intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Khảo sát ngôn ngữ phỏng vấn trên truyền hình ở Thừa Thiên Huế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

16
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày làm 3 chương như sau: Chương 1 - Một số vấn đề lý luận chung có liên quan đến đề tài; chương 3 - Giao tiếp hội thoại trong phỏng vấn trên truyền hình ở Thừa Thiên Huế và chương 3 - Đặc điểm về ngôn ngữ phỏng vấn trên truyền hình ở Thừa Thiên Huế. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Khảo sát ngôn ngữ phỏng vấn trên truyền hình ở Thừa Thiên Huế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN L. PHOIƠBẮC VÀ GIÁ TRỊ NHÂN VĂN CỦA NÓ LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn: PGS.TS. Đặng Hữu Toàn HÀ NỘI - 2008
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 2 NỘI DUNG ...................................................................................................... 9 Chương 1. L.Phoiơbắc và những tiền đề cho sự hình thành chủ nghĩa duy vật ở ông........................................................................................................ 9 1.1. L.Phoiơbắc - cuộc đời và sự nghiệp. ..................................................... 9 1.2. Những tiền đề kinh tế - xã hội và lý luận cho sự hình thành chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. ............................................................. 26 1.2.1 Tiền đề kinh tế - xã hội. ................................................................. 26 1.2.2.Tiền đề lý luận............................................................................... 28 Chương 2. Những nội dung cơ bản trong chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc ................................................................................................... 35 2.1. Những nguyên lý nhân bản học trong triết học Phoiơbắc. ................... 35 2.2. Quan niệm của L.Phoiơbắc về con người và bản chất con người. ....... 38 2.3. Tính nhân bản trong quan niệm của L. Phoiơbắc về tôn giáo. ............. 45 2.3.1.Quan niệm của L.Phoiơbắc về nguồn gốc tôn giáo. ....................... 45 2.3.2. Quan niệm của L.Phoiơbắc về bản chất tôn giáo. ......................... 53 2.3.3. Quan niệm của L.Phoiơbắc về đạo đức tôn giáo ........................... 64 2.4. Giá trị nhân văn trong triết học Phoiơbắc ........................................... 68 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 76 1
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Triết học là tinh hoa tư tưởng của nhân loại. Tinh hoa tư tưởng này, “Toà lâu đài” triết học này chỉ có thể bền vững và vươn cao khi dựa trên một nền móng vững chắc là lịch sử triết học. Lịch sử triết học là một môn học có giá trị khoa học, giá trị nhận thức và thực tiễn sâu sắc. Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. “Nhưng tư duy lý luận, - theo ông, - chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta mà có thôi. Năng lực đó cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”. Từ nhận thức đúng đắn vấn đề này, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy đổi mới tư duy lý luận, trong đó có tư duy triết học, làm khâu đột phá, Đảng ta đã xác định gắn nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn là một nhiệm vụ trọng tâm, mà giới nghiên cứu lý luận là lực lượng nòng cốt. Thực hiện nhiệm vụ này, chúng ta không có con đường nào khác là phải nghiên cứu và giảng dạy lịch sử tư tưởng triết học nhân loại để rút ngắn con đường đạt tới tư duy triết học mà chúng ta mong muốn có và nhất thiết phải có để có thể khẳng định mình trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày một gia tăng với tốc độ và quy mô ngày càng lớn. Chúng ta đều biết, học thuyết lấy con người là trung tâm, là đối tượng của triết học đã xuất hiện từ thời Cổ đại, nhất là trong triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại. Chẳng hạn, Pitago đã coi “Con người là thước đo của tất thảy mọi vật”, còn Xôcrát đã đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển triết học thời kỳ này bằng mệnh đề “Triết học là sự tự ý thức của con người về chính bản thân mình”. 1
  4. Trong thời Phục hưng và Cận đại, triết học đã gắn liền với vấn đề con người và giải phóng con người, đề cao tư tưởng nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo. Vào thời kỳ này, do sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và khoa học, triết học đã chứng minh được sức mạnh vĩ đại của con người. Chính vì vậy, ở Italia thời kỳ này đã dấy lên khẩu hiệu: “Con người hãy thờ phụng chính bản thân mình, chiêm ngưỡng cái đẹp của chính mình”. Theo dòng lịch sử đó, nhân loại sau thời Phục hưng và Cận đại đã sản sinh ra những con người mà học thuyết của họ trở thành tài sản vô giá của nhân loại. Nước Đức đã trở thành một trong những cái nôi sản sinh ra những con người vĩ đại ấy. Ra đời trong bối cảnh cần có cách nhìn nhận mới về các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cần có quan niệm mới về khả năng và vai trò tích cực của hoạt động con người, triết học cổ điển Đức đã được thừa nhận là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Một trong những nhà tư tưởng lớn đó là L. Phoiơbắc. Nếu I. Cantơ được thừa nhận là người mở đầu cho triết học cổ điển Đức bằng chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm và G.V.Ph. Hêghen được thừa nhận là người đã đưa nền triết học ấy lên đến đỉnh điểm bằng phép biện chứng duy tâm, thì L. Phoiơbắc được thừa nhận là người đã kết thúc nền triết học ấy bằng chủ nghĩa duy vật nhân bản và cùng với G.V. Ph. Hêghen, đã trở thành bậc tiền bối trực tiếp của C. Mác và Ph. Ăngghen. Tính nhân bản hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật nhân bản là đặc trưng lớn nhất để phân biệt triết học của L.Phoiơbắc với các nhà triết học khác. Trong chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình, L. Phoiơbắc đã đòi hỏi phải cải cách triết học đương thời, phải thay thế triết học cũ bằng triết học mới, mà sự khác nhau căn bản giữa chúng là ở tính nhân bản, ở giá trị nhân văn. Chúng ta đang sống ở những năm đầu thế kỷ XXI, trong một bối cảnh đầy biến động của lịch sử. Một trong những vấn đề cấp thiết ở thời đại ngày nay là vấn đề phát triển xã hội và tìm ra triển vọng cho sự phát triển tiếp theo 2
  5. của lịch sử nhân loại, sự phát triển bền vững theo hướng ngày càng nâng cao vị thế và vai trò của con người trong thế giới. Chính vì thế, trong lúc này, việc làm sống lại tính nhân bản và những giá trị nhân văn truyền thống trong triết học nói chung, trong triết học Phoiơbắc nói riêng là điều cần thiết, vì nó làm toát lên hệ giá trị mà con người cần hướng tới là chân – thiện – mỹ, đồng thời làm cho con người xích lại gần nhau hơn, làm cho con ngưòi ngày càng ý thức một cách sâu sắc hơn phương châm người với người sống để yêu nhau, cùng nhau chung sống trong một thế giới hoà bình, ổn định, phồn vinh và hạnh phúc. Bên cạnh đó việc làm rõ quan niệm nhân bản và khẳng định giá trị nhân văn trong chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc để thấy được vì sao, cùng với phép biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc đã trở thành tiền đề lý luận trực tiếp cho C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại có ý nghĩa lịch sử lớn lao trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. Vì lẽ đó mà người viết chọn đề tài cho luận văn này là Chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc và giá trị nhân văn của nó. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chủ nghĩa duy vật nhân bản L.Phoiơbắc và giá trị nhân văn là cái đã mang lại giá trị lịch sử, ý nghĩa đạo đức sâu sắc và mức độ ảnh hưởng lớn lao cho triết học Phoiơbắc đối với sự hình thành tư tưởng tiến bộ và cách mạng ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam chúng ta và do vậy, nó đã trở trành đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả trên thế giới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống chủ nghĩa duy vật nhân bản và giá trị nhân văn trong triết học Phoiơbắc, chỉ ra những đóng góp cũng như những hạn chế của nó trong bối cảnh thế giới hiện thời, có thể nói, vẫn còn ít. Trong luận văn này, chúng tôi không có điều kiện và đủ khả năng để trình bày tất cả các công trình nghiên cứu về triết học Phoiơbắc, mà chỉ có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây: Công trình Lịch sử triết học (2001) do GS, TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản, đã giới thiệu một cách vắn tắt 3
  6. thân thế, sự nghiệp của L.Phoiơbắc, phân tích thế giới quan mà ông đã xây dựngbằng quan điểm duy vật trên cơ sở quy toàn bộ triết học về nhân bản học, luận giải quan niệm của ông về bản chất con người và tôn giáo. Công trình Triết học cổ điển Đức – những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học ( kỷ yếu hội thảo quốc tế, Hà nội 21- 22/ 12 /2004, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia), là công trình do nhiều tác giả viết về triết học cổ điển Đức, trong đó có những bài viết về triết học Phoiơbắc, ít nhiều phân tích chủ nghĩa duy vật nhân bản và giá trị nhân văn trong triết học của ông. Công trình Triết học cổ điển Đức (2006) của Lê Công Sự, do nhà xuất bản Thế giới xuất bản đã trình bày một cách vắn tắt về cuộc đời, sự nghiệp và quan điểm triết học của L.Phoiơbắc. Đặc biệt, ở công trình này, tác giả đã ít nhiều đề cập đến quan điểm nhân bản của L.Phoiơbắc. Công trình Đại cương lịch sử triết học phương Tây cuả tập thể tác giả (TS.Đỗ Minh Hợp, TS.Nguyễn Thanh, TS.Nguyễn Anh Tuấn), do Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh xuất bản. Trong công trình này, các tác giả đã trình bày một cách vắn tắt những tư tưởng cơ bản nhất, những quan niệm chủ yếu nhất trong chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Ngoài các công trình nói trên, trong các cuốn giáo trình về lịch sử triết do Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, hoặc các trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, cũng ít nhiều đề cập đến L.Phoiơbắc với tư cách một nhà triết học tiêu biểu của triết học cổ điển Đức, bậc tiền bối của triết học Mác. Trên một số Tạp chí, như Tạp chí Triết học, Tạp chí Khoa học xã hội cũng đã có những bài viết đề cập đến tư tưởng nhân bản của L.Phoiơbắc. Chẳng hạn như, Đặng Hữu Toàn - Ph.Ăngghen với tác phẩm Lutvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức ( Tạp chí Triết học, số 4 – 1995 ) ; Đặng Hữu Toàn – Nhân bản học triết học trong hệ thống triết học duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc (Tạp chí Triết học, số 9 – 2004 ); Đặng 4
  7. Hữu Toàn – L.Phoiơbắc – người kết thúc nền triết học cổ điển Đức bằng chủ nghĩa duy vật nhân bản (Tạp chí Khoa học xã hội, số 11 – 2004) ; Nguyễn Bá Dương – Đưa một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua – một cống hiến lớn lao của L. Phoiơbắc (Tạp chí Triết học, số 9 – 2004 ) ; Phạm Thị Ngọc Trầm – L. Phoiơbắc và triết học nhân bản của ông (Tạp chí Triết học, số 10 – 2004); Nguyễn Kim Lai – Mối quan hệ giữa triết học Phoiơbắc và triết học của trường phái Hêghen trẻ (Tạp chí Triết học, số 10 – 2004 ); Nguyễn Phương Nam – Triết học Phoiơbắc dưới nhãn quan của các nhà sáng lập của nghĩa Mác (Tạp chí khoa học xã hội, số 11 – 2004). Nguyễn Huy Hoàng - Quan điểm của L. Phoiơbắc về văn hoá và con người (Tạp chí Triết học, số5 - 2006; Lê công Sự - Đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề con người trong triết học L.Phoi ơbắc qua Hệ tư tưởng Đức (Tạp chí Triết học, số11 - 2006) Ở phương Tây đã có nhiều công trình nghiên cứu một cách khá hệ thống về triết học Phoiơbắc. Do rào cản ngôn ngữ, chúng tôi chỉ có thể kể đến các công trình, như L.Phoiơbắc – lịch sử triết học, gồm ba tập, Nhà xuất bản Mátxcơva, 1990; L.Phoiơbắc – tuyển tập các tác phẩm triết học, gồm hai tập, Mátxcơva, 1955; Những cái mới trong nghiên cứu và lý giải triết học L.Phoiơbắc, Mátxcơva, 2004 ; A.Smít – Chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc, Muchen, 1993; G.Ghentnơ - Góp phần đánh giá Lútvích Phoiơbắc, Mátxcơva, 1979 ; U.Bolin – L.Phoiơbắc, Stutgat, 1891. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn. Mục đích của luận văn này là: Phân tích và luận giải tư tưởng nhân bản trong triết học Phoiơbắc để trên cơ sở đó, làm sáng tỏ giá trị nhân văn của triết học này. Để đạt được mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, trình bày một cách vắn tắt về những tiền đề cho sự sáng tạo triết học của L.Phoiơbắc. 5
  8. Thứ hai, phân tích và làm rõ nội dung cơ bản trong triết học L.Phoiơbắc, đặc biệt là trong quan niệm của ông về con người và bản chất con người. Thứ ba, chỉ ra những giá trị mang tính nhân văn trong triết học L.Phoiơbắc và bước đầu đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của nó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc, những giá trị tích cực và hạn chế của nó. Luận văn tập trung phân tích những nét nổi bật của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc như, quan niệm của L.Phoiơbắc về con người, về bản chất con người, về tôn giáo và đạo đức học. Luận văn giới hạn trong phạm vi nghiên cứu những tư tưởng cơ bản, những quan niệm chủ yếu trong triết học duy vật nhân bản L.Phoiơbắc. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lịch sử triết học. Luận văn sử dụng các phương pháp, như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp hệ thống hoá và khái quát hoá, phương pháp đối chiếu và so sánh,… Luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu trực tiếp những tác phẩm của L.Phoiơbắc, đồng thời kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu của các tác giả khác về triết học L.Phoiơbắc. 6. Cái mới của luận văn. Luận văn đã cố gắng luận giải một cách có hệ thống chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc và chỉ ra tính nhân văn trong hệ thống triết học của ông không chỉ trong quan niệm về con người mà còn ở các quan niệm triết học khác. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. 6
  9. Về mặt lý luận, luận văn góp phần nghiên cứu chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc một cách có hệ thống để làm sâu sắc thêm giá trị văn hoá của con người trên cơ sở phương pháp luận Mácxít. Về mặt thực tiễn, luận văn chỉ ra những đóng góp về phương diện tư tưởng của L.Phoiơbắc đối với thực tiễn xã hội, đồng thời khẳng định vai trò của triết học Phoiơbắc đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác – Lênin. Luận văn có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử triết học phương Tây nói chung, triết học cổ điển Đức nói riêng ở các trường đại học, cao đẳng. Một phần nào đó, luận văn cũng giúp ích cho những ai quan tâm đến chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân văn trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại. 8. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ bản của luận văn bao gồm 2 chương, 6 tiết. 7
  10. NỘI DUNG Chương 1. L.Phoiơbắc và những tiền đề cho sự hình thành chủ nghĩa duy vật ở ông 1.1. L.Phoiơbắc - cuộc đời và sự nghiệp. Lútvích Phoiơbắc ( Lutvig Feuerbach) sinh ngày 28 tháng 7 năm 1804 tại thành phố Landshut (xứ Baviere, nước Đức), trong một gia đình luật sư nổi tiếng. Thân sinh L.Phoiơbắc là Anrelma Phoiơbắc - một luật sư, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, người được phong tước hiệu quý tộc. Thủa thiếu thời, L.Phoiơbắc được gia đình cho học tại một trường trung học ở Anobach. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông trở thành sinh viên của khoa Thần học, trường Đại học Heidelbegrg. Thời gian mà L.Phoiơbắc học tại đây tuy ngắn ngủi, song lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với ông. Những kiến thức về thần học mà ông học được ở đây đã giúp ích cho ông rất nhiều trong việc nghiên cứu và phê phán tôn giáo sau này. Nhờ những kiến thức về thần học và sự hiểu biết sâu rộng về lịch sử hình thành và phát triển tôn giáo, L.Phoiơbắc đã nắm bắt được bản chất đích thực của loại hình ý thức xã hội này để từ đó, ông đã trở thành một trong những nhà triết học phê phán tôn giáo một cách triệt để trên tinh thần khoa học và chủ nghĩa nhân đạo. Với những kiến thức sâu rộng về thần học, về lịch sử hình thành và phát triển tôn giáo mà phần lớn là do tự tìm hiểu, chẳng bao lâu sau khi vào trường, L.Phoiơbắc đã tỏ rõ thái độ ngán ngẩm đối với những bài giảng về thần học và lối học hàn lâm viện ở đại học Heidelbegrg. Năm 1824, khi vừa tròn 20 tuổi, chàng sinh viên thần học - L.Phoiơbắc đã quyết định chia tay với thần học và chuyển sang học triết học tại khoa triết học, trường Đại học Tổng hợp Berlin. Đây được coi là một quyết định mang tính bước ngoặt và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời L.Phoiơbắc. Bước ngoặt này không chỉ giúp ông đoạn tuyệt với thần học truyền thống, mà nó còn giúp ông, đem lại cho ông vị thế của một nhà triết học lừng danh trong nền triết học cổ điển Đức vĩ đại. Chính L.Phoiơbắc đã khẳng định như vậy trong thư gửi cho cha 8
  11. mình. Trong bức thư này, ông đã quả quyết rằng, cuối cùng thì ông cũng đã chia tay một cách không thương tiếc với những bàn tay vô cảm của các thầy tu để tiếp cận với các bậc hiền triết vĩ đại trong lịch sử tư tưởng nhân loại, như Arixtôt, Xpinôda, Cantơ, Hêghen. Và, trong một bức thư gửi cho bạn, L.Phoiơbắc đã viết: "Tôi sẽ không nghiên cứu thần học thêm nữa. Tôi khao khát đem tự nhiên vào tâm hồn mình" [Dẫn theo: 37, tr.424-425]. Tại Đại học Tổng hợp Berlin, trong hai năm liền, L.Phoiơbắc đã chăm chú nghe các bài giảng của Hêghen về triết học. Coi Hêghen là thầy dạy triết học đầu tiên và đáng kính của mình, L.Phoiơbắc đã cố gắng tiếp thu và nghiên cứu quan điểm triết học của Hêghen. Song, vốn đã mang sẵn tư tưởng vô thần và thái độ chống tôn giáo, nên cũng chẳng bao lâu sau khi nghe các bài giảng về triết học của nhà biện chứng duy tâm lỗi lạc - Hêghen, L.Phoiơbắc đã nhận thấy triết học Hêghen cũng là cái khiến ông không thể thoả mãn. Ông nhận thấy triết học Hêghen không thể giúp ông trả lời được những câu hỏi mà từ lâu ông luôn trăn trở, suy tư. Đó là những câu hỏi, như: Tư duy và tồn tại có quan hệ với nhau như thế nào? Lôgíc và giới tự nhiên có mối quan hệ gì? Cơ sở và những nguyên lý của các mối quan hệ này là gì? Do vậy, để giải toả những mối hoài nghi đối với triết học Hêghen và cũng nhằm tìm ra câu trả lời thoả đáng cho những suy tư đó, L.Phoiơbắc say sưa lao vào nghiên cứu các lĩnh vực của khoa học tự nhiên và tham gia các hoạt động xã hội một cách tích cực. Cùng với các nhà tư tưởng nổi tiếng ở nước Đức khi đó, như Đ.Ph.Stơrausơ, B.Bauơ, E.Bauơ, M.Stiếcnơ, …, L.Phoiơbắc đã có những đóng góp tích cực trong hoạt động lý luận và hoạt động xã hội của phái Hêghen trẻ. Hoạt động sôi nổi và có những đóng góp tích cực trong phái Hêghen trẻ, nhưng sau đó, do bất đồng quan điểm với nhiều nhà tư tưởng tiêu biểu của phái này, ông đã tách ra khỏi trường phái này để trở thành người phê phán triết học Hêghen. Mặc dù là học trò của Hêghen, nhưng khi nghe những luận giảng của Hêghen về triết học trên tinh thần của một người theo chủ nghĩa vô thần, 9
  12. chống tôn giáo, chàng sinh viên tràn đầy suy tư và nghị lực khoa học - L.Phoiơbắc đã không bị thuyết phục bởi những luận giảng của Hêghen về mối quan hệ giữa triết học và tôn giáo. Khi đó, dẫu chưa tìm ra câu trả lời xác đáng về mối quan hệ giữa triết học và tôn giáo, nhưng, như sau này L.Phoiơbắc thừa nhận, ông đã nhận thấy sai lầm của Hêghen khi hoà tan triết học vào tôn giáo, coi sự phát triển của tôn giáo như một giai đoạn phát triển của "tinh thần tuyệt đối", trong khi các tôn giáo hiện tồn lại cho thấy sự đối lập và xa lạ với quan niệm được coi như một chân lý đó của Hêghen [Xem: 30, t.I, tr.243-244]. Tuy nhiên, dẫu khi đó đã nhận thấy tính chất duy tâm trong triết học Hêghen, song do ảnh hưởng quá lớn của hệ thống triết học Hêghen, trong luận văn tốt nghiệp đại học (1828) - Bàn về tính nhất, về sự hợp lý và tính vô hạn của lý tính, L.Phoiơbắc vẫn chưa vượt ra khỏi quan điểm duy tâm chủ nghĩa. Sự đoạn tuyệt của L.Phoiơbắc đối với triết học Hêghen chỉ bắt đầu từ bức thư chứa đầy tâm huyết mà ông gửi cho Hêghen - Người thầy và cũng là người phản biện luận văn tốt nghiệp đai học của ông, ngày 22 tháng 11 năm 1828. Trong bức thư này, L.Phoiơbắc đã thẳng thắn thừa nhận sự bất đồng của ông đối với quan niệm của Hêghen về tôn giáo. Ông cho rằng, khi hoà tan triết học vào tôn giáo bằng học thuyết Cơ đốc giáo, Hêghen đã biến Cơ đốc giáo thành học thuyết có vị thế của một tôn giáo tuyệt đối, thành học thuyết phản ánh một bước tiến mới của tư duy nhân loại. Theo L.Phoiơbắc, nhiệm vụ chủ yếu của triết học là đấu tranh chống lại Cơ đốc giáo và trong cuộc đấu tranh này, triết học cần phải "loại trừ đến tận gốc rễ mọi quan niệm tồn tại từ trước đến nay trong lịch sử nhân loại về thế giới bên kia, về linh hồn bất tử, về cái chết và sự sáng thế, về cái Tôi và Thượng đế" [Dẫn theo: 2, tr.24]. Nội dung trong bức thư mà L.Phoiơbắc gửi cho Hêghen không chỉ cho thấy tính cách mạnh mẽ, sự dũng cảm, thái độ thẳng thắn và tính phê phán của ông khi dám nói lên quan điểm trái ngược với thầy, ngay cả khi gửi cho thầy 10
  13. bản luận văn của mình để xin thầy ý kiến nhận xét, mà còn cho thấy sự hình thành của một thế giới quan mới - thế giới quan duy vật mà hạt nhân cơ bản của nó là chủ nghĩa vô thần. Sau khi bảo vệ thành công luận văn tốt nghiệp đại học, cuối năm 1828 L.Phoiơbắc trở thành trợ giảng của trường Đại học Eclangen. Và, bắt đầu từ đây, sự xung khắc giữa một giảng viên đại học trẻ tuổi, một nhà triết học theo chủ nghĩa vô thần với Hêghen ngày một trở nên sâu sắc. Khác với Hêghen, ngay trong các bài giảng đầu tiên của mình về Lôgíc học, về siêu hình học, về lịch sử triết học, L.Phoiơbắc đã hướng các sinh viên của mình tập trung sự chú ý vào nhận thức cảm tính. Nếu như ở Hêghen, các phạm trù lôgíc đứng ngoài giới tự nhiên và lịch sử thì ở L.Phoiơbắc hoàn toàn ngược lại, các phạm trù đó là sản phẩm phát triển của giới tự nhiên lịch sử. Không chỉ thế, trong các bài giảng này, L.Phoiơbắc còn đưa ra những dự đoán của mình về một số yếu tố của chủ nghĩa duy vật nhân bản mà sau này, ông đã lấy đó làm cơ sở để xây dựng hệ thống triết học của mình. Cũng trong các bài giảng này, mặc dù chưa đưa ra được một quan niệm hoàn chỉnh, đầy đủ về tôn giáo, nhưng L.Phoiơbắc đã đưa ra được một quan niệm mang tính xuất phát điểm cho học thuyết duy vật của ông về tôn giáo. Đó là quan niệm cho rằng: tôn giáo là lĩnh vực thể hiện bản chất con người; ý niệm về Chúa trời, về Thượng đế không phải là một phạm trù vĩnh cửu, mà là một phạm trù lịch sử, luôn thay đổi theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bởi ý niệm này là do ý thức con người sáng tạo ra. Như vậy, có thể nói, ngay từ giai đoạn đầu trong sự nghiệp sáng tạo lý luận của mình, L.Phoiơbắc đã không chỉ thoát ra khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm Hêghen mà khi đó, đang chiếm địa vị thống trị ở Đức. Ông còn đoạn tuyệt với thần học - môn học mà ông đã theo học ngay khi mới bước chân vào giảng đường đại học tại đại học Heidelbegrg. Trong khi Hêghen hoà trộn lý tính với tôn giáo, biến hệ thống triết học của mình thành thần học duy lý và coi tôn giáo như một hiện tượng tất yếu, thì L.Phoiơbắc lại đưa ra một cách nhìn nhận khác về thần học, về đời sống tâm linh của xã hội đương thời - 11
  14. cách nhìn nhận từ thế giới quan duy vật mà khi đó, đã bắt đầu manh nha ở nhà triết học trẻ tuổi. Sau gần hai năm làm trợ giảng tại Đại học Eclangen, vào cuối năm 1830, L.Phoiơbắc cho ra mắt độc giả Đức tác phẩm đầu tiên trong sự nghiệp sáng tạo triết học của ông - Về cái chết và sự bất tử của linh hồn. Đây là tác phẩm mà khi đưa đi xuất bản, L.Phoiơbắc đã không đề tên mình với tư cách tác giả. Mặc dù là tác phẩm khuyết danh, nhưng không vì thế mà người ta không thể biết tác giả của nó là ai. Chẳng bao lâu sau khi tác phẩm này xuất hiện, người ta đã khẳng định tác giả của nó là L.Phoiơbắc và vì thế, ông đã bị cấm làm công việc giảng dạy tại đại học Eclangen. Bởi lẽ, trong tác phẩm này, ông đã kiên quyết phủ nhận sự bất tử của linh hồn, phủ nhận sự tồn tại của "thế giới bên kia" - thế giới sau cái chết, mà khi đó, xung quanh vấn đề này, đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt trong giới lý luận Đức. Về vấn đề này, ông cho rằng, thừa nhận sự bất tử của linh hồn và sự tồn tại của "thế giới bên kia" chẳng những phi lý về phương diện khoa học, mà còn dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống xã hội, vì nó làm cho con người xa lánh những vấn đề của đời sống hiện thực. Ông khẳng định, trong thâm tâm, ai cũng mong muốn có một cuộc sống vĩnh cửu, nhưng mong muốn đó chỉ là ước mơ về phương diện đạo đức mà thôi, còn trong thực tế, mong ước đó không bao giờ có thể thực hiện được. Rằng, niềm tin về sự bất tử của linh hồn và sự tồn tại của "thế giới bên kia" chỉ là một ảo tưởng mà tôn giáo đã mang lại cho con người. Do vậy, theo ông, "tôn giáo không phải là một bước tiến, mà là một bước thụt lùi của tư tưởng nhân loại" [30, t.I, tr.247]. Với tư tưởng vô thần này, tác phẩm đầu tay của L.Phoiơbắc đã tạo nên một làn sóng phản đối dữ dội không chỉ từ giới cầm quyền đương thời, mà còn từ rất nhiều tín đồ của Cơ đốc giáo và do vậy, ông đã bị dư luận tẩy chay, bị nhà chức trách đuổi khỏi trường, bị chính phủ nhà nước Phổ đương thời cấm không được giảng dạy trong các trường đại học trên cả nước. 12
  15. Sau khi bị cấm làm công việc giảng dạy tại các trường đại học và nỗ lực chống lại lệnh cấm này bất thành, L.Phoiơbắc muốn được cư trú chính trị tại Pháp, đất nước mà khi đó, nhiều trí thức Đức đang cư trú và hoạt động trong một tổ chức chính trị theo khuynh hướng cấp tiến do họ lập nên. Song, một phần vì lý do tài chính, phần nữa là những lời khuyên của gia đình, bạn bè và người thân, ông đã từ bỏ ý định này để ở lại Đức và sau đó, vào năm 1837, sau khi lập gia đình ông về sống suốt những năm tháng còn lại của cuộc đời tại một vùng nông thôn xa thành phố. Cũng từ đó, ông bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu triết học của mình mà hầu như không có sự tiếp xúc, gặp gỡ giới lý luận Đức đương thời, ngoại trừ việc vẫn tiếp tục giữ mối liên lạc với các thành viên trong phái Hêghen trẻ với mục đích chủ yếu là để xuất bản các công trình của mình. Buộc phải sống và nghiên cứu trong một hoàn cảnh như vậy, song với những nỗ lực phi thường, chưa đầy ba năm sau, năm 1833, L.Phoiơbắc đã cho ra đời tác phẩm Lịch sử triết học từ Bêcơn đến Xpinôda. Đây là tác phẩm đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình hình thành thế giới quan duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Khảo sát tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, ông đã dành sự quan tâm hàng đầu cho thế giới quan duy vật theo khuynh hướng duy cảm. Song, khác với Hêghen, ông công khai trình bày một cách trung thực và không hề xuyên tạc quan điểm của các nhà triết học duy vật và vô thần. Ông đánh giá cao cống hiến của họ với những lời nhận xét xác đáng. Khi còn là thành viên của phái Hêghen trẻ, L.Phoiơbắc đã cố gắng luận chứng cho sự không khoan nhượng giữa tri thức và niềm tin, cho tính hiện thực của đạo đức học vô thần. Với định hướng này, khi khảo sát triết học cận đại, ông đã xuất phát từ chủ nghĩa duy vật của Ph.Bêcơn và coi nhà triết học này chính là "cha đẻ của triết học và khoa học tự nhiên cận đại". Ông cũng dành sự đánh giá cao cho T.Hốpxơ và coi nhà triết học này là một trong những nhà duy vật mang tư tưởng vô thần độc đáo. Và, khi luận giải quan điểm duy vật của nhà triết học Pháp - P.Gátxendi, ông 13
  16. đã phê phán quan điểm duy vật không triệt để của nhà triết học này. Ông cho rằng, trong tác phẩm chủ yếu của mình - Triết học đại toàn (1658), P.Gátxendi đã phê phán một cách gay gắt chủ nghĩa kinh viện, học thuyết của Arixtốt mà chủ nghĩa kinh viện này đã xuyên tạc, phê phán học thuyết về ý nghĩa bẩm sinh của R.Đềcáctơ và khôi phục lại học thuyết về nguyên tử của Êpiquya để dựa vào đó mà xây dựng học thuyết của mình, song nhà triết học này đã sai lầm khi coi Thượng đế chính là kẻ sáng tạo ra các nguyên tử và cũng không đúng khi thừa nhận ngoài các "linh hồn động vật" được hiểu một cách duy vật, con người còn có "linh hồn lý tính" siêu cảm giác. Theo L. Phoiơbắc, bản thân ý niệm về sự tồn tại của các nguyên tử đã bao hàm trong nó cả quan niệm về sự tồn tại vĩnh cửu và tính không thể sáng tạo ra của chúng và do vậy, quan niệm của P.Gátxenđi về nguyên tử - thực thể đầu tiên của thé giới là sản phẩm sáng tạo của Thượng đế là quan niệm không thể chấp nhận được. Không chỉ thế, L.Phoiơbắc còn bác bỏ cả quan niệm về sự bất tử của linh hồn mà P.Gátxenđi đã đưa ra, đồng thời vạch rõ sự mâu thuẫn trong tư tưởng ủat nhà triết học này ở việc cùng một lúc chống lại cả Cơ đốc giáo lẫn khoa học và phê phán thái độ thoả hiệp với tôn giáo và giáo hội của ông ta. Khi luận giải tư tưởng triết học của R.Đềcáctơ, L.Phoiơbắc không chỉ phê phán lập trưòng nhị nguyên của nhà triết học người Pháp này, mà còn chỉ rõ sự mâu thuẫn trong tư tưởng của ông ta.Theo L.Phoiơbắc, "Đềcáctơ - nhà triết học và Đềcáctơ - nhà sáng tạo, đó là hai bộ mặt hoàn toàn mâu thuẫn nhau" 30, t.II, tr.500. Và, khi phê phán thái độ nhượng bộ đối với thần học của R.Đềcáctơ, L.Phoiơbắc cũng đánh giá cao quan niệm của nhà triết học này về niềm tin vào sức mạnh của lý tính con người, về sự cần thiết phải đặt tri thức vào chỗ đứng của niềm tin mù quáng.Theo L.Phoiơbắc, công lao to lớn của Đềcáctơ là ở chỗ, trong một thời đại mà niềm tin Cơ đốc giáo có vai trò như một thế lực ngự trị tư tưởng châu Âu, thì nhà triết học duy lý người Pháp đã khích lệ con người hãy tin vào chính mình, vào sức mạnh của lý tính. 14
  17. Với triết học Xpinôda, L.Phoiơbắc đã đánh giá cao công lao của nhà triết học Hà Lan này trong cuộc đấu tranh với thần học và chủ nghĩa duy tâm. L.Phoiơbắc cho rằng, với học thuyết về thực thể, B.Xpinôda đã chống lại cả chủ nghĩa duy tâm lẫn thần học và do vậy, nhà triết học Hà Lan này đã trở thành đối tượng phê phán của G.V.Lépnít - nhà triết học mà trong hệ thống triết học của ông, "một lần nữa, triết học lại nằm dưới gót giầy của thần học" 30, t.II, tr.501. Hướng sự phê phán của mình vào hệ thống triết học của G.V.Lépnít, nhất là học thuyết về đơn tử của nhà triết học này, L.Phoiơbắc đã lên án gay gắt quan điểm dưng hoà tôn giáo với thần học của G.V.Lépnít và cho rằng, triết học và tôn giáo, lý trí và niềm tin không bao giờ có thể dung hoà được, giữa chúng không thể có một sự thoả hiệp nào cả. Đánh giá cao tri thức của L.Phoiơbắc về lịch sử triết học trong Lịch sử triết học từ Bêcơn đến Xpinôda, C.Mác đã sử dụng tác phẩm này của ông làm tài liệu tham khảo khi viết luận án tiến sĩ của mình. Một năm sau khi công bố Lịch sử triết học từ Bêcơn đến Xpinôda, vào năm 1834, L.Phoiơbắc cho xuất bản tác phẩm bao gồm những châm ngôn triết học với tên gọi Nhà văn và con người. Trong tác phẩm này, bằng những châm ngôn mang tính triết lý sâu sắc, ông tiếp tục phê phán Cơ đốc giáo, đặc biệt là giáo lý của giáo hội nói về sự bất tử của linh hồn; đồng thời khẳng định đời sống hiện thực của con người. Theo ông, sự bất tử của linh hồn đạt được không phải nơi thiên đường, mà ở ngay chốn trần gian, trong những hành động có mục đích của con người. Để khẳng định tính đúng đắn của luận điểm này, L.Phoiơbắc đã dẫn ra một loạt danh nhân kiệt xuất và được coi là những người bất tử trong tâm thức của nhân loại, như Ph.Vônte, Gi.Rútxô, W.Xếchxpia, … Hai năm sau, vào năm 1836, L.Phoiơbắc cho ra mắt độc giả tác phẩm Trình bày, phân tích và phê phán triết học Lépnít. Trong tác phẩm này, L.Phoiơbắc không chỉ bày tỏ quan điểm của ông đối với tư tưởng của nhà triết học kiêm toán học G.V.Lépnít, mà còn trình bày quan niệm duy vật của mình 15
  18. về giới tự nhiên và sự nhận thức của con người. Theo ông, "thế giới là khách thể của cảm giác, đồng thời cũng là khách thể của tư duy" [Dẫn theo: 20, tr.89]. So sánh triết học của G.V.Lépnít với triết học của B.Xpinôda, L.Phoiơbắc cho rằng, nếu triết học của B.Xpinôda là "một ống viễn kính" thì triết học của G.V.Lépnít lại là "một kính hiển vi" [Dẫn theo: 20, tr.79]. Rằng, nếu thế giới của B.Xpinôda là "cái thấu kính tiêu sắc của thần thánh, một môi trường qua đó chúng ta không thấy cái gì khác hơn là ánh sáng trời không màu sắc của thực thể duy nhất" thì thế giới của G.V.Lépnít lại là "một tinh thể đa giác, một viên kim cương, nhờ có bản chất độc đáo của nó, biến đổi ánh sáng đơn thuần của thực thể thành một khối màu sắc vô cùng đa dạng và đồng thời cũng làm cho nó tối lại" [Dẫn theo: 20, tr.80] và do vậy, trong triết học Lépnít, "toàn bộ giới tự nhiên chứa đầy những linh hồn, … hay là chứa đầy những thực thể giống như linh hồn" [Dẫn theo: 20, tr.81]. Với quan niệm này, L.Phoiơbắc đã phê phán thế giới quan duy tâm và thái độ thoả hiệp với tôn giáo trong học thuyết về đơn tử của G.V.Lépnít. Thêm hai năm nữa, vào năm 1838, L.Phoiơbắc cho ra đời tác phẩm được coi là cuối cùng của ông về lịch sử triết học - tác phẩm Về triết học Pie Bâylơ. Trong tác phẩm này, không chỉ đánh giá cao cống hiến trong lĩnh vực lịch sử triết học của nhà triết học Pháp - Pie Bâylơ (1647 - 1706), người đặt nền móng cho trào lưu khai sáng Pháp, nhà chính luận, người theo chủ nghĩa hoài nghi, người chuẩn bị cơ sở cho chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII, L.Phoiơbắc còn hết sức ca ngợi tinh thần dũng cảm của nhà triết học này trong việc tuyên chiến với nhà thờ giáo hội và tôn giáo, nhất là khi việc tuyên chiến này lại diễn ra ở thời điểm mà cuộc đấu tranh giữa Thiên chúa giáo và Tin lành giáo đang diễn ra một cách quyết liệt. Theo L.Phoiơbắc, những luận cứ mà Pie Bâylơ đưa ra để chống lại những giáo lý của nhà thờ Thiên chúa giáo đã đặt cơ sở cho việc phê phán cơ đốc giáo với tư cách một biến tướng của thần thoại đa thần giáo. L.Phoiơbắc đặc biệt đánh giá cao Pie Bâylơ ở luận điểm cho rằng, có thể có sự tồn tại của một xã hội mà ở đó, chỉ có những 16
  19. con người vô thần; rằng con người có thể có đạo đức mà không cần tôn giáo, nhưng vô thần không có nghĩa là phi đạo đức và do vậy, nhà nước có thể được thiết lập bởi những người vô thần mà không cần đến sự can thiệp của giáo hội như xã hội đương đại. Không chỉ đánh giá cao những đóng góp của Pie Bâylơ trong cuộc chiến chống lại Cơ đốc giáo và tuyên truyền cho chủ nghĩa vô thần, trong tác phẩm Về triết học Pie Bâylơ, L.Phoiơbắc còn đưa ra những luận cứ để chứng minh rằng, triết học và khoa học cần phải được nhìn nhận như biểu tượng của trí tuệ và chân lý, còn niềm tin thì chỉ nên nhìn nhận như lĩnh vực của sự ngu muội và tư tưởng võ đoán. Rằng, Thiên chúa giáo,về thực chất, là những giáo lý thể hiện sự mâu thuẫn giữa thể xác và linh hồn; còn Tin lành giáo, về thực chất, là những giáo lý thể hiện sự mâu thuẫn giữa niềm tin và lý trí. Theo L.Phoiơbắc, giáo hội tồn tại với tư cách kẻ bóp nghẹt tiến bộ xã hội, cản trở văn hoá và sự phát triển của khoa học; tôn giáo là nơi không thể dung hoà với đạo đức chân chính; do vậy, cần phải giải phóng xã hội và con người khỏi sự thống trị của giáo hội và tôn giáo. Chính vì vậy sau khi tác phẩm Về triết học Pie Bâylơ của L.Phoiơbắc ra đời, ở nước Đức khi đó đã dấy lên một làn sóng phản đối những giáo lý của cả Thiên chúa giáo lẫn Tin lành giáo trong giới nghiên cứu lý luận. Cũng vào năm 1838, L.Phoiơbắc đã cho đăng một bài báo với tựa đề Phê phán triết học Cơ đốc giáo. Trong bài báo này, L.Phoiơbắc đã đặt ra nhiệm vụ giải thoát triết học khỏi thuật tư biện của Hêghen, theo ông, thuật tư biện không chỉ dẫn con người đến sự tối tăm huyền bí và không thể khai mở được trí tuệ, mà còn thủ tiêu tinh thần phê phán vốn có của triết học. Cũng ở đây, khi bày tỏ sự không tán đồng với quan điểm của nhiều nhà tư tưởng đương thời cho rằng, tinh thần con người có thể tìm thấy sự thể hiện và sự hoàn thiện trong hệ thống triết học Hêghen, L.Phoiơbắc đã khẳng định sự cần thiết phải khắc phục tính chất duy tâm trong triết học Hêghen và giải phóng triết học này khỏi thần học và sự thần bí hoá. 17
  20. Năm 1839, một trong những tác phẩm lớn nhất trong sự nghiệp sáng tạo triết học của L.Phoiơbắc, tác phẩm đánh dấu sự đoạn tuyệt hoàn toàn của ông không chỉ đối với triết học Hêghen mà còn cả đối với triết học duy tâm nói chung - Phê phán triết học Hêghen - đã được xuất bản. Nói về sự đoạn tuyệt với triết học duy tâm của Hêghen để đi đến thế giới quan duy vật của L.Phoiơbắc, trong Lúttvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen đã viết: "Tiến trình của Phoiơbắc là tiến trình của một môn đồ của Hêghen - đành rằng, chẳng bao giờ là một môn đồ hoàn toàn chính thống - hướng tới chủ nghĩa duy vật. Tiến trình đó, đến một giai đoạn nhất định, nhất thiết phải dẫn tới sự đoạn tuyệt hoàn toàn với hệ thống duy tâm chủ nghĩa của vị tiền bối của ông. Cuối cùng, với một sức mạnh không gì cưỡng lại được, Phoiơbắc buộc phải đi đến chỗ thừa nhận rằng cái mà Hêghen đã nói tới: sự tồn tại của "ý niệm tuyệt đối" trước khi có thế giới, sự "tồn tại từ trước của những phạm trù lôgíc" trước khi có thế giới, không phải là cái gì khác, mà chỉ là tàn dư hư ảo của lòng tin vào một đấng sáng tạo siêu phàm; rằng thế giới vật chất, cảm thấy được bằng giác quan, thế giới mà bản thân chúng ta cũng thuộc về đấy là hiện thân duy nhất; rằng ý thức, cũng như tư duy của chúng ta, dù có vẻ siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ là sản phẩm của một khí quan vật chất, nhục thể, tức là bộ óc. Vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần, mà chỉ có bản thân tinh thần mới là sản phẩm tối cao của vật chất. Đó dĩ nhiên là chủ nghĩa duy vật thuần tuý. Nhưng đạt tới điểm đó rồi thì đột nhiên Phoiơbắc dừng lại. Ông không thể khắc phục được thành kiến triết học thông thường, tức là thành kiến không phải đối với thực chất của vấn đề, mà đối với từ "chủ nghĩa duy vật"…ở đây, Phoiơbắc lẫn lộn chủ nghĩa duy vật, với tư cách là thế giới quan chung dựa trên một quan điểm nào đó về quan hệ giữa vật chất và tinh thần, với hình thức đặc thù của thế giới quan ấy trong một giai đoạn lịch sử nhất định" [25, tr.408-409]. Năm 1841, L.Phoiơbắc cho xuất bản một tác phẩm lớn nữa trong sự nghiệp sáng tạo triết học của mình - tác phẩm mà với nó, ông đã "đưa một 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0