

Cũng như Semion Davydov, xuất thân và trưởng thành từ giai cấp công nhân được cử từ

một nơi khác về nông thôn làm nòng cốt, gây dựng phong trào, Tiệp sau thời gian phục

vụ trong quân ngũ đã trở về quê với một tinh thần và trách nhiệm của một người lính

bước vào cuộc chiến đấu mới. Anh tiêu biểu cho lực lượng nòng cốt ở nông thôn mới

đang chuyển mình đi lên, gắn bó đời mình với tập thể, với sự nghiệp chung của xã hội.

120

Bước vào cuộc chiến mới, anh phải đương đầu và vượt qua nhiều thử thách khó khăn, và

(cũng như Davydov) không phải không có lúc anh đã nản lòng trước thực tại đầy khúc

mắc, trước những mâu thuẫn đang nảy sinh và phát triển mỗi lúc mỗi phức tạp: "Anh có

thể an phận, chỉ cốt lo cho hợp tác xã nhỏ bé của mình, làm ăn đúng đắn, không cổ điều

tiếng gì là được thì cũng chẳng sao. Anh cũng có thể cưới một người vợ, xây ba gian nhà

hưởng nam, một mảnh vườn với đôi lợn, đôi gà. Còn sau nay nếu xã hội ngày một tiến lên

thì Sa Ngoại cũng tiến lên trong cái chung ấy. Chẳng lẽ người ta xây dựng chủ nghĩa xã

hội rầm rầm trong cả tỉnh lại để cho một thôn lạc hậu mãi hay sao. Cả tỉnh sẽ xúm vào

xốc nách nó, khiêng nó lên chủ nghĩa xã hội. Nghĩ thể thì hà tất phải hoạt động, hà tất

phải có sáng kiến, cũng chẳng cần đấu tranh tư tưởng, giáo dục quần chúng gì gì nữa.

Nhưng nếu như thế thì còn là một đảng viên làm gì?" [223: 70]. Và thế rồi Tiệp lại tiếp

tục dốc lòng với công việc, tìm cách tháo gỡ mâu thuẫn khúc mắc của mọi người, của

mình. Davydov và Tiệp thật sự là những hình mẫu của người cộng sản trong công cuộc

xây dựng một xã hội mới, những nhân vật thể hiện rõ quan niệm và tiêu chí về con người

trong văn học sử thi.

Ở phương thức tự sự nhỏ như truyện ngắn, truyện vừa, ký, phóng sự... ta cũng dễ

dàng quan sát thấy không khí sử thi. Truyện ngắn thời kỳ này rất phát triển, trở thành thể

loại trọng tâm trong đời sống văn học, và thể hiện rõ khuynh hướng sử thi. Thử đọc lại

Trận phố Ràng (Trần Đăng), Vợ chồng Ả Phủ (Tô Hoài), Rừng xà nu (Nguyễn Trung

Thành, Cỏ non (Hồ Phương), Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu)... ta sẽ thấy

điều đó.

Các nhà viết kịch Xô viết và Việt Nam có xu hướng muốn sáng tạo những tác phẩm

quy mô xứng đáng với tầm vóc và ý nghĩa của các biến cố lịch sử trong thế kỉ XX đã và

đang xảy ra trên đất nước mình. Thừa kế thành tựu của kịch trường hoành tráng châu Âu

như Schiller, Goethe, Shakespear..., các tác gia Xô viết đã tìm được một hình thức mới

của nghệ thuật sân khấu mới: kết hợp sử thi với kịch. Bắt đầu từ Gorki và Maiakovski,

sân khấu Nga trở thành diễn đàn của các sự kiện chính trị -xã hội. Vở kịch Diệu pháp -

hề (1918) của Maiakovski "được giới phê bình đánh giá rất cao và được coi là vờ kịch

121

Xô viết đầu tiên thể hiện ý nghĩa xã hội - chính trị có quỵ mổ toàn thế giới của Cách

mạng tháng Mười [...], mỗi tình tiết là một ẩn dụ tượng trưng, đồng thời lại là sự khái

quát những sự kiện lớn, [...], là vở kịch cách mạng có tính nghệ thuật đầu tiên trong nền

kịch Xô viết" [115: 110]. Bằng những thủ pháp của sân khấu hoành tráng, Maiakovski đã

tái hiện cuộc cách mạng vô sản như một cuộc đại hồng thủy ngập tràn khắp trái đất, lôi

cuốn một lực lượng đông đảo các thế lực đối lập. Tương lai xán lạn của giai cấp công

nhân được hình tượng hoá qua hình ảnh miền "Đất ước hẹn" đầy hạnh phúc. Sự đổi mới

của vở kịch còn thể hiện ở chỗ đã đưa quần chúng vào trong cấu trúc kịch để thay thế cho

những cá nhân. Xu hướng sử thi hoá kịch trường, kết hợp biến cố lịch sử với hình tượng

nhân dân tiếp tục thể hiện ương nhữiig giai đoạn sau của sân khấu Xô viết , như Liuba

(K. Trenev), Sụp đổ (B. Lavrenev), Tầu bọc thép (V. Ivanov), Chuông điện Kremlin,

Khúc thứ ba bi tráng (Pogodin)...

Tiến trình kịch Việt Nam từ sau 1945 cho thấy sân khấu đã trở thành một vũ đài

tuyên truyền lợi hại, đóng góp không nhỏ trong việc tái tạo không khí hào hùng của cả

một cộng đồng "vững tay cày, chắc tay súng". Dưới ảnh hưởng của nghệ thuật sân khấu

hoành tráng Xô viết thời kỳ đầu, cũng như ảnh hưởng hoạt động sáng tạo "của thế hệ

Stanislavski, Kịch tự sự và Thuyết gián cách của Bret, kinh nghiệm viết kịch và kinh

nghiệm đạo diễn của các nghệ sĩ Liên Xô, Trung Quốc [...], các nghệ sĩ đã tỏa đi khắp

mọi miền của Tổ quốc, lao vào những đề tài lớn như đề tài chiến tranh cách mạng, đề tài

chống cưỡng ép di cư, đề tài cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề tài đấu tranh thống

nhất đất nước..." [197: 25]

Phương pháp sáng tác hiện thực XHCN cũng như phương châm "đại chúng hoá"

tìm thấy ở loại hình văn học này tính phù hợp trong nội dung, phương thức thể hiện. "Lần

đầu tiên, kịch tìm được mối liên hệ với nhân dân, quần chúng, tiến từ thành thị về thôn

quê, từ sân khấu chuyên nghiệp lộng lẫy ánh đèn đến các sân khấu nghiệp dư [...]. Kịch

trở thành sinh hoạt văn hoá nghệ thuật của công - nông - binh và các tầng lớp quần

chúng khác." [197: 31]. Điểm lại những vở kịch tiêu biểu trong thời kỳ này ta thấy rõ

điều đó: Bắc Sơn, Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Ngọn lửa (Nguyễn Vũ),

122

Bà mẹ và những đứa con (Xuân Trình), Dũng sĩ Rạch Gầm (Lộng Chương), Đại đội

trưởng của tôi, Tổ quốc (Đào Hồng Cẩm)... Đánh giá về thành tựu kịch Việt Nam từ

1945 đến cuối thế kỉ, Phan Trọng Thưởng đề cao tính quy mô và cập nhật của thể loại

như sau: "Nhìn lại 55 năm từ Cách mạng tháng Tám đến nay có thể thấy không một sự

kiện lớn nhỏ nào trong đời sống chính trị xã hội của đất nước lại không được phản ánh

trong kịch. Dường như có một sự phù hợp, ăn nhập nào đó giữa đặc trưng thẩm mỹ của

thể loại kịch với những xung đột bản chất nhất, điển hình nhất của thực tại cách mạng"

[197: 31].

Không khí sử thi còn tìm thấy trong thi ca. Văn học Xô viết được mở đầu bằng các

trường ca lừng danh về ý nghĩa lẫn quy mô, như 150.000.000 (V. Maiakovski), Mười hai

(A. Blok)... với những hình tượng khoa trương, sự ước lệ của huyền thoại, có quy mô vũ

trụ theo tinh thần lãng mạn chủ nghĩa. Hình thức trường ca rất thích hợp cho sự diễn tả

cách mạng, chiến tranh một cách bi tráng, nóng bỏng. Cơn giông bão trong trường ca

Mười hai là một biểu tượng trực tiếp của trận cuồng phong cách mạng, cuốn phăng đi

những dấu tích của thế giới cũ, biểu dương sức mạnh của những chủ nhân mới đất nước.

Cũng trong tinh thần như thế, thơ ca Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975 mang dáng dấp

một khúc ca chung, nặng tính trữ tình công dân, tính trữ tình chính trị. Cái "tôi" trữ

tình trong thi ca là cái "tôi" cao rộng, phát ngôn thay mặt cho cộng đồng, dân tộc. Tinh

thần sử thi ấy vang lên sang sảng trong nhiều bài thơ nổi tiếng, như Huế tháng Tám (Tố

Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Hội nghị non sông (Xuân Diệu), Dáng đứng Việt

Nam (Lê Anh Xuân), Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng (Chế Lan Viên)...

Với tư thế "Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên), cái "tôi" sử thi

bao quát cả không gian và thời gian rộng lớn của lịch sử trong quá khứ, hiện tại, tương

lai, suy ngẫm, dự đoán và quyết định vận mệnh của đất nước, của lịch sử dân tộc:

Chào 61! đỉnh cao muôn trượng

Ta đứng đẩy mắt nhìn bốn hướng

Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau

123

Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu!

(Tố Hữu)

Đó cũng là tâm thế sảng khoai, niềm tin tươi sáng vào tiền đồ tổ quốc Xô viết của

nhà thơ lừng danh A. Tvardovski khi ông ngược dòng thời gian tìm về qua khứ của dân

tộc, rồi trở lại với hiện tại, đi tới những miền xa xôi nhất của đất nước như Volga, Ưral,

Sibir, Baikal... để chứng kiến sự thay da đổi thịt từng ngày từng giờ của cuộc sống, để mơ

ước mở rộng thêm tầm nhìn về tương lai:

Tiếp năm này năm khác, tiếp nước này nước khác,

hết chặng này lại chặng khác

Đường đi đâu có dễ.

Nhưng gió của thời đại

Thổi căng buồm chúng ta.

(Tiếp cõi xa lại cõi xa - Hoàng Ngọc Hiến dịch)

Quan niệm con người tập thể, con người hoá mình vào sự nghiệp chung, tìm thấy

sức mạnh của mình trong cộng đồng - là quan niệm mang tính đặc thù của thời đại ấy -

được thể hiện rõ trong thi ca:

Tôi cùng xương càng thịt với nhân dân của tôi

Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu

Tôi sống với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu, gian lao.

(Xuân Diệu)

Tâm tư đó ta từng bắt gặp trong những vần thơ của Lugovskoi:

...anh chỉ là một giọt nước trong đại dương

lịch sử của nhân dân

124

Nhưng lịch sử trong bản thân anh đó

Sống trong lịch sử, anh chịu trách nhiệm về lịch sử

Anh chịu trách nhiệm về tất cả

về những chiến thắng và quang vinh

về những khổ đau và lỗi lầm

Ảnh chịu trách nhiệm với ai dẫn đường anh đi

Với quốc thiều, quốc huy, với ngọn quốc kỳ

(Giữa thế kỉ - Hoàng Ngọc Hiến dịch)

Tính chất trữ tình sử thi gắn liền với không khí hào hùng của thời đại vẫn tiếp tục

vận động sau 1975, đặc biệt là ở thể loại trường ca, như Đường tới thành phố (Hữu

Thỉnh), Trường ca sư đoàn (Nguyễn Đức Mậu), Những người đi tới biển (Thanh Thảo),

Mặt trời trong lòng đất (Trần Mạnh Hảo)...

Sau 1975, chiến tranh chấm đứt, văn học Việt Nam dần dà có những chuyển biến về

tư duy nghệ thuật phù hợp với thời kỳ mới; quan niệm về thế sự, đời tư, triết lý, văn hoá

về con người bắt đầu hiện lên từng đường từng nét, song xét trên nhiều phương diện, tinh

thần sử thi tuy có nhạt dần đi nhưng vẫn tiếp tục quan sát thấy. Người ta không thể ngày

một ngày hai trở về với cái bình thường sau bao nhiêu cái phi thường của cả một khoảng

thời gian không ngắn của đời người. Và có lẽ còn phải lâu hơn cả một đời người, những

quan niệm từng đóng khung thế giới thẩm mỹ của một thời ấy mới nới dần ra.

Văn học Việt Nam thời kỳ tiếp nhận và ảnh hưởng văn học Xô viết là một thời kỳ

đặc biệt, thời kỳ mà hiện thực đòi hỏi văn học phải để lại những dấu ấn về cuộc sống, tầm

vóc tư tưởng, ý chí của thời đại anh hùng. Tiếp nhận tinh thần sử thi trong văn học Xô

viết là một điều hợp lẽ tự nhiên, là sự đồng vọng của nhu cầu nội tại với yếu tố được tiếp

nhận, văn học của chúng ta đã góp phần khám phá và đề cao vẻ đẹp của con người Việt

Nam trong qua trình vươn lên đáp ứng nhíhig đòi hỏi và trách nhiệm của một thời kỳ lịch

sử. Nó là sự phản ánh của một ý thức dân tộc bắt nguồn từ tinh thần, tinh hoá, khí phách

125

của cha ông ta, nay trỗi dậy mạnh mẽ trong cách mạng và hai cuộc kháng chiến. Việc ít

chú ý thể hiện con người cá nhân của văn học giai đoạn này "không phải là khuyết điểm

mà là đặc điểm" [174: 261], khi mà Tổ quốc, nhân dân và cá nhân cần hoá làm một để

cùng viết bản trường ca chung, để đi đến thắng lợi cuối cùng. Không nói đến tính phiến

diện, tính đơn giọng điệu, tính ước lệ mang màu sắc lý tưởng hoá khó tránh khỏi khi thể

hiện cuộc sống và con người thời chiến tranh, chúng ta vẫn luôn khẳng định ảnh hưởng

khuynh hướng sử thi Xô viết là hiện tượng hợp quy luật và đã đem lại cho văn học Việt

Nam nhữtig thành tựu khó lòng bác bỏ. Dù cho cần phải nhận thức và đánh giá lại xu

hướng hiện thực XHCN, nhưng không thể không ghi nhận rằng thành tựu và bản thân văn

học Việt Nam giai đoạn này là "một biểu hiện muốn vượt qua cái hiện đại đã lỗi thời cuối

thể kỉ XIX", là "một giai đoạn lịch sử không lặp lại của văn học dân tộc" [174: 296, 299],

ương đó có sự góp thêm màu sắc của văn học Xô viết.

3.2.2 - Chất báo chí xâm nhập vào các thể loại

Có thể nói, văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và văn xuôi Xô viết có một

nét chung đáng lưu ý là cùng bắt đầu bằng thể loại ký hay những thể loại văn xuôi khác

có sự pha trộn đậm chất báo chí mang nội dung, đề tài có tính cập nhật. Hai dòng văn học

Xô viết - Việt Nam cùng phản ánh chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong

chiến tranh và xây dựng đất nước. Trong văn học Xô viết suốt vài thập niên nổi lên hai

khuynh hướng tư tưởng - nghệ thuật cơ bản trong việc miêu tả chiến tranh Vệ quốc vĩ

đại: ngoài khuynh hướng sử thi anh hùng còn có khuynh hướng tư liệu. Văn xuôi tư

liệu dựa trên sự việc cụ thể, việc và người có thật, ví dụ Đường Volocolamscơ (A. Bek),

Khoa học căm thù (A. Solokhov), Thép đã tôi thế đấy (N. Ostrovski) Pháo đài Brest (S.

Smirnov), Đội cận vệ thanh niên (A. Fadeev)... Trong những thiên văn xuôi ấy chiến

tranh được tái hiện như những hồi ức của nhân vật, những số phận cá nhân gắn liền với

cuộc sống của nhân dân, vận mệnh của tổ quốc, đạt một tầm khái quát rộng lớn. Tuyến tư

liệu trở thành một tuyến khá phổ biến trong phong cách của nhiều nhà viết tiểu thuyết.

Những tác phẩm nổi tiếng của tuyến này là Pháo đài Brest, Trận chiến đấu cuối cùng

của những người tử tù (S.Smirnov), Khi những pháo đài không đầu hàng (S.

126

Gorbilov), Tháng tám năm bến tư (V. Bogomolov)... Lịch sử mãi ghi công cho S.

Smirnov, người đã dày công nghiên cứu, chú giải, lập danh sách những người anh hùng

bảo vệ pháo đài Brest, trong đó có cả những người đã hy sinh và cả những người sống sót

sau sự kiện đó đang bị bỏ quên. Nhiều trang trong cuốn tiểu thuyết Tháng tám năm bốn

tư của V. Bogomolov viết về hoạt động của các chiến sĩ phản gián Liên Xô được xem

như những tư liệu tác chiến, tư liệu lưu trữ của thời điểm lịch sử có ý nghĩa quan trọng

tầm quốc gia. Xu hướng sáng tạo điển hình trong tiểu thuyết dựa trên cơ sở những anh

hùng có thật khá phổ biến, nhất là vào những năm 30 - 40. Ví dụ nhân vật Kozuc trong

Suối thép được dựa vào nguyên mẫu Kovchiuc, nhân vật Chapaev trong tiểu thuyết cùng

tên là hình ảnh sư đoàn trưởng lừng danh thời nội chiến có tên như vậy, hay như nhiều

nét cuộc đời của bản thân được N. Ostrovski dùng để tái tạo nên nhân vật Pavel

Corsaghin. Người mẹ cầm sáng, sống như Anh, Đất nước đứng lên, Bất khuất... trong

văn học Việt Nam cũng được xây dựng theo xu hướng ấy. Tính tư liệu không chỉ bộc lộ

rõ trong tiểu thuyết, mà còn thâm nhập vào các hình thức thể loại khác, làm cho "các thể

loại ấy biến thức: nguyên tắc tư liệu thâm nhập vào kịch, truyện ngắn và cả thơ nữa...",

làm cho "nhiều tác phẩm có kết cấu thể loại độc đáo: kỷ của Oveskin, chính luận trữ tình

của Olga Bergon, hồi ký của Erenburg..." [70: 21]. Theo Phong Lê, Sống như Anh,

Người mẹ cầm súng "đó là ký, nhưng nghiền ngẫm sâu hơn thì lại thấy ở đây một "sức

mạnh tổng hợp" của truyện, của hồi ký, của kịch và của cả thơ nữa"[104: 508].

Cuộc kháng chiến 30 năm bền bỉ của nhân dân Việt Nam tìm thấy sức thuyết phục

của khuynh hướng này của văn học Xô viết. Hiện thực đã đi thẳng vào văn học, trở

thành chứ liệu cũng như yếu tố trực tiếp của văn học. Và nếu như chất liệu hiện thực,

nguyên tắc sự thật ấy ở văn học Xô viết được dùng cho phản ánh quá khứ, cho hồi ức đã

lùi dần vào lịch sử thì trong văn học Việt Nam nó là đề tài của hiện tại, của cuộc sống

đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trước mắt người cầm bút. Cho nên, có thể nối, chất hiện

thực của chúng ta trong nội hàm "chân thực, cụ thể" mang tính đậm nét hơn.

Mở đầu thời kỳ văn học này, những dạng văn xuôi ngắn như phóng sự, ký, truyện

ngắn có thành tựu sớm hơn so với tiểu thuyết. Điều đó gần như là quy luật cho mỗi thời

127

kỳ mới của văn học Việt Nam. Ở thời kỳ này, đặc điểm ấy có thể lý giải như sau: thứ

nhất, "tạng" người nghệ sĩ Việt Nam nhậy bén hơn trước các tiểu thể loại, (ở một số nước

khác, hình thức phổ biến của văn xuôi tự sự là truyện dài, của thể loại biên khảo là

chuyên luận, còn ở Việt Nam là truyện ngắn, là tiểu luận); thứ hai, nhà văn Việt Nam

ngay từ hồi đầu thế kỉ cho tới lúc đó có truyền thống và thói quen vừa làm văn vừa viết

báo, (và họ kiếm sống được là nhờ báo nhiều hơn: dùng báo như phương tiện kiếm tiền

nhuận bút, như phương tiện công bố tác phẩm trước khi in thành sách); thứ ba, những thể

loại đó thích hợp với quan niệm phản ánh kịp thời hiện thực. Người đọc dễ chấp nhận tức

thời những tác phẩm ngắn gọn, sáng rõ, đề cập sát sườn những vấn đề đang diễn ra hàng

ngày. Đó là những tác phẩm thuộc những thể loại nửa báo chí nửa văn học, tiếp giáp

trực diện với chính trị - xã hội, phản ứng nhạy bén trước những vấn đề cửa thời cuộc,

tạo cho văn học trực tiếp tham dự vào các sự kiện của cuộc sống, đồng thời khá phù

hợp với phương châm "đại chúng". Nền văn học ấy "tất nhiên phải dễ hiểu và được

quần chúng đông đảo ưa thích. [...] Tiểu thuyết chỉ viết về hiện thực dưới hình thức bản

thân hiện thực. Truyện người thật việc thật chép theo lời tự thuật của các anh hùng,

chiến sĩ thi đua, có một thời rất được khuyến khích và đánh giá cao" [134: 56]. Trần

Đăng Khoa nhận xét: "Đọc truyện Nguyên Ngọc cứ như đi dự một Đại hội Chiến sĩ thi

đua". [192: 258]. Nhu cầu phản ánh ấy đã đem lại những thành công trong sáng tác nghệ

thuật của không ít tài năng, như Nguyên Ngọc, Tố Hữu... - những nghệ sĩ sống hết mình

với thời cuộc, viết tác phẩm bằng cả hồn mình. Những trang viết của họ bám sát và phục

vụ trực tiếp các vấn đề lớn của đời sống chính trị-xã hội của đất nước mà vẫn vượt qua

được sự minh họa, trở thành những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Đất nước đứng lên,

Rẻo cao, Rừng xà nu là những minh chứng cho điều ấy. "Mới biết anh Núp là người may

mắn, anh đã gặp được Nguyên Ngọc nên trở thành bất tử", [192: 288]. "Văn Nguyên

Ngọc là thứ văn có hương. Đọc cứ bàng hoàng váng vất mãi. Không có thực tài, không

thể viết được như thế" [192: 257]. Cái tài và cái tâm trước hiện thực, trước con người làm

nên sức sống cho trang viết của nhà văn.

128

Dưới áp lực của bao biến cố lớn lao và bi thảm, văn học Xô viết và văn học Việt

Nam, hơn bao giờ hết, trở thành văn học chứng liệu. Chủ thể cầm bút là chứng nhân trực

tiếp của hiện thực phản ánh. Các nhà văn Liên Xô và Việt Nam được động viên dấn thân

như những chiến sĩ trên mặt trận đánh giặc cũng như trên trận tuyến xây dựng xã hội.

Một phần không nhỏ các nhà văn là những người từng khoác áo lính và nhiều người

trong số họ suốt đời là quân nhân. Trong hai mặt trận trên không ít nhà văn đóng vai trò

nhà báo và tác phẩm của họ nhiều khi xuất hiện dưới hình thức kí sự gom góp các sự

kiện cộng lòng yêu nước nồng nhiệt của người viết (trường hợp I. Erenburg, A. Tolstoi,

L. Leonov, C. Simonov, Nam Cao, Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân, Thép

Mới...) Ngay cả khi bài kí sự được nâng lên bằng một vài yếu tố của tiểu thuyết, nó cũng

không vượt qua sự tường thuật tương đối ngắn, bắt nguồn trực tiếp từ những đoạn đời có

thật hoặc tiêu biểu. (Đó là trường hợp Ngày và Đêm của Simonov, Họ chiến đấu vì tổ

quốc của Solokhov, Dân tộc bất diệt của V.Grossman, Vượt Côn đảo của Phùng Quán,

Một truyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái...)

Để kịp tái hiện những sự kiện, những bước đi của cuộc sống, văn xuôi Việt Nam

sau 1945 có sự phát triển mạnh về thể ký. Rất nhiều ký sự phát triển từ những bài ghi

chép, tường thuật một trận đánh, một chiến dịch. Trần Đăng - một cây bút viết ký sự xuất

sắc nhất thời kỳ đầu, tâm niệm: "Chỉ có sống, sống cái khách quan và kể lại, hãy khoan

vẽ một tấm sơn mài. Hãy làm nhiều kí họa cho thật đúng, hệt, giản dị, thành thực và

thật", [dẫn theo 184]. Nguyễn Huy Tưởng phát biểu: "Thời đại chúng ta sống vẫn là một

thời đại phi thường, một thời đại của "sử thi"; các tướng sĩ và toàn thể đồng bào ta đang

đem xương máu ra sáng tạo nên hàng nghìn, hàng vạn sự tích bi tráng, dọn thành một

kho vô tận tài liệu cho văn nghệ mới." [dẫn theo 204: 515]. Quan niệm "hiện thực tự nó là

nghệ thuật" thấm nhuần trong các văn nghệ sĩ ngày đầu kháng chiến, ăn sâu trong tâm

thức các nhà văn thế hệ sau. Ký đã thâm nhập vào các thể văn xuôi khác như truyện ngắn,

tiểu thuyết, kịch, tuy bút... một cách rất rõ rệt, thậm chí nó cũng thâm nhập vào cả thơ trữ

tình, làm gia tăng yếu tố tự sự trong thơ.

129

Trường hợp sáng tác của Nguyễn Tuân cho ta thấy líu thế của thể loại ký ương thời

kỳ này. Từ trước Cách mạng tháng Tám được coi là cây bút có sở trường về tùy bút, sau

1945 sáng tác của ông có sự chuyển biến với những trang đầy hình ảnh chi tiết ngoại

cảnh của đời sống thực. Đường vui, Tình chiến dịch, hai tập Tùy bút kháng chiến và

hoà bình I và II, rồi Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi v.v... dù được ông công bố (và

nhiều độc giả mặc nhiên công nhận) là tùy bút, nhưng cũng có ý kiến cho rằng xét về

cách cấu trúc văn bản, chúng không thuần túy thuộc thể loại này.

Việc thể ký thâm nhập và làm biến đổi các thể loại khác đưa đến một số hệ

quả. Thứ nhất trong các thể loại đó các chi tiết thông tin sự kiện của đời sống xã hội lịch

sử trở nên đậm đặc, kể cả trong các thể loại trữ tình như thơ, trường ca, bởi quan niệm

"viết đúng như tối đang có, như tôi vốn có vì tự nó cũng đấng hãnh diện lắm, chẳng việc

gì phải giấu điếm, phải cắt bỏ, phải tô vẽ" [89: 338] đã thành tiêu chí của cả người viết

lẫn người đọc. Cái "tôi" của các trang viết thời này là cái "tôi xác minh sự thật" vì nó vừa

là người kể chuyện, vừa là người trực tiếp tham gia vào sự kiện với tất cả các bằng chứng

về sự hiện diện của mình trong thời gian, không gian cụ thể, có thật. Điều này thấy cả

trong thơ: Trong Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Núi Đôi (Vũ Cao), Bên kia sông Đuống

(Hoàng cầm)... ta luôn bắt gặp cái "tôi xác minh sự thật" vì cái "tôi" ấy luôn gắn với

những câu chuyện có thật xảy ra với tác giả, trong một khung cảnh cụ thể. Những hình

thức có lợi thế trong việc chuyển tải hiện thực cho phép nhà thơ tự thể hiện mình với tư

cách nhân chứng lịch sử như ghi chép, nhật ký, hồi ký, phóng sự, bình luận... đều tìm

thấy trong thi ca. Có thể nêu một vài nhan đề tác phẩm để thấy điều đó: Nhật ký đường

về (Tố Hữu), Hồi ký đầu thu (Trinh Đường), Ghi chép (Bảo Định Giang), Nhật ký hành

quân (Hoàng Nhuận cầm), Phóng sự hè năm 1972 (Nguyễn Duy), Thời sự hè 1972

(Chế Lan Viên)... Tất cả những điều đó cho chúng ta một ấn tượng về một nền văn học

mang tính thời sự hết sức sôi động, sát thực, một nền văn học "làm chức năng thông tin,

chức năng tuyên truyền hơn làm chức năng nghệ thuật" [194: 138], nền văn học đáp ứng

một lúc hai nhu cầu của người đọc mà đại đa số là công nông binh: thưởng thức văn

130

chương và nắm bắt thông tin mà trong đó nhu cầu sau có khi thiết yếu hơn đối với nhiều

người.

Thứ hai, kết cấu của truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, trường ca... thời kỳ này,

do tác động của nhiều yếu tố, trong đó có chất ký, nên thường được trình bày theo các

biến cố, sự kiện lịch sử xã hội và theo trình tự thời gian chứ không theo cuộc đời và số

phận các nhân vật. Cái được kể lại thường được trình bày ở thời điểm đang xảy ra, không

có được khoảng cách, độ lùi của thời gian để tổng kết, khái quát, chiêm nghiệm. Việc

phân tích tâm lý bị nhường chỗ cho sự kiện lấn tới. Các tác giả Việt Nam, nhất là những

người viết về hai cuộc chiến tranh, chủ yếu là giới quân nhân, (nhà văn quân đội ở Việt

Nam rất đông), và vì vậy nhiều khi họ chi phối bởi những kinh nghiệm của chính bản

thân họ. Nhà văn - chiến sĩ, rất tự nhiên, tự nguyện coi mình là người cổ vũ, nhà tuyên

truyền nhiệt huyết cho cuộc chiến, nhiều khi nhà tuyên truyền lấn át cả nhà nghệ sĩ. Hiện

trạng đó là một sự thực, đồng thời là một điều kiện khách quan khó lòng vượt qua trong

một giai đoạn lịch sử đầy những đòi hỏi khắc nghiệt đối với số phận của cả dân tộc. Kiểu

phản ánh này có những mặt mạnh và mặt yếu của nó. Mặt mạnh: khả năng xây dựng

những hình tượng đầy chất lý tưởng về người anh hùng được nhân lên bằng cảm hứng

ngợi ca, trữ tình -anh hùng, khả năng tác động mạnh đến những người đang chiến đấu,

những người đang quên mình lao động dồn tất cả cho tiền tuyến lớn. Mặt hạn chế: óc

tưởng tượng bị đóng cửa, tính khả đoán không phát huy được. Ta dễ nhận thấy một giọng

văn kể lể kiểu melodrama, sự chật hẹp về đề tài và thái độ không chịu triển khai những

khả thể hư cấu. Khi sử dụng bút pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa với nỗ lực kể lại những

hình ảnh, những sự kiện, trạng huống, cảm nhận mà chính nhà văn đã trải qua, họ hy

vọng bút pháp ấy có khả năng truyền đạt trực tiếp đến độc giả những gì đã thực sự xảy ra

và cần được kể lại. Tính hư cấu trong đa số các tác phẩm này chỉ dừng lại ở những mảnh

tưởng tượng hợp lý, được tạo ra như một chất keo để kết nối, hay một chất men làm nổi

bật các tình tiết, rót ra từ chính kinh nghiệm cá nhân hay từ lời kể lại của đồng đội và

quần chúng về cuộc chiến. Khi tập trung đề cao một phương diện nào đó, người ta dễ bỏ

quên một phương diện khác, cụ thể ở đây là khi qua chú trọng "sự trung thực", phần lớn

131

tác giả vô tình xem nhẹ giá trị sáng tạo nghệ thuật. Đa số tác phẩm chỉ cho người đọc

thấy các sự kiện xảy ra qua con mắt của tác giả, và chỉ được phép hiểu các sự kiện theo

lối trình bày của tác giả. Đó là những bức tranh rõ ràng, vừa khít với khung lịch sử và ý

thức mà tác giả chọn và tin, không đặt ra những phương án khả thủ, những thái độ tiếp

cận hiện thực theo cách khác của độc giả. Trong các bức tranh đó, hầu như lúc nào các ý

niệm "ta" và "địch", "chính" và "tà", "chân- và "ngụy"... cũng được xác định ngay từ đầu,

và tác giả vừa kể chuyện, vừa lồng vào câu chuyện của mình những luận đề chính trị, đạo

đức, rồi lần lượt giải quyết những luận đề ấy theo một công thức định sẵn. Một cách diễn

tả như thế, chỉ xét về giá trị «trung thực», cùng lắm, chỉ «trung thực» đối với một giới

độc giả cùng «chiến tuyến», và tất nhiên sẽ bị xem là giả tạo, một chiều đối với độc giả

thuộc những «chiến tuyến » khác. ít có tác phẩm nào có khả năng vượt qua mọi "chiến

tuyến" soi dại vào những giấc mơ thầm kín, bí mật đen tối, những nỗi sợ đến mê sảng,

hay những niềm hy vọng và tuyệt vọng không thể giãi bày của những con người tham dự

vào cuộc chiến tranh, bất kể họ thuộc phe phái nào.

3.2.3 - Sự biến thái hoặc mai một của một số thể loại văn học

Tiến trình này gia nhập vào dòng chảy chung văn học thế giới của văn học Việt

Nam bắt đầu từ hồi đầu thế kỉ, đến nay trải qua nhiều bước thăng trầm cùng lịch sử dân

tộc, ở mỗi giai đoạn, do tính chất và yêu cầu của thời đại, các thể loại văn học sẽ có

những số phận biến thiên khác nhau. Chúng tôi xin đề cập đến sự biến thiên ấy dưới tác

động của yêu cầu tất yếu lịch sử cũng như của phương pháp sáng tác hiện thực XHCN.

Trong nhiều công trình khảo sát, các nhà lý luận và nghiên cứu văn học Việt Nam

đều thống nhất ý kiến về một hiện trạng: Văn học Việt Nam trong tiến trình hiện đại hoá

văn học dân tộc, nhất là ở giai đoạn nước rút của tiến trình ấy, đã hình thành, phát triển

rất nhiều thể loại mới, (trong đó không ít thể loại đạt đến đỉnh cao): tiểu thuyết, thơ mới,

kịch, ký, phóng sự, tùy bút.. Thế nhưng, các thể loại đó, trong các giai đoạn phát triển

tiếp theo của mình, phụ thuộc khá nhiều vào hiện thực đời sống chính trị - xã hội, sẽ có

những bước tiến - lùi không đồng bộ. Hiện nay, trước yêu cầu duyệt lại các giá trị, tổng

kết đánh giá thành tựu của văn học thế kỉ XX, rút ra những bài học thực tiễn để làm hành

132

trang chuyển giao cho thế kỉ XXI, các nhà nghiên cứu nhận thấy trong văn học giai đoạn

1945 - 1975 có một số thể loại văn học từng hiện diện ở giai đoạn trước, nay bị mai một,

hoặc bị biến đổi, thậm chí biến mất, đó là Bi kịch, Hài kịch, Tự truyện, Phóng sự, Tùy

bứt. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này không đơn giản, sẽ còn cần nhiều công trình

nghiên cứu chuyên sâu làm sáng rõ; ở đây chứng tôi chỉ thử đưa ra một trong những cách

lý giải mà chúng tôi thấy có liên quan đến vấn đề khảo sát của luận án: ảnh hưởng của

văn học Xô viết, trước hết ở lý thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Với tinh thần khách quan nhận chân các giá trị nghệ thuật, Phạm Vĩnh Cư ghi nhận

những mặt tích cực của lý thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa trong tiến trình văn học nước

ta trong thế kỉ vừa qua, đồng thời ông cũng thẳng thắn chỉ ra những điểm bất lợi của nó,

ông viết: “Lý thuyết ấy, với nhiều quan niệm triết - mỹ thô sơ, phiến diện, xa rời cuộc

sống và sớm trở thành giáo điều, đã ngăn cản sự kể thừa và phát triển, trong nền văn

nghệ mới, một số loại hình nghệ thuật tối quan trọng, có truyền thống ngàn đời và những

thành tựu rực rỡ trong lịch sử văn hoá loài người, trong đó trước hết phải nói đến các

loại hình bi kịch (cũng như, ở cực khác, - các loại hình trào phúng). Mà thiếu vắng bi

kịch và thiếu vắng tiếng cười (dưới mọi hình thức phong phú của chúng) văn học - nghệ

thuật sẽ trở thành một cái gì đó qua nhạt nhẽo và nông cạn so với cuộc sống, mất đi sức

thuyết phục và thu phục tâm hồn con người, ấy là chưa nói nhiều khỉ nó sẽ phản bội trực

tiếp cái chức năng vẫn được coi là số một của nó - phản ánh trung thành hiện thực, làm

công cụ không thể thiểu cho sự nhận thức sâu sắc hiện thực” [28 : 108].

Lý giải về hiện trạng thiếu vắng thể loại bi kịch chân chính trong những nền văn

học lấy phương châm hiện thực XHCN làm nền tảng, lấy định đề về sự tất thắng của cách

mạng để trình bày thái độ trước hiện thực, Lại Nguyên Ân viết: "Văn học chả nghĩa hiện

thực XHCN tuy khổng đoạn tuyệt với truyền thống văn học, nhất là chả nghĩa hiện thực

thể kỉ XIX, nhưng bài trừ tinh thần lạc quan về lịch sử; chính vì vậy các thể loại kịch cửa

văn học này thể hiện một số xung đột mang tính bi kịch - xung đột "địch/ ta " - loại xung

đột không thể điều hoá giữa những lực lượng lịch sử được xem là đối kháng, một mất một

còn. Một số vở kịch như Bi kịch lạc quan của V. V. Vishnevski, Xâm lược của L. Leonov

133

được gọi là chính kịch anh hùng. Nói chung, tuy những đề xuất lẻ tẻ về các thuyết "không

có xung đột", "không có bi kịch" đã không thắng thế trong ý thức văn học, nhưng bi kịch

hầu như khống có chỗ đứng trong văn học hiện thực XHCN." [7: 22].

Thuyết «Không có xung đột trong nội bộ» và định thức "bi kịch lạc quan" ra đời ở

Liên Xô vào những năm 30 đã ảnh hưởng dai dẳng đến tiến trình văn học không chỉ ở

Liên Xô mà cả ở các nước XHCN khác, trong đó có Việt Nam. Quan niệm về một xã hội

không có mâu thuẫn đối kháng được phổ biến đến từng người, ăn sâu vào ý thức hệ, Văn

học một khi chỉ được phép hiểu hiện thực như một khung cảnh đầy thuận lợi cho cái tiến

bộ tất yếu phải thắng lợi, cái xấu là hiện tượng nhất thời, lẻ tẻ, qua đấu tranh sẽ tất yếu

được cải tạo, cảm hứng bi kịch chân chính sẽ không có chỗ cất tiếng. Điều đó quan sát

thấy trong dòng văn học chủ lưu Xô viết một thời gian không ngắn. Định thức "bi kịch

lạc quan" trong hình thức các vở kịch như của V. Vishnevski là hình thức văn học cổ

động giàu âm hưởng anh hùng ca, về thực chất không phải là thể loại bi kịch thuần chất.

Văn học Việt Nam giai đoạn trước 1945 đã ghi nhận sự ra đời và bước đầu thành

công của bi kịch - thể loại văn học được coi là cao quý và khó bậc nhất trên thế giới.

Không kể những tác phẩm mang tên là bi kịch mà thực chất chưa phải là nó, vào đầu

những năm 40 chúng ta có được 3 tác phẩm bi kịch thực thụ, đó là Vũ Như Tô của

Nguyễn Huy Tưởng, Trường Hận - Dương Quý Phi của Vi Huyền Đắc - Thế Lữ và Yêu

Ly của Lưu Quang Thuận, trong đó tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng được nhiều nhà

nghiên cứu đánh giá là đạt đến đỉnh cao của thể loại, trở thành một hiện tượng cho đến

nay được coi là "vô tiền khoang hậu" trong văn học nước nhà.

Sự ra đời và thành công của thể loại này cho phép chúng ta một lần nữa khẳng định

những thành tựu đột xuất của giai đoạn gia tốc hiện đại hóa văn học Việt Nam và cho

phép độc giả hy vọng vào sự phát triển, sự chín muồi của thể loại. Thế nhưng, như Phạm

Vĩnh Cư nhận định, "từ 1945 trở đi, trong mấy thập niên liền, thể loại này hình như đã

biển mất không tăm tích và không được tưởng nhớ. Ta không tìm thấy dấu ấn hay biến

thái của nó ngay trong sáng tác của các nhà văn trước đẩy đã dày công hun đúc nên nó.

Tất cả các thể loại kịch nói khác: chính kịch, hài kịch, kịch cổ động - tuyền truyền... cùng

134

với các loại hình sân khấu cổ truyền: tuồng, chèo, cải lương sau cách mạng đều bước

vào cuộc sống mới, lĩnh nhận những nhiệm vụ mới và đạt được những bước phát triển

mới. Chỉ riêng bỉ kịch là không được huy động, không được gọi tên trong đội hình văn

học - nghệ thuật mới của nước nhà, gây cảm tưởng nó bị bỏ quên một cách có chủ ý."

Phạm Vĩnh Cư lý giải rằng một trong những nguyên nhân của sự chủ ý bỏ quên ấy là «cái

thể loại sinh sau đẻ muộn và có ít cội rễ trong văn hoá dân tộc này» những năm đầu sau

cách mạng là những thứ xa lạ với quảng đại công chúng, «mà khiếu thẩm mỹ trong nhiều

thế kỉ được giáo dưỡng bằng những loại hình nghệ thuật kiểu khác, với những tiêu chí,

quy luật trái ngược với thi pháp bi kịch». Và ông viết tiếp: "Ở ta, trong những năm chiến

tranh, khỉ phải huy động mọi sức mạnh của nhân dân để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ và

giải phóng đất nước, sáng tác bỉ kịch không được khích lệ, những tác giả xưa kia say mê

viết bi kịch giờ chuyển sang viết kịch cổ động - đó là hiện tượng hợp quy luật. [28: 107].

Thể loại từng đến và ra đi «vô tăm tích» ấy sau 1975 sẽ lần hồi trở về trong sáng tác của

Lưu Quang Vũ và Nguyễn Huy Thiệp, nhưng dưới tác động của các nhân tố nội tại và

ngoại lai trong bối cảnh mới, nó có những biến thái mới, mà trong đó, theo chúng tôi,

cảm hứng bi kịch rõ hơn là chứ thuần nhất của thể loại.

Cùng với sự ra đời và phát triển của kịch, tiểu thuyết, thơ mới, thời kỳ 1930 - 1945

còn được ghi nhận như một giai đoạn thể loại phóng sự "phát triển khác thường, tạo nên

những kì biến trong đời sống xã hội tinh thần Việt Nam" [195: 28]. Với hơn 4.000 trang

in khổ 16cm X 24cm, bộ Phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 gồm ba tập ra mắt bạn đọc gần

đây đã khẳng định diện mạo và thành tựu rực rỡ của thể loại văn học gắn liền với báo chí

này. Một loạt những cây phóng sự xuất sắc ra đời, như Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Trọng

Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Vũ Bằng...,

trong đó Tam Lang được coi là người mở đầu cho thể loại, trong một thời gian ngắn kéo

theo một bản danh sách dài sau ông, còn Vũ Trọng Phụng nổi bật lên như một "ông vua

phóng sự đất Bắc" với hàng loạt tác phẩm có giá trị.

Sự thiếu vắng thể loại phóng sự trong văn học giai đoạn 1945 -1975 được nhiều nhà

nghiên cứu (Phan Cự Đệ, Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Văn Long, Vũ Tuấn Anh...) ghi

135

nhận. Tại sao một thể loại, cũng như bút ký, ký sự, gắn liền với đời sống hiện thực, với

báo chí, một thể loại có khả năng tìm được đường nhanh nhất đến với người đọc, tạo

không khí "rộng đường dư luận" về thực trạng xã hội mà những thể loại khác không dễ

có được, đang độ phát triển rực rỡ, lại không tìm thấy sự phát triển tiếp tục trong giai

đoạn sau, như ký? Hiện trạng đó sẽ còn cần các công trình nghiên cứu chuyên sâu xem

xét, lý giải toàn diện. Ở đây chúng tôi chỉ nêu một trong những lí do liên quan đến vấn đề

khảo sát của mình: bên cạnh tính chính xác, tính thời sự và tính xã hội - chính trị (mà thể

ký cũng cố đầy đủ), thể loại phóng sự yêu cầu thể hiện thái độ, lập trường của tác giả

trước các vấn đề, yêu cầu những phát hiện mới. Sức hấp dẫn của các trang phóng sự

1930 - 1945 không những ở chỗ nó chủ yếu tập trung mô tả thực trạng đen tối của xã hội

đương thời, ở chỗ nó mang tính nghệ thuật, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất báo chí với

chất tiểu thuyết, mà còn ở tinh thần phê phán, thái độ hài hước châm biếm cay độc (và

không hiếm khi rất duyên dáng), ở sự bộc lộ cảm xúc chủ quan một cách gián tiếp, đầy

hiệu qua. "Đằng sau cái vẻ lạnh lùng, chẩn thực đến tàn nhẫn thường thấy ở các thiên

phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Tam Lang... là sự tủi hổ, chua xốt, là nỗi

cảm thông và niềm phẫn uất trước những thống khổ của kiếp người, trước những mục

ruỗng, ghê tởm của xã hội"[195: 33]. Với lương tâm, trách nhiệm của người công dân,

của người cầm bút, các nhà phóng sự 1930 - 1945 đã "tận dụng được tinh thần tự do và

những tư tưởng dân chủ của thời kỳ Mặt trận bình dân để đưa lên mặt báo thực trạng đen

tối, nhếch nhác, bệnh hoạn của xã hội Việt Nam dưới chế độ thực dẩn nửa phong kiến.”

[195: 31]. Cũng gần gũi với báo chí như ký nhưng xét về mặt nào đó, phóng sự thích hợp

với cảm hứng phê phán hơn, (còn ký có lẽ hợp hơn với cảm hứng ca ngợi). Thể loại này

đòi hỏi sự xông xáo, nhạy bén và dũng cảm của người viết, dám lật đi lật lại vấn đề tưởng

rằng đã ngã ngũ, do đó có khả năng làm xoay chiều nhận thức, chấn động dư luận bằng

những phát hiện, những cách tiếp cận hiện thực có thể gần chân lý hơn. Tinh thần phản

phong, lên án thực trạng, phát hiện tiêu cực... không còn nổi bật sau Cách mạng tháng

Tám 1945 - cuộc cách mạng mà không ít nghệ sĩ cảm nhận như "một cuộc tái sinh màu

nhiệm" (Hoài Thanh), "một cuộc hồi sinh vĩ đại" (Nguyễn Huy Tưởng), đem lại cho họ

cảm hứng khẳng định là cơ bản. Phương pháp hiện thực XHCN với những điển hình

136

người tốt việc tốt không tạo điều kiện cho cách triển khai quen thuộc của phóng sự trước

kia. Với văn học thời kỳ đổi mới, hình thức của thể tài này bắt đầu có dấu hiệu hồi sinh,

mở đầu bằng Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc, một khởi đầu đầy ấn tượng về

sự trở lại của cảm hứng phát hiện, trăn trở đi tìm sự thật.

Tày bút nếu định nghĩa một cách giản dị nghĩa là tùy hứng phóng bút. Nó là loại

văn xuôi giàu chất trữ tình, tuôn trào ra từ sự lôi cuốn của cảm hứng, không tự đặt cho

mình một chủ đề nhất định, mà tản mạn, linh động, "lạc đề" một cách nghệ thuật trong

một trật tự nào đó của dòng cảm xúc người viết. Trong văn xuôi quốc ngữ, nếu theo định

nghĩa này, thì có lẽ phải đến Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường, chúng ta mới

thật sự có tùy bút. Ngay cái nhan đề tác phẩm cũng ẩn trong "tiềm thức" ý muốn "lạc

đường": Thạch Lam ghé đây ghé đó, nhìn và bàn phiếm chuyện này chuyện nọ, từ

chuyện "những biển hàng" sang chuyện "người Ta viết chữ Tây", rồi tạt vào "hàng qua

rong" nếm phở, bún sườn, mìn páo... Mà ngay khi nói về qùa rong ông cũng không chăm

chăm bàn về mỗi nó, mà rông dài, tản mạn từ món ăn sang con người, tình cảm, sống,

chết, đói, khổ... Nghĩa là ở đây không xác định một chủ đề nhất định nào, nhưng mọi cái

vẫn tuân theo cái mạch logic nào đó bên trong của dòng cảm xúc; quá khứ, hiện tại nhòe

đi trong khung thời gian, khung cảnh văn hoá.

Từ trước cách mạng Nguyễn Tuân được coi là cây tuỳ bút có tài, nhưng sau cách

mạng chất tuy bút của ông hao hụt dần. Ông có hàng loạt tác phẩm mà ông tự gọi là tùy

bút, như Đường vui, Tình chiến dịch, Tùy bút kháng chiến và hoà bình I, Tùy bút

kháng chiến và hoà bình II, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, thế nhưng xét về cấu

trúc văn bản, chúng không phải là tùy bút, mà là kỷ, hoặc kỷ pha tùy bút. Trong những

trang viết đó Nguyễn Tuân viết có mục đích, không lạc đề, viết để ghi lại những chuyến

đi với những nhận xét, cảm tưởng về phong cảnh, về hoàn cảnh gặp trên đường. Tính

chất ký nổi bật ở các tác phẩm này là lối viết tuyến tính, kể chuyện đường dài, giọng trực

tiếp - phù hợp với phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ta ngày càng ít bắt gặp ở ông

lối viết phá thể xóa bỏ tuyến tính, pha trộn quá khứ và hiện tại như trong Vang bóng một

thời. Nghĩa là, sau 1945 Nguyễn Tuân không còn viết tuỳ bút nữa, mà trở thành một cây

137

bút ký, thể loại tùy bứt ở Miền Bắc mai một dần. (Ở miền Nam giai đoạn này tuy bút tiếp

tục tìm thấy hướng đi với những cách tân của thể loại trong các sáng tác của Vũ Bằng,

Võ Phiến, Mai Thảo...)

Tự truyện với tư cách vừa là thể loại vừa là đề tài đã bắt đầu có những thành tựu

trong văn học Việt Nam giai đoạn trước. Hình thức này được Lại Nguyên Ân định nghĩa

là "tác phẩm văn học tự sự, thường được viết bằng văn xuôi, trong đó tác giả tự kể và

miêu tả cuộc đời của bản thân mình." Khi kể về đời mình, tác giả tự truyện có thiên

hướng lý giải những gì đã xảy ra như một quá trình hình thành và phát triển thế giới nội

tâm của mình trong sự tương tác của nó với thế giới bên ngoài. (Hồi ký khác ở chỗ là lưu

ý trước tiên đến thế giới bên ngoài, đến những hoàn cảnh mình đã tham dự). Trong tự

truyện người kể chuyện trùng với tác giả, nhưng nó là nhân vật văn học với những băn

khoăn về những phương án của hiện thực, có quyền đưa ra những sắp xếp, giải quyết khả

thủ, cho nên không nhất thiết mọi cái trong tác phẩm phải trùng khít với sự thật, như

trong hồi ký. Với hình thức văn học này, nhà văn khát khao muốn khám phá ra chính bản

thân mình, tìm lời giải đáp thường trực ương cuộc đời được sinh ra, trong sự nghiệp nghệ

thuật của mình: Tôi là ai? Tôi có khả năng làm được gì trong thế giới này ? Và tôi đã làm

được gì trong những khả năng đó?

Thể tài tự truyện có một quá trình lịch sử lâu dài trên thế giới, trước hết ở châu Âu.

Tiếp xúc với văn học Pháp, được biết những tác phẩm lừng danh thuộc thể tài này của

Rousseau, Stendhal, Proust, Gide, Celine, Sartre..., với tinh thần tự ý thức và nhãn quan

cá nhân mà thời đại trang bị cho, các nhà văn Việt Nam thời kỳ tiền chiến đã bắt đầu đến

với hình thức văn học này. Một loạt tác phẩm tự truyện (hay tác phẩm có pha tính cách tự

truyện) đã ra đời: Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Chân trời cũ (Hồ Dzếnh), Sống

nhờ (Mạnh Phú Tư), Chiếc cáng xanh (Lưu Trọng Lư), Nhà quê (Thanh Châu), Cỏ dại

(Tô Hoài), Cai (Vũ Bằng)... Chiếc lư đồng mắt cua được Nguyễn Tuân gọi là tùy bút,

thực ra nên coi nó là tự truyện. Còn trong hai tập Tùy bút I và Tùy bút II (in năm 1941,

1943) có nhiều bài nên gọi là những đoản thiên có tính cách tự truyện thì chính xác hơn,

như Những ngày Thanh Hoá, Một giấc ngủ, Đẹp lòng, Một buổi mai đã mất, Một

138

người lữ khách giữa thành phố chúng ta, Một lần đi thăm nhau, Một cái tết vô

duyên... Hay như Sống mòn của Nam Cao chẳng hạn, được coi là đỉnh cao của thể loại

tiểu thuyết, nhưng lại mang "đậm chất tự truyện, đến nỗi người ta vẫn thường qua nổ mà

đọc ra tiểu sử Nam Cao" [2 :34].

Đáng chú nhất ở đây là Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, như chính tác giả

thú nhận và nhiều người nhận xét, nó ra đời dưới sự ảnh hưởng trực tiếp của Bộ ba tự

truyện của M. Gorki, nhất là tập đầu (Thời thơ ấu). (Ở Việt Nam khi cần so sánh Nguyên

Hồng với ai, một trong những người được đưa ra đầu tiên đó là Gorki, vì nhiều nét tương

đồng trong cuộc đời, con người và phong cách nghệ thuật: Nguyễn Huy Tưởng gọi đùa

Nguyên Hồng là "ông Gorki của Việt Nam", Nguyễn Hải Hà bày tỏ: "Không hiểu sao tôi

cứ nghĩ giữa Những ngày thơ ấu, Người đàn bà Tàu của Nguyên Hồng với Thời thơ ấu,

Người mẹ của Gorki có cái gì thật gần gũi" [60]). Khi tác phẩm Những ngày thơ ấu ra

đời, Vũ Ngọc Phan đã nhận định đầy trân trọng: "Lối tự truyện này, ở Anh, ở Mỹ, ở Nga

rất thịnh hành, nhưng ở nước Việt Nam ta, viết được, tôi cho là can đảm lắm'' vì khi viết

tác phẩm này nhà văn mới 16 tuổi ấy "đã trút bỏ hết những thành kiến", "đặt mình mình

lên trên tất cả dư luận" [156]. Tác phẩm làm độc giả thích thú vì đó còn là "những rung

động cực điểm của một linh hồn trẻ dại" (Thạch Lam). Bùi Ngọc Tấn - người bạn vong

niên của Nguyên Hồng “sửng sốt về cái khả năng chân thực ghê gớm mà cũng là cái gan

góc tự do” thể hiện trong tác phẩm - cái mà "Nguyên Hồng về cuối đời ít dần đi, cả trong

con người lẫn trong tác phẩm" [178 : 28].

Cảm hứng trở lại quá khứ để tìm kiếm lại bản thân, cảm hứng "cái tôi tự nghiệm",

"cái tôi tự thú" ấy, sau này, trong thời kỳ tiếp theo, khi cái tôi là «cái chung» nhiều hơn

«cái riêng», đã không còn chỗ bộc lộ nữa. (Sau 1954 một số nhà văn, như Mạnh Phú Tư,

Tô Hoài, Duy Khán... muốn tiếp tục nguồn mạch của thể tài này, nhưng tác phẩm của họ

không còn mang tính "thuần chất" của thể loại nữa). Hình thức văn học này sau thời kỳ

đổi mới mới thật sự tìm lại vị trí của mình trong dòng diễn tiến của thể loại: Chuyện kể

năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), Cát bụi chân ai, Chiều chiều (Tô Hoài), Thượng đế thì cười

(Nguyễn Khải)...

139

Tất cả những hiện tượng trên là những gì được nhìn thấy bằng ống kính quay trực

diện, bên cạnh đó luôn có nhữhg hiện tượng cá biệt vẫn được ẩn giấu dưới những góc

quay nghiêng. Đó là không ít sáng tác của nhiều đại biểu thuộc trào lưu văn học hiện thực

XHCN đã đạt tới độ mẫu mực nghệ thuật của văn học thế giới. Chúng là sản phẩm của

các nghệ sĩ tài năng và nhạy cảm, biết kết hợp yêu cầu của chủ nghĩa hiện thực XHCN

với sở trường và cá tính sáng tạo. Một trong những điều làm Tvardovski trở thành nhà

thơ bất hủ của văn học XHCN chính là thơ ông thể hiện rõ ràng nhất cái «Tôi sử thi »,

nhưng không phải là cái «Tôi» chỉ tuyên truyền cổ động, mà là sự diễn giải thế giới tinh

thần, tình cảm, trí anh minh của nhân dân trong cách mạng. Solokhov như một đại diện

của chủ nghĩa hiện thực XHCN được tặng giải thưởng Nobel về văn học (1965) với tác

phẩm chính Sông Đông êm đềm mà về đặc điểm nghệ thuật được nhận xét là "thể hiện

nội dung của thế kỉ XX bằng những phương tiện mượn cửa thế kỉ XIX" (C. Prevost), "xây

dựng thế kỉ XXI trên phồng màn của của thế kì XIX" (P. Courtade). Cùng với Solokhov

còn có những gương mặt khác như Tvardovski, Brecht, Aitmatov... góp phần làm cho

chủ nghĩa hiện thực XHCN nỏ hoá rực rỡ. Lại Nguyên Ân viết: "Có thể ghi nhận những

phương tiện cách tân của thơ ca của Maiakovski, việc Brecht sáng tạo ra "sân khấu tự

sự" là những đóng góp đáng kể nhất của chủ nghĩa hiện thực XHCN vào nghệ thuật thế

kỉ XX" [7: 93]. Bên cạnh đó, với những cách tiếp cận hiện thực linh động, trong văn học

Xô viết còn những giá trị lớn lao khác. Đó là những tác phẩm bi kịch thực thụ đã soi

chiếu những mâu thuẫn sâu sắc, nội tại của hiện thực cách mạng và nội chiến, của hiện

thực xây dựng xã hội mới, lột tả chất bi kịch đích thực của những trăn trở vật vã, những

tìm tòi lầm lạc, những thất vọng và mất mát của con người trong bão táp của thời đại. Đó

là Những suy nghĩ chưa hợp thời (Gorki), Nghệ nhân và Margarira (Bulgakov), Bác sĩ

Mvago (Pasternak), Hố móng (Platonov), Một ngày của Ivan Denisovich

(Soljenyisyn)... nhưng chúng đều phải chịu nhữhg số phận trắc trồ, hoặc bị cất giấu trong

kho lưu trữ, hoặc biến thành bi kịch cuộc đời của chính những tác gia đã viết nên chúng.

Điều đáng ghi nhận là cách viết của nhiều tác giả thời Xô viết đã tràn ra khỏi khung cảnh

của chủ nghĩa hiện thực XHCN. Ví dụ như tác phẩm Sông Đông êm đềm chẳng hạn, cho

thấy sự không hoàn toàn ăn khớp giữa thực tiễn sáng tác và phương pháp sáng tác được

140

tuyên bố. Bao quát gần nửa đầu thế kỉ XX, Bác sĩ Jivago vẫn không phải là thiên ký sự

hay tiểu thuyết lịch sử, nó giống với "bản tự thuật tượng trưng" (M. Aucouturie), "tự

thuật tinh thần" (D. Likhachev) của Pasternak. Hình thức bóng gió, pha trộn giữa hư và

thực khiến cho tác phẩm được hiểu một cách tượng trưng, đa nghĩa là cách viết trong hầu

hết các sáng tác của Bulgakov... Nhiều tác phẩm như thế không đến được với chúng ta,

hoặc có đến lại không được nhìn nhận khách quan, bị kiến giải lệch lạc, méo mó (trường

hợp Sông Đông êm đềm, Bài ca người lính, Khi đàn sếu bay qua, Người thứ bốn

mốt..). Thực trạng này cho chúng ta những bài học quý giá trong việc chủ động và sáng

tạo trong tiếp nhận văn học.

Qua những khảo sát và ghi nhận trên, chúng ta thấy từ sau 1945 đến gần đây văn

học Việt Nam đã đi qua một giai đoạn đầy biến động, tạo nên những hoàn cảnh tác động

đến hình thức và tư duy nghệ thuật về hiện thực, về con người. Sự biến thái, mai một

hoặc biến mất của một số thể loại vốn có từ giai đoạn trước là một hiện trạng có thực, cần

được nhìn nhận như yêu cầu, như tất định của lịch sử, trong đó phương pháp sáng tác

hiện thực XHCN giữ một vai trò quan trọng. Với văn học Xô viết cũng như văn học Việt

Nam, phương pháp này từng ngự trị trong thời gian vài thập niên, đã để lại những thành

tựu không thể phủ nhận, nhiùig cũng trong qua trình phát triển, va chạm và được kiểm

nghiệm bằng thực tiễn, đã bộc lộ không ít những hạn chế lịch sử cả trên phương diện lý

luận lẫn sáng tác. Đánh giá lại nó hôm nay không phải là để phủ nhận, (chúng ta không

bao giờ phủ nhận cái được cái mất của quá khứ), mà để tiếp tục phát triển những gì tốt

đẹp, loại bỏ những yếu tố không còn hợp lý trong điều kiện lịch sử và thực tiễn nghệ

thuật mới.

Quá trình văn học Việt Nam tiếp nhận, ảnh hưởng văn học Xô viết không phải là

một qua trình tự phát, mà được lựa chọn, chuẩn bị trong một hoàn cảnh lịch sử phù hợp,

và đã đạt được kết quả trên nhiều bình diện rộng lớn. Đứng ở thời điểm hiện tại, chúng ta

nhìn nhận những kết qua này như là sự dung nạp có ý thức những yếu tố mới phù hợp với

yêu cầu khách quan của lịch sử. Những ảnh hưởng này góp phần không nhỏ cho sự phát

triển của một <

141

nghiệm bao nhiêu>> [134 :48]. Bên cạnh đó, với tinh thần thực sự cầu thị, nhìn nhận quá

khứ từ góc độ lợi ích lâu dài của văn hoá Việt Nam, chúng ta cũng ghi nhận rằng quá

trình giao lưu cũng cho ta những bài học trong việc cần thiết tiếp thu tinh hoá thế giới

theo tinh thần lựa chọn, thanh lọc, loại trừ tính chất khiên cưỡng, áp đặt - điều ấy hết sức

thiết thực đối với bước chuẩn bị hội nhập của văn học Việt Nam theo xu hướng hiện đại

hoá của văn học thế giới trong thời gian sắp tới.

142

KẾT LUẬN

Thế kỉ XX đã bước qua những cột cây số cuối cùng. 100 năm chứa tải biết bao biến

động, dẫn đến những "cuộc biến thiên lớn" trong văn học Việt Nam, làm diện mạo của nó

bao lần đổi thay. Ở mỗi chặng đường thay đổi ấy văn học có những đặc trưng riêng, giá

trị riêng, không lặp lại của mình. Trong tiến trình văn học thế kỉ XX, thời kỳ Việt Nam

tiếp nhận và ảnh hưởng văn học Xô viết là một chặng đường như thế. Hiện giờ đối với

chúng ta, sự định giá về giai đoạn này đã có thể không bị hạn chế bởi nhất thời nhất sự,

và với độ lùi đủ cần thiết của thời gian đã có thể tìm hiểu nó trong cái nhìn chỉnh thể,

trong mối liên hệ của lịch sử. Công trình nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trong

khung cảnh như vậy, đã ghi nhận được một số nhận định có tính chất tổng kết sau đây:

1. Văn học Việt Nam thời kỳ tiếp nhận văn học Xô viết là văn học có nhiều nét

chung với văn học Xô viết về hoàn cảnh ra đời và phát triển, về quan niệm nghệ thuật, về

phương thức sáng tác..., mang một diện mạo đặc biệt: đó là nền văn học mang tính đại

chúng, rực rỡ màu sắc sử thi và vang vọng âm hưởng lãng mạn cách mạng. Trong một

hoàn cảnh lịch sử cụ thể, với một diện mạo như vậy, văn học thực sự làm trọn chức

năng xã hội - lịch sư của mình, góp phần to lớn cho chiến thắng của dân tộc trong hai

cuộc kháng chiến và dựng xây đất nước theo định hướng XHCN.

Những đặc trưng cơ bản trên đã dẫn đến sự thay đổi chiều hướng phát triển các đề

tài, thi pháp, làm quá tải một số thể loại và mai một một số thể loại khác, văn học cho ta

một cảm tưởng có một nền rộng lớn nhưng thiếu những đỉnh cao đột xuất. Khi đặt giai

đoạn văn học này vào tiến trình văn học Việt Nam thế kỉ XX, ta cần ghi nhận những bước

đi khả quan của nó. Có thể, do nhiều nguyên nhân khách quan, có những phương diện nó

chưa đạt được kết qua như phải có, có những bước đi phải rẽ ngang hoặc chựng lại,

nhưng âu đó cũng là số phận lịch sử, khó có thể khác. Vả lại, không phải bất cứ giai đoạn

nào trong tiến trình lịch sử văn học cũng có những đỉnh cao, là sự phát triển toàn diện.

(Trong văn học thế giới, những đỉnh cao, nhữỉig giai đoạn "hoàng kim" không phải là

143

nhiều.) Khi so sánh các giai đoạn văn học với nhau, thái độ đúng mực và khoa học là

không trách cứ, so bì mà là ghi nhận những gì văn học giai đoạn đang xét đã đóng góp,

tạo ra cái riêng trong tiến trình chung. Văn học Việt Nam thời kỳ ảnh hưởng văn học Xô

viết, đứng ở góc độ đó mà xét, là một nền văn học sống hết mình với thời đại, với cộng

đồng, có những xác tín của mình, điều đó rất đáng trân trọng.

2. Trong thời kỳ tiếp nhận văn học Xô viết, ở Việt Nam có sự biến đổi sâu sắc về

phạm trù độc gùi, từ cấu trúc đến tính chất của nó. Quan điểm tư tưởng, nghệ thuật

của văn học Xô viết hết sức phù hợp với loại độc giả mới này.

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy phạm trù độc giả là một phạm trù biến động.

Tính chất biến động đó phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh lịch sử - xã hội, cái hoàn cảnh

đòi hỏi những thông điệp mới của nghệ thuật phù hợp với nó. Từ độc giả của giai đoạn

1932 - 1945 với những tiêu chí của mình về chuẩn mực nghệ thuật đến độc giả thời kỳ

1945 - 1975 với những tiêu chí khác, đến độc giả ngày hôm nay, có sự biến động rất căn

bản. Cũng như thế, độc giả miền Bắc XHCN và độc giả thành thị miền Nam trong một

giai đoạn 1954 - 1975 có những tiếp cận căn bản khác nhau về cùng một hiện tượng văn

học, phụ thuộc vào thiên kiến chính trị -xã hội và tiêu chí nghệ thuật của mỗi bên. Chính

cách tiếp nhận khác nhau giữa hai miền đất nước cũng dẫn đến tính chất biến động của

độc giả: độc giả văn học Nga Xô viết ở miền Bắc, về đại thể, là độc giả mang tính đại

chúng, và họ là độc giả lý tưởng một thời của văn học này. Tính đại chúng đó không

quan sát thấy trong giới độc giả văn học Nga Xô viết ở các thành thị miền Nam, mặc dù ở

đây có thể có những độc giả lý tưởng, nhưng theo tiêu chí nghệ thuật và tư tưởng khác.

3. Đến với đề tài này, chúng tôi không có tham vọng tổng kết toàn diện một nền văn

học, đưa ra những kết luận cuối cùng, khép lại vấn đề. Điều muốn hướng đến của luận án

là khảo sát quá trình của một cuộc giao lưu đã được bắt đầu và tiến triển khá lâu đài trong

quá khứ, tiếp tục để lại dấu ấn lâu bền trong hiện tại và tương lai, nhằm ghi nhận những

thành công và thất bại của nó, rút ra những kinh nghiệm thiết thực cho những cuộc giao

lưu trong nhu cầu và xu thế hội nhập với thế giới của chúng ta.

144

Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng, sự tiếp nhận văn học Nga Xô viết của Việt Nam

là một sự lựa chọn có chủ đích, tự nguyện, khởi nguyên không mang tính cưỡng bức,

trong quá trình dài đã có những thành quả tối đẹp, nhưng vì sức mạnh sáng tạo nội

tại bị trói buộc, tinh thần độc lập tự chủ thiếu vắng, sự hiểu biết về đối tượng tiếp nhận

chưa thấu đáo đã dẫn đến nhữhg hậu quả đáng tiếc đối với một cuộc bang giao mà chúng

ta hết sức trí ân. Đây là cuộc giao lưu được tiến hành thuận lợi nhưng chưa đem lại ảnh

hưởng tích cực trong sáng tác văn học như ta mong đợi. Bài học trên cho ta thấy mọi sự

giao lưu muốn đạt được thành tựu đích thực và lâu bền thì ngoài tinh thần cầu thị còn đòi

hỏi ở chủ thể bản lĩnh và tính chủ động lựa chọn và điều chỉnh những yếu tố thích hợp,

cởi mở tham khảo những hướng tiếp cận có hiệu qua khác. Kinh nghiệm tiếp nhận văn

hoá Xô viết của một số nước trong cộng đồng XHCN cho ta thấy điều đó. Văn hoá Nga,

tâm hồn Nga đối với người Việt Nam rất gần gũi, nhưng tiếp nhận nó không phải là đơn

giản, tùy tiện được. Chính một người bạn Nga hiểu chúng ta đã nhắc nhở chúng ta điều

đó: "Tôi tin rằng sự tiếp nhận văn học Xô viết ở Việt Nam đã và vẫn còn là một quá trình

biện chứng phức tạp, mâu thuẫn, một quá trình mà trước đây trong nghiên cứu văn học

người ta tưởng là bằng phang một cách lý tưởng" [152: 191].

Đứng trước thực trạng trên, vì một nền văn hoá, văn học theo định hướng XHCN

đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần tiếp tục phát triển quan hệ với nền văn hoá, văn học

Nga trên tinh thần đổi mới, khám phá lại những giá trị chân chính của nó, biết khai thác

những bài học, những kinh nghiệm tiếp nhận trước đây. Để không chậm trễ bắt đầu làm

điều đó, theo chúng tôi, một trong những công việc thiết thực nhất là chúng ta phải có

những bộ sách mới về lịch sử - văn hoá - xã hội Nga. Trong bối cảnh có những biến động

sâu sắc động chạm đến nhiều lĩnh vực khoa học xã hội như hiện nay, việc đổi mới giáo

trình Lịch sử Văn học Nga - Xô viết trong chương trình đại học là nhu cầu bức thiết. Nền

văn học Nga đích thực đang đòi hỏi những sự lựa chọn mới, những cách đánh giá mới để

trả lại cho nó sự phong phú, sinh động và chiều sâu triết học. Đó là điều thiết tha mong

đợi không chỉ của người thực hiện công trình này mà còn của tất cả những nhà Nga học,

của những bạn đọc Việt Nam yêu quý văn học và con người Nga.

145

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN

ÁN

1.Vũ Hồng Loan (2001) Nhận chân giá trị văn học Xô viết với những cách tiếp cận

mới. Kỉ yếu khoa học Khoa Ngữ Văn một phần tư thế kỉ. Đại học sư phạm TP. Hồ Chí

Minh, 2001.

2.Vũ Hồng Loan (2004) Việt Nam trong mối giao lưu văn hóa với Liên Xô, Kỷ yếu

Hội thảo khoa học các nhà ngữ văn trẻ lần thứ II. Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư

phạm TP. Hồ Chí Minh, tháng 12/2004.

146

THƯ MỤC THAM KHẢO

1.Anđrêmôp (1964) Điển hình hóa trong nghệ thuật, Ngọc Kỳ dịch, Nxb Văn hoá

Nghệ thuật, Hà Nội.

2.Vũ Tuấn Anh (1999) Sự hoàn chỉnh và tính năng động thể loại trong đời sống văn

học 1930 - 1945. Tạp chí Vấn học số 2, Hà Nội.

3.Đào Tuấn Ảnh (1995) Các cuộc tranh luận trong văn học Xô viết những năm 20

và 30. Tạp chí Vấn học số 3, Hà Nội.

4.Đào Tuấn Ảnh (2002) Lịch sử văn học Nga - từ một số vấn đề phương pháp luận

và lý luận thực tiễn. TC Văn học số 4, Hà Nội.

5.Lại Nguyên Ân (1981) Nhìn chủ nghĩa hiện thực trong sự vận động lịch sử. Tạp

chí Văn học số 4.

6.Lại Nguyên Ân (1997) sống với văn học cùng thời, VH, Hà Nội.

7.Lại Nguyên Ân (2004) 150 thuật ngữ văn học, ĐHQG Hà Nội.

8.M. Bakhtin (1975) Những vấn đề của văn học và mỹ học, Nauka, Moskva (tiếng

Nga)

9.M. Bakhtin (1979) Mỹ học nghệ thuật ngôn từ, Nauka, Moskva (tiếng Nga)

10.M. Bakhtin (1992) Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, VHTT & thể thao - Trường

viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

11.M. Bakhtin (1993) Những vấn đề thi pháp Dostoievski, GD, HàNội.

12.Nguyễn Thị Bình (2001) Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975. Tạp chí

Văn học số 3. Hà Nội.

13.Đồng Khánh Bính (1995) Lý luận văn nghệ Liên Xô và việc xây dựng lý luận

văn nghệ đương đại Trung Quốc, TC Văn học số 3, Hà Nội.

14.Anatôlia Botsarốp (1988) Cuộc tìm tòi vô tận (Những tìm tòi nghệ thuật cửa văn

xuôi Xô viết đương đại), Nxb TPM, Hà Nội.

147

15.Hélène Carrere D’ncausse (1987), Đế chế tan vỡ, Viện TTKHXH, Hà Nội.

16.Nguyễn Minh Châu (1987) Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh

hoá, Báo Văn nghệ ngày 05/12/1987.

17.Nguyễn Nam Châu (1959) Pasternac và Solokhov - hai chứng nhân, một thể

giới. Tạp chí Văn hoá Á Châu số 19, 20, Sài Gòn.

18.Jean Chevalier - Alain Gheerbant (1987) Từ điền biểu tượng văn hoá thế giới.

Nxb Đà Nang.

19.E. Chelyshev (1991) Vai trò cửa văn học Xô viết trong việc đổi mới xã hội XÔ

viết, Cái mới trong KHXH số 17, Viện TTKHXH, Hà Nội.

20.Trường Chinh (1948) Bài phát biểu, Báo Văn nghệ số 6. Hà Nội.

21.Trường Chinh (1974) Đề cương về văn hoá Việt Nam, nxb Sự Thật, Hà Nội.

22.Nguyễn Đình Chiến (1997) Sergei Esenin. Những kỉ niệm không dễ gì phai lạt

Văn học, Hà Nội.

23.Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính và những người khác (1997) Lịch sử văn

học Nga, GD, Hà Nội.

24.Hồng Chương (1978) M Gorki ở Việt Nam, Tạp chí Văn học số 3, Hà Nội.

25.Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895) Đại Nam Quắc âm tự vị. Sài Gòn.

26.Phạm Vĩnh Cư (1996) Đôi nét cơ bản về giao lưu văn hoá Việt Nam - Thế giới

từ sau Cách mạng tháng Tám. 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

ĐHQG Hà Nội.

27.Phạm Vĩnh Cư (1997), Hồi ức về Bakhtin, Những kỉ niệm không dễ gì phai lạt,

Văn học, Hà Nội.

28.Phạm Vĩnh Cư (2004) Sáng tạo và giao lưu, Hội Nhà văn, Hà Nội.

29.Trần Cương (1986) Một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh, Tạp chí Văn

học số 3, Hà Nội.

148

30.Nguyễn Văn Dân (1997) Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại,

Tạp chí Văn học số 2, Hà Nội.

31.Nguyễn Văn Dân (2001) Văn học so sánh - lý luận và ứng dụng, KHXH, Hà

Nội.

32.Phạm Tiến Duật (2001) Bài hát Nga trong tâm hồn Việt. Báo Vấn nghệ Trẻ số 9,

ngày 4.3/2001.

33.Đỗ Đức Dục (1961) Vài nét về điện ảnh Xô viết những năm gần đây. Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 11, Hà Nội.

34.Đỗ Đức Dục (1971) Suy nghĩ về sự xuất hiện của CNHT trong văn học Việt

Nam. Tạp chí Văn học số 4.

35.Trương Đăng Dung (1986) Trên đường tiếp cận tiến trình văn học thế giới. Tạp

chí Văn học số 6, Hà Nội.

36.Trương Đăng Dung (1996) Tác phẩm văn học như một qua trình, Tạp chí Vấn

học số 12, Hà Nội.

37.Đinh Xuân Dũng (1966) Tìm hiểu luận điểm của Gorki "Thời đại anh hùng đòi

hỏi nghệ thuật anh hùng". Tạp chí Văn học số 11.

38.Đinh Xuân Dũng (2004) Văn học văn hoá - tiếp nhận và suy nghĩ. Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

39.Thành Duy (2004) Động lực dân tộc và thực Hên sáng tạo văn hoáy nghệ thuật

KHXH, Hà Nội.

40.Trần Trọng Đăng Đàn (1990) Văn học thực dân môi Mỹ ở Miền Nam những

năm 1954 - 1975. Long An.

41.Đặng Anh Đào (1990) về thái độ chấp nhận (hoặc phả nhận) chủ nghĩa hiện thực

xã hội chủ nghĩa ở phương Tây, TC Văn học số 2.

42.Trần Thiện Đạo (1967) M. Solokhov, Tập san Vấn số 5, Sài Gòn.

149

43.Trần Độ (1980) Nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ của văn học. Tạp chí Văn

học số 5, Hà Nội.

44.Trần Độ (1983), Những kỉ niệm, Tạp chí Văn học số 2, Hà Nội

45.Trịnh Bá Đĩnh (2005) Nửa thế kĩ phát triển lý luận văn học ở Việt Nam, Việt

Nam những chặng đường lịch sử 1954 - 1975, 1975-2005, Giáo dục, TP. HCM.

46.Hà Minh Đức (1982, 1995, 2001) C.Mac - PhAngghen, V.LLênin và một số vấn

đề lí luận văn nghệ. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47.M. Epstein (2000) Hậu hiện đại ở Nga, Vấn học và lý luận hậu hiện đại, TT Văn

hoá Đông - Tây, Hà Nội.

48.Phan Hồng Giang (1997) Paustovski với tập tày bút "Một mình với mùa thu

Những kỉ niệm không dễ gì phai lạt, Văn học, Hà Nội.

49.Côliô Ghec-ghin-xki (1982) Mạch nguồn vĩnh cửu - ghi chép về tính hữu nghị

Việt - Xô. Thông tấn xã Nôvôxtia, M.

50.NA. Gulaev (1982) Lý luận văn học, ĐH&THCN, Hà Nội

51.Đỗ Xuân Hà (1986) Tìm hiểu quan điểm cửa M. Gorki về phát triền văn học

XHCN. Tạp chí Vấn học số 6, Hà Nội.

52.Đỗ Xuân Hà (1987) Những đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật của văn học Xô

viết trong 30 năm gần đây. TC Văn học số 5, Hà Nội.

53.Đỗ Xuân Hà - Nguyễn Hải Hà (1987) Văn học Xô viết (giáo trình Đại học Sư

phạm). GD, Hà Nội.

54.Nguyễn Hải Hà (1961) Phađeep. Tạp chí Nghiên cứu văn học số 11, Hà Nội

55.Nguyễn Hải Hà (1978) M. Gorki mãi mãi ở bên ta. Tạp chí Văn học số 3, Hà

Nội.

56.Nguyễn Hải Hà (1983) Những chân trời của văn xuôi Xô viết hiện đại. Tạp chí

Văn học số 2, Hà Nội.

150

57.Nguyễn Hải Hà (1987) Ảnh hưởng to lớn của văn học Xô viết ở Việt Nam. Tạp

chí Văn học số 5. Hà Nội.

58.Nguyễn Hải Hà (1995) Nhìn lại văn học Nga thế kỉ XX. Tạp chí Văn học số 3,

Hà Nội.

59.Nguyễn Hải Hà (1997) Văn học Xổ viết trong trường PTTH. Kỉ yếu Hội thảo

khoa học kỉ niệm 80 nấm cách mạng tháng Mười Nga. ĐHQG Hà Nội.

60.Nguyễn Hải Hà (2002) Vh Nga sự thật và cái đẹp. GD, Hà Nội.

61.Nguyễn Hào Hải 2001. Một số học thuyết phương Tây hiện đại. Văn hoá thông

tin, Hà Nội.

62.Tế Hanh (1983) Một bài học của thi ca Xô viết: chủ đề yêu nước. Tạp chí Văn

học số 2, Hà Nội.

63.Nguyễn Văn Hạnh (1968) về nội dung khái niệm CNHT trong văn học, Tạp chí

Vấn học số 1.

64.Nguyễn Văn Hạnh (1971) Ý kiến của Lênin về mối quan hệ giữa văn học và đời

sống, Tạp chí Văn học số 4.

65.Nguyễn Văn Hạnh (1979) Suy nghĩ về văn học. Văn học, Hà Nội.

66.Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương (1998) Lý luận văn học -vấn đề và suy

nghĩ. GD, Hà Nội.

67.Vũ Hạnh (1970) Tìm hiểu vấn nghệ, Trí Đăng, Sài Gòn.

68.Lê Văn Hảo (1969) Thực trạng KHXH vùng đô thị Miền Nam. Tạp chí Nghiên

cứu lịch sử số 6, Hà Nội.

69.Hoàng Ngọc Hiến (1974) Maỉakovskỉ ở VN, TC Văn học số 3.

70.Hoàng Ngọc Hiến (1985) Vấn học Xô viết những năm gần đây, Đà Nấng.

71.Hoàng Ngọc Hiến (1986) Văn học Xô viết bước vào thời kỳ XHCN phát triển.

Tạp chí Vấn học số 2, Hà Nội.

151

72.Hoàng Ngọc Hiến (1987) Văn học Xô viết đương đại, ĐH & THCN, Hà Nội.

73.Hoàng Ngọc Hiến (1996) về vấn đề nghiên cứu ảnh hưởng của văn học nghệ

thuật Xô viết tới văn học nghệ thuật của chúng ta, 50 năm văn học Việt Nam sau Cách

mạng tháng Tám, ĐHQG Hà Nội.

74.Hoàng Ngọc Hiến (1997) Văn học và học văn, Văn học, Hà Nội.

75.Hoàng Ngọc Hiến (1998) Minh triết phương Đông và triết học phương Tây, Tạp

chí Văn học số 11, Hà Nội.

76.Bùi Hiển (1992) Những niềm tin bền vững, những chân lý chổng chênh, Tạp chí

Văn học số 2, Hà Nội.

77.Bùi Hiển (1992) Cái thuở ban đầu. Báo Văn Nghệ số 8, Hà Nội.

78.Đỗ Đức Hiểu (1998) Đổi mới đọc và phê bình văn. Hội Nhà văn, Hà Nội.

79.Đỗ Đức Hiểu (2000) Thi pháp hiện đại. Hội Nhà văn, Hà Nội.

80.Tô Hoài (1999) Chiều chiều. Hội Nhà văn, Hà Nội.

81.Nguyễn Quốc Hùng - Nguyễn Thị Thư (2002) Lược sử Liên bang Nga 1917 -

1991. GD, Hà Nội.

82.Việt Hùng (1963) AN.Tônxtôi với bộ ba tiểu thuyết Con đường đau khổ. Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 3, Hà Nội.

83.Tố Hữu (1999) Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường. Giáo dục, Hà Nội.

84.Đoàn Tử Huyên (1996) Một số vấn đề của việc dịch và xuất bản văn học Nga -

Xô viết, Dịch văn học và văn học dịch. Văn học, Hà Nội.

85.Nguyễn Ngu Í (1960) Tổng kết cuộc phỏng vấn văn nghệ về truyện ngắn Việt và

ngoại quốc. Tập san Bách khoa số 73, Sài Gòn.

86.Nguyễn Văn Kha (2002) Suy nghĩ từ việc tiếp nhận văn học Nga thời kỳ Xô viết

ở Việt Nam. Văn học - cảm nhận và suy nghĩ. KHXH, Tp. HCM.

87.Nguyễn Hữu Khải (1961) Kịch nghệ Nga Số, Tập san Đại học số 4, Sài Gòn.

152

88. Nguyễn Khải (1988) Nghề văn, nhà văn và Hội Nhà văn. Báo Văn nghệ số

18, ngày 30/4/1988, Hà Nội.

89.Nguyễn Khải (2000) Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học. KHXH, Hà

Nội.

90.Nguyễn Khải (2003) Nghề vấn cũng lắm công phu, NXB Trẻ, Tp.HCM.

91.Trịnh Đình Khôi (2001) Nghĩ về văn học Việt Nam thế kỉ XX. Tạp chí Văn học

số 10, Hà Nội.

92.I. Kốtsenko (1967) Bút kí trong văn học Xô viết hiện nay. Tạp chí 195, Văn học

số 3, Hà Nội.

93.M. Khravchenko (1978) Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triền của văn

học. Tác Phẩm Mới, Hà Nội.

94.M. Khravchenko (1984) Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực và con người (2 tập)

KHXH, Hà Nội.

95.N. Konrat (1978) Cách mạng tháng Mười và khoa nghiên cứu văn học. Nã.

Konrat. hbrannye stady, M., Nauka (tiếng Nga)

96.N. Konrat (199Ố) Phương Đông và phương Tây, GD, Hà Nội.

97.Milan Kundera (1998) Nghệ thuật tiểu thuyết, NXB Đà Nấng.

98.Lê Đình Kỵ (1989) Nhìn lại tư tường văn nghệ thời Mỹ ngụy. Nxb Tp. HCM.

99.Tam Lang, Trọng Lang, Hoàng Đạo (1995) Phóng sự chọn lọc. Hội nhà văn. Hà

Nội

100.Đặng Thanh Lê (1999) Việt Nam trên qua trình hội nhập toàn cầu. Vị thể nền

văn hoá dân tộc trong lịch sử quan hệ với các nền văn hoá cường quốc. Tạp chí Văn học

số 3, Hà Nội.

101.Phong Lê chủ biên (1990) Văn học và hiện thực. KHXH, Hà Nội.

153

102.Phong Lê (2001) Trên hành trình văn học chống Pháp (1946 -1954). Tạp chí

Vấn học số 12.

103.Phong Lê (2003) Phương pháp luận rức và phê bình văn học trước yêu cầu và

quy định của lịch sử sau 1945, TC Văn học số 5, Hà Nội.

104.Phong Lê (2003) Văn học Việt Nam hiện đại. KHXH, Hà Nội.

105.D.Likhachev (1987)Nói lên sự thực, Báo Văn học Liên Xô, tháng 1.

106.D. Likhachev (2001) Nghệ thuật và khoa học. Văn học sử- những quan niệm

mới, những tiếp cận mới. TTKHXH, Hà Nội.

107.Nguyễn Trường Lịch (1968) vấn đề thể hiện người anh hùng trong một số tiểu

thuyết Xô viết. Tạp chí Văn học số 11, Hà Nội.

108.Nguyễn Văn Linh (1987) Bài phát biểu. Báo Văn nghệ số 42, ngày 17/10/1987.

109.Nhất Linh (1960) Viết và đọc tiểu thuyết. Tập san Văn hoá ngày này số 3, Sài

Gòn.

110.Huy Liên (1984) Tim hiểu một vài đặc điểm thỉ pháp Sôỉôkhôp trong bộ tiểu

thuyết sử thi Sông Đông êm đềm. Tạp chí Vấn học số 5, HN.

111. Lưu Liên (1966) Một vài nét về sự phát triển của bút kí Xô viết. Tạp chí Văn

học số 12, Hà Nội.

112.Lưu Liên (1987) Đạo đức nhân vật trong văn học Xô viết và Việt Nam hiện đại

KHXH, Hà Nội.

113.Lưu Liên (1988) Cảm hứng nói thật trong văn học Xô viết vào những ngày dân

tộc khám phá lại văn học lịch sử của mình. Tạp chí Văn học số 1, Hà Nội.

114.Lưu Liên (1995) Gorki qua những trang viết của Hải Triều, Tạp chí Văn học số

11, HàNội.

154

115.Huy Liên (1997) Cách mạng tháng Mười và những khám phá về hình thức tổng

hợp - hoành tráng trong kịch Xô viết . Kỉ yếu Ngữ văn Kỉ niệm 80 năm Cách mạng

XHCN tháng Mười Nga. ĐHQG Hà Nội.

116.Philippe Lejeune (1989) The Autobiographical Pact, Minneapolis, The

University of Minnesota Press.

117.V.L Lênin toàn tập (1974) Nxb Tiến Bộ, Moskva. (tiếng Nga)

118.V. Litvinov (1995) Sự thật về Solokhov. Văn hoá Nga - hiện tại và triển vọng.

Viện TTKHXH, Hà Nội.

119.Nguyễn Thành Long (1978) Nói về Người mẹ của M. GorkL Tạp chí Vấn học

số 3, Hà Nội.

120.Nguyễn Văn Long (2003) Văn học Việt Nam trong thời đại mới. GD, Hà Nội.

121.Mai Quốc Liên (1992) Trước đèn, tiểu luận văn học, Văn Nghệ Tp. Hồ Chí

Minh.

122.Mai Thúc Luân (1961) Một vài đặc điểm của văn học Xô viết, Tạp chí Nghiên

cứu văn học số 11, Hà Nội.

123.Mai Thúc Luân (1996) vế việc dịch tác phẩm văn học. Dịch vấn học và vấn học

dịch. Văn học, HN.

124.Trường Lưu (2000) Văn học trong hành trình văn hoáy Văn hoá -thông tin, Hà

Nội.

125.Trường Lưu (2001) Văn hoá văn nghệ một thời hai trận tuyến. Văn hoá - thông

tin, Hà Nội.

126.Vũ Đình Lưu (1967) Thân thế và sự nghiệp của Pasternac. Tập san Văn số 83,

Sài Gòn.

127.Phương Lựu chủ biên (1986 - 1988) Lí luận vấn học. GD, Hà Nội.

128.Phương Lựu (1997) Khơi dồng lý thuyết. Hội Nhà văn, Hà Nội.

155

129.Phương Lựu (1997) Vài nét tâm lý học Xô viết với văn học. Tạp chí Văn học số

II, Hà Nội.

130.Phương Lựu (2001) Thử tự giải đáp đôi điều về đường lối văn nghệ của Đảng.

Tạp chí Văn học số 10, Hà Nội.

131.Đặng Thai Mai (1967) Ánh sáng từ phương Bắc tới, Tạp chí Văn học số li, Hà

Nội.

132.K. Marx, REngels, Lenin (1977) về vấn học và nghệ thuật, Nxb Sự Thật, Hà

Nội.

133.K. Marx, REngels (1972) Tuyển tập, tập 12. Sự thật, Hà Nội.

134.Nguyễn Đăng Mạnh (1996) Đặc điểm cơ bản của nền văn học mới Việt Nam

giai đoạn 1945 - ỉ975. 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, ĐHQG Hà

Nội.

135.Nguyễn Đăng Mạnh (1997) Qua trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam nửa

đầu thế kỉ XX. Tạp chí Vấn học số 5 , Hà Nội.

136.David G. Marr (1981) Vietnamese Tradition on Trial 1920 - 45. University of

Canifornia, Berkeley.

137.Betsy McKay (1993) Nước Nga cổ mất Puskin của tương lai! Báo Văn nghệ số

5 bộ mới tháng 11/1999. Hội nhà văn, Hà Nội.

138.Muromski (1992) về những cách tiếp cận mới đối với việc nghiên cứu lịch sử

văn học Xô viết . Cái mới trong KHXH số 26, Viện TTKHXH, Hà Nội.

139.Maufret Nauman (1987) Song đề của lý luận tiếp nhận. Tạp chí Văn học số 4,

Hà Nội.

140.Phan Ngọc (2001) Một cách tiếp cận văn hoá, Thanh Niên, Hà Nội.

141.Ngọn cờ Tháng Mười (1987) - Vụ Tuyên truyền quốc tế và tạp chí Tuyên

truyền Ban Tuyên Huấn TW, Hà Nội.

156

142.Trung Ngôn (1966) Sai lầm cửa Hà Minh Tuân trong quyển "Vào đời" là sai

lầm về lập trường tư tưởng, Tạp chí Vấn học số 6, Hà Nội.

143.Lã Nguyên (1988) Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình. Báo Văn

Nghệ số ra ngày 5/11/1988, Hà Nội.

144.Lê Tôn Nghiêm (1972) Cộng sản Nga dưới mắt một người Nga, Tạp chí Tư

tưởng số 5, Sài Gòn.

145.Vương Trí Nhàn (1993) Những kiếp hoá dại, Hội Nhà văn. Hà Nội.

146.Vương Trí Nhàn (1996) Văn học dịch trong sự tiếp nhận củađời sống hôm nay.

Dịch văn học và văn học dịch. Văn học, Hà Nội

147.Vương Trí Nhàn (1999) Bao giờ mới có một đội ngũ dịch chuyên nghiệp hoá

đạt tiêu chuẩn quốc tể, Không của riêng ai, VH, Hà Nội

148.Vương Trí Nhàn (1998) Khung cửa nhìn ra thể giới, Tạp chí Văn học Nước

ngoài số 1, Hội nhà văn, Hà Nội.

149.Vương Trí Nhàn (2003) Thư Moskva. Ngoài trời lại có trời, Hội Nhà văn, Hà

Nội.

150.Hoàng Xuân Nhị (1964) Lịch sử văn học Nga, ĐH&THCN, HN.

151.Hoàng Xuân Nhị (1997) Tôi đến với văn học Xổ viết . Những kỉ niệm không dễ

gì phai lạt, Văn học, Hà Nội.

152.N.I. Niculin (1996) Mấy vấn đề văn học những năm chiến tranh. 50 năm văn

học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, ĐHQG Hà Nội.

153.Melich Nubarov (1967) Lịch sử văn học Xô viết, ĐH &THCH, Hà Nội. (tái

bản)

154.M. Parkhomenko (1978) Sử thỉ của sự đổi mới, cách mạng đối với thế giới,

Vobrosy literatury N.1” M. (tiếng Nga)

155.Jean Perus (1957) Giới thiệu văn học Xô viết, Văn hoá, Hà Nội.

157

156.Vũ Ngọc Phan (1989) Nhà văn hiện đại, Nxb KHXH, TP. HCM

157.Võ Phiến (1972) Chúng ta qua cách viết. Giao điểm, Sài Gòn.

158.Như Phong (1997) Nhớ lại buổi đầu gặp gỡ. Những kỷ niệm không dễ gì phai

lạt. Văn học, Hà Nội.

159.Nguyễn Phúc (1995) Khảo sát sự du nhập của phân tâm học và chủ nghĩa hiện

sinh vào văn học đô thị miền Nam trước 1975 - Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, ĐH Tổng hợp

TP.HCM

160.Vũ Đức Phúc (1974) Thực hiện nghiêm chỉnh và triệt để đường lối văn nghệ

của Đảng. Tạp chí Văn học số 6, Hà Nội.

161.Vũ Đức Phúc (1983) Nền văn học vĩ đại nhất, Tạp chí Văn học số 2, sau ỉn

trong Những lả niệm không dễ gì phai lạt, Hà Nội.

162.Hồ Phương (1994) Những nhà văn mặc áo lính. Tạp chí Văn học số 12, Hà Nội.

163.Phạm Thị Phương (1995) Văn học Nga tại thành thị miền Nam giai đoạn 1954 -

1975 - Luận văn Thạc sỹ, ĐHSP TP. HCM.

164.Thạch Phương - Trần Hữu Tá chả biên (1977) Văn hoá, văn nghệ miền Nam

dưới chế độ Mỹ - ngụy. Văn hoá, Hà Nội.

165.G. Pospelov chủ biên (1985) Dẫn luận nghiên cứu văn học (2 tập). GD, Hà Nội.

166.L. Fedoseeva (1991) Văn học Xô viết trong thế giới hiện đại: những vấn đề về

sự tiếp thụ của bạn đọc nước ngoài, Cái mới trong KHXH -chuyên đề "Văn học nghệ

thuật và sự tiếp nhận TTKHXH, Hà Nội.

167.Alexandre de Rhodes (1951) Từ điền An Nam - Lusitan - Latin. Rome.

168.Nguyễn Xuân Sanh (1978) Ai. Gorki yêu sâu sắc con người mới, cuộc sống

mới, Tạp chí Văn học số 3, Hà Nội.

169.Nguyễn Xuân Sanh (1997) Tinh bạn văn học - nửa thế kỉ và dài hơn. Tạp chí

Văn học nước ngoài số 2, Hội Nhà văn, Hà Nội.

158

170.Lê Sơn (2001) Còn lại với thời gian. KHXH, Hà Nội.

171.Từ Sơn (1990) Nghĩ về công chúng văn học của chúng ta hiện nay. Tạp chí Văn

học số 4, Hà Nội.

172.Trần Đình Sử (1986) Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy nghệ thuật và hình

tượng con người trong văn học ta thập kỉ qua. Tạp chí Văn học số 6, Hà Nội.

173.Trần Đình Sử (1987)Lý luận và phê bình văn học, Hội Nhà văn, Hà Nội.

174.Trần Đình Sử (2001) Văn học và thời gian, Văn học, Hà Nội

175.A. Spiridonova (1995) Sự đánh giá Gorki hiện nay, Văn hoá Nga -hiện tại và

triển vọng, Viện TTKHXH, Hà Nội.

176.Phạm Văn Sỹ (1975) Văn học giải phóng miền Nam 1954 - 1975. Hà Nội.

177.Vũ Văn Sỹ (2001) Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại.

Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học. KHXH, Hà Nội.

178.Bùi Ngọc Tín (2001) Một thời đề mất. Nxb Hải Phòng.

179.Hoài Thanh (1953) Báo cáo tổng kết 8 năm văn nghệ kháng chiến. Báo Vấn

nghệ số 46, tháng 12/1953.

180.Tất Thắng (2001) Sự tiếp nhận kịch Xô viết ở Việt Nam, Vấn học so sánh.

KHXH, Hà Nội.

181.Ngô Thảo (2003) Văn học về người tính, QĐND, Hà Nội.

182.Nguyễn Đình Thi (1946) Đọc vở Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng, Tạp chí

Tiên phong số 6, Hà Nội.

183.Nguyễn Đình Thi (1967) Văn học Xô viết và Việt Nam chống Mỹ. Tạp chí Văn

học số 11, Hà Nội.

184.Nguyễn Đình Thi (1970) Trần Đăng, Truyện và kí sự. VH, Hà Nội.

185.Nguyễn Đình Thi (1987) Bài phát biểu, Tác phẩm văn học số 3, tháng 11/1987,

Hà Nội.

159

186.Vũ Minh Thiều (1973) Lời giới thiệu Thời thơ ấu (M Gorki), Trí Đăng, Sài

Gòn.

187.Tràng Thiên (1963) Tiều thuyết hiện đại. Thời Mới, Sài Gòn.

188.Tràng Thiên (1965) Văn học Nga Sô hiện đại. Thời Mới, Sài Gòn.

189.Phạm Công Thiện (1970) Hố thẳm của tư tưởng, Phạm Hoàng, Sài Gòn.

190.Phạm Công Thiện (1970) Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Lá Bối, Sài

Gòn.

191.Hoàng Trung Thông (1967) Văn học Xô viết với chúng ta. Tạp chí Văn học số

II, Hà Nội.

192.Phan Ngọc Thu (2001) Để tìm hiểu thêm một số tác giả và tác phẩm văn học

Việt Nam hiện đại, Giáo dục, Hà Nội.

193.Đỗ Lai Thúy (2003), Một cánh én bay qua mùa xuân, Tạp chí Ngôn ngữ và đời

sống, số 3, Hà Nội.

194.Hoả Diệu Thúy (2004) Tính "già ký non truyện" của truyện ngắn ỉ945 - ỉ954.

Kỷ yếu Hội thảo khoa học các nhà ngữ văn trẻ lần 2, Khoa Ngữ Văn ĐHSP TP. HCM.

195.Phan Trọng Thưởng (2000) Phóng sự (1930 - 1945) - một thành tựu đặc biệt

của tiến trình văn học Việt Nam, TC Văn học số 5, Hà Nội.

196.Phan Trọng Thưởng (2000) Tinh thần nhận chân các giá trị của thế kỉ XX. Tạp

chí Văn học số 12, Hà Nội.

197.Phan Trọng Thưởng (2001) Tổng quan tiến trình văn học kịch Việt Nam nửa

sau thế kỉ XX. Tạp chí Văn học số 8, Hà Nội.

198.Phan Trọng Thưởng (2004) Lý luận văn học trước yêu cầu đổi mới và phát

triển. Tạp chí Văn học số 12. Hà Nội.

199.L.I. Timofeev (1962) Nguyên lý lý luận văn học. Văn hoá, Hà Nội.

200.A.Solokov (2001) Ghi lại. Tạp chí Văn học số 3, Hà Nội.

160

201.Sơn Tùng(1960) Điển hình trong văn học, TC Văn học số 8, HN.

202.Sơn Tùng (1960) Tính cách điển hình. TC Văn học số 9, HN.

203.Sơn Tùng (1960) Hoàn cảnh điển hình. TC Văn học số 10, HN.

204.Nguyễn Huy Tưởng (2001) Sưu tầm trọn bộ Tiên phong, Hội nhà văn, Hà Nội.

205.Thuý Toàn (1977) Bước đầu tìm hiểu quá trình phổ biến văn học Xổ viết ở Việt

Nam. Tạp chí Văn học số 5, Hà Nội.

206.Thúy Toàn (1994) cỗ xe tam mã (tập tiểu luận, bút kí về giao lưu văn hoá Việt -

Nga). Văn học, Hà Nội.

207.Thúy Toàn (1998) Không phải của riêng ai, VH, Hà Nội

208.Thúy Toàn (2005) Bước đầu tìm hiểu thơ ca Nga ở Việt Nam. Tạp chí Văn học

nước ngoài số I, Hội Nhà văn, Hà Nội.

209.Lê Anh Trà - Nguyễn Văn Phú (1968) vấn đề bi kịch và cái chết của người anh

hùng cách mạng trong thời đại chúng ta. Tạp chí Văn học số 9, HàNội.

210.Lê Ngọc Trà (1984) Lý luận văn chương Xô viết - những bài học, những chặng

đường, Tạp chí Văn học số 5, Hà Nội.

211.Lê Ngọc Trà (1990) Lý luận và văn học,Trẻ, TP.HCM.

212.Lê Ngọc Trà (2002) Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hoá, Thanh

niên, Hà Nội.

213.Hoàng Trinh (1960) Thử tìm hiểu Sôlôkhốp, một nghệ sĩ của cuộc sống và của

thời đại. Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5, Hà Nội.

214.Từ Đức Trịnh (1961) Thử tìm hiểu quá trình tìm tòi của các nhà văn Xô viết

trong việc xây dựng nhân vật tích cực. Tạp chí Văn học số 11, Hà Nội.

215.Hải Triều - Hải Thanh (1936) Macxim Gorkỉ nhà văn hào của Liên bang Xô

viết và của thế giới đã qua đời. Báo Hồn trề ngày 4/7/1936, Hà Nội. In lại trong Những kỉ

niệm không dễ gì phai lạt, 1997, HN.

161

216.Lý Chánh Trung (1960) Cách mạng và đạo đức. Nam Sơn, Sài Gòn.

217.Lý Chánh Trung (1962) Ý thức đạo đức và bạo động trong lịch sử. Tập san Đại

Học số 6, Sài Gòn.

218.Lý Chánh Trung (1971) Người công giáo và chính trị ở Việt Nam. Tập san Đối

Diện số 19, Sài Gòn.

219.Lý Chánh Trung (1971) Tại sao tôi muốn hoà bình. Tập san Đối Diện số 20, Sài

Gòn.

220.Hà Xuân Trường (1986) Văn học và cuộc sông thời đại. Văn học, Hà Nội.

221.Từ điển văn học (1983), nhiều tác giả, KHXH, Hà Nội.

222.Từ điển văn học - Bộ mới (2004), nhiều tác giả, Thế giới, HN.

223.Chu Văn (1960) Bão biển, Văn học, Hà Nội.

224.Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) về văn hoá và nghệ thuật, tập II, Sự

thật, Hà Nội.

225.Huỳnh Vân (1990) Quan hệ văn học - hiện thực với vấn đề tiếp nhận, tác động

và giao tiếp thẩm mỹ, Văn học và hiện thực, KHXH, Hà Nội.

226.Viện TT KHXH (1997), nhiều tác giả, Nước Nga mười năm cải cách, Hà Nội.

227.Viện KHXH Việt Nam (2004), nhiều tác giả, Phê bình văn học Trung Quốc

đương đại, Trần Minh Sơn tuyển chọn và dịch, Hà Nội.

228.Lê Trí Viễn (1996) Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, KHXH, Hà Nội.

229.Lê Trí Viễn (1998) Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam. Giáo dục, Hà

Nội.

230.Hồ Sĩ Vịnh (1998) Văn hoá - văn học - một hướng tiếp cận. Văn học, Hà Nội.

231.Đào Vũ (1972) Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm, tái bản, Văn học, HN.

162

232.Đào Đăng Vỹ (1965) M. Solokhov và văn chương hiện đại Nga, Tập san Bách

khoa số 2, Sài Gòn.

163