VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BH NƯỚCH HẢI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ

ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NAM GIANG,

TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BH NƯỚCH HẢI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ

ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NAM GIANG,

TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách công

Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THỊ SONG HÀ

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn

Thạc sĩ Chính sách công về “Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với đồng

bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam” là

hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh

vực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Bh Nướch Hải

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến Viện Hàn lâm khoa học xã

hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn

thành luận văn này.

Tôi xin được bày tỏ sự trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS

Nguyễn thị Song Hà, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn cho tôi trong suốt

quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này.

Trong quá trình học tập, triển khai nghiên cứu đề tài và những gì đạt

được hôm nay, tôi không thể quên được công lao giảng dạy và hướng dẫn của

quý thầy, cô giáo Khoa Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội.

Tôi xin được gởi lời cảm ơn đến các cơ quan: Huyện ủy, UBND huyện

Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, các phòng, ban ngành có liên quan và UBND

các xã, thị trấn đã cung cấp tài liệu, cũng như tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ

tôi trong quá trình khảo sát và nghiên cứu đề tài.

Tôi xin được nói lên lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn động

viên tôi và cùng tôi vượt qua mọi khó khăn. Và tôi xin cảm ơn các anh chị,

bạn bè và đồng nghiệp đã luôn chia sẽ, giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu, và

hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn

Bh Nướch Hải

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ .......... 9

1.1. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc thực hiện chính sách BHYT ........................... 9

1.2. Hệ thống các văn bản của Nhà nước về chính sách BHYT ............................... 17

1.3. Các nội dung thực hiện chính sách BHYT ........................................................ 19

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ

ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN NAM GIANG,

TỈNH QUẢNG NAM .............................................................................................. 24

2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ........................................................................ 24

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở

huyện Nam Giang, từ năm 2015-2018. ..................................................................... 30

2.3. Những hạn chế trong thực hiện chính sách BHYT ở vùng đồng bào DTTS trên

địa bàn huyện Nam Giang ......................................................................................... 45

2.4. Đánh giá kết quả thực hiện ................................................................................. 50

2.5. Nguyên nhân của kết quả và hạn chế trong thực hiện chính sách BHYT trên địa

bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam .................................................................. 51

2.6. Những vấn đề đặt ra đối với thực hiện chính sách BHYT ở đồng bào các dân

tộc thiểu số huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam hiện nay. ..................................... 55

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH

SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở

HUYỆN NAM GIANG, TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ..... 58

3.1. Quan điểm thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS của chính

quyền địa phương ...................................................................................................... 58

3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT đối với đồng

bào DTTS .................................................................................................................. 62

3.3. Một số kiến nghị về thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS ....... 68

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

DTTS Dân tộc thiểu số

CSSK Chăm sóc sức khỏe

KCB Khám chữa bệnh

UBMTTQVN Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam

UBND Ủy ban nhân dân

BHYT Bảo hiểm y tế

LĐTBXH Lao động, thương binh và xã hội

BHXH Bảo hiểm xã hội

DANH MỤC BẢNG

Số Tên bảng Trang hiệu

Tình hình cấp thẻ BHYT đối với người DTTS, từ 2015- 40 2.1 2018

Tình hình cấp thẻ BHYT đối với người nghèo, từ 2015- 41 2.2 2018

Tình hình cấp thẻ BHYT đối tượng CCCM, BTXH từ 42 2.3 2015-2018

Tình hình Quỹ BHYT thanh toán chi phí KCB từ 2015- 44 2.4 2018

Tình hình đội ngũ y bác sĩ được bồi dưỡng, nâng cao 45 2.5 nghiệp vụ từ năm 2015-2018

DANH MỤC HÌNH

Số Tên hình Trang hiệu

1.1 Thẻ bảo hiểm y tế đối với người dân tộc thiểu số 14

2.1 Bản đồ huyện Nam Giang. 25

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chính sách chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cả nước nói chung, đồng

bào dân tộc thiểu số nói riêng luôn được Đảng ta và Nhà nước ta quan tâm,

chú trọng. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị, Đảng

ta đã khẳng định tầm quan trọng của chính sách BHYT đối với người dân,

trong đó có đồng bào DTTS: “Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là chính sách

xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát

triển kinh tế - xã hội”. Với tầm quan trọng đó, ngày 14/11/2008, Quốc hội

nước CHXHCNVN khóa XII, Luật BHYT số 25/2008 đã được thông qua tại

kỳ họp thứ 4. Sau gần 6 năm triển khai thực hiện luật BHYT 2008, vào ngày

13/6/2014 Quốc hội nước CHXHCNVN, khóa XIII, tại kỳ họp thứ 7 thông

qua Luật BHYT số 46/2014/QH13 quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật BHYT 2008; Để cụ thể hóa Chính phủ đã ban hành Nghị định số

105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số điều của Luật BHYT.

Nam Giang là huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, có gần 90% dân số

là đồng bào DTTS, trong những năm qua, nhờ chính sách BHYT của Nhà

nước ta đã góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân, đặc biệt là bà

con đồng bào DTTS trên địa bàn huyện. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn

những tồn tại hạn chế, khó khăn trong công tác thực hiện chính sách BHYT ở

huyện Nam Giang như: Chính sách BHYT chưa bao phủ 100% hộ dân, cán bộ

thực hiện chính sách và đội ngũ y, bác sĩ trình độ chuyên môn còn hạn chế,

chất lượng KCB, ý thức, thái độ phục vụ chưa cao…

Để hoàn thiện và khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá

trình thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện

1

Nam Giang. Tác giả lựa chọn “Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với

đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng

Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách công, với hy vọng

làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn, để từ đó góp phần nâng

cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

2.1. Các nghiên cứu về thực hiện chính sách bảo hiểm y tế

Chính sách BHYT ở nước ta ra đời năm 1992, từ đó đến nay chính sách

BHYT không ngừng thay đổi để phù hợp với thực tiễn phát triển của đất

nước. Những thay đổi này về cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân

trong việc tham gia, hưởng lợi từ chính sách BHYT. Từ khi chính sách BHYT

được ban hành đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, sách được công

bố. Chẳng hạn như: Đề tài “Những yếu tố quyết định khả năng tham gia

BHYT ở Việt Nam” do PGS.TS Đặng Nguyên Anh làm chủ nhiệm đề tài, đã

tìm hiểu thực trạng BHYT trên thế giới và Việt Nam. Các yếu tố quyết định

khả năng tiếp cận BHYT của một số nhóm đối tượng đặc thù như người

nghèo ở nông thôn, lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và nhóm cán bộ,

công chức đô thị rất khác nhau về đặc trưng và lợi thế nghề nghiệp, về nguồn

lực kinh tế và về vốn xã hội. So sánh mức độ tiếp cận dịch vụ y tế của ba

nhóm đối tượng trên đã làm sáng tỏ các yếu tố quyết định trong khả năng tiếp

cận các dịch vụ y tế. Dựa trên kết quả nghiên cứu, đề tài chỉ ra một số định

hướng, một số chính sách nhằm nâng cao diện che phủ của chương trình

BHYT ở Việt Nam.

Đề tài “Bảo hiểm y tế trong hệ thống an sinh xã hội. Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn hiện nay” của tác giả Trịnh Hòa Bình và nhóm nghiên cứu

đã đề cập đến BHYT trong hệ thống ASXH, thực hiện chính sách phúc lợi xã

hội và một số cơ chế đảm bảo công bằng trong CSSK, bên cạnh đó nhóm

2

nghiên cứu còn phân tích cách tiếp cận các dịch vụ BHYT của nhóm yếu thế

trong xã hội và những thay đổi trong chính sách về BHYT, nhu cầu tham gia

BHYT của các đối tượng khác nhau.

2.2. Các nghiên cứu về thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào

dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Đối với vấn đề thực hiện chính sách BHYT vùng đồng bào DTTS ở

Việt Nam, trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu được thực

hiện, công bố. Trước tiên phải kể đến công trình nghiên cứu “Viện phí và

người nghèo ở Việt Nam” của nhóm tác giả Phạm Huy Dũng và cộng sự

(1999). Công trình này được nhóm tác giả nghiên cứu tại 4 tỉnh: Bắc Kạn,

Thái Nguyên, Ninh Bình và Hải Phòng. Nghiên cứu này đã đi sâu phân tích

các tác động của chính sách BHYT, cụ thể là việc thu viện phí và đánh giá

ảnh hưởng của nó đối với người nghèo. Trong nghiên cứu này nhóm tác giả

đã chỉ ra rằng: Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe giữa các đối tượng khác nhau

có sự so sánh về chất lượng thuốc và chi phí KCB, giữa bệnh nhân trả tiền cao

hơn bệnh nhân nghèo. Số liệu từ bệnh án của bác sĩ cho thấy thời gian điều trị

nội trú của của những bệnh nhân được miễn phí dài hơn số ngày nằm viện của

bệnh nhân trả tiền. Từ kết quả nghiên cứu đạt được, nhóm tác giả đã đưa ra

một số kiến nghị cụ thể như: Chính sách thu viện phí của chính phủ nên tiếp

tục thực hiện trong thời gian tới, tuy nhiên việc tăng viện phí cần cân nhắc thế

nào cho phù hợp, đặc biệt là chính sách miễn giảm viện phí cần được quan

tâm. Theo chúng tôi đây là những kiến nghị có giá trị cho các nhà hoạch định

chính sách, các nhà quản lí…trong đề xuất, ban hành chính sách thời gian tới.

Cũng bàn đến chính sách thu viện phí, năm 2002 tác giả Nguyễn Khánh

Phương tại Viện Chiến lược và Chính sách y tế cũng đã tiến hành nghiên cứu

và công bố công trình: “Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ CSSK cho người

nghèo: Đánh giá chính sách thu viện phí”. Nghiên cứu của Nguyễn Khánh

Phương đã đi sâu đánh giá các chính sách thực hiện viện phí nhìn từ góc độ

3

công bằng xã hội. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Viện phí là rào cản đối với

người nghèo trong việc tìm kiếm các dịch vụ CSSK. Các chính sách miễn

giảm cho các đối tượng không có khả năng chi trả đã được áp dụng thông qua

quỹ BHYT của mỗi tỉnh. Các hình thức miễn giảm chủ yếu, gồm: Cung cấp

thẻ BHYT, cung cấp giấy chứng nhận được KCB miễn phí hoặc sổ hộ nghèo;

miễn hoặc giảm trực tiếp do Giám đốc bệnh viện quyết định. Từ kết những

nghiên cứu đó, nhóm tác giả cho rằng: Mặt tích cực của chính sách thu viện

phí là huy động được nguồn lực cho nâng cao hoạt động của bệnh viện, nhưng

mặt tiêu cực lại là rào cản cho việc tiếp cận các dịch vụ KCB của người

nghèo.

Năm 2007, Đàm Viết Cương và cộng sự đã nghiên cứu “Tình hình

CSSK cho người nghèo tại năm tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên”. Công

trình này đã đi sâu nghiên cứu về công tác CSSK cho người nghèo, trong đó

có đồng bào DTTS. Nhóm tác giả đã khá chú ý đến người cung ứng, nhà quản

lý và người hưởng lợi, từ đó cho thấy được hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế của

người nghèo; một số vướng mắc trong quá trình xác định người nghèo và cấp

phát thẻ BHYT cho người nghèo tại địa bàn nghiên cứu; tác động của quỹ

KCB cho người nghèo đối với đối tượng quản lý đối với đối tượng hưởng lợi.

Công trình của Đàm Viết Cương và cộng sự đã khẳng định, quá trình triển

khai chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS đã đem lại rất nhiều kết quả

rõ rệt: Số đối tượng người DTTS trong diện bao phủ của chính sách BHYT đã

được tăng lên; Chất lượng KCB, CSSK đối với đồng bào DTTS được cải

thiện, dễ dàng và thuận lợi hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế; Quỹ KCB

đã được tập trung sử dụng cho các nhóm mục tiệu cụ thể. Tuy nhiên, việc

thực hiện chính BHYT đối với đồng bào DTTS vẫn còn khó khăn, thách thức

trong quá trình thực hiện như: Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế chưa đầy đủ,

chưa đồng bộ, chất lượng CSSK còn hạn chế, ở một số nơi thái độ của đội

ngũ y, bác sĩ chưa thật sự nhiệt tình, do đó chỉ số hài lòng của người dân chưa

4

cao. Một số đối tượng thuộc diện người DTTS chưa được hưởng lợi từ quỹ

KCB cho người nghèo với nhiều nguyên nhân khác nhau.

Có thể thấy rằng, các công trình nghiên cứu nêu trên chưa trực tiếp đề

cấp đến những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách

BHYT đối với đồng bào DTTS, đặc biệt là chưa có công trình nào chú ý

nghiên cứu về thực hiện chính sách BHYT đối với DTTS tỉnh Quảng Nam.

Do đó việc nghiên cứu để đánh giá thực trạng thực hiện BHYT, thấy được

những hiệu quả tích cực, hạn chế của chính sách và thực hiện chính sách

BHYT, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp với tình hình thực

tiễn của Quảng Nam là đóng góp, điểm mới của luận văn này hướng tới.

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên cơ bản đã đề cập đến các

vấn đề BHYT đối với CSSK người dân. Các công trình này có giá trị tham

khảo đối với tác giả luận văn này trong phân tích và đánh giá những vấn đề

thực tiễn trong CSSK, thực hiện chính sách BHYT với đồng bào DTTS.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Làm rõ thực trạng thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam.

- Làm rõ các kết quả đạt được và hạn chế khó khăn trong thực hiện

chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng

Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chính sách và thực hiện chính

sách BHYT đối với đồng bào DTTS trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lý luận và các khái niệm cơ bản về các chính sách

BHYT của nhà nước, làm cơ sở căn cứ phân tích, đánh giá quy trình thực hiện

chính sách và thực trạng thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS

trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015-2018, từ đó

5

thấy được những thành tựu, bất cập hạn chế của chính sách và quá trình thực

hiện chính sách BHYT đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương.

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS

trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Khách thể nghiên cứu: Đồng bào DTTS đã được cấp thẻ và chưa

được cấp thẻ BHYT, các cơ quan Nhà nước quản lý thẻ BHYT, cán bộ thực

hiện chính sách BHYT.

4.3 Phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi nghiên cứu về không gian là địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh

Quảng Nam.

- Phạm vi nghiên cứu về thời gian từ năm 2015-2018, đây là thời điểm

tỉnh Quảng Nam thực hiện Nghị quyết số 119/2014/NQ-HĐND ngày 11

tháng 07 năm 2014 của HĐND tỉnh về việc thực hiện chính sách khuyến

khích thoát nghèo bền vững, giai đoạn 2014-2015 và Nghị quyết số

13/2017/NQ-HĐND ngày 19 tháng 04 năm 2017 về chính sách khuyến khích

thoát nghèo bền vững tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2017-2021, qua đó tổng kết,

đánh giá công tác CSSK và thực hiện chính sách BHYT đối với các dân tộc

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài tiếp cận một cách có hệ thống những tiền đề lý luận về CSSK

cho người dân và các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà

nước về chính sách BHYT.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu, tài liệu thứ cấp

Nghiên cứu Luật, các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Thông tư

hướng dẫn thực hiện chính sách BHYT của các Bộ ngành Trung ương; Chính

6

sách của tỉnh Quảng Nam, các tài liệu có liên quan đến chính sách BHYT đối

với đồng bào DTTS;

Các báo cáo của Huyện ủy, HĐND huyện, UBND huyện Nam Giang

về tình hình phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2015-2018; Báo cáo tình hình

thực hiện nhiệm vụ công tác CSSK trên địa bàn huyện Nam Giang các năm

2015, 2016, 2017, 2018 của Trung tâm Y tế huyện Nam Giang; Báo cáo tình

hình công tác BHXH các năm 2015, 2016, 2017, 2018 của BHXH huyện Nam

Giang; Báo cáo tình hình thực hiện cấp phát thẻ BHYT đối với đồng bào

DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang từ năm 2015-2018 của Phòng

LĐTBXH huyện Nam Giang.

- Phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm

Để đánh giá được hiệu quả của quá trình thực hiện chính sách BHYT,

tác giả luận văn tiến hành phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm các đối tượng

nghiên cứu. Việc phỏng vấn sâu được thực hiện phỏng vấn từng người ở các

độ tuổi, có trình độ, nghề nghiệp, giới tính và thành phần dân tộc khác nhau,

trong đó có cả người dân và người đang thực hiện chính sách BHYT. Thảo

luận nhóm sẽ được tiến hành với 30 người, chia thành 3 nhóm, gồm nhóm 1:

20 người DTTS, trong đó 15 người đang sử dụng thẻ BHYT và 05 người

không có thẻ BHYT; nhóm 2: 6 cán bộ làm công tác quản lý thẻ BHYT và

nhóm 3: 4 cán bộ làm công tác y tế.

Nội dung phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung: Tìm hiểu nhận thức

của người dân về chính sách BHYT và công tác truyền thông về chính sách

BHYT đến với người dân, những mong muốn, nguyện vọng của người dân

trong quá trình sử dụng thẻ BHYT trong KCB để khắc họa rõ nét.

Đối với cán bộ làm công tác quản lý thẻ BHYT, cán bộ y tế tìm hiểu về

qui trình, thủ tục đề nghị, cấp phát, quản lý thẻ bảo hiểm và CSSK đối với

đồng bào DTTS trên địa bàn, để từ đó thấy được những khó khăn, bất cập của

7

quá trình thực hiện chính sách để có sự điều chỉnh sao cho đầy đủ, phù hợp

hơn trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận văn

6.1. Ý nghĩa khoa học

- Ứng dụng một số lý thuyết nghiên cứu để tìm hiểu, lý giải vai trò, tầm

quan trọng và ý nghĩa của việc thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS.

- Cung cấp những tài liệu, kiến thức quan trọng và cần thiết về chính

sách BHYT đối với đồng bào DTTS. Cho thấy tầm quan trọng của chính sách

BHYT đối với vấn đề KCB, CSSK của đồng bào DTTS, từ đó góp phần nâng

cao chất lượng CSSK đối với đồng bào DTTS.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu đã chỉ ra những vấn đề cơ bản trong quá trình thực hiện

chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS dựa trên đánh giá thực trạng thực

hiện chính sách BHYT trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, để

từ đó nhận diện được những thành tựu, kết quả đã đạt được, những bất cập,

hạn chế của chính sách và quá trình thực hiện chính sách tại địa phương.

7. Kết cấu của luận văn

Kết cấu luận văn ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục tham khảo và

nội dung chính gồm có 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách và thực hiện chính sách BHYT

đối với đồng bào DTTS.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng

Nam trong thời gian tới.

8

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI

ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1. Khái niệm, vai trò và nguyên tắc thực hiện chính sách BHYT

1.1.1. Khái niệm chính sách công

Đến nay trên thế giới định nghĩa về chính sách công vẫn là một chủ đề

sôi động đang được tranh cải trong giới nghiên cứu.

Người đầu tiên sáng lập ra khoa học chính sách là Harold Lasswell và

sau đó được phát triển bởi các học giả khác ở Mỹ và Anh. Kể từ đó, khoa học

chính sách không ngừng phát triển, dần dần thay thế các nghiên cứu chính trị

truyền thống, đặc biệt là hợp nhất giữa nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn hoạt

động chính trị. Theo phương diện hoạt động chính trị thì chính sách công

phong phú, chính vì vậy, các nhà khoa học có nhiều cách tiếp cận để đưa ra

khái niệm về chính sách công. Cho dù tiếp cận theo nhiều cách khác nhau,

song các khái niệm đều thống nhất cho rằng chính sách là chương trình hành

động của nhà nước dùng để giải quyết những vấn đề chung vì lợi ích của đời

sống cộng đồng.

Thomas Dye đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công:

“Chính sách công là bất kỳ những gì mà nhà nước lựa chọn làm hoặc không

làm” [Thomas A.Birkland, An introduction to the policy process: theories

concepts, andmodels ofpublic making, M.E.Sharpe Armonk, NewwYork,

London, England, 2011].

Ở nước ta, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về chính sách công,

như: Viện chính trị học cho rằng: “Chính sách công là chương trình hành

động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng” [Viện

9

Chính trị học, Tập bài giảng chính trị học, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội,

2008]…cũng bàn về chính sách công theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải, cho

rằng: “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện

bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó

định hướng mục tiêu cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội

[Nguyễn Hữu Hải, Chính sách công-những vấn đề cơ bản, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 2014].

Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu, tác giả cũng đồng ý với khái niệm chính

sách công của PGS.TS. Hồ Việt Hạnh cho rằng: “Chính sách công là những

quyết định của chủ thể được trao quyền lực công nhằm giả quyết những vấn

đề vì lợi ích chung của cộng đồng” [Hồ Việt Hạnh, Bàn về khái niệm chính

sách công, Tạp chí Nhân lực KHXH số 12-2017]

1.1.2. Khái niệm về an sinh xã hội

An sinh xã hội là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến

bộ của một xã hội, một cộng đồng, một quốc gia, đó là một trong những

quyền và đòi hỏi chính đáng của con người. Ngay cả, Tổ chức Lao động quốc

tế (ILO) cũng thừa nhận vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của ASXH hiện

nay: “ASXH là một loạt các biện pháp công cộng, nhằm giải quyết những khó

khăn về kinh tế - xã hội bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp,

thương tật, tuổi già và chết; [ILO-1984, Tài liệu hội thảo ASXH, Bộ Lao

động-Thương binh và Xã hội, 2005].

Ở nước ta, ASXH nghĩa đó là bảo đảm người dân có việc làm, có thu

nhập, bảo đảm cuộc sống ấm no, an toàn, bình đẳng và hạnh phúc. Văn kiện

Đại hội XII của Đảng, chỉ rõ: “Bảo đảm an sinh xã hội là một trong các

những nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới; Tiếp tục hoàn thiện chính sách

ASXH phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; mở rộng đối tượng và

nâng cao hiệu quả của hệ thống ASXH đến mọi người dân; tạo điều kiện để

10

trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người

gặp rủi ro trong cuộc sống. Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền

ASXH của công dân… Đẩy nhanh tiến độ thực hiện BHYT toàn dân” [ Nghị

quyết Đại hội Đảng, lần thứ XII, Tapchicongsan.org.vn).

1.1.3. Khái niệm về bảo hiểm y tế

Khái niệm về BHYT, hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau trên thế

giới nhưng mục đích chung của BHYT đều giống nhau, đó là huy động nguồn

lực tài chính từ người tham gia BHYT, từ ngân sách Nhà nước, từ các nguồn

thu thuế của một số mặt hàng đặc biệt để chi trả chi phí KCB cho người tham

gia khi bị ốm đau, bệnh tật.

Ở nước ta, Theo Luật BHYT số 25/2008/QH12 do Quốc hội nước ta

ban hành ngày 14/11/2008, BHYT là: “Là hình thức bảo hiểm được áp dụng

trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước

tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của

Luật BHYT” [Luật BHYT, 2008] là loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản

lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để

chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chửa bệnh cho nhân dân.

Nguyên tắc tổ chức thực hiện chính sách BHYT của nước ta là bảo đảm

chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT khi ốm đâu, bệnh tật. Quỹ

BHYT và người tham gia BHYT cùng chi trả các chi phí khám bệnh, chữa

bệnh. Quỹ BHYT ở nước ta do Nhà nước được quản lý tập trung, thống nhất,

và được bảo hộ. BHYT ở nước gồm các hình thức:

BHYT bắt buộc: Ở Việt Nam, BHYT bắt buộc, gồm người làm việc

theo hợp đồng không xác định thời hạn, hoặc có xác định thời hạn từ 01 tháng

trở lên và người quản lý lao động, CB,CC,VC, LLVT…theo luật qui định

BHYT tự nguyện: được hiểu là hình thức BHYT do người tham gia tự

bỏ ra một khoản kinh phí nhất định để được hưởng các chế độ thụ hưởng của

11

BHYT. Mức đóng bảo hiểm y tế ở nước ta, bằng 4,5% mức lương tối thiểu

trên một tháng lương. Trường hợp tham gia BHYT theo hộ gia đình thì được

giảm trừ mức đóng.

Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới, đều thừa nhận quan

điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)

với cách tiếp cận BHYT là một nội dung thuộc ASXH và loại hình bảo hiểm

phi lợi nhuận, nhằm bảo đảm chi phí y tế cho người tham gia khi gặp rủi ro,

ốm đau, bệnh tật.

1.1.4. Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế

Thực hiện chính sách BHYT là quá trình tổ chức thực hiện chính sách

liên quan đến CSSK, được thể hiện qua việc đăng ký tham gia BHYT của

người dân, các địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức lập danh sách đề nghị,

tổng hợp danh sách, nhập dữ liệu phần mền quản lý đối tượng, in ấn thẻ

BHYT, ký kết hợp đồng mua BHYT, thanh quyết toán mua thẻ BHYT, chi

phí khám chữa bệnh BHYT và thủ tục KCB theo BHYT.... Ví dụ một số qui

định về thực hiện chính sách BHYT ở nước ta, cụ thể:

- Về thông tuyến KCB, từ ngày 01/01/2016 người tham gia BHYT

đăng ký KCB ban đầu tại trạm y tế tuyến xã, hoặc phòng khám đa khoa hoặc

bệnh viện tuyến huyện được quyền KCB tại các cơ sở này trong phạm vi một

tỉnh. Và người tham gia BHYT đăng ký KCB tại bất cứ cơ sở y tế nào khi

KCB tại bệnh viện tuyến huyện trên phạm vi toàn quốc đều được hưởng

quyền lợi BHYT. Qui định này tạo điều kiện cho người tham gia BHYT lựa

chọn nơi khám bệnh phù hợp với tình trạng bệnh tật mà vẫn được quỹ BHYT

thanh toán chi phí KCB trong phạm vi quyền lợi và mức hưởng BHYT, tăng

cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế , bỏ qua rào cản về thủ tục hành chính.

- Các loại thuốc thuộc quỹ BHYT thanh toán được mở rộng, tốt hơn

nhiều so với trước đây. Nhiều danh mục thuốc tốt được sử dụng trong lĩnh

12

vực điều trị ung thư được quỹ BHYT thanh toán; hàng chục loại thuốc điều trị

các bệnh mãn tính như tim mạch đều thuộc quỹ BHYT chi trả. Nói chung, các

thuốc tân dược và nhóm thuốc từ dược liệu thuộc phạm vi chi trả từ quỹ

BHYT theo danh mục của Bộ Y tế đã đáp ứng được nhu cầu điều trị của các

cơ sở khám, chữa bệnh.

Tham gia BHYT là cơ hội cho mỗi người dân được hưởng những

quyền lợi về CSSK, được tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản. Ngoài ra, BHYT

còn là sự chia sẻ với cộng đồng trên nguyên tắc lấy số đông bù đắp cho số ít,

góp phần giúp người nghèo phòng tránh rủi ro tài chính khi đau ốm. Diện bao

phủ BHYT càng mở rộng thì khả năng, mức độ bù đắp những rủi ro, tổn thất

về vật chất và tinh thần cho người bệnh càng được nâng cao.

1.1.5. Bảo hiểm y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số

Theo Luật BHYT 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014 sửa đổi, bổ sung một

số điều của BHYT 2008, nhóm đối tượng do ngân sách nhà nước đóng

BHYT: “Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh

sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại

vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại

xã đảo, huyện đảo” [Luật BHYT số 46/2014].

Để xác định quyền lợi và phân biệt đối tượng, vùng miền, địa bàn sinh

sống của đối tượng tham gia BHYT. Tại Quyết định số 1351/QĐ-BHXH ngày

16/11/2015 của BHXH Việt Nam qui định mã số ghi trên thẻ BHYT, như sau:

- Ô đầu tiên bên phải, mã đối tượng, viết tắt: dân tộc thiểu số “DT”

- Ô thứ hai kế tiếp, mã số ưu tiên, số(1-5): DTTS, đối tượng ưu tiên số 2

- Ô thứ ba kế tiếp, mã vùng (tỉnh,thành phố): Quảng Nam là “49”

- Ô thứ tư kế tiếp, mã định danh cá nhân, mười chữ số: “492 084 7177”

13

- Mã khu vực, được ký hiệu: K1 vùng người DTTS sinh sống có điều

kiện KT-XH khó khăn; K2 vùng người dân sinh sống có điều kiện KT-XH

đặc biệt khó khăn.

Hình 1.1. Thẻ bảo hiểm y tế đối với người dân tộc thiểu số

Nguồn: Phòng Lao động-TB&XH huyện Nam Giang, 2019

Ngày nay đời sống của đồng bào DTTS ở nước ta đã có nhiều đổi thay,

đời sống được nâng lên tuy nhiên ở nhiều nơi việc tiếp cận các dịch vụ y tế

của đồng bào DTTS vẫn còn khó khăn, hạn chế. Thực tế, đối với đồng bào

DTTS ở niềm núi, vùng có nhiều đồng bào DTTS sinh sống xét trên phương

diện cá nhân hay từng hộ gia đình thì chi phí CSSK là khoản chi rất lớn so với

thu nhập nên khi ốm đau nếu không có chính sách BHYT mà Nhà nước hỗ trợ

thì ngoài việc làm mất sức lao động, bệnh tật, còn gây ra nghèo đói và các vấn

đề khác dẫn đến kìm hãm sự phát triển KT-XH của địa phương.

Vì thế, Đảng và Nhà nước ta có chính sách ưu tiên cho đối tượng là

người DTTS được tham gia BHYT và được quỹ BHYT thanh toán chi phí khi

KCB điều đó đã thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước đối với

14

đời sống, sức khỏe cho đồng bào DTTS. Đồng thời đó cũng là một giải pháp

tạo ra sự công bằng trong CSSK nhân dân, bảo đảm ASXH.

1.1.6. Mục tiêu và vai trò của thực hiện chính sách BHYT đối với

vùng đồng bào DTTS

Bức tranh chung của các địa phương có nhiều đồng bào DTTS sinh

sống đó là nghèo khó, kinh tế - xã hội chậm phát triển, các địa phương không

có đủ nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, không có nguồn kinh phí

lớn để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực y, bác sĩ... nên tất cả đều trông chờ

vào nguồn ngân sách của Trung ương hỗ trợ.

Để thực hiện bao phủ BHYT toàn dân, từ năm 2016 đến năm 2020 theo

Quyết định số 1167/QĐ-TTg ngày 28/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về

việc điều chỉnh giao chỉ tiêu thực hiện BHYT giai đoạn 2016-2020, cụ thể

phấn đấu năm 2019 đạt tỷ lệ 88,1% và đến năm 2020 là 90,1% người tham

gia BHYT trên tổng dân số cả nước, trong đó có đồng bào DTTS. Trong

những năm qua, chính sách BHYT đối với vùng đồng bào DTTS đã được

Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương quan tâm bố trí nguồn lực đầu tư các

trạm y tế xã, trung tâm y tế huyện, mua sắm trang thiết bi y tế cho các vùng ,

miền có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, góp phần bảo đảm ASXH, xóa đói

giảm nghèo, phát triển bền vững.

Hiện nay, theo Luật BHYT 2018, có thể khẳng định phần lớn người

đồng bào DTTS (gần 90% đồng bào DTTS) đã được Nhà nước hỗ trợ mua thẻ

BHYT, sự quan tâm, chăm lo đó đã có tác động tích cực đến đời sống, sức

khỏe của đồng bào DTTS, góp phần cải thiện, nâng cao sức khỏe của đồng

bào. Ngoài ra, chính sách BHYT đã làm thay đổi quan điểm, nhận thức của

đồng bào DTTS trong việc CSSK bản thân, gia đình. Qua đó giúp đồng bào

DTTS có ý thức tự giác, nhận thức đúng về khoa học, không còn như trước

15

đây mỗi khi ốm đau thường tìm đến thầy lang, bà cúng để cúng, hái lá rừng để

uống đến khi bệnh nặng mới chuyển đến bệnh viên.

1.1.7. Nguyên tắc cơ bản trong chính sách BHYT và thực hiện

chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS

Chính sách BHYT luôn luôn thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản nhất

định, tuân thủ theo luật BHYT qui định. Đó là:

- Nguyên tắc cộng đồng, bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham

gia BHYT.

- Mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương,

tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực

hành chính (sau đây gọi chung là mức lương tối thiểu).

- Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm

vi quyền lợi của người tham gia BHYT.

- Chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT do quỹ BHYT và người tham

gia BHYT cùng chi trả.

- Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch,

bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ.

Đối với đồng bào DTTS, việc tổ chức thực hiện chính sách BHYT cũng

phải tuân thủ các qui định trên, không ngoài những nguyên tắc mà Luật

BHYT đã ghi rõ. Tuy nhiên, đối với từng vùng, từng dân tộc, căn cứ các điều

kiện cụ thể, có thể có một số ưu tiên trong quá trình thực hiện như đối với các

trường hợp chuyển viện chi phí vượt mức hỗ trợ qui định, thủ tục hồ sơ điều

trị bệnh do họ tên chưa trùng khớp, sự quan tâm chăm sóc bệnh của đội ngũ y,

bác sĩ …

DTTS là các nhóm người có những sự khác biệt về một phương diện

nào đó với cộng đồng người chung trong xã hội. Họ có thể khác biệt với

16

nhóm người đa số về phương diện ngôn ngữ và văn hóa, khác biệt về nhận

thức, về tôn giáo, điều kiện kinh tế - xã hội.

Nước ta là một đất nước đa dân tộc, cộng đồng 54 dân tộc anh em cùng

sinh sống đoàn kết, cùng nhau tạo nên một cộng đồng dân tộc với bản sắc văn

hóa đặc sắc, xây dựng đất nước giàu đẹp. Thực hiện chính sách BHYT đối với

đồng bào DTTS, thời gian qua, phải thừa nhận là đã đạt được kết quả rất tốt,

tỷ lệ đồng bào DTTS được cấp thẻ BHYT rất cao, phần lớn đồng bào khi ốm

đau đều đến các cơ sở y tế để được CSSK. Tuy nhiên, do phong tục tập quan,

văn hóa, trình độ dân trí thấp và nhận thức chưa đầy đủ nên vẫn còn tình trạng

đồng bào DTTS khi ốm đau thay vì đến bệnh viện, trạm y tế thì lại mê tín dị

đoan tìm đến các thầy cúng, thầy bói trong làng chữa bệnh. Ngoài ra, do điều

kiện giao thông cách trở, xa xôi, miền núi, biên giới, điều kiện gia đình khó

khăn khi bị bệnh năng, bệnh hiểm nghèo, dù rằng có thẻ BHYT nhưng bà con

không thể đi đến các bệnh viện lớn, nơi có các trang thiết bị y tế tiến tiến, đội

ngũ y, bác sĩ giỏi và các dịch vụ y tế khác tốt hơn.

Như vậy, để thực hiện chính sách BHYT đối với với đồng bào DTTS

ngoài nguyên tắc chung thì cần tìm hiểu văn hóa, cuộc sống sinh hoạt, phong

tục, tín ngưỡng và điều kiện KT-XH của đồng bào...

1.2. Hệ thống các văn bản của Nhà nước về chính sách BHYT

Chính sách BHYT ở Việt Nam được thực hiện từ năm 1992 theo Nghị

định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính

phủ). Năm 1998, theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998, BHYT

Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất hệ thống cơ quan BHYT từ

Trung ương đến địa phương và BHYT ngành để quản lý và thực hiện chính

sách BHYT. Ngày 01/01/2003, BHYT sát nhập vào BHXH Việt Nam và

BHXH Việt Nam là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách

BHYT.

17

Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách mới

về BHYT. Các chính sách BHYT đã từng bước được đổi mới, bổ sung, hoàn

thiện gắn kết hơn với hệ thống ASXH, hướng vào phát triển con người, công

bằng xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ

Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH,

BHYT giai đoạn 2012-2020 và Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017

của Ban chấp hành TW (khóa XII) về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc

và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

Trên tinh thần đó, để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, ngày

14/11/2008, Quốc hội nước CHXHCN khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua Luật

BHYT số 25/2008 và ngày 13/6/2014, Quốc hội nước CHXHCNVN khóa

XIII, tại kỳ họp thứ 7 thông qua Luật BHYT số 46/2014/QH13 quy định về

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT 2008. Chính phủ có Nghị định

số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số điều của luật Bảo hiểm y tế; Các Bộ Y tế -Bộ Tài chính có Thông tư

số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 về việc hướng dẫn thực hiện

BHYT; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội có Thông tư số 25/2016/TT-

BLĐTBXH ngày 26/07/2016 về hướng dẫn xác định, quản lý đối tượng tham

gia BHYT theo quy định tại Khoản 4, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật BHYT.

Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 về việc KCB cho người nghèo, đây là

văn bản đầu tiên về chính sách hỗ trợ KCB của Chính phủ đối vói người

nghèo và Quyết định số 538/2013/QĐ-TTg ngày 21/1/2013 về mở rộng đối

tượng tham gia BHYT. Trong suốt thời gian qua, chính sách BHYT đã khẳng

định tính đúng đắn của một chính sách ASXH do Nhà nước tổ chức quản lý,

phù hợp với tiến trình đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước và góp phần đảm

18

bảo sự công bằng trong KCB, CSSK, tiếp cận các dịch vụ y tế của người dân,

trong đó có đồng bào DTTS.

1.3. Các nội dung thực hiện chính sách BHYT

Để tổ chức điều hành có hiệu quả công tác chính sách BHYT, trước

tiên cần tuân thủ các bước tổ chức thực hiện cơ bản sau dây:

Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách BHYT

Kế hoạch triển khai chính sách BHYT được xây dựng trước khi đưa

chính sách vào cuộc sống, triển khai chính sách BHYT từ trung ương đến địa

phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện.

Kế hoạch triển khai thực thi chính sách công bao gồm những nội dung

cơ bản sau:

+ Kế hoạch về tổ chức, điều hành;

+ Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực;

+ Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện;

+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách;

+ Dự kiến những nội quy, quy chề về tổ chức, điều hành; về trách

nhiệm, nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà

nước tham gia: tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng,

kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách BHYT, v.v

+ Dự kiến kế hoạch thực thi ở cấp nào do lãnh đạo cấp đó xem xét

thông qua. Sau khi được quyết định thông qua, kế hoạch thực hiện chính sách

BHYT mang giá trị pháp lý, được mọi người chấp hành thực hiện. Việc điều

chỉnh kế hoạch cũng do cấp có thẩm quyền thông qua kế hoạch quyết định.

Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách BHYT

Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn với quan nhà nước và

các đối tượng thực thi chính sách BHYT: Phổ biến, tuyên truyền chính sách

tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu

19

rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách

trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách,... để họ

tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời còn giúp cho

mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi chính sách BHYT

nhận thức đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã

hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện

mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực

hiện chính sách được giao.

Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách BHYT

Muốn tổ chức thực thi chính sách BHYT có hiệu quả phải tiến hành

phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa

phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách BHYT và các quá trình ảnh

hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách.

Trong thực tế thường hay phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan

phối hợp thực hiện một chính sách cụ thể nào đó. Chính sách có thể tác động

đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại liên quan đến

nhiều yêu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối hợp

chúng lại để đạt yêu cầu quản lý.

Hoạt động phân công, phối hợp cần được thực hiện theo tiến trình, có

kế hoạch một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn

định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.

Bước 4: Duy trì chính sách BHYT

Đây là những hoạt động nhằm bảo đảm cho chính sách tồn tại được và

phút huy tác dụng trong môi trường thực tế. Muốn vậy phải có sự đồng tâm,

hợp lực của cả người tổ chức, người thực thi và môi trường tồn tại. Đối với

các cơ quan nhà nước - người chủ động tổ chức thực thi chính sách phải

thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và

20

toàn xã hội tích cực tham gia thực thi chính sách BHYT.

Nếu việc thực thi chính sách BHYT gặp phải những khó khăn do môi

trường thực tế biến động, thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ

quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính

sách công. Đồng thời các cơ quan nhà nước chủ động điều chỉnh chính sách

cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Trong một chừng mực nào đó, để bảo đảm

lợi ích chung của xã hội, các cơ quan nhà nước có thể kết hợp sử dụng biện

pháp hành chính để duy trì chính sách.

Những hoạt động đồng bộ trên đây sẽ góp phần tích cực vào việc duy

trì chính sách trong đời sống xã hội.

Bước 5: Điều chỉnh chính sách BHYT

Điều chỉnh chính sách BHYT được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có

thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình

hình kinh tế.

Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thi được quyền điêu

chỉnh, bổ sung chính sách. Nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp,

cơ chế, chính sách diễn ra rất năng động, linh hoạt; vì thế cơ quan nhà nước

các ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế, chính sách để thực

hiện có hiệu quả chính sách, miễn là không làm thay đổi mục tiêu chính sách

BHYT.

Một số nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: Để

chính sách tiếp tục tồn tại chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện

mục tiêu, hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế chứ không

cho phép điều chỉnh mà làm thay đổi mục tiêu - nghĩa là làm thay đổi chính

sách, thi coi như chính sách đó bị thất bại.

Bước 6: Theo dõi. kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách BHYT

Các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường ở các

21

vùng, địa phương không giống nhau, cũng như trình độ, năng lực tổ chức điều

hành của cán bộ, công chúc trong các cơ quan nhà nước không đồng đều, do

vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành theo dõi, kiểm tra,

đôn đốc việc thực thi chính sách BHYT. Qua kiểm tra, đôn đốc, các mục tiêu

và biện pháp chủ yếu của chính sách lại được khẳng định để nhắc nhở mỗi

cán bộ, công chức, mỗi đối tượng thực thi chính sách BHYT tập trung chú ý

những nội dung ưu tiên trong quá trình thực thi chính sách BHYT. Căn cứ kế

hoạch kiểm tra, đôn đốc đã dược phê duyệt, các tổ chức, cá nhân có trách

nhiệm thục hiện hoạt động kiểm tra có hiệu quả.

Kiểm tra, theo dõi sát sao tình hình tổ chức thực thi chính sách BHYT,

vừa kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách công, vừa chân chỉnh công tác tổ

chức thực thi chính sách BHYT, giúp cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả

thực hiện mục tiêu chính sách.

Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Đánh giá, tổng kết trong bước tổ chức thực thi chính sách BHYT được

hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính

sách của các đối tượng thực thi chính sách BHYT.

Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điền hành thực

thi chính sách BHYT là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Ngoài

ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị - xã

hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách BHYT. Cơ sở để đánh

giá tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách BHYT trong các

cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế. Đồng

thời kết hợp sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ

chức xã hội và các văn bản quy phạm khác đế xem xét tình hình phối hợp chỉ

đạo, điều hành thực thi chính sách BHYT của các tổ chức chính trị và xã hội

với nhà nước.

22

Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo - điều hành của các cơ

quan nhà nước, chúng ta cần xem xét, đánh giá việc thực thi của các đối

tượng tham gia thực thi chính sách BHYT bao gồm các đối tượng thụ hưởng

lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã

hội với tư cách là công dân. Thước đo đánh giá kết quả thực thi của các đối

tượng này là tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp

hành những quy định về cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách trong từng điều kiện về

không gian và thời gian

Tiểu kết chương 1

Chính sách BHYT và thực hiện chính sách BHYT là một nhiệm vụ

quan trọng của đất nước. Để làm cơ sở cho việc phân tích luận giải vai trò của

thực hiện chính sách BHYT, trong đó có chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS ở nội dung Chương 1 của luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận của chính

sách công, BHYT vùng đồng bào DTTS bao gồm các khái niệm về chính sách

công, BHYT, ASXH…Vai trò của chính sách, mục tiêu, qui trình và nguyên

tắc thực hiện coi đó là công cụ cơ bản để định hướng phân tích nội dung. Các

nội dung về lý luận này là cơ sở để tác giả luận văn phân tích, luận giải làm rõ

thực trạng thực hiện chính sách BHYT ở Chương 2.

Từ đó, có thể thấy rằng chính sách BHYT đã trở thành chính sách xã

hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống ASXH, là cơ chế tài chính quan

trọng giúp người dân khi bị ốm đau, giảm thiểu chi phí điều trị bệnh, được

quỹ BHYT thanh toán chi trả các khoản chi phí…Đây được đánh giá là một

chính sách ưu việt, thể hiện sự công bằng, sự san sẻ của cộng đồng.

23

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ

ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

Ở HUYỆN NAM GIANG, TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân tộc, dân cư

- Nam Giang là huyện miền núi cao nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam,

cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 120 km về phía tây bắc, phía đông giáp huyện Đại Lộc

và Nông Sơn; phía tây giáp huyện Đắc Chứng, tỉnh Sê Kông của nước

CHDCND Lào; phía nam giáp huyện Phước Sơn và huyện Đắc Lây, tỉnh Kon

Tum; phía bắc giáp huyện Đông Giang và Tây Giang.

- Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 1.842,88 km2, địa hình có nhiều

núi cao, rừng nguyên sinh, đa dạng hệ sinh thái, sông suối dày đặc. Khí hậu

nhiệt đới, chỉ có 2 mùa mưa và nắng. Mùa mưa thường vào tháng 9-12 trong

năm với lượng mưa vào khoảng 4.500 mm/năm -5.300 mm/năm. Từ tháng

giêng đến tháng 8, thời tiết nắng nóng.

- Huyện có tổng dân số là 26.893 nhân khẩu, trong đó người dân tộc

thiểu số là 22.361 nhân khẩu, chiếm tỷ lệ 83,14% dân số, trong đó, đồng bào

DTTS là 22.361 người, chiếm 83,15% dân số (dân tộc Cơ tu 16.726 người,

dân tộc Giẻ Triêng 5.195 người và một số dân tộc thiểu số khác là 440 người),

dân cư phân bổ không đồng đều.

- Huyện có 01 thị trấn và 11 xã thuộc xã đặc biệt khó khăn, có 58/63

thôn khó khăn và đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày

28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó

khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I, vùng dân tộc thiểu số và miền núi,

giai đoạn 2016-2020.

24

Hình 2.1. Bản đồ huyện Nam Giang.

Nguồn: UBND huyện Nam Giang, năm 2019

2.1.2. Điều kiện kinh tế-xã hội

- Nông nghiệp:

Với địa hình cư trú gắn bó với thiên nhiên nên phần lớn đồng bào

DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang làm nương rẫy là chính. Trong truyền

thống, qui mô canh tác của đồng bào DTTS tỉnh Quảng Nam thường manh

mún, nhỏ lẻ, phương thức sản xuất lạc hậu, năng suất thấp, chủ yếu dựa vào

thời tiết. Tuy nhiên, những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo của HĐND, UBND

tỉnh Quảng Nam việc đẩy mạnh chuyển đổi mô hình sản xuất, đặc biệt là chọn

cây giống phù hợp với thổ nhưỡng đất đai, khí hậu và con vật nuôi có giá trị

kinh tế đã mang lại hiệu quả bước đầu cho toàn thể người dân trong huyện,

trong đó có đồng bào các DTTS. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp thủy sản

hàng năm tăng bình quân 6,36% đạt chỉ tiêu Nghị quyết đại hội Đảng bộ

huyện XIX (2015-2020) đề ra, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật

25

nuôi gắn với thực hiện xây dựng nông thôn mới. Sản xuất nông, lâm nghiệp

tiếp tục duy trì ổn định, sản lượng lương thực hàng năm đều tăng, nếu như

năm 2014 đạt 6.331 tấn/năm đến năm 2018 đạt 6.833 tấn. Diện tích gieo trồng

cây lương thực có hạt tăng từ 3.568 ha/năm 2014 lên 3.611 ha/năm 2018.

Tổng đàn gia súc tăng từ 16.021 con/năm 2014 lên 17.028 con/năm 2018.

Toàn huyện có 1.337 ha cao su đại điền, trong đó diện tích đã đến thời kỳ khai

thác mủ là 400 ha. Giá trị sản xuất của ngành, năm 2014 đạt 154,88 tỷ đồng

đến năm 2018 đạt 181,24 tỷ đồng.

- Công nghiệp:

Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có nhiều chuyển biến mạnh

rõ nét. Trong đó có các hệ thông thủy điện lớn, nhỏ như Sông Bung 2, Sông

Bung 4, Sông Bung 4A, Sông Bung 5, Sông Bung 6 và Đắc Pring đã đi vào

hoạt động, hòa vào lưới điện quốc gia; nhà máy Xi măng Xuân Thành (Thai

Group) với công suất 2 triệu tấn/năm hoạt động từ năm 2013. Cụm công

nghiệp thôn Hoa, thị trấn Thạnh Mỹ với tổng diện tích qui hoạch 37,2 ha và

Cụm công nghiệp thôn CàĐăng, xã TaBhing đang kêu gọi, thu hút doanh

nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng. Tổng giá trị sản lượng công nghiệp trên địa bàn

huyện qua các năm luôn tăng mạnh, năm 2014 đạt 152,1 tỷ đồng thì đến năm

2018 đạt 417,8 tỷ đồng, tăng 247,68%.

- Đời sống của đồng bào DTTS: Nhờ các chính sách của Nhà nước hỗ trợ, đời sống của đồng bào DTTS

những năm gần đây đã có nhiều thay đổi, khởi sắc và được cải thiện, nâng cao

hơn. Tuy nhiên, đi sâu vào đời sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào DTTS trên

địa bàn huyện đa số còn nhiều khó khăn, theo số liệu điều tra hộ nghèo năm

2018, toàn huyện có 2.947 hộ đồng bào DTTS thuộc diện hộ nghèo, chiếm tỷ

lệ lớn (gần 96%), thu nhập bình quân của đồng bào DTTS thấp, ước khoảng

4-5 triệu đồng/tháng, nguồn thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp chủ yếu

26

là trồng lúa rẩy, bắp, đậu, sắn, chuối ( làm nương rẩy) với diện tích nhỏ, năng

xuất thấp.

Hiện nay, các chính sách an sinh của Nhà nước hỗ trợ cho đồng bào

DTTS tương đối nhiều, như hỗ trợ chính sách vay vốn tín dụng, chính sách

nhà ở, chính sách HSSV con đồng bào DTTS, chính sách BHYT…Qua đó, đã

góp phần làm thay đổi, giúp bà con ổn định cuộc sống rất nhiều. Tuy nhiên,

các chính sách chưa mạnh, chưa đủ để tác động tích cực đến giảm nghèo bền

vững.

- Trình độ dân trí thấp:

Theo kết quả điều tra cung cầu lao động, trình độ học vấn người DTTS

trên địa bàn huyện Nam Giang, đối với 18.816 người từ 15- 60 tuổi, năm

2019 như sau: Số người không biết đọc, biết viết là: 1.408 người, chiếm tỷ lệ

7,48%; số người mới học hết Tiểu học là: 3.938 người, chiếm tỷ lệ 20,29%;

số người học hết Trung học cơ sở là: 5.260 người, chiếm tỷ lệ 27,95%.

Với trình độ người lao động không biết đọc, không biết viết và mới chỉ

học qua tiểu học, chiếm tỷ lệ trên 28% người lao động trong độ tuổi, thì chắc

chắn vấn đề tư duy, nhận thức của người lao động nói chung, trong đó có

đồng bào DTTS nói riêng trên địa bàn huyện Nam Giang là hạn chế rất nhiều.

Do đó, việc tiếp thu, hiểu và nắm các chính sách của Nhà nước, đặc biệt là

chính sách BHYT của người DTTS là khó khăn, thông tin sẽ không đầy đủ.

Từ đó, dẫn đến tình trạng đồng bào DTTS chủ quan, thiếu sự quan tâm đến

các quyền lợi cá nhân, gia đình, cộng đồng về CSSK. Đó là một trong nhưng

nguyên nhân dẫn đến cấp phát thiếu thẻ BHYT, cấp phát chậm trễ thẻ BHYT,

hoặc in thẻ BHYT sai sót thông tin diễn ra trong nhiều năm chưa được khắc

phục triệt để, tin. Số lượng người DTTS có thẻ BHYT nhưng không đến cơ sở

y tế KCB vẫn còn sảy ra, việc quản lý thẻ BHYT dẫn đến hư hỏng, mất mát

trong người DTTS khá phổ biến…

27

- Lao động-việc làm

Lực lượng lao động là người đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam

Giang tương đối đông, chiếm gần 86%, nhưng có việc làm ổn định chiếm tỷ

lệ thấp, phần lớn lao động tập trung làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm

nghiệp với trình độ thấp, thu nhập thấp ở quê. Số lượng lao động được giải

quyết việc theo trình độ chuyên môn được đạo tạo là hạn chế, đa số lao động

không muốn đi xa, hoặc chưa mạnh dạn, sợ va chạm, chưa chịu khó…lao

động làm trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng. dụ vụ là rất ít.

2.1.3. Cơ sở vật chất (điện, đường,trường, trạm, đội ngũ y bác sĩ)

Trong những năm qua, huyện Nam Giang đã triển khai kịp thời và sử

dụng có hiệu quả các nguồn lực của Trung ương, tỉnh và ngân sách huyện cho

đầu tư phát triển, trong đó ưu tiên nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ

tầng thiết yếu về giao thông, thủy lợi, hệ thống công trình điện phục vụ sản

xuất và sinh hoạt, trạm y tế tuyến xã… đã góp phần không nhỏ thúc đẩy phát

triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, nâng cao đời sống nhân

dân, làm thay đổi diện mạo nông thôn trên địa bàn huyện. Từ năm 2015-2018,

tổng kinh phí đầu tư các dự án hỗ trợ sản xuất thuộc Chương trình 135 là

15.301 tỷ đồng; Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg 7.420 tỷ đồng; Quyết định

số 755/QĐ-TTg 3.775 tỷ đồng; Quyết định số 33/QĐ-TTg là 2.976 tỷ đồng;

Chương trình mục tiêu giảm nghèo 4.556 tỷ đồng và Nghị quyết số 12/NQ-

HĐND tỉnh Quảng Nam hỗ trợ các hạng mục tái định cư 17.920 tỷ đồng.

Hệ thống giao thông của huyện Nam Giang tương đối thuận lợi so với

các huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, có nhiều tuyến quốc lộ đi qua. Cụ

thể, đường mòn Hồ Chí Minh đi qua trung tâm thị trấn Thạnh Mỹ và xã Cà

Dy dài khoảng 50km; có đường quốc lộ Đông Trường Sơn, có điểm xuất phát

đầu từ thị trấn Thạnh Mỹ, nối đường Hồ Chí Minh đi qua huyện Nông Sơn,

dài khoảng 30km; có tuyến quốc lô 14B, điểm xuất phát từ thành phố Đà

28

Nẵng đến thị trấn Thạnh Mỹ, nối đường Hồ Chí Minh, dài khoảng 60km; có

tuyến quốc lộ 14D, điểm xuất phát đầu từ xã Cà Dy, đi qua các xã trên địa bàn

huyện đến Cửa khẩu Đắc Ốc, thuộc xã La Dêê, chiều dài trên 74km. Bên cạnh

đó, huyện Nam Giang cũng có đường sông dài khoảng 20km, thuộc hệ thống

sông Thanh, từ thị trấn Thạnh Mỹ đi huyện Đại Lộc và ngược lại.

Huyện có 26 đơn vị trường học, cơ sở hạ tầng trường lớp được đầu tư

xây dựng kiên cố, đảm bảo phục vụ tốt công tác giảng dậy, học tập cho giáo

viên, học sinh trên địa bàn, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, đến nay

toàn huyện có 12/26 trường đạt chuẩn quốc gia. Hàng năm, số lượng học sinh

hoàn thành chương trình học của các em học sinh từ bậc mần non đến THPT

đạt trên 90%, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT tăng cao.

Lĩnh vực CSSK nhân dân được quan tâm đầu tư đúng mức và có nhiều

chuyển biến tích cực. Hiện nay, huyện có 01 trung tâm y tế cấp huyện, với 5

khoa (khoa khám, khoa cấp cứu, khoa ngoại - nhi, khoa nội, khoa truyền

nhiễm) với 153 giường bệnh; ngoài ra, có 01 phòng khám khu vực và 12 trạm

y tế xã, trong đó có 6 trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đội ngũ y, bác

sĩ, tính đến cuối năm 2018 là 154 người, trong đó:

- Tổng số bác sĩ là 33/154 người, chiếm tỷ lệ 21,56 %, đạt tỷ lệ 12,69

bác sĩ/10.000 dân.

-Tổng số dược sỹ là 04 người, đạt tỷ lệ 1,5 dược sĩ/10.000 dân.

-Tỷ số điều dưỡng, hộ sinh và kỹ thuật viên y/1 bác sĩ là 1,4 người (qui

định 3 - 3,5 người/1bác sĩ).

- Giường bệnh viện/10.000 dân: 80 giường/26.000 người, đạt tỷ lệ là

30,76 giường/10.000 dân.

- Số cán bộ làm công tác KCB là 117/154 người, đạt tỷ lệ 75,57%.

- Số cán bộ công tác dược là 18/154 người, đạt tỷ lệ 11,68%.

- Số cán bộ làm công tác dự phòng là 8/154 người, chiếm tỷ lệ 5,19%.

29

- Số cán bộ làm việc tại 12 trạm y tế xã, thị trấn là 52 người (trung bình

4,33 cán bộ/trạm y tế) và có 8/12 trạm y tế có bác sĩ.

- Trạm y tế có nữ hộ sinh/y sĩ sản nhi là 9/12 trạm, đạt tỷ lệ 75% v.

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào dân

tộc thiểu số ở huyện Nam Giang, từ năm 2015-2018.

2.2.1. Thực trạng triển khai thực hiện chính sách BHYT

2.2.1.1. Thực trạng ban hành các văn bản thực hiện chính sách BHYT

Sau khi Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ban, ngành Trung ương và tỉnh

Quảng Nam có văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách BHYT đối với người

dân. Đảng bộ, chính quyền huyện Nam Giang nhận thức sâu sắc về ý nghĩa và

tầm quan trọng của chính sách BHYT đối với nhân dân, trong đó có chính

sách BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang. Vì vậy,

Huyện ủy, UBND huyện Nam Giang đã xây dựng Nghị quyết, Chương trình,

Đề án về CSSK nhân dân trên địa bàn huyện Nam Giang, cụ thể:

- Nghị quyết số 06/NQ-HU ngày 16/11/2007 của Huyện ủy về việc

nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và CSSK nhân dân giai đoạn 2007 -

2010 và những năm tiếp theo.

- Chương trình số 50-CTr/HU ngày 16/3/2018 của Huyện ủy Nam

Giang về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương

(khóa XII) về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe

nhân dân trong tình hình mới.

- Quyết định số 954/QĐ-UBND ngày 09/6/2016 của UBND huyện

Nam Giang về Đề án xây dựng xã đạt chuẩn tiêu chí quốc gia về y tế trên địa

bàn huyện Nam Giang giai đoạn 2016 - 2020.

Để chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách BHYT đối với

đồng bào DTTS đi vào cuộc sống, UBND huyện Nam Giang đã ban hành Kế

hoạch, các văn bản hướng dẫn, đồng thời chỉ đạo giao ngành LĐTBXH huyện

30

chủ trì, phối hợp với BHXH huyện, Trung tâm Y tế huyện và UBND các xã,

thị trấn rà soát lập danh sách đồng bào DTTS trên địa bàn huyện được Nhà

nước mua thẻ BHYT và quán triệt các ngành cần thực hiện chặt chẽ, đồng bộ

nhưng đúng qui định, theo trình tự đối tượng kê khai, thôn xác nhận, UBND

xã tổng hợp, kiểm tra, tổng hợp xác nhận danh sách gửi UBND huyện (qua

Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội huyện) tiếp nhận, tổ chức kiểm tra,

thẩm định, đối chiếu hồ sơ quản lý, xác nhận danh sách, hồ sơ và gửi cơ quan

BHXH huyện, nhập dữ liệu phần mền quản lý đối tượng và in thẻ BHYT.

Đồng thời, UBND huyện Nam Giang kết hợp với Sở Y tế tỉnh Quảng

Nam, Sở LĐTB&XH tỉnh Quảng Nam tổ chức tập huấn, hướng dẫn các địa

phương về Luật BHYT; Thông tư số 41/2013/TTLT- BYT-BTC ngày

24/11/2014 của Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện BHYT; Thông tư

số 25/2016/TT-BLĐTBXH ngày 26/07/2016 của Bộ Lao động, Thương binh

và Xã hội hướng dẫn xác định, quản lý đối tượng tham gia BHYT theo quy

định tại Khoản 4, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT

và quy trình, thủ tục hồ sơ kê khai xin cấp thẻ BHYT đối với đồng bào DTTS,

cách thức ghi chép thông tin cá nhân như họ tên, giới tính, năm sinh, địa chỉ,

dân tộc.

2.2.1.2. Thực trạng công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHYT

Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách

BHYT đối với người dân đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ,

chính quyền huyện Nam Giang. Chính vì vậy, chính sách BHYT đối với

người dân, trong đó có đồng bào DTTS trên địa bàn huyện được các cấp ủy

đảng, chính quyền, mặt trận hội đoàn thể của huyện Nam Giang quan tâm,

chú trọng, thực hiện chính sách đầy đủ.

Công tác tuyên truyền chính sách BHYT được thực hiện theo nhiều

cách, như tuyên truyền thông qua Hội, họp các cấp từ huyện đến xã; tập huấn

31

nghiệp vụ cho cán bộ quản lý thực hiện chính sách BHYT của huyện, của xã.

Để các nội dung của chính sách, pháp luật BHYT và quyền lợi ích của người

tham gia BHYT được truyền tải đến với mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là

đồng bào DTTS nắm bắt và hiểu biết. UBND huyện Nam Giang và các cơ

quan chuyên môn thực hiện chính sách BHYT đã tổ chức các cuộc Đối thoại

nhân dân để giải thích rõ hơn, đầy đủ hơn.

Ngoài ra, chính sách BHYT cũng được các tổ chức, hội đoàn thể của

huyện quan tâm, chia sẽ. Nhờ đó, tại các cuộc đối thoại nhân dân do Dân vận

huyện ủy tổ chức; Đối thoại, phản biện của UBMTTQVN huyện tổ chức vấn

đề chăm sóc sóc khỏe nhân dân, cấp phát thẻ BHYT cho người dân luôn được

quan tâm, chất vấn nhiếu nhất. Đặc biệt tại các Hội nghị tiếp xúc cử tri của

đại biểu Hội đồng nhân dân huyện hay các buổi họp dân, sinh hoạt của Hội

Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên ở các xã, thị trấn, thôn, bản

trên địa bàn huyện. Các thông tin về chính sách BHYT cũng được đăng tải

trên trang thông tin của BHXH huyện, trên hệ thống truyền thanh của xã, đài

truyền hình của huyện…qua đó góp phần chuyển tải được các nội dung về

chính sách BHYT đến với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện. Bên cạnh đó,

các ngành của huyện thường xuyên tổ chức tuyên truyền lưu động, phát tờ rơi,

cụ thể Phòng LĐTBXH huyện trên 50 đợt; BHXH Nam Giang trên 10 đợt;

Trung tâm Y tế trên 20 đợt; BHXH Nam Giang cũng đã in trên 2.000 tờ rơi về

chính sách BHYT.

Công tác tuyên truyền thời gian qua trên địa bàn huyện đạt được kết

quả, đó là nhờ công tác tuyên truyền về chính sách BHYT qua nhiều kênh,

góp phần giúp đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang hiểu, nắm và

nhận thức đầy đủ hơn về ý nghĩa nhân văn, tầm quan trọng của chính sách

BHYT đối với cuộc sống, đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe của đồng bào.

32

Từ đó, có ý thức trách nhiệm bảo quản, giữ gìn thẻ BHYT và sử dụng thẻ

đúng mục đích.

Bà Zơ Râm Nhoi, 70 tuổi ở thôn Dung, thị trấn Thạnh Mỹ cho biết.

Trước đây, bà ít quan tâm đến chính sách BHYT, mỗi lần bị cảm nhẹ bà

thường tìm đến các thầy cúng trong thôn để điều trị bệnh. Vừa qua, khi bị

bệnh đau cột sống lưng bà đến Trung tâm y tế huyện khám bệnh nhưng không

có thẻ BHYT, do bà làm mất thẻ BHYT, sau đó bà phải liên hệ các cơ quan

liên quan đề nghị cấp lại thẻ BHYT. Sau lần đó bà mới thấy được tầm quan

trọng của thẻ BHYT trong KCB. Nhân dịp, có đợt đối thoại nhân dân về chính

sách ASXH của Phòng LĐTBXH huyện tổ chức, bà đã đến dự và đặt nhiều

câu hỏi liên quan đến chính sách BHYT, trong đó bà đặc biệt quan tâm chính

sách BHYT đối với đồng bào DTTS sinh sống ở thị trấn Thạnh Mỹ. Bà đã

được cán bộ LĐTBXH huyện hướng dẫn, giải thích về trường hợp của bà là

người DTTS sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nên

được Nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT, khi ốm đau được CSSK, điều

trị nội trú và ngoại trú, được quỹ BHYT thanh toán chi phí KCB. Trường hợp

bệnh nặng chuyển tuyến trên được hỗ trợ chi phí vận chuyển, trong quá trình

điều trị nội trú được hỗ trợ tiền ăn.

2.2.1.3. Thực trạng công tác tổ chức thực hiện

Công tác tổ chức bộ máy, nhân sự thực hiện chính sách BHYT được

các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận đoàn thể của huyện quan tâm, chú

trọng, thường xuyên xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, nâng dần về

chất lượng để cơ bản đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ, trong đó có các nhiệm vụ

liên quan đến đồng bào DTTS trong tình hình mới. Đây thật sự là yếu tố quyết

định đến thành công và thất bại việc thực hiện chính sách BHYT đối với đồng

bào DTTS trên địa bàn huyện. Chính vì vậy, Nghị quyết đại hội Đảng bộ

huyện lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015-2020, coi việc xây dựng và nâng cao chất

33

lượng đội ngũ cán bộ là một trong ba nhiệm vụ đột phá cần tập trung lãnh

đạo, chỉ đạo thực hiện trong tình hình mới.

Nam Giang là một huyện miền núi, ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên

nơi có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, nên cũng gặp khó khăn trong việc sắp

xếp bố trí đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực trên các lĩnh vực. Xác định

tầm quan trọng của nhiệm vụ chính trị của công tác BHYT đối với đồng bào

DTTS, với quyết tâm cao, đến nay đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách

BHYT ở huyện Nam Giang, cơ bản bố trí đầy đủ về về số lượng (12/12 xã, thị

trấn) cán bộ trẻ, có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên, có nghiệp vụ, có

kinh nghiệp làm công tác xã hội, được tu dưỡng rèn luyện đạo đức, hiểu, nắm

bắt địa bàn, tận tâm, nhiệt huyết với công việc, nhằm giúp đỡ, hỗ trợ tốt nhất

cho đồng bào DTTS từ cách thức kê khai, tư vấn, hướng dẫn điều chỉnh hư

hỏng, sai sót thông tin hoặc mất thẻ BH, xin cấp, in lại thẻ BHYT.

Hệ thống bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHYT được củng cố,

kiện toàn từ xã đến huyện, phân công, phân cấp rõ ràng:

- Ở cấp xã, UBND xã chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước đối với

việc thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS của địa phương, có

bộ phận tham mưu, trực tiếp thực hiện là cán bộ, công chức viên chức phụ

trách lĩnh vực LĐTBXH xã chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi và lập danh

sách đối tượng. Hiện có 24 cán bộ (một xã 01người) thực hiện công tác

BHYT. Đội ngũ cán bộ này thường được phân công làm việc ở UBND các xã,

có trình độ từ cao đẳng trở lên, chuyên ngành công tác xã hội.

- Ở cấp huyện, UBND huỵện chịu trách nhiệm về quản lý nhà nước đối

với việc thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS của toàn huyện,

có cơ quan chuyên môn là Phòng LĐTBXH huyện chịu trách nhiệm tham

mưu, quản lý, theo dõi và tổng hợp danh sách (02 cán bộ); Cơ quan BHXH

huyện có trách nhiệm quản lý và in thẻ BHYT (03 cán bộ); Trung tâm y tế

34

huyện có trách nhiệm tổ chức KCB, điều trị bệnh; ngành Tài chính kế hoạch

huyện và Ban quản lý xây dựng cơ bản huyện cân đối, bố trí nguồn ngân sách

để đầu tư cơ sở hạ tầng y tế, mua sắm trang thiết bị y tế từng bước đáp ứng

nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đến nay, cơ bản công tác tổ chức

cán bộ, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHYT trên địa bàn huyện Nam

Giang đã ổn định, kiện toàn, hoạt động xuyên suốt, tích cực và có hiệu quả.

2.2.1.4. Thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá

Công tác kiểm tra thường xuyên được triển khai tổ chức thực hiện,

chương trình, kế hoạch được xây dựng ngay từ đầu năm. Đây là công tác luôn

được các cấp lãnh đạo quan tâm, chỉ đạo sát sao. Công tác kiểm tra cũng được

thực hiện theo nhiều cách, kiểm tra hồ sơ, đối chiếu danh sách của các địa

phương gửi về hoặc kiểm tra thực tế tình hình triển khai thực hiện của các địa

phương theo định kỳ tháng, quí, 6 tháng một lần hoặc đột xuất; kiểm tra trình

độ năng lực cán bộ, mức độ hiểu, nắm, biết các văn bản qui định chính sách

pháp luật BHYT. Qua công tác kiểm tra tình hình thực hiện chính sách BHYT

đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện, theo ghi nhận qua trao đổi, gặp gỡ

phần đông đồng bào DTTS rất phấn khởi khi được nhà nước quan tâm hỗ trợ

kinh phí mua thẻ BHYT, giúp nhiều gia đình đồng bào DTTS được CSSK chu

đáo, giảm thiểu chi phí KCB như trước khi chưa có thẻ BHYT. Đối với cán

bộ làm công tác LĐTBXH là dịp để học tập nâng cao trình độ, cũng như chấn

chỉnh uốn nắn những hạn chế, sai sót. Đối với chính quyền địa phương thừa

nhận nhờ chính sách BHYT của nhà nước thực hiện đối với đồng bào DTTS

cũng có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy bà con

vươn lên thoát nghèo bền vững, là cơ sở để địa phương định hướng chiến lược

lâu dài

Qua công tác kiểm tra, lấy ý kiến của một số đồng bào DTTS thì nhận

được rất nhiều ý kiến tích cực về chính sách BHYT. Cụ thể, phỏng vấn bà Zơ

35

Râm Nhoi, 70 tuổi, bà A Lăng Thủy 50 tuổi, bà Tơ Ngôl Ngơ, 60 tuổi đều ở

thôn Dung, thị trấn Thạnh Mỹ, bà Tơ Ngôl Ngơ, 55 tuổi và ông Brao Ngưnh,

56 tuổi, ông Pơ Loong Dưu, 70 tuổi đều ở thôn Đắc Ốc, xã La Dêê cho biết:

Theo bà con, trước đây khi chưa có chủ trương chính sách BHYT đối với

đồng bào DTTS, mỗi khi ốm đau bà con rất lo lắng, nhất đó là tài chính, chi

phí KCB, vì bà con nghèo, khó khăn, trình độ dân trí thấp, không biết đọc,

không biết viết nên mỗi lần có người thân trong gia đình ốm đau là phải đi

vay mượn tiền bạc, nêu không thì thường tìm đến thầy cúng, thầy lang, còn

nếu bệnh tình nặng quá thì mặc cho số phận. Từ khi được sự quan tâm của

Nhà nước về chính sách BHYT, bà con rất phấn khởi, vui vẻ, yên tâm lao

động, sản xuất, không còn lo lắng như trước nữa về chi phí KCB khi ốm đau.

Phần lớn bà con khi được hỏi suy nghĩ về chính sách BHYT, đều trả lời thích

chính sách BHYT, rất cần thiết trong cuộc sống, đặc biệt là khi ốm đau, bệnh

tật được CSSK chu đáo, tận tình và mong muốn chính sách BHYT đối với

đồng bào DTTS tiếp tục được thực hiện trong thời gian tới và mở rộng thêm

người DTTS được nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT sinh sống ở ngoài

vùng có điều kiện KTXH đặc biệt khó khăn, khó khăn.

Là huyện miền núi, địa phương có nhiều đồng bào DTTS sinh sống nên

có nhiều đối tượng chính sách thuộc diện được nhà nước hỗ trợ kinh phí mua

thẻ BHYT như: người thuộc hộ nghèo, người thuộc hộ cận nghèo, người có

công với cách mạng, trẻ em dưới 6 tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, đối

tượng bảo trợ xã hội hoặc hưu trí. Từ công tác kiểm tra thời gian qua, đã phát

hiện có trường hợp là người đồng bào DTTS nhưng bản thân cũng là đối

tượng người có công với cách mạng hoặc là người thuộc hộ nghèo, được cấp

2 hoạc 3 thẻ BHYT. Trước tình hình đó, để tránh tình trạng một người nhưng

có nhiều thẻ BHYT, gây nên lãnh phí, thất thoát kinh phí nhà nước, ngành

LĐTBXH huyện đã phối hợp với cơ quan BHXH huyện, UBND các xã thống

36

nhất đề xuất một người chỉ được lựa chọn một loai hình BHYT, có giá trị

KCB cao nhất theo qui định hiện hành. Ngoài ra, có nhiều thẻ BHYT của

đồng bào DTTS ghi sai thông tin cá nhân trên thẻ BHYT về họ tên, năm sinh,

giới tính. In sai nhiều nhất đó là họ tên của đồng bào DTTS, khi đối chiếu

thông tin trên thẻ BHYT với các giấy tờ nhân thân cá nhân (CMND, hộ khẩu)

sai sót rất nhiều, khi được hỏi nhiều bà con phản ánh rất gặp nhiều khó khăn

khi KCB, phải đi sửa lại mới KCB được. Đồng bào Cơ Tu, Giẻ - triêng ở

Nam Giang mang họ bố, có họ tên rất riêng, được phát âm theo ngôn ngữ

đồng bào (như: Bhnướch, Zơrâm, Brôl, Tơngôl, Alăng, AViết, Bhling, Tađêl,

Coor..) và họ tên của đồng bào DTTS cũng không có từ ngữ để phân biệt giới

tính nam/nữ nên dẫn đến in sai thông tin trong thẻ BHYT. Việc thực hiện

công tác kiểm tra, đánh giá không những giúp các cấp, các ngành và đội ngũ

thực hiện chính sách BHYT của huyện Nam Giang đánh giá được hiệu quả

tác động của chính sách, thấy được những sai sót về thẻ BHYT để kịp thời

sửa chữa mà còn thấy được những điểm tích cực hạn chế trong các văn bản

hướng dẫn, cách thức tổ chức thực hiện để phát huy hay khắc phục, rút kinh

nghiệm, thay đổi phương thức… nhằm đạt hiệu quả cao hơn.

Theo ý kiến của chị Phạm Thị Hoài Quyên, cán bộ LĐTBXH thị trấn

Thạnh Mỹ, quản lý việc thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS

trên địa bàn thị trấn Thạnh Mỹ. Lúc mới đầu thực hiện chính sách BHYT đối

với đồng bào DTTS, chị cũng gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề ghi chép,

đặc biệt họ tên, giới của người đồng bào DTTS. Ví dụ, như họ là BHLing

nhưng chị chỉ đánh là BLing thiếu chữ “h” nên dẫn đến sai sót. Hoặc xác định

giới tính của người DTTS thông qua họ tên cũng là một vấn đề thường gặp sai

sót, giới tính nam thành nữ và ngược lại. Sau này, để khắc phục và rút kinh

nghiệm các sai sót trên, chị đã phải trực tiếp làm việc với cán bộ thôn để nắm

thông tin và kiểm tra xác minh một số hộ gia đình để rõ thêm.

37

Còn anh Tơ Ngôl Nhường, là cán bộ trực tiếp thực hiện chính sách

BHYT của Phòng Lao động-Thương binh và Xã hội huyện Nam Giang cho

biết. Theo đánh giá của anh về chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS là

một chủ trương đúng đắn, có ý nghiã nhân văn. Từ khi có chính sách BHYT,

đời sống của hộ nghèo, trong đó có hộ đồng bào DTTS trên địa bàn huyện

Nam Giang đã được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Qua đó, góp phần thúc đẩy các

hộ đồng bào DTTS vươn lên thoát nghèo, tạo dựng niềm tin tưởng trong đồng

bào DTTS đối với chính quyền địa phương. Tuy nhiên, công tác quản lý chính

sách BHYT tại một số xã vẫn còn nhiều bất cập, lỏng lẽo nên chưa kịp thời

hoặc lợi dụng chính sách của nhà nước có một số cán bộ biến chất, tha hóa

đồng lõa liên kết mua bán thẻ BHYT đã bị các cơ quan pháp luật xử lý.

Thực tế cho thấy, sau mỗi đợt tổ chức kiểm tra tại các xã, đánh giá kết

quả đem lại có chuyển biển tích cực, giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn

vướng mắc, tồn tại, bức xúc tại các xã, như thẻ BHYT thường in sai họ tên,

giới tính dẫn đến khi ốm đau bà con đi khám bệnh tại các cơ sở y tế, các bệnh

viện không đồng ý đều trị, yêu cầu cá nhân hoặc gia đình đối tượng liên hệ

các cơ quan BHXH, Phòng LĐTBXH huyện để điều chỉnh thông tin trên thẻ

BHYT cho phù hợp… Qua công tác kiểm tra chính sách trên địa bàn huyện

Nam Giang, đã góp phần đưa chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước

gần dân hơn, đầy đủ, chính xác hơn. Qua đó, công tác lãnh chỉ đạo của các

cấp ủy, chính quyền thuận lợi, tạo miền tin tưởng trong nhân dân, trong đồng

bào DTTS trên địa bàn toàn huyện trong quá trình tổ chức thực hiện chính

sách BHYT trên địa bàn huyện, trong thời gian qua.

2.2.1.5. Thực trạng công tác cấp phát thẻ BHYT cho đồng bào DTTS

Hiện nay, phần lớn đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang

nằm trong diện được nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT. Công tác cấp

thẻ BHYT cho đồng bào DTTS được cơ quan BHXH, Phòng LĐTBXH

38

huyện và UBND các xã, thị trấn tổ chức chặt chẽ, cấp đúng đối tượng, bảo

đảm kịp thời, đúng thời gian. Việc cấp thẻ BHYT diễn ra theo trình tự, cụ thể:

Sau khi hoàn thành việc in thẻ BHYT, cơ quan BHXH thông báo đến UBND

các xã, thị trấn biết thời gian, địa điểm nhận thẻ. UBND các xã, thị trấn cử

cán bộ đến nơi theo thông báo để nhận thẻ BHYT của nhân dân địa phương

mình và có trách nhiệm thông báo đến ban nhân dân các thôn, các hộ gia đình

biết đến nhận thẻ. Trong quá trình cấp thẻ BHYT được cán bộ xã ghi chép

vào sổ lưu trữ, ký nhận rõ ràng, tránh việc thất lạc thẻ hoặc người nhận thẻ

không đúng.

Cấp phát thẻ BHYT cho người dân là việc phải thực hiện kịp thời để

người dân khi ốm đau bệnh có thẻ BHYT điều trị bệnh, hạn chế thấp nhất các

khoản chi phí ngoài khoản chi phí mà nhà nước phải thanh toán (phí khám

chữa bệnh, phí điều trị nội trú, tiền thuốc…) nhiều câu hỏi đạt ra, trong trường

hợp cấp phát thẻ BHYT chậm trễ cho người bệnh, gia đình người bệnh thì

những cơ quan đơn vị nào chịu trách nhiệm các khoản chi phí điều trị, phí điều

trị nội trú? chi phí đi lại của gia đình người bệnh đến các cơ quan có thẩm

quyền đề nghị cấp lại, đổi lại, điều chỉnh thông tin thẻ BHYT? Quy trình, thủ

tục cấp, đổi lại thẻ BHYT sai lệnh thông tin như thế nào? người nhà, người

bệnh cần đem theo, cung cấp những loại giấy tờ gì để có thể đề nghị cấp đổi lại

thẻ BHYT? làm như thế nào? phải làm những thủ tục gì? liên hệ với những cơ

quan, đơn vị nhà nước nào có trách nhiệm cấp lại, in lại thẻ BHYT? thời gian

cấp lại bao lâu? biểu mẫu, đơn xin cấp lại lấy ở đâu hay tự viết tay? nơi nào xác

nhận các loại giấy tờ trên?... Do đó, đòi hỏi công tác tổ chức cấp thẻ BHYT cho

đồng bào DTTS luôn luôn phải kịp thời, đảm bảo chính xác.

Từ năm 2015 đến năm 2018, công tác cấp phát thẻ BHYT đối với đồng

bào DTTS có sự gia tăng về số lượng thẻ BHYT được cấp, đều đó minh

chứng sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn huyện Nam

39

Giang đối với vấn đề chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Nếu như năm 2015, số

lượng người đồng bào DTTS sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó

khăn trên địa bàn huyện được cấp thẻ BHYT là 1.913 người thì đến năm 2018

là 6.011 người, tăng 4.098 thẻ BHYT. Cụ thể các năm như sau:

Bảng 2.1. Tình hình cấp thẻ BHYT đối với người DTTS, từ 2015-2018

Người DTTS sống ở

Năm Tổng số người vùng có điều kiện KTXH Tỷ lệ Ghi

DTTS trên địa bàn khó khăn được cấp thẻ (%) chú

BHYT

2015 20.891 1.913 9,15

2016 22.262 3.166 14,22

2017 22.361 5.824 26,05

2018 22.361 6.011 26,88

Nguồn: UBND huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, năm 2019

Nhìn số liệu thống kê qua bảng biểu 2.1, sẽ có nhiều người đạt câu hỏi. Tại sao ? người đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang đông như vậy mà số người DTTS được Nhà nước mua, cấp, phát thẻ BHYT hàng năm lại thấp, chưa đạt đến 50% so với tổng số người DTTS trên địa bàn.

Điều này có thể lý giải thế này, cũng giống như các địa phương miền núi, vùng có nhiều đồng bào DTTS khác, người đồng bào DTTS ở huyện Nam Giang cũng có thể là đối tượng chính sách người có công cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật và người thuộc diện hộ nghèo được Nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT .

Thực tế qua kiểm tra, rà soát tình hình cấp pháp thẻ BHYT được Nhà

nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT cho đối tượng là người DTTS trên địa

bàn huyện Nam Giang, từ năm 2015-2018 thì kết quả cho thấy 100% đồng

bào DTTS đã được Nhà nước mua, cấp, phát thẻ BHYT theo qui định.

Như phần trên đã lý giải, để tăng cường quản lý đối tượng, cụ thể là đối

40

tượng đồng bào DTTS được Nhà nước hỗ trợ mua thẻ BHYT và tránh tình

trạng cấp phát trùng lắp thẻ BHYT, một người có hai đến ba thẻ BHYT.

Những năm qua, Phòng LĐ-TB&XH huyện Nam Giang đã phối hợp với cơ

quan BHXH huyện Nam Giang tổ chức thẩm định, kiểm tra danh sách đối

tượng đồng bào DTTS do UBND các xã đề nghị Nhà nước hỗ trợ kinh phí

mua thẻ BHYT và đã phân loại đối tượng người DTTS thuộc hộ nghèo; người

DTTS sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó

khăn; người DTTS là đối tượng người có công cách mạng; người DTTS là đối

tượng Bảo trợ xã hội; và trẻ em dưới 6 tuổi là người DTTS. Nhờ đó, tình

trạng trùng lắp, thiếu sót thẻ BHYT đối với người đồng bào DTTS đã hạn chế

nhiều và số lượng người DTTS được cấp phát thẻ BHYT năm sau nhiều hơn

năm trước, cụ thể, nếu như năm 2015, tổng số thẻ BHYT người DTTS là

1.913 thẻ BHYT thì đến năm 2018 còn lại là 6.011 thẻ BHYT

Để minh chứng số lượng người DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang,

được Nhà nước cấp pháp thẻ BHYT đầy đủ qua các năm 2015-2018. Tác giả

xin được cung cấp, liệt kê số liệu mà UBND huyện Nam Giang đã thực hiện

chính sách BHYT đối với các đối tượng người DTTS đồng thời là người có

công với cách mạng, đối tượng BTXH, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ

em, người DTTS là hộ nghèo, qua các biểu tổng hợp (bảng 2.2; bảng 2.3 và

bảng 2.4), như sau:

Bảng 2.2. Tình hình cấp thẻ BHYT đối với người nghèo, từ 2015-2018

Người DTTS thuộc hộ

Năm Tổng số người nghèo được cấp thẻ Tỷ lệ Ghi

chú (%) DTTS trên địa bàn BHYT

73,17 20.891 2015 15.287

64,42 22.262 2016 14.343

50,78 22.361 2017 11.356

47,01 22.361 2018 10.512

Nguồn: UBND huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, năm 2019

41

Số liệu bảng 2.2, cho thấy kết quả cấp phát thẻ đối với người DTTS là

người thuộc hộ nghèo BHYT, từ năm 2015-2018. Số người DTTS thuộc diện

hộ nghèo được Nhà nước mua thẻ BHYT là tương đối nhiều, . Ví dụ, năm

2018, tổng số người DTTS đủ điều kiện cấp thẻ BHYT trên địa bàn huyện

Nam Giang là 22.361 người, riêng người DTTS thuộc diện hộ nghèo đã là

10.512 người được cấp thẻ BHYT, chiếm 47,01% số người DTTS. Hoặc tại

bảng 2.3, người DTTS là đối tượng người có công cách mạng, đối tượng

BTXH, năm 2018 là: 5.838 người cấp thẻ BHYT, chiếm 26,10% số người

DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang .

Bảng 2.3. Tình hình cấp thẻ BHYT đối tượng

CCCM, BTXH từ 2015-2018

Người có công CM, đối

Năm Tổng số người tượng Bảo trợ xã hội là Tỷ lệ Ghi

DTTS trên địa bàn người DTTS được cấp (%) chú

thẻ BHYT

2015 20.891 3.691 17,68

2016 22.262 4.753 21,35

2017 22.361 5.181 23,17

2018 22.361 5.838 26,10

Nguồn: UBND huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, năm 2019

Tại sao có sự phân loại đối tượng đồng bào DTTS được Nhà nước mua

thẻ BHYT như vậy? Ở đây, tác giả muốn nhấn mạnh đến quyền lợi thẻ BHYT

của một số đối tượng được Nhà nước mua thẻ BHYT có quyền lợi cao, được

ưu tiên hơn khi KCB. Chính vì vậy, đối tượng đồng bào DTTS có quyền được

lựa chọn đối tượng được Nhà nước mua thẻ BHYT. UBND các xã căn cứ

nguyện vọng, nhu cầu của đối tượng và đề nghị cơ quan LĐTBXH và BHXH

huyện thay đổi đối tượng cho phù hợp, như: thay đổi đối tượng hưởng thẻ

42

BHYT đồng bào DTTS sang thẻ BHYT người có công với cách mạng, hoặc

thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi, hoặc thẻ BHYT cho người cao tuổi.

Nhìn chung, từ năm 2015-2018 công tác triển khai thực hiện chính sách

BHYT đối với các đối tượng được nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT,

trong đó có đồng bào DTTS được thực hiện đầy đủ, kịp thời, chính xác. Về cơ

bản các đối tượng người DTTS, người DTTS là đối tượng chính sách có công

với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ

em dưới 6 tuổi trên địa bàn huyện Nam Giang đã được cấp phát thẻ BHYT từ

khi luật BHYT ra đời.

2.2.1.6. Thực trạng công tác khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT cho đồng

bào DTTS

Từ năm 2015-2018, ngành y tế huyện Nam Giang đã tiếp nhận, khám

chữa bệnh, điều trị bệnh cho trên 394.000 lượt đồng bào DTTS trên địa bàn

huyện, với tổng kinh phí thực hiện chi trả cho chính sách KCB là

68.027.000.000 đồng (phụ lục tại bảng 2.4). Chất lượng KCB, CSSK nhân

dân ngày càng được nâng cao, số lượng bệnh nhân đến KCB cũng nhiều hơn,

cụ thể, như:

- Người đi khám bệnh, nếu năm 2015 là 74.355 lựơt thì đến năm 2018

là 81.525 lượt người đi khám bệnh, tăng 8,79 %;

- Bệnh nhân điều trị nội trú, nếu năm 2015 là 6.275 bệnh nhân đến năm

2018 là 7.433 bệnh nhân, tăng 15,58%;

- Tổng số ngày điệu trị nội trú, nếu năm 2015 là 32.121 ngày đến năm

2018 là 42.827 ngày, tăng 25%;

- Tổng số ca thủ thuật năm 2015 là 1.383 ca thì đến năm 2018 là 3.309

ca, tăng 58,20%.

- Tổng ca phẩu thuật loại II, nếu năm 2015 là 79 ca đến năm 2018 là

121 ca.

43

- Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, nếu năm 2015 là

21% đến năm 2018 chỉ còn 14,66%

- Thể thấp còi, nếu năm 2015 là 31% đến năm 2018 chỉ còn 19,85%,

các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế thực hiện sâu rộng và đạt được

những kết quả đáng khích lệ.

Bảng 2.4. Tình hình Quỹ BHYT thanh toán chi phí KCB

từ năm 2015-2018

Tỷ lệ Ghi Năm Dự toán chi Quỹ Thực chi

chú BHYT hàng năm Quỹ BHYT qua các năm (%)

(tỷ đồng) (tỷ đồng)

92,31 2015 17 15,693

111,15 2016 17 18,895

114,37 2017 17 19,443

82,33 2018 17 13,996

Nguồn: BHXH huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, năm 2019

Để đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới, từ năm 2015-2018, đội ngũ

y, bác sĩ của huyện đã được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên

môn (phụ lục bảng 2.5). Qua đó, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trên tất cả mọi

lĩnh vực khám bệnh, điều trị, cận lâm sàng, phẫu thuật, đối phó kịp thời với

mọi tình huống xấu xảy ra, như dịch sốt xuất huyết ,cúm ,tiêu chảy, tai nạn

giao thông v.v.

Ngoài ra, Trung tâm y tế huyện Nam Giang liên kết với Trường Đại

học Đông Á đào tạo liên thông hệ Cao đẳng điều dưỡng cho 42 nhân viên

điều dưỡng của Trung tâm y tế huyện và Trạm y tế các xã. Chính điều đó đã

góp phần làm cho công tác điều trị bệnh cho đồng bào được nâng cao.

44

Bảng 2.5. Tình hình đội ngũ y bác sĩ được bồi dưỡng, nâng cao

nghiệp vụ từ năm 2015-2018

Năm 2016 Năm 2018

Các lớp bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ Năm 2015 Năm 2017

2 1 2 2 Bs CKI

1 0 1 0 Dược ĐH

1 0 1 0 CN gây mê

0 1 0 1 CN xét nghiệm

0 1 0 1 CC tim mạch

1 0 1 0 CK ngoại

0 1 0 0 CK sản

1 0 0 1 CK mắt

1 0 0 0 CK Xquang

Nguồn: Trung tâm Y tế huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, năm 2019

Tất cả các yếu tố trên đã thúc đẩy hiệu quả công tác KCB bằng thẻ

BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang, tạo ra những

chuyển biến tích cực trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người đồng bào

DTTS trên địa bàn huyện.

2.3. Những hạn chế trong thực hiện chính sách BHYT ở vùng đồng

bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang

2.3.1. Văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện

Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách BHYT của Trung

ương và tỉnh Quảng Nam đôi khi chưa thật sự thống nhất. Thực tế có những

năm văn bản ban hành chậm dẫn đến các địa phương, các cơ quan quản lý nhà

nước khi triển khai thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS gặp

nhiều khó khăn, lúng túng, bối rối, mỗi nơi thực hiện theo một cách.

45

Theo Luật BHYT số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014 về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật BHYT 2008, qui định đối tượng tham gia bảo hiểm

y tế, do ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT, trong đó có

người DTTS, tại khoản h: “Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc

thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người

đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người

đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo”.

Trách nhiệm của các Bộ ngành trung ương, cũng được qui định rất rõ.

Tại điểm 4, Điều 1, Luật số 46/2014/QH13 qui định trách nhiệm của Bộ Lao

động, Thương binh và Xã hội như sau: “Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực

hiện việc xác định quản lý đối tượng do Bộ LĐTBXH quản lý qui định các các

điểm d, e, g, h, i, và k khoản 3 và khoản 4 Điều 12 của Luật này”. Như vậy,

việc thực hiện chính sách BHYT đối với người dân tộc thiểu số đang sinh

sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thuộc thẩm quyền quản

lý, kiểm tra, giám sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Tuy nhiên theo Thông tư số 25/2016/TT-BLĐTBXH ngày 26/07/2016

của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn xác định, đối tượng

quản lý tham gia Bảo hiểm y tế thì lại không nói rõ đối tượng “người dân tộc

thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn” thuộc

cơ quan, đơn vị nào quản lý, tổ chức thực hiện.

Ngay cả Công văn số 20/LĐTBXH-BTXH ngày 6/4/2016 và Công văn

số 1854/LĐTBXH-BTXH ngày 23/12/2016 của Sở Lao động - Thương binh

và Xã hội tỉnh Quảng Nam cũng không hướng dẫn đối tượng “người dân tộc

thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn” thuộc

ngành LĐTBXH quản lý hay UBND các huyện quản lý.

Đối với địa phương, một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng

mức, xem nhẹ việc soạn thảo văn bản hướng dẫn chính sách nên việc ban

46

hành văn bản tổ chức thực hiện còn chung chung, chưa sát với thực tế chỉ

photo sao y văn bản của Trung ương, tỉnh đã hướng dẫn để triển khai hoặc có

ban hành văn bản hướng dẫn nhưng sơ sài, không có chỉ tiêu, không thời gian

bắt đầu, kết thúc tổ chức thực hiện, không có bộ phận cơ quan chịu trách

nhiệm. Do đó, dẫn đến tình trạng không phân tích được tính đặc thù của địa

phương, vùng đồng bào DTTS trong đó văn hóa tâm lí và kinh tế của người

DTTS nên không đánh giá được đúng mức độ khó khăn trong thực hiện chính

sách chẳng hạn như lúc đầu mức độ tha gia BHYT chưa cao hay kết quả in

cấp thẻ BHYT có sai sót rất nhiều về thông tin, nhất là sai họ tên, giới tính…

Tiến độ thời gian rà soát kéo dài, tiến độ chậm so với kế hoạch trên

giao….cuối cùng là người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS chịu thiệt thòi.

2.3.2. Công tác tổ chức

- Đối với cấp xã: Một số xã chưa thật sự quan tâm đúng mức trong việc

lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chính sách về BHYT, không tổ chức thông

báo rộng rải, dân cần thì đến UBND xã để nhận thẻ BHYT, đăng ký dẫn đến

người có thẻ, người không có thẻ, hoặc mất mát thẻ không ai chịu trách

nhiệm.

Từ đó, công tác tổ chức thực hiện, đánh giá chưa sâu sát và khắc phục

những bất cập, yếu kém chưa được coi trọng. Công tác bố trí cán bộ thực hiện

chính sách BHYT tại một số xã cán bộ lớn tuổi, chưa qua đào tạo, năng lực

thực hiện chính sách BHYT chưa đáp ứng với nhu cầu của thực tiễn, như sử

dụng vi tính, công nghệ thông tin, từ đó dẫn đến việc cập nhật, tiếp cận thông

tin, xử lý công việc chậm chạp, trì trệ. Bên cạnh đó, một số cán bộ thiếu tinh

thần trách nhiệm, cấp phát thẻ BHYT không lập sổ quản lý, theo dõi thường

cho rằng chính sách không quan trọng nên ỷ lại, cách làm, cách nghĩ đơn

giản, không nghiên cứu các văn bản luật quy định chính sách, dẫn đến việc

không nắm rõ quy trình, quy định các trường hợp, điều kiện tiêu chuẩn đối

47

tượng được nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT hoặc việc đề nghị cấp

mới, cấp lại, bổ sung hoặc điều chỉnh thẻ BHYT do sai thông tin. Đồng bào

DTTS ở Quảng Nam chiếm một số lượng khá lớn với nhiều thành phần dân

tộc khác nhau, song cán bộ chuyên trách thực hiện cấp xã chỉ có 01 người nên

đôi khi công tác triển khai còn chậm.

- Đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp huyện: Sự phối hợp giữa

các cơ quan BHXH với Phòng LĐTBXH huyện chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ,

mỗi cơ quan thực hiện theo mỗi văn bản của mỗi ngành hướng dẫn, nên dẫn

đến tình trạng in thiếu thẻ, in sai thông tin cá nhân, giới tính, số liệu tổng hợp

chồng chéo, phát trùng thẻ BHYT, có trường hợp một người nhưng được in

nhiều thẻ, người chết vẫn được in thẻ BHYT.

- Đối với cơ sở CSSK ( trung tâm y tế huyện, các trạm y tế xã): Chất

lượng KCB vẫn là vấn đề mà người dân quan tâm, một bộ phận đội ngũ y, bác

sĩ chưa tận tình và trình độ năng lực còn hạn chế.

2.3.3. Công tác kiểm tra, đánh giá

Nhìn chung, công tác tổ chức kiểm tra chính sách BHYT tại huyện Nam

Giang có nhưng thực hiện chưa thường xuyên, nội dung kiểm tra thường chỉ

tập trung vào tính liệt kê, tổng hợp, chưa đi vào chiều sâu và đánh giá hiệu quả,

tác động của chính sách, việc đánh giá còn mang tính chủ quan, chung chung,

chưa có bộ tiêu chí đánh giá cụ thể, trong đó có công tác rà soát, lập danh sách,

in thẻ BHYT, một số nội dung khác được quan tâm.

Theo chức năng nhiệm vụ của mỗi ngành, hàng năm BHXH huyện

Nam Giang, Phòng LĐTBXH huyện Nam Giang và TTYT huyện Nam Giang

đều xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát về việc thực hiện chính sách BHYT

tại các xã và CSSK của trạm y tế xã. Tuy nhiên, các cuộc kiểm tra thường chỉ

tập trung làm việc với chính quyền địa phương để nắm tình hình cấp phát thẻ,

48

chưa trực tiếp làm việc, lắng nghe ý kiến phản hồi từ nhân dân những khó

khăn trong KCB của cơ sở y tế, vấn đề cấp thẻ BHYT của các ngành. Cụ thể:

- Phòng LĐTBXH huyện Nam Giang tổ chức kiểm tra công tác rà soát,

lập danh sách đồng bào DTTS được nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT,

mỗi năm 2 đợt vào tháng 5 và tháng 11, mỗi đợt kiểm tra từ 03 đến 04 xã;

- TTYT huyện Nam Giang tổ chức kiểm tra công tác KCB theo thẻ

BHYT đối với đồng bào DTTS được nhà nước mua thẻ BHYT, mỗi năm 2

lần vào tháng 2 và tháng 9, mỗi đợt kiểm tra 04 trạm y tế.

- BHXH huyện Nam Giang tổ chức kiểm tra công tác cấp phát thẻ BHYT

đối với đồng bào DTTS, mỗi năm 01 lần vào tháng 7, mỗi đợt kiểm tra 05 xã.

Việc đánh giá sau kiểm tra, chất lượng không cao, đánh giá chung

chung. Nhiều cuộc kiểm tra chưa đánh giá đầy đủ các chi phí phát sinh ngoài,

do thông tin trên thẻ BHYT sai lệch, khi KCB, vấn đề xin cấp đổi lại thẻ

BHYT có khó khăn, phức tạp không? cơ quan, đơn vị nào sẽ hướng dẫn, xác

nhận, in cấp lại thẻ BHYT? Thủ tục hồ sơ đề nghị điều chỉnh, thay đổi thông

tin giữa thẻ BHYT với CMND cần đem theo những giấy tờ gì làm căn cứ?

Tại một số xã, công tác kiểm tra được tổ chức nhiều đợt, song rút kinh

nghiệm thì chậm, đôi khi không thực hiện dẫn đến năm nào cũng có tình trạng

danh sách trùng lắp, người chết rồi vẫn có thẻ BHYT. Chưa có cơ chế tài

mạnh để xử lý đối với các địa phương, cơ quan không chấp hành nghiêm kết

luận sau kiểm tra.

2.3.4. Công tác tuyên truyền

Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách của các cấp ủy Đảng, chính

quyền, mặt trận đoàn thể chưa có nhiều phương thức tổ chức tuyên truyền,

như đơn điệu, máy móc, dập khuôn. Công tác phối hợp tuyên truyền giữa các

cơ quan trong huyện và UBND các xã, thị trấn chưa tốt, thiếu chặt chẽ, thông

tin cập nhật về kinh tế - xã hội, trình độ, phong tập, tập quán, văn hóa, ngôn

49

ngữ của đồng bào DTTS. Từ đó, hiệu quả tuyên truyền chưa cao, chính sách

BHYT chưa được chuyển tải đầy đủ, rõ ràng và kịp thời tới những đối tượng

liên quan, nhất là đồng bào DTTS, dẫn đến hiểu không đầy đủ, thậm chí hiểu

sai chính sách BHYT.

2.4. Đánh giá kết quả thực hiện

2.4.1. Đánh giá chung

Qua 4 năm triển khai thực hiện chính sách BHYT trên địa bàn huyện

Nam Giang từ năm 2015-2018, nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền,

mặt trận hội đoàn thể, cộng đồng và mỗi người dân có những chuyển biến tích

cực rõ nét trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.

Cơ sở vật chất được tập trung đầu tư, mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở

ngày càng được cũng cố và phát triển, các dịch bệnh nguy hiểm đã được kiểm

soát, ngăn chặn kịp thời, các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe như môi trường,

vệ sinh thực phẩm…được quan tâm hơn. Năng lực, chất lượng KCB được

nâng lên, từng bước tiếp cận được các dịch vụ kỷ thuật mới…có thể nhận thấy

chính sách BHYT đối với người thuộc hộ gia đình DTTS là rất phù hợp và

cần thiết, kịp thời giải quyết những trăn trở, vướng mắc tồn tại nhiều năm đối

với đồng bào DTTS đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó

khăn và người đang sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó

khăn về thẻ BHYT khám chữa bệnh. Chính sách BHYT dành cho người dân

tộc thiểu số thật sự là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước,

góp phần cải thiện, nâng cao đời sống, chăm sóc sức khỏe nhân dân và công

tác giảm nghèo, trên địa bàn huyện.

Qua khảo sát, phỏng vấn 20 người dân là đồng bào DTTS trên địa bàn

về nhận thức đối với chính sách BHYT. Đa số người dân khi được hỏi, đều trả

lời rằng thẻ BHYT là vô cùng quan trọng đối với cá nhân, gia đình trong việc

KCB. Cụ thể 15 người dân là đồng bào DTTS được nhà nước mua thẻ BHYT,

50

tất cả đều trả lời, có thẻ BHYT khi ốm đau thì yên tâm đến bệnh viện KCB,

không phải lo nhiều về chi phí. Còn đối với 05 người dân là đồng bào DTTS

(đối tượng sinh sống ở thị trấn, vùng không khó khăn) thì trả lời rằng họ phải

bỏ ra một khoản kinh phí để chi trả chi phí KCB, trong khi đời sống của họ

vẫn còn khó khăn, không có thu nhập ổn định, dù rằng họ sinh sống tại vùng

có điều kiện KTXH phát triển hơn (thị trấn).

Trường hợp của hộ ông Ka Phu Bột, người dân tộc Cơ tu, ở thôn Thạnh

Mỹ 2, thị trấn Thạnh Mỹ là thôn có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Theo

qui định của Luật BHYT 2008, người DTTS sinh sống ở vùng có điều kiện

kinh tế - xã hội khó khăn thì được nhà nước hỗ trợ mua thẻ BHYT. Đã nhiều

năm nay, gia đình của ông Ka Phu Bột không còn là hộ nghèo nên các thành

viên trong gia đình ông Ka Phu Bột không được nhà nước hỗ trợ mua thẻ

BHYT. Ông Ka Phu Bột cho biết, gia đình ông chủ yếu làm nghề nương rẩy

và trồng cây Keo, thu nhập của gia đình của ông Ka Phu Bột chủ yếu dựa vào

vụ bắp, đậu, khoảng 10-12 triệu đồng/vụ mùa. Thời gian nhàn rỗi, ông Ka

Phu Bột tranh thủ đi làm phụ hồ để có thêm thu nhập. Ông cho biết thêm, vì

không có thẻ BHYT, mỗi khi ốm đau ông hoặc vợ đi khám bệnh đều phải

đóng viện phí. Nếu bệnh tình nặng thì chi phí KCB sẽ nhiều hơn.

Phỏng vấn đối với cán bộ quản lý chính sách BHYT ở xã và cán bộ y

tế, như chị Kring Xa cán bộ làm công tác Lao động, Thương binh và Xã hội

xã Đắc Pring và chị BLing Âm, y sĩ ở trạm y tế xã Zuôih. Các chị đều cho

biết cơ bản là hiểu về chính sách pháp luật BHYT và thực hiện theo đúng

chức năng nhiệm vụ được giao, luôn tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ tích cực

cho các đối tượng tham gia BHYT được CSSK, đặc biệt là đồng bào DTTS.

2.5. Nguyên nhân của kết quả và hạn chế trong thực hiện chính

sách BHYT trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

2.5.1. Thuận lợi

51

Có được kết quả trong công tác thực hiện chính sách BHYT ở huyện

Nam Giang đó là nhờ có chủ trương đúng đắn, kịp thời và hợp lòng dân của

các cấp từ Trung ương đến địa phương, cùng với đó là sự thống nhất, chỉ đạo

quyết liệt của Huyện uỷ, HĐND huyện, UBND huyện. Bên cạnh đó, là sự vào

cuộc của cả hệ thống chính trị, sự phối kết hợp của các cơ quan, ban, ngành,

mặt trận, đoàn thể và các cấp ủy Đảng, chính quyền các xã, thị trấn trong việc

phát huy vai trò trách nhiệm của Ban chỉ đạo các cấp, các tổ chức, đoàn thể

trong quá trình tổ chức thực hiện.

Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách BHYT các cấp, các

ngành đã tích cực tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc cán bộ, công

chức thực hiện chính sách BHYT và hộ gia đình người DTTS tham gia kê

khai, đăng ký BHYT; đồng thời chủ động báo cáo, đề xuất với các cấp có

thẩm quyền xem xét tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực

hiện BHYT để kịp thời giải quyết. Việc thực hiện BHYT cho đồng bào DTTS

đã tạo thành phong trào lan tỏa trong xã hội, thể hiện tinh thần phục vụ, chăm

lo sức khỏe nhân dân của bộ máy chính quyền địa phương chu đáo, kịp thời.

Hệ thống y tế tiếp tục được củng cố từ tuyến huyện đến tuyến xã, thôn,

làng. Ngành y tế huyện Nam Giang luôn chủ động, tích cực triển khai các

hoạt động công tác phòng chống và khống chế dịch bệnh nguy hiểm xảy ra

trên địa bàn huyện, các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình y

tế dự phòng được triển khai đồng bộ, chất lượng hoạt động của các chương

trình đã được nâng cao và thực sự đem lại hiệu quả đối với công tác CSSK

nhân dân, trong đó có đồng bào DTTS. Công tác giáo dục, tu dưỡng, rèn

luyện đạo đức, thái độ phục vụ và chăm sóc người bệnh đối với đội ngũ y bác

sĩ luôn luôn được chú trọng, quan tâm.

Ý thức của người dân, trong đó có đồng bào DTTS đã được cải thiện

nâng lên đáng kể. số lượng đồng bào DTTS tham gia BHYT năm sau luôn

52

nhiều hơn năm trước. Bà con quan tâm đến CSSK và các quyền lợi liên quan

khác. Và đặc biệt bà con thật sự quan tâm đến chính sách BHYT.

2.5.2. Khó khăn

- Đội ngũ cán bộ ở cơ sở, còn chủ quan nên dẫn đến tình trạng triển

khai thực hiện chính sách BHYT cho người DTTS trên địa bàn huyện, xã

chưa phù hợp, chưa tập trung. Cụ thể là công tác lập danh sách vẫn còn tình

trạng bỏ sót, thiếu đồng bộ, mỗi xã, thị trấn triển khai, lập danh sách đề nghị

mua thẻ BHYT theo mỗi cách, việc rà soát điều tra sơ sài, qua loa dẫn đến

thiếu sót, sai sót thông tin cá nhân, sai lệch thông tin năm sinh, giới tính, họ

tên giữa giấy tờ tuy thân với chứng minh nhân dân, hộ khẩu của đối tượng,

làm ảnh hưởng đến việc in ấn, quá trình khám chữa bệnh, buộc phải điều

chỉnh thông tin, phải in cấp lại thẻ và cuối cùng là người dân phải đi lại nhiều

lần, mất thời gian, sức lực và chi phí.

- Trang thiết bị tại một số trạm y tế xã hiện nay chưa có internet, gặp rất

nhiều khó khăn, trong đó có vấn đề thanh quyết toán chi phí KCB bằng

BHYT qua chương trình phần mền quản lý. Đối với việc thông tuyến, chuyển

tuyến bệnh nhân là chủ trương đúng đắn, thuận lợi cho dân nhưng dễ dẫn đến

tình trạng người dân đến trạm y tế KCB có xu hướng giảm.

- Môi trường ngày càng ô nhiễm, vệ sinh thực phẩm chưa an toàn.

Nguy cơ tiềm ẩn phát sinh các dịch bệnh là cao, trong khi mạng lưới giám sát

dịch còn chưa phát triển để đáp ứng so với yêu cầu thực tế và xu hướng phát

triển. Hiện nay kinh phí của chương trình mục tiêu y tế quốc gia, Sở Y tế

giao rất chậm nên ảnh hưởng đến tiến độ triển khai kế hoạch hoạt động.

- Chất lượng khám chữa bệnh tại trung tâm y tế huyện và một số trạm y

tế xã đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên còn thấp, thiếu cơ

sở vật chất, trang thiết bị y tế, đội ngũ y, bác sĩ năng lực chuyên môn còn hạn

chế, vẫn còn xảy ra không ít tiêu cực, phiền hà.

53

- Đối với tuyến huyện, hiện nay còn thiếu bác sĩ chuyên khoa sản, nhi

và đông y, y tế dự phòng, tuyến xã cơ bản ở một số trạm đủ số lượng, cơ cấu

cán bộ theo qui định của Bộ Y tế. Tuy nhiên về chất lượng cán bộ ở một số xã

chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

2.5.3. Nguyên nhân khó khăn

- Nguyên nhân từ các cấp chính quyền:

Do nhận thức chưa đầy đủ về chính sách BHYT và vai trò của nó đối

với đời sống của người dân nên công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách

của các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận đoàn thể ở một số xã, trong đó có

cán bộ làm công tác thực hiện chính sách BHYT chưa triển khai thường

xuyên, thậm chs có xã phương thức tổ chức tuyên truyền đơn điệu, máy móc,

dập khuôn qua loa cho xong việc.

- Nguyên nhân từ đội ngũ cán bộ cơ sở:

- Công tác thống kê, rà soát đồng bào DTTS được nhà nước hỗ trợ mua

thẻ BHYT của ban nhân dân các thôn, của cán bộ cơ sở chưa chặt chẽ, làm

việc cẩu thả, qua loa, sơ sài, thiếu trách nhiệm, xem đây là những việc đơn

giản nên chủ quan không kiểm tra, đối chiếu các giấy tờ liên quan (CMND,

hộ khẩu). Một số cán bộ xã thực hiện chính sách BHYT, trình độ chuyên môn

nghiệp vụ còn hạn chế, chưa nắm rõ tiêu chuẩn điều kiện quy định đối tượng

được nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT nên quá trình hướng dẫn, giải

thích không đúng qui định, tình trạng hiện chính sách BHYT đối với đồng

bào DTTS có nơi tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời nhưng có nơi tổ chức

thực hiện lại trì trệ, chậm chạp, thiếu sót, hiệu quả thấp vẫn còn sảy ra.

- Nguyên nhân từ cơ quan BHXH, LĐTBXH

Công tác phối hợp giữa các ngành về chính sách BHYT đối với đồng

bào DTTS chưa đồng bộ, tuyên truyền chưa sâu rộng, quản lý nhà nước về

54

chính sách BHYT đôi lúc còn lỏng lẻo, thiếu sự kiểm tra, giám sát để kịp thời

chấn chỉnh những sai sót.

- Nguyên nhân từ đội ngũ y bác sĩ:

Tinh thần trách nhiệm phục vụ, chăm sóc bệnh của một bộ phận y bác

sĩ trong KCB không tốt, dẫn đến người bệnh không hài lòng, mất đi sự tin

tưởng, hy vọng nên có nhiều bệnh nhân KCB ngoài, phải chấp nhận chi phí.

Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ còn hạn chế.

- Nguyên nhân từ người dân được cấp thẻ BHYT

Nhận thức của người dân DTTS về chính sách BHYT chưa đầy đủ, còn

nhiều hạn chế, chưa nỗ lực vươn lên, bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa, còn tâm

lý tự ti, mặc cảm. Trong tư duy, suy nghĩ của người DTTS thật sự chưa có sự

quan tâm đúng mức về chính sách BHYT cho bản thân và gia đình trong việc

CSSK. Chỉ khi ốm đau, bệnh viện thu phí thì người dân mới thấy giá trị và

tầm quan trọng của thẻ BHYT. Một số người dân, trong đó có đồng bào

DTTS biết thẻ BHYT thông tin in trên thẻ BHYT là sai nhưng không đề nghị

các cơ quan quản lý sửa lại, nghĩ là chuyện nhỏ không có ảnh hưởng gì đến

vấn đề KCB mà vẫn giữ đó. Bên cạnh đó, đồng bào DTTS có thói quen sử

dụng nhiều tên, nhiều năm sinh, phát âm, viết chữ tiếng phổ thông hạn chế

nên làm sai lệch giữa thông tin được in trong thẻ và các giấy tờ tuỳ thân.

2.6. Những vấn đề đặt ra đối với thực hiện chính sách BHYT ở

đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam hiện

nay.

Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng, ý nghĩa nhân văn sâu sắc của

chính sách BHYT mà Đảng, Nhà nước ta dành cho đồng bào DTTS, sự quan

tâm đó thể hiện chính sách nhân đạo luôn hướng đến sự công bằng, đùng bọc,

chia sẽ, với mong muốn đời sống của đồng bào DTTS ổn định hơn, ấm no

hơn. Trong đó, có đồng bào DTTS trên địa bàn huyên Nam Giang, đời sống

55

có nhiều cải thiện thay đổi và khởi sắc. Trong những năm qua, Đảng bộ và

chính quyền huyện Nam Giang xem đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, là

cơ sở đẩy mạnh giảm nghèo, là điều kiện để bảo đảm chăm lo, nâng cao sức

khỏe cho nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế -

xã hội, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an

ninh.

Hiện nay, Nam Giang là huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao của tỉnh Quảng

Nam (44,34%), trong đó hộ nghèo đồng bào DTTS chiếm 42,91 %. Thu nhập

bình quân đầu người của đồng bào DTTS chỉ đạt khoảng 4-5 triệu

đồng/tháng. Dừ rằng, trong những năm qua, chính sách BHYT của nhà nước

đối với đồng bào DTTS đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã

hội tại địa phương.

Vì vậy, những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện chính sách BHYT

đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam hiện

nay, đó là song song với phát triển kinh tế - xã hội, là bảo đảm an sinh xã hội,

tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân.

56

Tiểu kết chương 2

Từ khi chính sách BHYT được các Bộ ngành Trung ương ban hành,

huyện Nam Giang đã nhanh chóng tổ chức triển khai thực hiện, đưa chính

sách đến với người dân, trong đó có đồng bào DTTS trên địa bàn và sớm đi

vào cuộc sống, có tác động tích cực đến công tác CSSK cho nhân dân, đồng

bào đã tiếp cận được các dịch vụ y tế, được quỹ BHYT thanh toán chi phí

KCB, chi phí chuyển viện, điều trị nội trú…Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, cơ sở

CSSK được nhà nước đầu tư xây dựng xây mới, mua sắm trang thiết bị y tế,

đội ngũ y bác sĩ được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ đáp

ứng với nhu cầu nhiệm vụ được giao, khoa học công nghệ cũng được áp

dụng, sử dụng trong quản lý.

Tuy nhiên, là huyện miền núi, nơi có nhiều đồng bào DTTS sinh sống,

đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao (44,34%).

Những năm qua, số lượng thẻ BHYT được cấp phát cao, nhưng chất lượng

KCB vẫn chưa hiệu quả. Đó thật sự là thách thức với địa phương trong công

tác giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, bởi chính đói nghèo sẽ ảnh

hưởng tác động, kìm hãm đến sự phát triển bền vững.

57

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO

HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở HUYỆN

NAM GIANG, TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Quan điểm thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS của chính quyền địa phương

3.1.1. Quan điểm thực hiện chính sách BHYT của tỉnh Quảng Nam

Quan điểm của tỉnh Quảng Nam, trong vấn đề phát triển kinh tế- xã

hội, bảo đảm ASXH miền núi nói chung, vùng đồng bào DTTS trên địa bàn

tỉnh Quảng Nam nói riêng rất rõ ràng. Thể hiện qua các Nghị quyết của Tỉnh

ủy, cụ thể:

Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 17/8/2016 của Tỉnh ủy Quảng Nam về

phát triển kinh tế - xã hội miền núi gắn với định hướng thực hiện một số dự

án lớn tại vùng Tây tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020, định hướng đến

năm 2025. Trong đó, phấn đấu đến năm 2020, có 70% trạm y tế đạt chuẩn

quốc gia.

Đó là tập trung các nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn

liền với đầu tư một số dự án lớn tại vùng Tây tỉnh Quảng Nam; hỗ trợ phát

triển sản xuất, dịch vụ nông, lâm, ngư nghiệp; tập trung hỗ trợ phát triển kinh

tế trang trại, gia trại, hộ gia đình; hỗ trợ các hoạt động khuyến nông, khuyến

lâm, hỗ trợ giống, vật tư, xây dựng mô hình trồng trọt, chăn nuôi, mô hình

nông - lâm kết hợp, hỗ trợ đào tạo, tập huấn cho lao động nông thôn; quy

hoạch phát triển và mở rộng các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các

vùng miền núi; phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch; đẩy mạnh phát triển

kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị tại trung tâm các huyện; đầu tư phát triển

giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực; tăng cường

58

công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch

gia đình và trẻ em; xây dựng các chính sách đặc thù cho vùng miền núi, tập

trung thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc, tôn giáo, công tác giảm

nghèo, CSSK nhân dân và các chính sách an sinh xã hội; bảo tồn và phát huy

các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc; tăng cường công tác quốc phòng,

an ninh, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân.

3.1.2. Quan điểm thực hiện chính sách BHYT của chính quyền

huyện Nam Giang

Đảng bộ, chính quyền, mặt trận, các hội đoàn thể chính trị của huyện

Nam Giang có quan điểm nhất quán về thực hiện chính sách BHYT đối với

đồng bào DTTS trên địa bàn huyện. Quán triệt chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước ưu tiên, ưu ái đối với đồng bào DTTS về chính sách CSSK,

hỗ trợ thẻ BHYT và tập trung phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh giảm

nghèo, xây dựng nông thôn mới gắn với việc bảo đảm ASXH. trong đó có

việc bảo vệ, chăm lo, nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Cụ thể trong nội dung

của Chương trình số 50-CTr/HU ngày 16/3/2018, Huyện ủy Nam Giang đã đề

ra một số mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025,

các tiêu chí y tế sau:

- Phần đấu đạt 100% trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia.

- Tỷ lệ tham gia BHYT 100%.

- Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng đạt 92% với 12 loại vecxin.

- Giảm tỷ xuất tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi 12% và trẻ dưới 1 tuổi còn

9%

- Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, thấp còi còn dưới 20%.

- Phấn đấu dân số toàn huyện được quản lý sức khỏe là 95%.

- Phấn đấu đạt 35 giường bệnh/vạn dân.

- Phấn đấu đạt 12,8% bác sĩ /vạn dân và 2,8 dược sĩ/vạn dân.

59

- Tỷ lệ hài lòng của nhân dân đối với dịch vụ y tế đạt 80%.

Để thực hiện đạt các chỉ tiêu trên, Đảng bộ và chính quyền huyện Nam

Giang đã tăng cường sự lãnh đạo Đảng đối với công tác CSSK nhân dân,

trong đó có chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện

Nam Giang, với các nội dung nhiệm vụ chủ yếu sau:

Một là, Bám sát Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy đã ban hành. Xác

định nhiệm vụ bảo vệ, CSSK đối với người dân, trong đó có đồng bào DTTS

trên địa bàn huyện Nam Giang là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc, là

trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tập trung tổ chức thực hiện chính sách

BHYT chặt chẽ, đồng bộ từ huyện đến xã, phấn đấu hoàn thành đạt chỉ tiêu

Nghị quyết đề ra.

Hai là, Huy động và tập trung các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ

tầng tại các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên để phát

triển kinh tế - xã hội, trong đó đầu tư xây dựng trạm y tế xã, mua sắm trang

thiết y tế để phục vụ KCB cho nhân dân, gắn liền với đó là các chính sách

dinh dưỡng cho trẻ, tim chủng vecxin, vệ sinh thực phẩm…hướng đến bao

phủ BHYT toàn dân, giảm nghèo bền vững trong đồng bào DTTS, thu hẹp

khoảng cách giữa các vùng trong huyện và vùng lân cận trên tất cả các lĩnh

vực.

Ba là, Rà soát, đánh giá kết quả thực hiện chính sách BHYT trên địa

bàn huyện, đặc biệt đối với đồng bào DTTS. Đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn

thiện cơ chế, chính sách, chương trình, dự án phù hợp với tình hình thực tế

của địa phương có mục tiêu cơ bản, dài hạn vào gắn liền với phát triển kinh tế

- xã hội hướng tới thực hiện CSSK toàn diện.

Bốn là, Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho

đội ngũ y, bác sĩ và cán bộ thực hiện chính sách BHYT của các xã và huyện

để nâng cao chất lượng KCB, tinh thần thái độ phục vụ nhân dân, có trách

60

nhiệm với với công việc được giao, tuân thủ các qui định của pháp luật, thực

hiện đúng, chính xác, đầy đủ và kịp thời các chế độ chính sách BHYT đối với

người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS.

Năm là, Tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả của các mô hình

CSSK, cách làm hay, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, cải cách hành

chính của các địa phương trong thực hiện chính sách BHYT để nhân rộng,

động viên, khích lệ khen thưởng các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt và tổ chức

kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện chính sách về BHYT, nếu phát

hiện các hành vi vi phạm chinh sách BHYT thì xử lý nghiêm.

3.1.3. Quan điểm của các xã, thị trấn huyện Nam Giang

Quan điểm của chính quyền các xã của huyện Nam Giang cũng rất rõ

ràng là tập trung thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách BHYT đối với nhân

dân, đặc bệt là đồng bào DTTS trên địa bàn xã để nhân dân có thẻ BHYT khi

ốm đau được CSSK. Trên cơ sở nghị quyết của Huyện ủy, đề án, kế hoạch

của UBND huyện Nam Giang, chính quyền các xã, thị trấn đã xây dựng kế

hoạch thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa bàn các

xã, trong đó có đề ra các chỉ tiêu, nội dung phấn đấu thực hiện, thời gian địa

điểm thực hiện, phân công các ban ngành chịu trách nhiệm thực hiện và

nguồn kinh phí thực hiện….gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội ở địa

phương, giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách giữa vùng dân tộc với

các vùng khác trên tất cả các lĩnh vực. Tiếp cận giảm nghèo theo hướng đa

chiều. Các xã cũng đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của chính sách BHYT đối

với đồng bào DTTS trên địa bàn các xã, là cơ sở cần để các xã vận động,

khuyến khích nhân dân, đặc biệt là đồng bào DTTS phấn đấu vươn lên thoát

nghèo và thúc đẩy kinh tế - xã hội của xã phát triển. Để đạt mục tiêu đề ra,

các xã cũng đã xác định những nhiệm vụ, nội dung, lĩnh vực cần tập trung

thực hiện trước, như:

61

- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho đội

ngũ cán bộ quản lí chinh sách BHYT của xã;

-Tranh thủ, huy động các nguồn lực tài chính để phát triển cơ sở hạ

tầng, sửa chữa nâng cấp trạm y tế và thực hiện đầy đủ chính sách BHYT.

- Phát huy vai trò giám sát của mặt trận, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,

Hội cựu chiến binh và của các già làng, người uy tín trong việc thực thi và

giám sát thực hiện chính sách BHYT.

3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT

đối với đồng bào DTTS

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn thực

thi.

- Các ngành BHXH, LĐTBXH, Trung tâm y tế huyện Nam Giang chủ

động, tích cực tham mưu Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Nam Giang, xây

dựng Nghị quyết, Kế hoạch nhằm cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước về chính sách BHYT thành hệ thống văn bản riêng hướng

dẫn thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện

Nam Giang. Trên cơ sở đó, hàng năm có chương trình, kế hoạch thực hiện

chính sách BHYT cụ thể, đề ra các chỉ tiêu, hướng dẫn qui trình, lộ trình thực

hiện, phân công cơ quan đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện bảo đảm

về đối tượng, thời gian cấp phát thẻ BHYT, tổ chức KCB, CSSK chu đáo,

nhiệt tình, thực hiện thanh toán Quỹ BHYT đúng theo qui định của nhà nước.

- Các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách phải do cơ quan chủ trì

thực hiện chính sách xây dựng, trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương trong từng giai đoạn, để xây dựng kế hoạch,

bao gồm kế hoạch hàng năm, trung hạn, dài hạn. Kế hoạch phải sát hợp với

tình hình thực tiễn của huyện, xã có tính khả thi cao và có các công cụ, chỉ số

62

để đo lường, đánh giá, tránh tình trạng rập khuôn, hô hào chung chung mà

thiếu các biện pháp khả thi.

- Trong phần nội dung của Chương trình, Kế hoạch thực hiện chính

sách BHYT đối với đồng bào DTTS phải bao gồm các nguồn lực về con

người, tài chính và các nguồn lực khác để thực hiện chính sách; có thời gian

cụ thể và phân công trách nhiệm cụ thể, hợp lý giữa các chủ thể chính sách

dân tộc.

- Ngoài ra, các ngành BHXH, LĐTBXH, Trung tâm y tế huyện phải

thường xuyên phối hợp, có sự trao đổi thông tin, thống nhất về số liệu, về qui

trình, thủ tục hồ sơ đề nghị, giải quyết, phương thức tổ chức thực hiện theo

mô hình một cửa, tránh việc đùn đẩy trách nhiệm.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện chính

sách.

- Nâng cao nhận thức, vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy đảng,

chính quyền, mặt trận đoàn thể từ huyện đến xã về chính sách BHYT trong

quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách BHYT tại địa phương.

UBND huyện cần đưa nội dung thực hiện chính sách BHYT trở thành một

trong những nhiệm vụ cơ bản cấp bách, cần thiết trong công tác lãnh đạo, chỉ

đạo điều hành vào trong chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

hàng năm và những năm tiếp theo; phân cấp, giao trách nhiệm cho các địa

phương trong việc quản lý, sử dụng, lồng ghép các nguồn lực để thực hiện

chính sách BHYT.

- Tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành thực hiện chính sách

gồm LĐTBXH, BHXH và Trung tâm Y tế huyện, giữa các ngành thường

xuyên trao đổi thông tin, phối hợp giải quyết công việc nhanh chống, chính

xác tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS

trong việc thực hiện chính sách BHYT. Tập trung, đẩy mạnh công tác kiểm

63

tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách BHYT tại các cơ quan phải thường

xuyên, định kỳ và đột xuất; Nếu phát hiện các biểu hiện vi phạm về chính sách

BHYT, tùy theo mức độ, nếu nặng, nghiêm trọng thì cần xủ lý nghiêm minh.

- Tăng cường các nguồn lực để đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế

nhằm thực thực hiện chính sách BHYT, đảm bảo hiệu quả và đạt mục tiêu đề

ra. Nguồn lực cho việc thực hiện chính sách cần được huy động từ ngân sách

Trung ương, các địa phương, các tổ chức quốc tế và cần khai thác các nguồn

lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách nhà nước, khai thác sự

tài trợ của các tổ chức quốc tế và các chính phủ. Đặc biệt, là tăng cường hỗ

trợ, giảm bớt cho không, tăng vốn đối ứng của đối tượng hưởng lợi, để nhằm

giảm sự ỷ lại, trông chờ vào nhà nước và tăng chủ động của đồng bào.

- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyện môn nghiệp

cho đội ngũ y, bác sĩ và đội ngũ cán bộ xã, huyện làm công tác thực hiện

chính sách BHYT đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.

Tiếp tục giáo dục, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức nghề

nghiệp, thái độ, tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ y, bác sĩ và đội ngũ

cán bộ thực hiện chính sách BHYT, lấy miền tin của nhân dân, làm cơ sở,

thước đo đánh giá cán bộ hàng năm.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính từ huyện đến xã, thống nhất thủ tục

thực hiện chính sách BHYT và đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến

vào thực hiện chính sách BHYT, phần mền trong công tác quản lý đối tượng

tham gia BHYT, cập nhật thông tin cá nhân, bổ sung, thay đổi, cắt giảm,

chuyển đi, chuyên đến…khai thác các thông tin cần thiết khác, làm cơ sở để

xây dựng, hoạch định và thực hiện bảo đảm các chính sách ASXH đối với

người dân, trong đó có người đồng bào DTTS trên địa bàn huyện tốt hơn

Bên cạnh đó, tiếp tục liên kết với các bệnh viện lớn, bệnh viện tỉnh để

được hỗ trợ giúp đỡ, chuyển giao kỷ thuật điều trị tiên tiến, hiện đại.

64

Song song, tiếp tục bảo tồn, khai thác, sử dụng những bài thuốc dân

gian và phương pháp chữa bệnh cổ truyền có giá trị của đồng bào các dân tộc

đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, khuyến khích các hoạt

động KCB đông y.

3.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động

- Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức,

trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ của

công tác thực hiện BHYT trong tình hình mới. Coi công tác thực hiện chính

sách BHYT là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của các cấp ủy đảng,

chính quyền, mặt trận, đoàn thể từ huyện đến xã. Tuyên truyền sâu rộng cho

mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân,

- Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động đối với đồng bào DTTS

bằng nhiều phương pháp, dễ hiểu, dễ nắm, dễ nhớ, thông qua các già làng,

Trưởng bản, người có uy tín trong đồng bào DTTS để có thể chuyển tải đầy

đủ ý nghĩa, nội dung của chính sách BHYT, hướng dẫn, giải thích, phân tích

để bà con hiểu về các quyền lợi được hưởng khi tham gia BHYT, trong đó

bao gồm bảo vệ lợi ích an sinh cho cá nhân, gia đình và cả cộng đồng, KCB

theo khoa học hơn là thầy cúng, thầy lang.

- Đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng tuyên dương các cá nhân,tập

thể, cơ quan, đơn vị thực hiện tốt chính sách BHYT, chính sách ASXH, bảo

đảm người dân được sử dụng nước sạch, nhà tiêu vệ sinh, xử lý nước thải,

khắc phục ô nhiễm môi trường, CSSK chu đáo, kịp thời. Qua đó, nâng cao

nhận thức trong cán bộ, nhân dân về chính sách BHYT để nhân dân thấy rõ

lợi ích, ý nghĩa của chính sách BHYT đối với cuộc sống, sức khỏe mỗi người,

gia đình, cộng đồng.

- Công tác tuyên truyên, phổ biến sâu rộng trong toàn xã hội, cho mọi

người dân cần phải tiến hành đồng bộ, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp

65

luật BHYT trên các phương tiên thông tin đại chúng, báo chí, trên sóng phát

thanh, trên truyền hình, các pano, áp phích, tranh cổ động, tuyên truyền đa

dạng với nhiều nội dung phù hợp với từng đối tượng tham gia BHYT. Chú

trọng thực hiện công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng

viên, người lao động và nhân dân về chính sách BHYT để họ tự quan tâm,

bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của mình. Tổ chức việc học tập phổ

biến, tuyên truyền nội dung của Luật, mở các chuyên trang, tin bài, chuyên

mục, phóng sự, thông qua đó, sẽ góp phần nâng cao nhận thức.

3.2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá

- Công tác kiểm tra cần được thực hiện thường xuyên, kiểm tra theo kế

hoạch, kiểm trả đột xuất, định kỳ. Kiểm tra có trọng tâm, nội dung cụ thể

không dàn trải. Từ kiểm tra nghiêm túc, chặt chễ sẽ có kết quả đáng giá hiệu

quả thực hiện chính sách. Các chủ thể chính sách, đối tượng thụ hưởng và đối

tượng tác động chính sách BHYT, đặc biệt là những cơ quan thực thi chính

sách, trong quá trình thực hiện cần kịp thời phát hiện và chủ động đề xuất các

giải pháp về duy trì chính sách dân tộc có hiệu quả. Do đó để nâng cao công

tác kiểm trả có hiệu quả thì phải xác định đối tượng, nội dung, lĩnh vực kiểm

tra; thời gian tổ chức, địa điểm kiểm tra. Kết quả kiểm tra phải trung thực,

khách quan với thực tế. Đã có nhiều cuộc kiểm tra, thanh tra không sát với

thực tế, kết luận thanh tra không đầy đủ nên sau kiểm tra đó những hạn chế

tồn tại, vướng mắc hoặc sai sót không thấy được khắc phục, tháo gỡ. Chính vì

vậy, thời gian đến thủ trưởng các cơ quan, ban ngành của huyện Nam Giang

phải gương mẫu và nâng cao trách trách nhiệm, tăng cường công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng đạo đức, bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, nâng cao

trình độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện công tác

kiểm tra, thanh tra viên để công tác thanh tra hiệu quả. Bên cạnh đó, tăng

cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các qui định pháp luật và

66

thực hiện các biện pháp tham nhũng, xử lý nghiêm tập thể, cá nhân vi phạm

pháp luật chính sách BHYT và khen thưởng những cá nhân, đơn vị thực hiện

tốt.

- Công tác kiểm tra chính sách BHYT phải được thực hiện tốt, thường

xuyên tại các xã, các ngành, cơ quan quản lý chính BHYT. Cũng như các

chính sách công khác, chính sách BHYT không thể đúng với mọi thời gian,

hoàn cảnh, vì vậy trong quá trình thực hiện phải theo dõi, kiểm tra, đôn đốc

và phát hiện các bất cập, để đề xuất cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh kịp

thời, nhằm chính sách đem lại hiệu quả cao, phù hợp với thực tiễn khách quan

đang diễn ra hết sức sinh động và phức tạp. Các giải pháp điều chỉnh chính

sách BHYT phải xuất phát từ thực tiễn, có sự tham gia của người dân vùng

đồng bào DTTS, miền núi. Việc điều chỉnh chính sách BHYT phải theo

hướng phân cấp mạnh và trao quyền tự chủ cho cấp cơ sở, hạn chế cơ chế xin

cho; điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, tích hợp các chính sách đối với vùng đồng

bào DTTS và miền núi theo hướng đơn giản, thống nhất trong hệ thống văn

bản, tránh chồng chéo, mâu thuẫn và cần thống nhất một đầu mối quản lý. Có

như vậy, công tác kiểm tra, đánh giá sẽ đầy đủ hơn, chính xác hơn những

vướng mắc hạn chế, khó khăn, tồn tại hạn chế tại các cơ quan, địa phương sẽ

sơm được khắc phục.

- Do đặc thù miền núi, nơi có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, công

tác đào tạo, bồi dưỡng tiếng DTTS cho cán bộ làm chính sách BHYT là cần

thiết, để công tác kiểm tra, đánh giá, hướng dẫn, giải thích cho đồng bào về

chính sách BHYT của Đảng, Nhà nước đầy đủ kịp thời, có như vậy chính

sách mới đi vào cuộc sống, làm thay đổi nhận thức của người dân, đặc biệt là

đồng bào DTTS.

3.2.5. Giải pháp nâng cao nhận thức cho người dân.

- Chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS là một trong những chính

67

sách đặc thù, đối tượng tác động và thụ hưởng là đồng bào DTTS ở vùng sâu,

vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; khả năng tiếp cận thông tin thấp. Vì vậy,

việc tuyên truyền phổ biến chính sách dân tôc cần phải được đổi mới về nội

dung, đa dạng về hình thức tuyên truyền, có thể thông qua nhiều kênh thông

tin, đa dạng, thường xuyên đối thoại, xử lý, giải quyết các vấn đề nổi cộm có

tính bức xúc trong dân, xây dựng mối đoàn kết, gắn kết, tạo dựng niềm tin

trong đồng bào.

- Tăng cường công tác chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, mặt

trận đối với công tác tuyên truyền chính sách BHYT. Việc thực hiện chính

sách BHYT đối với đồng bào DTTS không chỉ là nhiệm vụ riêng của các cơ

quan chuyên môn, của riêng các đồng bào các DTTS mà đây là nhiệm vụ của

toàn bộ hệ thống chính trị, của tất cả các cấp, các ngành, của nhân dân tất cả

các dân tộc. Do đó, cần phải có sự phân công hợp lý, phối hợp chặt chẽ trong

việc thực hiện chính sách BHYT, đề cao vai trò của mặt trận, hội đoàn thể

trong công tác tuyên truyền đối với hội viên, phát huy vai trò của các già làng,

trưởng bản, người uy tín đối với cộng đồng về chính sách BHYT đến đồng

bào DTTS trên địa bàn huyện.

- Tăng cường năng lực và nâng cao vị thế của người DTTS để họ có thể

đón nhận các cơ hội tiếp cận hệ thống ASXH ở mức tối đa nói chung, chính

sách BHYT nói riêng. Sự tham gia rộng rãi hơn của người dân vào lập kế

hoạch, ý kiến đóng góp cải thiện chất lượng dịch vụ và giám sát việc thực

hiện các chính sách bảo hiểm y tế đóng vai trò quan trọng trong nâng cao cơ

hội tiếp cận và chất lượng cung cấp dịch vụ BHYT.

3.3. Một số kiến nghị về thực hiện chính sách BHYT đối với đồng

bào DTTS

3.3.1. Đối với Trung ương (Chính phủ, các Bộ, ngành)

Đa số đồng bào DTTS thuộc hộ nghèo, nhóm yếu thế trong xã hội được

68

nhà nước hỗ trợ kinh phí mua thẻ BHYT. Để chủ động trong triển khai thực

hiện chính sách BHYT, đề nghị Quốc hội, Chính phủ:

- Cần sớm nghiên cứu, xây dựng, mở rộng đối tượng người đồng bào

DTTS được nhà nước hỗ trợ thẻ BHYT không chỉ áp dụng cho đồng bào

DTTS ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn mà bổ sung đồng bào

DTTS ở các vùng khác trong cả nư ớc, có thể xem xét trên một số tiêu chí

như nơi sinh sống, dân số dân tộc, trình độ dân trí ….từ đó, để làm cơ sở

chính sách hỗ trợ phù hợp.

- Bố trí nguồn lực thực hiện các chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS để bảo đảm thực hiện các mục tiêu đặt ra. Đa dạng hóa nguồn lực đầu

tư vào vùng dân tộc miền núi; trong đó ngân sách Nhà nước là chủ yếu, chú

trọng huy động vốn ODA. Tăng cường thu hút sự tham gia của các doanh

nghiệp vào địa bàn vùng dân tộc miền núi. Việc cấp vốn và tổ chức triển khai

thực hiện cần đồng bộ, kịp thời theo thứ tự ưu tiên, đầu tư có trọng tâm, trọng

điểm, tránh đầu tư dàn trải.

- Xem xét, phân công cơ quan đầu mối chủ trì một số chương trình,

chính sách đầu tư trong vùng đồng bào DTTS cho phù hợp với đặc thù và đối

tượng quản lý. Tăng cường phân cấp và giao quyền tự chủ cho địa phương

trong việc thực hiện chính sách BHYT.

3.3.2. Đối với UBND tỉnh Quảng Nam

Nam Giang là huyện có nhiều đồng bào DTTS sinh sống, mỗi dân tộc

có phong tục, tập quán, tiếng nói riêng. Do đó đề nghị UBND tỉnh Quảng

Nam quan tâm:

- Tổ chức mở các lớp đào tạo tiếng các dân tộc cho cán bộ quản lý thực

hiện chính sách BHYT của xã và huyện. Ví dụ cán bộ là người dân tộc Cơtu

thì đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc Giẻ triêng và ngược lại.

- Bố trí nguồn kinh phí để tổ chức tốt công tác tuyên truyền chính sách

69

BHYT cho người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS ở vùng biên giới, vùng sâu,

vùng xa. Như mua sắm sửa chữa máy móc, loa phát thanh tại các xã, hỗ trợ

các già làng, người uy tín tuyên truyền chính sách BHYT.

- Quan tâm chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch và ban hành các

chính sách chiến lược lâu dài đầu từ xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị thiết bị y

tế đối với các trạm y tế xã, bổ sung các chinh sách hỗ trợ đối với đồng bào

DTTS ở vùng sâu, biên giới khi ốm đau chuyển tuyến.

3.3.3. Đối với các Phòng, ban, ngành của huyện Nam Giang

- Bố trí kinh phí đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyện môn, nghiệp vụ

cho đội ngũ y, bác sĩ và đội ngũ cán bộ xã thực hiện chính sách BHYT.

- Tập trung các nguồn lực đầu tư xây dựng, mua sắm trang thiết bị y tế

hiện đại cho các trạm y tế biên giới.

70

Tiểu kết Chương 3

BHYT đóng một vai trò quan trọng trong công tác CSSK cho người dân,

trong đó có đồng bào DTTS. Với ý nghĩa đó, trong những năm qua, tỉnh

Quảng Nam, trong đó có huyện Nam Giang luôn quan tâm chỉ đạo để thực

hiện tốt công tác này. Nhiều Chương trình, Nghị quyết của tỉnh, huyện được

ban hành và thực hiện nhằm đảm bảo đời sống sức khỏe cho đồng bào DTTS.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Để

nâng cao hiệu quả cho công tác thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS trong thời gian tới cần chú trọng đến các giải pháp cụ thể như: Hoàn

thiện hệ thống văn bản, nâng cao hiệu quả của công tác tổ chức, nâng cao hiệu

quả của công tác tuyên truyền, vận động và nâng cao nhận thức cho người dân

trong công tác thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa

bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

Vì thế, trong triển khai, nó cần được tất cả các tổ chức hợp thành hệ

thống chính trị tham gia một cách đồng bộ, đặc biệt là có sự tham gia của

người dân, cộng đồng các DTTS. Đồng thời, chính quyền các cấp và cơ quan

quản lý nhà nước về công tác chính sách BHYT cần tăng cường sự tham mưu,

phối hợp với các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, trong việc

thực hiện chính sách dân tộc ở địa phương. Trong đó, cần tập trung đẩy mạnh

công tác tuyên truyền, kiểm tra giám sát, phổ biến chính sách thường xuyên,

sâu rộng đến đối tượng thụ hưởng chính sách để nhân dân tham gia trực tiếp

vào quá trình triển khai thực hiện, phát huy nội lực, tự vươn lên, chủ động

trong sản xuất, thoát nghèo; chống tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước,

góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa miền núi và đồng bằng, từng

bước thực hiện mục tiêu bình đẵng, đoàn kết giữa các dân tộc ở địa phương.

71

KẾT LUẬN

Tổng quan tình hình nghiên cứu chính sách BHYT đối với các nhóm đối

tượng yếu thế trong xã hội, hiện nay được nhiều tác giả trong và ngoài nước

quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS ở

nước ta thì tương đối mới mẽ, các công trình nghiên cứu về chính sách BHYT

đối với đối tượng này còn rất khiêm tốn. Do vậy, nghiên cứu về chính sách

BHYT đối với đồng bào DTTS ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ cần thiết và có

ý nghĩa xã hội thiết thực.

Qua nghiên cứu kết quả thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào

DTTS ở huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam, có thể nhận thấy những mặt

tích cực của chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS. Đó là:

- Có nhiều đồng bào DTTS tham gia BHYT trên địa bàn huyện Nam

Giang chiếm tỷ lệ khá cao (gần 98%). Điều này cho thấy đồng bào DTTS có

nhu cầu tham gia BHYT lớn.

- Chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS đã làm thay đổi về nhận thức

của đồng bào đối với chính sách BHYT, từ thờ ơ không quan tâm sang chú ý

quan tâm, từ không có ý nghĩa sang có ý nghĩa đối với sức khỏe, cuộc sống.

- Chính sách BHYT góp phần ổn định cuộc sống cho đồng bào DTTS,

đó là giảm bớt gáng nặng kinh tế, được CSSK, chi phí KCB được quỹ BHYT

thanh toán. Qua đó, đã tạo miền tin trong đồng bào DTTS đối với chính quyền

địa phương.

Tuy nhiên, vẫn còn đó những mặt hạn chế tồn tại yếu kém trong công tác

thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS ở huyện Nam Giang, tỉnh

Quảng Nam mà thời gian tới, cần phải tiếp tục khắc phục, cụ thể:

- Số lượng người DTTS được cấp thẻ BHYT có số lượng lớn nhưng số

lượng người dân đi KCB chưa nhiều, việc tiếp cận các dịch vụ y tế chưa đầy đủ.

72

- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý thực hiện

chính sách BHYT, đội ngũ y, bác sĩ còn hạn chế…dẫn đến chất lượng KCB

chưa cao, thái độ phục vụ nhân dân chưa tốt, tình trạng quản lý, in cấp phát

thẻ BHYT thiếu, sai sót vẫn còn diễn ra…

Trước những khó khăn thách thức trong quá trình tổ chức thực hiện

chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa bàn huyện Nam Giang, tác

giả cũng đã đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác xây

dựng kế hoạch, công tác tuyên truyền, công tác tổ chức, công tác kiểm tra đối

với các cấp, các ngành của huyện Nam Giang, trong thời gian tới.

Với ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác CSSK nhân dân, trong đó

có công tác CSSK cho đồng bào DTTS ở miền núi huyện Nam Giang. Với

những kiến thức được học tập tại Học viện và thực tiễn thực hiện chính sách

BHYT đối với đồng bào DTTS tại địa phương, tác giả mong muốn góp phần

nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính sách BHYT tại địa phương nên

chọn luận văn: Thực hiện chính sách BHYT đối với đồng bào DTTS trên địa

bàn huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam.

73

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Nguyên Anh và cộng sự (2007) Những yếu tố quyết định khả năng

tham gia BHYT ở Việt Nam, tạp chí Xã hội học, số 1.

2. Trịnh Hòa Bình (2005) BHYT trong hệ thống an sinh xã hội. Một số vấn đề

lý luận và thực tiễn hiện nay. Viện Xã hội học, Hà Nội.

3. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (2016) Thông tư số 25/2016/TT-

BLĐTBXH ngày 26/07/2016 hướng dẫn xác định, quản lý đối tượng

tham gia BHYT theo quy định tại Khoản 4, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật BHYT.

4. Bộ Y tế - Bộ Tài chính (2014) Thông tư số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày

24/11/2014 về việc hướng dẫn thực hiện BHYT;

5. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2015) Quyết định số 1351/QĐ-BHXH ngày

16/11/2015 về việc qui định mã số ghi trên thẻ BHYT.

6. Đàm Viết Cương (2007) Tình hình chăm sóc sức khỏe cho người nghèo tại

05 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây nguyên, NXB Viện Chiến lược và

Chính sách Y tế.

7. Chính phủ (2005) Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2005

về việc ban hành điều lệ BHYT.

8. Chính phủ (2014) Nghị định số105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật BHYT.

9. Phạm Huy Dũng, Nguyễn Kim Cúc, Nguyễn Khánh Phương, Trần Thị Mai

Oanh (1999) Viện phí và người nghèo ở Việt Nam, NXB Viện Chiến

lược và Chính sách y tế.

10. Hội đồng Bộ trưởng (1992) Nghị định 299/HĐBT-36 ngày 25 tháng 8

năm 1992 về “BHYT đối với các đơn vị doanh nghiệp liên doanh, các tổ

chức, văn phòng đại diện của người nước ngoài, tổ chức quốc tế đặt tại

Việt Nam có thuê lao động là người Việt Nam, trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh”.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23 tháng

2 năm 2003 về Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân

dân trong tình hình mới.

12. Đảng cộng sản Việt Nam (2012) Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày

22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam Ban (2017) Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày

25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức

khỏe nhân dân trong tình hình mới.

14. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam (2011) Nghị quyết số 31/2011/NQ-

HĐND ngày 09/12/2011 về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo tỉnh Quảng

Nam, giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2025;

15. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam (2014) Nghị quyết số 119/2014/NQ-

HĐND ngày 11/12/2014 về Thực hiện chính sách khuyến khích thoát

nghèo bền vững, giai đoạn 2014-2015, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;

16. Huyện ủy Nam Giang (2007) Nghị quyết số 06/NQ-HU ngày 16/11/2007

của về nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và CSSK nhân dân giai

đoạn 2007- 2010 và những năm tiếp theo;

17. Huyện ủy Nam Giang (2018) Chương trình số 50-CTr/HU ngày

16/3/2018 về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban chấp hành

Trung ương (khóa XII) về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng

cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới;

18. Hội đồng nhân dân huyện Nam Giang (2013) Nghị quyết số 18/2013/NQ-

HĐND ngày 18/7/2013 về thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững

huyện Nam Giang giai đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm 2020.

19. Nguyễn Khánh Phương (2002) Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ CSSK

cho người nghèo: Đánh giá chính sách thu viện phí, NXb Viện chiến

lược và Chính sách y tế.

20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008) Luật BHYT

số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua.

21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014) Luật BHYT

số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều

của Luật BHYT 2008.

22. Trần Văn Tiến (2010) Tổng quan về Chính sách Bảo hiểm y tế ở một số

nước trên thế giới, Tạp chí Chính sách y tế, số 6/2010.

23. Trần Văn Tiến (2011) Tổng quan về Chính sách Bảo hiểm y tế ở một số

nước trên thế giới (Phần II), Tạp chí Chính sách y tế, số 7/2011.

24. Thủ tướng Chính phủ (2002) Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày

15/10/2002 về việc “Khám, chữa bệnh cho người nghèo”.

25. Thủ tướng Chính phủ (2012) Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày

15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về “Khám, chữa bệnh cho người

nghèo”.

26 Thủ tướng Chính phủ (2013) Quyết định số 538/2013/QĐ-TTg ngày

21/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng đối tượng tham gia

BHYT.

27. Thủ tướng Chính phủ (2015) Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày

9/11/2015 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo tiếp cận đa chiều, áp dụng

cho giai đoạn 2016-2020.

28. Thủ tướng Chính phủ (2016) Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày 02/9/2016

phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai

đoạn 2016-2020.

29. Thủ tướng Chính phủ (2016) Quyết định số 1167/QĐ-TTg ngày 28/6/2016

của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh giao chỉ tiêu thực hiện

BHYT giai đoạn 2016-2020.

30. Tỉnh ủy Quảng Nam (2016) Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 27/04/2016 về

đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2016-2020, trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam.

31. Ủy ban nhân dân huyện Nam Giang (2013) Quyết định số 1825/QĐ-

UBND ngày 05/12/2013 về Đề án thực hiện Chương trình giảm nghèo

bền vững giai đoạn 2013 - 2015 và định hướng đến năm 2020

36. Ủy ban nhân dân huyện Nam Giang (2015, 2016, 2017, 2018) Báo

cáo tình hình phát triển KT-XH trên địa bàn huyện Nam Giang.

37. Ủy ban nhân dân huyện Nam Giang (2016) Quyết định số 954/QĐ-UBND

ngày 09/6/2016 về Đề án xây dựng xã đạt chuẩn tiêu chí quốc gia về y tế

trên địa bàn huyện Nam Giang, giai đoạn 2016-2020

39. Xã luận: Xuân an sinh, khởi sắc, đất nước phát triển bền vững, Tạp chí

BHXH số 2A, 2017.

PHỤ LỤC

MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG KHÁM CHỮA BỆNH

Ảnh 1: Đường lên trung tâm xã Chơ Chun, huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam

Nguồn: Bh Nướch Hải, tháng 6/2019

Ảnh 2: Trạm Y tế xã Chơ Chun huyện Nam Giang

Nguồn: Bh Nướch Hải, tháng 6/2019

Ảnh 3: Hoạt động khám chữa bệnh tại trạm Y tế xã Chơ Chun

Nguồn: Bh Nướch Hải, tháng 6/2019

Ảnh 4: Đ/c Tơ Ngôl Vui - Phó giám đốc Trung tâm Y tế huyện Nam Giang

thăm tặng quà đối tượng người có công cách mạng

Nguồn: Bh Nướch Hải, tháng 6/2019

Ảnh 5: Trạm Y tế xã Tà Bhing huyện Nam Giang

Nguồn: Bh Nướch Hải, tháng 6/2019

Ảnh 6: Hoạt động khám chữa bệnh tại trạm Y tế xã Tà Bhing huyện Nam Giang

Nguồn: Bh Nướch Hải, tháng 6/2019