intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Đánh giá thực trạng giao, khoán rừng làm cơ sở xây dựng tiêu chí giao, khoán rừng cho các chủ thể khác nhau và đề xuất các giải pháp giao, khoán rừng hợp lý tại huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:116

17
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá công tác giao, khoán rừng và đất Lâm Nghiệp làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các tiêu chí giao khoán đất rừng cho các chủ thể khác nhau để đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm cho người nhận đất Lâm Nghiệp. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Đánh giá thực trạng giao, khoán rừng làm cơ sở xây dựng tiêu chí giao, khoán rừng cho các chủ thể khác nhau và đề xuất các giải pháp giao, khoán rừng hợp lý tại huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------------------------------ TRẦN ĐĂNG NAM ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIAO, KHOÁN RỪNG LÀM CƠ SỞ XÂY DỰNG TIÊU CHÍ GIAO, KHOÁN RỪNG CHO CÁC CHỦ THỂ KHÁC NHAU VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP GIAO, KHOÁN RỪNG HỢP LÝ TẠI HUYỆN NGHI LỘC TỈNH NGHỆ AN Chuyên ngành : Lâm học Mã số : 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN PHÚ HÙNG HÀ NỘI - 2009
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tài nguyên đất, tài nguyên rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá cho mọi sự sống trên trái đất. Việc sử dụng tài nguyên đất, tài nguyên rừng hợp lý, hiệu quả và bền vững là vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia trên toàn thế giới. Luật Đất đai đã được sửa đổi bổ sung, thay đổi sát với tình hình thực tế ở từng giai đoạn; trong vòng chưa đầy 20 năm Nhà nước đã 5 lần sửa đổi Luật Đất đai (Năm 1987, 1993, 1998, 2001 và 2003). Luật đã cụ thể rõ quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và được xác lập trên cơ sở giao đất cho các Hộ gia đình (HGĐ) sử dụng ổn định lâu dài. Đất đai kể cả đất lâm nghiệp thuộc sở hữu toàn dân, người dân được giao quyền sử dụng. Trước năm 1993, hầu hết đất canh tác sản xuất đều được cấp cho các nông lâm trường quốc doanh hoặc các hợp tác xã. Sau khi Luật đất đai sửa đổi bổ sung được ban hành vào năm 1993, đại bộ phận đất đai đã được giao quyền sử dụng cho các HGĐ và cá thể. Cùng với sự ra đời của luật đất đai, Chính phủ đã ban hành một số chính sách quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý rừng và đất rừng: Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 về việc GĐLN cho tổ chức, HGĐ, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định 01/CP ngày 04/01/1995 về giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước; Nghị định 163/CP ban hành ngày 16/11/1999 bổ sung và thay thế một số điều trong Nghị định 02/CP; Nghị định 135/CP ban hành ngày 08/11/2005 bổ sung và thay thế một số điều trong Nghị định 01/CP. Những chính sách này cùng với những chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã tạo động lực, khuyến khích người dân tham gia nhận đất nhận rừng, đầu tư vốn và nhân lực để sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế. Việt Nam hiện có 24 triệu dân sống ở nông thôn miền núi trên tổng số gần 60 triệu dân vùng nông thôn 39. Phần lớn nông dân miền núi sống dựa vào rừng và các hoạt động lâm nghiệp liên quan. Vì vậy, Đất Lâm Nghiệp (ĐLN) với tư cách là một tư liệu sản xuất có vai trò rất quan trọng đối với vấn đề xoá đói, giảm nghèo, sự thịnh vượng cũng như sự năng động về kinh tế của nông thôn miền núi.
  3. 2 Mục tiêu của chính sách giao đất, giao rừng là làm cho mỗi mảnh rừng và đất rừng đều có chủ thực sự, thúc đẩy sản xuất trên cơ sở đó cải thiện cuộc sống người dân, giảm thiểu và ngăn chặn nạn phá rừng, suy thoái đất đai, góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội nông thôn, miền núi. Sau một thời gian thực hiện giao đất, giao rừng; phần lớn diện tích rừng và đất rừng trên phạm vi cả nước đều có chủ quản lý, rừng đã tăng lên cả về diện tích và chất lượng. Việc giao, khoán rừng được thực hiện cho nhiều thành phần kinh tế khác nhau: Quốc doanh, tập thể, HGĐ, cá nhân, liên doanh nước ngoài... Nhìn chung giao, khoán rừng cho các thành phần kinh tế đã động viên mọi người dân tham gia quản lý và khai thác tiềm năng rừng rộng lớn ở nước ta. Thực tiễn cho thấy có nhiều hình thức giao, khoán rừng khác nhau đối với từng chủ thể và từng khu vực. Vì vậy, thực trạng và chất lượng rừng sau khi giao, khoán cũng khác nhau. Có những hình thức giao, khoán thích hợp với chủ thể này nhưng lại không thích hợp với chủ thể khác hoặc thành công ở khu vực này nhưng ở khu vực khác lại xuất hiện nhiều tồn tại sau khi giao, khoán, như tranh chấp ranh giới, sử dụng rừng và đất rừng chưa đúng mục đích, rừng bị đốt phá làm rẫy hoặc bỏ hoang như rừng vô chủ,... Để làm rõ thực trạng về giao đất, giao rừng; từ đó tổng kết và xác định được các hình thức giao, khoán rừng và đất rừng hợp lý cho mỗi chủ thể trên từng khu vực khác nhau, những hình thức đó được thể hiện bằng các tiêu chí cụ thể, là cơ sở khoa học cho việc tiếp tục công tác giao, khoán cũng như quản lý và sử dụng rừng một cách bền vững. Trên cơ sở đó tác giả tiến hành thực hiện đề tài "Đánh giá thực trạng giao, khoán rừng làm cơ sở xây dựng tiêu chí giao, khoán rừng cho các chủ thể khác nhau và đề xuất các giải pháp giao, khoán rừng hợp lý tại huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An".
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ GIAO, KHOÁN RỪNG 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1.1.1. Khái niệm về đất lâm nghiệp - Phân theo mục đích sử dụng rừng: Rừng đặc dụng; rừng phòng hộ và rừng sản xuất. - Phân theo hiện trạng sử dụng rừng: Đất có rừng và đất không có rừng được quy hoạch để gây trồng rừng 30, 31. Đất lâm nghiệp bao gồm đất có rừng; rừng tự nhiên và rừng trồng; và đất chưa có rừng được quy hoạch để sử dụng vào mục đích lâm nghiệp như trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ để phục hồi rừng tự nhiên, nghiên cứu thí nghiệm 3. Như vậy, ĐLN bao gồm các loại như sau: - Rừng đặc dụng: Rừng (rừng tự nhiên, rừng trồng) và đất chưa có rừng (đất trống đồi núi trọc) được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. - Rừng phòng hộ: Rừng (rừng tự nhiên, rừng trồng) và đất chưa có rừng (đất trống đồi núi trọc) được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường. - Rừng sản xuất: Rừng (rừng tự nhiên, rừng trồng) và đất chưa có rừng (đất trống đồi núi trọc) được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường 10. 1.1.2. Khái niệm về giao, khoán đất lâm nghiệp 1.1.2.1. Giao đất lâm nghiệp Luật đất đai quy định: - Nhà nước giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
  5. 4 - Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định 30. a) Thẩm quyền giao đất - UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định giao đất đối với tổ chức; giao đất đối với cơ sở tôn giáo; giao đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. - UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất đối với HGĐ, cá nhân; giao đất đối với cộng đồng dân cư 30. b) Đối tượng giao đất - Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cho: + HGĐ, cá nhân trực tiếp lao động lâm nghiệp. + Tổ chức sử dụng đất vào mục đích nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm về lâm nghiệp. + Đơn vị vũ trang nhân dân được Nhà nước giao đất để sản xuất lâm nghiệp, sản xuất kết hợp với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. + Người sử dụng đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng. - Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất: + Tổ chức kinh tế được giao đất để sản xuất lâm nghiệp. + Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được giao đất để thực hiện các dự án đầu tư 30. Luật BV&PTR quy định: - Nhà nước trao quyền sử dụng rừng cho chủ rừng thông qua hình thức giao rừng; công nhận quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng. - Việc giao rừng phải đồng thời với việc giao đất, cấp giấy CNQSDĐ 31. a) Thẩm quyền giao rừng - UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định giao rừng đối với tổ chức trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
  6. 5 - Uỷ ban nhân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao rừng đối với HGĐ, cá nhân 31. b) Đối tượng được Nhà nước giao rừng - Nhà nước giao rừng đặc dụng không thu tiền sử dụng rừng đối với các Ban quản lý rừng đặc dụng, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo, dạy nghề về lâm nghiệp để quản lý, BV&PTR đặc dụng theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt, quyết định. - Nhà nước giao rừng phòng hộ không thu tiền sử dụng rừng đối với các Ban quản lý rừng phòng hộ, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, HGĐ, cá nhân đang sinh sống tại đó để quản lý, BV&PTR phòng hộ theo quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt, quyết định phù hợp với việc giao đất rừng phòng hộ theo quy định của Luật đất đai. - Việc giao rừng sản xuất được quy định như sau: + Nhà nước giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng sản xuất là rừng trồng không thu tiền sử dụng rừng đối với HGĐ, cá nhân đang sinh sống tại đó trực tiếp lao động lâm nghiệp phù hợp với việc giao đất để phát triển rừng sản xuất theo quy định của Luật đất đai; tổ chức kinh tế sản xuất giống cây rừng; đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng rừng sản xuất kết hợp với quốc phòng, an ninh; Ban quản lý rừng phòng hộ trong trường hợp có rừng sản xuất xen kẽ trong rừng phòng hộ đã giao cho Ban quản lý; + Nhà nước giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng sản xuất là rừng trồng có thu tiền sử dụng rừng đối với các tổ chức kinh tế; + Nhà nước giao rừng sản xuất là rừng trồng có thu tiền sử dụng rừng đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư về lâm nghiệp theo quy định của pháp luật về đầu tư 31. Nghị định 163/CP cụ thể hoá về GĐLN: a) Thẩm quyền GĐLN - UBND cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê ĐLN cho HGĐ, cá nhân; - UBND cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê ĐLN cho các tổ chức. b) Đối tượng được Nhà nước GĐLN không thu tiền sử dụng đất
  7. 6 - HGĐ, cá nhân trực tiếp lao động lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất đó, được UBND xã, phường, thị trấn nơi có ĐLN xác nhận. - Ban Quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. - Doanh nghiệp Nhà nước đang sử dụng ĐLN do Nhà nước giao trước ngày 01 tháng 01 năm 1999. - Trạm, trại, xí nghiệp giống lâm nghiệp, trường học, trường dạy nghề. - Đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng ĐLN kết hợp với quốc phòng 10. Như vậy, thông qua Luật Đất đai, Luật BV&PTR, các Nghị định, thông tư về giao đất... có thể hiểu: GĐLN là quá trình Nhà nước giao đất kết hợp với giao rừng cho các đối tượng sử dụng đất, sử dụng rừng vào mục đích lâm nghiệp (rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất). 1.1.2.2. Giao khoán đất lâm nghiệp GKĐLN là một biện pháp quản lý của chủ rừng trong các doanh nghiệp Nhà nước, Ban quản lý các khu rừng đặc dụng, phòng hộ để BV&PTR. Bên giao khoán: - Doanh nghiệp Nhà nước: Nông trường quốc doanh, Lâm trường quốc doanh, Công ty, Xí nghiệp, Trung tâm, Trạm, Trại trực tiếp sản xuất lâm nghiệp. - Các Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang được Nhà nước giao đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp 31. Bên nhận khoán: - HGĐ, cá nhân là công nhân, viên chức đang làm việc cho Bên giao khoán. - HGĐ, cá nhân đã làm việc cho doanh nghiệp, nay nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp và thành viên trong gia đình họ đến tuổi lao động có nhu cầu nhận khoán. - HGĐ, cá nhân cư trú hợp pháp tại địa phương. - Tổ chức, HGĐ, cá nhân ở các địa phương khác có vốn đầu tư vào sản xuất theo quy hoạch của Bên giao khoán.
  8. 7 Loại đất được giao khoán: Đất lâm nghiệp (rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất, đất trống được quy hoạch trồng cây lâm nghiệp). Như vậy, GKĐLN là quá trình các chủ rừng được Nhà nước GĐLN tiến hành giao khoán lại cho các đối tượng khác để tiến hành các hoạt động BV&PTR. 1.2. VẤN ĐỀ GIAO, KHOÁN ĐẤT LÂM NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI Mỗi quốc gia trên thế giới có một đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội, điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán và lịch sử phát triển riêng, chính vì vậy mà mỗi nước hình thành nên một hệ thống quản lý, sử dụng đất đai mang đặc thù riêng. Đối với những nước không phải trải qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thì vấn đề quản lý, sử dụng đất đai hầu như ít có biến động, sở hữu đất đai mang tính truyền thống chủ yếu là sở hữu tư nhân. Những nước phải trải qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thì vấn đề quản lý và sử dụng đất đai có nhiều thay đổi qua từng thời kỳ khác nhau, nhiều nước đã tiến hành giao đất lâm nghiệp, xu hướng chung là quay trở lại với hình thức quản lý truyền thống dựa trên cơ sở gắn đất đai với người nông dân 40. 1.2.1. Inđônexia: Mỗi HGĐ ở gần rừng được nhận khoán 2.500 m2 đất trồng cây, trong 2 năm đầu được phép trồng lúa cạn, hoa màu trên diện tích đó và được hưởng toàn bộ sản phẩm hoa màu không phải nộp thuế. Công ty lâm nghiệp cho nông dân vay vốn dưới hình thức cung cấp giống, phân hoá học, thuốc trừ sâu, sau khi thu hoạch người nông dân phải trả lại đầy đủ số giống đã vay, còn phân hoá học và thuốc trừ sâu chỉ phải trả lại 70%. Trường hợp rủi ro, nếu mất mùa thì không phải trả vốn vay đó. Ngoài ra, Nhà nước còn hỗ trợ một phần kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, hướng dẫn kỹ thuật nông lâm nghiệp thông qua các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. Tổ chức làm thí điểm, học tập rút kinh nghiệm và triển khai ra diện rộng 48. 1.2.2. Nhật bản: Có ba hình thức sở hữu đất lâm nghiệp đó là sở hữu Nhà nước, sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân: Nhà nước sở hữu 7,84 triệu ha chiếm 31,2% rừng và đất rừng của cả nước, những diện tích rừng và đất rừng này chủ yếu ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình hiểm trở... thuộc quyền quản lý của Cục Lâm nghiệp - Bộ Nông lâm thủy sản 40.
  9. 8 Các tổ chức chính quyền địa phương sở hữu trên 2,7 triệu ha, chiếm 10,74%. Các công ty tư nhân và các HGĐ sở hữu 14,6 triệu ha, chiếm 58,10%. Có tới 88,0% chủ rừng là các hộ tư nhân, trong số đó 89,0% là những người có từ 0,1 ha – 5 ha ĐLN; 10,7% là những chủ hộ tư nhân có từ 5 ha - 50 ha còn lại 0,4% là những chủ hộ tư nhân có trên 50 ha ĐLN. Do phần lớn các chủ rừng là những người sở hữu dưới 5 ha ĐLN nên các chủ rừng này đã liên kết với nhau thành các Hội. Hiện nay Nhật Bản có 1.430 Hội các chủ rừng với 1.718.000 thành viên 40, 48. Chính phủ có chương trình trợ cấp nhằm hỗ trợ cho các hoạt động lâm sinh, xây dựng đường lâm nghiệp thông qua Hội các chủ rừng, ngoài ra các chủ rừng còn được ưu tiên vay vốn để sản xuất kinh doanh với lãi suất thấp, đồng thời còn được giảm thuế đất lâm nghiệp 55. 1.2.3. Philipin: Chính sách lâm nghiệp xã hội “Institutional Social Forestry Program” (ISFP) năm 1980 của Chính phủ nhằm dân chủ hoá việc sử dụng đất rừng công cộng và khuyến khích việc phân chia một cách hợp lý các lợi ích của rừng, chương trình này nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cho cộng đồng người dân sống phụ thuộc vào đất rừng thông qua đó phát triển và bảo vệ tốt tài nguyên rừng 40. 1.2.4. Trung Quốc: Theo Hiến pháp của Nhà nước vào đầu những năm 1980, Chính quyền nhà nước từ TW đến tỉnh và huyện bắt đầu cấp giấy CNQSDĐ cho tất cả các chủ rừng là các tổ chức nhà nước, tập thể và tư nhân. Mỗi hộ nông dân được phân phối một diện tích đất rừng để sản xuất kinh doanh “Luật lâm nghiệp quy định đơn vị tập thể và nông dân trồng cây trên đất mình làm chủ thì hoàn toàn được hưởng sản phẩm trên mảnh đất đó”. Sau khi được cấp giấy CNQSDĐ, Chính phủ đã áp dụng chính sách nhạy bén thúc đẩy phát triển trang trại rừng và kinh doanh đa dạng để có lợi trước mắt và lâu dài 40. Có hai hình thức sở hữu đất đai là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể (sở hữu cộng đồng). Sở hữu nhà nước đối với đất trang trại quốc doanh hoặc đất do nhà nước sử dụng, sở hữu tập thể đối với đất của các làng nông thôn 55.
  10. 9 1.2.5. Thái Lan: Hiện nay Thái Lan đang thí điểm giao rừng cho cộng đồng, đã giao khoảng 200.000 ha ở gần các điểm dân cư, Nhà nước trợ cấp cho mỗi họ tối đa 50 rai và tối thiểu là 5 rai (1rai = 1.600m2). Thái Lan dự kiến áp dụng một chính sách nông lâm nghiệp toàn diện, chú trọng tới các vấn đề xã hội, môi trường và người nghèo, lấy cộng đồng làm đơn vị cơ sở 40, 48. 1.2.6. Thuỵ Điển: Nhà nước quản lý 25% diện tích rừng và đất rừng, các công ty lớn sở hữu 25% còn lại 50% diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu của các hộ tư nhân 40, 48. 1.2.7. Phần Lan: Sở hữu tư nhân về rừng và đất rừng ở Phần Lan mang tính truyền thống, có tới 2/3 diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu tư nhân và có khoảng 430.000 chủ rừng, bình quân mỗi chủ rừng sở hữu 33 ha 40, 48. 1.3. VẤN ĐỀ GIAO, KHOÁN ĐẤT LÂM NGHIỆP TẠI VIỆT NAM 1.3.1. Giao, khoán đất lâm nghiệp trên phạm vi cả nước 1.3.1.1. Giai đoạn 1975 – 1982 Ở giai đoạn này Nhà nước mới công nhận sự tồn tại 2 thành phần kinh tế là quốc doanh và hợp tác xã. Các văn bản về GĐLN có: - Quyết định 272/CP ngày 3/10/1977 của Chính phủ về việc Ban hành chính sách đối với hợp tác xã mở rộng diện tích sản xuất nông, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, thực hiện định canh định cư. - Quyết định số 184-HĐBT ngày 6/11/1982 về đẩy mạnh GĐLN cho tập thể trồng cây gây rừng. Giai đoạn này chỉ có giao mà chưa có khoán ĐLN. Nhìn chung việc GĐLN thiếu chặt chẽ, chưa có quy hoạch đất đai, chưa phân chia 3 loại rừng, còn nặng về hình thức và chạy theo số lượng 50. Giai đoạn này đã giao được 2,5 triệu ha cho 3.998 hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, chưa giao đến HGĐ 40. 1.3.1.2. Giai đoạn 1983 – 1992 Giai đoạn này cũng chỉ có giao mà chưa có khoán ĐLN, nhưng việc GĐLN đã dựa trên cơ sở QHSDĐ. Giai đoạn này có các văn bản chính:
  11. 10 Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ NN&PTNT) đã ban hành Quyết định số 1171 LN/QĐ ngày 30/12/1986 về Quy chế quản lý 3 loại rừng, tiến hành phân cấp quản lý rừng. Ngày 6/2/1991 Bộ Lâm nghiệp và Tổng cục Quản lý ruộng đất đã ban hành Thông tư số 01/TT/LB hướng dẫn việc giao rừng và đất. Đồng thời, Nhà nước cũng đã ban hành một số chính sách đầu tư, hỗ trợ như Quyết định số 327-CT ngày 15/5/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng bãi bồi ven biển và mặt nước; Quyết định 264/CT ngày 22/7/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về chính sách khuyến khích đầu tư phát triển rừng 34, 50. Trong giai đoạn này, đã chú ý nhiều hơn kinh tế HGĐ và phát triển thị trường miền núi, vì vậy giao đất giao rừng đã tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn miền núi 50. Từ năm 1983 – 1989 đã giao được 1.934.000 ha cho 1.724 hợp tác xã, 610 cơ quan, trường học và cho 349.750 HGĐ; từ năm 1989 – 1992 đã giao được 706.000 ha cho 440.000 HGĐ và 5,8 triệu ha cho khu vực quốc doanh 40. 1.3.1.3. Giai đoạn từ 1993 đến nay Cùng với sự ra đời của Luật đất đai năm 1993 (đã qua ba lần sửa đổi, bổ sung và công bố năm 2003), Chính phủ đã ban hành Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 về việc GĐLN cho tổ chức, HGĐ, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp 8; Nghị định số 01/CP ngày 4/1/1995 của Chính phủ về Giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước 9; Nghị định 163/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về Giao đất, cho thuê ĐLN cho tổ chức, HGĐ, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp 10; Thông tư liên tịch số 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC ngày 06/6/2000 của Bộ NN&PTNT và Tổng cục Địa chính về Hướng dẫn việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ĐLN 4; Quyết định số 178-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về Quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của HGĐ, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và ĐLN 11; Nghị định 135/NĐ-CP
  12. 11 ngày 08/11/2005 của Chính phủ về giao, khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản trong các nông, lâm trường quốc doanh 12. Các nghị định, thông tư giai đoạn 1993 đến nay tập trung một số nội dung cụ thể như sau: a) Về giao đất lâm nghiệp - Đối tượng được giao: HGĐ, cá nhân; các tổ chức; các doanh nghiệp nhà nước; các trạm, trại, xí nghiệp giống lâm nghiệp, trường học, trường dạy nghề; các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác; các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân. - Loại đất được giao: ĐLN quy hoạch để xây dựng, phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất. - Các căn cứ để giao, gồm: Quỹ ĐLN của địa phương; hiện trạng quản lý, sử dụng ĐLN; hạn mức giao đất và nhu cầu sử dụng ĐLN của tổ chức, HGĐ, cá nhân. - Thời hạn giao: Các tổ chức của Nhà nước theo dự án; các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của Nhà nước (50 năm). - Quyền hạn bên nhận giao, gồm: Thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi, chuyển nhượng và góp vốn 2, 3, 9, 10, 11. Rừng trồng được hưởng đầy đủ 5 quyền 31, thì theo Luật BV&PTR năm 2004, người dân được giao rừng tự nhiên bị hạn chế các quyền như không được chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho và cho thuê rừng và quyền sử dụng rừng; không được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng sản xuất là rừng tự nhiên (Điều 63, mục 4). Một điều rất rõ là việc hạn chế các quyền đó thực sự làm thiếu đi tính chất cơ bản của một thực thể tài sản đó là tính riêng biệt trong sở hữu (exclusiveness), thời hạn sở hữu (duration), tính linh hoạt trong sở hữu (flexibility), tính an toàn sở hữu (security), tính chuyển nhượng (transferability) và tính phân chia trong sở hữu (divisibility) 63. Việc hạn chế các quyền nêu trên, Nhà nước cần có các chính sách bổ sung phù hợp tạo hành lang pháp lý cho các chủ sử dụng đất được hưởng thêm các quyền, để từ đó giúp người dân chủ động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác trong khuôn khổ của luật pháp cho phép.
  13. 12 b) Về giao khoán đất lâm nghiệp - Đối tượng giao khoán: HGĐ, cá nhân, tổ chức. - Loại đất để giao khoán: ĐLN đã giao cho các nông, lâm trường, các Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.... - Căn cứ để giao khoán: Căn cứ vào quỹ đất đã được Nhà nước giao cho các tổ chức; dự án khả thi hoặc dự án đầu tư; vốn, lao động bên nhận khoán; các chính sách đầu tư hỗ trợ của Nhà nước và chính sách lao động - xã hội liên quan. - Thời hạn giao khoán: Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng không vượt quá 50 năm; rừng sản xuất theo chu kỳ kinh doanh. - Quyền hạn bên nhận khoán: Chỉ có quyền thừa kế. Tóm lại, công tác GĐLN và GKĐLN đã không ngừng hoàn thiện, vị trí các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (HGĐ, cá nhân,...) trong việc nhận ĐLN thể hiện ngày càng rõ hơn, đặc biệt từ năm 1993 đến nay 9 10, 50. c) Về chủ thể rừng (theo Điều 5 Luật BV&PTR) có:  Ban quản lý rừng phòng hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng;  Tổ chức kinh tế (thực tế chủ yếu là các lâm, nông trường được giao rừng);  HGĐ, cá nhân trong nước (gồm: HGĐ, cá nhân đã, đang làm việc trong các bên giao khoán; HGĐ, cá nhân cư trú tại địa phương hoặc các địa phương khác...);  Đơn vị vũ trang nhân dân;  Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đào tạo, dạy nghề về lâm nghiệp (trên địa bàn chủ yếu trạm, trại nghiên cứu lâm nghiệp);  Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam;  Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. Ngoài ra, tại Điều 29 - Luật BV&PTR quy định việc giao rừng cho CĐDC thôn. Như vậy, có thêm một chủ thể được Nhà nước giao rừng:  Cộng đồng dân cư thôn 31. d) Vị trí của các chủ thể trong giao, khoán đất lâm nghiệp
  14. 13 - Nếu xét giao đất theo Nghị định 02/CP và 163/CP thì các chủ thể trên đều đứng về bên được nhận đất. Bên giao đất là Chủ tịch UBND huyện và các cấp chính quyền tới Trung ương. - Nếu xét khoán đất theo Nghị định 01/CP, Nghị định 135/CP thì HGĐ, cá nhân, CĐDC là bên nhận đất, còn bên khoán đất có thể Ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng hoặc các lâm, nông trường. Vậy, chủ thể HGĐ, cá nhân và CĐDC có thể vừa được nhận GĐLN (theo NĐ 02/CP và NĐ163/CP) vừa được nhận GKĐLN đất (theo NĐ 01/CP, NĐ 135/CP). Còn các chủ thể là Ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng và lâm, nông trường là bên được Nhà nước GĐLN hoặc bên GKĐLN tùy trường hợp cụ thể. Thực tiễn cho thấy, trong các chủ thể trên, 3 chủ thể đầu chiếm phần lớn diện tích rừng và đất rừng được giao, khoán đồng thời là các chủ thể phát sinh nhiều tình huống cũng như những bất cập cần được chấn chỉnh giải quyết. e) Hình thức giao, khoán đất lâm nghiệp: - Giao đất lâm nghiệp:  Giao đất trống để trồng rừng (chủ yếu trạng thái IA, IB).  Giao đất trống để khoanh nuôi phục hồi rừng (chủ yếu trạng thái IC)  Giao rừng tự nhiên, rừng trồng để bảo vệ, nuôi dưỡng, cải tạo và làm giàu rừng. - Giao khoán đất lâm nghiệp:  Khoán đất trống để trồng rừng (chủ yếu trạng thái IA, IB).  Khoán đất trống để khoanh nuôi phục hồi rừng (chủ yếu trạng thái IC).  Khoán rừng tự nhiên, rừng trồng để bảo vệ, nuôi dưỡng, cải tạo và làm giàu rừng. Từ thực trạng nêu trên, việc xác định được hình thức GĐLN, GKĐLN trong những điều kiện khu vực cụ thể và từng chủ thể nhất định, đảm bảo cho các chủ thể khôi phục, BV&PTR là một trong những vấn đề đang được các nhà lãnh đạo và các cấp quản lý quan tâm. Sau 15 năm tiến hành giao đất, hiện nay cả nước mới cấp được 1.111.292 giấy CNQSDĐ lâm nghiệp với diện tích 8.163.835ha (chiếm 62% tổng diện tích ĐLN).
  15. 14 Trong đó cấp cho các tổ chức là 5.518 giấy chứng nhận với diện tích 4.947.070ha; cấp HGĐ và cá nhân là 1.104.109 giấy với diện tích 3.169.084 ha 18. Thực tế cho thấy công tác QHSDĐ lâm nghiệp trước khi thực hiện chỉ thị 38/CP của Thủ tướng chính phủ về việc rà soát quy hoạch 3 loại rừng là chưa sát với thực tế, chậm điều chỉnh và thường xuyên bị phá vỡ cùng với việc xác định ranh giới các khu rừng phòng hộ, đặc dụng chưa rõ ràng đã khiến cho công tác quản lý rừng gặp nhiều lúng túng. Đặc biệt, số diện tích ĐLN giao cho HGĐ và cá nhân (bình quân là 2,87ha/hộ) chưa gắn với các cơ chế quản lý ĐLN, chính sách hưởng lợi, hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ kỹ thuật… chưa phát huy hiệu quả. Công tác giao đất, giao rừng chưa thực sự gắn với quy hoạch bảo vệ, phát triển rừng và quy hoạch sử dụng ĐLN nên việc quản lý khó khăn 24. Nhìn chung công tác giao đất, cho thuê ĐLN và cấp giấy CNQSDĐ chưa gắn kết với công tác giao rừng và các cơ chế hưởng lợi, chính sách hỗ trợ đi kèm, vì vậy hiệu quả của việc sử dụng rừng và đất rừng còn rất thấp, tài nguyên rừng vẫn bị suy giảm và đời sống của người dân cũng không được cải thiện 23. Mục tiêu đến năm 2010, cần hoàn thành về cơ bản việc giao, cho thuê 12,6 triệu ha rừng đến các chủ rừng thuộc mọi thành phần kinh tế để tổ chức quản lý bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng 5, 23. 1.3.2. Khái quát giao, khoán đất lâm nghiệp ở huyện Nghi Lộc tỉnh Nghệ An 1.3.2.1. Đối với giao đất lâm nghiệp Từ năm 1994 đến năm 1999 việc GĐLN được thực hiện theo Nghị định 02/CP. Trong khoảng thời gian này, chịu trách nhiệm chính việc GĐLN là Hạt Kiểm lâm; sản phẩm của công tác GĐLN: + Quá trình giao, nhận đất ngoài thực địa. + Bản đồ GĐLN. + Sổ lâm bạ. Ở giai đoạn này chưa làm thủ tục cấp giấy CNQSDĐ. Theo báo cáo của Hạt Kiểm lâm kết quả giao đất theo Nghị định 02/CP như sau 20: - Giao cho HGĐ, cá nhân: 823 hộ với diện tích 3.199,7 ha, chiếm 34,2% diện tích ĐLN;
  16. 15 - Giao cho 18 CĐDC với diện tích 756,5 ha, chiếm 8,1% diện tích ĐLN. - Giao cho 2 đơn vị lực lượng vũ trang với diện tích 7,5 ha. Những diện tích này hiện nay đang được thu hồi lâm bạ để làm thủ tục hồ sơ cấp giấy CNQSDĐ lâm nghiệp. Sau khi có Luật Đất đai sửa đổi bổ sung vào năm 1998, Nghị định 02/CP được thay thế bằng Nghị định 163/CP; chủ trì thực hiện GĐLN được giao cho Địa chính (nay là cơ quan TN&MT) giúp UBND cùng cấp làm thủ tục giao đất, cấp giấy CNQSDĐ; sản phẩm của công tác GĐLN: + Quá trình giao, nhận đất ngoài thực địa. + Bản đồ địa chính, bản đồ GĐLN. + Sổ mục kê, hồ sơ địa chính. + Giấy CNQSDĐ. Theo báo cáo của Sở TN&MT tỉnh Nghệ An, Phòng TN&MT huyện Nghi Lộc, diện tích ĐLN trên địa bàn đã giao theo Nghị định 163/CP và cấp giấy CNQSDĐ: - Giao Ban quản lý rừng phòng hộ: 3.317,6 ha, chiếm 35,5% diện tích ĐLN. - Giao cho 269 HGĐ, cá nhân với diện tích 370,0 ha (duy nhất tại xã Nghi Công Nam nơi mà có Dự án Việt Đức đầu tư từ năm 2004 đến nay). Những diện tích ĐLN còn lại hiện nay thì đối với rừng phòng hộ (sau khi có kết quả rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng) đang tạm giao cho Ban quản lý rừng phòng hộ quản lý 2.356,6 ha (những diện tích này đã được giao cho HGĐ, cá nhân theo Nghị định 02/CP là 1.637,2 ha), nay đang tạm thu hồi lâm bạ chờ các cấp có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất sau đó mới cấp giấy CNQSDĐ cho Ban quản lý rừng phòng hộ. + Đất rừng sản xuất còn lại (432,9 ha), đang tạm giao cho các HGĐ, cá nhân và cộng đồng thôn bản quản lý. 1.3.2.1. Đối với giao khoán đất lâm nghiệp Về GKĐLN, phần lớn được ban quản lý rừng phòng hộ Nghi Lộc tiến hành khoán cho các cá nhân, HGĐ và cộng đồng thôn theo hợp đồng kinh tế từng năm; hoặc
  17. 16 khoán theo công đoạn (chỉ áp dụng đối với rừng phòng hộ chắn sóng lấn biển), một số ít được tiến hành khoán theo Nghị định 01/CP (1.386 ha với 40 HGĐ), khoán theo Nghị định 135 (321,6 ha với 19 HGĐ trên địa bàn 2 xã là Nghi Mỹ và Nghi Phương). Còn đối với những diện tích ĐLN thuộc đối tượng rừng phòng hộ (sau rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng) đã được giao cho HGĐ, cá nhân theo Nghị định 02/CP nay thu hồi và đang tạm giao cho Ban quản lý rừng phòng hộ, những diện tích này đã và đang được các HGĐ, cá nhân sản xuất kinh doanh từ nhiều năm nay, họ muốn có hợp đồng dài hạn để chủ động sản xuất kinh doanh trên mảnh đất của mình, trong khi đó Ban quản lý rừng phòng hộ chỉ được giao khoán cho họ theo hợp đồng kinh tế từng năm. Đây là bài toán khó cho các nhà quản lý. Theo tác giả thì Nhà nước cần có chính sách bổ sung thích hợp, những diện tích rừng phòng hộ nhỏ lẻ, manh mún hiện đang được các HGĐ sử dụng thì nên giao lại cho các HGĐ đó quản lý sử dụng sẽ đạt được hiệu quả cao hơn. 1.3.3. Đánh giá chung về công tác giao, khoán ĐLN 1.3.3.1. Quan điểm về giao, khoán ĐLN Ở Việt Nam, đất đai kể cả ĐLN thuộc sở hữu toàn dân, người dân được giao quyền sử dụng. Vấn đề giao, khoán ĐLN đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ XX. Việc đẩy mạnh vấn đề giao đất giao rừng cho cá nhân, hộ nông dân, cộng đồng dân cư và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là bằng chứng rõ ràng thể hiện quan điểm của Nhà nước. Hiện nay có khoảng 24 triệu người dân sống ở miền núi với rất nhiều thành phần dân tộc khác nhau, Nhà nước có chủ trương giao đất để góp phần cải thiện sinh kế bằng nghề rừng, góp phần BV&PTR. Như vậy có thể nói quan điểm xã hội hoá lâm nghiệp với nhiều thành phần tham gia của Nhà nước là rõ và khá thông thoáng 21. 1.3.3.2. Chính sách giao, khoán ĐLN Giao, khoán ĐLN cho tổ chức, HGĐ và cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp đã được quy định mới nhất tại Luật Đất đai (2003) và Luật BV&PTR (2004). Trước đó việc giao, khoán ĐLN được quy định tại Nghị định 02/CP và 01 CP của Chính phủ ban hành năm 1994, 1995. sau đó là Nghị định
  18. 17 163/1999/NĐ-CP; Nghị định 135/2005/NĐ-CP. Theo đó, HGĐ, cá nhân được giao với hạn mức đất không quá 30 ha và thời hạn giao, khoán 50 năm. Nếu có nhu cầu sử dụng diện tích lớn hơn 30 ha, HGĐ, cá nhân có thể thuê và trả tiền thuê hằng năm bằng 0,5% giá đất theo mục đích sử dụng đất được UBND cấp tỉnh quy định trên cơ sở Nghị định 188/2004/NĐ-CP. Về thời hạn, nếu HGĐ có nhu cầu sẽ được gia hạn. Ngoài ra, HGĐ, cá nhân được Nhà nước giao đất rừng sản xuất được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất 9, 12, 21, 30, 31. Luật BV&PTR năm 2004, đề cập đến việc điều chỉnh các quan hệ liên quan đến rừng - với tư cách là tài sản trên đất quy định, Nhà nước giao rừng sản xuất là rừng tự nhiên và rừng sản xuất là rừng trồng không thu tiền sử dụng rừng đối với HGĐ, cá nhân đang sinh sống tại đó để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. HGĐ, cá nhân được giao rừng sản xuất là rừng trồng thì được khai thác lâm sản theo quy định, được chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị rừng sản xuất là rừng trồng. Đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên thì được khai thác lâm sản theo quy định, được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng tăng thêm do chủ rừng tự đầu tư so với giá trị quyền sử dụng rừng được xác định tại thời điểm được giao theo quy định của pháp luật 31. 1.3.3.3. Mục tiêu của chính sách giao, khoán ĐLN Mục tiêu chung của chương trình giao, khoán ĐLN được khái quát là (i) khuyến khích các hộ nông dân khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, thông qua đó bảo vệ và phục hồi nguồn tài nguyên rừng đang bị suy giảm và (ii) xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống và hạn chế tập quán du canh du cư và (iii) phát triển trồng rừng sản xuất tiến tới làm giàu bằng nghề rừng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng giao, khoán ĐLN là chính sách mang lại hiệu quả rõ rệt trên bình diện người dân đã nắm quyền kiểm soát mảnh đất được giao, khoán 1, 38,đời sống người dân được cải thiện, nhận thức được nâng cao 1, độ che phủ rừng gia tăng 64 và việc trồng cây lâu năm cũng được thực hiện nhiều hơn, góp phần định canh định cư 54.
  19. 18 Hiện nay trong chính sách giao đất lâm nghiệp chưa đạt mục tiêu đề ra, thể hiện ở việc chưa tạo ra động lực tốt cho người dân như mục tiêu đặt ra của Nhà nước. Nguyên nhân có thể là do thực thi chính sách của địa phương, tính thể chế, tính sở hữu chưa đầy đủ đặc biệt là rừng sản xuất là rừng tự nhiên, cũng có thể là nguyên nhân chưa tạo ra động lực phát triển rừng. 1.3.3.4. Tiến độ giao đất lâm nghiệp Hiện nay cả nước mới cấp được 1.111.292 giấy chứng nhận quyền sử dụng ĐLN với diện tích 8.163.835ha (chiếm 62% tổng diện tích ĐLN), diện tích trung bình là 2,87 ha/giấy chứng nhận. Trong khi đó diện tích ĐLN đã giao trung bình khoảng 4.7 ha/hộ thì chứng tỏ trong phạm vi một chủ hộ mà đất cũng đã bị manh mún ra làm 2-3 mảnh. Đặc biệt ở Cao Bằng, có hộ còn nhận được 14 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 21. Ở Tân Lạc – Hoà Bình không phải là địa hình chia cắt nhiều, nhưng trung bình mỗi hộ có khoảng 2,5 mảnh ĐLN và khoảng cách đến các mảnh cũng khác nhau 22. Việc cấp giấy CNQSDĐ cho ĐLN trong thời gian dài gặp nhiều khó khăn do không có bản đồ địa chính và đất chưa được đo đạc. Ngoài ra có ba nguyên nhân khác cũng dẫn đến tiến trình cấp giấy CNQSDĐ lâm nghiệp bị chậm lại là vì (i) tranh chấp vì đo đạc địa chính, (ii) tranh chấp về nguồn gốc đất và (iii) đất đang trong quá trình chuyển mục đích sử dụng 21. Bên cạnh đó, hiện tượng gây phiền hà cho dân khi giải quyết các thủ tục cấp giấy chứng nhận vẫn còn phổ biến, ít nhiều ảnh hưởng đến tiến độ cấp giấy CNQSDĐ lâm nghiệp. 1.3.3.5. Kết quả thực hiện chính sách GĐLN từ năm 1993 đến nay - Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng: Trên địa bàn toàn quốc, diện tích có rừng năm 2008 là 13.118.776 ha (trong đó, rừng tự nhiên 10.348.591 ha và rừng trồng 2.770.182 ha); Độ che phủ rừng toàn quốc năm 2008 là 38,7% 6, so với tỷ lệ này của năm 1994 là 26%. Như thế một cách trực quan thì độ che phủ rừng tăng lên theo sự gia tăng của diện tích ĐLN được giao 21. - Định canh định cư và xoá đói giảm nghèo:
  20. 19 + Sau khi triển khai đồng loạt chương trình giao, khoán ĐLN, các HGĐ đã tiếp cận nguồn đất tăng lên đáng kể, nhiều nghiên cứu cho thấy thu nhập từ các hoạt động sản xuất lâm nghiệp (nghề rừng) của người dân có giao, khoán ĐLN rất quan trọng đối với người dân, cao gấp 6 lần so với thu nhập từ lâm nghiệp của chung tất cả các hộ được điều tra. Trong khi đó tổng thu nhập của hộ có giao ĐLN (20,8 triệu/năm) thấp hơn so với hộ bình quân chung (25,5 triệu/năm). Như vậy, giao ĐLN chưa thật sự cải thiện thu nhập người dân. Điều tích cực của giao ĐLN là nghề rừng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu nhập hộ 21. + Một nhận định khác là chỉ có khoảng 20-30% số hộ sử dụng đất lâm nghiệp được giao đúng mục đích 65. Hiệu quả sau khi giao rừng cũng chỉ đạt 20- 30% 1. Như vậy phải chăng cần phải tính đến đất sản xuất nông nghiệp cho người dân trước khi nói đến chuyện giao đất giao rừng. Hoặc hỗ trợ người dân thiết lập các hệ nông - lâm kết hợp để có cái ăn trước mắt, lấy ngắn nuôi dài chứ không thể lấy đất làm nương rẫy để giao cho bà con trồng rừng. + Các chính sách hậu giao đất khoán rừng cũng tỏ ra không phù hợp với thực tiễn sản xuất từ vấn đề hỗ trợ tài chính, công nghệ, thị trường. Ngoài các điểm quy định trong Quyết định 178 và Thông tư 80 về cơ chế hưởng lợi khi các HGĐ, cá nhân được giao đất khoán rừng và tham gia quản lý rừng còn có điểm quan trọng là HGĐ, cá nhân được sử dụng 20% diện tích được giao cho trồng cây nông nghiệp. Nhưng cho đến nay quyết định 178 chưa đi vào cuộc sống và không có khả năng thực hiện ở các địa phương vùng cao cần được điều chỉnh hoặc sửa đổi cho phù hợp với điều kiện của các HGĐ, cộng đồng miền núi khi tham gia quản lý rừng 36, 45. + Ở nước ta, trong bối cảnh sản xuất nhiều rủi ro như cháy rừng và bị chặt trộm, thì ngay cả những HGĐ đã phát triển trồng rừng cũng lựa chọn phương án an toàn nhất và phù hợp với thực cảnh gia đình họ. Điều này đã được chứng minh tại sao trồng cây gỗ lớn ở Yên Bái giá trị hiện tại ròng (NPV) gấp 4 lần khi bán gỗ lớn ở năm thứ 15 so với năm thứ 8 (ở mức lãi suất 7%), nhưng hai nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến quyết định chặt gỗ ở năm thứ 8 là do (i) HGĐ cần tiền trang trải cuộc sống hằng ngày của họ và sau đó là (ii) thiếu vốn đầu tư 61. Như thế nếu tình trạng này xảy ra trên quy mô sản xuất lâm nghiệp của toàn xã hội thì đây sẽ là một sự khác biệt rất có ý nghĩa.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2