VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC SƠN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC SƠN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
Ngành
: Chính sách công
Mã số
: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CAO THU HẰNG
HÀ NỘI, 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, sự phát triển của ngành du lịch cho thấy rằng,
du lịch có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia, một cộng đồng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, “Chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã khẳng định: “Đến
năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên
nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản
phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn
hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới. Phấn đấu
đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển” [28].
Thực tiễn phát triển ngành du lịch cho thấy, trong những năm qua, du lịch
Việt Nam đã đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Năm 2016, du lịch Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức nổi
bật đáng trân trọng, với việc đón và phục vụ 11 triệu lượt khách du lịch quốc tế,
tăng 26% so với năm 2015; 62 triệu lượt khách du lịch nội địa; tổng thu trực tiếp
từ khách du lịch đạt 400.000 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2017, ngành Du
lịch Việt Nam lại tiếp tục có bước đi bứt phá, với việc đón 6,2 triệu lượt khách
quốc tế, tăng 30,2% so với cùng kỳ năm 2016; khách du lịch nội địa đạt 40,7
triệu lượt, tăng hơn 15%; tổng thu trực tiếp từ du lịch trong 6 tháng đầu năm ước
đạt 255.000 tỷ đồng.
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển ngành du lịch, ngày 16-1-
2017, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, đặt ra những mục tiêu hết sức to lớn và nặng nề cho
ngành du lịch, đến năm 2020 đón từ 17- 20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82 lượt
khách du lịch nội địa, đóng góp khoảng 10% GDP cho kinh tế đất nước [5].
Thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước,
1
trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền và các ban ngành tỉnh Phú Thọ đã
triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch, nhờ đó, ngành du lịch Tỉnh đã
có rất nhiều chuyển biến; các khu, điểm du lịch trọng điểm tại các huyện thị từng
bước được xây dựng, như Việt Trì, Thanh Thủy, Tân Sơn, Hạ Hòa,… Việc xây
dựng các điểm đến, các tour tuyến mới phục vụ du khách được đặc biệt coi trọng
và đã thu được những kết quả ban đầu. Qua đó, doanh thu du lịch dịch vụ tăng
cao, đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng
cao đời sống của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.
Đạt nhiều thành tựu quan trọng, nhưng hoạt động du lịch trên địa bàn thực
sự vẫn rất khó khăn, nhất là vấn đề sản phẩm du lịch nghèo nàn, chưa xây dựng
được những tour, tuyến đặc sắc có sức hấp dẫn mạnh mẽ với du khách. Các sản
phẩm du lịch, các khu du lịch vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng. Việc triển
khai và ban hành các chính sách đặc thù liên quan đến lĩnh vực du lịch được ban
hành còn chậm trễ. Công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động du lịch có nơi, có
lúc còn nơi lỏng. Công tác tổng kết, đánh giá thực tiễn đôi khi còn mang tính
hình thức. Một số chính sách ra đời chưa đáp ứng với sự đổi thay nhanh chóng
của đời sống xã hội; một số chính sách còn chồng chéo, hoặc chưa bao quát….
Chính việc thực thi chính sách phát triển du lịch chưa được như mong muốn như
vậy là một trong những nguyên khiến du lich tỉnh Phú Thọ chưa phát huy hết thế
mạnh của mình. Số lượng khách lưu trú ở lại Phú Thọ chưa cao. Doanh thu ngành
du lịch chưa đạt được chỉ tiêu như mong muốn.
Để phát triển du lịch đúng hướng, hiệu quả, xứng với tiềm năng lợi thế và
đặc biệt thể hiện đúng vai trò là một trong những khâu đột phá của nền kinh tế thì
việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ là rất
quan trọng. Đó chính là lý do học viên lựa chọn vấn đề Thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ để triển khai nghiên cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên bình diện vĩ mô, nghiên cứu về phát triển du lịch và chính sách phát
2
triển du lịch ở Việt Nam cũng đã được một số học giả tập trung làm rõ. Công
trình Du lịch văn hóa của Nguyễn Phạm Hùng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2017); công trình Du lịch Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tiễn của hai tác giả
Phan Huy Xu, Võ Văn Thành (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2018) đã
đề cập đến những vấn đề chung về văn hóa, về du lịch, phát triển du lịch; tôn giáo,
tín ngưỡng; phong tục tập quán; lễ hội… trong phát triển du lịch. Dù không đề cập
trực tiếp đến chính sách và thực hiện chính sách phát triển du lịch nhưng những nội
dung trình bày trong đó là tài liệu hữu ích cho tác giả luận văn tham khảo.
Ngoài ra, liên quan đến vấn đề này còn có thể kể đến một số công trình
sau: Phạm Trung Lương (2007) - “Phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi
trường”, Tạp chí Du lịch số 7/2007; Lưu Đức Hải (2009) - Phát triển các ngành
du lịch trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí số 8 về
Tổng quan kinh tế xã hội Việt Nam số 4-2009, Hà Nội… Các công trình này đều
khẳng định tầm quan trọng của phát triển du lịch và thực hiện chính sách phát
triển du lịch; cho thấy vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế nói chung,
và công tác bảo tồn di sản văn hóa nói riêng. Các công trình cũng khẳng định,
việc phát triển du lịch cần tránh tình trạng “ăn xổi”, chỉ thấy được cái lợi trước
mắt, mà bỏ qua những tác hại sau đó, như vấn đề ô nhiễm môi trường, bản sắc
văn hóa dân tộc bị mai một trong quá trình thực hiện phát triển du lịch,…
Ngoài các công trình trên, đã có một số luận văn cũng đã đề cập đến việc
thực hiện chính sách phát triển du lịch, như Hoàng Thị Thu Hương (2013), “Phát
triển du lịch Quảng Nam theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sĩ, Viện khoa
học xã hội Vùng Trung Bộ; Vương Minh Hoài (2011), “Phát triển du lịch theo
hướng bền vững ở Quảng Ninh”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế - đại học
Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Khánh An (2017), “Thực hiện chính sách phát triển du
lịch bền vững từ thực tiễn thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An”, Luận văn thạc sỹ Chính
sách công, Học viện Khoa học xã hội; Khương Thị Hồng Nhung (2016), “Thực
hiện chính sách phát triển du lịch bền vững từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình”, Luận
3
văn thạc sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;…
Ở tỉnh Phú Thọ, trong một chừng mực nhất định, các nghiên cứu liên quan
đến thực hiện chính sách phát triển du lịch cũng đã được tập trung làm rõ. Có thể
kể đến một số chương trình, công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển du
lịch của tỉnh Phú Thọ như:
- Quy hoạch các di tích khảo cổ tỉnh Phú Thọ giai đoạn 1997-2015 và
định hướng đến năm 2020. Quy hoạch đã đánh giá được thực trạng các di tích
khảo cổ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; xác định rõ nhiệm vụ, giải pháp để bảo tồn và
phát triển các di tích trên địa bàn đến năm 2020, là cơ sở để xây dựng hồ sơ và
đề nghị công nhận xếp hạng các di tích khảo cổ cấp quốc gia và cấp tỉnh, đồng
thời đây là cơ sở pháp lý để bảo vệ di tích tránh tình trạng bị mai một và xâm
lấn. Tuy nhiên, Quy hoạch mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá và định hướng trong
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các di tích khảo cổ, chưa có
đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, quy hoạch các di tích; lấy đó là một trong
những căn cứ để bảo tồn và phát huy, thu hút khách du lịch.
- Chu Thị Thanh Hiền: Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (Đề tài khoa học 2012): Đề tài đã tập trung nghiên cứu
các điều kiện hình thành và phát triển, đồng thời đã đánh giá sơ bộ được hiện
trạng cũng như tiềm năng phát triển hình thức du lịch cộng đồng trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ; phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong tổ chức thực
hiện và những hiệu quả phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh do du lịch cộng
đồng mang lại, từ đó đưa ra các giải pháp khai thác tiềm năng phát triển du lịch
cộng đồng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, đề tài chưa nêu bật được vị trí, vai trò
cũng như tầm ảnh hưởng của hình thức du lịch cộng đồng đối với sự phát triển
kinh tế, xã hội của tỉnh; chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể, chiến lược
một cách hệ thống để phát triển tiềm năng du lịch trong tỉnh.
- Nguyễn Thị Thịnh, Ngô Văn Nhuận: Khảo sát thực trạng lao động làm
việc trong các Doanh nghiệp dịch vụ du lịch và đề xuất các giải pháp đào tạo
4
lao động phục vụ việc phát triển ngành du lịch trên địa bàn huyện Thanh Thủy,
tỉnh Phú Thọ (Đề tài nghiên cứu khoa học 2012): Đề tài tập trung rà soát, đánh
giá thực trạng lao động làm việc trong các Doanh nghiệp du lịch trên địa bàn
huyện Thanh Thủy, một trong những huyện có điều kiện thuận lợi để phát triển
loại hình du lịch nghỉ dưỡng với nguồn nước khoáng nóng. Tuy nhiên, cơ bản đề
tài mới chỉ dừng lại ở việc rà soát, thống kê số lượng lao động du lịch trong các
doanh nghiệp trên địa bàn huyện, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc quản
lý, sử dụng lao động, chưa đề xuất được hệ thống các giải pháp cụ thể để phát
triển du lịch trong Huyện nói chung, giải pháp đào tạo nhân lực ngành du lịch
nói riêng. Song, những nội dung mà đề tài triển khai là tài liệu tham khảo hữu
ích cho tác giả khi triển khai nghiên cứu luận văn của mình.
- Phùng Quốc Việt: Nghiên cứu, kết nối du lịch Phú Thọ với các tuyến du
lịch vùng Tây Bắc mở rộng (Đề tài khoa học 2012): Đề tài đã nêu bật được cơ sở
lí luận và cơ sở thực tiễn về du lịch và hoạt động du lịch liên vùng, hiện trạng du
lịch tỉnh Phú Thọ và vùng Tây Bắc mở rộng (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai
Châu, Yên Bái, Lào Cai và Hà Giang), đưa ra những định hướng và đề xuất giải
pháp kết nối du lịch Phú Thọ với du lịch vùng Tây Bắc mở rộng; Xây dựng bản
đồ các tuyến kết nối (theo tuyến đường giao thông: đường bộ, đường thủy,
đường sắt, đường hàng không). Tuy nhiên, đề tài mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra
những giải pháp, định hướng cho việc kết nối liên vùng giữa du lịch Phú Thọ với
các tỉnh Tây Bắc, chưa nêu bật được tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Phú
Thọ với vị trí là trung tâm của vùng Tây Bắc, chưa đánh giá cụ thể được những
tồn tại, hạn chế trong việc phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh và địa bàn các tỉnh
Tây Bắc; từ đó đưa ra được những giải pháp khắc phục để du lịch Phú Thọ và
các tỉnh Tây Bắc thực sự là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.
Với những điều đã trình bày trên, có thể thấy rằng, liên quan đến chủ đề
phát triển du lịch thì đã có nhiều công trình đề cập đến. Tuy nhiên, hiện nay,
chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp, có hệ thống vấn đề thực hiện
5
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, các công trình
kể trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho học viên trong quá trình thực hiện triển
khai luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng thực
hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành được mục đích đặt ra, luận văn tập trung giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phân tích, làm rõ thực trạng và nguyên nhân của thực trạng thực
hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc
thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bản tỉnh Phú Thọ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tiến hành nghiên cứu, điều tra số liệu và phân tích thực trạng
thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2010
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề trên, luận văn sử dụng các phương pháp như sau:
- Phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
6
duy vật lịch sử.
- Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như:
phân tích, tổng hợp; thống kê, đối chiếu, so sánh… Ngoài ra, đề tài còn tham
khảo số liệu, luận điểm của một số công trình nghiên cứu trước đó.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hệ thống hóa và làm rõ hơn
một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam
hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến phát triển
du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam nói chung, ở Phú Thọ nói
riêng. Luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cầu gồm 3 chương, 12 tiết.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du
lịch ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ.
Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
7
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm du lịch, phát triển du lịch
Trước tiên, để hiểu khái niệm phát triển du lịch, cần thiết làm rõ thuật ngữ
du lịch.
Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “tornos” – mang nghĩa đi
một vòng. Về sau, thuật ngữ “tornos” được dịch sang tiếng Latinh là “tornus” và
tiếng Pháp là “tour” – mang nghĩa đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Tiếp theo đó,
thuật ngữ du lịch xuất hiện trong tiếng Nga: “typnct” và trong tiếng Anh:
“tourism”.
Khoản 1, Điều 3 Luật Du lịch năm 2017 quy định: “Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục
đích hợp pháp khác” [18]. Luận văn sử dụng định nghĩa của Luật Du lịch Việt
Nam năm 2017 để triển khai nghiên cứu.
Có nhiều loại hình du lịch khác nhau, tùy theo cách phân chia. Theo môi
trường tài nguyên, hoạt động du lịch được chia làm 2 nhóm lớn là du lịch văn
hóa và du lịch thiên nhiên. Gọi là du lịch văn hóa khi hoạt động du lịch diễn ra
chủ yếu trong môi trường nhân văn, hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai
thác tài nguyên du lịch nhân văn. Du lịch thiên nhiên diễn ra nhằm thỏa mãn nhu
cầu về với thiên nhiên của con người (như du lịch biển, du lịch núi, du lịch nông
thôn,…) [23,tr.63]. Ngoài cách phân loại như trên, phân loại theo mục đích hoạt
động du lịch thì có thể có du lịch giải trí, du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng,
8
hoặc du lịch kết hợp với các hoạt động khác….
Có thể thấy rằng, với các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú nhằm đáp ứng yêu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí,…
thì nhắc đến hoạt động du lịch người ta cũng thường coi đó là ngành kinh doanh
tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao nhận thức về tự nhiên, về lịch
sử, văn hóa, đất nước, con người; hiệu quả về mặt kinh tế,… Theo nghĩa đó, du
lịch được xem là ngành công nghiệp không khói. Việc đẩy mạnh phát triển du
lịch được các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm, chú trọng. Ở Việt Nam,
trước Đổi mới, du lịch được coi là một hoạt động văn hóa xã hội thuần túy, sau
đó, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội, từ năm 1986, du lịch được coi là một ngành kinh tế
trong lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Với tư cách một ngành nghề kinh doanh,
hoạt động du lịch, một mặt, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm
cho các khu vực có điểm du lịch, tạo sự trao đổi giao lưu văn hóa,…, nhưng mặt
khác, cũng tạo nguy cơ ô nhiễm môi trường; sự phai nhạt bản sắc văn hóa của
các cộng đồng có nhiều du khách đến thăm, sự quá tải về cơ sở hạ tầng,… Chính
vì lý do đó, hoạt động du lịch cần phải được định hướng phát triển.
* Khái niệm phát triển du lịch
Phát triển du lịch là một tất yếu khách quan, gắn với quá trình phát triển
của đời sống kinh tế - xã hội và con người bởi khi con người đã thỏa mãn nhất
định nhu cầu ăn, mặc, ở, họ có thời gian rảnh rỗi, và có điều kiện đi đây đi đó để
cảm nhận được vẻ đẹp của các vùng đất, các nền văn hóa khác nhau,...
Ngày 16 tháng 01 năm 2017, Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số
08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Theo đó,
Nghị quyết khẳng định, phát triển du lịch đã, đang góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân;
đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người
9
Việt Nam [5,tr.1].
Với những điều đã trình bày như trên, có thể thấy, phát triển du lịch là sự
phát triển, một mặt, đáp ứng các yêu cầu về kinh tế - xã hội; mặt khác, là đảm
bảo việc bảo vệ môi trường. Đây là điều mà ngày nay người ta hay gọi là sự
phát triển du lịch bền vững – sự phát triển du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại và
không làm tổn hại đến khả năng phát triển du lịch trong tương lai.
Điều 4, Luật Du lịch năm 2017 quy định nguyên tắc phát triển du lịch như sau:
“1. Phát triển du lịch bền vững, theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, có
trọng tâm, trọng điểm.
2. Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân
tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường
liên kết vùng.
3. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam.
4. Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp
của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.
5. Phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế; tôn trọng và đối
xử bình đẳng đối với khách du lịch”.
1.1.2. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển du lịch
*. Khái niệm chính sách
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể
để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian
nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương
hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa...” [31,tr.475].
Tác giả Smith cho rằng “khái niệm chính sách bao hàm sự lựa chọn có
chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của các lực
10
lượng có quan hệ với nhau”. Smith nhấn mạnh “không hành động” cũng như
“hành động” và nhắc nhở chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào
các quyết định tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định
chống lại sự thay đổi và khó quan sát vì chúng không được tuyên bố trong quá
trình hoạch định chính sách” [40,tr.4].
Cụm từ “chính sách” khi gắn việc thực hiện chức năng, vai trò của nhà
nước (khu vực công) được gọi là chính sách công. Thuật ngữ “chính sách” sử
dụng trong luận văn này được hiểu là chính sách công. Theo đó, chủ thể ban
hành chính sách, mục đích tác động của chính sách và vấn đề chính sách hướng
tới giải quyết đều gắn với chủ thể ban hành của nó – Nhà nước.
Theo James Anderson, “Chính sách công là đường lối hành động có mục
đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải
quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm” [41]. Do đó, B.Guy Peter
cho rằng, “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng
một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân” [19].
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến
lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay
những mối quan tâm của nhà nước. Chính sách công cho phép Chính phủ đảm
nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ
gìn hạnh phúc và an toàn cho mọi người; tạo ra an toàn tài chính và bảo vệ an
toàn Tổ quốc” [17,tr.99-100]. Tác giả Nguyễn Hữu Hải cho rằng, “Chính sách
công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong
đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc
đẩy xã hội phát triển” [7,tr.14]. Đề tài đồng ý với cách tiếp cận của tác giả
Nguyễn Hữu Hải.
Khi đề cập đến chính sách công, người ta thường đề cập đến chu trình của
một chính sách công, bao gồm: xây dựng chính sách, thực thi chính sách và điều
11
chỉnh chính sách [22,tr.31-37]. Mỗi giai đoạn có vai trò và vị trí quan trọng riêng.
Khái niệm Chính sách phát triển du lịch
Với những điều đã trình bày như trên về phát triển du lịch, về chính sách
(công), có thể thấy rằng, chính sách phát triển du lịch là sự cụ thể hóa chủ
trương, đường lối của Đảng bằng những quyết định, quy định của Nhà nước
nhằm giải quyết các vấn đề trong phát triển du lịch; qua đó, tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến sự phát triển du lịch của đất nước nói chung; các vùng miền,
lĩnh vực du lịch nói riêng.
Một cách chung nhất, khi đề cập đến chính sách phát triển du lịch thì
người ta thường đề cập đến các nội dung cơ bản sau:
- Phạm vi và đối tượng của chính sách phát triển du lịch
Chính sách phát triển du lịch được Nhà nước ban hành hướng đến giải
quyết vấn đề trong phát triển du lịch Việt Nam. Khi chính sách được ban hành sẽ
có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự phát triển du lịch trong phạm vi toàn
quốc, hoặc ở những phạm vi vùng miền, lĩnh vực.
- Mục tiêu của chính sách phát triển du lịch
Về cơ bản, việc đề ra chính sách phát triển du lịch, ngoài thực hiện một
mục tiêu cụ thể nào đó thì cần đạt được mục tiêu chung (mục tiêu cuối cùng) là
phát triển du lịch Việt Nam. Do đó, để thực hiện được mục tiêu chung, trước hết
chính sách phát triển du lịch cần đạt được mục tiêu cụ thể. Điều này có nghĩa là,
việc đề ra và thực hiện chính sách du lịch, dù ở phạm vi vi mô, thì cũng cần có
sự thống nhất với các chính sách phát triển du lịch chung khác, với các chính
sách khác, để tránh trường hợp “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
- Giải pháp của chính sách phát triển du lịch
Trên cơ sở mục tiêu của chính sách phát triển du lịch, Nhà nước cũng đưa
ra các giải pháp để đạt được mục tiêu chính sách trong những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể về không gian, thời gian và các nguồn lực cần thiết. Tuy nhiên, vì
mục tiêu của chính sách phát triển du lịch thể hiện ở các cấp độ khác nhau nên
12
các giải pháp của chính sách phát triển du lịch cũng được điều chỉnh và cụ thể
hóa cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, từng địa phương trong quá trình
triển khai thực hiện chính sách.
- Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển du lịch
Trên cơ sở mục tiêu và giải pháp đã được xác định, các nguyên tắc chỉ đạo
được thực hiện mục tiêu sẽ được xây dựng. Nguyên tắc chỉ đạo có vai trò quan
trọng nhằm hiện thực hóa các chính sách và đảm bảo việc thực hiện chính sách
thành công.
- Nguồn lực thực hiện chính sách phát triển du lịch
Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì chính sách sẽ không thể thực hiện
được một cách hiệu quả nếu như nguồn lực thực hiện chính sách không được
tính toán một cách chính xác, kỹ lưỡng. Nguồn lực ở đây có thể là nhân lực,
cũng có thể là tài chính.
- Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách phát triển du lịch
Cần xác định cụ thể đâu là cơ quan, cá nhân quản lý việc thực hiện chính
sách phát triển du lịch và đâu là cơ quan, cá nhân triển khai các hoạt động cụ thể
của chính sách này.
- Thời gian triển khai chính sách phát triển du lịch
Bất cứ chính sách nào cũng phải xác định phạm vi thời gian. Có những
chính sách dài hạn, có chính sách ngắn hạn, hoặc trung hạn. Trên cơ sở xác định
phạm vi thời gian, chúng ta sẽ xây dựng kế hoạch thực hiện hợp lý.
1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách, thực hiện chính sách phát triển
du lịch
Khái niệm thực hiện chính sách hay cũng có nhiều tài liệu sử dụng cách
gọi “thực thi chính sách” hoặc “tiến hành thực hiện chính sách”, thực chất đều
cùng một nội hàm; thông thường, đó là giai đoạn tiếp sau quá trình hoạch định
và trước quá trình đánh giá chính sách công.
Theo Thomas Dye, “thực thi bao gồm tất cả các hoạt động được thiết kế
13
để thực hiện các chính sách công đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp. Vì
các chính sách công có những tác động mong muốn hoặc có chủ định, nên chính
phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà sau đó được thực hiện
để đạt được một tập hợp các mục tiêu hoặc mục đích” [38,tr.4].
Tác giả William Dunn cho rằng: “Các hành động chính sách công có hai
mục đích chính: điều chỉnh và phân bổ” [39,tr.277-278]. Các hành động điều
chỉnh là những hành động được thiết kế để bảo đảm sự tuân thủ các tiêu chuẩn
hoặc thủ tục nhất định. Các hành động phân bổ là những hành động đòi hỏi các
đầu vào như tiền, thời gian, nhân sự và thiết bị. Các hành động điều chỉnh và
phân bổ có thể có những kết quả là phân phối và phân phối lại [22,tr.97].
Về cơ bản, có thể coi thực hiện chính sách (công) – một khâu trong chu
trình chính sách để đưa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội. Đây là quá
trình ban hành các văn bản, chương trình, dự án,... nhằm hiện thực hóa nội dung
chính sách để đạt được mục tiêu đã định hướng.
Có thể thấy, thành công của một chính sách phụ thuộc vào rất nhiều vào
việc tổ chức thực thi chính sách đó trên thực tế. Người ta thường không biết
trước được chính sách có đạt được mục tiêu mong muốn hay không hay đạt đến
mức độ nào, tác động của chính sách đối với xã hội ra sao… Những điều này
phụ thuộc chủ yếu vào quá trình thực thi chính sách” [20,tr.24]. Việc thực hiện
chính sách công có vai trò quan trọng. Đó là từng bước hiện thực hóa mục tiêu
của chính sách, khẳng định tính đúng đắn của chính sách công và giúp cho chính
sách công ngày càng hoàn thiện hơn [9,tr.12-14].
Về cơ bản, việc thực hiện chính sách bao gồm nhiều giai đoạn. Theo các
tác giả Lê Như Thanh và Lê Văn Hòa, chu trình thực hiện chính sách công gồm:
(1) Xây dựng và ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực hiện chính sách
công (2) Tổ chức thực hiện các văn bản, chương trình, dự án,... thực thi chính
sách công. Giai đoạn này bao gồm nhiều nội dung nhỏ, như xây dựng kế hoạch
tổ chức thi hành văn bản, hoặc lập kế hoạch thực hiện chương trình, dự án; tuyên
14
truyền, phổ biến nội dung văn bản, chương trình dự án; tập huấn văn bản, bồi
dưỡng những kiến thức và kỹ năng cần thiết để triển khai văn bản, chương trình,
dự án; bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phú, tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực để
triển khai thi hành văn bản, chương trình, dự án; chỉ đạo, tổ chức kiểm tra, đôn
đốc việc thi hành văn bản, việc thực hiện chương trình dự án (3) Sơ kết, tổng kết
thực hiện văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách công [22,tr.109-111].
Trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, luận văn xem xét chu trình thực hiện
chính sách công bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền chính sách
Thứ ba, phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Thứ tư, duy trì chính sách
Thứ năm, điều chỉnh chính sách
Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
Thứ bảy, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách.
* Khái niệm thực hiện chính sách phát triển du lịch
Một chính sách khi được hoạch định bao giờ cũng hướng tới giải quyết
một vấn đề nào đó đang diễn ra trong đời sống xã hội để đạt được những mục
tiêu nhất định. Trong chu trình chính sách, tổ chức thực hiện chính sách là trung
tâm kết nối. Nếu thiếu giai đoạn này thì việc hoạch định chính sách sẽ không còn
ý nghĩa.
Về cơ bản, có thể coi Thực hiện chính sách phát triển du lịch là toàn bộ
quá trình đưa chính sách vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục
chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch đối với
những đối tượng cụ thể trong một không gian và thời gian nhất định.
Việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đảm bảo tuân theo chu trình
thực hiện chính sách nói chung. Theo đó, chu trình thực hiện chính sách phát
triển du lịch hiện nay bao gồm các bước sau đây:
15
- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch
Đây là bước đầu tiên. Để hiện thực hóa một mục tiêu nào đó, trước tiên, cần
triển khai thực hiện chính sách du lịch từ Trung ương đến địa phương; phải xây
dựng kế hoạch, chương trình thực hiện chính sách. Tiếp theo, các chủ thể có thẩm
quyền, trách nhiệm lên kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch.
- Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch
Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa với chủ thể và đối tượng
thực hiện hiện chính sách phát triển du lịch. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động này
cần được tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng thực hiện chính sách. Thực
tế chỉ ra rằng không ít cơ quan, cán bộ, công chức vì năng lực chuyên môn, trình
độ nghiệp vụ, phẩm chất chính trị,... nên trong quá trình phổ biến, tuyên truyền
chính sách nói riêng, trong thực hiện chính sách nói chung đã làm cho chính sách
bị biến dạng, khiến dân chúng mất lòng tin vào nhà nước.
- Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch
Bước tiếp theo sau bước tuyên truyền, phổ biến là phân công, phối hợp
các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch theo kế hoạch
đã được phê duyệt. Chính sách phát triển du lịch có thể tác động đến lợi ích của
một tầng lớp, bộ phận người trong xã hội nhưng kết quả tác động của chính sách
lại liên quan đến nhiều yếu tố thuộc các lĩnh vực quản lý khác nhau của nhà
nước nên cần chú trọng việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển
du lịch sao cho hợp lý để đạt được yêu cầu của quản lý.
- Duy trì chính sách phát triển du lịch
Duy trì chính sách phát triển du lịch là hoạt động nhằm bảo đảm cho chính
sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Các cơ quan nhà
nước có trách nhiệm thực hiện chính sách phát triển du lịch phải thường xuyên củng
cố phương thức hoạt động, quan tâm tuyên truyền, vận động các đối tượng chính
sách và toàn xã hội tham gia thực hiện chính sách để có thể duy trì được việc thực
16
hiện chính sách một cách tích cực nhất, đạt hiệu lực, hiệu quả cao nhất.
- Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch
Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch được thực hiện bởi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp hơn với tình hình
thực tế phát sinh khi thực hiện chính sách và với yêu cầu quản lý của nhà nước.
Để chính sách phát triển du lịch tiếp tục tồn tại, chỉ được điều chỉnh các cơ chế,
biện pháp thực hiện mục tiêu hoặc bổ sung, hoàn thiện mục tiêu theo yêu cầu
thực tế chứ tuyệt đối không được điều chỉnh, làm thay đổi mục tiêu. Khi mục
tiêu thay đổi tức là làm chính sách thay đổi, coi như chính sách đó thất bại.
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển du lịch
Đôn đốc thực hiện chính sách phát triển du lịch là hoạt động của cơ quan,
cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ hữu
ích nhằm làm cho các chủ thể thực hiện nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực
hiện các biện pháp theo định hướng chính sách.
Theo dõi, kiểm tra sát sao tình hình tổ chức thực hiện chính sách phát
triển du lịch nhằm kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách và chấn chỉnh công
tác tổ chức thực hiện chính sách, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện
mục tiêu chính sách.
- Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách phát
triển du lịch
Đây được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và
chấp hành chính sách của các đối tượng thực hiện chính sách phát triển du lịch.
Ngoài ra, còn cần xem xét, đánh giá việc thực thi của các đối tượng thụ hưởng
lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội
với tư cách là công dân [Xem: 8,tr.63].
1.2. Chủ thể và chu trình cơ bản của thực hiện chính sách phát triển
du lịch ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Các chủ thể tham gia vào công tác thực hiện chính sách phát
triển du lịch ở Việt Nam hiện nay
17
Thứ nhất, chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển du lịch:
- Quốc hội: với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua các cơ quan chuyên môn của
mình, Quốc hội xem xét các dự án chính sách trong đó có chính sách phát triển
du lịch mà Chính phủ trình, triển khai nghiên cứu và hiện thực hóa thành Luật,
Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội – cơ quan thường trực của Quốc hội.
- Chính phủ: với vị trí là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính
phủ vừa là cơ quan ban hành chính sách nhưng cũng đồng thời là cơ quan có
trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch ở cấp Trung ương.
Chính phủ ban hành Nghị định cụ thể hóa Luật của Quốc hội.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ mà quan trọng nhất ở đây là Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch (Tổng cục Du lịch): với vị trí là cơ quan của Chính phủ, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực được phân công, chịu
trách nhiệm thực hiện các chính sách do Quốc hội và Chính phủ ban hành có liên
quan đến vấn đề phát triển du lịch.
- Hội đồng nhân dân các cấp: với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp xem xét các dự án chính sách trong đó
có chính sách phát triển du lịch mà Ủy ban nhân dân trình, triển khai nghiên cứu
và hiện thực hóa thành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
- Ủy ban nhân dân các cấp: với vị trí là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân vừa là
cơ quan ban hành chính sách nhưng cũng đồng thời là cơ quan có trách nhiệm tổ
chức thực hiện chính sách phát triển du lịch ở địa phương. Ủy ban nhân dân ban
hành Quyết định định cụ thể hóa Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
- Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: với vị trí là
cơ quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân, các Sở, ban ngành theo sự phân công,
phối hợp theo quy định trình Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
18
Trung ương đề án, chương trình, kế hoạch phát triển du lịch.
Thứ hai, chủ thể tham gia phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch:
+ Các tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành
viên của Mặt trận: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam vận động quần chúng nhân dân tham gia vào thực hiện
chính sách phát triển du lịch một cách tích cực; nâng cao sự tin tưởng của các tầng
lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong đó có niềm tin
vào việc xây dựng, hoạch định và thực hiện chính sách phát triển du lịch.
+ Các hiệp hội nghề nghiệp – xã hội du lịch: Hiệp hội Du lịch Việt Nam
(VITA) và các hiệp hội du lịch ở các tỉnh, thành phố chính là “bàn tay nối dài”
của cơ quan quản lý di lịch xuống các đơn vị doanh nghiệp; giúp cho việc triển
khai thực hiện chính sách phát triển du lịch được diễn ra thuận lợi, dễ dàng hơn.
+ Cộng đồng dân cư: Mục tiêu chính sách của du lịch là vì sự phát triển và
đem lại lợi ích cho cộng đồng. Sự hiểu biết của cộng đồng dân cư và sự tham gia
giám sát của họ vào quá trình thực hiện chính sách du lịch ở mỗi vùng miền, mỗi
địa phương cụ thể là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của vùng miền,
địa phương đó, rộng hơn là ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của cả đất nước.
1.2.2. Chu trình cơ bản của việc thực hiện chính sách phát triển du lịch
ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch bao gồm của
nội dung cơ bản sau đây:
- Kế hoạch tổ chức, điều hành
Nội dung kế hoạch gồm những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và
phối hợp triển khai thực hiện chính sách, nhân sự tham gia thực hiện chính sách
(cả số lượng và chất lượng); cùng với đó là xác định cơ chế phối hợp, hợp tác
19
giữa các cơ quan, các cấp, các ngành trong thực thi chính sách phát triển du lịch.
- Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực
Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về trang thiết bị kỹ
thuật, các nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kiến trúc, các vật tư văn phòng
phẩm,... cho việc thực hiện chính sách phát triển du lịch.
- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện
Các chủ thể thực hiện chính sách dự kiến về thời gian tiến hành các bước
trong thực hiện chính sách. Mỗi bước đều phải được xác định thời gian thực hiện
và hoàn thành mục tiêu đề ra cho từng bước. Có thể dự kiến thời gian của từng
bước cho phù hợp với một chương trình cụ thể của chính sách phát triển du lịch.
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách
Kế hoạch này là những dự kiến về hình thức, phương pháp kiểm tra, giám
sát tổ chức thực hiện chính sách của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.
Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch
Sau khi đã thông qua bản kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, các cơ
quan nhà nước tiến hành tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch theo kế
hoạch đó. Điều đầu tiên cần làm là phổ biến, tuyên truyền, vận động nhân dân
tham gia thực hiện chính sách một cách tích cực. Việc làm này sẽ giúp cho cán
bộ, công chức có trách nhiệm thực hiện chính sách nhận thức được rõ ràng, đầy
đủ tính chất, quy mô của chính sách đối với đời sống xã hội, có thể đưa ra những
giải pháp thích hợp để thực hiện có hiệu quả kế hoạch đã đề ra, từ đó góp phần
thực hiện thành công mục tiêu của chính sách.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch nói riêng, các chính
sách của nhà nước ban hành nói chung một cách hiệu quả cho các đối tượng
chính sách và tất cả người dân tham gia thực hiện chính sách sẽ khiến họ tự giác
thực hiện theo những yêu cầu quản lý của Nhà nước.
Tuyên truyền, phổ biến, vận động thực hiện chính sách phát triển du lịch
cần được triển khai thường xuyên, liên tục để mọi đối tượng chính sách luôn
20
luôn được củng cố lòng tin vào chính sách, tích cực thực hiện chính sách. Tùy
theo yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước và tính chất, đặc trưng của từng
loại chính sách mà các chủ thể lựa chọn hình thức phổ biến, tuyên truyền khác
nhau, có thể trực tiếp trao đổi, tiếp xúc với các đối tượng tiếp nhận chính sách
hay gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ ba, phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch
Muốn thực hiện chính sách phát triển du lịch hiệu quả cần có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa
phương. Cụ thể ở đây là sự phân công, phối hợp giữa Quốc hội với Chính phủ;
giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Tổng cục Du lịch) với các Bộ, cơ quan
ngang bộ khác; giữa Chính phủ với chính quyền địa phương cấp tỉnh; giữa Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (hay Sở Du
lịch) các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giữa Hội đồng nhân dân các cấp
với Ủy ban nhân dân các cấp; giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các cơ
quan chuyên môn khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,...
Ngoài ra, cũng cần có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý
ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực hiện chính
sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách phát triển
du lịch.
Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính
sách công một cách sáng tạo, chủ động để luôn duy trì chính sách được ổn định,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính sách.
Thứ tư, duy trì chính sách phát triển du lịch
Muốn duy trì được chính sách phải có sự quyết tâm hợp lực vì một mục
tiêu chung từ các chủ thể thực hiện chính sách. Nếu việc thực hiện chính sách
phát triển du lịch gặp phải những khó khăn do môi trường thực tế biến động thì
các chủ thể thực hiện chính sách phải ngay lập tức có những công cụ, phương
thức cải thiện tình hình nhằm giữ ổn định môi trường thuận lợi cho việc thực
21
hiện chính sách.
Thực tế cho thấy có nhiều chính sách ban hành đúng nhưng trong quá
trình thực hiện, các biện pháp duy trì và phát triển chính sách đưa ra không đúng
dân đến hiệu quả chính sách thấp, không đáp ứng được yêu cầu quản lý của nhà
nước; chưa kể còn gây lãng phí, tham nhũng chính sách,...
Duy trì được một chính sách tiến triển tốt đòi hỏi khả năng của các chủ
thể thực hiện chính sách trong việc thực hiện các khâu của chu trình thực hiện
chính sách, trong đó tất nhiên có hoạt động này.
Thứ năm, điều chỉnh chính sách phát triển du lịch
Trong quá trình thực hiện chính sách, có thể có những tình huống phát
sinh không lường trước được như khủng hoảng kinh tế, thiên tai,... thì chính sách
cần được điều chỉnh. Điều chỉnh chính sách là khâu quan trọng nhằm làm cho
chính sách phù hợp hơn với yêu cầu thực tế.
Về nguyên tắc, việc điều chỉnh, bổ sung chính sách là của cơ quan ban
hành chính sách; nhưng trên thực tế, hoạt động này diễn ra rất linh hoạt miễn sao
việc bổ sung, điều chỉnh ấy không làm thay đổi mục tiêu chung, cái đích cuối
cùng cần đạt đến của chính sách.
Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển
du lịch
Do trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức trong
các cơ quan nhà nước không đồng đều, cũng như điều kiện về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, phong tục tập quán,... ở mỗi vùng, mỗi địa phương không giống
nhau nên trong quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải tổ chức theo dõi, kiểm tra, đôn đốc để qua đó, các cơ
quan, cá nhân có trách nhiệm hơn trong nhiệm vụ.
Thứ bảy, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách
phát triển du lịch
Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về thực hiện chính sách phát
triển du lịch là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này từ Tung
22
ương đến địa phương. Ngoài ra, vai trò của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp,... cũng cần được xem xét
trong việc tham gia thực hiện chính sách phát triển du lịch. Cơ sở để đánh giá
việc thực hiện chính sách là chất lượng hoàn thành các mục tiêu đề ra ở từng giai
đoạn cụ thể tại thời điểm đánh giá.
Bên cạnh đó, cũng cần xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách của
các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và giản tiếp từ chính sách: mọi công
dân. Thước đo đánh giá kết quả thực hiện của các đối tượng này là tinh thần
hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những quy định về cơ
chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục
tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian [8,tr.63].
1.3. Một số yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách phát triển
du lịch ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Những yếu tố thuộc về chủ thể thực hiện chính sách
Thứ nhất, năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và đội ngũ cán bộ, công
chức ở các cấp trong thực hiện chính sách phát triển du lịch.
Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện chính
sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay. Năng lực tổ chức, quản lý của nhà
nước và của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện chính sách phản ánh
năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để chủ động ứng phó với
tình huống phát sinh trong thực hiện chính sách, đạo đức công vụ,...
Các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền nếu thiếu năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ, khi được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách phát
triển du lịch sẽ đưa ra những kế hoạch không bám sát thực tiễn cuộc sống, dẫn
đến tình trạng lãng phí nguồn lực, giảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, thậm
chí còn làm biến dạng chính sách trong quá trình thực hiện chính sách.
Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức công vụ của cán bộ, công
chức còn thể hiện ở thủ tục giải quyết những vấn đề trong việc phối hợp thực
23
hiện những nhiệm vụ, hoạt động trong chu trình chính sách. Rõ ràng việc phối
hợp này hiệu quả hay không đều tác động, ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện
chính sách.
Thứ hai, công tác vận động, tuyên truyền về thực hiện chính sách phát
triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn thực hiện chính sách phát triển du lịch ở nước ta hiện nay cho
thấy, công tác vận động, tuyên truyền về chính sách còn bị xem nhẹ và được
thực hiện mang tính hình thức. Vì vậy mà kết quả vận động, tuyên truyền chưa
cao, tác động ngược trở lại việc thực hiện chính sách.
Công tác vận động, tuyên truyền về thực hiện chính sách nếu được tổ
chức một cách hợp lý, khoa học sẽ làm thay đổi nhận thức và chuyển biến về
hành vi của các chủ thể cũng như đối tượng chính sách khi tham gia vào quá
trình thực hiện chính sách phát triển du lịch ở nước ta.
Thứ ba, điều kiện kinh tế và nguồn lực để thực hiện chính sách của Nhà nước.
Để tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch đạt được kết quả cao,
Nhà nước luôn phải tăng cường các nguồn lực vật chất, kỹ thuật để phục vụ cho
việc triển khai ấy. Nếu điều kiện kinh tế và các nguồn lực vật chất, kỹ thuật đáp
ứng được mọi yêu cầu trong quá trình thực hiện chính sách, việc thực hiện chính
sách ấy sẽ đạt hiệu quả và ngược lại.
Hiện nay, ở nước ta, cơ cấu đầu tư cho sự phát triển chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư
cho các ngành, lĩnh vực không đồng đều, chưa đúng đối tượng,... làm ảnh hưởng
xấu đến sự hình thành thị trường. Kết cấu hạ tầng giao thông đến vùng sâu, vùng xa,
vùng nghèo đói còn thiếu và yếu kém, vì vậy việc thực hiện chính sách cũng như
vấn đề tiếp cận chính sách đến các vùng này là còn khó khăn vô cùng.
1.3.2. Những yếu tố thuộc về đối tượng chính sách
Thứ nhất, nguồn lực của đối tượng chính sách.
Để tham gia vào quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch, nguồn
lực là một yếu tố không thể thiếu đối với cả phía Nhà nước và phía các đối tượng
của chính sách. Các đối tượng của chính sách phát triển du lịch hiện nay còn
24
thiếu và yếu về nguồn lực, nhất là nguồn lực vật chất.
Thứ hai, nhận thức của đối tượng chính sách.
Nhận thức của các đối tượng chính sách còn chưa thực sự được nâng cao
tuy đã ít nhiều được tiếp nhận sự vận động, tuyên truyền về thực hiện chính sách
phát triển du lịch của Nhà nước. Điều này gây khó khăn cho các bước trong chu
trình chính sách nói chung, chu trình thực hiện chính sách nói riêng. Nếu không
cải thiện vấn đề này, nó sẽ ngày càng gây khó khăn, cản trở việc thực hiện chính
sách một cách hiệu quả.
1.3.3. Những yếu tố khác
Thứ nhất, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại.
Điều này đương nhiên kéo theo sự phát triển nhanh của ngành du lịch. Du
lịch giờ đây trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ, đóng góp trong
việc xây dựng, phát triển sức mạnh tổng thể của một quốc gia.
Trong xu thế chung ấy, Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức
trong phát triển du lịch và thực hiện chính sách du lịch. Hội nhập quốc tế về du
lịch tạo cơ hội cho ngành du lịch Việt Nam gia tăng nguồn khách quốc tế, qua đó
tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của các nước thông qua các chương trình, dự án tài
trợ cụ thể trong phát triển du lịch và thực hiện chính sách du lịch. Tuy nhiên, khi
thị trường kinh tế biến động khó lường, lượng khách quốc tế sụt giảm, trong khi
ngành du lịch còn non yếu, khó cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực, điều
này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc hoạch định và thực hiện chính sách phát
triển du lịch của nước ta.
Thứ hai, nguồn nhân lực du lịch.
Đặc thù của nhân lực du lịch là kỹ năng nghiệp vụ phục vụ khách với tâm
lý, nhu cầu, ngôn ngữ, văn hóa,... khác nhau giữa từng người. Điều này đem đến
chất lượng dịch vụ trong cảm nhận của từng khách hàng. Trình độ của nguồn
nhân lực là khác nhau, không đồng đều về chất lượng. Mặt khác, thông qua việc
tuyên truyền chính sách phát triển du lịch đến với mỗi nhân lực ngành du lịch –
25
những người trực tiếp làm việc với khách hàng, sẽ khiến cho việc phổ biến, nhân
rộng hơn mục tiêu chính sách đến đông đảo người dân. Vì vậy, việc nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là bài toán cần có lời đáp ngay lúc này nếu muốn
đảm bảo chính sách hay việc thực hiện chính sách được truyền bá đúng trong
thực tế.
Ngoài ra, còn có các yếu tố về môi trường, văn hóa, khí hậu, điều kiện dân
26
cư,… cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch.
Tiểu kết Chương 1
Thực hiện chính sách phát triển du lịch là toàn bộ quá trình đưa chính sách
vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống nhất
nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch đối với những đối tượng cụ thể
trong một không gian và thời gian nhất định. Ở Việt Nam hiện nay, về cơ bản,
chu trình thực hiện chính sách phát triển du lịch bao gồm nhiều giai đoạn và
nhiều nhân tố gây tác động. Mỗi giai đoạn có vị trí, vai trò quan trọng riêng. Các
nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam
hiện nay có thể là năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và đội ngũ cán bộ,
công chức ở các cấp trong thực hiện chính sách phát triển du lịch; công tác vận
động, tuyên truyền về thực hiện chính sách phát triển du lịch; điều kiện kinh tế
27
và nguồn lực để thực hiện chính sách của Nhà nước.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Bối cảnh chung thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Phú Thọ
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, được tái lập
ngày 01/01/1997 trên cơ sở tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú. Phía Bắc và Đông Bắc giáp
tỉnh Tuyên Quang; phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Yên Bái; phía Đông giáp tỉnh
Vĩnh Phúc; phía Đông Nam giáp thủ đô Hà Nội; phía Tây giáp tỉnh Sơn La; phía
Nam và Tây Nam giáp tỉnh Hòa Bình. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh khoảng
3.533,4 km2 (chiếm 1,2% diện tích cả nước).
Vị trí địa lý đã tạo điều kiện thuận lợi để Phú Thọ liên kết vùng phát triển
du lịch. Du lịch Phú Thọ giữ vai trò là cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội,
cầu nối du lịch giữa vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Trung du miền núi Bắc
Bộ, Đông và Tây Bắc; điểm kết nối quốc tế trong hành lang kinh tế Quảng Ninh
– Hà Nội - Côn Minh; kết nối tuyến du lịch tâm linh với các tỉnh duyên hải.
Phú Thọ có khí hậu mang đậm đặc trưng của vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa, tương đối thuận lợi cho sinh hoạt và các hoạt động kinh tế - xã hội, phát
triển du lịch.
Hệ thống sông ngòi ở Phú Thọ cũng rất phong phú, với năm sông lớn
chảy qua: sông Chảy, sông Hồng (sông Thao), sông Đà, sông Lô, sông Bứa và
41 phụ lưu, cùng với 130 suối nhỏ, hàng ngàn hồ, ao phân bố đều khắp trên địa
phương,, nguồn nước mặt dồi dào. Đây cũng là nguồn tài nguyên du lịch trên
sông rất có giá trị, đặc biệt là trong điều kiện khai thác kết hợp với văn hóa dân
28
gian Phú Thọ và ẩm thực.
2.1.1.2. Điều kiện xã hội
Dân số và nguồn nhân lực: Tính đến hết năm 2012 dân số toàn tình Phú
Thọ là 1.340.813 người, mật độ dân số bình quân 379,5 người/km2, tốc độ tăng
dân số tự nhiên là 0,98% và tăng cơ học là 0,1% . Dân cư Phú Thọ có đặc điểm
là dân số trẻ chiếm tỷ lệ cao, mặt bằng dân trí cao hơn mặt bằng chung cả nước,
dân cư năng động, sáng tạo là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch.
Tỉnh Phú Thọ có sự đa dạng văn hóa dân tộc. Trên địa bàn tỉnh có 28 dân
tộc sinh sống, đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 85,89% số dân toàn tỉnh, dân số
là người dân tộc thiểu chiếm 14,11%. Dân tộc Mường chiếm 13,62%; dân tộc
Dao chiếm 0,92%; dân tộc Sán Chay chiếm 0,22%; dân tộc Tày chiếm 0,15%;
dân tộc Mông chiếm 0,05%; dân tộc Thái chiếm 0,04%; dân tộc Nùng chiếm
0,03%; dân tộc Hoa có chiếm 0,02%; dân tộc Thổ chiếm 0,01%; dân tộc Ngái
chiếm 0,008%...Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng thể hiện qua các lễ hội,
làng nghề, văn hóa dân gian, ẩm thực… là nguồn tài nguyên để khách du lịch
tham quan, tìm hiểu. Bên cạnh đó, các dân tộc thiểu số thường sống ở vùng sâu,
vùng xa, các khu vực có hệ sinh thái tự nhiên còn hoang sơ, thuận lợi việc phát
triển du lịch cộng đồng.
Tất cả những điều kiện trên là những nhân tố quan trọng cho sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng của Phú Thọ.
2.1.2. Tiềm năng khai thác du lịch của tỉnh Phú Thọ
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch có thể là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du
lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch tự nhiên là cơ sở để các lọai hình du lịch tự
nhiên phát triển. Đó là loại hình hoạt động du lịch đưa du khách về những nơi có
điều kiện, môi trường tự nhiên trong lành, quang cảnh tự nhiên hấp dẫn… nhằm
thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của họ [23,tr.63]. Tài nguyên du lịch nhân văn được
hiểu là tất cả những gì do xã hội cộng đồng tạo ra có sức hấp dẫn du khách cũng
29
như những thành tố khác được đưa vào phục vụ phát triển du lịch. Như vậy, tài
nguyên du lịch nhân văn sẽ được hiểu bao gồm các di tích, công trình đương đại,
lễ hội, phong tục tập quán [23,tr.66]. Ở Phú Thọ, tài nguyên du lịch nhân văn
bao gồm một số loại hình điển hình như Hát Xoan Phú Thọ- di sản văn hoá phi
vật thể của nhân loại; Khu di tích lịch sử Đền Hùng - di tích đặc biệt cấp quốc
gia và “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” được UNESCO công nhận là di sản
văn hoá phi vật thể của nhân loại.
Phú Thọ là vùng đất có nhiều di chỉ khảo cổ như: Gò Mun, Sơn Vi, Làng
Cả, Phùng Nguyên, Xóm Rền ... Phú Thọ còn lưu giữ nhiều kho tàng văn hóa
dân gian, lễ hội như hội Đền Hùng, hội phết Hiền Quan, hội bơi chải Bạch Hạc,
hát Xoan, hát Ghẹo, hát Đối, hát Ví; các làng nghề truyền thống nổi tiếng như
mây tre đan Đỗ Xuyên, ủ ấm Sơn Vi, nón lá Sai Nga… Tất cả đều rất hấp dẫn
khách du lịch đến tham quan, tìm hiểu. Theo số liệu thống kê, trên địa bàn tỉnh
hiện có 1.372 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có 71 di tích được xếp hạng cấp
quốc gia, 174 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Những di tích tiêu biểu có giá trị
phát triển du lịch.
Khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ cúng các Vua Hùng, được Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa đặc biệt của quốc
gia. Ngoài ra còn có Đền Tổ Mẫu Âu Cơ trên núi Vặn, đền Lạc Long Quân được
đầu tư xây dựng mới tạo cho quần thể khu di tích đầy khí thiêng của sơn thủy hội
tụ. Tại đây, hàng năm diễn ra lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.
Khu di tích khảo cổ Làng Cả là một khu trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội sầm uất có tính liên tục từ thời kỳ Hùng Vương, thời kỳ Bắc thuộc và
thời kỳ phong kiến tự chủ. Khu Di tích khảo cổ Gò Mun là di tích tiêu biểu cho
văn hóa Gò Mun ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, thuộc thời đại đồng thau ở
Việt Nam, bước chuẩn bị tiền đề cho việc hình thành văn hóa Đông Sơn - thời kỳ
đồ sắt. Đền Mẫu Âu Cơ là di tích thờ Quốc Mẫu, có từ thời Hậu Lê với kiến trúc
chạm gỗ quý giá. Tượng Mẫu Âu Cơ trong đền được tạo tác từ thời Lê có giá trị
30
nghệ thuật cao. Đây là địa điểm khai thác du lịch tâm linh, về nguồn.
Ngoài các điểm tài nguyên nổi bật nêu trên, Phú Thọ còn có hệ thống các
đình như Hùng Lô, Đào Xá, Hy Cương, Lâu Thượng, chùa Xuân Lũng có giá trị
kiến trúc nghệ thuật cao, có khả năng khai thác phục vụ khách tham quan,
nghiên cứu.
Có thể nhận thấy, Phú Thọ là một trong những miền đất của lễ hội. Hiện ở
Phú Thọ có 260 lễ hội, trong đó có 228 lễ hội truyền thống, 32 lễ hội lịch sử -
cách mạng, có 92 lễ hội được bảo lưu hoàn toàn cả phần lễ, phần hội và trò diễn
trong đó có 30 lễ hội xếp loại A, 1 lễ hội cấp quốc gia là lễ hội Đền Hùng. Các lễ
hội có những nét đặc trưng riêng. Về thời gian, lễ hội chủ yếu được tổ chức vào
mùa xuân. Về địa bàn, lễ hội chủ yếu tập trung ở khu vực Đền Hùng, thành phố
Việt Trì (31 lễ hội); Lâm Thao (24 lễ hội); Phù Ninh (24 lễ hội); Tam Nông (31
lễ hội) và Cẩm Khê (30 lễ hội).
Ngoài các lễ hội đặc sắc trên, Phú Thọ còn có hội mở cửa rừng, hội đánh
cá, Tết nhảy của dân tộc Dao, hội cồng chiêng của người Mường, hội rước Ông
Khiu, Bà Khiu… đều có khả năng khai thác phát triển du lịch.
Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch
a. Hệ thống giao thông
Phú Thọ là một trong những địa phương có hệ thống giao thông đường bộ
phát triển so với các tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ và được phân
bố tương đối đều, hợp lý, khá thuận tiện để tiếp cận các điểm tài nguyên du lịch.
Hiện nay, hệ thống giao thông đường bộ đang được đầu tư nâng cấp đảm bảo kết
nối để 100% xã có đường ô tô đến trung tâm. Phú Thọ có 5 tuyến quốc lộ (2; 32;
32B; 32C; 70) với chiều dài qua tỉnh là 262 km, 35 tuyến đường tỉnh (13 tuyến
chính và 22 tuyến nhánh) với chiều dài 735 km; tuyến đường huyện dài 785 km,
322 km đường đô thị, 54 km đường chuyên dùng; 2.350 km đường xã và liên
xã... Ngoài ra, Phú Thọ còn hàng nghìn km đường dân sinh và lâm nghiệp.
Ngoài giao thông đường bộ, giao thông đường sắt, đường thủy của Phú
31
Thọ cũng có nét đặc sắc riêng. Địa bàn tỉnh Phú Thọ có một tuyến đường sắt
quốc gia là tuyến Hà Nội - Lào Cai đoạn qua Phú Thọ dài 74.9 km, góp phần vận
chuyển một lượng lớn hành khách và hàng hoá, tạo sự giao lưu giữa Phú Thọ và
các tỉnh. Phú Thọ có ba con sông lớn chảy qua là sông Hồng, sông Lô, sông Đà,
gặp nhau tại thành phố Việt Trì; cùng với một số sông nhánh như sông Chảy,
sông Bứa... chảy qua các huyện, thị xã – tất cả tạo thành một mạng lưới đường
thuỷ rất thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển kinh tế, có thể xây dựng các cảng
tàu du lịch nhỏ phục vụ tuyến du lịch đường sông.
b. Hệ thống nhà hàng khách sạn
Tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua đã xây dựng và nâng cấp rất nhiều nhà
hàng, khách sạn. Khách sạn thường có kiến trúc kiên cố, nhiều tầng, được trang
bị các thiết bị, tiện nghi, đồ đạc chuyên dùng nhằm mục đích kinh doanh các dịch
vụ lưu trú, phục vụ ăn uống tổ chức các hội nghị, hội thảo, phục vụ vui chơi, giải trí
và các dịch vụ khác. Hệ thống nhà hàng cũng được đầu tư nhiều với đội ngũ nhân
viên chuyên nghiệp, không gian thoáng, đẹp và phục vụ nhiều đặc sản vùng. Đây
cũng là một điểm mạnh thu hút khách du lịch đến với tỉnh Phú Thọ.
c. Các yếu tố nguồn lực khác
Theo số liệu thống kê, năm 2013 toàn tỉnh có gần 750.000 người trong độ
tuổi lao động (tỷ lệ 60% dân số) trong đó lực lượng lao động trẻ chiếm 65%. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề trên 49%. Đặc điểm chung của lao động Phú Thọ là cần
cù, chịu khó, thông minh, nhanh nhẹn, dễ thích nghi với nghề nghiệp. Đây là một
trong những nguồn lực phát triển kinh tế Phú Thọ nói chung và du lịch nói riêng.
Phú Thọ có 2 trường đại học, hơn 34 trường cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, trường dạy nghề và trung tâm đào tạo nghề, cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu
cho tỉnh.
Thời gian qua, nhờ làm tốt công tác xúc tiến quảng bá, bên cạnh đó môi
trường đầu tư luôn được cải thiện (chỉ số năng lực cạnh tranh của Phú Thọ năm
2013 xếp thứ 40/63 tỉnh thành) nên Phú Thọ đã thu hút nhiều dự án đầu tư bên
32
ngoài. Các dự án đầu tư đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du
lịch và trở thành một trong những yếu tố nguồn lực của phát triển kinh tế Phú
Thọ nói chung và du lịch nói riêng.
2.2. Kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách phát triển du
lịch tỉnh Phú Thọ và nguyên nhân của chúng
2.2.1 Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du
lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Ngày 14/7/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 99/2008/QĐ-
TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ đến
năm 2020 [27]. Theo đó, phấn đấu xây dựng Phú Thọ trở thành Trung tâm kinh
tế vùng; là một trong những trung tâm khoa học, công nghệ; giáo dục - đào tạo, y
tế, văn hóa, thể thao, du lịch của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; là đầu mối
giao thông quan trọng nội Vùng và là Thành phố lễ hội về nguồn của dân tộc
Việt Nam. Ngày 21/4/2017, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 552/QĐ-
TTg phê duyệt quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử Đền
Hùng, tỉnh Phú Thọ đến năm 2025 [29]. Đây thực sự là nền tảng quan trọng để
Phú Thọ xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong
đó có chính sách phát triển du lịch.
Bên cạnh sự quan tâm của Trung ương, trong những năm qua công tác
lãnh đạo, chỉ đạo và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong công tác
phát triển du lịch, huy động các nguồn lực đầu tư phát triển du lịch, kịp thời tháo
gỡ khó khăn cho nhà đầu tư du lịch được tăng cường từ cấp tỉnh đến các huyện,
thành thị... Việc xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển du
lịch, công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và thẩm định dự án về du lịch...
được các sở, ban, ngành, huyện, thành, thị và các tổ chức, cá nhân nghiêm túc
triển khai thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. 13/13 huyện thành thị của
tỉnh, các cấp ủy đảng, chính quyền, chỉ đạo xây dựng các nghị quyết, kế hoạch,
chương trình, đề án phát triển du lịch, hoặc lồng ghép với các nhiệm vụ phát triển
33
kinh tế - xã hội. Cụ thể như sau:
Đề án số 3020/ĐA-UBND ngày 28/9/2009 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú
Thọ xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn
2009 – 2020 [33]: Đề án đánh giá thực trạng các lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ; xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch giai đoạn 2009 – 2020; từ đó tập
trung tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt hiệu quả cao để hoàn thành các
mục tiêu, nhiệm vụ của đề án đã đề ra.
Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 19/10/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ về phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2015 [3]:
Điểm trọng tâm của Nghị quyết là đưa ra các giải pháp: nâng cao trách nhiệm,
hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch; tập trung huy động các nguồn vốn thực
hiện mục tiêu phát triển du lịch; tập trung đầu tư xây dựng hình thành một số hạ
tầng du lịch – thương mại trọng điểm; đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân
lực đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, cơ cấu phù hợp đáp ứng nhu cầu phát triển
du lịch; xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư phát triển du lịch;...
Kế hoạch số 654/KH-UBND ngày 05/3/2012 của Ủy ban Nhân dân tỉnh
Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015 [34]: Kế hoạch đề ra
mục đích, yêu cầu; đánh giá tình hình phát triển du lịch giai đoạn 2006 – 2010; kế
hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015; từ đó kiến nghị, đề
xuất các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương tổ chức triển khai thực hiện
đạt hiểu quả để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch đề ra.
Nghị quyết số 30/2012/NQ-HĐND ngày 17/12/2012 của Hội đồng Nhân
dân tỉnh Phú Thọ về quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 –
2020, định hướng đến năm 2030 [10]: Nghị quyết đưa ra quan điểm và mục tiêu
quy hoạch, các nhiệm vụ cụ thể, các giải pháp thực hiện để sau năm 2020, du
lịch Phú Thọ tập trung nâng cao chất lượng, phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương
hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc văn hóa vùng đất Tổ, hướng tới mục
34
tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 15/7/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ về phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [4]: tổng
kết những kết quả đạt được sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-
NQ/TW ngày 19/10/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII về phát
triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2015, chỉ ra những tồn tại, hạn chế
và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế. Từ đó, Nghị quyết nêu phương hướng, mục
tiêu và các giải pháp chủ yếu nhằm tập trung khai thác tối đa các tiềm năng, lợi
thế nguồn tài nguyên du lịch phong phú sẵn có của tỉnh, đặc biệt hai di sản văn
hóa thế giới được UNESCO vinh danh - “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” và
“Hát Xoan Phú Thọ”.
Nghị quyết số 17/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của Hội đồng Nhân dân tỉnh
Phú Thọ về về việc thực hiện 4 khâu đột phá về huy động nguồn lực đầu tư kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân lực, phát triển du
lịch và cải cách hành chính tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [11]: Nghị quyết
nêu những phương hướng chung, các mục tiêu chủ yếu (về cải cách hành chính,
huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển
nguồn nhân lực, phát triển du lịch); và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp (về đẩy
mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính;
huy động nguồn lực đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then
chốt; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; huy động
nguồn lực đầu tư phát triển du lịch; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với đầu tư
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân lực, phát triển
du lịch và cải cách hành chính).
Kế hoạch số 4772/KH-UBND ngày 20/10/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh
Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [35]: Kế hoạch
chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm, các nhóm giải pháp thực hiện, nhu cầu vốn
thực hiện, tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu xây dựng Phú Thọ trở thành
địa bàn trọng điểm du lịch của vùng, đảm bảo đủ điều kiện để Phú Thọ đăng cai
35
Năm Du lịch quốc gia vào năm 2020.
Chương trình hành động số 24-CTr/TU ngày 04/4/2017 của Tỉnh ủy Phú
Thọ thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn [30]: Trong đó đưa ra những quan điểm, mục
tiêu; nhiệm vụ, giải pháp để các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội có trách nhiệm tổ chức quán triệt, triển khai Nghị
quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Tỉnh ủy
đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và
hành động để đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Nhìn chung, tỉnh Phú Thọ đã chủ động, tích cực xây dựng và thực hiện
các chính sách phát triển du lịch để phấn đấu trở thành địa phương trọng điểm du
lịch của vùng và du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
2.2.2 Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ
Trên cơ sở các chính sách, kế hoạch, công tác phổ biến tuyên truyền các
hoạt động liên quan đến du lịch đã được các bên liên quan tập trung đẩy mạnh.
Bởi đây là một trong những khâu quan trọng trong việc thực hiện chính sách.
Tỉnh Phú Thọ chỉ đạo Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, Sở Thông tin và Truyền
thông, Báo Phú Thọ, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh chủ động xây dựng và
triển khai kế hoạch tuyên truyền, phố biến chính sách phát triển du lịch của tỉnh;
các huyện thành thị trong toàn tỉnh tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể đối với công tác phổ biến, tuyên truyền
chính sách.
Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh hằng năm đều tổ chức các lớp tập
huấn, phổ biến cho các huyện thành thị trong toàn tỉnh về chính sách phát triển
du lịch của tỉnh và phối hợp với chính quyền các huyện thành thị tổ chức hội
nghị tập huấn cho các công ty du lịch – lữ hành, các khách sạn, nhà hàng, cơ sở
lưu trú trên địa bàn về nghiệp vụ du lịch, đặc biệt là trước các dịp lễ hội lớn như
36
Giỗ Tổ Hùng Vương, hội phết Hiền Quan…
Tỉnh Phú Thọ cũng chủ động tham dự các hội chợ, triển lãm du lịch trong
và ngoài nước để quảng bá hình ảnh du lịch của địa phương như Hội nghị xúc
tiến đầu tư khu vực Tây Bắc, Hội chợ du lịch quốc tế TP.Hồ Chí Minh ITE, Hội
chợ du lịch quốc tế Việt Nam – VITM Hà Nội. Các địa điểm du lịch nổi tiếng,
trọng điểm của tỉnh, các huyện thành thị cũng chủ động giới thiệu quảng bá hình
ảnh trên mạng internet nhằm quảng bá rộng rãi hơn tới khách du lịch trong và
ngoài nước như đón các đoàn farmtrip (Cung đường Tây Bắc, Khám phá di sản
văn hóa vùng đất Tổ, Qua miền Tây Bắc, Du lịch về nguồn…).
Hoạt động tuyên truyền, quảng bá được thực hiện dưới nhiều thức đa
dạng, phong phú như: xây dựng chuyên mục, chuyên trang quảng bá các khu,
điểm du lịch trên Đài phát thanh và tuyền hình Phú Thọ, Đài Truyền hình Kỹ
thuật số VTC, Truyền hình Nhân dân, Báo Phú Thọ, thành lập Trung tâm thông
tin xúc tiến du lịch tỉnh, quảng bá trên trang thông tin điện tử du lịch 8 tỉnh
TBMR và cổng giao tiếp điện tử của tỉnh, xuất bản tập gấp, bản đồ du lịch, tờ
rơi, đĩa VCD/DVD mời gọi đầu tư, in băng zôn, biển quảng cáo…
Công tác phổ biến, tuyên truyền và vận động sâu rộng các tầng lớp nhân
dân tích cực xây dựng hình ảnh con người Phú Thọ hiền hòa, thân thiện, mến
khách; tự giác tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan di tích, an
ninh trật tự, xây dựng Phú Thọ trở thành điểm đến du lịch an toàn, văn minh,
lịch sự.
2.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ
Có thể thấy rằng, một chính sách thành công cần nhiều yếu tố, trong đó,
việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách có vai trò quan trọng. Theo đó, để
đảm bảo chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ được thực hiện
đồng bộ, đáp ứng được mục tiêu chính sách đề ra, các sở, ban ngành, các bộ
phận liên quan đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ đã
37
có những hoạt động triển khai tương đối tốt. Trước tiên, có thể thấy, với tư cách
cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ chủ trì, tham
mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo, tổ chức triển khai kế hoạch, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ có trách nhiệm cụ thể hóa các nội dung kế
hoạch và chủ động phối hợp với các cấp, ngành liên quan để thực hiện. Sở đã
xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển khu du lịch quốc gia Đền Hùng. Xây
dựng hồ sơ đề nghị công nhận khu, điểm du lịch quốc gia; xây dựng kế hoạch
phát triển các làng nghề phục vụ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Rà
soát điều chỉnh quy hoạch du lịch tại các khu, điểm du lịch trọng điểm; xây dựng
và tham gia các chương trình, hội nghị, hội chợ xúc tiến đầu tư, tuyên truyền
quảng bá các giá trị văn hóa, tiềm năng du lịch vùng Đất Tổ tới du khách trong
và ngoài nước. Xây dựng chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát huy giá trị
02 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ và Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương ở Phú Thọ gắn với phát triển du lịch. Đẩy mạnh các hoạt
động liên doanh, liên kết phát triển du lịch; chủ trì phối hợp với các sở, ban,
ngành xây dựng một số chính sách phát triển du lịch như: Ưu đãi đầu tư, hỗ trợ
doanh nghiệp lữ hành và doanh nghiệp vận tải khánh du lịch, đào tạo nguồn nhân
lực du lịch địa phương, chính sách hỗ trợ các làng nghề và cơ sở sản xuất đưa
các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp đặc thù tiêu biểu của tỉnh tham gia hoạt
động phục vụ khách du lịch; tham gia sản xuất sản phẩm hàng lưu niệm, quà
tặng du lịch; nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí xếp hạng các doanh nghiệp, cá
nhân hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh; xây dựng dự toán kinh phí
sự nghiệp hỗ trợ cho phát triển du lịch tỉnh hàng năm của tỉnh.
Sở cũng đã hướng dẫn các huyện, thành, thị triển khai thực hiện Chương
trình hành động số 24-CTr/TU ngày 4/4/2017 của Tỉnh ủy Phú Thọ về triển khai
thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn và Kế hoạch số 1573/KH-UBND ngày 21/4/2017 của UBND tỉnh về
phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ năm 2017.
Cùng với Sở Văn hóa, thể thao và du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh
38
Phú Thọ đã tham mưu giúp UBND tỉnh các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư
du lịch, kịp thời tháo gỡ vướng mắc cho các nhà đầu tư du lịch trên địa bàn. Tiến
hành kiểm tra, rà soát, đôn đốc các doanh nghiệp đầu tư du lịch trên địa bàn tỉnh
đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án. Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch và các sở ngành xây dựng cơ chế ưu đãi thu hút đầu tư vào lĩnh vực du lịch
trên địa bàn tỉnh. Nhờ đó, trong những năm qua, một số dự án đầu tư cơ sở hạ
tầng du lịch trọng điểm đã được xây dựng, như Dự án Khu du lịch sinh thái cao
cấp bãi nổi La Phù (Đảo Ngọc Xanh) địa bàn huyện Thanh Thủy trị giá 500 tỷ
đồng; Dự án Khu điều dưỡng tắm nước khoáng nóng Thanh Thủy (huyện Thanh
Thủy) trị giá 50 tỷ đồng; Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng Vườn Vua (huyện
Thanh Thủy) trì giá 159.90 tỷ đồng; Dự án khách sạn 4 sao Sài Gòn – Phú Thọ
(TP.Việt Trì) trị giá 80 tỷ đồng; Dự án Trung tâm thương mại Vincom – Quảng
trường Hùng Vương (TP. Việt Trì) trị giá 403,40 tỷ đồng...
Sở Tài chính cũng đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch bố trí
nguồn vốn theo các nội dung trong kế hoạch đề ra hàng năm. Các khu du lịch
trọng điểm đã được ưu tiên cấp vốn ngân sách; dự án phát triển du lịch cộng
đồng; dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch, trùng tu di tích, phục dựng lễ
hội... đều được Sở đảm bảo nguồn kinh phí.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, trong những năm qua, Sở Công
thương đã chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các đơn vị
liên quan nghiên cứu, xây dựng và phát triển sản phẩm quà tặng, hàng lưu niệm
phục vụ khách du lịch; triển khai tốt các dự án trong quy hoạch đã được phê
duyệt như: Dự án trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, các dự án thủ công
nghiệp, làng nghề; xây dựng và triển khai thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng
tại các làng nghề gắn với phát triển du lịch:... Đặc biệt, trong bối cảnh khi mà du
khách đi du lịch còn có hiện tượng bị “chèn ép” về giá cả thì Sở đã có những cố
gắng nỗ lực trong việc bình ổn giá cả thị trường tại các khu, điểm du lịch tạo môi
trường kinh doanh du lịch lành mạnh, an toàn và thân thiện.
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã chủ trì xây dựng và thực
39
hiện kế hoạch phát triển làng nghề nông thôn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 -
2020, trong đó xây dựng các tuyến du lịch gắn với làng nghề đã được UBND
tỉnh công nhận (như khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy, khu du lịch
vườn quốc gia Xuân Sơn, đình Hùng Lô...); chủ trì phối hợp với Sở VHTT&DL,
UBND các huyện xây dựng và thực hiện các đề án: Phát triển vùng chè Thanh
Sơn; vườn bưởi huyện Đoan Hùng; phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch trong việc xây dựng, quản lý và khai thác tài nguyên du lịch phục vụ hoạt
động du lịch tại khu vực vườn quốc gia Xuân Sơn.
Ngoài ra, các Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Giao thông
vận tải, Sở Khoa học và Công nghệ, Công an tỉnh, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh... đã
chủ động tăng cường hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện bảo vệ an ninh, an toàn
cho du khách; bảo vệ môi trường du lịch tại địa phương; Thẩm định và kiểm tra
thiết kế cơ sở, dự án đầu tư xây dựng liên quan đến du lịch; hướng dẫn các sở,
ngành, địa phương ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong hoạt động
kinh doanh du lịch và trong sản xuất các sản vật đặc trưng của Phú Thọ như bưởi
Đoan Hùng, hồng Hạc, chè Phú Thọ, cá Lăng, cá Anh vũ;...
Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở Lao động, Thương binh và xã hội cùng với các
cơ sở giáo dục, đào tạo khác trên địa bàn tỉnh đã mở rộng và nâng cao chất lượng
hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh, từng bước chuẩn
hóa chương trình đào tạo tại các cơ sở có đào tạo các ngành về du lịch. Các chương
trình đào tạo mở ra đa dạng, như đào tạo ngắn hạn, dài hạn về chuyên ngành du
lịch (quản lý cơ sở lưu trú, hướng dẫn viên, lễ tân, buồng, bàn, bar, bếp...); phù hợp
với điều kiện, khả năng của doanh nghiệp và yêu cầu thực tế của xã hội.
Báo Phú Thọ, Đài Phát thanh - Truyền hình Tỉnh cũng đã thực hiện tốt
nhiệm vụ và chức năng của mình trong việc thực hiện chính sách phát triển du
lịch của Tỉnh. Đó là xây dựng các chuyên mục, chuyên trang, chương trình quảng
bá tiềm năng, hình ảnh du lịch Phú Thọ; thường xuyên tuyên truyền, giới thiệu các
điểm, khu du lịch hấp dẫn của tỉnh trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Hiệp hội Du lịch tỉnh Phú Thọ cũng đã tăng cường công tác tuyên truyền
40
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong
lĩnh vực du lịch đến các hội viên để mọi hội viên chấp hành nghiêm chỉnh; động
viên các hội viên đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau về kinh tế, kỹ thuật và tạo
môi trường kinh doanh du lịch lành mạnh, cùng nhau phát triển bền vững; vận
động Hội viên nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm cải thiện hình ảnh du lịch, tạo
ấn tượng tốt với du khách; Tích cực tham gia góp ý, đề xuất với cơ quan quản lý
nhà nước về những chính sách, luật pháp, cơ chế nhằm thúc đẩy ngành du lịch
phát triển....
Các đơn vị kinh doanh du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh: xây dựng
phương án kinh doanh, chủ động mời gọi nguồn vốn đầu tư, khai thác thị trường,
có cơ chế thu hút nhân lực có trình độ cao; chú trọng đến công tác đầu tư nâng
cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của tỉnh, tăng
cường công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho người lao động, từng bước
chuẩn hóa các dịch vụ và đội ngũ cán bộ công nhân viên phục vụ, đẩy mạnh hoạt
động liên doanh liên kết, xây dựng thương hiệu, xây dựng và phát triển các dịch
vụ du lịch có chất lượng đáp ứng nhu cầu ăn, nghỉ, tham quan, vui chơi giải trí
của khách du lịch.
Ngoài ra, các huyện thị khác, đặc biệt là những huyện, thị có địa điểm du
lịch cũng đã có kế hoạch, đề án phát triển du lịch, như huyện Hà Hòa, Thanh
Sơn, Đoan Hùng, Cẩm Khê,... đã xây dựng đề án phát triển di tích đền Mẫu Âu
Cơ, Khu du lịch hồ Ao Châu, Khu du lịch Ao giời - Suối tiên; vùng chè Thanh
Sơn; vườn bưởi huyện Đoan Hùng; xây dựng nhà tưởng niệm nhà thơ Bút Tre tại
xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê.
2.2.4. Duy trì chính sách phát triển du lịch
Cùng với việc phân công, phối hợp thì việc duy trì chính sách phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cũng được thực hiện một cách tương đối tốt.
Theo đó, để duy trì chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã
giao nhiệm vụ cho các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện chương trình
41
trong kế hoạch công tác hằng năm. Căn cứ các kế hoạch về phát triển du lịch tỉnh
giai đoạn 2011 – 2015, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển giai
đoạn 2016 – 2020, các địa phương trong tỉnh đã ban hàng các văn bản điều hành,
tổ chức triển khai thực hiện phát triển du lịch của địa phương mình và duy trì
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, cụ thể Thành phố Việt Trì: Nghị
quyết số 31/2012/NQ-HĐND ngày 25/2/2012 của Hội đồng Nhân dân về phát
triển du lịch thành phố Việt Trì đến năm 2020; Kế hoạch số 2555/KH-UBND
ngày 21/12/2012 của UBND về phát triển du lịch thành phố Việt Trì đến năm
2020; Huyện Thanh Thủy: Đề án số 768/ĐA-UBND ngày 15/9/2011 của UBND
huyện về phát triển du lịch giai đoạn 2011 – 2015, định hướng đến năm 2020;
Nghị quyết 23/2012/NQ-HĐND ngày 18/7/2012 của Hội đồng Nhân dân huyện
thông qua Đề án số 402/ĐA-UBND ngày 18/4/2012 của UBND huyện Hạ Hòa
về phát triển du lịch giai đoạn 2011 – 2015; Thị xã Phú Thọ: Kế hoạch số
703/KH-UBND ngày 30/12/2011 của UBND về phát triển du lịch thị xã Phú Thọ
đến năm 2020; Huyện Cẩm Khê: Kế hoạch số 338/KH-UBND ngày 12/8/2012
của UBND về phát triển du lịch huyện Cẩm Khê giai đoạn 2012 – 2015; Đề án
số 1408/ĐA-UBND ngày 07/7/2011 của UBND về xây dựng và phát triển khu di tích
lịch sử Tiên Động, Tiên Lương thành điểm du lịch văn hóa tín ngưỡng; Huyện Phù
Ninh: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm 2020, trong
đó có quy hoạch về phát triển du lịch trên địa bàn huyện; Kế hoạch số 412/KH-
UBND ngày 18/6/2013 của UBND về phát triển du lịch huyện Phù Ninh năm 2013.
Các huyện Lâm Thao, Tân Sơn, Đoan Hùng, Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Ba,...
đều xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm
2020, trong đó có quy hoạch về phát triển du lịch trên địa bàn huyện.
2.2.5 Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Nhận thức rõ vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, công
tác xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển du
lịch của tỉnh Phú Thọ được triển khai đồng bộ, rộng khắp, nhận được sự đồng
42
thuận, hưởng ứng của các cấp, các ngành và người dân.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch tỉnh phù hợp với từng giai đoạn cụ
thể, việc điều chỉnh chính sách được tỉnh quan tâm, cụ thể:
Đề án số 3020/ĐA-UBND ngày 28/9/2009 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú
Thọ xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn
2009 – 2020 [33]; Kế hoạch số 654/KH-UBND ngày 05/3/2012 của Ủy ban
Nhân dân tỉnh Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015
[34]; Nghị quyết số 30/2012/NQ-HĐND ngày 17/12/2012 của Hội đồng Nhân dân
tỉnh Phú Thọ về quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2020,
định hướng đến năm 2030 [10]; Nghị quyết số 17/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của
Hội đồng Nhân dân tỉnh Phú Thọ về về việc thực hiện 4 khâu đột phá về huy động
nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân
lực, phát triển du lịch và cải cách hành chính tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020
[11]; Kế hoạch số 4772/KH-UBND ngày 20/10/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh
Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [35].
Căn cứ vào mỗi giai đoạn khác nhau, tình hình thực tiễn của tỉnh và xu
hướng phát triển du lịch của đất nước và trên thế giới, chính sách phát triển du
lịch của Phú Thọ được điều chỉnh cho phù hợp.
Ở giai đoạn 2012 – 2015, tình hình kinh tế thế giới biến động khó lường,
tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài; chiến tranh, khủng bố, thiên tai, dịch
bệnh diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng nặng nề đến ngành du lịch. Cùng với đó
là việc kết cấu hạ tầng ngành du lịch tỉnh Phú Thọ chưa được tập trung đầu tư,
cơ sở hạ tầng ngành du lịch còn thiếu thốn, chưa đầy đủ. Trước thực tế đó, Ủy
ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đề ra mục tiêu chung: “Từng bước đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng và các công trình du lịch – thương mại – dịch vụ phù hợp với
đặc điểm tài nguyên du lịch, gắn với các địa bàn trọng điểm du lịch tạo thành
cụm liên kết phục vụ phát triển du lịch. Tập trung xây dựng các tua, tuyến; liên
kết các khu, điểm du lịch, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, làng nghề
43
truyền thống. Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh Phú Thọ, tạo
sức thu hút du khách như: Du lịch văn hóa – lễ hội, du lịch sinh thái – danh
thắng và du lịch nghỉ dưỡng, ẩm thực cội nguồn,... Xây dựng sản phẩm hàng lưu
niệm của tỉnh Phú Thọ phục vụ cho phát triển du lịch” [34].
Tới giai đoạn 2016 – 2020, khi hệ thống cơ sở, kết cấu hạ tầng ngành du
lịch tỉnh Phú Thọ về cơ bản đã được đầu tư, xây dựng đầy đủ, hoàn chỉnh; tình
hình ngành du lịch trên thế giới và Việt Nam cũng thay đổi. Nhu cầu du lịch của
khách du lịch hướng nhiều hơn đến các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam.
Mục tiêu phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn này cũng được đề ra cao hơn
so với giai đoạn trước: “Tập trung khai thác tối đa các tiềm năng, lợi thế nguồn
tài nguyên du lịch của tỉnh; huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để phát triển du lịch bền vững. Tăng cường xúc tiến quảng bá và từng bước
xây dựng Phú Thọ trở thành địa bàn trọng điểm du lịch của vùng, đảm bảo đủ
điều kiện để Phú Thọ đăng cai Năm du lịch quốc gia vào năm 2020” [35].
Thông qua việc điều chỉnh chính sách, tỉnh Phú Thọ đã khẳng định chủ
trương nhất quán cũng như những điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế trong
phát triển du lịch. Kết quả là đã tạo động lực cho ngành du lịch tỉnh có những
bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua.
2.2.6. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiêm tra, đôn đốc, UBND
tỉnh ban hành nhiều kế hoạch triển khai thực hiện việc theo dõi, đôn đốc và thực
hiện tổng hợp báo cáo định kỳ theo quy định. Theo đó, các bên liên quan trong
tỉnh luôn “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh,
tuyên truyền hướng dẫn thực hiện Luật Du lịch năm 2017 và các Thông tư, Nghị
định hướng dẫn thực hiện Luật Du lịch đến các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh
du lịch, dịch vụ trên địa bàn; tư vấn hướng dẫn hoạt động Hiệp hội Du lịch; tư
vấn hướng dẫn hỗ trợ các địa phương xây dựng sản phẩm du lịch cộng đồng,
44
sản phẩm du lịch đặc trưng của các địa phương” [25]. Hằng năm, trên cơ sở báo
cáo của Sở tổng hợp, UBND tỉnh đã có những điều chỉnh, xử lý những vướng
mắc hay cho chủ trương đối với các vấn đề liên quan đến phát triển du lịch trên
địa bàn tỉnh như bố trí kinh phí đầu tư các dự án, chương trình xúc tiến, quảng bá
hình ảnh, chương trình lễ hội…
Công tác kiểm tra, thanh tra cũng được coi trọng: “Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Tổ chức các cuộc kiểm tra chuyên ngành, liên
ngành các hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch trên địa bàn toàn tỉnh, trọng
tâm, trọng điểm là những lĩnh vực hoạt động nhạy cảm, dễ gây bức xúc, xảy ra
tình trạng vi phạm kéo dài như: công tác tổ chức lễ hội, hoạt động tu bổ, tôn tạo
di tích, biểu diễn nghệ thuật…” [24]. Cụ thể là, năm 2016, Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Phú Thọ đã phối hợp với Công an tỉnh và các đơn vị liên quan tổ
chức kiểm tra công tác phòng chống cháy, nổ tại các cơ sở karaoke, vũ trường,
quán bar trên địa bàn tỉnh. Đến nay đã kiểm tra 359 cơ sở, ra quyết định tạm
đình chỉ hoạt động đối với 76 cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke vi phạm các quy
định về điều kiện an ninh trật tự và an toàn phòng cháy, chữa cháy.
2.2.7. Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của ngành du lịch đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, công tác tổ chức đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
luôn được lãnh đạo tỉnh quan tâm nhằm đánh giá đúng thực trạng, kết quả của
nội dung chính sách, quá trình tổ chức triển khai thực hiện và đề xuất giải pháp,
kiến nghị bổ sung, sửa đổi nội dung của chính sách cũng như việc tổ chức thực
hiện hiệu quả của chính sách phù hợp với điều kiện thực tế.
Hằng năm, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đều tổ chức các cuộc họp, hội
nghị tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa
bàn tỉnh để từ đó có những điều chỉnh, thay đổi việc thực hiện chính sách sao
cho phù hợp với thực tiễn triển khai thực hiện chính sách vào cuộc sống nhằm
45
đạt được mục tiêu đã đề ra trong phát triển du lịch tỉnh ở từng giai đoạn cụ thể.
Thông qua các buổi họp, hội nghị đó, các cấp, các ban, ngành, đoàn thể có trách
nhiệm trong việc thực hiện chính sách báo cáo tình hình thực hiện công việc
mình phụ trách để từ đó có những căn cứ đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành
nhiệm vụ và rút ra những kinh nghiệm, khắc phục thiếu sót, tồn tại trong việc
thực hiện chính sách ở những giai đoạn sau đó.
Một số kết quả về sự phát triển của du lịch tỉnh Phú Thọ
Chính sự thực hiện tương đối tốt của các bên liên quan trong thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ những năm gần đây, mà
do đó, đã tạo ra sự phát triển của du lịch tỉnh Phú Thọ và các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội. Cụ thể là:
- Về mặt kinh tế:
Việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đã và đang góp phần tạo nhiều
việc làm, nâng cao đời sống nhân dân.
Năm 2016, ngành Du lịch tỉnh Phú Thọ thu hút 11.918 lao động, trong đó
có 3.418 lao động trực tiếp, tăng 3,1% so với cùng kỳ 2015, tăng 0,5% kế hoạch;
Năm 2017, thu hút 12.505 lao động, trong đó có 3.505 lao động trực tiếp, tăng
2,5% so với cùng kỳ 2016, tăng 0,1% kế hoạch; Năm 2018, ước tính thu hút
13.272 lao động, trong đó có 3.792 lao động trực tiếp, tăng 1,1% kế hoạch, tăng
8,2% so với cùng kỳ 2017 [32].
Lượt khách lưu trú trong nước và quốc tế cũng như doanh thu du lịch tăng
đều qua các năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ:
Lượt khách lưu trú: Năm 2016, phục vụ 455.035 lượt khách, tăng 1,1% so
với kế hoạch, tăng 16% so với năm 2015; Năm 2017, phục vụ 500.126 lượt
khách, tăng 0,4% so với kế hoạch, tăng 10% so với năm 2016. Năm 2018, ước
đạt 580.000 lượng khách, tăng 5,4% so kế hoạch năm và tăng 16% với cùng kỳ
năm 2017.
Lượt khách lưu trú quốc tế: Năm 2016, phục vụ 5.718 lượt khách, tăng
46
2,1% so với kế hoạch năm và tăng 5,2% so với năm 2015; Năm 2017, phục vụ
6.512 lượt khách 8,5% kế hoạch năm và tăng 13,8% so với năm 2016. Năm 2018,
đạt 7.200 lượt, tăng 10,7% kế hoạch năm, tăng 10,6% so cùng kỳ năm 2017.
Về doanh thu du lịch, dịch vụ: Năm 2016 doanh thu du lịch dịch vụ khách sạn
nhà hàng đạt 2.381 tỷ đồng, tăng 10,0% so với cùng kỳ 2015, đạt 99,2% kế hoạch;
Năm 2017 đạt 2.682 tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm 2016, đạt 99,3% kế hoạch. Năm
2018 ước đạt 3.000 tỷ, đạt 100% kế hoạch năm, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2017.
- Về mặt xã hội:
Trong những năm qua, các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh được
tôn tạo, tu bổ; các lễ hội truyền thống được phục dựng, tổ chức thường xuyên đã
tạo ra các sản phẩm văn hóa đặc trưng vùng đất Tổ, góp phần đa dạng hóa các
sản phẩm du lịch. Đặc biệt, các sản phẩm du lịch văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh
đã có sức lan tỏa, thu hút du khách từ mọi miền đất nước về với đất Tổ. Các
điểm du lịch lễ hội của Phú Thọ bước đầu đã hình thành được các sản phẩm du
lịch, đáp ứng được nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghỉ ngơi, tham quan, vui chơi
giải trí của khách du lịch.
Thông qua các hoạt động hợp tác phát triển du lịch giữa ba tỉnh: Phú Thọ,
Yên Bái, Lào Cai và một số hoạt động lễ hội lớn của tỉnh hằng năm đã tạo dựng
được hình ảnh tốt đẹp của con người đất Tổ, quảng bá được rộng rãi văn hóa đất
Tổ, góp phần hình thành và phát triển du lịch của tỉnh Phú Thọ.
Sự phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa lễ hội trên địa bàn tỉnh đã
góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa. Nhận thức của nhân
dân, của du khách về giá trị và bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc thông
qua các hoạt động du lịch được nâng lên. Ý thức của nhân dân trong việc giữ
gìn, bảo tồn, phát huy giá trị các di tích, lễ hội, bảo vệ môi trường du lịch có sự
chuyển biến mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy du lịch và văn hóa phát triển.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Một là, ảnh hưởng tích cực của sự phát triển kinh tế, của toàn cầu hóa, hội
47
nhập quốc tế, đời sống người dân được nâng cao... đã tạo cho người dân có điều
kiện kinh tế hơn trong việc đi du lịch; điều đó có nghĩa là Phú Thọ cũng thu hút
được nhiều hơn du khách.
Hai là, nhận thức ngày càng cao của các bên liên quan; các cấp ủy Đảng,
chính quyền đã có những hoạt động mạnh mẽ, cương quyết trong công tác phát
triển du lịch, huy động các nguồn lực đầu tư phát triển du lịch, kịp thời tháo gỡ
khó khăn cho các hoạt động du lịch. Cùng với đó, nhận thức của đa số dân cư đối
với phát triển du lịch được nâng lên. Người dân có ý thức hơn trong hoạt động du
lịch, tiếp xúc với du khách.
Ba là, công tác quản lý nhà nước về hoạt động du lịch được tăng cường;
công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành định kỳ và thường xuyên giúp các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch hoạt động đúng quy định của pháp luật; công
tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch, đào tạo nghề được quan tâm chú trọng; Công
tác thông tin tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch đã có bước đổi mới, thiết
thực; môi trường du lịch và an ninh an toàn xã hội được đảm bảo góp phần xây
dựng điểm đến du lịch Phú Thọ an toàn, thân thiện, mến khách.
2.3. Một số hạn chế trong việc thực hiện chính sách phát triển du lịch
tỉnh Phú Thọ và nguyên nhân của chúng
2.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du
lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành đôi lúc còn thiếu quyết
liệt, đặc biệt là cơ quan tham mưu về lĩnh vực phát triển du lịch, dịch vụ của tỉnh
còn bị động và chưa có những đề xuất xác thực phù hợp với tình hình thực tế của
tỉnh để phát triển du lịch
Một số công ty, doanh nghiệp, nhà đầu tư còn chậm triển khai dự án đã
đăng ký gây lãng phí về thời gian, nguồn lực và làm giảm hiệu quả của các mục
tiêu chính sách.
Công tác dự báo để xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch triển khai thực hiện
48
chính sách còn hạn chế, chưa lường trước được hết những khó khăn, diễn biến
phức tạp của tình hình kinh tế trong tỉnh, trong nước và quốc tế dẫn đến đề ra
mục tiêu, chỉ tiêu chưa phù hợp, sát với thực tiễn.
2.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ
Mặc dù đạt được một số kết quả đáng khích lệ, song công tác phổ biến,
tuyên truyền chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời
gian qua vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra, phương pháp tuyên truyền còn mang
tính hình thức, còn tuyên truyền “một chiều”, chưa có sự tương tác giữa người
tuyên truyền và người được tuyên truyền; các ấn phẩm tuyên truyền còn đơn
điệu, chưa thu hút; nhân lực làm công tác phổ biến, tuyên truyền chưa thực sự
nắm vững và có chuyên môn về lĩnh vực tuyên truyền nên hiệu quả chưa cao…
2.2.3. Phân công, phối hợp và duy trì thực hiện chính sách phát triển du
lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ tuy được quy định rõ, song, trên thực tế chưa phát huy được
hiệu quả tối đa, vẫn còn xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc”, một số cơ
quan, đơn vị vẫn đùn đẩy trách nhiệm hoặc thực hiện chính sách mang tính chiếu
lệ trong nhiệm vụ, thẩm quyền của mình nên chưa phát huy hết hiệu quả.
2.2.4. Duy trì chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Tuy đạt được một số kết quả đáng khích lệ, nhưng trong thời gian gần đây
việc tổ chức, duy trì thực hiện chính sách cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế
nhất định như: trách nhiệm phối hợp, tổ chức thực hiện các giải pháp về phát
triển du lịch giữa các cơ quan, ban, ngành có liên quan còn hạn chế, thiếu đồng
bộ, công tác thực hiện chính sách chung của các sở về quy hoạch, đầu tư xây
dựng, quản lý, khai thác tài nguyên thiên nhiên, du lịch sinh thái tâm linh còn
hạn chế, số lượng dự án đầu tư du lịch khá nhiều nhưng tình hình triển khai các
49
dự án còn chậm, chưa tạo ra bước đột phá cho du lịch tỉnh.
2.2.5. Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận đã đạt được, phải nhìn nhận rằng
thực tế trong tổ chức thực hiện và điều chỉnh sách hiện nay vẫn chưa được các
cấp, sở, ban, ngành có liên quan được giao nhiệm vụ thực hiện một cách nghiêm
túc, vẫn còn hiện tượng “cục bộ địa phương”, “tư duy ngành”, nhận thức về tính
liên ngành, liên vùng và vai trò của du lịch trong đóng góp kinh tế - xã hội địa
phương còn hạn chế, chưa chủ động trong công tác tham mưu và phối hợp để
thực hiện điều chỉnh chính sách đảm bảo phù hợp với yêu cầu phát triển của
ngành trong giai đoạn thực hiện chính sách. Ngoài ra còn có sự hạn chế về thẩm
quyền đối với việc điều chỉnh một số chủ trương, chính sách có liên quan đến
việc thực hiện chính sách phát triển du lịch của địa phương.
2.2.6. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Công tác theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển
du lịch còn một số tồn tại, hạn chế, hằng năm trong chương trình kiểm tra, giám
sát của Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch vẫn chưa nhấn mạnh, đánh giá đúng
được thực trạng tổ chức, kết quả thực hiện chính sách của các cơ quan, ban,
ngành có liên quan; công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc vẫn còn tính hình thức,
tính báo cáo, chưa thấy đề cập nhiều đến vấn đề xử lý trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân được giao nhiệm vụ mà chưa đảm bảo hiệu quả, chất lượng công
việc trong quá trình thực hiện chính sách.
2.2.7. Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong tổ chức đánh giá, tổng kết thực
hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ còn tồn tại, hạn chế: thiếu nội
dung dự báo chính sách, biện pháp thực hiện khi dự báo trở thành thực tiễn, việc
đánh giá, tổng kết ở một số cơ quan, ban, ngành có liên quan chưa được quan
50
tâm thực hiện; trong khâu tổ chức đánh giá, tổng kết mới chỉ thực hiện ở cấp
tỉnh, cấp huyện, đối với các quan, ban, ngành, UBND các xã, thị trấn, công tác
tổng kết, đánh giá về chính sách phát triển du lịch thường mang tính chung
chung, chưa cụ thể, mang tính hình thức, chủ yếu được lồng ghép với với báo
tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của đơn vị.
Một số hạn chế trong phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay
Chính vì những hạn chế nêu trên của việc thực hiện chính sách phát triển du lịch
tỉnh Phú Thọ mà có tác động kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian qua như sau:
Về mặt kinh tế: lượng khách du lịch đến Phú Thọ hiện tại chủ yếu lưu trú
ngắn ngày và chủ yếu là khách nội địa nên khả năng đóng góp cho GDP của tỉnh
chưa nhiều so với tiềm năng vốn có và kỳ vọng của lãnh đạo tỉnh.
Việc khai thác chưa tuân thủ theo quy định gây lãng phí tài nguyên và
thiệt hại về kinh tế đối với địa phương, ví dụ như khu nước khoáng Thanh Thủy.
Về mặt xã hội: việc chưa quản lý chặt chẽ các điểm du lịch đã làm cho
một số đối tượng hoạt động kinh doanh du lịch hành vi phản cảm, có hiện tượng
chèn ép du khách ở một số điểm du lịch. Sự phát triển quá nóng ở một số điểm
du lịch khi lượng du khách động trong bối cảnh điều kiện cung ứng du lịch
không đảm bảo nên đã xảy ra hiện tượng chen lấn, xô đẩy, xô bồ, đặc biệt là
những khu vực du lịch tâm linh. Chẳng hạn, như khu du lịch Đền Hùng. Đây là
khu du lịch, trong những năm gần đây, thu hút được một lượng lớn du khách đến
tham quan, du lịch, vừa mong muốn đáp ứng nhu cầu tham quan, vãn cảnh; vừa
mong muốn thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Điều này, trong chừng mực nhất định,
lại có tác động ngược đến việc thu hút khách du lịch, có thể gây ra hiện tượng du
khách du lịch không muốn quay trở lại du lịch nữa.
Vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên cũng bắt đầu xảy ra ở những tụ điểm
du lịch, khi cả nhà quản lý, nhà kinh doanh và du khách không tuân thủ những
nội quy, quy chế về bảo vệ môi trường tự nhiên. Môi trường xã hội cũng bị ảnh
hưởng ít nhiều, đặc biệt là tầng lớp trẻ khi có một bộ phận thanh thiếu niên trong
51
tiếp xúc, hoạt động du lịch, có hiện tượng quay lưng lại với giá trị truyền thống
tốt đẹp của địa phương. Một số hoạt động văn hóa truyền thống bị biến dạng.
Một số di sản văn hóa vật thể bị xâm hại, hỏng.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, sự suy thoái kinh tế trên thế giới tác động đến đối tượng đi du lịch,
đến khả năng chi trả của đối tượng này ở các điểm du lịch nên dẫn đến một số nguồn
thu chưa đảm bảo được mục tiêu đề ra.
Thứ hai, việc chạy theo lợi nhuận trước mắt của một số người liên quan đến
hoạt động du lịch, như một số nhà hàng kinh doanh, một số công ty lữ hành du lịch và
kể cả một bộ phận người dân, nên các đối tượng này đã không tuân thủ theo quy định,
các chủ trương của Đảng, Nhà nước, chính quyền tỉnh trong phát triển du lịch, như
chèn ép khách, chưa chú trọng đến xử lý các vấn đề liên quan đến môi trường (thu dọn
rác, hệ thống xử lý nước thải...), nâng giá dịch vụ vô lý, đầu tư cơ sở hạ tầng chưa tốt –
tất cả những điều đó ảnh hưởng đến chất lượng, dịch vụ du lịch; ảnh hưởng đến môi
trường du lịch và thu hút khách du lịch; ảnh hưởng đến việc đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ ba, Phú Thọ là tỉnh có nền kinh tế chưa phát triển mạnh, một số khu vực
còn nghèo đói, do đó, việc đầu tư cho phát triển du lịch còn có hạn chế nhất định, chưa
xây dựng được mảng du lịch ở phân khúc cao cấp, xa xỉ. Đặc biệt, trong những năm
gần đây, dưới ảnh hưởng của sự phát triển chậm về kinh tế, thì ngân sách đầu tư cho
du lịch bị cắt giảm; bản thân các doanh nghiệp cũng hạn chế đầu tư vào lĩnh vực
này dẫn đến việc một số mục tiêu chưa đạt được như kỳ vọng.
Thứ tư, trong thực hiện chính sách phát triển du lịch thì cần có sự vào
cuộc đồng bộ, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, địa phương và doanh
nghiệp; song sự phối hợp giữa các bên liên quan trong phát triển du lịch ở tỉnh
Phú Thọ chưa chặt chẽ, thường xuyên.
Thứ năm, vai trò của khối doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp du lịch
cũng như của cộng đồng trong thực hiện thúc đẩy các hoạt động phát triển du lịch
Phú Thọ còn hạn chế nhất định: về nhận thức, về nguồn vốn, cách thức tiếp cận với
52
sự đa dạng các kiểu loại du lịch, kiểu loại khách; về công nghệ thông tin,...
Thứ sáu, đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch và đội ngũ nhân lực du lịch
phát triển chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, như Nghị quyết số 08-NQ/TW nhận
định: nhân lực và kinh nghiệm quản lý còn yếu [5,tr.1]. Với tỉnh Phú Thọ, đội
ngũ nhân lực còn thiếu về số lượng; chất lượng chưa đảm bảo ở một số nội dung
như trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp với khách du lịch, các kỹ năng mềm
53
khác,...
Tiểu kết Chương 2
Nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, với vị trí địa lý, khí hậu cùng với những điều
kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi khác, trong những năm qua, công tác này của tỉnh
đạt được những thành công nhất định. Về cơ bản, các công tác xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch; công tác phổ biến tuyên
truyền; phân công, phối hợp thực hiện; duy trì; điều chỉnh; kiểm tra giám sát...
việc thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ của các bên liên quan,
như Đảng ủy, chính quyền các cấp; các ban ngành, đoàn thể; các cơ sở giáo dục,
đào tạo; các cơ sở kinh doanh và người dân,... quan tâm và thực hiện tương đối
tốt. Nhờ đó, các địa danh, các khu di tích lịch sử - văn hóa, các di sản văn hóa,...
như bưởi Đoan Hùng, Đền Hùng, chè Thanh Sơn, hát Xoan,... đã được quảng bá,
thu hút được một lượng lớn khách du lịch; đem lại những lợi ích thiết thực về
kinh tế, xã hội cho Phú Thọ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác này còn có hạn
chế nhất định. Đó là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng một số
khu du lịch bị quá tải, một số di sản văn hóa bị tàn phá, môi trường bị ô nhiễm.
Với những lý do vậy, cần thiết có một giải pháp tổng thể nhằm nâng cao hơn nữa
54
hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
3.1. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
3.1.1. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch
- Cùng với việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nói chung, các cơ
quan, đơn vị liên quan trực tiếp đến hoạt động du lịch cũng cần đẩy mạnh cải
cách hành chính. Theo đó, cần hoàn thiện bộ máy các cơ quan quản lý liên quan
đến phát triển du lịch, xác định vị trí việc làm cho các bộ phận chuyên môn về
du lịch, như Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng với các Phòng chức năng liên
quan. Ở cấp huyện và cấp xã, cũng cần bổ sung nhân sự phụ trách du lịch. Việc
bổ sung này có thể là linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của từng khu vực: ở
những khu vực có nhiều điểm du lịch, lượng du khách nhiều thì có thể bố trí
nhân sự nhiều hơn ở những nơi ít điểm du lịch. Bên cạnh đó, Trung tâm xúc tiến
du lịch, Ban quản lý các khu du lịch cũng cần phải được kiện toàn cả về nhân sự
lẫn cơ cấu tổ chức, đảm bảo tinh gọn nhưng hiệu quả.
- Có thể thấy rằng, trong thực thi chính sách, thì sự phối hợp giữa các bên
liên quan có vai trò quan trọng nhằm đạt mục tiêu mong muốn. Bởi trên thực tế,
cùng một chính sách sẽ có nhiều cơ quan thuộc các lĩnh ực khác nhau tham gia
[19,tr.27]. Với tư cách là một lĩnh vực trong xã hội, thực hiện chính sách phát
triển du lịch có quan hệ với nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội; do đó, cần
tăng cường hơn nữa sự phối hợp liên ngành giữa cơ quan quản lý chuyên ngành
về du lịch với các cơ quan chức năng quản lý các lĩnh vực khác (như Sở Tài
nguyên và Môi trường, Sở Công Thương, Sở kế hoạch và đầu tư,…) trong thực
55
hiện chính sách phát triển du lịch của tỉnh, đảm bảo vai trò tập trung, thống nhất
quản lý nhà nước của UBND tỉnh, tạo sự kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp,
ngành, lĩnh vực với ngành du lịch để thực hiện các định hướng, mục tiêu, giải
pháp thực hiện chính sách phát triển du lịch một cách có hiệu quả. Trong đó, đặc
biệt lưu ý sự thống nhất trong xây dựng quy hoạch, xây dựng các chính sách phát
triển du lịch, trong tổ chức sử dụng, phát huy hiệu quả và bảo tồn, bảo vệ tài
nguyên du lịch.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch, đặc
biệt là đội ngũ quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch, đáp ứng yêu cầu phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là đội ngũ xây dựng và thực thi chính
sách, đội ngũ nhân lực làm công tác kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực du lịch.
3.1.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả các công cụ quản lý của nhà nước
trong hoạt động du lịch
- Trong việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, cần
phải thực hiện theo quan điểm phát triển du lịch bền vững. Phát triển du lịch bền
vững là sự “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời
các yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các
chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu
cầu về du lịch trong tương lai” [18]. Trên cơ sở các tiêu chí đánh giá phát triển
du lịch bền vững, tỉnh cần có chính sách nhằm thực hiện tốt các tiêu chí trên cả
ba nội dung kinh tế, xã hội, môi trường và phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể
của địa phương. Đây là căn cứ quan trọng để hoàn thiện quy hoạch và xây dựng
các chính sách hợp lý, khả thi đối với phát triển ngành du lịch ở tỉnh.
- Nâng cao chất lượng công tác xây dựng quy hoạch; tổ chức quản lý
nghiêm ngặt và thực hiện đúng nội dung quy hoạch:
Có thể thấy rằng, mỗi thời kỳ phát triển đều có những vấn đề mang tính
dấu ấn lịch sử của thời kỳ đó [13,tr.19]. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân, có
thể trong quá trình thực thi chính sách phát triển du lịch, còn một số chính sách
56
đã hết hiệu lực, một số chính sách trong giai đoạn hiện nay đã tỏ ra không phù
hợp như đã trình bày ở chương 2, vì vậy, cần thiết rà soát một cách tổng thể và
mang tính hệ thống các quy hoạch du lịch đang còn hiệu lực, tiến hành sơ kết
việc thực hiện quy hoạch theo giai đoạn, phân tích, đánh giá cụ thể chất lượng,
tính bền vững, tính đồng bộ của mỗi chính sách; trên cơ sở đó đánh giá khả
năng tiếp tục thực hiện hoặc điều chỉnh những nội dung, mục tiêu không còn phù
hợp, xây dựng mới các chính sách cần thiết làm cơ sở cho sự phát triển du lịch.
Việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cần dựa trên những yêu cầu khác quan, như
sự phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh. Theo nghĩa đó, trong quá trình bổ sung,
điều chỉnh chính sách, cần tránh chủ quan duy ý chí của cơ quan quản lý du lịch,
hay do lợi ích nhóm chi phối.
Thực tế cho thấy, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Phú Thọ giai đoạn
2011 -2020, định hướng đến năm 2030 tuy cơ bản vẫn phù hợp; song một số nội
dung cần phải được điều chỉnh cho phù hợp thực tế mới. Theo báo cáo, một số
quy hoạch du lịch cụ thể như quy hoạch chung khu du lịch đầm Ao Châu - Hạ
Hòa, quy hoạch khu đô thị du lịch sinh thái nghỉ dưỡng thể thao Tam Nông đã
bộc lộ bất cập cần được rà soát để điều chỉnh; quy hoạch phát triển khu di tích
lịch sử Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ đến năm 2015 đã hết hiệu lực thời gian, cần có
quy hoạch mới để thực hiện; một số điểm tài nguyên du lịch tự nhiên đã được thể
hiện trong phân kỳ thu hút đầu tư của quy hoạch tổng thể, cần phải được tiến
hành quy hoạch cụ thể để mời gọi đầu tư đồng thời có giải pháp bảo vệ tài
nguyên thời gian tới như các điểm du lịch Ao Giời - Suối Tiên (Hạ Hòa), Đầm
Vân Hội (Hạ Hòa), Thác Cự Thắng, Ba Vực (Thanh Sơn).
Điều chỉnh, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy hoạch về du lịch cần tuân
thủ nghiêm túc các nguyên tắc, đáp ứng các yêu cầu về nội dung phát triển du
lịch bền vững, tuân thủ các quy định của pháp luật về quy hoạch cả trong quy
trình xây dựng cũng như trong việc xác định các nội dung cụ thể của quy hoạch.
Quy trình xây dựng quy hoạch phải được tiến hành chặt chẽ, lựa chọn
57
được đơn vị tư vấn có trách nhiệm, năng lực chuyên sâu cả về du lịch và phát
triển bền vững, có cách tiếp cận khoa học và bền vững về nội dung cần quy
hoạch. Các thông tin cần thiết phục vụ cho việc xây dựng, điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch liên quan đến thực hiện chính sách phát triển du lịch cần phải được
thu thập đầy đủ (như đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch giai đoạn trước; các cơ
sở khoa học và thực tiễn để minh chứng cho sự cần thiết phải xây dựng mới hoặc
điều chỉnh, bổ sung quy hoạch các thông tin dự báo tác động đến nội dung của quy
hoạch; các thông tin liên quan khác như kết quả phát triển du lịch của quốc gia, khu
vực, của các địa phương có mối quan hệ gắn bó trong phát triển du lịch của tỉnh).
Chú trọng chỉ đạo để nâng cao chất lượng dự báo, đảm bảo được sự đầy đủ, chính
xác, khách quan, đồng bộ, thống nhất và cập nhật kịp thời các thông tin đầu vào. Có
sự tham gia trách nhiệm của các ngành, cấp, các chuyên gia về những lĩnh vực liên
quan trong quá trình xây dựng, điều chỉnh bổ sung quy hoạch.
Trong quá trình xây dựng, điều chỉnh quy hoạch, tỉnh cần phát huy được
vai trò trách nhiệm của xã hội, nhất là vai trò và sự tham gia của cộng đồng địa
phương vào nội dung của quy hoạch, đảm bảo tính dân chủ (thông qua việc khảo
sát, lấy ý kiến về nội dung dự thảo quy hoạch trên phương tiện thông tin đại
chúng của tỉnh, qua các hội nghị, gửi phiếu lấy ý kiến tham vấn từ các chuyên
gia, từ cộng đồng...). Trong quá trình này, Phú Thọ và các tỉnh trong khu vực,
nhất là các tỉnh liền kề cũng cần có sự trao đổi để tạo nên sự thống nhất trong
phát triển du lịch, đảm bảo các bên liên quan đều đạt được lợi ích mong muốn và
không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung. Đặc biệt, cần lưu ý đến việc sử dụng
những tài nguyên tự nhiên ở khu vực giáp ranh, tránh xung đột lợi ích.
Việc thực thi chính sách phát triển du lịch của Tỉnh cần có sự thống nhất,
đồng bộ trong hệ thống quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh; đặc
biệt là các vấn đề xóa đói giảm nghèo, đảm bảo môi trường trong sạch; bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa của tỉnh. Quá trình này cũng cần phải có sự thống
nhất và sự phù hợp với Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt
58
Nam, các quy hoạch phát triển du lịch vùng, tỉnh Phú Thọ trong cùng giai đoạn.
Các quy hoạch và triển khai cần phải được công khai và đồng bộ nội dung
các quy hoạch đến các ngành, các cấp; quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy
hoạch, đảm bảo tiến độ, lộ trình thực hiện, kiên định và kiên trì các mục tiêu,
định hướng phát triển nhất là định hướng tổ chức không gian du lịch và công tác
quản lý tài nguyên du lịch, quản lý đất đai ở địa bàn có tài nguyên du lịch, quản
lý các dự án đầu tư trong các ngành, lĩnh vực khác có liên quan trong khu vực
quy hoạch du lịch.
Xây dựng các chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật phù
hợp, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển du lịch. Theo đó, (1) cần có các
chính sách ưu đãi đất đai, vay vốn với lãi suất thấp, thuế, phí, lệ phí… nhằm
khuyến khích, thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, các
khu du lịch; đầu tư vào phát triển nguồn năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển của
ngành; xúc tiến, quảng bá du lịch cho tỉnh. (2) Quản lý, bảo vệ tài nguyên du
lịch, đặc biệt là các tài nguyên trong các khu du lịch sinh thái nhân văn, các khu
di tích lịch sử văn hóa; các di sản văn hóa phi vật thể; cần ghi rõ các chế tài xử
phạt khi có những vi phạm đối với từng cá nhân, từng vụ việc cụ thể. (3) Nâng
cao ý thức trách nhiệm của các bên liên quan đến hoạt động du lịch, như các cơ
sở kinh doanh du lịch, khách du lịch và người dân địa phương; thu hút sự tham
gia của cộng đồng cho phát triển kinh tế du lịch, bảo vệ tài nguyên, bảo tồn văn
hoá; (4) Khuyến khích, hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ thân thiện với môi
trường, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng trong hoạt động du lịch.
Cùng với đó là rà soát, nghiên cứu, điều chỉnh các chính sách, quy định
không còn phù hợp, bổ sung các chính sách và quy định mới đáp ứng yêu cầu
phát triển du lịch bền vững
- Tổ chức thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật và các
chính sách liên quan đến du lịch của nhà nước, của tỉnh đến nhà đầu tư và mọi
người dân trên địa bàn. Tăng cường hỗ trợ thông tin về du lịch cho các nhà đầu
59
tư, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong tỉnh. Thực hiện tốt chức năng
quản lý nhà nước trong các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến đầu tư,
quảng bá du lịch trong nước và quốc tế.
- Quản lý chặt chẽ việc cấp phép và hoạt động của các cơ sở kinh doanh
du lịch, việc tổ chức và tham gia các hoạt động du lịch, các sự kiện văn hoá, du
lịch của tỉnh. Tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất là về môi trường đầu tư, cơ hội
tiếp cận nguồn lực, thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư, kinh doanh du lịch
trên địa bàn.
Tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra việc sử dụng, bảo vệ tài
nguyên, bảo vệ môi trường du lịch; kiểm tra việc thực hiện các nội dung quy
hoạch, các cam kết về tiến độ đầu tư, sử dụng đất, bảo vệ tài nguyên, môi trường
và việc thực hiện các quy định pháp luật khác của các nhà đầu tư. Kiên quyết xử
lý các dự án du lịch có vi phạm pháp luật trong sử dụng đất, tài nguyên du lịch,
trong các hoạt động kinh doanh, vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường theo
đúng pháp luật.
3.2. Tăng cường nguồn lực, thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ phát triển du lịch
Để có thể thực hiện thành công chính sách phát triển du lịch, việc xây
dựng chính sách phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ cũng rất quan trọng. Theo đó,
trong những năm qua, các chính sách và thực thi chính sách về cơ sở hạ tầng liên
quan đến lĩnh vực du lịch cũng đã được chú ý, như việc xây dựng các tuyến
đường liên thôn, xã, liên tỉnh; các tuyến đường quốc lộ; các tuyến đường dẫn đến
các khu du lịch,… Tuy nhiên, hiệu quả chưa được như mong muốn. Do đó,
trong những năm tới cần chú trọng đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao thông,
điện, nước, bưu chính viễn thông. Các hạ tầng liên quan đến các ngành, lĩnh vực
phát triển du lịch như ngân hàng, tài chính, tín dụng, y tế, giáo dục cũng cần phải
được coi trọng. Trong đó, đặc biệt lưu ý đế lĩnh vực giao thông, điện, cấp thoát
nước và xử lý môi trường - đây là những lĩnh vực có ý nghĩa nền tảng cho sự
60
phát triển của du lịch nói riêng cũng như của tất cả các ngành khác trong tỉnh nói
chung. Do ý nghĩa tổng thể này và do nhu cầu vốn đầu tư các kết cấu hạ tầng rất
lớn, hiệu quả kinh tế - xã hội lâu dài cao nhưng hiệu quả kinh tế trước mắt không
hấp dẫn các nhà đầu tư ngoài nhà nước bỏ vốn, nên đòi hỏi phải có sự đầu tư tập
trung từ nguồn ngân sách nhà nước là chủ yếu. Với nguồn vốn còn rất khiêm tốn,
để huy động được các nguồn đầu tư tập trung cho xây dựng kết cấu hạ tầng, tỉnh
cần thực hiện các giải pháp tăng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh, duy trì,
nâng cao tốc độ tăng trưởng và có các biện pháp tăng cường nguồn thu, khuyến
khích tiết kiệm chi thường xuyên, ưu tiên chi cho đầu tư phát triển; đẩy mạnh áp
dụng hình thức đấu giá quyền sử dụng đất kinh doanh có thời hạn ở các vị trí đất
có lợi thế thương mại lớn thay cho hình thức cho thuê đất theo giá quy định, đấu
giá quyền thăm dò, khai thác khoáng sản thay cho việc giao khai thác có thu thuế
để tăng cường nguồn thu cho phát triển.
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, kêu gọi, tranh thủ các nguồn đầu tư
vào các công trình kết cấu hạ tầng lớn, công trình du lịch trọng điểm Quốc gia
(như Đền Hùng, khu du lịch Xuân Sơn); sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, hỗ
trợ của Trung ương trong quá trình triển khai thực hiện các dự án; tích cực phối
hợp lồng ghép nguồn lực cho các dự án đầu tư có tác dụng đa ngành trong đó có
ý nghĩa về du lịch để thu hút nguồn lực của các bộ ngành liên quan (như các dự
án thủy lợi kết hợp du lịch, làng nghề kết hợp du lịch...). Lựa chọn các hình thức
đầu tư phù hợp, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển
một số dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có khả năng thu hồi vốn nhanh với
các hình thức đầu tư phù hợp như BOT, PPP, BT...
Bổ sung các cơ chế, chính sách ưu đãi mạnh mẽ hơn để thu hút các nguồn
vốn đầu tư phát triển cơ sở vật chất ngành du lịch, đầu tư vào các dự án du lịch
trọng điểm, như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đề ra: “Có cơ
chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên
tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Tạo thuận lợi cho các
61
doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực để phát
triển” [6,tr.130]. Theo đó, cần xây dựng Quy chế ưu đãi đầu tư tại các khu, điểm
du lịch; tạo điều kiện thông thoáng hơn về mặt thủ tục hành chính, cấp phép
thành lập doanh nghiệp, cấp phép kinh doanh, đầu tư, tiếp tục hỗ trợ mạnh hơn
các chi phí cho việc lập hồ sơ và thực hiện các thủ tục hành chính, đẩy nhanh
tiến độ giải phóng mặt bằng; cung cấp đầy đủ dịch vụ hạ tầng cho nhà đầu tư. Dĩ
nhiên, trong quá trình này, tỉnh cũng cần phải đánh giá đúng năng lực của nhà
đầu tư, lựa chọn được các nhà đầu tư thực sự có năng lực và có chiến lược đầu tư
nghiêm túc để đảm bảo tính khả thi, hiệu quả của các dự án.
Đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho du lịch. Theo đó, thu hút nguồn lực
từ dân cư, cộng đồng địa phương cho đầu tư phát triển du lịch, bao gồm cả nhân
lực, vật lực và tài lực. Trong quá trình này, tỉnh cũng cần xác định rõ danh mục
trọng điểm đầu tư hạ tầng và cơ sở vật chất, dự án du lịch để tập trung đầu tư,
tránh dàn trải. Ưu tiên cho các dự án đầu tư hạ tầng du lịch ở các địa bàn có tiềm
năng phát triển thành khu du lịch quốc gia, khu du lịch địa phương, địa bàn trọng
điểm phát triển du lịch. tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện các dự án phát
triển giao thông tạo kết nối giữa trung tâm kinh tế, du lịch của tỉnh với mạng lưới
giao thông quốc gia và liên kết giữa các vùng kinh tế, du lịch: Quốc lộ 32C,
đường Đền Hùng - Xuân Sơn, đường Hồ Chí Minh, các cầu qua sông Hồng,
sông Lô, sông Đà; nâng cấp Quốc lộ 2, đường sông Việt Trì - Tuyên Quang; các
công trình thuộc quần thể khu di tích lịch sử Đền Hùng, các điểm nhấn văn hóa,
kiến trúc thuộc thành phố lễ hội về với cội nguồn dân tộc Việt Trì.
- Đối với hệ thống cơ sở vật chất vui chơi giải trí cần ưu tiên đầu tư xây
dựng các loại hình giải trí tổng hợp hiện đại, các hoạt động thể thao cảm giác
mạnh, dã ngoại tại các trung tâm du lịch lớn, các khu vực đô thị kết hợp với việc
đầu tư khai thác các trò chơi dân gian trong các lễ hội của các vùng.
- Đầu tư hệ thống thu gom nước thải, rác thải ở các khu, điểm du lịch, kết
62
nối đến các các điểm tập kết, xử lý chất thải tập trung đã được quy hoạch.
Đồng thời với việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư hạ tầng và công
trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, cần tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các thành
phần kinh tế ngoài nhà nước, từ cộng đồng dân cư cho các dự án đầu tư cơ sở
lưu trú, ăn uống cao cấp, trung tâm thương mại, mua sắm, dự án xây dựng các
công trình vui chơi giải trí, dự án đầu tư tại các khu, điểm du lịch đã quy hoạch.
Việc thu hút các nguồn vốn từ dân cư và tư nhân cho xây dựng hạ tầng theo
hướng: công trình hạ tầng chính, then chốt, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và thời gian
thu hồi vốn chậm do nhà nước đầu tư, các hợp phần hạ tầng nhỏ gắn với công
trình chính, mức đầu tư ít, sau đầu tư có thể khai thác để thu hồi vốn nhanh và
trực tiếp, phù hợp với điều kiện của các nhà đầu tư tư nhân hoặc cộng đồng dân
cư thì khuyến khích cộng đồng tham gia, góp vốn đầu tư.
Đẩy mạnh thu hút đầu tư du lịch phải gắn với việc rà soát, đánh giá, thẩm
định năng lực của các nhà đầu tư, chất lượng dự án đầu tư để đảm bảo tính khả
thi của dự án. Tạo môi trường, khuyến khích, thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ
trợ đầu tư đồng thời phải đôn đốc, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các dự
án du lịch, kiên quyết thu hồi các dự án chậm tiến độ quá thời gian pháp luật cho
phép hoặc dự án vi phạm cam kết, vi phạm quy định pháp luật, để đảm bảo hiệu
quả thu hút đầu tư, tránh lãng phí các nguồn lực, nhất là đất đai và nguồn tài
nguyên du lịch.
Cùng với đầu tư nguồn vốn cho xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện các
dự án phát triển du lịch, cần chú trọng dành nguồn đầu tư thoả đáng cho công tác
đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến, quảng bá du lịch; quản lý và sử dụng tốt các
nội dung đầu tư này để đảm bảo hiệu quả đầu tư.
3.3. Tăng cường bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch có vai trò quan trọng trong việc thu hút khách du lịch.
Tài nguyên nói chung được hiểu là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc văn hóa để
tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, sản phẩm phục con người [15,tr.277]. Sự hấp
63
dẫn du khách cũng phụ thuộc tương đối nhiều vào sự đa dạng, phong phú, mới lạ
của hai loại tài nguyên này và phụ thuộc vào môi trường mà hai tài tuyên này
thuộc về. Do đó, trên cơ sở danh mục tài nguyên du lịch đã được xác định, tiếp
tục thường xuyên rà soát, đánh giá, kiểm kê thực trạng, xây dựng hệ thống cơ sở
dữ liệu đầy đủ về tài nguyên du lịch của tỉnh (bao gồm cả tài nguyên du lịch tự
nhiên và tài nguyên du lịch)
Xây dựng quy hoạch sử dụng, bảo vệ hệ thống tài nguyên trên địa bàn
tỉnh, trong đó cần đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất về quan điểm sử dụng và bảo
vệ của các ngành, các địa phương dưới sự quản lý tập trung của UBND tỉnh đối
với những tài nguyên du lịch. Các tài nguyên dễ bị tổn thương, ảnh hưởng do tác
động của các hoạt động du lịch và các hoạt động kinh tế khác như nông lâm
nghiệp, thủy sản, khai thác khoáng sản, xây dựng cần phải được bảo vệ, quản lý
chặt chẽ – đó là các khu dụ lịch gắn với cảnh quan thiên nhiên, hệ sinh thái rừng
núi,... Quản lý chặt chẽ những hoạt động du lịch và hoạt động kinh tế xã hội
khác có nguy cơ gây ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch; kiểm tra, kiểm soát
thường xuyên việc sử dụng tài nguyên, tránh sử dụng quá mức gây nguy cơ cạn
kiệt, suy giảm hoặc xuống cấp nghiêm trọng tài nguyên.
- Thường xuyên theo dõi biến động của tài nguyên để có những giải pháp
phối hợp kịp thời giữa cơ quan quản lý chuyên ngành về du lịch với các cơ quan,
ngành chức năng liên quan và các địa phương trong tỉnh trong việc khắc phục sự
cố, tình trạng suy thoái, xuống cấp của tài nguyên du lịch. Các khu vực tài
nguyên quý hiếm, các khu vực có nguy cơ suy thoái hoặc có khả năng chịu ảnh
hưởng cao của các tác động xấu do hoạt động khai thác của con người đều phải
được xác định, khoanh vùng dưới sự kiểm soát chặt chẽ để có biện pháp nghiêm
ngặt và giải pháp xử lý phù hợp nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường như khu
vực nước khoáng nóng Thanh Thuỷ; vườn Quốc gia Xuân Sơn, đầm Ao Châu…
Trong đó, ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến việc bảo vệ môi trường thiên nhiên
trong sạch. Nếu môi trường du lịch không vụ đời sống an toàn, không vệ sinh, bị
64
ô nhiễm thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến du lịch. Không một du khách nào
muốn đến du lịch một nơi mà môi trường xã hội không đảm bảo, môi trường
sinh thái bị ô nhiễm [37,tr.197].
- Xây dựng chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
kinh doanh trong lĩnh vực du lịch trong việc huy động, thu hút vốn đầu tư vào
các hoạt động bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch. Theo đó, các dự án đầu tư phát
triển du lịch có những cam kết cụ thể về bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên
du lịch sẽ được khuyến khích và có cơ chế đặc thù. Trong bối cảnh hiện nay, tỉnh
cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh du lịch
áp dụng công nghệ ít tiêu thụ năng lượng và thân thiện với môi trường trong đầu
tư và hoạt động (như sử dụng các giải pháp thiết kế nhà hàng, khách sạn phù hợp
để tránh tiêu tốn năng lượng khi vận hành; sử dụng hệ thống pin mặt trời để cung
cấp nước nóng, sử dụng các vật liệu thân thiện với môi trường.).
- Đối với các tài nguyên du lịch nhân văn, cần nghiên cứu, xác định được giới
hạn áp lực của hoạt động du lịch lên tài nguyên để có biện pháp duy trì áp lực và
cường độ sử dụng trong giới hạn an toàn cho tài nguyên. Thực hiện các biện pháp cụ
thể như xây dựng quy chế quản lý khách du lịch, nội quy lễ hội, các bộ quy tắc ứng
xử..., tuyên truyền để du khách tôn trọng và có thái độ ứng xử văn hoá với các tài
nguyên du lịch nhân văn (tôn trọng di sản, tôn trọng truyền thống văn hoá, chuẩn
mực văn hoá, đạo đức của cộng đồng địa phương nơi có hoạt động du lịch); đồng
thời nâng cao nhận thức, ý thức giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống, môi trường
xã hội truyền thống của cộng đồng khi tham gia hoạt động du lịch.
Trong quá trình này, cần lưu ý đến các tài nguyên, sản phẩm du lịch đặc
thù của Phú Thọ. Sản phẩm đặc thù “là những sản phẩm có được yếu tố hấp
dẫn, độc đáo/duy nhất, nguyên bản và đại diện về tài nguyên du lịch (tự nhiên và
nhân văn) cho một lãnh thổ/điểm đến du lịch; với những dịch vụ không chỉ làm
thỏa mãn nhu cầu/mong đợi của du khách mà còn tạo được ấn tượng bởi tính độc
đáo và sáng tạo” [37,tr.215-216]. Với Phú Thọ hiện nay, các khu di tích Đền
65
Hùng, Gò Mun…, hay du lịch tâm linh cần phải được chú trọng đầu tư.
- Thực hiện nghiêm quy định về khảo sát, đánh giá tác động môi trường
khi đầu tư dự án du lịch. Khuyến khích, tăng cường quảng bá cho các loại hình
du lịch thân thiện với môi trường. Hoàn thiện hệ thống nội quy, quy chế, quy
định về bảo vệ môi trường tại các khu, điểm du lịch. Tổ chức cho các cơ sở kinh
doanh học tập và ký cam kết thực hiện quy chế. Đôn đốc, giám sát thường xuyên
các cơ sở thực hiện đầy đủ các quy định, quy chế bảo vệ môi trường trong các
hoạt động du lịch.
- Tỉnh cần tăng cường đầu tư cho lực lượng bảo vệ môi trường, vệ sinh tại
các khu vực du lịch. Chú trọng xây dựng hạ tầng xử lý chất thải, nước thải ở các
khu, điểm du lịch, các cơ sở lưu trú và ăn uống phục vụ du lịch. Kiểm soát chặt
chẽ tác động của các hoạt động kinh tế trong những lĩnh vực khác (xây dựng,
giao thông, công nghiệp, nông nghiệp) đến môi trường tại các khu, điểm du lịch.
Kiểm tra thường xuyên các hoạt động kinh doanh du lịch; xử lý nghiêm đối với
các doanh nghiệp, cơ sở gây ô nhiễm môi trường khi tham gia hoạt động du lịch
gây ô nhiễm môi trường du lịch.
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên, môi trường du
lịch.. Lồng ghép nội dung giáo dục về môi trường trong chương trình của hệ
thống các cấp độ đào tạo du lịch cũng như đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục qua
phương tiện thông tin đại chúng. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các
cấp, các đối tượng tham gia kinh doanh lịch, khách du lịch, cộng đồng dân cư
trong nỗ lực chung để đảm bảo môi trường cho phát triển du lịch.
- Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, xây dựng các sản phẩm du lịch phù
hợp với nhu cầu và thị hiếu của du khách
3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
du lịch
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực du lịch cả về số
lượng, chất lượng, cơ cấu đào tạo. Trên cơ sở dự báo về lượng khách du lịch, xây
66
dựng và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành du
lịch phù hợp với yêu cầu phát triển và các mục tiêu, dự báo, định hướng phát
triển du lịch.
- Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng nhân lực đầu vào cho bộ máy
hoạt động liên quan đến du lịch, cả nhân lực quản lý và nhân lực du lịch nói
chung, phù hợp các quy định về tiêu chuẩn chất lượng nhân sự tương ứng với
mỗi vị trí công việc và quy trình tuyển dụng. Các chuyên gia giỏi, lao động có
trình độ tay nghề cao cần được ưu đãi tuyển dụng; trong đó đặc biệt ưu tiên vào
lĩnh vực, công việc mà nguồn nhân lực du lịch ở tỉnh còn chưa mạnh, như quản
trị kinh doanh khách sạn cao cấp, lữ hành, quản lý các khu du lịch, hợp tác
quảng bá du lịch ra với thị trường nước ngoài.
- Với các nhân lực du lịch địa phương, định kỳ nên tổ chức các hoạt động
đào tạo, đào tạo lại đáp ứng yêu cầu phát triển ngành, của sự phát triển ngày
càng gia tăng cả về chất lượng lẫn số lượng. Trong quá trình này cần chú ý với
các đối tượng sau: thứ nhất, là các chuyên gia trong từng lĩnh vực chuyên ngành
hẹp của du lịch, như quản lý, nghệ nhân,…; thứ hai, là với đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước các cấp về du lịch: với đội ngũ này cần nâng cao trình độ
xây dựng và thực thi chính sách, trang bị những kiến thức cần thiết liên quan đến
lĩnh vực du lịch; thứ ba, đối với đội ngũ nhân lực làm việc trực tiếp với du khách
thì cần nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, tính chuyên nghiệp, trình độ ngoại ngữ,
văn hóa ứng xử .
- Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách trong tuyển dụng, đào tạo và
đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chất lượng, kỹ năng công việc cho đội ngũ
chuyên gia, cán bộ, lao động du lịch, chính sách khuyến khích, xã hội hóa công
tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Tăng cường năng lực đào tạo bồi dưỡng
của các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh (trường đại học Hùng
Vương, cao đẳng Văn hoá và Du lịch, cao đẳng nghề Phú Thọ), phát triển và
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, hỗ trợ tăng cường cơ sở vật chất và điều
67
kiện giảng dạy; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo lý thuyết và thực hành; mở rộng
hợp tác, liên kết đào tạo nguồn nhân lực du lịch với các trường, cơ sở, tổ chức
đào tạo trong nước và quốc tế có uy tín trong việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
quản trị và kinh doanh du lịch; khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh các
sản phẩm, dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh (như các khách sạn, nhà hàng lớn, các
cơ sở kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí) thoả thuận và ký kết hợp đồng đào tạo
theo địa chỉ. Tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế phối hợp, liên kết với các cơ sở đào tạo mở rộng các hình
thức đào tạo ngắn hạn, không tập trung, phục vụ nhu cầu vừa học vừa làm, nâng
cao trình độ tay nghề của người lao động.
Hỗ trợ giáo dục cộng đồng, mở các lớp tập huấn các kiến thức về du lịch
cho người dân tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch. Hỗ trợ đào tạo và
hướng dẫn phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
làm du lịch; đào tạo tay nghề để khôi phục, phát triển nghề cổ truyền tạo điểm
tham quan du lịch và sản xuất hàng lưu niệm phục vụ du lịch.
3.5. Đa dạng hóa các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch, phát triển
thị trường
- Cần triển khai ngay việc xây dựng chiến lược, các chương trình, kế
hoạch dài hạn và hàng năm về xúc tiến, quảng bá du lịch; đẩy mạnh các nội dung
xúc tiến, quảng bá riêng của tỉnh đồng thời gắn với xúc tiến, quảng bá du lịch
khu vực và cả nước để tạo hiệu quả tổng hợp trong xúc tiến, quảng bá. Tăng
cường phối hợp với Bộ VH,TT&DL, với các cơ quan thông tin đại chúng ở
Trung ương và các tỉnh bạn, cơ quan thông tin đối ngoại, các hiệp hội, hội hữu
nghị, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài để quảng bá hình
ảnh của du lịch Phú Thọ trong nước và ra với thế giới. Tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ
hình ảnh Phú Thọ với ý nghĩa là vùng đất Tổ cội nguồn của dân tộc Việt Nam và
gắn với 2 di sản phi vật thể đại diện của nhân loại đã được vinh danh.
- Tăng cường cung cấp thông tin, hướng dẫn cho khách du lịch; đầu tư đổi
68
mới thiết kế, hình thức các ấn phẩm du lịch Phú Thọ như: Bản đồ du lịch, cẩm
nang du lịch, đĩa DVD, VCD, bản tin du lịch,... để tăng tính hấp dẫn và phong
phú; xây dựng hệ thống điểm hướng dẫn và cung cấp thông tin cho khách du lịch
ở những đầu mối giao thông quan trọng và đặc biệt là ở các khu điểm du lịch,
các trung tâm lữ hành. Phát triển các hoạt động E-Marketing, mở rộng nội dung
thông tin trên các Website của tỉnh, trên Website riêng của ngành du lịch Phú
Thọ, cập nhật đầy đủ các thông tin du lịch của tỉnh, hoàn chỉnh hơn các công cụ
tra cứu du lịch và xây dựng các ấn phẩm giới thiệu, quảng cáo điển tử trên
Website với giao diện và cách thức thể hiện hấp dẫn hơn; có quy định cụ thể,
khuyến khích, hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện để các dự án du lịch lớn, các khu,
điểm du lịch trọng tâm đều có Website riêng của mình, tạo sự liên kết giữa các
Website du lịch trong tỉnh và với các mạng xã hội, tận dụng quảng bá du lịch
trên các trang mạng xã hội. Đây là giải pháp phù hợp với xu thế của xã hội hiện
đại, tiện lợi để nhanh chóng đưa thông tin cập nhật về du lịch Phú Thọ đến với
các thị trường khách du lịch không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới.
- Thực hiện các chương trình thông tin tuyên truyền, quảng bá rộng rãi về
những sự kiện sẽ diễn ra hàng năm trên địa bàn tỉnh như lễ giỗ Tổ và các lễ hội
truyền thống, sự kiện văn hoá, thể thao… Tổ chức các chiến dịch xúc tiến, quảng bá
sự kiện, phát động thị trường theo chuyên đề; chủ động liên kết, mời gọi các đoàn
dã ngoại thực tế đến nghiên cứu điểm đến, giúp tỉnh quảng bá, kết nối sản phẩm du
lịch với các thị trường nguồn khách; mời gọi, khuyến khích và tạo điều kiện cho các
hoạt động sáng tạo nghệ thuật (sáng tác tác phẩm văn học, thơ, nhạc, nhiếp ảnh, làm
phim...) gắn với hình ảnh, bối cảnh hoặc kết hợp quảng bá về địa phương; đầu tư tổ
chức, đăng cai và tham gia các sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch, các hội nghị, hội
thảo du lịch trong nước và quốc tế để giới thiệu, quảng bá rộng rãi tiềm năng du lịch
địa phương, kích thích nhu cầu du lịch trong nước và quốc tế.
- Tổ chức thường xuyên các hoạt động tuyên truyền giáo dục nâng cao ý
thức và văn hóa phục vụ khách du lịch của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư;
phát động chiến dịch làm sạch môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm cho khách
69
du lịch...
- Đẩy mạnh các chương trình hợp tác, liên kết quảng bá, giới thiệu, xúc
tiến du lịch trong nước với các tỉnh trong vùng Thủ đô, vùng du lịch trung du
miền núi Bắc Bộ, mở rộng các chương trình hợp tác song phương với các tỉnh
bạn trong nước, với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Luông Nậm Thà (Lào), Nara
(Nhật Bản) và tìm thêm cơ hội liên kết hợp tác với một số địa phương, vùng lãnh
thổ tương đương cấp tỉnh ở các quốc gia khác. Thống nhất các nội dung hợp tác,
liên kết theo hướng cụ thể và thực chất hơn. Tiếp tục đầu tư quảng bá mạnh mẽ
cho thương hiệu du lịch về cội nguồn, hành trình du lịch tâm linh, du lịch di sản
với các di sản của nhân loại và thành phố lễ hội Việt Trì, các khu điểm du lịch
thuộc vùng nước khoáng nóng Thanh Thuỷ, khu du lịch vườn Quốc gia Xuân
Sơn, khu du lịch Đầm Ao Châu.
- Tăng cường đầu tư nguồn kinh phí tập trung cho công tác xúc tiến,
quảng bá; mở rộng xã hội hoá công tác quảng bá du lịch, khuyến khích động
viên các doanh nghiệp tích cực, chủ động hơn trong công tác quảng bá của
doanh nghiệp mình và góp phần quảng bá cho hình ảnh du lịch chung của tỉnh
đồng thời tập huấn, hướng dẫn, tuyên truyền giáo dục tính trách nhiệm, trung
thực trong hoạt động quảng bá; kiểm tra chặt chẽ các nội dung quảng bá, xử lý
nghiêm các vi phạm trong hoạt động quảng bá du lịch để đảm bảo uy tín của
thương hiệu du lịch Phú Thọ.
- Xác định đúng đắn các ưu tiên phát triển thị trường khách du lịch. Do
đặc thù tài nguyên du lịch riêng có, Phú Thọ cần chú trọng đến thị trường khách
du lịch nội địa và kiều bào Việt Nam trên thế giới. Trong các thị trường khách
quốc tế, tỉnh cần chú trọng đến thị trường Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Trung
Quốc, các nước Đông Nam Á, các nước Bắc Mỹ, một số nước châu Âu, nghiên
cứu khả năng tiếp cận và phát triển thị trường Trung Đông.
- Coi trọng phát triển thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế, mở rộng hợp tác phát triển du lịch với các địa phương bạn trong đó có
70
hợp tác kết nối tour du lịch liên tỉnh để tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên
du lịch, khai thác thị trường. Thực hiện các chính sách đơn giản hoá các thủ tục
xuất nhập cảnh thuộc thẩm quyền của địa phương; tăng cường đầu tư chiều sâu
cho du lịch, nâng cao chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm du lịch tương
xứng với hình ảnh được quảng bá.
- Củng cố, phát huy trách nhiệm và chất lượng hoạt động của Trung tâm xúc
tiến du lịch thuộc sở chuyên ngành để tham mưu thực hiện tốt các nội dung hoạt
động này. Về lâu dài cần thành lập các Văn phòng đại diện của tỉnh tại các trung
tâm du lịch lớn trong nước và hướng đến các thị trường khách quốc tế tiềm năng.
3.6. Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của các bên liên quan
trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
3.6.1. Phát huy vai trò, ý thức trách nhiệm của khách du lịch
Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ
tài nguyên du lịch, tuyên truyền về quyền gắn với trách nhiệm của khách du lịch
nhằm nâng cao ý thức tự giác của du khách về bảo vệ tài nguyên du lịch, bảo vệ môi
trường, ý thức tôn trọng cộng đồng, tôn trọng văn hóa bản địa. Hướng dẫn du khách
tự giác thực hiện các nội quy, quy chế, các bộ quy tắc ứng xử khi tham gia du lịch.
Bố trí thời gian và nội dung hợp lý trong các hành trình du lịch, các tour
du lịch để du khách thực sự được chủ động tham gia, trải nghiệm cùng cộng
đồng địa phương nơi có tài nguyên du lịch, từ đó tạo sự ghi nhận, chia sẻ, trân
trọng và ý thức cộng đồng trách nhiệm của khách du lịch trong bảo vệ tài
nguyên, môi trường. Tổ chức thường xuyên các hoạt động bảo vệ tài nguyên,
môi trường ở điểm đến du lịch và mời khách du lịch tham gia (như tổ chức trồng
cây và gắn biển tên cho khách tham gia, hướng dẫn khách cùng thử nghiệm các
kỹ năng đan lát, thêu dệt có thưởng bằng chính sản phẩm làm ra...). Thực hiện
việc bình chọn, ghi danh, trao quà lưu niệm cho các du khách có đóng góp tích
cực cho bảo vệ tài nguyên, môi trường trong hành trình du lịch, tổ chức các gói
du lịch giảm giá, khuyến mại gắn với trách nhiệm tiêu dùng các sản phẩm địa
71
phương, với mức độ hiểu biết của khách về văn hóa bản địa...
- Thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh trật tự, môi trường xã hội an
toàn cho khách du lịch ở điểm đến; đồng thời nhắc nhở, chấn chỉnh những du
khách vi phạm nội quy, quy định, ứng xử thiếu văn hóa bằng các biện pháp cần
thiết. Xử lý các trường hợp lợi dụng hoạt động du lịch để tổ chức, tham gia các
tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự, mất an toàn giao thông theo quy định của
pháp luật.
3.6.2. Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh
- Nâng cao ý thức cộng đồng trách nhiệm, nhận thức về kinh doanh du lịch
bền vững, văn hóa kinh doanh cho các cơ sở kinh doanh du lịch và người lao động
du lịch. Thực hiện tốt và đồng bộ các giải pháp ổn định giá cả, chăm sóc khách
hàng, khuyến mại phù hợp... để kích thích tăng nhu cầu tiêu dùng và giảm tính thời
vụ của du lịch, giảm áp lực lên tài nguyên du lịch, bảo đảm việc làm cho người lao
động du lịch. Hỗ trợ, ưu đãi đầu tư, kinh doanh đối với các cơ sở lựa chọn đầu tư
kinh doanh các nội dung mà tỉnh cần khuyến khích để đa dạng hóa sản phẩm và
tăng sức hút với khách; hỗ trợ nâng cao năng lực tổ chức, quản trị kinh doanh của
các cơ sở kinh doanh du lịch. Quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh, không để
xảy ra tình trạng bắt chẹt, lừa dối khách; phát hiện và xử lý nghiêm vi phạm. Phát
huy tốt vai trò của các hiệp hội du lịch, hội doanh nghiệp, các tổ chức bảo vệ khách
hàng, người tiêu dùng... để vừa bảo vệ và tạo sự cạnh tranh lành mạnh đồng thời
liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở kinh doanh du lịch, vừa bảo vệ tốt quyền
lợi khách du lịch, từ đó thu hút, tăng số lượng khách du lịch đến với tỉnh.
- Thực hiện các biện pháp quản lý tài chính đúng quy định, đảm bảo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ hoạt động kinh doanh du lịch. Bố trí đầu tư
trở lại thỏa đáng từ ngân sách cho các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường
du lịch và phát triển cộng đồng ở các khu, điểm có hoạt động kinh doanh du lịch.
Huy động sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch
cho các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường, góp phần giảm nghèo, phát
72
triển văn hóa xã hội, phát triển cộng đồng ở điểm đến du lịch.
3.6.3. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Quan hệ giữa du khách và cộng đồng người dân địa phương ảnh hưởng
đến hoạt động du lịch. Mối quan hệ này tốt đẹp là một trong những yếu tố tạo ra
sự tham quan du lịch, đặc biệt là sự trở lại tham quan du lịch của du
khách[2,tr.151-160]. Do đó, việc phát huy vai trò, trách nhiệm của công đồng
trong thực hiện chính sách phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là rất quan
trọng. Để làm được điều đó, cần thiết:
- Có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ (bằng việc sử dụng các đòn
bẩy vật chất, hỗ trợ đào tạo, tập huấn…), tạo môi trường thuận lợi cho cộng đồng
tham gia đầu tư kinh doanh du lịch. Các nội dung kinh doanh du lịch khác nhau
được khuyến khích, hỗ trợ, tạo môi trường ở các mức độ khác nhau; thông qua
đó cơ quan quản lý huy động được sự tham gia tích cực của cộng đồng, đồng
thời điều tiết được sự phát triển du lịch của địa phương theo hướng bền vững,
tránh được sự phát triển không cân đối hoặc quá mức, quá tải trong việc sử dụng
tài nguyên, ảnh hưởng đến môi trường du lịch. Các lĩnh vực kinh doanh cần tăng
cường thu hút, khuyến khích cộng đồng tham gia đầu tư là: Đầu tư các dự án xây
dựng cơ sở lưu trú chất lượng cao, dự án xây dựng các khu vui chơi giải trí, hoạt
động lữ hành, các dịch vụ phục vụ hành trình du lịch nông thôn, du lịch cộng
đồng, du lịch làng nghề.
- Hướng dẫn, phát huy trí tuệ và khả năng của các cá nhân trong cộng
đồng trong việc phát triển đa dạng các loại hàng hoá, sáng tạo ra các dịch vụ
mới, tạo sự độc đáo trong phong cách phục vụ; khuyến khích sự tham gia, sáng
tạo của cộng đồng để khôi phục các sản phẩm đặc sản truyền thống và tạo nên
các sản phẩm hàng hoá, các dịch vụ có thương hiệu gắn với du lịch Phú Thọ…
để từ đó đa dạng hoá sản phẩm du lịch.
- Khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng bản địa phát huy bản sắc (đặc biệt là
73
đối với đồng bào dân tộc thiểu số), truyền thống văn hoá, sử dụng các yếu tố văn
hoá truyền thống của cộng đồng để trực tiếp tạo ra các dịch vụ thu hút khách du
lịch (như hỗ trợ thành lập các câu lạc bộ hát Xoan, diễn xướng dân gian, đâm
đuống, đội cồng chiêng thôn bản ở các bản động vùng cao huyện Thanh Sơn,
Tân Sơn, Thanh Thuỷ, Yên Lập; hỗ trợ phục dựng các làng nghề cổ vùng Lâm
Thao, Việt Trì; hỗ trợ mở các dịch vụ du lịch thôn bản ở Tân Sơn, Thanh
Sơn…).
- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư địa
phương về ý thức giữ gìn, bảo vệ tài nguyên du lịch tự nhiên, ý thức giữ gìn bản
sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục, các nét kiến trúc làng xã cổ, nét đẹp nguyên
bản của các lễ hội,…
Có sự đầu tư cần thiết về nguồn kinh phí và các biện pháp hỗ trợ thông
tin, truyền thông… cho các hoạt động này (hỗ trợ duy trì lễ hội Trò Trám ở Tứ
Xã, tục cướp cây bông ở Đào Xá, hát Xoan Kim Đức, vật đuổi giải Cao Xá…).
Thực hiện các nhóm giải pháp nói trên liên quan đến vai trò và đặt ra yêu
cầu trách nhiệm của nhiều chủ thể, trong đó, UBND tỉnh, với vị trí, chức năng
theo quy định của pháp luật là cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, có trách
nhiệm chủ động tham mưu để Tỉnh ủy có các chủ trương lãnh đạo về phát triển
du lịch bền vững của tỉnh Phú Thọ; tham mưu và đề xuất trình HĐND tỉnh ban
hành các quyết sách chung về phát triển du lịch bền vững; trực tiếp chỉ đạo thực
hiện đồng bộ, thống nhất các giải pháp phát triển du lịch bền vững trên toàn tỉnh;
trao đổi, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp để huy động sự tham gia và phát huy vai trò của các tổ chức này cho phát
triển du lịch. Sở VH,TT&DL và các cơ quan chức năng liên quan của tỉnh tham
mưu, giúp UBND tỉnh trong tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển du lịch
bền vững gắn với chức năng của đơn vị mình. UBND tỉnh, với sự tham mưu,
giúp việc của các cơ quan chuyên môn trực thuộc, sử dụng tổng thể các biện
pháp quản lý như tạo môi trường (thể chế, chính sách, hành chính, an ninh, xã
74
hội...), tạo điều kiện (tiếp cận nguồn lực, thị trường, xúc tiến, quảng bá...), tuyên
truyền, động viên khuyến khích, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, đôn đốc, thanh tra,
kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm, để thúc đẩy thực hiện các giải pháp phát
triển du lịch bền vững thuộc trách nhiệm của các chủ thể của hoạt động du lịch.
Các cơ sở kinh doanh du lịch, du khách, cộng đồng dân cư được động viên và có
trách nhiệm tham gia, góp phần thực hiện những giải pháp cụ thể liên quan trực
tiếp đến nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hoặc gắn với quyền lợi của mình,
từ đó góp phần thực hiện tốt các giải pháp chung về phát triển du lịch bền vững,
75
hướng đến đạt mục tiêu phát triển du lịch bền vững của tỉnh.
Tiểu kết Chương 3
Có thể thấy rằng, việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ hiện nay đạt được cả những thành tựu và hạn chế. Để có thể khắc
phục những hạn chế, phát huy tính tích cực, nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chính sách phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay, theo chúng tôi cần thực hiện
một số giải pháp như nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong thực
hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Tăng cường nguồn
lực, thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục
vụ phát triển du lịch; Tăng cường bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch; Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch; Đa dạng hóa
các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch, phát triển thị trường; Nâng cao nhận
thức và phát huy vai trò của các bên liên quan trong thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp này có sự thống nhất với
76
nhau; do đó, cần thiết phải thực hiện một cách đồng bộ.
KẾT LUẬN
Du lịch ngày càng khẳng định được vị thế của mình đối với với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Phát triển du lịch hiện nay là vấn đề đang được Nhà nước ta
quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Để có thể phát triển du lịch một cách hiệu quả cần
có một chính sách phát triển du lịch chất lượng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu,
phân tích thực hiện chính sách phát triển du lịch có tầm quan trọng đặc biệt.
Theo đó, thực hiện chính sách phát triển du lịch là toàn bộ quá trình đưa chính
sách vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống
nhất nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch. Quá trình này cần tập trung
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; phổ biến, tuyên truyền chính
sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; duy trì chính sách; điều chỉnh
chính sách; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách; đánh giá, tổng
kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách.
Phú Thọ là địa phương có tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng với định
hướng phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Những phân
tích, tổng hợp trong những năm qua cho thấy, việc thực hiện chính sách phát
triển du lịch của tỉnh đã đạt được những thành quả nhất định, góp phần thúc đẩy,
tạo động lực cho sự phát triển du lịch của tỉnh. Qua đó, khẳng định vị thế của
Phú Thọ trong thị trường du lịch của vùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quá trình
này còn những hạn chế nhất định. Những hạn chế này có thể xuất phát từ nhiều
nguyên nhân. Chính vì vậy, để có thể phát triển hơn nữa du lịch của tỉnh Phú
Thọ, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch
của tỉnh, nhằm phát huy hơn nữa những ưu điểm của chính sách cũng như khắc
phục, hạn chế những hạn chế còn tồn tại của chính sách. Đó là nâng cao năng lực
và hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ; Tăng cường nguồn lực, thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ phát triển du lịch; Tăng cường bảo
77
vệ và phát triển tài nguyên du lịch; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu phát triển du lịch; Đa dạng hóa các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch,
phát triển thị trường; Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của các bên liên
quan trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp này là một trong những cơ sở để xây dựng
Phú Thọ trở thành một vùng du lịch trọng điểm của khu vực và du lịch trở thành
một ngành kinh tế mũi nhọn như Nghị quyết của Tỉnh cũng như Chiến lược phát
78
triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đề ra.