intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá tính đa dạng khu hệ thú Linh trưởng khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

29
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm xác định danh lục các loài thú Linh trưởng, phân bố theo sinh cảnh và những tác động của con người tới khu hệ thú Linh trưởng, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm góp phần bảo tồn khu hệ thú Linh trưởng tại khu bảo tồn. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá tính đa dạng khu hệ thú Linh trưởng khu BTTN Thần Sa - Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên

  1. BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHỆP --------------------------------------- DƯƠNG ANH TUẤN ĐÁNH GIÁ TÍNH ĐA DẠNG KHU HỆ THÚ LINH TRƯỞNG KHU BTTN THẦN SA - PHƯỢNG HOÀNG TỈNH THÁI NGUYÊN. LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2010
  2. BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHỆP --------------------------------------- DƯƠNG ANH TUẤN ĐÁNH GIÁ TÍNH ĐA DẠNG KHU HỆ THÚ LINH TRƯỞNG KHU BTTN THẦN SA - PHƯỢNG HOÀNG TỈNH THÁI NGUYÊN. Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ rừng và môi trường Mã số: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học TS ĐỒNG THANH HẢI HÀ NỘI - 2010
  3. Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại Học Lâm Nghiệp Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỒNG THANH HẢI Người phản biện 1: ............................................................. Người phản biện 2: ............................................................. Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn theo Vào hồi.....giờ 0 phút ngày...... tháng .... năm 2010 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện trường đại học lâm nghiệp
  4. 1 ĐĂT VẤN ĐỀ Việt Nam được coi là một trong những Quốc gia có khu hệ thú Linh trưởng đa dạng trên thế giới theo phân loại của Groves (2004) thú Linh trưởng Việt Nam gồm 24 loài và phân loài, thuộc 3 họ đó là họ Cu li (Loridae), họ Khỉ (Cercopithecidae) và họ Vượn (Hylobatidae). Trong đó có 4 loài đặc hữu Vọoc mông trắng (Trachypithecus delacouri), Vọoc đầu trắng (Trachypithecus poliocephalus), Vọoc gáy trắng (Trachypithecus hatinhensis) và Chà vá chân nâu (Pygathrix nemaeus). Về tình trạng tất cả các loài thú Linh trưởng ở Việt Nam đều có tình trạng sắp nguy cấp đến nguy cấp. Theo sách đỏ Việt Nam năm 2007 trong số 24 loài và phân loài hiện biết ở Việt Nam, có 4 loài trong tình trạng "Cực kỳ nguy cấp" (CR) và 8 loài ở tình trạng "Nguy cấp" (EN), một vài loài trong số này đang đứng trước bờ vực của sự tuyệt chủng. Ngoài ra, Việt Nam có tới 5 loài Linh trưởng trong danh sách 25 loài Linh trưởng nguy cấp nhất thế giới hiện nay, đó là Voọc mông trắng, Voọc mũi hếch, Chà vá chân nâu, Vượn Cao Vít và Voọc đầu vàng. Nguyên nhân dẫn tới sự suy giảm về số lượng và chất lượng của các quần thể Linh trưởng ở Việt Nam là do săn bắn, phá hủy sinh cảnh, và buôn bán trái phép. Nhận thức được điều này chính phủ Việt Nam đã có nhiều các biện pháp nhằm bảo tồn các loài động vật hoang dã như bảo tồn nội vi, ngoại vi, hay bằng hệ thống văn bản pháp luật. Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên nằm trong vùng núi đá miền Đông Bắc Việt Nam. Đây là khu vực có tính đa dạng sinh học cao. Khu hệ động vật ở đây rất đa dạng và đặc trưng bởi các loài sống trên núi đá vôi. Theo thống kê, có 295 loài động vật có xương sống, thuộc 93 họ, 30 bộ, 5 lớp. Trong số 56 loài thú được ghi nhận tại khu bảo tồn,
  5. 2 thú Linh trưởng chiếm một tỷ lệ khá lớn khoảng 12.5% (7 loài) thuộc 3 họ. Trong đó họ Cu li có 1 loài, họ khỉ có 3 loài, họ phụ Voọc có 2 loài và họ Vượn có 1 loài. Chính sự có mặt của các loài thú và một số loài Linh trưởng, quí hiếm đã tạo cho KBT Thần Sa-Phượng Hoàng trở thành một trong các khu bảo tồn quan trọng ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về khu hệ thú tại đây, tuy nhiên những thông tin cập nhật về tình trạng, phân bố và các mối đe dọa đến khu hệ thú Linh trưởng còn thiếu. Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là nhằm làm rõ các thông tin đề cập trên. Kết quả của thu thập được sẽ là cơ sở khoa học đưa ra các giải pháp quản lý và bảo tồn khu hệ thú Linh trưởng tại Khu bảo tồn.
  6. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Đặc điểm chung của thú bộ Linh trưởng (Primates) ở Việt Nam Bộ Linh trưởng (Primates) hay còn gọi là Bộ Khỉ hầu gồm những loài thú có kiểu đi bằng cả bàn chân, sống chủ yếu trên cây, ăn tạp hay ăn thực vật. Ngoài những đặc điểm chung về cấu tạo của động vật có xương sống, của nhóm thú thì sự thích nghi với đời sống trên cây của thú Linh trưởng được đặc trưng bởi hình dạng và cấu trúc các chi. Xương cẳng tay, xương cánh tay khớp động với xương bả vai và có thể quay quanh trục của nó. Chi có 5 ngón, ngón 1 (ngón cái) nằm đối diện với 4 ngón còn lại. Hệ xương đai ngực luôn có xương đòn, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho cử động ngang của chi trước một thể loại vận động rất cần thiết cho đời sống leo trèo. Nhờ cấu tạo đặc biệt này nên chi trước giảm đáng kể vai trò nâng đỡ cơ thể trong vận chuyển và khả năng cầm nắm tốt hơn gọi là tay. Thân chuyển dần tư thế nằm ngang của nhóm thú thành chiều thẳng đứng, đồng thời sự thay đổi đó cũng đã làm thay đổi vị trí của nhiều nội quan và não. Hộp sọ tăng theo chiều cao và giảm nhiều chiều dài. Đáy hộp sọ nằm vuông góc với cột sống. Hai hố mắt gần nhau, mắt hướng về trước tạo nên kiểu nhìn lưỡng hình. Mũi ngắn; Thể tích hộp sọ tương đối lớn so với cơ thể và phát triển đồng thời với sự tăng thể tích não bộ. Tăng thể tích não bộ là đặc điểm rất tiến hoá tiến bộ của thú Linh trưởng. Răng thú Linh trưởng có 2 loại: răng sữa và răng chính thức (difiodonte). Răng cửa to, răng hàm có 4 nón tù. Cấu tạo bộ răng thích nghi với chế độ ăn tạp nhưng thiên về thực vật (quả, lá). Số lượng răng của các loài Linh trưởng có thể biến đổi từ 32 đến 36 chiếc. Thú Linh trưởng ở con đực, có một đôi tinh hoàn và luôn nằm trong bìu da ở ngoài bụng. Con cái có một đôi vú ngực phát triển, có tử cung đơn hoặc hai sừng. Nhau của Linh trưởng
  7. 4 thuộc loại nhau tán, không rụng ở nhóm Leiur và rụng ở các loài khác. Thời gian mang thai dài, thường đẻ một con. Con non đẻ ra yếu, thời gian bú sữa dài [8]. 1.2 Phân loại học Linh trưởng ở Việt Nam Đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về khu hệ thú Linh trưởng ở Việt Nam và họ đã đưa ra nhiều quan điểm phân loại học thú Linh trưởng khác nhau, các quan điểm này thay đổi theo thời gian và rất khác nhau giữa các tác giả (bảng 1.1). Chẳng hạn, Phạm Nhật (2002) cho rằng thú Linh trưởng Việt Nam bao gồm 25 loài và phân loài thuộc 3 họ; Roos (2004) cho rằng thú Linh trưởng Việt Nam bao gồm 24 loài và phân loài thuộc 3 họ. Trong khi đó Groves (2004) chỉ ra rằng Việt Nam có 24 loài và phân loài. Tuy có sự khác nhau về số lượng loài, nhìn chung các tác giả đều thống nhất rằng khu hệ thú Linh trưởng ở Việt Nam có 3 ho ̣ chính: Ho ̣ Cu li (Loridae), ho ̣ Khỉ (Cercopithecidae) và ho ̣ Vươ ̣n (Hylobatidae). Bảng 1.1 Tổng kết về phân loại thú Linh trưởng ở Việt Nam theo thời gian Năm Họ Số loài và phân loài Nguồn thông tin 2001 3 24 Groves (2001) 2002 3 25 Phạm Nhật (2002) 2004 3 24 Roos (2004) 2004 3 24 Groves (2004) Trong đề tài này, việc sử dụng hê ̣ thố ng phân loại thú Linh trưởng sẽ theo hệ thống phân loại của Groves (2004) vì đây là hệ thống phân loại phản ánh đầy đủ phân loại học của thú Linh trưởng Việt Nam và được các nhà khoa học đang sử dụng rộng rãi.
  8. 5 Bảng 1.2 Phân loại khu hệ thú Linh trưởng Việt Nam theo Groves (2004) Tên loài TT Phổ thông Khoa học 1 Cu li lớn Nycticebus bengalensis 2 Cu li nhỏ Nycticebus pygmaeus 3 Khỉ cộc Macaca arctoides 4 Khỉ mốc Macaca assamensis 5 Khỉ đuôi lợn Macaca leonine 6 Khỉ vàng Macaca mulatta 7 Khỉ đuôi dài Macaca fascicularis 8 Voọc xám Trachypithecus crepusculus 9 Voọc bạc Trachypithecus obscurus 10 Voọc gec manh Trachypithecus germaini 11 Voọc đen má trắng Trachypithecus francoisi 12 Voọc đầu trắng Trachypithecus poliocephalus 13 Voọc gáy trắng Trachypithecus hatinhensis 14 Voọc đen tuyền Trachypithecus ebenus 15 Voọc mông trắng Trachypithecus delacouri 16 Chà vá chân nâu Pygathrix nemaeus 17 Chà vá chân đen Pygathrix nigripes 18 Chà vá chân xám Pygathrix cinerea 19 Voọc mũi hếch Rhinopithecus avunculus 20 Vượn đen tuyền Nomascus concolor 21 Vượn đen Hải Nam Nomascus nasutus 22 Vượn đen má trắng Nomascus leucogenys 23 Vượn siki Nomascus siki 24 Vượn má hung Nomascus gabriellae (Nguồn: Grove, 2004)
  9. 6 1.3 Phân bố Linh trưởng Viêṭ Nam Thú Linh trưởng Viêṭ Nam phân bố hầ u khắ p các tin̉ h có rừng trong cả nước, một số loài có vùng phân bố rộng như: Cu li nhỏ, Khỉ cô ̣c, Khỉ đuôi lơ ̣n, Khỉ vàng... Trong khi đó, một số loài có phân bố rất hẹp như Voọc Hà Tĩnh, Voọc Cúc Phương, Voọc Cát Bà và Voọc mũi hếch... Phân bố thú Linh trưởng theo sách đỏ Việt Nam năm 2007 được tổng hợp trong bảng sau: Bảng 1.3 Phân bố thú Linh trưởng theo sách đỏ Việt Nam năm 2007 TT Tên loài Phân bố Cao Bằng (Ba Bể), Thái Nguyên (Chợ Đồn, Đình 1 Cu li lớn Cả, Chợ Rả), Lạng Sơn, Hòa Bình, Quảng Trị (Lao Bảo) Thừa Thiên Huế Có nhiều nơi: Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Quảng Trị, 2 Cu li nhỏ Gia Lai, Kontum , Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Phú Yên. Loài này phân bố từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào 3 Khỉ đuôi dài các tỉnh phía Nam Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Bắc Thái, Sơn La, Hòa Bình, Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, 4 Khỉ đuôi lợn Quảng Bình, Thừa Thên - Huế, Gia Lai, Kontum , Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh. Hà Giang (Quảng Bạ), Cao Bằng (Trùng Khánh, Quảng Hòa), Lai Châu (Mường Tè, Tuần Giáo, 5 Khỉ mặt đỏ Sình Hồ), Yên Bái (Văn Chấn), Sơn La (Sông Mã, Mai Sơn, Quỳnh Nhai, Mộc châu), Hòa Bình (Đà
  10. 7 TT Tên loài Phân bố Bắc, Kim Bôi, Mai Châu), Thanh Hóa (Hồi Xuân, Như Xuân), Hà Tĩnh (Hương Khuê, Hương Sơn), Quảng Bình (Tuyên Hóa), Thừa Thiên Huế (đảo Hải Vân, Huế), Kontum (Sa Thầy), Gia Lai (Kon Hà Nừng), Đắc Lắc (Easúp, Krông Nô, Đắc Min). Bắc Thái, Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Hà Tây, Quảng 6 Khỉ mốc Ninh, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. khỉ vàng phân bố khắp các tỉnh có rừng từ Gia Lai 7 Khỉ vàng trở ra Bắc kể cả các đảo gần bờ. Từ Thanh Hóa (19030 độ vĩ bắc) dọc dãy Trường 8 Chà vá chân nâu Sơn tới Gia Lai, Kontum , Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, Sông Bé, Tây Ninh. 9 Chà vá chân xám Phía Tây tỉnh Quảng Nam và Tỉnh Kon Tum Kontum (Sa Thầy), Đắc Lắc (Nam Ca), Lâm Đồng (Di Linh), thành phố Hồ Chí Minh, Vườn quốc gia 10 Chà vá chân đen Núi Chúa, Ninh Thuận và mới phát hiện một quần thể khá lớn ở núi Chứa Chan thuộc tỉnh Đồng Nai Vượn đen má Tuyên Quang (Nà Hang, Chiêm Hóa), Cao Bằng , 11 trắng Lạng Sơn, Quảng Ninh. 12 Vươ ̣n đen tuyề n Mường La (Sơn La), Mù Căng Chải, Văn Bàn (Yên Bái) Vượn đen Hải Quảng Ninh, La ̣ng Sơn, Cao Bằ ng, Bắ c Ka ̣n 13 Nam Kon Tum, Gia Lai, Đắ c Lắ c, Lâm Đồ ng, Ninh 14 Vượn má hung Thuâ ̣n, Biǹ h Thuâ ̣n, Đồ ng Nai, Bình Phước 15 Vượn siki Nghê ̣ An, Hà Tiñ h, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế
  11. 8 TT Tên loài Phân bố 16 Voọc bạc Tây Nguyên, Đông Nam Bô ̣ Hà Tĩnh, Quảng Bình (Tuyên Hóa, Lệ Thủy, Bố 17 Voọc Hà Tĩnh Trạch). Yên Bái (Văn Chấn), Hòa Bình (Chi Nê), Ninh 18 Voọc mông trắng Bình (Cúc Phương, Vân Long), Nghệ An (Quỳ Châu, Con Cuông), Hà Tĩnh (Hương Sơn). Tuyên Quang (Chiêm Hóa, Nà Hang), Yên Bái 19 Voọc mũi hếch (Trấn Yên). Yên Bái (Trấn Yên, Nghĩa Lộ), Lai Châu, Hà Tây, Hòa Bình Vĩnh Phú, (Thanh Sơn), Ninh Bình 20 Voọc xám (Hoàng Long), Thanh Hóa (Lang Chánh, Hồi Xuân), Nghệ An (Quế Phong, Quỳ Châu, Kỳ Sơn, Tương Dương, Anh Sơn). 21 Voọc đầu trắng Hải Phòng (đảo Cát Bà). Kon Tum, Gia Lai vào đến Tây Ninh và Đồng Nai, Voo ̣c bạc géc 22 phía Nam đồng bằng sông Cửu Long ở Kiên Giang manh và trên đảo Phú Quốc 23 Voọc gáy trắng Hà Tiñ h, Quảng Bình 24 Voọc đen tuyền Mường La (Sơn La), Mù Căng Chải, Văn Bàn (Yên Bái) (Nguồn sách đỏ Việt Nam 2007[1]) Vùng phân bố của các loài thú Linh trưởng Việt Nam đại đa số đang ngày càng thu hẹp chẳng hạn như Voọc mũi hếch trước kia từng phân bố ở Ba Bể - Bắc Kạn nhưng đến năm 2007 ở đây không còn sự phân bố của chúng. Đối với Voọc má trắng trước kia phân bố ở hầu hết các tỉnh vùng Đông Bắc Việt Nam, tuy nhiên cho đến nay quần thể loài này chỉ giới hạn ở một số tỉnh
  12. 9 như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên với số lượng quần thể nhỏ và bị chia cắt (Nadler và cs, 2003). 1. 4 Tình trạng các loài Linh trưởng Việt Nam Việt Nam có thể nói là trung tâm đa dạng thú Linh trưởng của thế giới song hầu hết các loài ở đây đều đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng ngày càng cao, thể hiện bằng số lượng các loài có mặt trong sách đỏ các năm. Bảng 1.4 Tình trạng các loài Linh trưởng Việt Nam Phân theo cấp STT Sách đỏ năm Cấp LR Cấp V CR Cấp VU EN 1 1992 9 5 2 2000 9 7 3 2007 3 4 6 7 Qua bảng 1.4 ta thấy tình trạng của các loài thú Linh trưởng Việt Nam dường như có xu hướng tăng về bậc xếp hạng trong Sách đỏ Việt Nam. Cụ thể, năm 1992 có 14 loài, đến năm 2007 tăng lên đến 20 loài. Một số loài ở cấp đe doạ ngày càng tăng như Voọc Hà Tĩnh (Trachypithecus hatinhensis), từ cấp V năm 1992 lên cấp EN năm 2000, Voọc mông trắng (Trachypithecus delacouri) Chà vá chân đen từ cấp V năm 1992, 2000 lên cấp EN năm 2007, Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus) từ cấp E năm 1992, 2000 lên cấp CR năm 2007, Voọc đầu trắng (Trachypithecus francoisi poliocephalus) từ cấp EN năm 1992, 2000 lên cấp CR năm 2007
  13. 10 1.5 Khu hệ thú, Linh trưởng - Thành phần loài Khu hệ thú Linh trưởng tại KBTTN Thần Sa Phượng – Hoàng có 7 loài chiếm 12 % trong tổng số các loài thú có mặt tại đây. Tất cả chúng đều đã có mặt trong sách đỏ Việt Nam năm 2007 và Nghị đinh 32 của chính phủ (bảng 1.5). Đặc biệt, sự có mặt của loài Voọc đặc hữu và nguy cấp cao: loài Vọoc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus). Đây là loài có kích thước quần thể ngoài tự nhiên thấp và hiện tại phân bố rải rác ở 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Được thống kê trong bảng sau: Bảng 1.5 Tình trạng các loài thú Linh trưởng tại KBTTN Thần Sa Phượng Hoàng Tên Việt Nam Tên khoa học SĐVN 2007 - N Đ32 Cu li lớn Nycticebus bengalenes VU, IB Khỉ vàng Macaca mulatta LR, IIB Khỉ mốc Macaca assamensis VU, IIB Khỉ mặt đỏ Macaca arctoides VU, IIB Vọoc đen má trắng Trachypithecus francoisi EN, IB Vọoc mũi hếch Rhinopithecus avunculus CR, IB Vượn đen Hải Nam Nomascus nasutus CR, IB 1.6 Các mối đe dọa đối với khu hệ thú Linh trưởng 1.6.1. Ở Việt Nam Mất nơi sống và săn bắt là hai mối đe dọa chính đối với khu hệ thú Linh trưởng ở Việt Nam hiện nay (Phạm Nhật, 2002; Nadler và cộng sự, 2003; Đồng Thanh Hải 2009; Boonratana và Lê Xuân Cảnh, 2006). Khác với các nhóm động vật khác, thú Linh trưởng sống chủ yếu ở rừng tự nhiên, chỉ một số loài vãng lai đi kiếm ăn trên các nương rẫy hoặc ven khe suối gần
  14. 11 rừng. Vì vậy, mất rừng tự nhiên là mất hết tất cả các điều kiện sống cơ bản của chúng. Theo Viện điều tra quy hoạch rừng (FIPI), thì diện tích rừng tự nhiên của Việt Nam năm 1943 có 14.3 triệu ha, so với năm 1990 chỉ có 8,43 triệu ha. Đến năm 2000 diện tích rừng tự nhiên có tăng lên 9.444 triệu ha, nhưng phần lớn là rừng phục hồi[17]. Những diện tích rừng này chỉ có thể giúp các loài Cu li, Khỉ mở rộng vùng sống, nhưng các loài Voọc, Vượn vẫn chưa có cơ hội có thêm sinh cảnh vì diện tích rừng giàu, rừng trung bình và rừng núi đá, nơi sống chính của các loài Linh trưởng không tăng lên [8]. Mất nơi sống, các quần thể Linh trưởng giảm khả năng tăng trưởng và phát triển. Mặt khác, mất rừng buộc các quần thể thú Linh trưởng phải co cụm lại và chính điều này tạo thuận lợi cho các thợ săn tiêu diệt chúng một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn [8]. Săn bắt bừa bãi là mối đe dọa quan trọng thứ hai. Săn bắt thú Linh Trưởng có từ khi loài người xuất hiện và càng ngày càng phát triển. Cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật và trí thông minh của con người là sự phát triển các hình thức và kỹ thuật săn bắt thú Linh trưởng. Các loài Khỉ, Voọc, Vượn đều là những loài có kích thước và trọng lượng cơ thể lớn, cung cấp một lượng thực phẩm đáng kể, là nguồn nguyên liệu, dược liệu có giá trị nên chúng là đối tượng săn bắn hấp dẫn của nhiều người. Thợ săn ở các địa phương đã dùng đủ mọi phương tiện thô sơ như nỏ, bẫy cần giật, bẫy lồng sập, bẫy kẹp, súng kíp đến các phương tiện hiện đại như súng săn hai nòng bắn đạn ghép, súng liên thanh quân dụng để săn bắt các loài thú Linh Trưởng. Các thợ săn không chỉ đi đơn mà còn tổ chức thành nhóm lớn, dùng cả chó xua đuổi dồn thú Linh Trưởng lại để bắn. Một số địa phương còn dùng lửa đốt xung quanh rừng có Voọc mũi hếch và đánh trống chiêng inh ỏi suốt ngày đêm làm cả đàn thú không ngủ được, sau cùng phần vì đói, phần vì sợ hãi,
  15. 12 chúng lần lượt bị rơi xuống đất và bị trói đem về làm thịt (Đào Văn Tiến, 1983) [10]. Nhiều thợ săn ở Cát Bà còn dùng bẫy lồng để săn bắt Khỉ. Từ những bẫy lồng chỉ bắt được một vài con, họ đã cải tiến thiết kế các bẫy lồng lớn hơn để bẫy bắt cả đàn [8]. Cũng theo Phạm Nhật (2002), năm 1985 ở địa bàn 3 xã của huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh), có ít nhất 35 Chà vá và 70 Khỉ cộc bị bắn chết. Hai tháng cuối năm 1991 và 3 tháng đầu năm 1992, ít nhất có 16 con Voọc mũi hếch bị bắn chết ở Na Hang. Trong những năm 1980 - 1991, vùng Phong Nha Kẻ Bàng đã rất phát triển nghề "khỉ ép". Sau khi Khỉ, Voọc bị bắn, thợ săn mổ bỏ nội quan, sấy và ép con vật và mang về bán cho lái buôn. Thời kỳ đó hàng năm ít nhất không dưới 10 tấn thú Linh trưởng khô (tương đương với khoảng 1.500 con Khỉ ,Voọc) bị khai thác [8]. Từ năm 1991 đến nay hoạt động săn bắt thú Linh trưởng ở vùng Phong Nha Kẻ Bàng tuy cường độ giảm vì súng quân dụng đã bị Ban Chỉ huy quân sự tỉnh thu hồi (1991) nhưng vẫn còn tiếp tục và hàng năm không dưới 1 tấn Khỉ ép được khai thác [8]. Những năm gần đây thú Linh trưởng là nguồn hàng có giá trị thương mại cao. Chính vì vậy, các loại mẫu nhồi, da lông, Cao Linh trưởng được buôn bán, thúc đẩy hoạt động săn bắn thú Linh trưởng gia tăng. Tóm lại, rừng bị mất và săn bắn bừa bãi là những minh chứng về sự yếu kém trong công tác quản lý rừng nói chung và tài nguyên thú Linh trưởng nói riêng. Những yếu kém này vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Lý do phổ biến và bao trùm trước hết có lẽ do sự chi phối bởi đời sống kinh tế khó khăn của cộng đồng, đồng bào dân tộc trên mọi miền của đất nước sau nhiều năm chiến tranh khốc liệt và phương thức canh tác lạc hậu. Việt Nam là một nước nông nghiệp, cuộc sống của phần lớn dân cư, đặc biệt là các cộng đồng miền núi hiện còn phụ thuộc rất nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ở các vùng sâu, vùng xa, 90% dân địa phương sống dựa vào nông nghiệp và khai
  16. 13 thác lâm sản (kể cả thú Linh trưởng) và có khoảng 50% hộ gia đình thuộc diện nghèo đói [8]. Lý do quan trọng thứ hai, công tác pháp chế, bảo tồn trong quản lý tài nguyên rừng còn yếu, một phần do trình độ dân trí chưa cao, nhận thức về giá trị bảo tồn tài nguyên rừng cũng như hiểu biết của cộng đồng về pháp luật còn hạn chế. Nhưng phần lớn là do hạn chế về ý thức và trách nhiệm của những cán bộ công tác trong lĩnh vực quản lý và bảo tồn tài nguyên rừng và các cấp ngành liên quan. 1.6.2 Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa – Phượng Hoàng Sự phân bố các điểm dân cư rộng khắp trong khu bảo tồn là mối đe doạ lớn nhất đối với Động vật rừng ở đây. Dân cư sống phân tán, các thôn bản chỉ cách nhau khoảng 6 - 7 km theo đường chim bay đã xé lẻ sinh cảnh của khu bảo tồn. Phạm vi di chuyển và tìm kiếm thức ăn của động vật bị thu hẹp so với nhu cầu. Điều đó làm cho chúng rất dễ bị tiêu diệt. Bên cạnh đó, tài nguyên động vật trong khu bảo tồn Thần Sa - Phượng Hoàng còn thường xuyên bị đe doạ bởi nạn săn bắn và sự suy giảm của thảm thực vật rừng. Các loài thú lớn nhìn chung đã cạn kiệt. Các loài động vật đặc hữu hầu như không còn thấy xuất hiện ở khu bảo tồn Thần Sa - Phượng Hoàng. Các loài thú quý hiếm hiện còn lại trong khu bảo tồn như Gấu, các loài trong bộ Linh trưởng, Beo lửa, Báo gấm... vẫn bị đe doạ một cách nghiêm trọng. Sự tồn tại của các loài thú quý hiếm này thực sự trở nên mong manh, nếu không có các biện pháp bảo vệ bảo tồn kịp thời và quyết liệt thì nguy cơ tuyệt chủng là rất cao.
  17. 14 Chương 2 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI 2.1 Điều kiện tự nhiên 2.1.1 Vị trí địa lý Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng nằm cách thành phố Thái Nguyên 40 km về phía Đông Bắc, với tổng diện tích 17.639,0 có toạ độ địa lý: Từ 21o45'12'' đến 21o 56'30'' vĩ độ Bắc Từ 105o51'05" đến 106o08'38" kinh độ Đông Phía Tây giáp huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Phía Bắc giáp huyện Na Rì, tỉnh Bắc Cạn Phía Đông giáp huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Phía Nam giáp các xã còn lại của huyện Võ Nhai. Khu vực nghiên cứu đề tài gồm toàn bộ diện tích nằm trong gianh giới Khu bảo tồn gồm thị trấn Đình Cả và 7 xã phía Bắc của huyện Võ Nhai là Thần Sa, Sảng Mộc, Thượng Nung, Nghinh Tường, Vũ Chấn, Phú Thượng, Cúc Đường. 2.1.2 Địa hình, địa chất và thổ nhưỡng 2.1.2.1 Địa hình Khu bảo tồn thuộc vùng núi cao nằm phía Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên, địa hình chia cắt hiểm trở, núi đá chiếm gần 87 % diện tích khu bảo tồn. Khu vực thuộc phần cuối cùng phía Nam của dãy Ngân Sơn bắt đầu từ Bắc Kạn. Độ cao tuyệt đối trung bình khoảng 700 m.[11] 2.1.2.2 Địa chất và thổ nhưỡng a. Địa chất
  18. 15 Đá trầm tích cổ nhất ở đây có tuổi Cambri, chủ yếu gồm các thành hệ lục nguyên, lộ ra các đá Phiến, bột kết màu xám tím hoặc đỏ có nhiều vảy Mica có ít lớp mỏng bột kết chứa đá vôi. Kẹt giữa các đứt gãy, trồi lên một giải hình vòng cung là đá Cát kết, đá Phiến sét, đá sét Vôi và đá vôi Bitum tuổi Đêvôn trung. Phân bố rộng rãi nhất các núi được cấu tạo bằng các loại đá thuộc điệp sông Hiến, chủ yếu là đá Vôi, đá Khoáng và xen kẽ với đá Phiến sét, tuổi Palêôzôn trung. b. Thổ nhưỡng Phầ n lớn là đấ t feralit phong hoá từ đá vôi, còn lại là đất mùn thung lũng, đất bồi tụ ven sông suối chiếm một phần nhỏ diện tích trong khu bảo tồn gần như không có ý nghĩa trong canh tác nông nghiệp. 2.1.3 Khí hậu thủy văn a. Khí hậu Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ảnh hưởng của khí hậu vùng cao, một năm chia thành 2 mùa, mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Số giờ nắng trung bình năm là 1.560 giờ năm cao nhất là 1.750 giờ năm thấp nhất là 1.470 giờ. - Chế độ ẩm: lượng mưa trung bình năm là 1.750mm. Năm cao nhất tới 2.450mm năm thấp nhất 1.250mm. Lượng mưa phân bố không đều, từ tháng 4 đến tháng 9 - Lượng bốc hơi bình quân năm 885mm, bằng 50,6% lượng mưa trung bình năm, lượng bốc hơi lớn thường xảy vào các tháng 12 và tháng 1, gây nên tình trạng khô hạn nghiêm trọng ảnh hưởng đến cây trồng vụ đông xuân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2