VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGỌC SƠN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NGỌC SƠN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

Ngành

: Chính sách công

Mã số

: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. CAO THU HẰNG

HÀ NỘI, 2018

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, sự phát triển của ngành du lịch cho thấy rằng,

du lịch có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc

gia, một cộng đồng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, “Chiến lược phát triển

du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã khẳng định: “Đến

năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên

nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản

phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn

hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới. Phấn đấu

đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển” [28].

Thực tiễn phát triển ngành du lịch cho thấy, trong những năm qua, du lịch

Việt Nam đã đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của

đất nước. Năm 2016, du lịch Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức nổi

bật đáng trân trọng, với việc đón và phục vụ 11 triệu lượt khách du lịch quốc tế,

tăng 26% so với năm 2015; 62 triệu lượt khách du lịch nội địa; tổng thu trực tiếp

từ khách du lịch đạt 400.000 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2017, ngành Du

lịch Việt Nam lại tiếp tục có bước đi bứt phá, với việc đón 6,2 triệu lượt khách

quốc tế, tăng 30,2% so với cùng kỳ năm 2016; khách du lịch nội địa đạt 40,7

triệu lượt, tăng hơn 15%; tổng thu trực tiếp từ du lịch trong 6 tháng đầu năm ước

đạt 255.000 tỷ đồng.

Nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển ngành du lịch, ngày 16-1-

2017, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở

thành ngành kinh tế mũi nhọn, đặt ra những mục tiêu hết sức to lớn và nặng nề cho

ngành du lịch, đến năm 2020 đón từ 17- 20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82 lượt

khách du lịch nội địa, đóng góp khoảng 10% GDP cho kinh tế đất nước [5].

Thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước,

1

trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền và các ban ngành tỉnh Phú Thọ đã

triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch, nhờ đó, ngành du lịch Tỉnh đã

có rất nhiều chuyển biến; các khu, điểm du lịch trọng điểm tại các huyện thị từng

bước được xây dựng, như Việt Trì, Thanh Thủy, Tân Sơn, Hạ Hòa,… Việc xây

dựng các điểm đến, các tour tuyến mới phục vụ du khách được đặc biệt coi trọng

và đã thu được những kết quả ban đầu. Qua đó, doanh thu du lịch dịch vụ tăng

cao, đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng

cao đời sống của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.

Đạt nhiều thành tựu quan trọng, nhưng hoạt động du lịch trên địa bàn thực

sự vẫn rất khó khăn, nhất là vấn đề sản phẩm du lịch nghèo nàn, chưa xây dựng

được những tour, tuyến đặc sắc có sức hấp dẫn mạnh mẽ với du khách. Các sản

phẩm du lịch, các khu du lịch vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng. Việc triển

khai và ban hành các chính sách đặc thù liên quan đến lĩnh vực du lịch được ban

hành còn chậm trễ. Công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động du lịch có nơi, có

lúc còn nơi lỏng. Công tác tổng kết, đánh giá thực tiễn đôi khi còn mang tính

hình thức. Một số chính sách ra đời chưa đáp ứng với sự đổi thay nhanh chóng

của đời sống xã hội; một số chính sách còn chồng chéo, hoặc chưa bao quát….

Chính việc thực thi chính sách phát triển du lịch chưa được như mong muốn như

vậy là một trong những nguyên khiến du lich tỉnh Phú Thọ chưa phát huy hết thế

mạnh của mình. Số lượng khách lưu trú ở lại Phú Thọ chưa cao. Doanh thu ngành

du lịch chưa đạt được chỉ tiêu như mong muốn.

Để phát triển du lịch đúng hướng, hiệu quả, xứng với tiềm năng lợi thế và

đặc biệt thể hiện đúng vai trò là một trong những khâu đột phá của nền kinh tế thì

việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ là rất

quan trọng. Đó chính là lý do học viên lựa chọn vấn đề Thực hiện chính sách phát

triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ để triển khai nghiên cứu luận văn của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trên bình diện vĩ mô, nghiên cứu về phát triển du lịch và chính sách phát

2

triển du lịch ở Việt Nam cũng đã được một số học giả tập trung làm rõ. Công

trình Du lịch văn hóa của Nguyễn Phạm Hùng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

2017); công trình Du lịch Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tiễn của hai tác giả

Phan Huy Xu, Võ Văn Thành (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2018) đã

đề cập đến những vấn đề chung về văn hóa, về du lịch, phát triển du lịch; tôn giáo,

tín ngưỡng; phong tục tập quán; lễ hội… trong phát triển du lịch. Dù không đề cập

trực tiếp đến chính sách và thực hiện chính sách phát triển du lịch nhưng những nội

dung trình bày trong đó là tài liệu hữu ích cho tác giả luận văn tham khảo.

Ngoài ra, liên quan đến vấn đề này còn có thể kể đến một số công trình

sau: Phạm Trung Lương (2007) - “Phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi

trường”, Tạp chí Du lịch số 7/2007; Lưu Đức Hải (2009) - Phát triển các ngành

du lịch trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí số 8 về

Tổng quan kinh tế xã hội Việt Nam số 4-2009, Hà Nội… Các công trình này đều

khẳng định tầm quan trọng của phát triển du lịch và thực hiện chính sách phát

triển du lịch; cho thấy vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế nói chung,

và công tác bảo tồn di sản văn hóa nói riêng. Các công trình cũng khẳng định,

việc phát triển du lịch cần tránh tình trạng “ăn xổi”, chỉ thấy được cái lợi trước

mắt, mà bỏ qua những tác hại sau đó, như vấn đề ô nhiễm môi trường, bản sắc

văn hóa dân tộc bị mai một trong quá trình thực hiện phát triển du lịch,…

Ngoài các công trình trên, đã có một số luận văn cũng đã đề cập đến việc

thực hiện chính sách phát triển du lịch, như Hoàng Thị Thu Hương (2013), “Phát

triển du lịch Quảng Nam theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sĩ, Viện khoa

học xã hội Vùng Trung Bộ; Vương Minh Hoài (2011), “Phát triển du lịch theo

hướng bền vững ở Quảng Ninh”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế - đại học

Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Khánh An (2017), “Thực hiện chính sách phát triển du

lịch bền vững từ thực tiễn thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An”, Luận văn thạc sỹ Chính

sách công, Học viện Khoa học xã hội; Khương Thị Hồng Nhung (2016), “Thực

hiện chính sách phát triển du lịch bền vững từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình”, Luận

3

văn thạc sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;…

Ở tỉnh Phú Thọ, trong một chừng mực nhất định, các nghiên cứu liên quan

đến thực hiện chính sách phát triển du lịch cũng đã được tập trung làm rõ. Có thể

kể đến một số chương trình, công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển du

lịch của tỉnh Phú Thọ như:

- Quy hoạch các di tích khảo cổ tỉnh Phú Thọ giai đoạn 1997-2015 và

định hướng đến năm 2020. Quy hoạch đã đánh giá được thực trạng các di tích

khảo cổ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; xác định rõ nhiệm vụ, giải pháp để bảo tồn và

phát triển các di tích trên địa bàn đến năm 2020, là cơ sở để xây dựng hồ sơ và

đề nghị công nhận xếp hạng các di tích khảo cổ cấp quốc gia và cấp tỉnh, đồng

thời đây là cơ sở pháp lý để bảo vệ di tích tránh tình trạng bị mai một và xâm

lấn. Tuy nhiên, Quy hoạch mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá và định hướng trong

công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các di tích khảo cổ, chưa có

đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, quy hoạch các di tích; lấy đó là một trong

những căn cứ để bảo tồn và phát huy, thu hút khách du lịch.

- Chu Thị Thanh Hiền: Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng

trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (Đề tài khoa học 2012): Đề tài đã tập trung nghiên cứu

các điều kiện hình thành và phát triển, đồng thời đã đánh giá sơ bộ được hiện

trạng cũng như tiềm năng phát triển hình thức du lịch cộng đồng trên địa bàn

tỉnh Phú Thọ; phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong tổ chức thực

hiện và những hiệu quả phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh do du lịch cộng

đồng mang lại, từ đó đưa ra các giải pháp khai thác tiềm năng phát triển du lịch

cộng đồng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, đề tài chưa nêu bật được vị trí, vai trò

cũng như tầm ảnh hưởng của hình thức du lịch cộng đồng đối với sự phát triển

kinh tế, xã hội của tỉnh; chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể, chiến lược

một cách hệ thống để phát triển tiềm năng du lịch trong tỉnh.

- Nguyễn Thị Thịnh, Ngô Văn Nhuận: Khảo sát thực trạng lao động làm

việc trong các Doanh nghiệp dịch vụ du lịch và đề xuất các giải pháp đào tạo

4

lao động phục vụ việc phát triển ngành du lịch trên địa bàn huyện Thanh Thủy,

tỉnh Phú Thọ (Đề tài nghiên cứu khoa học 2012): Đề tài tập trung rà soát, đánh

giá thực trạng lao động làm việc trong các Doanh nghiệp du lịch trên địa bàn

huyện Thanh Thủy, một trong những huyện có điều kiện thuận lợi để phát triển

loại hình du lịch nghỉ dưỡng với nguồn nước khoáng nóng. Tuy nhiên, cơ bản đề

tài mới chỉ dừng lại ở việc rà soát, thống kê số lượng lao động du lịch trong các

doanh nghiệp trên địa bàn huyện, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc quản

lý, sử dụng lao động, chưa đề xuất được hệ thống các giải pháp cụ thể để phát

triển du lịch trong Huyện nói chung, giải pháp đào tạo nhân lực ngành du lịch

nói riêng. Song, những nội dung mà đề tài triển khai là tài liệu tham khảo hữu

ích cho tác giả khi triển khai nghiên cứu luận văn của mình.

- Phùng Quốc Việt: Nghiên cứu, kết nối du lịch Phú Thọ với các tuyến du

lịch vùng Tây Bắc mở rộng (Đề tài khoa học 2012): Đề tài đã nêu bật được cơ sở

lí luận và cơ sở thực tiễn về du lịch và hoạt động du lịch liên vùng, hiện trạng du

lịch tỉnh Phú Thọ và vùng Tây Bắc mở rộng (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai

Châu, Yên Bái, Lào Cai và Hà Giang), đưa ra những định hướng và đề xuất giải

pháp kết nối du lịch Phú Thọ với du lịch vùng Tây Bắc mở rộng; Xây dựng bản

đồ các tuyến kết nối (theo tuyến đường giao thông: đường bộ, đường thủy,

đường sắt, đường hàng không). Tuy nhiên, đề tài mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra

những giải pháp, định hướng cho việc kết nối liên vùng giữa du lịch Phú Thọ với

các tỉnh Tây Bắc, chưa nêu bật được tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Phú

Thọ với vị trí là trung tâm của vùng Tây Bắc, chưa đánh giá cụ thể được những

tồn tại, hạn chế trong việc phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh và địa bàn các tỉnh

Tây Bắc; từ đó đưa ra được những giải pháp khắc phục để du lịch Phú Thọ và

các tỉnh Tây Bắc thực sự là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.

Với những điều đã trình bày trên, có thể thấy rằng, liên quan đến chủ đề

phát triển du lịch thì đã có nhiều công trình đề cập đến. Tuy nhiên, hiện nay,

chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp, có hệ thống vấn đề thực hiện

5

chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, các công trình

kể trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho học viên trong quá trình thực hiện triển

khai luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng thực

hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất

một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phát

triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để hoàn thành được mục đích đặt ra, luận văn tập trung giải quyết các

nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

Thứ nhất, phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện chính

sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, phân tích, làm rõ thực trạng và nguyên nhân của thực trạng thực

hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc

thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bản tỉnh Phú Thọ hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tiến hành nghiên cứu, điều tra số liệu và phân tích thực trạng

thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2010

đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết vấn đề trên, luận văn sử dụng các phương pháp như sau:

- Phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

6

duy vật lịch sử.

- Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như:

phân tích, tổng hợp; thống kê, đối chiếu, so sánh… Ngoài ra, đề tài còn tham

khảo số liệu, luận điểm của một số công trình nghiên cứu trước đó.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hệ thống hóa và làm rõ hơn

một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam

hiện nay.

- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu

tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến phát triển

du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam nói chung, ở Phú Thọ nói

riêng. Luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cầu gồm 3 chương, 12 tiết.

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du

lịch ở Việt Nam hiện nay.

Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn

tỉnh Phú Thọ.

Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

7

chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài

1.1.1. Khái niệm du lịch, phát triển du lịch

Trước tiên, để hiểu khái niệm phát triển du lịch, cần thiết làm rõ thuật ngữ

du lịch.

Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “tornos” – mang nghĩa đi

một vòng. Về sau, thuật ngữ “tornos” được dịch sang tiếng Latinh là “tornus” và

tiếng Pháp là “tour” – mang nghĩa đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Tiếp theo đó,

thuật ngữ du lịch xuất hiện trong tiếng Nga: “typnct” và trong tiếng Anh:

“tourism”.

Khoản 1, Điều 3 Luật Du lịch năm 2017 quy định: “Du lịch là các hoạt

động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên

trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,

nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục

đích hợp pháp khác” [18]. Luận văn sử dụng định nghĩa của Luật Du lịch Việt

Nam năm 2017 để triển khai nghiên cứu.

Có nhiều loại hình du lịch khác nhau, tùy theo cách phân chia. Theo môi

trường tài nguyên, hoạt động du lịch được chia làm 2 nhóm lớn là du lịch văn

hóa và du lịch thiên nhiên. Gọi là du lịch văn hóa khi hoạt động du lịch diễn ra

chủ yếu trong môi trường nhân văn, hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai

thác tài nguyên du lịch nhân văn. Du lịch thiên nhiên diễn ra nhằm thỏa mãn nhu

cầu về với thiên nhiên của con người (như du lịch biển, du lịch núi, du lịch nông

thôn,…) [23,tr.63]. Ngoài cách phân loại như trên, phân loại theo mục đích hoạt

động du lịch thì có thể có du lịch giải trí, du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng,

8

hoặc du lịch kết hợp với các hoạt động khác….

Có thể thấy rằng, với các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con

người ngoài nơi cư trú nhằm đáp ứng yêu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí,…

thì nhắc đến hoạt động du lịch người ta cũng thường coi đó là ngành kinh doanh

tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao nhận thức về tự nhiên, về lịch

sử, văn hóa, đất nước, con người; hiệu quả về mặt kinh tế,… Theo nghĩa đó, du

lịch được xem là ngành công nghiệp không khói. Việc đẩy mạnh phát triển du

lịch được các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm, chú trọng. Ở Việt Nam,

trước Đổi mới, du lịch được coi là một hoạt động văn hóa xã hội thuần túy, sau

đó, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội, từ năm 1986, du lịch được coi là một ngành kinh tế

trong lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Với tư cách một ngành nghề kinh doanh,

hoạt động du lịch, một mặt, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm

cho các khu vực có điểm du lịch, tạo sự trao đổi giao lưu văn hóa,…, nhưng mặt

khác, cũng tạo nguy cơ ô nhiễm môi trường; sự phai nhạt bản sắc văn hóa của

các cộng đồng có nhiều du khách đến thăm, sự quá tải về cơ sở hạ tầng,… Chính

vì lý do đó, hoạt động du lịch cần phải được định hướng phát triển.

* Khái niệm phát triển du lịch

Phát triển du lịch là một tất yếu khách quan, gắn với quá trình phát triển

của đời sống kinh tế - xã hội và con người bởi khi con người đã thỏa mãn nhất

định nhu cầu ăn, mặc, ở, họ có thời gian rảnh rỗi, và có điều kiện đi đây đi đó để

cảm nhận được vẻ đẹp của các vùng đất, các nền văn hóa khác nhau,...

Ngày 16 tháng 01 năm 2017, Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số

08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Theo đó,

Nghị quyết khẳng định, phát triển du lịch đã, đang góp phần thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn

hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân;

đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người

9

Việt Nam [5,tr.1].

Với những điều đã trình bày như trên, có thể thấy, phát triển du lịch là sự

phát triển, một mặt, đáp ứng các yêu cầu về kinh tế - xã hội; mặt khác, là đảm

bảo việc bảo vệ môi trường. Đây là điều mà ngày nay người ta hay gọi là sự

phát triển du lịch bền vững – sự phát triển du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại và

không làm tổn hại đến khả năng phát triển du lịch trong tương lai.

Điều 4, Luật Du lịch năm 2017 quy định nguyên tắc phát triển du lịch như sau:

“1. Phát triển du lịch bền vững, theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, có

trọng tâm, trọng điểm.

2. Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân

tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường

liên kết vùng.

3. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã

hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước,

con người Việt Nam.

4. Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp

của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.

5. Phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế; tôn trọng và đối

xử bình đẳng đối với khách du lịch”.

1.1.2. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển du lịch

*. Khái niệm chính sách

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể

để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian

nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương

hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị,

kinh tế, văn hóa...” [31,tr.475].

Tác giả Smith cho rằng “khái niệm chính sách bao hàm sự lựa chọn có

chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của các lực

10

lượng có quan hệ với nhau”. Smith nhấn mạnh “không hành động” cũng như

“hành động” và nhắc nhở chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào

các quyết định tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định

chống lại sự thay đổi và khó quan sát vì chúng không được tuyên bố trong quá

trình hoạch định chính sách” [40,tr.4].

Cụm từ “chính sách” khi gắn việc thực hiện chức năng, vai trò của nhà

nước (khu vực công) được gọi là chính sách công. Thuật ngữ “chính sách” sử

dụng trong luận văn này được hiểu là chính sách công. Theo đó, chủ thể ban

hành chính sách, mục đích tác động của chính sách và vấn đề chính sách hướng

tới giải quyết đều gắn với chủ thể ban hành của nó – Nhà nước.

Theo James Anderson, “Chính sách công là đường lối hành động có mục

đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải

quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm” [41]. Do đó, B.Guy Peter

cho rằng, “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng

một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân” [19].

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến

lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay

những mối quan tâm của nhà nước. Chính sách công cho phép Chính phủ đảm

nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ

gìn hạnh phúc và an toàn cho mọi người; tạo ra an toàn tài chính và bảo vệ an

toàn Tổ quốc” [17,tr.99-100]. Tác giả Nguyễn Hữu Hải cho rằng, “Chính sách

công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong

đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc

đẩy xã hội phát triển” [7,tr.14]. Đề tài đồng ý với cách tiếp cận của tác giả

Nguyễn Hữu Hải.

Khi đề cập đến chính sách công, người ta thường đề cập đến chu trình của

một chính sách công, bao gồm: xây dựng chính sách, thực thi chính sách và điều

11

chỉnh chính sách [22,tr.31-37]. Mỗi giai đoạn có vai trò và vị trí quan trọng riêng.

Khái niệm Chính sách phát triển du lịch

Với những điều đã trình bày như trên về phát triển du lịch, về chính sách

(công), có thể thấy rằng, chính sách phát triển du lịch là sự cụ thể hóa chủ

trương, đường lối của Đảng bằng những quyết định, quy định của Nhà nước

nhằm giải quyết các vấn đề trong phát triển du lịch; qua đó, tác động trực tiếp

hoặc gián tiếp đến sự phát triển du lịch của đất nước nói chung; các vùng miền,

lĩnh vực du lịch nói riêng.

Một cách chung nhất, khi đề cập đến chính sách phát triển du lịch thì

người ta thường đề cập đến các nội dung cơ bản sau:

- Phạm vi và đối tượng của chính sách phát triển du lịch

Chính sách phát triển du lịch được Nhà nước ban hành hướng đến giải

quyết vấn đề trong phát triển du lịch Việt Nam. Khi chính sách được ban hành sẽ

có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự phát triển du lịch trong phạm vi toàn

quốc, hoặc ở những phạm vi vùng miền, lĩnh vực.

- Mục tiêu của chính sách phát triển du lịch

Về cơ bản, việc đề ra chính sách phát triển du lịch, ngoài thực hiện một

mục tiêu cụ thể nào đó thì cần đạt được mục tiêu chung (mục tiêu cuối cùng) là

phát triển du lịch Việt Nam. Do đó, để thực hiện được mục tiêu chung, trước hết

chính sách phát triển du lịch cần đạt được mục tiêu cụ thể. Điều này có nghĩa là,

việc đề ra và thực hiện chính sách du lịch, dù ở phạm vi vi mô, thì cũng cần có

sự thống nhất với các chính sách phát triển du lịch chung khác, với các chính

sách khác, để tránh trường hợp “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

- Giải pháp của chính sách phát triển du lịch

Trên cơ sở mục tiêu của chính sách phát triển du lịch, Nhà nước cũng đưa

ra các giải pháp để đạt được mục tiêu chính sách trong những điều kiện, hoàn

cảnh cụ thể về không gian, thời gian và các nguồn lực cần thiết. Tuy nhiên, vì

mục tiêu của chính sách phát triển du lịch thể hiện ở các cấp độ khác nhau nên

12

các giải pháp của chính sách phát triển du lịch cũng được điều chỉnh và cụ thể

hóa cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, từng địa phương trong quá trình

triển khai thực hiện chính sách.

- Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển du lịch

Trên cơ sở mục tiêu và giải pháp đã được xác định, các nguyên tắc chỉ đạo

được thực hiện mục tiêu sẽ được xây dựng. Nguyên tắc chỉ đạo có vai trò quan

trọng nhằm hiện thực hóa các chính sách và đảm bảo việc thực hiện chính sách

thành công.

- Nguồn lực thực hiện chính sách phát triển du lịch

Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì chính sách sẽ không thể thực hiện

được một cách hiệu quả nếu như nguồn lực thực hiện chính sách không được

tính toán một cách chính xác, kỹ lưỡng. Nguồn lực ở đây có thể là nhân lực,

cũng có thể là tài chính.

- Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách phát triển du lịch

Cần xác định cụ thể đâu là cơ quan, cá nhân quản lý việc thực hiện chính

sách phát triển du lịch và đâu là cơ quan, cá nhân triển khai các hoạt động cụ thể

của chính sách này.

- Thời gian triển khai chính sách phát triển du lịch

Bất cứ chính sách nào cũng phải xác định phạm vi thời gian. Có những

chính sách dài hạn, có chính sách ngắn hạn, hoặc trung hạn. Trên cơ sở xác định

phạm vi thời gian, chúng ta sẽ xây dựng kế hoạch thực hiện hợp lý.

1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách, thực hiện chính sách phát triển

du lịch

Khái niệm thực hiện chính sách hay cũng có nhiều tài liệu sử dụng cách

gọi “thực thi chính sách” hoặc “tiến hành thực hiện chính sách”, thực chất đều

cùng một nội hàm; thông thường, đó là giai đoạn tiếp sau quá trình hoạch định

và trước quá trình đánh giá chính sách công.

Theo Thomas Dye, “thực thi bao gồm tất cả các hoạt động được thiết kế

13

để thực hiện các chính sách công đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp. Vì

các chính sách công có những tác động mong muốn hoặc có chủ định, nên chính

phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà sau đó được thực hiện

để đạt được một tập hợp các mục tiêu hoặc mục đích” [38,tr.4].

Tác giả William Dunn cho rằng: “Các hành động chính sách công có hai

mục đích chính: điều chỉnh và phân bổ” [39,tr.277-278]. Các hành động điều

chỉnh là những hành động được thiết kế để bảo đảm sự tuân thủ các tiêu chuẩn

hoặc thủ tục nhất định. Các hành động phân bổ là những hành động đòi hỏi các

đầu vào như tiền, thời gian, nhân sự và thiết bị. Các hành động điều chỉnh và

phân bổ có thể có những kết quả là phân phối và phân phối lại [22,tr.97].

Về cơ bản, có thể coi thực hiện chính sách (công) – một khâu trong chu

trình chính sách để đưa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội. Đây là quá

trình ban hành các văn bản, chương trình, dự án,... nhằm hiện thực hóa nội dung

chính sách để đạt được mục tiêu đã định hướng.

Có thể thấy, thành công của một chính sách phụ thuộc vào rất nhiều vào

việc tổ chức thực thi chính sách đó trên thực tế. Người ta thường không biết

trước được chính sách có đạt được mục tiêu mong muốn hay không hay đạt đến

mức độ nào, tác động của chính sách đối với xã hội ra sao… Những điều này

phụ thuộc chủ yếu vào quá trình thực thi chính sách” [20,tr.24]. Việc thực hiện

chính sách công có vai trò quan trọng. Đó là từng bước hiện thực hóa mục tiêu

của chính sách, khẳng định tính đúng đắn của chính sách công và giúp cho chính

sách công ngày càng hoàn thiện hơn [9,tr.12-14].

Về cơ bản, việc thực hiện chính sách bao gồm nhiều giai đoạn. Theo các

tác giả Lê Như Thanh và Lê Văn Hòa, chu trình thực hiện chính sách công gồm:

(1) Xây dựng và ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực hiện chính sách

công (2) Tổ chức thực hiện các văn bản, chương trình, dự án,... thực thi chính

sách công. Giai đoạn này bao gồm nhiều nội dung nhỏ, như xây dựng kế hoạch

tổ chức thi hành văn bản, hoặc lập kế hoạch thực hiện chương trình, dự án; tuyên

14

truyền, phổ biến nội dung văn bản, chương trình dự án; tập huấn văn bản, bồi

dưỡng những kiến thức và kỹ năng cần thiết để triển khai văn bản, chương trình,

dự án; bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phú, tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực để

triển khai thi hành văn bản, chương trình, dự án; chỉ đạo, tổ chức kiểm tra, đôn

đốc việc thi hành văn bản, việc thực hiện chương trình dự án (3) Sơ kết, tổng kết

thực hiện văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách công [22,tr.109-111].

Trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, luận văn xem xét chu trình thực hiện

chính sách công bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền chính sách

Thứ ba, phân công, phối hợp thực hiện chính sách

Thứ tư, duy trì chính sách

Thứ năm, điều chỉnh chính sách

Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

Thứ bảy, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách.

* Khái niệm thực hiện chính sách phát triển du lịch

Một chính sách khi được hoạch định bao giờ cũng hướng tới giải quyết

một vấn đề nào đó đang diễn ra trong đời sống xã hội để đạt được những mục

tiêu nhất định. Trong chu trình chính sách, tổ chức thực hiện chính sách là trung

tâm kết nối. Nếu thiếu giai đoạn này thì việc hoạch định chính sách sẽ không còn

ý nghĩa.

Về cơ bản, có thể coi Thực hiện chính sách phát triển du lịch là toàn bộ

quá trình đưa chính sách vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục

chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch đối với

những đối tượng cụ thể trong một không gian và thời gian nhất định.

Việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đảm bảo tuân theo chu trình

thực hiện chính sách nói chung. Theo đó, chu trình thực hiện chính sách phát

triển du lịch hiện nay bao gồm các bước sau đây:

15

- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch

Đây là bước đầu tiên. Để hiện thực hóa một mục tiêu nào đó, trước tiên, cần

triển khai thực hiện chính sách du lịch từ Trung ương đến địa phương; phải xây

dựng kế hoạch, chương trình thực hiện chính sách. Tiếp theo, các chủ thể có thẩm

quyền, trách nhiệm lên kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch.

- Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch

Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa với chủ thể và đối tượng

thực hiện hiện chính sách phát triển du lịch. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động này

cần được tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng thực hiện chính sách. Thực

tế chỉ ra rằng không ít cơ quan, cán bộ, công chức vì năng lực chuyên môn, trình

độ nghiệp vụ, phẩm chất chính trị,... nên trong quá trình phổ biến, tuyên truyền

chính sách nói riêng, trong thực hiện chính sách nói chung đã làm cho chính sách

bị biến dạng, khiến dân chúng mất lòng tin vào nhà nước.

- Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch

Bước tiếp theo sau bước tuyên truyền, phổ biến là phân công, phối hợp

các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch theo kế hoạch

đã được phê duyệt. Chính sách phát triển du lịch có thể tác động đến lợi ích của

một tầng lớp, bộ phận người trong xã hội nhưng kết quả tác động của chính sách

lại liên quan đến nhiều yếu tố thuộc các lĩnh vực quản lý khác nhau của nhà

nước nên cần chú trọng việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển

du lịch sao cho hợp lý để đạt được yêu cầu của quản lý.

- Duy trì chính sách phát triển du lịch

Duy trì chính sách phát triển du lịch là hoạt động nhằm bảo đảm cho chính

sách tồn tại được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Các cơ quan nhà

nước có trách nhiệm thực hiện chính sách phát triển du lịch phải thường xuyên củng

cố phương thức hoạt động, quan tâm tuyên truyền, vận động các đối tượng chính

sách và toàn xã hội tham gia thực hiện chính sách để có thể duy trì được việc thực

16

hiện chính sách một cách tích cực nhất, đạt hiệu lực, hiệu quả cao nhất.

- Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch

Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch được thực hiện bởi cơ quan nhà

nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp hơn với tình hình

thực tế phát sinh khi thực hiện chính sách và với yêu cầu quản lý của nhà nước.

Để chính sách phát triển du lịch tiếp tục tồn tại, chỉ được điều chỉnh các cơ chế,

biện pháp thực hiện mục tiêu hoặc bổ sung, hoàn thiện mục tiêu theo yêu cầu

thực tế chứ tuyệt đối không được điều chỉnh, làm thay đổi mục tiêu. Khi mục

tiêu thay đổi tức là làm chính sách thay đổi, coi như chính sách đó thất bại.

- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển du lịch

Đôn đốc thực hiện chính sách phát triển du lịch là hoạt động của cơ quan,

cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ hữu

ích nhằm làm cho các chủ thể thực hiện nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực

hiện các biện pháp theo định hướng chính sách.

Theo dõi, kiểm tra sát sao tình hình tổ chức thực hiện chính sách phát

triển du lịch nhằm kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách và chấn chỉnh công

tác tổ chức thực hiện chính sách, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện

mục tiêu chính sách.

- Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách phát

triển du lịch

Đây được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và

chấp hành chính sách của các đối tượng thực hiện chính sách phát triển du lịch.

Ngoài ra, còn cần xem xét, đánh giá việc thực thi của các đối tượng thụ hưởng

lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách, nghĩa là tất cả các thành viên xã hội

với tư cách là công dân [Xem: 8,tr.63].

1.2. Chủ thể và chu trình cơ bản của thực hiện chính sách phát triển

du lịch ở Việt Nam hiện nay

1.2.1. Các chủ thể tham gia vào công tác thực hiện chính sách phát

triển du lịch ở Việt Nam hiện nay

17

Thứ nhất, chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển du lịch:

- Quốc hội: với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua các cơ quan chuyên môn của

mình, Quốc hội xem xét các dự án chính sách trong đó có chính sách phát triển

du lịch mà Chính phủ trình, triển khai nghiên cứu và hiện thực hóa thành Luật,

Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc

hội – cơ quan thường trực của Quốc hội.

- Chính phủ: với vị trí là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành

chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính

phủ vừa là cơ quan ban hành chính sách nhưng cũng đồng thời là cơ quan có

trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch ở cấp Trung ương.

Chính phủ ban hành Nghị định cụ thể hóa Luật của Quốc hội.

- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ mà quan trọng nhất ở đây là Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch (Tổng cục Du lịch): với vị trí là cơ quan của Chính phủ, thực

hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực được phân công, chịu

trách nhiệm thực hiện các chính sách do Quốc hội và Chính phủ ban hành có liên

quan đến vấn đề phát triển du lịch.

- Hội đồng nhân dân các cấp: với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước ở

địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp xem xét các dự án chính sách trong đó

có chính sách phát triển du lịch mà Ủy ban nhân dân trình, triển khai nghiên cứu

và hiện thực hóa thành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

- Ủy ban nhân dân các cấp: với vị trí là cơ quan chấp hành của Hội đồng

nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Ủy ban nhân dân vừa là

cơ quan ban hành chính sách nhưng cũng đồng thời là cơ quan có trách nhiệm tổ

chức thực hiện chính sách phát triển du lịch ở địa phương. Ủy ban nhân dân ban

hành Quyết định định cụ thể hóa Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

- Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: với vị trí là

cơ quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân, các Sở, ban ngành theo sự phân công,

phối hợp theo quy định trình Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc

18

Trung ương đề án, chương trình, kế hoạch phát triển du lịch.

Thứ hai, chủ thể tham gia phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch:

+ Các tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành

viên của Mặt trận: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ

Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Tổng Liên

đoàn Lao động Việt Nam vận động quần chúng nhân dân tham gia vào thực hiện

chính sách phát triển du lịch một cách tích cực; nâng cao sự tin tưởng của các tầng

lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong đó có niềm tin

vào việc xây dựng, hoạch định và thực hiện chính sách phát triển du lịch.

+ Các hiệp hội nghề nghiệp – xã hội du lịch: Hiệp hội Du lịch Việt Nam

(VITA) và các hiệp hội du lịch ở các tỉnh, thành phố chính là “bàn tay nối dài”

của cơ quan quản lý di lịch xuống các đơn vị doanh nghiệp; giúp cho việc triển

khai thực hiện chính sách phát triển du lịch được diễn ra thuận lợi, dễ dàng hơn.

+ Cộng đồng dân cư: Mục tiêu chính sách của du lịch là vì sự phát triển và

đem lại lợi ích cho cộng đồng. Sự hiểu biết của cộng đồng dân cư và sự tham gia

giám sát của họ vào quá trình thực hiện chính sách du lịch ở mỗi vùng miền, mỗi

địa phương cụ thể là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của vùng miền,

địa phương đó, rộng hơn là ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch của cả đất nước.

1.2.2. Chu trình cơ bản của việc thực hiện chính sách phát triển du lịch

ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch

Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch bao gồm của

nội dung cơ bản sau đây:

- Kế hoạch tổ chức, điều hành

Nội dung kế hoạch gồm những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và

phối hợp triển khai thực hiện chính sách, nhân sự tham gia thực hiện chính sách

(cả số lượng và chất lượng); cùng với đó là xác định cơ chế phối hợp, hợp tác

19

giữa các cơ quan, các cấp, các ngành trong thực thi chính sách phát triển du lịch.

- Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực

Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về trang thiết bị kỹ

thuật, các nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kiến trúc, các vật tư văn phòng

phẩm,... cho việc thực hiện chính sách phát triển du lịch.

- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện

Các chủ thể thực hiện chính sách dự kiến về thời gian tiến hành các bước

trong thực hiện chính sách. Mỗi bước đều phải được xác định thời gian thực hiện

và hoàn thành mục tiêu đề ra cho từng bước. Có thể dự kiến thời gian của từng

bước cho phù hợp với một chương trình cụ thể của chính sách phát triển du lịch.

- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách

Kế hoạch này là những dự kiến về hình thức, phương pháp kiểm tra, giám

sát tổ chức thực hiện chính sách của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.

Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch

Sau khi đã thông qua bản kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, các cơ

quan nhà nước tiến hành tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch theo kế

hoạch đó. Điều đầu tiên cần làm là phổ biến, tuyên truyền, vận động nhân dân

tham gia thực hiện chính sách một cách tích cực. Việc làm này sẽ giúp cho cán

bộ, công chức có trách nhiệm thực hiện chính sách nhận thức được rõ ràng, đầy

đủ tính chất, quy mô của chính sách đối với đời sống xã hội, có thể đưa ra những

giải pháp thích hợp để thực hiện có hiệu quả kế hoạch đã đề ra, từ đó góp phần

thực hiện thành công mục tiêu của chính sách.

Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch nói riêng, các chính

sách của nhà nước ban hành nói chung một cách hiệu quả cho các đối tượng

chính sách và tất cả người dân tham gia thực hiện chính sách sẽ khiến họ tự giác

thực hiện theo những yêu cầu quản lý của Nhà nước.

Tuyên truyền, phổ biến, vận động thực hiện chính sách phát triển du lịch

cần được triển khai thường xuyên, liên tục để mọi đối tượng chính sách luôn

20

luôn được củng cố lòng tin vào chính sách, tích cực thực hiện chính sách. Tùy

theo yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước và tính chất, đặc trưng của từng

loại chính sách mà các chủ thể lựa chọn hình thức phổ biến, tuyên truyền khác

nhau, có thể trực tiếp trao đổi, tiếp xúc với các đối tượng tiếp nhận chính sách

hay gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Thứ ba, phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch

Muốn thực hiện chính sách phát triển du lịch hiệu quả cần có sự phân

công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp chính quyền địa

phương. Cụ thể ở đây là sự phân công, phối hợp giữa Quốc hội với Chính phủ;

giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Tổng cục Du lịch) với các Bộ, cơ quan

ngang bộ khác; giữa Chính phủ với chính quyền địa phương cấp tỉnh; giữa Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (hay Sở Du

lịch) các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giữa Hội đồng nhân dân các cấp

với Ủy ban nhân dân các cấp; giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các cơ

quan chuyên môn khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,...

Ngoài ra, cũng cần có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý

ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực hiện chính

sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách phát triển

du lịch.

Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính

sách công một cách sáng tạo, chủ động để luôn duy trì chính sách được ổn định,

góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính sách.

Thứ tư, duy trì chính sách phát triển du lịch

Muốn duy trì được chính sách phải có sự quyết tâm hợp lực vì một mục

tiêu chung từ các chủ thể thực hiện chính sách. Nếu việc thực hiện chính sách

phát triển du lịch gặp phải những khó khăn do môi trường thực tế biến động thì

các chủ thể thực hiện chính sách phải ngay lập tức có những công cụ, phương

thức cải thiện tình hình nhằm giữ ổn định môi trường thuận lợi cho việc thực

21

hiện chính sách.

Thực tế cho thấy có nhiều chính sách ban hành đúng nhưng trong quá

trình thực hiện, các biện pháp duy trì và phát triển chính sách đưa ra không đúng

dân đến hiệu quả chính sách thấp, không đáp ứng được yêu cầu quản lý của nhà

nước; chưa kể còn gây lãng phí, tham nhũng chính sách,...

Duy trì được một chính sách tiến triển tốt đòi hỏi khả năng của các chủ

thể thực hiện chính sách trong việc thực hiện các khâu của chu trình thực hiện

chính sách, trong đó tất nhiên có hoạt động này.

Thứ năm, điều chỉnh chính sách phát triển du lịch

Trong quá trình thực hiện chính sách, có thể có những tình huống phát

sinh không lường trước được như khủng hoảng kinh tế, thiên tai,... thì chính sách

cần được điều chỉnh. Điều chỉnh chính sách là khâu quan trọng nhằm làm cho

chính sách phù hợp hơn với yêu cầu thực tế.

Về nguyên tắc, việc điều chỉnh, bổ sung chính sách là của cơ quan ban

hành chính sách; nhưng trên thực tế, hoạt động này diễn ra rất linh hoạt miễn sao

việc bổ sung, điều chỉnh ấy không làm thay đổi mục tiêu chung, cái đích cuối

cùng cần đạt đến của chính sách.

Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển

du lịch

Do trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức trong

các cơ quan nhà nước không đồng đều, cũng như điều kiện về kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội, phong tục tập quán,... ở mỗi vùng, mỗi địa phương không giống

nhau nên trong quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch, các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền phải tổ chức theo dõi, kiểm tra, đôn đốc để qua đó, các cơ

quan, cá nhân có trách nhiệm hơn trong nhiệm vụ.

Thứ bảy, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách

phát triển du lịch

Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về thực hiện chính sách phát

triển du lịch là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực này từ Tung

22

ương đến địa phương. Ngoài ra, vai trò của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -

xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp,... cũng cần được xem xét

trong việc tham gia thực hiện chính sách phát triển du lịch. Cơ sở để đánh giá

việc thực hiện chính sách là chất lượng hoàn thành các mục tiêu đề ra ở từng giai

đoạn cụ thể tại thời điểm đánh giá.

Bên cạnh đó, cũng cần xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách của

các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và giản tiếp từ chính sách: mọi công

dân. Thước đo đánh giá kết quả thực hiện của các đối tượng này là tinh thần

hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những quy định về cơ

chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục

tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian [8,tr.63].

1.3. Một số yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách phát triển

du lịch ở Việt Nam hiện nay

1.3.1. Những yếu tố thuộc về chủ thể thực hiện chính sách

Thứ nhất, năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và đội ngũ cán bộ, công

chức ở các cấp trong thực hiện chính sách phát triển du lịch.

Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện chính

sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay. Năng lực tổ chức, quản lý của nhà

nước và của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện chính sách phản ánh

năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để chủ động ứng phó với

tình huống phát sinh trong thực hiện chính sách, đạo đức công vụ,...

Các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền nếu thiếu năng

lực chuyên môn, nghiệp vụ, khi được giao nhiệm vụ thực hiện chính sách phát

triển du lịch sẽ đưa ra những kế hoạch không bám sát thực tiễn cuộc sống, dẫn

đến tình trạng lãng phí nguồn lực, giảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, thậm

chí còn làm biến dạng chính sách trong quá trình thực hiện chính sách.

Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức công vụ của cán bộ, công

chức còn thể hiện ở thủ tục giải quyết những vấn đề trong việc phối hợp thực

23

hiện những nhiệm vụ, hoạt động trong chu trình chính sách. Rõ ràng việc phối

hợp này hiệu quả hay không đều tác động, ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện

chính sách.

Thứ hai, công tác vận động, tuyên truyền về thực hiện chính sách phát

triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.

Thực tiễn thực hiện chính sách phát triển du lịch ở nước ta hiện nay cho

thấy, công tác vận động, tuyên truyền về chính sách còn bị xem nhẹ và được

thực hiện mang tính hình thức. Vì vậy mà kết quả vận động, tuyên truyền chưa

cao, tác động ngược trở lại việc thực hiện chính sách.

Công tác vận động, tuyên truyền về thực hiện chính sách nếu được tổ

chức một cách hợp lý, khoa học sẽ làm thay đổi nhận thức và chuyển biến về

hành vi của các chủ thể cũng như đối tượng chính sách khi tham gia vào quá

trình thực hiện chính sách phát triển du lịch ở nước ta.

Thứ ba, điều kiện kinh tế và nguồn lực để thực hiện chính sách của Nhà nước.

Để tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch đạt được kết quả cao,

Nhà nước luôn phải tăng cường các nguồn lực vật chất, kỹ thuật để phục vụ cho

việc triển khai ấy. Nếu điều kiện kinh tế và các nguồn lực vật chất, kỹ thuật đáp

ứng được mọi yêu cầu trong quá trình thực hiện chính sách, việc thực hiện chính

sách ấy sẽ đạt hiệu quả và ngược lại.

Hiện nay, ở nước ta, cơ cấu đầu tư cho sự phát triển chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư

cho các ngành, lĩnh vực không đồng đều, chưa đúng đối tượng,... làm ảnh hưởng

xấu đến sự hình thành thị trường. Kết cấu hạ tầng giao thông đến vùng sâu, vùng xa,

vùng nghèo đói còn thiếu và yếu kém, vì vậy việc thực hiện chính sách cũng như

vấn đề tiếp cận chính sách đến các vùng này là còn khó khăn vô cùng.

1.3.2. Những yếu tố thuộc về đối tượng chính sách

Thứ nhất, nguồn lực của đối tượng chính sách.

Để tham gia vào quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch, nguồn

lực là một yếu tố không thể thiếu đối với cả phía Nhà nước và phía các đối tượng

của chính sách. Các đối tượng của chính sách phát triển du lịch hiện nay còn

24

thiếu và yếu về nguồn lực, nhất là nguồn lực vật chất.

Thứ hai, nhận thức của đối tượng chính sách.

Nhận thức của các đối tượng chính sách còn chưa thực sự được nâng cao

tuy đã ít nhiều được tiếp nhận sự vận động, tuyên truyền về thực hiện chính sách

phát triển du lịch của Nhà nước. Điều này gây khó khăn cho các bước trong chu

trình chính sách nói chung, chu trình thực hiện chính sách nói riêng. Nếu không

cải thiện vấn đề này, nó sẽ ngày càng gây khó khăn, cản trở việc thực hiện chính

sách một cách hiệu quả.

1.3.3. Những yếu tố khác

Thứ nhất, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại.

Điều này đương nhiên kéo theo sự phát triển nhanh của ngành du lịch. Du

lịch giờ đây trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ, đóng góp trong

việc xây dựng, phát triển sức mạnh tổng thể của một quốc gia.

Trong xu thế chung ấy, Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức

trong phát triển du lịch và thực hiện chính sách du lịch. Hội nhập quốc tế về du

lịch tạo cơ hội cho ngành du lịch Việt Nam gia tăng nguồn khách quốc tế, qua đó

tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của các nước thông qua các chương trình, dự án tài

trợ cụ thể trong phát triển du lịch và thực hiện chính sách du lịch. Tuy nhiên, khi

thị trường kinh tế biến động khó lường, lượng khách quốc tế sụt giảm, trong khi

ngành du lịch còn non yếu, khó cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực, điều

này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc hoạch định và thực hiện chính sách phát

triển du lịch của nước ta.

Thứ hai, nguồn nhân lực du lịch.

Đặc thù của nhân lực du lịch là kỹ năng nghiệp vụ phục vụ khách với tâm

lý, nhu cầu, ngôn ngữ, văn hóa,... khác nhau giữa từng người. Điều này đem đến

chất lượng dịch vụ trong cảm nhận của từng khách hàng. Trình độ của nguồn

nhân lực là khác nhau, không đồng đều về chất lượng. Mặt khác, thông qua việc

tuyên truyền chính sách phát triển du lịch đến với mỗi nhân lực ngành du lịch –

25

những người trực tiếp làm việc với khách hàng, sẽ khiến cho việc phổ biến, nhân

rộng hơn mục tiêu chính sách đến đông đảo người dân. Vì vậy, việc nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực là bài toán cần có lời đáp ngay lúc này nếu muốn

đảm bảo chính sách hay việc thực hiện chính sách được truyền bá đúng trong

thực tế.

Ngoài ra, còn có các yếu tố về môi trường, văn hóa, khí hậu, điều kiện dân

26

cư,… cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch.

Tiểu kết Chương 1

Thực hiện chính sách phát triển du lịch là toàn bộ quá trình đưa chính sách

vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống nhất

nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch đối với những đối tượng cụ thể

trong một không gian và thời gian nhất định. Ở Việt Nam hiện nay, về cơ bản,

chu trình thực hiện chính sách phát triển du lịch bao gồm nhiều giai đoạn và

nhiều nhân tố gây tác động. Mỗi giai đoạn có vị trí, vai trò quan trọng riêng. Các

nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam

hiện nay có thể là năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và đội ngũ cán bộ,

công chức ở các cấp trong thực hiện chính sách phát triển du lịch; công tác vận

động, tuyên truyền về thực hiện chính sách phát triển du lịch; điều kiện kinh tế

27

và nguồn lực để thực hiện chính sách của Nhà nước.

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

2.1. Bối cảnh chung thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa

bàn tỉnh Phú Thọ

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Phú Thọ

2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Trung du miền núi Bắc Bộ, được tái lập

ngày 01/01/1997 trên cơ sở tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú. Phía Bắc và Đông Bắc giáp

tỉnh Tuyên Quang; phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Yên Bái; phía Đông giáp tỉnh

Vĩnh Phúc; phía Đông Nam giáp thủ đô Hà Nội; phía Tây giáp tỉnh Sơn La; phía

Nam và Tây Nam giáp tỉnh Hòa Bình. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh khoảng

3.533,4 km2 (chiếm 1,2% diện tích cả nước).

Vị trí địa lý đã tạo điều kiện thuận lợi để Phú Thọ liên kết vùng phát triển

du lịch. Du lịch Phú Thọ giữ vai trò là cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội,

cầu nối du lịch giữa vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Trung du miền núi Bắc

Bộ, Đông và Tây Bắc; điểm kết nối quốc tế trong hành lang kinh tế Quảng Ninh

– Hà Nội - Côn Minh; kết nối tuyến du lịch tâm linh với các tỉnh duyên hải.

Phú Thọ có khí hậu mang đậm đặc trưng của vùng khí hậu nhiệt đới gió

mùa, tương đối thuận lợi cho sinh hoạt và các hoạt động kinh tế - xã hội, phát

triển du lịch.

Hệ thống sông ngòi ở Phú Thọ cũng rất phong phú, với năm sông lớn

chảy qua: sông Chảy, sông Hồng (sông Thao), sông Đà, sông Lô, sông Bứa và

41 phụ lưu, cùng với 130 suối nhỏ, hàng ngàn hồ, ao phân bố đều khắp trên địa

phương,, nguồn nước mặt dồi dào. Đây cũng là nguồn tài nguyên du lịch trên

sông rất có giá trị, đặc biệt là trong điều kiện khai thác kết hợp với văn hóa dân

28

gian Phú Thọ và ẩm thực.

2.1.1.2. Điều kiện xã hội

Dân số và nguồn nhân lực: Tính đến hết năm 2012 dân số toàn tình Phú

Thọ là 1.340.813 người, mật độ dân số bình quân 379,5 người/km2, tốc độ tăng

dân số tự nhiên là 0,98% và tăng cơ học là 0,1% . Dân cư Phú Thọ có đặc điểm

là dân số trẻ chiếm tỷ lệ cao, mặt bằng dân trí cao hơn mặt bằng chung cả nước,

dân cư năng động, sáng tạo là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch.

Tỉnh Phú Thọ có sự đa dạng văn hóa dân tộc. Trên địa bàn tỉnh có 28 dân

tộc sinh sống, đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 85,89% số dân toàn tỉnh, dân số

là người dân tộc thiểu chiếm 14,11%. Dân tộc Mường chiếm 13,62%; dân tộc

Dao chiếm 0,92%; dân tộc Sán Chay chiếm 0,22%; dân tộc Tày chiếm 0,15%;

dân tộc Mông chiếm 0,05%; dân tộc Thái chiếm 0,04%; dân tộc Nùng chiếm

0,03%; dân tộc Hoa có chiếm 0,02%; dân tộc Thổ chiếm 0,01%; dân tộc Ngái

chiếm 0,008%...Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng thể hiện qua các lễ hội,

làng nghề, văn hóa dân gian, ẩm thực… là nguồn tài nguyên để khách du lịch

tham quan, tìm hiểu. Bên cạnh đó, các dân tộc thiểu số thường sống ở vùng sâu,

vùng xa, các khu vực có hệ sinh thái tự nhiên còn hoang sơ, thuận lợi việc phát

triển du lịch cộng đồng.

Tất cả những điều kiện trên là những nhân tố quan trọng cho sự phát triển

kinh tế - xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng của Phú Thọ.

2.1.2. Tiềm năng khai thác du lịch của tỉnh Phú Thọ

2.1.2.1. Tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch có thể là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du

lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch tự nhiên là cơ sở để các lọai hình du lịch tự

nhiên phát triển. Đó là loại hình hoạt động du lịch đưa du khách về những nơi có

điều kiện, môi trường tự nhiên trong lành, quang cảnh tự nhiên hấp dẫn… nhằm

thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của họ [23,tr.63]. Tài nguyên du lịch nhân văn được

hiểu là tất cả những gì do xã hội cộng đồng tạo ra có sức hấp dẫn du khách cũng

29

như những thành tố khác được đưa vào phục vụ phát triển du lịch. Như vậy, tài

nguyên du lịch nhân văn sẽ được hiểu bao gồm các di tích, công trình đương đại,

lễ hội, phong tục tập quán [23,tr.66]. Ở Phú Thọ, tài nguyên du lịch nhân văn

bao gồm một số loại hình điển hình như Hát Xoan Phú Thọ- di sản văn hoá phi

vật thể của nhân loại; Khu di tích lịch sử Đền Hùng - di tích đặc biệt cấp quốc

gia và “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” được UNESCO công nhận là di sản

văn hoá phi vật thể của nhân loại.

Phú Thọ là vùng đất có nhiều di chỉ khảo cổ như: Gò Mun, Sơn Vi, Làng

Cả, Phùng Nguyên, Xóm Rền ... Phú Thọ còn lưu giữ nhiều kho tàng văn hóa

dân gian, lễ hội như hội Đền Hùng, hội phết Hiền Quan, hội bơi chải Bạch Hạc,

hát Xoan, hát Ghẹo, hát Đối, hát Ví; các làng nghề truyền thống nổi tiếng như

mây tre đan Đỗ Xuyên, ủ ấm Sơn Vi, nón lá Sai Nga… Tất cả đều rất hấp dẫn

khách du lịch đến tham quan, tìm hiểu. Theo số liệu thống kê, trên địa bàn tỉnh

hiện có 1.372 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có 71 di tích được xếp hạng cấp

quốc gia, 174 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Những di tích tiêu biểu có giá trị

phát triển du lịch.

Khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ cúng các Vua Hùng, được Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa đặc biệt của quốc

gia. Ngoài ra còn có Đền Tổ Mẫu Âu Cơ trên núi Vặn, đền Lạc Long Quân được

đầu tư xây dựng mới tạo cho quần thể khu di tích đầy khí thiêng của sơn thủy hội

tụ. Tại đây, hàng năm diễn ra lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.

Khu di tích khảo cổ Làng Cả là một khu trung tâm chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội sầm uất có tính liên tục từ thời kỳ Hùng Vương, thời kỳ Bắc thuộc và

thời kỳ phong kiến tự chủ. Khu Di tích khảo cổ Gò Mun là di tích tiêu biểu cho

văn hóa Gò Mun ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, thuộc thời đại đồng thau ở

Việt Nam, bước chuẩn bị tiền đề cho việc hình thành văn hóa Đông Sơn - thời kỳ

đồ sắt. Đền Mẫu Âu Cơ là di tích thờ Quốc Mẫu, có từ thời Hậu Lê với kiến trúc

chạm gỗ quý giá. Tượng Mẫu Âu Cơ trong đền được tạo tác từ thời Lê có giá trị

30

nghệ thuật cao. Đây là địa điểm khai thác du lịch tâm linh, về nguồn.

Ngoài các điểm tài nguyên nổi bật nêu trên, Phú Thọ còn có hệ thống các

đình như Hùng Lô, Đào Xá, Hy Cương, Lâu Thượng, chùa Xuân Lũng có giá trị

kiến trúc nghệ thuật cao, có khả năng khai thác phục vụ khách tham quan,

nghiên cứu.

Có thể nhận thấy, Phú Thọ là một trong những miền đất của lễ hội. Hiện ở

Phú Thọ có 260 lễ hội, trong đó có 228 lễ hội truyền thống, 32 lễ hội lịch sử -

cách mạng, có 92 lễ hội được bảo lưu hoàn toàn cả phần lễ, phần hội và trò diễn

trong đó có 30 lễ hội xếp loại A, 1 lễ hội cấp quốc gia là lễ hội Đền Hùng. Các lễ

hội có những nét đặc trưng riêng. Về thời gian, lễ hội chủ yếu được tổ chức vào

mùa xuân. Về địa bàn, lễ hội chủ yếu tập trung ở khu vực Đền Hùng, thành phố

Việt Trì (31 lễ hội); Lâm Thao (24 lễ hội); Phù Ninh (24 lễ hội); Tam Nông (31

lễ hội) và Cẩm Khê (30 lễ hội).

Ngoài các lễ hội đặc sắc trên, Phú Thọ còn có hội mở cửa rừng, hội đánh

cá, Tết nhảy của dân tộc Dao, hội cồng chiêng của người Mường, hội rước Ông

Khiu, Bà Khiu… đều có khả năng khai thác phát triển du lịch.

Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch

a. Hệ thống giao thông

Phú Thọ là một trong những địa phương có hệ thống giao thông đường bộ

phát triển so với các tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ và được phân

bố tương đối đều, hợp lý, khá thuận tiện để tiếp cận các điểm tài nguyên du lịch.

Hiện nay, hệ thống giao thông đường bộ đang được đầu tư nâng cấp đảm bảo kết

nối để 100% xã có đường ô tô đến trung tâm. Phú Thọ có 5 tuyến quốc lộ (2; 32;

32B; 32C; 70) với chiều dài qua tỉnh là 262 km, 35 tuyến đường tỉnh (13 tuyến

chính và 22 tuyến nhánh) với chiều dài 735 km; tuyến đường huyện dài 785 km,

322 km đường đô thị, 54 km đường chuyên dùng; 2.350 km đường xã và liên

xã... Ngoài ra, Phú Thọ còn hàng nghìn km đường dân sinh và lâm nghiệp.

Ngoài giao thông đường bộ, giao thông đường sắt, đường thủy của Phú

31

Thọ cũng có nét đặc sắc riêng. Địa bàn tỉnh Phú Thọ có một tuyến đường sắt

quốc gia là tuyến Hà Nội - Lào Cai đoạn qua Phú Thọ dài 74.9 km, góp phần vận

chuyển một lượng lớn hành khách và hàng hoá, tạo sự giao lưu giữa Phú Thọ và

các tỉnh. Phú Thọ có ba con sông lớn chảy qua là sông Hồng, sông Lô, sông Đà,

gặp nhau tại thành phố Việt Trì; cùng với một số sông nhánh như sông Chảy,

sông Bứa... chảy qua các huyện, thị xã – tất cả tạo thành một mạng lưới đường

thuỷ rất thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển kinh tế, có thể xây dựng các cảng

tàu du lịch nhỏ phục vụ tuyến du lịch đường sông.

b. Hệ thống nhà hàng khách sạn

Tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua đã xây dựng và nâng cấp rất nhiều nhà

hàng, khách sạn. Khách sạn thường có kiến trúc kiên cố, nhiều tầng, được trang

bị các thiết bị, tiện nghi, đồ đạc chuyên dùng nhằm mục đích kinh doanh các dịch

vụ lưu trú, phục vụ ăn uống tổ chức các hội nghị, hội thảo, phục vụ vui chơi, giải trí

và các dịch vụ khác. Hệ thống nhà hàng cũng được đầu tư nhiều với đội ngũ nhân

viên chuyên nghiệp, không gian thoáng, đẹp và phục vụ nhiều đặc sản vùng. Đây

cũng là một điểm mạnh thu hút khách du lịch đến với tỉnh Phú Thọ.

c. Các yếu tố nguồn lực khác

Theo số liệu thống kê, năm 2013 toàn tỉnh có gần 750.000 người trong độ

tuổi lao động (tỷ lệ 60% dân số) trong đó lực lượng lao động trẻ chiếm 65%. Tỷ lệ

lao động qua đào tạo nghề trên 49%. Đặc điểm chung của lao động Phú Thọ là cần

cù, chịu khó, thông minh, nhanh nhẹn, dễ thích nghi với nghề nghiệp. Đây là một

trong những nguồn lực phát triển kinh tế Phú Thọ nói chung và du lịch nói riêng.

Phú Thọ có 2 trường đại học, hơn 34 trường cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp, trường dạy nghề và trung tâm đào tạo nghề, cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu

cho tỉnh.

Thời gian qua, nhờ làm tốt công tác xúc tiến quảng bá, bên cạnh đó môi

trường đầu tư luôn được cải thiện (chỉ số năng lực cạnh tranh của Phú Thọ năm

2013 xếp thứ 40/63 tỉnh thành) nên Phú Thọ đã thu hút nhiều dự án đầu tư bên

32

ngoài. Các dự án đầu tư đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du

lịch và trở thành một trong những yếu tố nguồn lực của phát triển kinh tế Phú

Thọ nói chung và du lịch nói riêng.

2.2. Kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách phát triển du

lịch tỉnh Phú Thọ và nguyên nhân của chúng

2.2.1 Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du

lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Ngày 14/7/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 99/2008/QĐ-

TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ đến

năm 2020 [27]. Theo đó, phấn đấu xây dựng Phú Thọ trở thành Trung tâm kinh

tế vùng; là một trong những trung tâm khoa học, công nghệ; giáo dục - đào tạo, y

tế, văn hóa, thể thao, du lịch của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; là đầu mối

giao thông quan trọng nội Vùng và là Thành phố lễ hội về nguồn của dân tộc

Việt Nam. Ngày 21/4/2017, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 552/QĐ-

TTg phê duyệt quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử Đền

Hùng, tỉnh Phú Thọ đến năm 2025 [29]. Đây thực sự là nền tảng quan trọng để

Phú Thọ xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong

đó có chính sách phát triển du lịch.

Bên cạnh sự quan tâm của Trung ương, trong những năm qua công tác

lãnh đạo, chỉ đạo và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong công tác

phát triển du lịch, huy động các nguồn lực đầu tư phát triển du lịch, kịp thời tháo

gỡ khó khăn cho nhà đầu tư du lịch được tăng cường từ cấp tỉnh đến các huyện,

thành thị... Việc xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển du

lịch, công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và thẩm định dự án về du lịch...

được các sở, ban, ngành, huyện, thành, thị và các tổ chức, cá nhân nghiêm túc

triển khai thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. 13/13 huyện thành thị của

tỉnh, các cấp ủy đảng, chính quyền, chỉ đạo xây dựng các nghị quyết, kế hoạch,

chương trình, đề án phát triển du lịch, hoặc lồng ghép với các nhiệm vụ phát triển

33

kinh tế - xã hội. Cụ thể như sau:

Đề án số 3020/ĐA-UBND ngày 28/9/2009 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú

Thọ xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn

2009 – 2020 [33]: Đề án đánh giá thực trạng các lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú

Thọ; xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch giai đoạn 2009 – 2020; từ đó tập

trung tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt hiệu quả cao để hoàn thành các

mục tiêu, nhiệm vụ của đề án đã đề ra.

Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 19/10/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh Phú Thọ về phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2015 [3]:

Điểm trọng tâm của Nghị quyết là đưa ra các giải pháp: nâng cao trách nhiệm,

hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch; tập trung huy động các nguồn vốn thực

hiện mục tiêu phát triển du lịch; tập trung đầu tư xây dựng hình thành một số hạ

tầng du lịch – thương mại trọng điểm; đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân

lực đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, cơ cấu phù hợp đáp ứng nhu cầu phát triển

du lịch; xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư phát triển du lịch;...

Kế hoạch số 654/KH-UBND ngày 05/3/2012 của Ủy ban Nhân dân tỉnh

Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015 [34]: Kế hoạch đề ra

mục đích, yêu cầu; đánh giá tình hình phát triển du lịch giai đoạn 2006 – 2010; kế

hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015; từ đó kiến nghị, đề

xuất các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương tổ chức triển khai thực hiện

đạt hiểu quả để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch đề ra.

Nghị quyết số 30/2012/NQ-HĐND ngày 17/12/2012 của Hội đồng Nhân

dân tỉnh Phú Thọ về quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 –

2020, định hướng đến năm 2030 [10]: Nghị quyết đưa ra quan điểm và mục tiêu

quy hoạch, các nhiệm vụ cụ thể, các giải pháp thực hiện để sau năm 2020, du

lịch Phú Thọ tập trung nâng cao chất lượng, phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ

thuật đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương

hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc văn hóa vùng đất Tổ, hướng tới mục

34

tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 15/7/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh Phú Thọ về phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [4]: tổng

kết những kết quả đạt được sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-

NQ/TW ngày 19/10/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII về phát

triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2015, chỉ ra những tồn tại, hạn chế

và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế. Từ đó, Nghị quyết nêu phương hướng, mục

tiêu và các giải pháp chủ yếu nhằm tập trung khai thác tối đa các tiềm năng, lợi

thế nguồn tài nguyên du lịch phong phú sẵn có của tỉnh, đặc biệt hai di sản văn

hóa thế giới được UNESCO vinh danh - “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” và

“Hát Xoan Phú Thọ”.

Nghị quyết số 17/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của Hội đồng Nhân dân tỉnh

Phú Thọ về về việc thực hiện 4 khâu đột phá về huy động nguồn lực đầu tư kết

cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân lực, phát triển du

lịch và cải cách hành chính tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [11]: Nghị quyết

nêu những phương hướng chung, các mục tiêu chủ yếu (về cải cách hành chính,

huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển

nguồn nhân lực, phát triển du lịch); và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp (về đẩy

mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính;

huy động nguồn lực đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then

chốt; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; huy động

nguồn lực đầu tư phát triển du lịch; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với đầu tư

phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân lực, phát triển

du lịch và cải cách hành chính).

Kế hoạch số 4772/KH-UBND ngày 20/10/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh

Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [35]: Kế hoạch

chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm, các nhóm giải pháp thực hiện, nhu cầu vốn

thực hiện, tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu xây dựng Phú Thọ trở thành

địa bàn trọng điểm du lịch của vùng, đảm bảo đủ điều kiện để Phú Thọ đăng cai

35

Năm Du lịch quốc gia vào năm 2020.

Chương trình hành động số 24-CTr/TU ngày 04/4/2017 của Tỉnh ủy Phú

Thọ thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch

trở thành ngành kinh tế mũi nhọn [30]: Trong đó đưa ra những quan điểm, mục

tiêu; nhiệm vụ, giải pháp để các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các

đoàn thể chính trị - xã hội có trách nhiệm tổ chức quán triệt, triển khai Nghị

quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Tỉnh ủy

đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và

hành động để đưa Nghị quyết vào cuộc sống.

Nhìn chung, tỉnh Phú Thọ đã chủ động, tích cực xây dựng và thực hiện

các chính sách phát triển du lịch để phấn đấu trở thành địa phương trọng điểm du

lịch của vùng và du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

2.2.2 Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch trên địa bàn

tỉnh Phú Thọ

Trên cơ sở các chính sách, kế hoạch, công tác phổ biến tuyên truyền các

hoạt động liên quan đến du lịch đã được các bên liên quan tập trung đẩy mạnh.

Bởi đây là một trong những khâu quan trọng trong việc thực hiện chính sách.

Tỉnh Phú Thọ chỉ đạo Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, Sở Thông tin và Truyền

thông, Báo Phú Thọ, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh chủ động xây dựng và

triển khai kế hoạch tuyên truyền, phố biến chính sách phát triển du lịch của tỉnh;

các huyện thành thị trong toàn tỉnh tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp

ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể đối với công tác phổ biến, tuyên truyền

chính sách.

Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh hằng năm đều tổ chức các lớp tập

huấn, phổ biến cho các huyện thành thị trong toàn tỉnh về chính sách phát triển

du lịch của tỉnh và phối hợp với chính quyền các huyện thành thị tổ chức hội

nghị tập huấn cho các công ty du lịch – lữ hành, các khách sạn, nhà hàng, cơ sở

lưu trú trên địa bàn về nghiệp vụ du lịch, đặc biệt là trước các dịp lễ hội lớn như

36

Giỗ Tổ Hùng Vương, hội phết Hiền Quan…

Tỉnh Phú Thọ cũng chủ động tham dự các hội chợ, triển lãm du lịch trong

và ngoài nước để quảng bá hình ảnh du lịch của địa phương như Hội nghị xúc

tiến đầu tư khu vực Tây Bắc, Hội chợ du lịch quốc tế TP.Hồ Chí Minh ITE, Hội

chợ du lịch quốc tế Việt Nam – VITM Hà Nội. Các địa điểm du lịch nổi tiếng,

trọng điểm của tỉnh, các huyện thành thị cũng chủ động giới thiệu quảng bá hình

ảnh trên mạng internet nhằm quảng bá rộng rãi hơn tới khách du lịch trong và

ngoài nước như đón các đoàn farmtrip (Cung đường Tây Bắc, Khám phá di sản

văn hóa vùng đất Tổ, Qua miền Tây Bắc, Du lịch về nguồn…).

Hoạt động tuyên truyền, quảng bá được thực hiện dưới nhiều thức đa

dạng, phong phú như: xây dựng chuyên mục, chuyên trang quảng bá các khu,

điểm du lịch trên Đài phát thanh và tuyền hình Phú Thọ, Đài Truyền hình Kỹ

thuật số VTC, Truyền hình Nhân dân, Báo Phú Thọ, thành lập Trung tâm thông

tin xúc tiến du lịch tỉnh, quảng bá trên trang thông tin điện tử du lịch 8 tỉnh

TBMR và cổng giao tiếp điện tử của tỉnh, xuất bản tập gấp, bản đồ du lịch, tờ

rơi, đĩa VCD/DVD mời gọi đầu tư, in băng zôn, biển quảng cáo…

Công tác phổ biến, tuyên truyền và vận động sâu rộng các tầng lớp nhân

dân tích cực xây dựng hình ảnh con người Phú Thọ hiền hòa, thân thiện, mến

khách; tự giác tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan di tích, an

ninh trật tự, xây dựng Phú Thọ trở thành điểm đến du lịch an toàn, văn minh,

lịch sự.

2.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch trên

địa bàn tỉnh Phú Thọ

Có thể thấy rằng, một chính sách thành công cần nhiều yếu tố, trong đó,

việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách có vai trò quan trọng. Theo đó, để

đảm bảo chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ được thực hiện

đồng bộ, đáp ứng được mục tiêu chính sách đề ra, các sở, ban ngành, các bộ

phận liên quan đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ đã

37

có những hoạt động triển khai tương đối tốt. Trước tiên, có thể thấy, với tư cách

cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ chủ trì, tham

mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo, tổ chức triển khai kế hoạch, Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ có trách nhiệm cụ thể hóa các nội dung kế

hoạch và chủ động phối hợp với các cấp, ngành liên quan để thực hiện. Sở đã

xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển khu du lịch quốc gia Đền Hùng. Xây

dựng hồ sơ đề nghị công nhận khu, điểm du lịch quốc gia; xây dựng kế hoạch

phát triển các làng nghề phục vụ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Rà

soát điều chỉnh quy hoạch du lịch tại các khu, điểm du lịch trọng điểm; xây dựng

và tham gia các chương trình, hội nghị, hội chợ xúc tiến đầu tư, tuyên truyền

quảng bá các giá trị văn hóa, tiềm năng du lịch vùng Đất Tổ tới du khách trong

và ngoài nước. Xây dựng chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát huy giá trị

02 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ và Tín ngưỡng thờ

cúng Hùng Vương ở Phú Thọ gắn với phát triển du lịch. Đẩy mạnh các hoạt

động liên doanh, liên kết phát triển du lịch; chủ trì phối hợp với các sở, ban,

ngành xây dựng một số chính sách phát triển du lịch như: Ưu đãi đầu tư, hỗ trợ

doanh nghiệp lữ hành và doanh nghiệp vận tải khánh du lịch, đào tạo nguồn nhân

lực du lịch địa phương, chính sách hỗ trợ các làng nghề và cơ sở sản xuất đưa

các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp đặc thù tiêu biểu của tỉnh tham gia hoạt

động phục vụ khách du lịch; tham gia sản xuất sản phẩm hàng lưu niệm, quà

tặng du lịch; nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí xếp hạng các doanh nghiệp, cá

nhân hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh; xây dựng dự toán kinh phí

sự nghiệp hỗ trợ cho phát triển du lịch tỉnh hàng năm của tỉnh.

Sở cũng đã hướng dẫn các huyện, thành, thị triển khai thực hiện Chương

trình hành động số 24-CTr/TU ngày 4/4/2017 của Tỉnh ủy Phú Thọ về triển khai

thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh

tế mũi nhọn và Kế hoạch số 1573/KH-UBND ngày 21/4/2017 của UBND tỉnh về

phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ năm 2017.

Cùng với Sở Văn hóa, thể thao và du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh

38

Phú Thọ đã tham mưu giúp UBND tỉnh các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư

du lịch, kịp thời tháo gỡ vướng mắc cho các nhà đầu tư du lịch trên địa bàn. Tiến

hành kiểm tra, rà soát, đôn đốc các doanh nghiệp đầu tư du lịch trên địa bàn tỉnh

đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án. Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du

lịch và các sở ngành xây dựng cơ chế ưu đãi thu hút đầu tư vào lĩnh vực du lịch

trên địa bàn tỉnh. Nhờ đó, trong những năm qua, một số dự án đầu tư cơ sở hạ

tầng du lịch trọng điểm đã được xây dựng, như Dự án Khu du lịch sinh thái cao

cấp bãi nổi La Phù (Đảo Ngọc Xanh) địa bàn huyện Thanh Thủy trị giá 500 tỷ

đồng; Dự án Khu điều dưỡng tắm nước khoáng nóng Thanh Thủy (huyện Thanh

Thủy) trị giá 50 tỷ đồng; Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng Vườn Vua (huyện

Thanh Thủy) trì giá 159.90 tỷ đồng; Dự án khách sạn 4 sao Sài Gòn – Phú Thọ

(TP.Việt Trì) trị giá 80 tỷ đồng; Dự án Trung tâm thương mại Vincom – Quảng

trường Hùng Vương (TP. Việt Trì) trị giá 403,40 tỷ đồng...

Sở Tài chính cũng đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch bố trí

nguồn vốn theo các nội dung trong kế hoạch đề ra hàng năm. Các khu du lịch

trọng điểm đã được ưu tiên cấp vốn ngân sách; dự án phát triển du lịch cộng

đồng; dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch, trùng tu di tích, phục dựng lễ

hội... đều được Sở đảm bảo nguồn kinh phí.

Với chức năng, nhiệm vụ của mình, trong những năm qua, Sở Công

thương đã chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các đơn vị

liên quan nghiên cứu, xây dựng và phát triển sản phẩm quà tặng, hàng lưu niệm

phục vụ khách du lịch; triển khai tốt các dự án trong quy hoạch đã được phê

duyệt như: Dự án trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, các dự án thủ công

nghiệp, làng nghề; xây dựng và triển khai thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng

tại các làng nghề gắn với phát triển du lịch:... Đặc biệt, trong bối cảnh khi mà du

khách đi du lịch còn có hiện tượng bị “chèn ép” về giá cả thì Sở đã có những cố

gắng nỗ lực trong việc bình ổn giá cả thị trường tại các khu, điểm du lịch tạo môi

trường kinh doanh du lịch lành mạnh, an toàn và thân thiện.

Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã chủ trì xây dựng và thực

39

hiện kế hoạch phát triển làng nghề nông thôn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 -

2020, trong đó xây dựng các tuyến du lịch gắn với làng nghề đã được UBND

tỉnh công nhận (như khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy, khu du lịch

vườn quốc gia Xuân Sơn, đình Hùng Lô...); chủ trì phối hợp với Sở VHTT&DL,

UBND các huyện xây dựng và thực hiện các đề án: Phát triển vùng chè Thanh

Sơn; vườn bưởi huyện Đoan Hùng; phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du

lịch trong việc xây dựng, quản lý và khai thác tài nguyên du lịch phục vụ hoạt

động du lịch tại khu vực vườn quốc gia Xuân Sơn.

Ngoài ra, các Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Giao thông

vận tải, Sở Khoa học và Công nghệ, Công an tỉnh, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh... đã

chủ động tăng cường hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện bảo vệ an ninh, an toàn

cho du khách; bảo vệ môi trường du lịch tại địa phương; Thẩm định và kiểm tra

thiết kế cơ sở, dự án đầu tư xây dựng liên quan đến du lịch; hướng dẫn các sở,

ngành, địa phương ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong hoạt động

kinh doanh du lịch và trong sản xuất các sản vật đặc trưng của Phú Thọ như bưởi

Đoan Hùng, hồng Hạc, chè Phú Thọ, cá Lăng, cá Anh vũ;...

Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở Lao động, Thương binh và xã hội cùng với các

cơ sở giáo dục, đào tạo khác trên địa bàn tỉnh đã mở rộng và nâng cao chất lượng

hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh, từng bước chuẩn

hóa chương trình đào tạo tại các cơ sở có đào tạo các ngành về du lịch. Các chương

trình đào tạo mở ra đa dạng, như đào tạo ngắn hạn, dài hạn về chuyên ngành du

lịch (quản lý cơ sở lưu trú, hướng dẫn viên, lễ tân, buồng, bàn, bar, bếp...); phù hợp

với điều kiện, khả năng của doanh nghiệp và yêu cầu thực tế của xã hội.

Báo Phú Thọ, Đài Phát thanh - Truyền hình Tỉnh cũng đã thực hiện tốt

nhiệm vụ và chức năng của mình trong việc thực hiện chính sách phát triển du

lịch của Tỉnh. Đó là xây dựng các chuyên mục, chuyên trang, chương trình quảng

bá tiềm năng, hình ảnh du lịch Phú Thọ; thường xuyên tuyên truyền, giới thiệu các

điểm, khu du lịch hấp dẫn của tỉnh trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Hiệp hội Du lịch tỉnh Phú Thọ cũng đã tăng cường công tác tuyên truyền

40

các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong

lĩnh vực du lịch đến các hội viên để mọi hội viên chấp hành nghiêm chỉnh; động

viên các hội viên đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau về kinh tế, kỹ thuật và tạo

môi trường kinh doanh du lịch lành mạnh, cùng nhau phát triển bền vững; vận

động Hội viên nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm cải thiện hình ảnh du lịch, tạo

ấn tượng tốt với du khách; Tích cực tham gia góp ý, đề xuất với cơ quan quản lý

nhà nước về những chính sách, luật pháp, cơ chế nhằm thúc đẩy ngành du lịch

phát triển....

Các đơn vị kinh doanh du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh: xây dựng

phương án kinh doanh, chủ động mời gọi nguồn vốn đầu tư, khai thác thị trường,

có cơ chế thu hút nhân lực có trình độ cao; chú trọng đến công tác đầu tư nâng

cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của tỉnh, tăng

cường công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho người lao động, từng bước

chuẩn hóa các dịch vụ và đội ngũ cán bộ công nhân viên phục vụ, đẩy mạnh hoạt

động liên doanh liên kết, xây dựng thương hiệu, xây dựng và phát triển các dịch

vụ du lịch có chất lượng đáp ứng nhu cầu ăn, nghỉ, tham quan, vui chơi giải trí

của khách du lịch.

Ngoài ra, các huyện thị khác, đặc biệt là những huyện, thị có địa điểm du

lịch cũng đã có kế hoạch, đề án phát triển du lịch, như huyện Hà Hòa, Thanh

Sơn, Đoan Hùng, Cẩm Khê,... đã xây dựng đề án phát triển di tích đền Mẫu Âu

Cơ, Khu du lịch hồ Ao Châu, Khu du lịch Ao giời - Suối tiên; vùng chè Thanh

Sơn; vườn bưởi huyện Đoan Hùng; xây dựng nhà tưởng niệm nhà thơ Bút Tre tại

xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê.

2.2.4. Duy trì chính sách phát triển du lịch

Cùng với việc phân công, phối hợp thì việc duy trì chính sách phát triển

du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cũng được thực hiện một cách tương đối tốt.

Theo đó, để duy trì chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã

giao nhiệm vụ cho các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện chương trình

41

trong kế hoạch công tác hằng năm. Căn cứ các kế hoạch về phát triển du lịch tỉnh

giai đoạn 2011 – 2015, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển giai

đoạn 2016 – 2020, các địa phương trong tỉnh đã ban hàng các văn bản điều hành,

tổ chức triển khai thực hiện phát triển du lịch của địa phương mình và duy trì

chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, cụ thể Thành phố Việt Trì: Nghị

quyết số 31/2012/NQ-HĐND ngày 25/2/2012 của Hội đồng Nhân dân về phát

triển du lịch thành phố Việt Trì đến năm 2020; Kế hoạch số 2555/KH-UBND

ngày 21/12/2012 của UBND về phát triển du lịch thành phố Việt Trì đến năm

2020; Huyện Thanh Thủy: Đề án số 768/ĐA-UBND ngày 15/9/2011 của UBND

huyện về phát triển du lịch giai đoạn 2011 – 2015, định hướng đến năm 2020;

Nghị quyết 23/2012/NQ-HĐND ngày 18/7/2012 của Hội đồng Nhân dân huyện

thông qua Đề án số 402/ĐA-UBND ngày 18/4/2012 của UBND huyện Hạ Hòa

về phát triển du lịch giai đoạn 2011 – 2015; Thị xã Phú Thọ: Kế hoạch số

703/KH-UBND ngày 30/12/2011 của UBND về phát triển du lịch thị xã Phú Thọ

đến năm 2020; Huyện Cẩm Khê: Kế hoạch số 338/KH-UBND ngày 12/8/2012

của UBND về phát triển du lịch huyện Cẩm Khê giai đoạn 2012 – 2015; Đề án

số 1408/ĐA-UBND ngày 07/7/2011 của UBND về xây dựng và phát triển khu di tích

lịch sử Tiên Động, Tiên Lương thành điểm du lịch văn hóa tín ngưỡng; Huyện Phù

Ninh: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm 2020, trong

đó có quy hoạch về phát triển du lịch trên địa bàn huyện; Kế hoạch số 412/KH-

UBND ngày 18/6/2013 của UBND về phát triển du lịch huyện Phù Ninh năm 2013.

Các huyện Lâm Thao, Tân Sơn, Đoan Hùng, Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Ba,...

đều xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm

2020, trong đó có quy hoạch về phát triển du lịch trên địa bàn huyện.

2.2.5 Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Nhận thức rõ vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, công

tác xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển du

lịch của tỉnh Phú Thọ được triển khai đồng bộ, rộng khắp, nhận được sự đồng

42

thuận, hưởng ứng của các cấp, các ngành và người dân.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch tỉnh phù hợp với từng giai đoạn cụ

thể, việc điều chỉnh chính sách được tỉnh quan tâm, cụ thể:

Đề án số 3020/ĐA-UBND ngày 28/9/2009 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú

Thọ xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn

2009 – 2020 [33]; Kế hoạch số 654/KH-UBND ngày 05/3/2012 của Ủy ban

Nhân dân tỉnh Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015

[34]; Nghị quyết số 30/2012/NQ-HĐND ngày 17/12/2012 của Hội đồng Nhân dân

tỉnh Phú Thọ về quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2020,

định hướng đến năm 2030 [10]; Nghị quyết số 17/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của

Hội đồng Nhân dân tỉnh Phú Thọ về về việc thực hiện 4 khâu đột phá về huy động

nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân

lực, phát triển du lịch và cải cách hành chính tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020

[11]; Kế hoạch số 4772/KH-UBND ngày 20/10/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh

Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [35].

Căn cứ vào mỗi giai đoạn khác nhau, tình hình thực tiễn của tỉnh và xu

hướng phát triển du lịch của đất nước và trên thế giới, chính sách phát triển du

lịch của Phú Thọ được điều chỉnh cho phù hợp.

Ở giai đoạn 2012 – 2015, tình hình kinh tế thế giới biến động khó lường,

tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài; chiến tranh, khủng bố, thiên tai, dịch

bệnh diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng nặng nề đến ngành du lịch. Cùng với đó

là việc kết cấu hạ tầng ngành du lịch tỉnh Phú Thọ chưa được tập trung đầu tư,

cơ sở hạ tầng ngành du lịch còn thiếu thốn, chưa đầy đủ. Trước thực tế đó, Ủy

ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đề ra mục tiêu chung: “Từng bước đầu tư xây dựng

kết cấu hạ tầng và các công trình du lịch – thương mại – dịch vụ phù hợp với

đặc điểm tài nguyên du lịch, gắn với các địa bàn trọng điểm du lịch tạo thành

cụm liên kết phục vụ phát triển du lịch. Tập trung xây dựng các tua, tuyến; liên

kết các khu, điểm du lịch, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, làng nghề

43

truyền thống. Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh Phú Thọ, tạo

sức thu hút du khách như: Du lịch văn hóa – lễ hội, du lịch sinh thái – danh

thắng và du lịch nghỉ dưỡng, ẩm thực cội nguồn,... Xây dựng sản phẩm hàng lưu

niệm của tỉnh Phú Thọ phục vụ cho phát triển du lịch” [34].

Tới giai đoạn 2016 – 2020, khi hệ thống cơ sở, kết cấu hạ tầng ngành du

lịch tỉnh Phú Thọ về cơ bản đã được đầu tư, xây dựng đầy đủ, hoàn chỉnh; tình

hình ngành du lịch trên thế giới và Việt Nam cũng thay đổi. Nhu cầu du lịch của

khách du lịch hướng nhiều hơn đến các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam.

Mục tiêu phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn này cũng được đề ra cao hơn

so với giai đoạn trước: “Tập trung khai thác tối đa các tiềm năng, lợi thế nguồn

tài nguyên du lịch của tỉnh; huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn

lực để phát triển du lịch bền vững. Tăng cường xúc tiến quảng bá và từng bước

xây dựng Phú Thọ trở thành địa bàn trọng điểm du lịch của vùng, đảm bảo đủ

điều kiện để Phú Thọ đăng cai Năm du lịch quốc gia vào năm 2020” [35].

Thông qua việc điều chỉnh chính sách, tỉnh Phú Thọ đã khẳng định chủ

trương nhất quán cũng như những điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế trong

phát triển du lịch. Kết quả là đã tạo động lực cho ngành du lịch tỉnh có những

bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua.

2.2.6. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển

du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiêm tra, đôn đốc, UBND

tỉnh ban hành nhiều kế hoạch triển khai thực hiện việc theo dõi, đôn đốc và thực

hiện tổng hợp báo cáo định kỳ theo quy định. Theo đó, các bên liên quan trong

tỉnh luôn “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh,

tuyên truyền hướng dẫn thực hiện Luật Du lịch năm 2017 và các Thông tư, Nghị

định hướng dẫn thực hiện Luật Du lịch đến các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh

du lịch, dịch vụ trên địa bàn; tư vấn hướng dẫn hoạt động Hiệp hội Du lịch; tư

vấn hướng dẫn hỗ trợ các địa phương xây dựng sản phẩm du lịch cộng đồng,

44

sản phẩm du lịch đặc trưng của các địa phương” [25]. Hằng năm, trên cơ sở báo

cáo của Sở tổng hợp, UBND tỉnh đã có những điều chỉnh, xử lý những vướng

mắc hay cho chủ trương đối với các vấn đề liên quan đến phát triển du lịch trên

địa bàn tỉnh như bố trí kinh phí đầu tư các dự án, chương trình xúc tiến, quảng bá

hình ảnh, chương trình lễ hội…

Công tác kiểm tra, thanh tra cũng được coi trọng: “Tăng cường công tác

thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Tổ chức các cuộc kiểm tra chuyên ngành, liên

ngành các hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch trên địa bàn toàn tỉnh, trọng

tâm, trọng điểm là những lĩnh vực hoạt động nhạy cảm, dễ gây bức xúc, xảy ra

tình trạng vi phạm kéo dài như: công tác tổ chức lễ hội, hoạt động tu bổ, tôn tạo

di tích, biểu diễn nghệ thuật…” [24]. Cụ thể là, năm 2016, Sở Văn hóa, Thể thao

và Du lịch tỉnh Phú Thọ đã phối hợp với Công an tỉnh và các đơn vị liên quan tổ

chức kiểm tra công tác phòng chống cháy, nổ tại các cơ sở karaoke, vũ trường,

quán bar trên địa bàn tỉnh. Đến nay đã kiểm tra 359 cơ sở, ra quyết định tạm

đình chỉ hoạt động đối với 76 cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke vi phạm các quy

định về điều kiện an ninh trật tự và an toàn phòng cháy, chữa cháy.

2.2.7. Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách phát

triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Với ý nghĩa và tầm quan trọng của ngành du lịch đối với sự phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh, công tác tổ chức đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

luôn được lãnh đạo tỉnh quan tâm nhằm đánh giá đúng thực trạng, kết quả của

nội dung chính sách, quá trình tổ chức triển khai thực hiện và đề xuất giải pháp,

kiến nghị bổ sung, sửa đổi nội dung của chính sách cũng như việc tổ chức thực

hiện hiệu quả của chính sách phù hợp với điều kiện thực tế.

Hằng năm, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đều tổ chức các cuộc họp, hội

nghị tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa

bàn tỉnh để từ đó có những điều chỉnh, thay đổi việc thực hiện chính sách sao

cho phù hợp với thực tiễn triển khai thực hiện chính sách vào cuộc sống nhằm

45

đạt được mục tiêu đã đề ra trong phát triển du lịch tỉnh ở từng giai đoạn cụ thể.

Thông qua các buổi họp, hội nghị đó, các cấp, các ban, ngành, đoàn thể có trách

nhiệm trong việc thực hiện chính sách báo cáo tình hình thực hiện công việc

mình phụ trách để từ đó có những căn cứ đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành

nhiệm vụ và rút ra những kinh nghiệm, khắc phục thiếu sót, tồn tại trong việc

thực hiện chính sách ở những giai đoạn sau đó.

Một số kết quả về sự phát triển của du lịch tỉnh Phú Thọ

Chính sự thực hiện tương đối tốt của các bên liên quan trong thực hiện

chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ những năm gần đây, mà

do đó, đã tạo ra sự phát triển của du lịch tỉnh Phú Thọ và các lĩnh vực khác của

đời sống xã hội. Cụ thể là:

- Về mặt kinh tế:

Việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đã và đang góp phần tạo nhiều

việc làm, nâng cao đời sống nhân dân.

Năm 2016, ngành Du lịch tỉnh Phú Thọ thu hút 11.918 lao động, trong đó

có 3.418 lao động trực tiếp, tăng 3,1% so với cùng kỳ 2015, tăng 0,5% kế hoạch;

Năm 2017, thu hút 12.505 lao động, trong đó có 3.505 lao động trực tiếp, tăng

2,5% so với cùng kỳ 2016, tăng 0,1% kế hoạch; Năm 2018, ước tính thu hút

13.272 lao động, trong đó có 3.792 lao động trực tiếp, tăng 1,1% kế hoạch, tăng

8,2% so với cùng kỳ 2017 [32].

Lượt khách lưu trú trong nước và quốc tế cũng như doanh thu du lịch tăng

đều qua các năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ:

Lượt khách lưu trú: Năm 2016, phục vụ 455.035 lượt khách, tăng 1,1% so

với kế hoạch, tăng 16% so với năm 2015; Năm 2017, phục vụ 500.126 lượt

khách, tăng 0,4% so với kế hoạch, tăng 10% so với năm 2016. Năm 2018, ước

đạt 580.000 lượng khách, tăng 5,4% so kế hoạch năm và tăng 16% với cùng kỳ

năm 2017.

Lượt khách lưu trú quốc tế: Năm 2016, phục vụ 5.718 lượt khách, tăng

46

2,1% so với kế hoạch năm và tăng 5,2% so với năm 2015; Năm 2017, phục vụ

6.512 lượt khách 8,5% kế hoạch năm và tăng 13,8% so với năm 2016. Năm 2018,

đạt 7.200 lượt, tăng 10,7% kế hoạch năm, tăng 10,6% so cùng kỳ năm 2017.

Về doanh thu du lịch, dịch vụ: Năm 2016 doanh thu du lịch dịch vụ khách sạn

nhà hàng đạt 2.381 tỷ đồng, tăng 10,0% so với cùng kỳ 2015, đạt 99,2% kế hoạch;

Năm 2017 đạt 2.682 tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm 2016, đạt 99,3% kế hoạch. Năm

2018 ước đạt 3.000 tỷ, đạt 100% kế hoạch năm, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2017.

- Về mặt xã hội:

Trong những năm qua, các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh được

tôn tạo, tu bổ; các lễ hội truyền thống được phục dựng, tổ chức thường xuyên đã

tạo ra các sản phẩm văn hóa đặc trưng vùng đất Tổ, góp phần đa dạng hóa các

sản phẩm du lịch. Đặc biệt, các sản phẩm du lịch văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh

đã có sức lan tỏa, thu hút du khách từ mọi miền đất nước về với đất Tổ. Các

điểm du lịch lễ hội của Phú Thọ bước đầu đã hình thành được các sản phẩm du

lịch, đáp ứng được nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghỉ ngơi, tham quan, vui chơi

giải trí của khách du lịch.

Thông qua các hoạt động hợp tác phát triển du lịch giữa ba tỉnh: Phú Thọ,

Yên Bái, Lào Cai và một số hoạt động lễ hội lớn của tỉnh hằng năm đã tạo dựng

được hình ảnh tốt đẹp của con người đất Tổ, quảng bá được rộng rãi văn hóa đất

Tổ, góp phần hình thành và phát triển du lịch của tỉnh Phú Thọ.

Sự phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa lễ hội trên địa bàn tỉnh đã

góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa. Nhận thức của nhân

dân, của du khách về giá trị và bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc thông

qua các hoạt động du lịch được nâng lên. Ý thức của nhân dân trong việc giữ

gìn, bảo tồn, phát huy giá trị các di tích, lễ hội, bảo vệ môi trường du lịch có sự

chuyển biến mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy du lịch và văn hóa phát triển.

Nguyên nhân của những kết quả đạt được

Một là, ảnh hưởng tích cực của sự phát triển kinh tế, của toàn cầu hóa, hội

47

nhập quốc tế, đời sống người dân được nâng cao... đã tạo cho người dân có điều

kiện kinh tế hơn trong việc đi du lịch; điều đó có nghĩa là Phú Thọ cũng thu hút

được nhiều hơn du khách.

Hai là, nhận thức ngày càng cao của các bên liên quan; các cấp ủy Đảng,

chính quyền đã có những hoạt động mạnh mẽ, cương quyết trong công tác phát

triển du lịch, huy động các nguồn lực đầu tư phát triển du lịch, kịp thời tháo gỡ

khó khăn cho các hoạt động du lịch. Cùng với đó, nhận thức của đa số dân cư đối

với phát triển du lịch được nâng lên. Người dân có ý thức hơn trong hoạt động du

lịch, tiếp xúc với du khách.

Ba là, công tác quản lý nhà nước về hoạt động du lịch được tăng cường;

công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành định kỳ và thường xuyên giúp các

doanh nghiệp kinh doanh du lịch hoạt động đúng quy định của pháp luật; công

tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch, đào tạo nghề được quan tâm chú trọng; Công

tác thông tin tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch đã có bước đổi mới, thiết

thực; môi trường du lịch và an ninh an toàn xã hội được đảm bảo góp phần xây

dựng điểm đến du lịch Phú Thọ an toàn, thân thiện, mến khách.

2.3. Một số hạn chế trong việc thực hiện chính sách phát triển du lịch

tỉnh Phú Thọ và nguyên nhân của chúng

2.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du

lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành đôi lúc còn thiếu quyết

liệt, đặc biệt là cơ quan tham mưu về lĩnh vực phát triển du lịch, dịch vụ của tỉnh

còn bị động và chưa có những đề xuất xác thực phù hợp với tình hình thực tế của

tỉnh để phát triển du lịch

Một số công ty, doanh nghiệp, nhà đầu tư còn chậm triển khai dự án đã

đăng ký gây lãng phí về thời gian, nguồn lực và làm giảm hiệu quả của các mục

tiêu chính sách.

Công tác dự báo để xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch triển khai thực hiện

48

chính sách còn hạn chế, chưa lường trước được hết những khó khăn, diễn biến

phức tạp của tình hình kinh tế trong tỉnh, trong nước và quốc tế dẫn đến đề ra

mục tiêu, chỉ tiêu chưa phù hợp, sát với thực tiễn.

2.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch trên địa bàn

tỉnh Phú Thọ

Mặc dù đạt được một số kết quả đáng khích lệ, song công tác phổ biến,

tuyên truyền chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời

gian qua vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra, phương pháp tuyên truyền còn mang

tính hình thức, còn tuyên truyền “một chiều”, chưa có sự tương tác giữa người

tuyên truyền và người được tuyên truyền; các ấn phẩm tuyên truyền còn đơn

điệu, chưa thu hút; nhân lực làm công tác phổ biến, tuyên truyền chưa thực sự

nắm vững và có chuyên môn về lĩnh vực tuyên truyền nên hiệu quả chưa cao…

2.2.3. Phân công, phối hợp và duy trì thực hiện chính sách phát triển du

lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa

bàn tỉnh Phú Thọ tuy được quy định rõ, song, trên thực tế chưa phát huy được

hiệu quả tối đa, vẫn còn xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc”, một số cơ

quan, đơn vị vẫn đùn đẩy trách nhiệm hoặc thực hiện chính sách mang tính chiếu

lệ trong nhiệm vụ, thẩm quyền của mình nên chưa phát huy hết hiệu quả.

2.2.4. Duy trì chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Tuy đạt được một số kết quả đáng khích lệ, nhưng trong thời gian gần đây

việc tổ chức, duy trì thực hiện chính sách cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế

nhất định như: trách nhiệm phối hợp, tổ chức thực hiện các giải pháp về phát

triển du lịch giữa các cơ quan, ban, ngành có liên quan còn hạn chế, thiếu đồng

bộ, công tác thực hiện chính sách chung của các sở về quy hoạch, đầu tư xây

dựng, quản lý, khai thác tài nguyên thiên nhiên, du lịch sinh thái tâm linh còn

hạn chế, số lượng dự án đầu tư du lịch khá nhiều nhưng tình hình triển khai các

49

dự án còn chậm, chưa tạo ra bước đột phá cho du lịch tỉnh.

2.2.5. Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận đã đạt được, phải nhìn nhận rằng

thực tế trong tổ chức thực hiện và điều chỉnh sách hiện nay vẫn chưa được các

cấp, sở, ban, ngành có liên quan được giao nhiệm vụ thực hiện một cách nghiêm

túc, vẫn còn hiện tượng “cục bộ địa phương”, “tư duy ngành”, nhận thức về tính

liên ngành, liên vùng và vai trò của du lịch trong đóng góp kinh tế - xã hội địa

phương còn hạn chế, chưa chủ động trong công tác tham mưu và phối hợp để

thực hiện điều chỉnh chính sách đảm bảo phù hợp với yêu cầu phát triển của

ngành trong giai đoạn thực hiện chính sách. Ngoài ra còn có sự hạn chế về thẩm

quyền đối với việc điều chỉnh một số chủ trương, chính sách có liên quan đến

việc thực hiện chính sách phát triển du lịch của địa phương.

2.2.6. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển

du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Công tác theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển

du lịch còn một số tồn tại, hạn chế, hằng năm trong chương trình kiểm tra, giám

sát của Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch vẫn chưa nhấn mạnh, đánh giá đúng

được thực trạng tổ chức, kết quả thực hiện chính sách của các cơ quan, ban,

ngành có liên quan; công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc vẫn còn tính hình thức,

tính báo cáo, chưa thấy đề cập nhiều đến vấn đề xử lý trách nhiệm của các tổ

chức, cá nhân được giao nhiệm vụ mà chưa đảm bảo hiệu quả, chất lượng công

việc trong quá trình thực hiện chính sách.

2.2.7. Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách phát

triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong tổ chức đánh giá, tổng kết thực

hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ còn tồn tại, hạn chế: thiếu nội

dung dự báo chính sách, biện pháp thực hiện khi dự báo trở thành thực tiễn, việc

đánh giá, tổng kết ở một số cơ quan, ban, ngành có liên quan chưa được quan

50

tâm thực hiện; trong khâu tổ chức đánh giá, tổng kết mới chỉ thực hiện ở cấp

tỉnh, cấp huyện, đối với các quan, ban, ngành, UBND các xã, thị trấn, công tác

tổng kết, đánh giá về chính sách phát triển du lịch thường mang tính chung

chung, chưa cụ thể, mang tính hình thức, chủ yếu được lồng ghép với với báo

tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của đơn vị.

Một số hạn chế trong phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay

Chính vì những hạn chế nêu trên của việc thực hiện chính sách phát triển du lịch

tỉnh Phú Thọ mà có tác động kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian qua như sau:

Về mặt kinh tế: lượng khách du lịch đến Phú Thọ hiện tại chủ yếu lưu trú

ngắn ngày và chủ yếu là khách nội địa nên khả năng đóng góp cho GDP của tỉnh

chưa nhiều so với tiềm năng vốn có và kỳ vọng của lãnh đạo tỉnh.

Việc khai thác chưa tuân thủ theo quy định gây lãng phí tài nguyên và

thiệt hại về kinh tế đối với địa phương, ví dụ như khu nước khoáng Thanh Thủy.

Về mặt xã hội: việc chưa quản lý chặt chẽ các điểm du lịch đã làm cho

một số đối tượng hoạt động kinh doanh du lịch hành vi phản cảm, có hiện tượng

chèn ép du khách ở một số điểm du lịch. Sự phát triển quá nóng ở một số điểm

du lịch khi lượng du khách động trong bối cảnh điều kiện cung ứng du lịch

không đảm bảo nên đã xảy ra hiện tượng chen lấn, xô đẩy, xô bồ, đặc biệt là

những khu vực du lịch tâm linh. Chẳng hạn, như khu du lịch Đền Hùng. Đây là

khu du lịch, trong những năm gần đây, thu hút được một lượng lớn du khách đến

tham quan, du lịch, vừa mong muốn đáp ứng nhu cầu tham quan, vãn cảnh; vừa

mong muốn thỏa mãn nhu cầu tâm linh. Điều này, trong chừng mực nhất định,

lại có tác động ngược đến việc thu hút khách du lịch, có thể gây ra hiện tượng du

khách du lịch không muốn quay trở lại du lịch nữa.

Vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên cũng bắt đầu xảy ra ở những tụ điểm

du lịch, khi cả nhà quản lý, nhà kinh doanh và du khách không tuân thủ những

nội quy, quy chế về bảo vệ môi trường tự nhiên. Môi trường xã hội cũng bị ảnh

hưởng ít nhiều, đặc biệt là tầng lớp trẻ khi có một bộ phận thanh thiếu niên trong

51

tiếp xúc, hoạt động du lịch, có hiện tượng quay lưng lại với giá trị truyền thống

tốt đẹp của địa phương. Một số hoạt động văn hóa truyền thống bị biến dạng.

Một số di sản văn hóa vật thể bị xâm hại, hỏng.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Thứ nhất, sự suy thoái kinh tế trên thế giới tác động đến đối tượng đi du lịch,

đến khả năng chi trả của đối tượng này ở các điểm du lịch nên dẫn đến một số nguồn

thu chưa đảm bảo được mục tiêu đề ra.

Thứ hai, việc chạy theo lợi nhuận trước mắt của một số người liên quan đến

hoạt động du lịch, như một số nhà hàng kinh doanh, một số công ty lữ hành du lịch và

kể cả một bộ phận người dân, nên các đối tượng này đã không tuân thủ theo quy định,

các chủ trương của Đảng, Nhà nước, chính quyền tỉnh trong phát triển du lịch, như

chèn ép khách, chưa chú trọng đến xử lý các vấn đề liên quan đến môi trường (thu dọn

rác, hệ thống xử lý nước thải...), nâng giá dịch vụ vô lý, đầu tư cơ sở hạ tầng chưa tốt –

tất cả những điều đó ảnh hưởng đến chất lượng, dịch vụ du lịch; ảnh hưởng đến môi

trường du lịch và thu hút khách du lịch; ảnh hưởng đến việc đạt được mục tiêu đề ra.

Thứ ba, Phú Thọ là tỉnh có nền kinh tế chưa phát triển mạnh, một số khu vực

còn nghèo đói, do đó, việc đầu tư cho phát triển du lịch còn có hạn chế nhất định, chưa

xây dựng được mảng du lịch ở phân khúc cao cấp, xa xỉ. Đặc biệt, trong những năm

gần đây, dưới ảnh hưởng của sự phát triển chậm về kinh tế, thì ngân sách đầu tư cho

du lịch bị cắt giảm; bản thân các doanh nghiệp cũng hạn chế đầu tư vào lĩnh vực

này dẫn đến việc một số mục tiêu chưa đạt được như kỳ vọng.

Thứ tư, trong thực hiện chính sách phát triển du lịch thì cần có sự vào

cuộc đồng bộ, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, địa phương và doanh

nghiệp; song sự phối hợp giữa các bên liên quan trong phát triển du lịch ở tỉnh

Phú Thọ chưa chặt chẽ, thường xuyên.

Thứ năm, vai trò của khối doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp du lịch

cũng như của cộng đồng trong thực hiện thúc đẩy các hoạt động phát triển du lịch

Phú Thọ còn hạn chế nhất định: về nhận thức, về nguồn vốn, cách thức tiếp cận với

52

sự đa dạng các kiểu loại du lịch, kiểu loại khách; về công nghệ thông tin,...

Thứ sáu, đội ngũ cán bộ làm công tác du lịch và đội ngũ nhân lực du lịch

phát triển chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, như Nghị quyết số 08-NQ/TW nhận

định: nhân lực và kinh nghiệm quản lý còn yếu [5,tr.1]. Với tỉnh Phú Thọ, đội

ngũ nhân lực còn thiếu về số lượng; chất lượng chưa đảm bảo ở một số nội dung

như trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp với khách du lịch, các kỹ năng mềm

53

khác,...

Tiểu kết Chương 2

Nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát triển

du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, với vị trí địa lý, khí hậu cùng với những điều

kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi khác, trong những năm qua, công tác này của tỉnh

đạt được những thành công nhất định. Về cơ bản, các công tác xây dựng kế

hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch; công tác phổ biến tuyên

truyền; phân công, phối hợp thực hiện; duy trì; điều chỉnh; kiểm tra giám sát...

việc thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ của các bên liên quan,

như Đảng ủy, chính quyền các cấp; các ban ngành, đoàn thể; các cơ sở giáo dục,

đào tạo; các cơ sở kinh doanh và người dân,... quan tâm và thực hiện tương đối

tốt. Nhờ đó, các địa danh, các khu di tích lịch sử - văn hóa, các di sản văn hóa,...

như bưởi Đoan Hùng, Đền Hùng, chè Thanh Sơn, hát Xoan,... đã được quảng bá,

thu hút được một lượng lớn khách du lịch; đem lại những lợi ích thiết thực về

kinh tế, xã hội cho Phú Thọ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác này còn có hạn

chế nhất định. Đó là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng một số

khu du lịch bị quá tải, một số di sản văn hóa bị tàn phá, môi trường bị ô nhiễm.

Với những lý do vậy, cần thiết có một giải pháp tổng thể nhằm nâng cao hơn nữa

54

hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ hiện nay.

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

3.1. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện

chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

3.1.1. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch

- Cùng với việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nói chung, các cơ

quan, đơn vị liên quan trực tiếp đến hoạt động du lịch cũng cần đẩy mạnh cải

cách hành chính. Theo đó, cần hoàn thiện bộ máy các cơ quan quản lý liên quan

đến phát triển du lịch, xác định vị trí việc làm cho các bộ phận chuyên môn về

du lịch, như Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng với các Phòng chức năng liên

quan. Ở cấp huyện và cấp xã, cũng cần bổ sung nhân sự phụ trách du lịch. Việc

bổ sung này có thể là linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của từng khu vực: ở

những khu vực có nhiều điểm du lịch, lượng du khách nhiều thì có thể bố trí

nhân sự nhiều hơn ở những nơi ít điểm du lịch. Bên cạnh đó, Trung tâm xúc tiến

du lịch, Ban quản lý các khu du lịch cũng cần phải được kiện toàn cả về nhân sự

lẫn cơ cấu tổ chức, đảm bảo tinh gọn nhưng hiệu quả.

- Có thể thấy rằng, trong thực thi chính sách, thì sự phối hợp giữa các bên

liên quan có vai trò quan trọng nhằm đạt mục tiêu mong muốn. Bởi trên thực tế,

cùng một chính sách sẽ có nhiều cơ quan thuộc các lĩnh ực khác nhau tham gia

[19,tr.27]. Với tư cách là một lĩnh vực trong xã hội, thực hiện chính sách phát

triển du lịch có quan hệ với nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội; do đó, cần

tăng cường hơn nữa sự phối hợp liên ngành giữa cơ quan quản lý chuyên ngành

về du lịch với các cơ quan chức năng quản lý các lĩnh vực khác (như Sở Tài

nguyên và Môi trường, Sở Công Thương, Sở kế hoạch và đầu tư,…) trong thực

55

hiện chính sách phát triển du lịch của tỉnh, đảm bảo vai trò tập trung, thống nhất

quản lý nhà nước của UBND tỉnh, tạo sự kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp,

ngành, lĩnh vực với ngành du lịch để thực hiện các định hướng, mục tiêu, giải

pháp thực hiện chính sách phát triển du lịch một cách có hiệu quả. Trong đó, đặc

biệt lưu ý sự thống nhất trong xây dựng quy hoạch, xây dựng các chính sách phát

triển du lịch, trong tổ chức sử dụng, phát huy hiệu quả và bảo tồn, bảo vệ tài

nguyên du lịch.

- Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch, đặc

biệt là đội ngũ quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch, đáp ứng yêu cầu phát

triển du lịch trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là đội ngũ xây dựng và thực thi chính

sách, đội ngũ nhân lực làm công tác kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực du lịch.

3.1.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả các công cụ quản lý của nhà nước

trong hoạt động du lịch

- Trong việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, cần

phải thực hiện theo quan điểm phát triển du lịch bền vững. Phát triển du lịch bền

vững là sự “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời

các yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các

chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu

cầu về du lịch trong tương lai” [18]. Trên cơ sở các tiêu chí đánh giá phát triển

du lịch bền vững, tỉnh cần có chính sách nhằm thực hiện tốt các tiêu chí trên cả

ba nội dung kinh tế, xã hội, môi trường và phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể

của địa phương. Đây là căn cứ quan trọng để hoàn thiện quy hoạch và xây dựng

các chính sách hợp lý, khả thi đối với phát triển ngành du lịch ở tỉnh.

- Nâng cao chất lượng công tác xây dựng quy hoạch; tổ chức quản lý

nghiêm ngặt và thực hiện đúng nội dung quy hoạch:

Có thể thấy rằng, mỗi thời kỳ phát triển đều có những vấn đề mang tính

dấu ấn lịch sử của thời kỳ đó [13,tr.19]. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân, có

thể trong quá trình thực thi chính sách phát triển du lịch, còn một số chính sách

56

đã hết hiệu lực, một số chính sách trong giai đoạn hiện nay đã tỏ ra không phù

hợp như đã trình bày ở chương 2, vì vậy, cần thiết rà soát một cách tổng thể và

mang tính hệ thống các quy hoạch du lịch đang còn hiệu lực, tiến hành sơ kết

việc thực hiện quy hoạch theo giai đoạn, phân tích, đánh giá cụ thể chất lượng,

tính bền vững, tính đồng bộ của mỗi chính sách; trên cơ sở đó đánh giá khả

năng tiếp tục thực hiện hoặc điều chỉnh những nội dung, mục tiêu không còn phù

hợp, xây dựng mới các chính sách cần thiết làm cơ sở cho sự phát triển du lịch.

Việc điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cần dựa trên những yêu cầu khác quan, như

sự phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh. Theo nghĩa đó, trong quá trình bổ sung,

điều chỉnh chính sách, cần tránh chủ quan duy ý chí của cơ quan quản lý du lịch,

hay do lợi ích nhóm chi phối.

Thực tế cho thấy, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Phú Thọ giai đoạn

2011 -2020, định hướng đến năm 2030 tuy cơ bản vẫn phù hợp; song một số nội

dung cần phải được điều chỉnh cho phù hợp thực tế mới. Theo báo cáo, một số

quy hoạch du lịch cụ thể như quy hoạch chung khu du lịch đầm Ao Châu - Hạ

Hòa, quy hoạch khu đô thị du lịch sinh thái nghỉ dưỡng thể thao Tam Nông đã

bộc lộ bất cập cần được rà soát để điều chỉnh; quy hoạch phát triển khu di tích

lịch sử Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ đến năm 2015 đã hết hiệu lực thời gian, cần có

quy hoạch mới để thực hiện; một số điểm tài nguyên du lịch tự nhiên đã được thể

hiện trong phân kỳ thu hút đầu tư của quy hoạch tổng thể, cần phải được tiến

hành quy hoạch cụ thể để mời gọi đầu tư đồng thời có giải pháp bảo vệ tài

nguyên thời gian tới như các điểm du lịch Ao Giời - Suối Tiên (Hạ Hòa), Đầm

Vân Hội (Hạ Hòa), Thác Cự Thắng, Ba Vực (Thanh Sơn).

Điều chỉnh, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy hoạch về du lịch cần tuân

thủ nghiêm túc các nguyên tắc, đáp ứng các yêu cầu về nội dung phát triển du

lịch bền vững, tuân thủ các quy định của pháp luật về quy hoạch cả trong quy

trình xây dựng cũng như trong việc xác định các nội dung cụ thể của quy hoạch.

Quy trình xây dựng quy hoạch phải được tiến hành chặt chẽ, lựa chọn

57

được đơn vị tư vấn có trách nhiệm, năng lực chuyên sâu cả về du lịch và phát

triển bền vững, có cách tiếp cận khoa học và bền vững về nội dung cần quy

hoạch. Các thông tin cần thiết phục vụ cho việc xây dựng, điều chỉnh, bổ sung

quy hoạch liên quan đến thực hiện chính sách phát triển du lịch cần phải được

thu thập đầy đủ (như đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch giai đoạn trước; các cơ

sở khoa học và thực tiễn để minh chứng cho sự cần thiết phải xây dựng mới hoặc

điều chỉnh, bổ sung quy hoạch các thông tin dự báo tác động đến nội dung của quy

hoạch; các thông tin liên quan khác như kết quả phát triển du lịch của quốc gia, khu

vực, của các địa phương có mối quan hệ gắn bó trong phát triển du lịch của tỉnh).

Chú trọng chỉ đạo để nâng cao chất lượng dự báo, đảm bảo được sự đầy đủ, chính

xác, khách quan, đồng bộ, thống nhất và cập nhật kịp thời các thông tin đầu vào. Có

sự tham gia trách nhiệm của các ngành, cấp, các chuyên gia về những lĩnh vực liên

quan trong quá trình xây dựng, điều chỉnh bổ sung quy hoạch.

Trong quá trình xây dựng, điều chỉnh quy hoạch, tỉnh cần phát huy được

vai trò trách nhiệm của xã hội, nhất là vai trò và sự tham gia của cộng đồng địa

phương vào nội dung của quy hoạch, đảm bảo tính dân chủ (thông qua việc khảo

sát, lấy ý kiến về nội dung dự thảo quy hoạch trên phương tiện thông tin đại

chúng của tỉnh, qua các hội nghị, gửi phiếu lấy ý kiến tham vấn từ các chuyên

gia, từ cộng đồng...). Trong quá trình này, Phú Thọ và các tỉnh trong khu vực,

nhất là các tỉnh liền kề cũng cần có sự trao đổi để tạo nên sự thống nhất trong

phát triển du lịch, đảm bảo các bên liên quan đều đạt được lợi ích mong muốn và

không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung. Đặc biệt, cần lưu ý đến việc sử dụng

những tài nguyên tự nhiên ở khu vực giáp ranh, tránh xung đột lợi ích.

Việc thực thi chính sách phát triển du lịch của Tỉnh cần có sự thống nhất,

đồng bộ trong hệ thống quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh; đặc

biệt là các vấn đề xóa đói giảm nghèo, đảm bảo môi trường trong sạch; bảo tồn

và phát huy di sản văn hóa của tỉnh. Quá trình này cũng cần phải có sự thống

nhất và sự phù hợp với Chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt

58

Nam, các quy hoạch phát triển du lịch vùng, tỉnh Phú Thọ trong cùng giai đoạn.

Các quy hoạch và triển khai cần phải được công khai và đồng bộ nội dung

các quy hoạch đến các ngành, các cấp; quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy

hoạch, đảm bảo tiến độ, lộ trình thực hiện, kiên định và kiên trì các mục tiêu,

định hướng phát triển nhất là định hướng tổ chức không gian du lịch và công tác

quản lý tài nguyên du lịch, quản lý đất đai ở địa bàn có tài nguyên du lịch, quản

lý các dự án đầu tư trong các ngành, lĩnh vực khác có liên quan trong khu vực

quy hoạch du lịch.

Xây dựng các chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật phù

hợp, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển du lịch. Theo đó, (1) cần có các

chính sách ưu đãi đất đai, vay vốn với lãi suất thấp, thuế, phí, lệ phí… nhằm

khuyến khích, thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, các

khu du lịch; đầu tư vào phát triển nguồn năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển của

ngành; xúc tiến, quảng bá du lịch cho tỉnh. (2) Quản lý, bảo vệ tài nguyên du

lịch, đặc biệt là các tài nguyên trong các khu du lịch sinh thái nhân văn, các khu

di tích lịch sử văn hóa; các di sản văn hóa phi vật thể; cần ghi rõ các chế tài xử

phạt khi có những vi phạm đối với từng cá nhân, từng vụ việc cụ thể. (3) Nâng

cao ý thức trách nhiệm của các bên liên quan đến hoạt động du lịch, như các cơ

sở kinh doanh du lịch, khách du lịch và người dân địa phương; thu hút sự tham

gia của cộng đồng cho phát triển kinh tế du lịch, bảo vệ tài nguyên, bảo tồn văn

hoá; (4) Khuyến khích, hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ thân thiện với môi

trường, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng trong hoạt động du lịch.

Cùng với đó là rà soát, nghiên cứu, điều chỉnh các chính sách, quy định

không còn phù hợp, bổ sung các chính sách và quy định mới đáp ứng yêu cầu

phát triển du lịch bền vững

- Tổ chức thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật và các

chính sách liên quan đến du lịch của nhà nước, của tỉnh đến nhà đầu tư và mọi

người dân trên địa bàn. Tăng cường hỗ trợ thông tin về du lịch cho các nhà đầu

59

tư, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong tỉnh. Thực hiện tốt chức năng

quản lý nhà nước trong các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến đầu tư,

quảng bá du lịch trong nước và quốc tế.

- Quản lý chặt chẽ việc cấp phép và hoạt động của các cơ sở kinh doanh

du lịch, việc tổ chức và tham gia các hoạt động du lịch, các sự kiện văn hoá, du

lịch của tỉnh. Tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất là về môi trường đầu tư, cơ hội

tiếp cận nguồn lực, thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư, kinh doanh du lịch

trên địa bàn.

Tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra việc sử dụng, bảo vệ tài

nguyên, bảo vệ môi trường du lịch; kiểm tra việc thực hiện các nội dung quy

hoạch, các cam kết về tiến độ đầu tư, sử dụng đất, bảo vệ tài nguyên, môi trường

và việc thực hiện các quy định pháp luật khác của các nhà đầu tư. Kiên quyết xử

lý các dự án du lịch có vi phạm pháp luật trong sử dụng đất, tài nguyên du lịch,

trong các hoạt động kinh doanh, vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường theo

đúng pháp luật.

3.2. Tăng cường nguồn lực, thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh phát triển

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ phát triển du lịch

Để có thể thực hiện thành công chính sách phát triển du lịch, việc xây

dựng chính sách phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ cũng rất quan trọng. Theo đó,

trong những năm qua, các chính sách và thực thi chính sách về cơ sở hạ tầng liên

quan đến lĩnh vực du lịch cũng đã được chú ý, như việc xây dựng các tuyến

đường liên thôn, xã, liên tỉnh; các tuyến đường quốc lộ; các tuyến đường dẫn đến

các khu du lịch,… Tuy nhiên, hiệu quả chưa được như mong muốn. Do đó,

trong những năm tới cần chú trọng đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao thông,

điện, nước, bưu chính viễn thông. Các hạ tầng liên quan đến các ngành, lĩnh vực

phát triển du lịch như ngân hàng, tài chính, tín dụng, y tế, giáo dục cũng cần phải

được coi trọng. Trong đó, đặc biệt lưu ý đế lĩnh vực giao thông, điện, cấp thoát

nước và xử lý môi trường - đây là những lĩnh vực có ý nghĩa nền tảng cho sự

60

phát triển của du lịch nói riêng cũng như của tất cả các ngành khác trong tỉnh nói

chung. Do ý nghĩa tổng thể này và do nhu cầu vốn đầu tư các kết cấu hạ tầng rất

lớn, hiệu quả kinh tế - xã hội lâu dài cao nhưng hiệu quả kinh tế trước mắt không

hấp dẫn các nhà đầu tư ngoài nhà nước bỏ vốn, nên đòi hỏi phải có sự đầu tư tập

trung từ nguồn ngân sách nhà nước là chủ yếu. Với nguồn vốn còn rất khiêm tốn,

để huy động được các nguồn đầu tư tập trung cho xây dựng kết cấu hạ tầng, tỉnh

cần thực hiện các giải pháp tăng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh, duy trì,

nâng cao tốc độ tăng trưởng và có các biện pháp tăng cường nguồn thu, khuyến

khích tiết kiệm chi thường xuyên, ưu tiên chi cho đầu tư phát triển; đẩy mạnh áp

dụng hình thức đấu giá quyền sử dụng đất kinh doanh có thời hạn ở các vị trí đất

có lợi thế thương mại lớn thay cho hình thức cho thuê đất theo giá quy định, đấu

giá quyền thăm dò, khai thác khoáng sản thay cho việc giao khai thác có thu thuế

để tăng cường nguồn thu cho phát triển.

Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, kêu gọi, tranh thủ các nguồn đầu tư

vào các công trình kết cấu hạ tầng lớn, công trình du lịch trọng điểm Quốc gia

(như Đền Hùng, khu du lịch Xuân Sơn); sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, hỗ

trợ của Trung ương trong quá trình triển khai thực hiện các dự án; tích cực phối

hợp lồng ghép nguồn lực cho các dự án đầu tư có tác dụng đa ngành trong đó có

ý nghĩa về du lịch để thu hút nguồn lực của các bộ ngành liên quan (như các dự

án thủy lợi kết hợp du lịch, làng nghề kết hợp du lịch...). Lựa chọn các hình thức

đầu tư phù hợp, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển

một số dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có khả năng thu hồi vốn nhanh với

các hình thức đầu tư phù hợp như BOT, PPP, BT...

Bổ sung các cơ chế, chính sách ưu đãi mạnh mẽ hơn để thu hút các nguồn

vốn đầu tư phát triển cơ sở vật chất ngành du lịch, đầu tư vào các dự án du lịch

trọng điểm, như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đề ra: “Có cơ

chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên

tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Tạo thuận lợi cho các

61

doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực để phát

triển” [6,tr.130]. Theo đó, cần xây dựng Quy chế ưu đãi đầu tư tại các khu, điểm

du lịch; tạo điều kiện thông thoáng hơn về mặt thủ tục hành chính, cấp phép

thành lập doanh nghiệp, cấp phép kinh doanh, đầu tư, tiếp tục hỗ trợ mạnh hơn

các chi phí cho việc lập hồ sơ và thực hiện các thủ tục hành chính, đẩy nhanh

tiến độ giải phóng mặt bằng; cung cấp đầy đủ dịch vụ hạ tầng cho nhà đầu tư. Dĩ

nhiên, trong quá trình này, tỉnh cũng cần phải đánh giá đúng năng lực của nhà

đầu tư, lựa chọn được các nhà đầu tư thực sự có năng lực và có chiến lược đầu tư

nghiêm túc để đảm bảo tính khả thi, hiệu quả của các dự án.

Đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho du lịch. Theo đó, thu hút nguồn lực

từ dân cư, cộng đồng địa phương cho đầu tư phát triển du lịch, bao gồm cả nhân

lực, vật lực và tài lực. Trong quá trình này, tỉnh cũng cần xác định rõ danh mục

trọng điểm đầu tư hạ tầng và cơ sở vật chất, dự án du lịch để tập trung đầu tư,

tránh dàn trải. Ưu tiên cho các dự án đầu tư hạ tầng du lịch ở các địa bàn có tiềm

năng phát triển thành khu du lịch quốc gia, khu du lịch địa phương, địa bàn trọng

điểm phát triển du lịch. tạo điều kiện cho việc triển khai thực hiện các dự án phát

triển giao thông tạo kết nối giữa trung tâm kinh tế, du lịch của tỉnh với mạng lưới

giao thông quốc gia và liên kết giữa các vùng kinh tế, du lịch: Quốc lộ 32C,

đường Đền Hùng - Xuân Sơn, đường Hồ Chí Minh, các cầu qua sông Hồng,

sông Lô, sông Đà; nâng cấp Quốc lộ 2, đường sông Việt Trì - Tuyên Quang; các

công trình thuộc quần thể khu di tích lịch sử Đền Hùng, các điểm nhấn văn hóa,

kiến trúc thuộc thành phố lễ hội về với cội nguồn dân tộc Việt Trì.

- Đối với hệ thống cơ sở vật chất vui chơi giải trí cần ưu tiên đầu tư xây

dựng các loại hình giải trí tổng hợp hiện đại, các hoạt động thể thao cảm giác

mạnh, dã ngoại tại các trung tâm du lịch lớn, các khu vực đô thị kết hợp với việc

đầu tư khai thác các trò chơi dân gian trong các lễ hội của các vùng.

- Đầu tư hệ thống thu gom nước thải, rác thải ở các khu, điểm du lịch, kết

62

nối đến các các điểm tập kết, xử lý chất thải tập trung đã được quy hoạch.

Đồng thời với việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư hạ tầng và công

trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, cần tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các thành

phần kinh tế ngoài nhà nước, từ cộng đồng dân cư cho các dự án đầu tư cơ sở

lưu trú, ăn uống cao cấp, trung tâm thương mại, mua sắm, dự án xây dựng các

công trình vui chơi giải trí, dự án đầu tư tại các khu, điểm du lịch đã quy hoạch.

Việc thu hút các nguồn vốn từ dân cư và tư nhân cho xây dựng hạ tầng theo

hướng: công trình hạ tầng chính, then chốt, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và thời gian

thu hồi vốn chậm do nhà nước đầu tư, các hợp phần hạ tầng nhỏ gắn với công

trình chính, mức đầu tư ít, sau đầu tư có thể khai thác để thu hồi vốn nhanh và

trực tiếp, phù hợp với điều kiện của các nhà đầu tư tư nhân hoặc cộng đồng dân

cư thì khuyến khích cộng đồng tham gia, góp vốn đầu tư.

Đẩy mạnh thu hút đầu tư du lịch phải gắn với việc rà soát, đánh giá, thẩm

định năng lực của các nhà đầu tư, chất lượng dự án đầu tư để đảm bảo tính khả

thi của dự án. Tạo môi trường, khuyến khích, thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ

trợ đầu tư đồng thời phải đôn đốc, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các dự

án du lịch, kiên quyết thu hồi các dự án chậm tiến độ quá thời gian pháp luật cho

phép hoặc dự án vi phạm cam kết, vi phạm quy định pháp luật, để đảm bảo hiệu

quả thu hút đầu tư, tránh lãng phí các nguồn lực, nhất là đất đai và nguồn tài

nguyên du lịch.

Cùng với đầu tư nguồn vốn cho xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện các

dự án phát triển du lịch, cần chú trọng dành nguồn đầu tư thoả đáng cho công tác

đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến, quảng bá du lịch; quản lý và sử dụng tốt các

nội dung đầu tư này để đảm bảo hiệu quả đầu tư.

3.3. Tăng cường bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch có vai trò quan trọng trong việc thu hút khách du lịch.

Tài nguyên nói chung được hiểu là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc văn hóa để

tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, sản phẩm phục con người [15,tr.277]. Sự hấp

63

dẫn du khách cũng phụ thuộc tương đối nhiều vào sự đa dạng, phong phú, mới lạ

của hai loại tài nguyên này và phụ thuộc vào môi trường mà hai tài tuyên này

thuộc về. Do đó, trên cơ sở danh mục tài nguyên du lịch đã được xác định, tiếp

tục thường xuyên rà soát, đánh giá, kiểm kê thực trạng, xây dựng hệ thống cơ sở

dữ liệu đầy đủ về tài nguyên du lịch của tỉnh (bao gồm cả tài nguyên du lịch tự

nhiên và tài nguyên du lịch)

Xây dựng quy hoạch sử dụng, bảo vệ hệ thống tài nguyên trên địa bàn

tỉnh, trong đó cần đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất về quan điểm sử dụng và bảo

vệ của các ngành, các địa phương dưới sự quản lý tập trung của UBND tỉnh đối

với những tài nguyên du lịch. Các tài nguyên dễ bị tổn thương, ảnh hưởng do tác

động của các hoạt động du lịch và các hoạt động kinh tế khác như nông lâm

nghiệp, thủy sản, khai thác khoáng sản, xây dựng cần phải được bảo vệ, quản lý

chặt chẽ – đó là các khu dụ lịch gắn với cảnh quan thiên nhiên, hệ sinh thái rừng

núi,... Quản lý chặt chẽ những hoạt động du lịch và hoạt động kinh tế xã hội

khác có nguy cơ gây ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch; kiểm tra, kiểm soát

thường xuyên việc sử dụng tài nguyên, tránh sử dụng quá mức gây nguy cơ cạn

kiệt, suy giảm hoặc xuống cấp nghiêm trọng tài nguyên.

- Thường xuyên theo dõi biến động của tài nguyên để có những giải pháp

phối hợp kịp thời giữa cơ quan quản lý chuyên ngành về du lịch với các cơ quan,

ngành chức năng liên quan và các địa phương trong tỉnh trong việc khắc phục sự

cố, tình trạng suy thoái, xuống cấp của tài nguyên du lịch. Các khu vực tài

nguyên quý hiếm, các khu vực có nguy cơ suy thoái hoặc có khả năng chịu ảnh

hưởng cao của các tác động xấu do hoạt động khai thác của con người đều phải

được xác định, khoanh vùng dưới sự kiểm soát chặt chẽ để có biện pháp nghiêm

ngặt và giải pháp xử lý phù hợp nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường như khu

vực nước khoáng nóng Thanh Thuỷ; vườn Quốc gia Xuân Sơn, đầm Ao Châu…

Trong đó, ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến việc bảo vệ môi trường thiên nhiên

trong sạch. Nếu môi trường du lịch không vụ đời sống an toàn, không vệ sinh, bị

64

ô nhiễm thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến du lịch. Không một du khách nào

muốn đến du lịch một nơi mà môi trường xã hội không đảm bảo, môi trường

sinh thái bị ô nhiễm [37,tr.197].

- Xây dựng chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân

kinh doanh trong lĩnh vực du lịch trong việc huy động, thu hút vốn đầu tư vào

các hoạt động bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch. Theo đó, các dự án đầu tư phát

triển du lịch có những cam kết cụ thể về bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên

du lịch sẽ được khuyến khích và có cơ chế đặc thù. Trong bối cảnh hiện nay, tỉnh

cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh du lịch

áp dụng công nghệ ít tiêu thụ năng lượng và thân thiện với môi trường trong đầu

tư và hoạt động (như sử dụng các giải pháp thiết kế nhà hàng, khách sạn phù hợp

để tránh tiêu tốn năng lượng khi vận hành; sử dụng hệ thống pin mặt trời để cung

cấp nước nóng, sử dụng các vật liệu thân thiện với môi trường.).

- Đối với các tài nguyên du lịch nhân văn, cần nghiên cứu, xác định được giới

hạn áp lực của hoạt động du lịch lên tài nguyên để có biện pháp duy trì áp lực và

cường độ sử dụng trong giới hạn an toàn cho tài nguyên. Thực hiện các biện pháp cụ

thể như xây dựng quy chế quản lý khách du lịch, nội quy lễ hội, các bộ quy tắc ứng

xử..., tuyên truyền để du khách tôn trọng và có thái độ ứng xử văn hoá với các tài

nguyên du lịch nhân văn (tôn trọng di sản, tôn trọng truyền thống văn hoá, chuẩn

mực văn hoá, đạo đức của cộng đồng địa phương nơi có hoạt động du lịch); đồng

thời nâng cao nhận thức, ý thức giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống, môi trường

xã hội truyền thống của cộng đồng khi tham gia hoạt động du lịch.

Trong quá trình này, cần lưu ý đến các tài nguyên, sản phẩm du lịch đặc

thù của Phú Thọ. Sản phẩm đặc thù “là những sản phẩm có được yếu tố hấp

dẫn, độc đáo/duy nhất, nguyên bản và đại diện về tài nguyên du lịch (tự nhiên và

nhân văn) cho một lãnh thổ/điểm đến du lịch; với những dịch vụ không chỉ làm

thỏa mãn nhu cầu/mong đợi của du khách mà còn tạo được ấn tượng bởi tính độc

đáo và sáng tạo” [37,tr.215-216]. Với Phú Thọ hiện nay, các khu di tích Đền

65

Hùng, Gò Mun…, hay du lịch tâm linh cần phải được chú trọng đầu tư.

- Thực hiện nghiêm quy định về khảo sát, đánh giá tác động môi trường

khi đầu tư dự án du lịch. Khuyến khích, tăng cường quảng bá cho các loại hình

du lịch thân thiện với môi trường. Hoàn thiện hệ thống nội quy, quy chế, quy

định về bảo vệ môi trường tại các khu, điểm du lịch. Tổ chức cho các cơ sở kinh

doanh học tập và ký cam kết thực hiện quy chế. Đôn đốc, giám sát thường xuyên

các cơ sở thực hiện đầy đủ các quy định, quy chế bảo vệ môi trường trong các

hoạt động du lịch.

- Tỉnh cần tăng cường đầu tư cho lực lượng bảo vệ môi trường, vệ sinh tại

các khu vực du lịch. Chú trọng xây dựng hạ tầng xử lý chất thải, nước thải ở các

khu, điểm du lịch, các cơ sở lưu trú và ăn uống phục vụ du lịch. Kiểm soát chặt

chẽ tác động của các hoạt động kinh tế trong những lĩnh vực khác (xây dựng,

giao thông, công nghiệp, nông nghiệp) đến môi trường tại các khu, điểm du lịch.

Kiểm tra thường xuyên các hoạt động kinh doanh du lịch; xử lý nghiêm đối với

các doanh nghiệp, cơ sở gây ô nhiễm môi trường khi tham gia hoạt động du lịch

gây ô nhiễm môi trường du lịch.

- Tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên, môi trường du

lịch.. Lồng ghép nội dung giáo dục về môi trường trong chương trình của hệ

thống các cấp độ đào tạo du lịch cũng như đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục qua

phương tiện thông tin đại chúng. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các

cấp, các đối tượng tham gia kinh doanh lịch, khách du lịch, cộng đồng dân cư

trong nỗ lực chung để đảm bảo môi trường cho phát triển du lịch.

- Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, xây dựng các sản phẩm du lịch phù

hợp với nhu cầu và thị hiếu của du khách

3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển

du lịch

- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực du lịch cả về số

lượng, chất lượng, cơ cấu đào tạo. Trên cơ sở dự báo về lượng khách du lịch, xây

66

dựng và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành du

lịch phù hợp với yêu cầu phát triển và các mục tiêu, dự báo, định hướng phát

triển du lịch.

- Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng nhân lực đầu vào cho bộ máy

hoạt động liên quan đến du lịch, cả nhân lực quản lý và nhân lực du lịch nói

chung, phù hợp các quy định về tiêu chuẩn chất lượng nhân sự tương ứng với

mỗi vị trí công việc và quy trình tuyển dụng. Các chuyên gia giỏi, lao động có

trình độ tay nghề cao cần được ưu đãi tuyển dụng; trong đó đặc biệt ưu tiên vào

lĩnh vực, công việc mà nguồn nhân lực du lịch ở tỉnh còn chưa mạnh, như quản

trị kinh doanh khách sạn cao cấp, lữ hành, quản lý các khu du lịch, hợp tác

quảng bá du lịch ra với thị trường nước ngoài.

- Với các nhân lực du lịch địa phương, định kỳ nên tổ chức các hoạt động

đào tạo, đào tạo lại đáp ứng yêu cầu phát triển ngành, của sự phát triển ngày

càng gia tăng cả về chất lượng lẫn số lượng. Trong quá trình này cần chú ý với

các đối tượng sau: thứ nhất, là các chuyên gia trong từng lĩnh vực chuyên ngành

hẹp của du lịch, như quản lý, nghệ nhân,…; thứ hai, là với đội ngũ cán bộ, công

chức quản lý nhà nước các cấp về du lịch: với đội ngũ này cần nâng cao trình độ

xây dựng và thực thi chính sách, trang bị những kiến thức cần thiết liên quan đến

lĩnh vực du lịch; thứ ba, đối với đội ngũ nhân lực làm việc trực tiếp với du khách

thì cần nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, tính chuyên nghiệp, trình độ ngoại ngữ,

văn hóa ứng xử .

- Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách trong tuyển dụng, đào tạo và

đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chất lượng, kỹ năng công việc cho đội ngũ

chuyên gia, cán bộ, lao động du lịch, chính sách khuyến khích, xã hội hóa công

tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Tăng cường năng lực đào tạo bồi dưỡng

của các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh (trường đại học Hùng

Vương, cao đẳng Văn hoá và Du lịch, cao đẳng nghề Phú Thọ), phát triển và

nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, hỗ trợ tăng cường cơ sở vật chất và điều

67

kiện giảng dạy; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo lý thuyết và thực hành; mở rộng

hợp tác, liên kết đào tạo nguồn nhân lực du lịch với các trường, cơ sở, tổ chức

đào tạo trong nước và quốc tế có uy tín trong việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ

quản trị và kinh doanh du lịch; khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh các

sản phẩm, dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh (như các khách sạn, nhà hàng lớn, các

cơ sở kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí) thoả thuận và ký kết hợp đồng đào tạo

theo địa chỉ. Tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp thuộc các

thành phần kinh tế phối hợp, liên kết với các cơ sở đào tạo mở rộng các hình

thức đào tạo ngắn hạn, không tập trung, phục vụ nhu cầu vừa học vừa làm, nâng

cao trình độ tay nghề của người lao động.

Hỗ trợ giáo dục cộng đồng, mở các lớp tập huấn các kiến thức về du lịch

cho người dân tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch. Hỗ trợ đào tạo và

hướng dẫn phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ

làm du lịch; đào tạo tay nghề để khôi phục, phát triển nghề cổ truyền tạo điểm

tham quan du lịch và sản xuất hàng lưu niệm phục vụ du lịch.

3.5. Đa dạng hóa các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch, phát triển

thị trường

- Cần triển khai ngay việc xây dựng chiến lược, các chương trình, kế

hoạch dài hạn và hàng năm về xúc tiến, quảng bá du lịch; đẩy mạnh các nội dung

xúc tiến, quảng bá riêng của tỉnh đồng thời gắn với xúc tiến, quảng bá du lịch

khu vực và cả nước để tạo hiệu quả tổng hợp trong xúc tiến, quảng bá. Tăng

cường phối hợp với Bộ VH,TT&DL, với các cơ quan thông tin đại chúng ở

Trung ương và các tỉnh bạn, cơ quan thông tin đối ngoại, các hiệp hội, hội hữu

nghị, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài để quảng bá hình

ảnh của du lịch Phú Thọ trong nước và ra với thế giới. Tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ

hình ảnh Phú Thọ với ý nghĩa là vùng đất Tổ cội nguồn của dân tộc Việt Nam và

gắn với 2 di sản phi vật thể đại diện của nhân loại đã được vinh danh.

- Tăng cường cung cấp thông tin, hướng dẫn cho khách du lịch; đầu tư đổi

68

mới thiết kế, hình thức các ấn phẩm du lịch Phú Thọ như: Bản đồ du lịch, cẩm

nang du lịch, đĩa DVD, VCD, bản tin du lịch,... để tăng tính hấp dẫn và phong

phú; xây dựng hệ thống điểm hướng dẫn và cung cấp thông tin cho khách du lịch

ở những đầu mối giao thông quan trọng và đặc biệt là ở các khu điểm du lịch,

các trung tâm lữ hành. Phát triển các hoạt động E-Marketing, mở rộng nội dung

thông tin trên các Website của tỉnh, trên Website riêng của ngành du lịch Phú

Thọ, cập nhật đầy đủ các thông tin du lịch của tỉnh, hoàn chỉnh hơn các công cụ

tra cứu du lịch và xây dựng các ấn phẩm giới thiệu, quảng cáo điển tử trên

Website với giao diện và cách thức thể hiện hấp dẫn hơn; có quy định cụ thể,

khuyến khích, hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện để các dự án du lịch lớn, các khu,

điểm du lịch trọng tâm đều có Website riêng của mình, tạo sự liên kết giữa các

Website du lịch trong tỉnh và với các mạng xã hội, tận dụng quảng bá du lịch

trên các trang mạng xã hội. Đây là giải pháp phù hợp với xu thế của xã hội hiện

đại, tiện lợi để nhanh chóng đưa thông tin cập nhật về du lịch Phú Thọ đến với

các thị trường khách du lịch không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới.

- Thực hiện các chương trình thông tin tuyên truyền, quảng bá rộng rãi về

những sự kiện sẽ diễn ra hàng năm trên địa bàn tỉnh như lễ giỗ Tổ và các lễ hội

truyền thống, sự kiện văn hoá, thể thao… Tổ chức các chiến dịch xúc tiến, quảng bá

sự kiện, phát động thị trường theo chuyên đề; chủ động liên kết, mời gọi các đoàn

dã ngoại thực tế đến nghiên cứu điểm đến, giúp tỉnh quảng bá, kết nối sản phẩm du

lịch với các thị trường nguồn khách; mời gọi, khuyến khích và tạo điều kiện cho các

hoạt động sáng tạo nghệ thuật (sáng tác tác phẩm văn học, thơ, nhạc, nhiếp ảnh, làm

phim...) gắn với hình ảnh, bối cảnh hoặc kết hợp quảng bá về địa phương; đầu tư tổ

chức, đăng cai và tham gia các sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch, các hội nghị, hội

thảo du lịch trong nước và quốc tế để giới thiệu, quảng bá rộng rãi tiềm năng du lịch

địa phương, kích thích nhu cầu du lịch trong nước và quốc tế.

- Tổ chức thường xuyên các hoạt động tuyên truyền giáo dục nâng cao ý

thức và văn hóa phục vụ khách du lịch của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư;

phát động chiến dịch làm sạch môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm cho khách

69

du lịch...

- Đẩy mạnh các chương trình hợp tác, liên kết quảng bá, giới thiệu, xúc

tiến du lịch trong nước với các tỉnh trong vùng Thủ đô, vùng du lịch trung du

miền núi Bắc Bộ, mở rộng các chương trình hợp tác song phương với các tỉnh

bạn trong nước, với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Luông Nậm Thà (Lào), Nara

(Nhật Bản) và tìm thêm cơ hội liên kết hợp tác với một số địa phương, vùng lãnh

thổ tương đương cấp tỉnh ở các quốc gia khác. Thống nhất các nội dung hợp tác,

liên kết theo hướng cụ thể và thực chất hơn. Tiếp tục đầu tư quảng bá mạnh mẽ

cho thương hiệu du lịch về cội nguồn, hành trình du lịch tâm linh, du lịch di sản

với các di sản của nhân loại và thành phố lễ hội Việt Trì, các khu điểm du lịch

thuộc vùng nước khoáng nóng Thanh Thuỷ, khu du lịch vườn Quốc gia Xuân

Sơn, khu du lịch Đầm Ao Châu.

- Tăng cường đầu tư nguồn kinh phí tập trung cho công tác xúc tiến,

quảng bá; mở rộng xã hội hoá công tác quảng bá du lịch, khuyến khích động

viên các doanh nghiệp tích cực, chủ động hơn trong công tác quảng bá của

doanh nghiệp mình và góp phần quảng bá cho hình ảnh du lịch chung của tỉnh

đồng thời tập huấn, hướng dẫn, tuyên truyền giáo dục tính trách nhiệm, trung

thực trong hoạt động quảng bá; kiểm tra chặt chẽ các nội dung quảng bá, xử lý

nghiêm các vi phạm trong hoạt động quảng bá du lịch để đảm bảo uy tín của

thương hiệu du lịch Phú Thọ.

- Xác định đúng đắn các ưu tiên phát triển thị trường khách du lịch. Do

đặc thù tài nguyên du lịch riêng có, Phú Thọ cần chú trọng đến thị trường khách

du lịch nội địa và kiều bào Việt Nam trên thế giới. Trong các thị trường khách

quốc tế, tỉnh cần chú trọng đến thị trường Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Trung

Quốc, các nước Đông Nam Á, các nước Bắc Mỹ, một số nước châu Âu, nghiên

cứu khả năng tiếp cận và phát triển thị trường Trung Đông.

- Coi trọng phát triển thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần

kinh tế, mở rộng hợp tác phát triển du lịch với các địa phương bạn trong đó có

70

hợp tác kết nối tour du lịch liên tỉnh để tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên

du lịch, khai thác thị trường. Thực hiện các chính sách đơn giản hoá các thủ tục

xuất nhập cảnh thuộc thẩm quyền của địa phương; tăng cường đầu tư chiều sâu

cho du lịch, nâng cao chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm du lịch tương

xứng với hình ảnh được quảng bá.

- Củng cố, phát huy trách nhiệm và chất lượng hoạt động của Trung tâm xúc

tiến du lịch thuộc sở chuyên ngành để tham mưu thực hiện tốt các nội dung hoạt

động này. Về lâu dài cần thành lập các Văn phòng đại diện của tỉnh tại các trung

tâm du lịch lớn trong nước và hướng đến các thị trường khách quốc tế tiềm năng.

3.6. Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của các bên liên quan

trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

3.6.1. Phát huy vai trò, ý thức trách nhiệm của khách du lịch

Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ

tài nguyên du lịch, tuyên truyền về quyền gắn với trách nhiệm của khách du lịch

nhằm nâng cao ý thức tự giác của du khách về bảo vệ tài nguyên du lịch, bảo vệ môi

trường, ý thức tôn trọng cộng đồng, tôn trọng văn hóa bản địa. Hướng dẫn du khách

tự giác thực hiện các nội quy, quy chế, các bộ quy tắc ứng xử khi tham gia du lịch.

Bố trí thời gian và nội dung hợp lý trong các hành trình du lịch, các tour

du lịch để du khách thực sự được chủ động tham gia, trải nghiệm cùng cộng

đồng địa phương nơi có tài nguyên du lịch, từ đó tạo sự ghi nhận, chia sẻ, trân

trọng và ý thức cộng đồng trách nhiệm của khách du lịch trong bảo vệ tài

nguyên, môi trường. Tổ chức thường xuyên các hoạt động bảo vệ tài nguyên,

môi trường ở điểm đến du lịch và mời khách du lịch tham gia (như tổ chức trồng

cây và gắn biển tên cho khách tham gia, hướng dẫn khách cùng thử nghiệm các

kỹ năng đan lát, thêu dệt có thưởng bằng chính sản phẩm làm ra...). Thực hiện

việc bình chọn, ghi danh, trao quà lưu niệm cho các du khách có đóng góp tích

cực cho bảo vệ tài nguyên, môi trường trong hành trình du lịch, tổ chức các gói

du lịch giảm giá, khuyến mại gắn với trách nhiệm tiêu dùng các sản phẩm địa

71

phương, với mức độ hiểu biết của khách về văn hóa bản địa...

- Thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh trật tự, môi trường xã hội an

toàn cho khách du lịch ở điểm đến; đồng thời nhắc nhở, chấn chỉnh những du

khách vi phạm nội quy, quy định, ứng xử thiếu văn hóa bằng các biện pháp cần

thiết. Xử lý các trường hợp lợi dụng hoạt động du lịch để tổ chức, tham gia các

tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự, mất an toàn giao thông theo quy định của

pháp luật.

3.6.2. Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh

- Nâng cao ý thức cộng đồng trách nhiệm, nhận thức về kinh doanh du lịch

bền vững, văn hóa kinh doanh cho các cơ sở kinh doanh du lịch và người lao động

du lịch. Thực hiện tốt và đồng bộ các giải pháp ổn định giá cả, chăm sóc khách

hàng, khuyến mại phù hợp... để kích thích tăng nhu cầu tiêu dùng và giảm tính thời

vụ của du lịch, giảm áp lực lên tài nguyên du lịch, bảo đảm việc làm cho người lao

động du lịch. Hỗ trợ, ưu đãi đầu tư, kinh doanh đối với các cơ sở lựa chọn đầu tư

kinh doanh các nội dung mà tỉnh cần khuyến khích để đa dạng hóa sản phẩm và

tăng sức hút với khách; hỗ trợ nâng cao năng lực tổ chức, quản trị kinh doanh của

các cơ sở kinh doanh du lịch. Quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh, không để

xảy ra tình trạng bắt chẹt, lừa dối khách; phát hiện và xử lý nghiêm vi phạm. Phát

huy tốt vai trò của các hiệp hội du lịch, hội doanh nghiệp, các tổ chức bảo vệ khách

hàng, người tiêu dùng... để vừa bảo vệ và tạo sự cạnh tranh lành mạnh đồng thời

liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở kinh doanh du lịch, vừa bảo vệ tốt quyền

lợi khách du lịch, từ đó thu hút, tăng số lượng khách du lịch đến với tỉnh.

- Thực hiện các biện pháp quản lý tài chính đúng quy định, đảm bảo

nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ hoạt động kinh doanh du lịch. Bố trí đầu tư

trở lại thỏa đáng từ ngân sách cho các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường

du lịch và phát triển cộng đồng ở các khu, điểm có hoạt động kinh doanh du lịch.

Huy động sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch

cho các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường, góp phần giảm nghèo, phát

72

triển văn hóa xã hội, phát triển cộng đồng ở điểm đến du lịch.

3.6.3. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong thực hiện

chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Quan hệ giữa du khách và cộng đồng người dân địa phương ảnh hưởng

đến hoạt động du lịch. Mối quan hệ này tốt đẹp là một trong những yếu tố tạo ra

sự tham quan du lịch, đặc biệt là sự trở lại tham quan du lịch của du

khách[2,tr.151-160]. Do đó, việc phát huy vai trò, trách nhiệm của công đồng

trong thực hiện chính sách phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là rất quan

trọng. Để làm được điều đó, cần thiết:

- Có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ (bằng việc sử dụng các đòn

bẩy vật chất, hỗ trợ đào tạo, tập huấn…), tạo môi trường thuận lợi cho cộng đồng

tham gia đầu tư kinh doanh du lịch. Các nội dung kinh doanh du lịch khác nhau

được khuyến khích, hỗ trợ, tạo môi trường ở các mức độ khác nhau; thông qua

đó cơ quan quản lý huy động được sự tham gia tích cực của cộng đồng, đồng

thời điều tiết được sự phát triển du lịch của địa phương theo hướng bền vững,

tránh được sự phát triển không cân đối hoặc quá mức, quá tải trong việc sử dụng

tài nguyên, ảnh hưởng đến môi trường du lịch. Các lĩnh vực kinh doanh cần tăng

cường thu hút, khuyến khích cộng đồng tham gia đầu tư là: Đầu tư các dự án xây

dựng cơ sở lưu trú chất lượng cao, dự án xây dựng các khu vui chơi giải trí, hoạt

động lữ hành, các dịch vụ phục vụ hành trình du lịch nông thôn, du lịch cộng

đồng, du lịch làng nghề.

- Hướng dẫn, phát huy trí tuệ và khả năng của các cá nhân trong cộng

đồng trong việc phát triển đa dạng các loại hàng hoá, sáng tạo ra các dịch vụ

mới, tạo sự độc đáo trong phong cách phục vụ; khuyến khích sự tham gia, sáng

tạo của cộng đồng để khôi phục các sản phẩm đặc sản truyền thống và tạo nên

các sản phẩm hàng hoá, các dịch vụ có thương hiệu gắn với du lịch Phú Thọ…

để từ đó đa dạng hoá sản phẩm du lịch.

- Khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng bản địa phát huy bản sắc (đặc biệt là

73

đối với đồng bào dân tộc thiểu số), truyền thống văn hoá, sử dụng các yếu tố văn

hoá truyền thống của cộng đồng để trực tiếp tạo ra các dịch vụ thu hút khách du

lịch (như hỗ trợ thành lập các câu lạc bộ hát Xoan, diễn xướng dân gian, đâm

đuống, đội cồng chiêng thôn bản ở các bản động vùng cao huyện Thanh Sơn,

Tân Sơn, Thanh Thuỷ, Yên Lập; hỗ trợ phục dựng các làng nghề cổ vùng Lâm

Thao, Việt Trì; hỗ trợ mở các dịch vụ du lịch thôn bản ở Tân Sơn, Thanh

Sơn…).

- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư địa

phương về ý thức giữ gìn, bảo vệ tài nguyên du lịch tự nhiên, ý thức giữ gìn bản

sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục, các nét kiến trúc làng xã cổ, nét đẹp nguyên

bản của các lễ hội,…

Có sự đầu tư cần thiết về nguồn kinh phí và các biện pháp hỗ trợ thông

tin, truyền thông… cho các hoạt động này (hỗ trợ duy trì lễ hội Trò Trám ở Tứ

Xã, tục cướp cây bông ở Đào Xá, hát Xoan Kim Đức, vật đuổi giải Cao Xá…).

Thực hiện các nhóm giải pháp nói trên liên quan đến vai trò và đặt ra yêu

cầu trách nhiệm của nhiều chủ thể, trong đó, UBND tỉnh, với vị trí, chức năng

theo quy định của pháp luật là cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, có trách

nhiệm chủ động tham mưu để Tỉnh ủy có các chủ trương lãnh đạo về phát triển

du lịch bền vững của tỉnh Phú Thọ; tham mưu và đề xuất trình HĐND tỉnh ban

hành các quyết sách chung về phát triển du lịch bền vững; trực tiếp chỉ đạo thực

hiện đồng bộ, thống nhất các giải pháp phát triển du lịch bền vững trên toàn tỉnh;

trao đổi, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội, nghề

nghiệp để huy động sự tham gia và phát huy vai trò của các tổ chức này cho phát

triển du lịch. Sở VH,TT&DL và các cơ quan chức năng liên quan của tỉnh tham

mưu, giúp UBND tỉnh trong tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển du lịch

bền vững gắn với chức năng của đơn vị mình. UBND tỉnh, với sự tham mưu,

giúp việc của các cơ quan chuyên môn trực thuộc, sử dụng tổng thể các biện

pháp quản lý như tạo môi trường (thể chế, chính sách, hành chính, an ninh, xã

74

hội...), tạo điều kiện (tiếp cận nguồn lực, thị trường, xúc tiến, quảng bá...), tuyên

truyền, động viên khuyến khích, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, đôn đốc, thanh tra,

kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm, để thúc đẩy thực hiện các giải pháp phát

triển du lịch bền vững thuộc trách nhiệm của các chủ thể của hoạt động du lịch.

Các cơ sở kinh doanh du lịch, du khách, cộng đồng dân cư được động viên và có

trách nhiệm tham gia, góp phần thực hiện những giải pháp cụ thể liên quan trực

tiếp đến nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hoặc gắn với quyền lợi của mình,

từ đó góp phần thực hiện tốt các giải pháp chung về phát triển du lịch bền vững,

75

hướng đến đạt mục tiêu phát triển du lịch bền vững của tỉnh.

Tiểu kết Chương 3

Có thể thấy rằng, việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn

tỉnh Phú Thọ hiện nay đạt được cả những thành tựu và hạn chế. Để có thể khắc

phục những hạn chế, phát huy tính tích cực, nâng cao hiệu quả việc thực hiện

chính sách phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay, theo chúng tôi cần thực hiện

một số giải pháp như nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong thực

hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Tăng cường nguồn

lực, thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục

vụ phát triển du lịch; Tăng cường bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch; Nâng

cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch; Đa dạng hóa

các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch, phát triển thị trường; Nâng cao nhận

thức và phát huy vai trò của các bên liên quan trong thực hiện chính sách phát

triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp này có sự thống nhất với

76

nhau; do đó, cần thiết phải thực hiện một cách đồng bộ.

KẾT LUẬN

Du lịch ngày càng khẳng định được vị thế của mình đối với với sự phát triển

kinh tế - xã hội. Phát triển du lịch hiện nay là vấn đề đang được Nhà nước ta

quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Để có thể phát triển du lịch một cách hiệu quả cần

có một chính sách phát triển du lịch chất lượng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu,

phân tích thực hiện chính sách phát triển du lịch có tầm quan trọng đặc biệt.

Theo đó, thực hiện chính sách phát triển du lịch là toàn bộ quá trình đưa chính

sách vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống

nhất nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch. Quá trình này cần tập trung

xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; phổ biến, tuyên truyền chính

sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; duy trì chính sách; điều chỉnh

chính sách; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách; đánh giá, tổng

kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách.

Phú Thọ là địa phương có tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng với định

hướng phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Những phân

tích, tổng hợp trong những năm qua cho thấy, việc thực hiện chính sách phát

triển du lịch của tỉnh đã đạt được những thành quả nhất định, góp phần thúc đẩy,

tạo động lực cho sự phát triển du lịch của tỉnh. Qua đó, khẳng định vị thế của

Phú Thọ trong thị trường du lịch của vùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quá trình

này còn những hạn chế nhất định. Những hạn chế này có thể xuất phát từ nhiều

nguyên nhân. Chính vì vậy, để có thể phát triển hơn nữa du lịch của tỉnh Phú

Thọ, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch

của tỉnh, nhằm phát huy hơn nữa những ưu điểm của chính sách cũng như khắc

phục, hạn chế những hạn chế còn tồn tại của chính sách. Đó là nâng cao năng lực

và hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên

địa bàn tỉnh Phú Thọ; Tăng cường nguồn lực, thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh phát

triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ phát triển du lịch; Tăng cường bảo

77

vệ và phát triển tài nguyên du lịch; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng

yêu cầu phát triển du lịch; Đa dạng hóa các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch,

phát triển thị trường; Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của các bên liên

quan trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.

Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp này là một trong những cơ sở để xây dựng

Phú Thọ trở thành một vùng du lịch trọng điểm của khu vực và du lịch trở thành

một ngành kinh tế mũi nhọn như Nghị quyết của Tỉnh cũng như Chiến lược phát

78

triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đề ra.