intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại ngôi nhà Bình Yên - Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Nguyễn Văn Thanh

Chia sẻ: 9 9 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

444
lượt xem
73
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại ngôi nhà Bình Yên - Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với mục tiêu nghiên cứu là nhằm khảo đánh giá thực trạng hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình của NNBY và kết quả đạt được trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển, nhân rộng mô hình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại các địa bàn khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại ngôi nhà Bình Yên - Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Nguyễn Văn Thanh

  1. Tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại ngôi nhà bình yên – TW Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Văn Thanh Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội Luận văn Thạc sĩ. Công tác xã hội: 60 90 01 01 Nghd: TS. Bùi Thị Xuân Mai Năm bảo vệ: 2014 Keywords: Tham vấn cá nhân; Bạo lực gia đình; Phụ nữ; Công tác xã hội Contents: LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phụ nữ Việt nam chiếm 50,8% dân số, 50,3% lực lượng lao động của cả nước, họ có vai trò và tiềm năng to lớn tạo ra của cải vật chất cho xã hội, góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước và có chức năng quan trọng là làm vợ, làm mẹ, duy trì và phát triển nòi giống. Cơ chế thị trường đã tạo điều kiện để phụ nữ phát huy mạnh mẽ tài năng, sức sáng tạo, nâng cao vị thế của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng đồng thời, cơ chế thị trường và ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá cũng đang đặt ra không ít khó khăn, thách thức đối với phụ nữ: thiếu việc làm, thiếu cơ hội để học tập, nâng cao trình độ và tham gia vào các hoạt động xã hội, bất bình đẳng giới, là nạn nhân của các tệ nạn xã hội và bạo lực; là đối tượng đầu tiên gánh chịu bất hạnh do những đổ vỡ gia đình. Làm thế nào giúp phụ nữ vươn lên trong cuộc sống, vượt qua những tác động tiêu cực để họ không những thực hiên tốt chức năng kinh tế mà còn thực hiện tốt chức năng tình cảm, giáo giục con cái giữ gìn hạnh phúc gia đình. Bạo lực gia đình (BLGĐ) là vấn nạn trong gia đình và của xã hội nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền còn người và là một trong những biểu hiện của bất bình đẳng giới. Hiện nay, tình trạng BLGĐ xảy ra ở Việt Nam nổi lên như một vấn đề xã hội bức xúc. Nghiên cứu năm 2010 của tác giả Bùi Thị Xuân Mai trên 188 phụ nữ tại nông thôn cho thấy có tới gần 50% phụ nữ được hỏi họ đã từng trải nghiệm bị bạo lực tinh thần: mắng, nhiếc, xỉ vả… Nạn nhân của BLGĐ thường là phụ nữ và trẻ em. BLGĐ dẫn đến nhiều hậu quả: về thể xác, tinh thần, kinh tế. Tổn thương về thể xác của nạn nhân: gãy xương, tàn phế, bầm dập, rách da, suy giảm chức năng vận động… thậm chí nạn nhân có thể bị tử vong. Về tâm lý và hành vi của nạn nhân: hoảng loạn, lo âu, buồn chán, trầm cảm, tâm thần, lạm dụng các chất kích thích, lệch lạc về hành vi. Về kinh tế: tốn kém tiền của do chi phí đề khám và điều trị bệnh tật, phải nghỉ việc nên không có nguồn thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội, nhà nước cần phải chi phí nhiều cho công tác tuyên truyền đẩy mạnh bình đẳng giới, phòng chống BLGĐ.Về mặt xã hội: làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến cộng đồng, trật tự trị an.
  2. Trước những khó khăn nêu trên của phụ nữ bị bạo lực gia đình đã có những hoạt động trợ giúp công tác xã hội song còn khá hạn chế. Đặc biệt là các hoạt động can thiệp và trợ giúp cho các nạn nhân bị bạo lực gia đình. Mô hình NNBY là một trong những mô hình mới của công tác xã hội ở nước ta, với các hoạt động trợ giúp cho phụ nữ bị bạo lực gia đình trong đó hoạt động tham vấn cá nhân là một hoạt động đang được đánh giá cao nhưng mô hình này chưa được nhân rộng. Nghiên cứu lựa chọn đề tài tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình nhằm đánh giá những ưu điểm và hạn chế của hoạt động tham vấn cá nhân tại NNBY để nhân rộng mô hình này trên địa bàn cả nước. 2.Tổng quan những nghiên cứu liên quan đến tham vấn cho phụ nữ bị bạo lực gia đình 2.1. Các nghiên cứu về bạo lực gia đình BLGĐ không phải chỉ là vấn đề của một gia đình hay chỉ tồn tại ở một vài nước mà BLGĐ, đặc biệt là bạo lực với phụ nữ đang trở thành vấn đề phổ biến trong tất cả các nước trên toàn cầu. Do tính chất phức tạp và mức độ nghiêm trọng cũng như ảnh hưởng của BLGĐ đến nền an sinh của mỗi cá nhân và toàn xã hội, nhiều quốc gia trên thế giới (Adapted from “Violence Against Women,” WHO, FRH/WHD/97.8, “Women in Transition” Regional Monitoring Report, UNICEF 1999, and a study by Domestic Violence Research Centre, Japan.) Trung Quốc: theo báo cáo của chính phủ có tới 305 gia đình có bạo lực; Hàn Quốc 40- 60% phụ nữ bị bạo lực, Nhật Bản 60% phụ nữ được hỏi cho là đã từng bị bạo lực; Thái Lan 20%, Malaxia 39% (K.Soin, 2001). Tác phẩm “”Loving to Survive - Sexual Terro Men’s Violence and Women’s Live” (Tình yêu và sự sống sót - sự khủng bố tình dục của đàn ông và cuộc sống của phụ nữ) của Dee L.R. Graham và hai đồng nghiệp là Edna. Rawlings và Roberta K.Rigsby đã phân tích các ảnh hưởng của bạo lực nam giới đối với phụ nữ và tâm lý của họ. Tại Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về gia đình và BLGĐ: Năm 2001, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã thực hiện đề tài “BLGĐ đối với phụ nữ tại Việt Nam” nghiên cứu tại 3 tỉnh Lạng Sơn, Thái Bình và Tiền giang đề tài đã tìm hiểu nhận thức, thái độ của người dân và cán bộ thi hành pháp luật của các tổ chức đoàn thể xã hội. Đồng thời đề tài cũng chỉ ra những hậu quả nặng nề của BLGĐ đối với phụ nữ. Trong nghiên cứu về vai trò của người phụ nữ nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa công nghiệp nông thôn, tác giả Hoảng Bá Thịnh (2002) đã chỉ ra 54,5% số người được hỏi cho rằng có hiện tượng “chồng đánh vợ”. Theo kết quả điều tra về thực trạng bình đẳng giới năm 2004 – 2005 (Nguyễn Vân Anh, 2005), có 21,2% phụ nữ cho biết đã từng bị chồng chửi trong 12 tháng trước khi khảo sát. Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao, nguyên nhân ly hôn do “mâu thuẫn vợ chồng, đánh đập, ngược đãi” 8 tháng đầu năm 2003 là 22.997 vụ trong tổng số 41.326 vụ, chiếm 55,6% và trong năm 2005, tỷ lệ này chiếm 60,3% các vụ ly hôn. Cuộc điều tra gia đình Việt Nam 2006 cũng chỉ ra rằng có khoảng 21,2% cặp vợ/chồng xảy ra các hiện tượng bạo lực như: đánh, mắng chửi, chấp nhận quan hệ tình dục khi không có nhu cầu. Kết quả khảo sát của Uỷ Ban các vấn đề xã hội tại 8 tỉnh thành năm 2006 cho thấy có 23% gia đình có bạo lực về thể chất, 25% về bạo lực tinh thần và 30% có hành vi ép buộc quan hệ tình dục. Vấn đề bạo lực giới trong nghiên cứu của IOM, 2009 có đưa ra có hơn 50% trường hợp phụ nữ di cư bị bạo lực thể thể chất kết hợp với bạo lực tình dục (dẫn theo Hoàng Bá Thịnh, Vấn
  3. đề giới và nghiên cứu di cư ở Việt Nam trong cuốn Giới và Di dân tầm nhìn Châu Á, NXB ĐHQG TP Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Hồng Xoan, 2013). Cùng với thực trạng này, cuốn sách “Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam, thực trạng, diễn tiến và nguyên nhân” của nhóm tác giả Trần Hữu Minh và Trần Thị Vân Anh (chủ biên), năm 2009 tập trung vào vấn đề bạo lực của người chồng đối với người vợ với mong muốn cung cấp các dữ liệu thông tin đầu vào cho một cuộc nghiên cứu trên quy mô toàn quốc về bạo lực gia đình. Công trình nghiên cứu cung cấp cho độc giả, cho những người quan tâm đến việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới và trên hết cho các nhà hoạch định chính sách một cách nhìn sâu hơn về bản chất của vấn đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ, tính tiến triển của nó và sự cần thiết áp dụng các giải pháp phòng ngừa mầm mống của bạo lực gia đình trước khi nó trở thành bạo lực thật sự. Cuốn sách này bao gồm cả tổng quan các nghiên cứu đã có trước đây, phân tích định lượng một số cuộc nghiên cứu có liên quan đến bạo lực gia đình và nghiên cứu định tính về diễn tiến của bạo lực gia đình ở Việt Nam. Nhóm tác giả Phạm Kiều Oanh và Nguyễn Thị Khoa với bài viết: “Bạo lực trong gia đình từ góc nhìn của người nghèo”, đăng trên tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 2/2003 được trích ra từ một nghiên cứu về tình trạng bạo lực trong gia đình của Tổ chức Action Aid Việt Nam, được thực hiện tại tỉnh Lai Châu và Ninh Thuận. Mục đích chính của nghiên cứu này là tìm hiểu nhận thức của nhân dân và chính quyền địa phương về bạo lực trong gia đình và các phương án can thiệp khả thi để giảm thiểu tình trạng này tại cộng đồng. Cách hiểu về bạo lực của người dân cũng như cán bộ chính quyền địa phương trong nghiên cứu này cũng nghiêng về vũ lực, đánh đập. Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực, nghiên cứu nhấn mạnh đến nguyên nhân kinh tế với nhận định khó khăn về kinh tế dễ gây ra xích mích giữa hai vợ chồng. Mặc dù không phân tích rõ sự khác nhau giữa nhận thức của người dân và các cán bộ cấp tỉnh, huyện, xã nhưng người đọc vẫn thấy được cán bộ có cách nhìn nhận vấn đề về bạo lực gia đình đầy đủ và chính xác hơn so với những người dân. Trong khuôn khổ chương trình hợp tác quốc gia giữa Chính phủ Việt Nam và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) 2006-2010, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Tổng cục Thống kê và Viện Gia đình và Giới thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tiến hành điều tra Gia đình Việt Nam. Cuộc điều tra này được tiến hành trên phạm vi toàn quốc, tập trung vào 4 lĩnh vực là: quan hệ gia đình; các giá trị, chuẩn mực của gia đình; kinh tế gia đình và phúc lợi gia đình. Trong đó có 1 chương dành cho nội dung mâu thuẫn, xung đột và bạo lực gia đình. Bằng những số liệu xác thực, điều tra đã cho độc giả nắm rõ hơn về mâu thuẫn và bạo lực gia đình; các hình thức bạo lực và nạn nhân của nó; các lý do dẫn đến mâu thuẫn, xung đột và bạo lực; cách giải quyết xung đột và bạo lực và cuối cùng là hậu quả của bạo lực gia đình. Những điều tra này nhằm nhận diện thực trạng, thu thập thông tin cần thiết phục vụ công tác quản lý và hoạch định chính sách về gia đình. Nghiên cứu có nội dung đa dạng, sâu sắc bằng cách sử dụng cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng. Với các công trình nghiên cứu về BLGĐ nêu trên đã phân tích được thực trạng, nguyên nhân của nạn BLGĐ. Điều này cũng phản ánh được những lo ngại, băn khoăn chung của các nhà nghiên cứu trước sự gia tăng của nạn BLGĐ. 2.2. Các nghiên cứu liên quan đến tham vấn và tham vấn cho phụ nữ bị bị bạo lực gia đình 2.2.1. Nghiên cứu liên quan đến tham vấn và tham vấn cho phụ nữ bị bị bạo lực gia đình ở nước ngoài
  4. Tham vấn được sử dụng lần đầu tiên bởi B.Davis, khi ông thành lập trung tâm tham vấn hướng nghiệp đầu tiên tại Detroit năm 1898. Từ giữa thế kỷ XX, khi ThV phát triển như một nghề chuyên nghiệp ở một số nước, trong đó phải kể đến những nghiên cứu về ThV, hoạt động ThV và trị liệu tâm lý của G.Williamson, Carl Rogers… Năm 1930 E.G. Williamson đã phát triển một lý thuyết toàn diện bề ThV với quy trình 5 bước: 1- Phân tích, xác định vấn đề đưa ra ghi chép có thể và trắc nghiệm đối với khách hàng, 2- Tổng hợp, phân tích thông tin để hiểu vấn đề, 3- Chẩn đoán, giải nghĩa vấn đề, 4- ThV hỗ trợ đối tượng giải quyết vấn đề, 5- Theo dõi khẳng định lại. Lúc này ThV thực sự chuyển hướng từ tư vấn nghề nghiệp sang tham vấn trên tất cả các lĩnh vực. [16,tr.49] Theo Froehlich W.D (1993) thì “Tham vấn chỉ sự giúp đỡ quyết định hay định hướng thông qua các nhà chuyên môn như bác sỹ, các nhà tâm lý học, giáo dục học, cán bộ xã hội…trong những cuộc đàm thoại cá nhân hay nhóm. ThV thường được kết hợp những cuộc trao đổi thăm dò diễn ra trước đó cũng như những nghiên cứu trắc nghiệm và gắn với các chương trình can thiệp hỗ trợ khác” [28,tr.85]. Trên nền tảng những tư tưởng và cách tiếp cận của Parsons, G. Williamson (1930), trong lý thuyết về ThV với tên gọi “Tiếp cận đặc điểm và nhân tố”, các tác giả đã bổ sung và phát triển quy trình ThV giải quyết vấn đề với 5 bước cơ bản từ chẩn đoán, kết thúc đến theo dõi. [2,tr.65]. Tại Mỹ, Canada, Singapore, Philippin...Khi phụ nữ bị BLGĐ sẽ nhận được sự hỗ trợ của NTV, nhân viên CTXH. Khi phụ nữ bị BLGĐ đến hoặc được giới thiệu đến trung tâm ThV, trung tâm CTXH hoặc nơi làm việc của NTV, nhân viên CTXH tiếp nhận, đánh giá, xác định vấn đề, xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề. NTV, NVXH sẽ là người đồng hành cùng với phụ nữ bị BLGĐ trong suốt quá trình trợ giúp. Dựa trên những kiến thức và hiểu biết tâm lý, tâm lý xã hội NTV, nhân viên CTXH tìm cách hỗ trợ về tâm lý xã hội và trị liệu với từng cá nhân. Thông thường hình thức ThV và trị liệu đối với các nạn nhân là ThV trực tiếp trong các trung tâm, phòng ThV với phụ nữ bị BLGĐ. Những NVXH, NTV là những người kết nối dịch vụ hỗ trợ cho phụ nữ bị BLGĐ điều phối các dịch vụ. Các thành viên trong gia đình của các phụ nữ bị BLGĐ sẽ được cung cấp các dịch vụ xã hội. Ngoài dịch vụ ThV cá nhân, các thành viên trong gia đình cũng được hỗ trợ thông qua các dịch vụ ThV gia đình, ThV nhóm, tham gia các câu lạc bộ, tham gia các khóa tập huấn về kỹ năng sống, tập huấn về kiến thức gia đình và nâng cao nhận thức về BLGĐ.
  5. 2.2.2. Nghiên cứu liên quan đến tham vấn và tham vấn cho phụ nữ bị bạo lực gia đình ở trong nước Do những hạn chế về chủ quan và khách quan, nên việc tìm kiếm các nguồn tư liệu, tài liệu liên quan đến vấn đề ThV cho phụ nữ bị BLGĐ ở Việt Nam không nhiều vì vậy trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu gặp phải một số khó khăn. Dưới đây chúng tôi xin nêu ra một số nghiên cứu liên quan đến vấn đề ThV cho phụ nữ bị BLGĐ. Trước năm 1945 ở một số bệnh viện như bệnh viện Bạch Mai đã có mặt của một số cán bộ xã hội và họ đã sử dụng kỹ năng ThV vào quá trình trợ giúp cho bệnh nhân chữa trị tại bệnh viện. Ở Miền nam trước những năm 1975 đã có những khóa đào tạo ThV được đề cập trong các khóa đào tạo cán sự xã hội do thạc sỹ Nguyễn Thị Oanh, TS Trần Thị Giồng tiến hành và sau đó là mô hình ThV học đường cũng được đề cập và phát triển ở miền nam vào những năm 90 của thế kỷ XX. ThV ở Việt Nam thực sự là một lĩnh vực, ngành nghề mới nên các nghiên cứu về ThV không nhiều: ThV tâm lý, lý luận về ThV được các tác giả: Trần Thị Minh Đức, Nguyễn Ngọc Phú, Phạm Tất Dong,Trần Quốc Thành, Trần Thị Lệ Thu, Nguyễn Thị Mùi… đề cập đến trong các hội thảo khoa học, tạp chí tâm lý học. Nghiên cứu của UNPA và Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch năm 2010 để đưa ra hướng dẫn thực hiện luật phòng chống bạo lực gia đình cũng đề cập đến những dịch vụ cần phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng, trong đó có nhà tạm lánh, địa chỉ tin cậy cũng như tham vấn hôn nhân gia đình, bao gồm cả tham vấn cá nhân, tham vấn nhóm đối với các đối tượng liên quan như phụ nữ bị bạo lực gia đình, người gây ra bạo lực gia đình và trách nhiệm tham vấn, tư vấn với cộng đồng. Nghiên cứu của Lê Thị Quý năm (2007) về bạo lực gia đình cũng cho thấy hiện nay bạo lực gia đình đối với phụ nữ xảy ra nhiều hình thức khác nhau đối với phụ nữ, việc xây dựng các mô hình, câu lạc bộ tại địa phương cũng có tác động phần nào, tuy nhiên tác giả cũng chỉ ra thực trạng tư vấn, hòa giải vấn đề bạo lực gia đình còn có những bất cập. Nghiên cứu của UNPA phối hợp với CSAGA (2006) cũng chỉ ra khoảng cách giữa luật pháp và thực tiễn triển khai trong đó có giải pháp can thiệp về hình thành các cơ sở tham vấn cũng như cải thiện chất lượng tham vấn, hòa giải tại địa phương. Nghiên cứu các giải pháp hạn chế bạo lực gia đình với phụ nữ và trẻ em của Bùi Thị Xuân Mai (2009) đã chỉ ra sự thiếu hụt các dịch vụ trợ giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình trong đó đặc biệt là dịch vụ tham vấn. ThV cho phụ nữ bị BLGĐ cũng là một chủ đề được các tổ chức quốc tế đóng tại Việt Nam như: Unicef, Care, Radda Barnen, Plan…quan tâm. Đã có được những dự án với sự giúp đỡ của các chuyên gia ThV về BLGĐ, họ đã tổ chức triển khai tương đối nhiều khóa tập huấn về ThV về BLGĐ [3,tr.80]. Chuyên mục tư vấn Thanh Tâm trên báo phụ nữ: Mỗi số báo hàng ngày của Báo phụ nữ đều có mục tư vân Thanh Tâm, số lượng người tìm đến ThV trên báo phụ nữ rất đa dạng về độ tuổi, ở các vùng miền khác nhau với nhiều vấn đề khác nhau như: hôn nhân gia đình, tình yêu giới tính…trong đó có ThV về BLGĐ. Trong quá trình nghiên cứu trên chuyên mục này về các
  6. bài ThV liên quan đến BLGĐ, việc ThV cho những người bị BLGĐ chưa mang lại hiệu quả cao bởi nhiều lý do khác nhau như: Những người ThV không có chuyên môn về ThV nên đã dẫn đến rất nhiều thân chủ được ThV không hài lòng, có những bài người tiến hành ThV đã phán xét thân chủ, áp đặt các giải pháp, thân chủ không được quyền tự quyết, đưa lời khuyên cho thân chủ, ThV chưa tập trung vào những vấn đề mà thân chủ đang muốn được tháo gỡ… Chi hội phụ nữ các cấp, hoạt động ThV cho các chị em phụ nữ bị BLGĐ thường xuyên được tiến hành bởi các chi hội phụ nữ, các thành viên tổ hòa giải của cụm dân cư hoặc tổ dân phố. Tuy nhiên đang tồn tại một thực trạng đó là các cán bộ hội phụ nữ, các cán bộ hòa giải cơ sở làm công tác ThV cho các chị em phụ nữ bị BLGĐ chưa mang lại hiệu quả cao. Đa số họ mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những lời khuyên cho cho thân chủ chứ chưa thực sự ThV cho chị em hội viên phụ nữ của mình bị BLGĐ hoặc mới chỉ bằng kinh nghiệm và niềm say mê nghề nghiệp chứ chưa được qua đào tạo một cách bài bản và chuyên nghiệp. Chính vì lý do đó nên cũng chưa thực sự mang lại hiệu quả cao trong việc hỗ trợ cho các nạn nhân là phụ nữ bị BLGĐ. ThV của NNBY cho các nạn nhân bị BLGĐ được tiến hành bởi các cán bộ tham vấn cho đến nay phòng ThV đã ThV khoảng 3000 lượt. Do là những người có kinh nghiệm và được đào tạo chuyên sâu về ThV nên các nạn nhân đến với phòng ThV đều được ThV một cách chuyên nghiệp và bài bản. Tuy nhiên do phòng ThV của NNBY chưa được nhiều người biết đến nên việc ThV còn hạn chế về số lượt người được ThV. Hầu hết những người được ThV ở ngôi bình chỉ là phụ nữ và trẻ em bị BLGĐ, song trên thực tế có cả những nam giới là nạn nhân của BLGĐ thì chưa được ThV. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nhằm khảo đánh giá thực trạng hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình của NNBY và kết quả đạt được trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển, nhân rộng mô hình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại các địa bàn khác. 3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hoá những lý thuyết, xác định và trình bày các khái niệm công cụ: bạo lực, bạo lực gia đình, tham vấn, tham vấn cá nhân, tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình, các lý thuyết nền tảng, các yếu tố ảnh hưởng đến tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình. Đánh giá thực trạng hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY. Đề xuất những khuyến nghị để hoàn thiện và phát triển mô hình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình và nhân rộng mô hình ra nhiều địa bàn khác nhau. 4. Ý nghĩa nghiên cứu 4.1. Về lý luận Nghiên cứu đã hệ thống hóa những cơ sở lý luận về BLGĐ, tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình.
  7. Thông qua nghiên cứu làm sáng tỏ hơn tính đúng đắn về những chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với phát triển CTXH, trong đó ThV để giải quyết tốt các vấn đề xã hội xảy ra và phòng chống bạo lực gia đình nói chung.
  8. 4.2. Về thực tiễn Làm rõ được những hoạt động tham vấn cần thiết cho phụ nữ bị bạo lực gia đình nói chung và tại NNBY nói riêng. Chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa tham vấn và công tác xã hội. Chỉ ra được những điểm mạnh thuộc mô hình tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY để phổ biến và nhân rộng trên cả nước. Chỉ ra những yêu cầu về tính chuyên môn cần tiếp tục hoàn thiện đối với tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY như đội ngũ cán bộ tham vấn, cơ sở vật chất… Là tài liệu tin cậy cho các hoạt động nghiên cứu có liên quan. 5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY Trung ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 5.2. Khách thể nghiên cứu Phụ nữ bị bạo lực gia đình Cán bộ quản lý NNBY Cán bộ xã hội/ Nhân viên xã hội, cán bộ tham gia tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình Người thân của các nạn nhân bị bạo lực gia 6. Phạm vi nghiên cứu 6.1. Thời gian: nghiên cứu các hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY từ năm 2007 đến nay 6.2. Địa bàn nghiên cứu: Ngôi nhà bình yên – Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 6.3. Nội dung nghiên cứu: quy trình tham vấn, nội dung, hình thức, cán bộ làm công tác tham vấn, các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình và các kết quả đã đạt được.
  9. 7. Câu hỏi nghiên cứu Hoạt động tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY như thế nào? Kết quả của sự trợ giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình thông qua hình thức tham vấn cá nhân từ năm 2007 đến nay như thế nào? (Về số lượng các ca tham vấn, chất lượng, những thay đổi của thân chủ sau khi được tham vấn) Những yếu tố nào ảnh hưởng tới hoạt động tham vấn cá nhân phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY? 8. Giả thuyết nghiên cứu Tại NNBY các cán bộ tham vấn sử dụng tham vấn cá nhân là chủ yếu đồng thời có kết hợp cả tham vấn nhóm và tham vấn gia đình. Tham vấn cá nhân cho phụ nữ bị bạo lực gia đình là một hình thức can thiệp của CTXH tại NNBY đã theo hướng chuyên nghiệp và chịu ảnh hưởng của các yếu tố, điều kiện nhất định như: cán bộ tham vấn, cơ sở vật chất của NNBY, cơ sở pháp lý và phụ nữ bị bạo lực gia đình. 9. Phương pháp nghiên cứu 9.1. Phương pháp phân tích tài liệu Các báo cáo: Báo cáo nghiên cứu về bạo lực gia đình năm 2006. Báo cáo các năm của NNBY Văn bản pháp lý: Hiế n pháp 2013, Luật hôn nhân và gia đình năm 2004, Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật bình đẳng giới năm 2007, Nghi định 08/2009/NĐ – CP, ngày 04 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết về việc thi hành một số điều luật phòng chống bạo lực gia đình. Các công trình nghiên cứu, sách, báo, đánh giá, bài viết về bạo lực gia đình và tham vấn cho phụ nữ bị bạo lực gia đình của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học giả trong cả nước.
  10. 9.2 Phỏng vấn sâu Tổ ng số phỏng vấ n sâu là 15 trường hơ ̣p, bao gồ m: Phụ nữ bị bạo lực gia đình (05 người), cán bộ dự án (01 người), cán bộ quản lý (01 người), cán bộ tham vấn (06 người), quản gia (01 người), bảo vệ (01 người). 9.3 Thảo luận nhóm Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi thực hiện 01 thảo luận nhóm gồm 08 người: cán bộ quản lý, cán bộ tham vấn, cán bộ dự án, nhân viên xã hội tại NNBY. 9.4 Phương pháp nghiên cứu trường hợp Trong nghiên cứu này nghiên cứu và thực hành, thực nghiệm trên 02 trường hợp phụ nữ bị bạo lực gia đình tại NNBY 9.5. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Hiện nay tại NNBY hiện có 10 phụ nữ bị bạo lực gia đình đang tạm trú và 15 cán bộ nhân viên, do cỡ mẫu ít nên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tổng thể bằng bảng hỏi: phụ nữ bị bạo lực tại NNBY (10 người), Cán bộ NNBY (15 người). (Do cỡ mẫu ít nên chúng tôi không tính tỷ lệ % mà tính số tuyệt đối)
  11. TÀI LIỆU THAM KHẢO I - Tài liệu tiếng Việt 1. Công tác Tham vấn trẻ em - giới thiệu thực hành Tập 1, Tập 2 (2000) TP Hồ Chí Minh. 2. Trần Thị Minh Đức (2002), Một số vấn đề cơ bản của tâm lý học tư vấn, đề tài nghiên cứu, Đại học Quốc gia – Hà Nội. 3. Trần Thị Minh Đức, (2011) Tham vấn, NXB Đại học Quốc gia HN. 4. Nguyễn Văn Gia, Bùi Thị Xuân Mai, (2001) Bài giảng Công tác xã hội, NXB Lao động Xã hội, 5. Trần Thị Thu Hiền, Nguyễn Văn Thanh, Trương Thu Trà, (2010), Tham vấn, NXB Phụ nữ 6. Nguyễn Thị Thu Hường, Nguyễn Văn Thanh, (2010), Nhập môn Công tác xã hội, NXB Phụ nữ 7. Tiêu Thị Minh Hường, Lý Thị Hàm, Bùi Thị Xuân Mai, (2007) Giáo trình tâm lý học xã hội, NXB Lao động Xã hội, 8. Nguyễn Thị Kim Khánh, Nguyễn Văn Thanh, Trương Thu Trà, (2010), Công tác xã hội cá nhân và nhóm, NXB Phụ nữ 9. Kỷ yếu hội thảo“Đào tạo và phát triển CTXH ở Việt Nam triển vọng và thách thức” Ngày CTXH quốc tế lần thứ XI. 10. Nguyễn Thị Thái Lan, Nguyễn Thị Thanh Hương, (2008) CTXH nhóm NXB Lao động Xã hội, 11. Nguyễn Ngọc Lâm, Nguyễn Thị Nhẫn, Lê Chí An, (1995) Các thuật ngữ Anh Việt trong ngành CTXH, Đại học Mở Bán công T phố Hồ Chí Minh 12. Luật Bình đẳng giới, (2007) NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. 13. Luật hôn nhân và gia đình (2000) NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 14. Luật Phòng chống BLGĐ(2008) NXB Lao động Xã hội 15. Bùi Thị Xuân Mai (2008), Tham vấn, NXB Lao động Xã hội. 16. Bùi Thị Xuân Mai, Nhập môn CTXH, (2010) NXB Lao động Xã hội, 2010 17. Nguyễn Duy Nhiên, (2010) Nhập môn CTXH, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội 18. Nguyễn Thị Oanh, (1997) An sinh xã hội và các vấn đề xã hội, Đại học mở bán công TP Hồ Chí Minh 19. Nguyễn Thị Oanh, (1998) CTXH đại cương, NXB Giáo dục, 20. Hoàng Phê (1997), từ điển tiếng Việt, NXB Đà nẵng 21. Lê Văn Phú, (2004) Nhập môn CTXH, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
  12. 22. Lê Thị Quý, Đặng Vũ Cảnh Linh, (2008) Bạo lực gia đình: một sự sai lệch giá trị, Trung tâm nghiên cứu giới và phát triển, ĐHKHXH & NV, NXB Khoa học xã hội 23. Tài liệu tập huấn kỹ năng cơ bản trong Tham vấn (2005), Unicef Việt Nam 24. Nguyễn Văn Thanh, (2011) CTXH với Phụ nữ bị BLGĐ, Đại học Quốc gia TP HCM 25. Nguyễn Văn Thanh, (2013) CTXH với Phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, NXB Đại học Sư phạm HN 26. Nguyễn Văn Thanh, (2013) Đào tạo hệ trung học CTXH ở VN hiện nay những khó khăn và thách thức, NXB Lao động xã hội. 27. Trần Ngọc Thêm, (1999) Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục 28. Hoàng Bá Thịnh (2002), Vai trò của người phụ nữ nông thôn trong công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, Hà Nội. 29. Hoàng Bá Thịnh, (2013), Giới và di cư, NXB ĐH QGTP Hồ Chí Minh 30. Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em – Rada Barnen (1998) Tài liệu tập huấn trẻ em làm trái pháp luật, Hà Nội. II - Tài liệu nước ngoài 31. Froehlich W.D (1993) Woererbuch zur Psychologie Deutsher Taschenbuch Velag, Muenchen. 32. G. Egan(1994), The Skill Helper, Books/Cole. 33. J Lishman (1998), Communication in Social Work, Macmillan. 34. Palmer S (1999 Counseling in a Multicultural Society, London Sage) 35. L Shulman (1984), Skill of helping – Individuals and Group, F.E Peacock. 36. H James H. Jacqueline H.L (1999), Basic Counseling Skills, Books/cole publishing Company.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2