intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách giao đất, giao rừng đến kinh tế hộ tại xã Hải Vân huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là đánh giá tác động của công tác giao đất giao rừng nhằm hoàn thiện quá trình thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp được giao tại xã Hải Vân - huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hoá. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách giao đất, giao rừng đến kinh tế hộ tại xã Hải Vân huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hóa

  1. bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé n«ng nghiÖp vµ ptnt tr-êng ®¹i häc l©m nghiÖp Bïi thÞ hoa NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHÍNH SÁCH GIAO ĐẤT, GIAO RỪNG ĐẾN KINH TẾ HỘ TẠI Xà HẢI VÂN HUYỆN NHƯ THANH - TỈNH THANH HÓA Chuyªn ngµnh: L©m häc M· sè: 60.62.60 LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc l©m nghiÖp Ng-êi h-íng dÉn khoa häc T.S ®ç anh tu©n Tµi liÖu tham kh¶o hµ néi, 2010
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, một tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Việc sử dụng bền vững nguồn tài nguyên đất đai là một vấn đề quan trọng đối với tất cả các quốc gia. Ở Việt Nam, chính sách và pháp luật về lĩnh vực quản lý đất đai được hình thành và hoàn thiện từng bước. Năm 1988, Luật đất đai đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước chuyển mình của nền kinh tế đất nước. Trước những yêu cầu đổi mới, Luật này được sửa đổi bổ sung phù hợp với tình hình hình thực tế ở từng giai đoạn. Luật đất đai đã cụ thể rõ quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và được xác lập trên cơ sở giao đất cho các hộ gia đình sử dụng và ổn định lâu dài. Cùng với sự ra đời của luật đất đai, Chính phủ đã ban hành một số chính sách quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý rừng và đất rừng, trong đó phải kể đến đó là: Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định 01/CP ngày 01/11/1995 về giao khoán và sử dụng đất vào mục đích nông lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước; Nghị định 163/1999/NĐ-CP ban hành ngày ngày 16/11/1999 bổ sung và thay thế một số điều trong Nghị định 02/CP. Gần đây Quốc hội nước ta đã đưa ra Luật đất đai số 13/2003/QH11. Luật này quy định về quyền hạn và trách nhiệm của nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai , quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; Luật bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 và các văn bản có liên quan đến giao đất giao rừng và hưởng dụng rừng như Nghị định 135/2005/NĐ-CP về
  3. 2 giao khoán đất, Quyết định 186/2006/QĐ-TTg về quy chế quản lý rừng, Quyết định 40/2005/QĐ-BNN về quy chế khai thác gỗ và lâm sản. Những chính sách này cùng với những chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã tạo động lực, khuyến khích người dân tham gia nhận đất nhận rừng, đầu tư tiền vốn và nhân lực để sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế trên diện tích rừng và đất rừng được giao. Thực tiễn những năm qua cho thấy, chính sách giao đất, giao rừng đã thực sự đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của người dân, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện cuộc sống, nhiều hộ nông dân có thu nhập khá từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trên đất được giao, khoán. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng vào thực tiễn, do đặc điểm đa dạng của các vùng khác nhau, việc triển khai thực hiện những chính sách giao, khoán đất lâm nghiệp ở mỗi địa phương lại có những thuận lợi và khó khăn riêng, chính vì vậy mà tác động của những chính sách này tới sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi địa phương cũng có sự khác nhau và mang đặc thù của mỗi vùng. Hải vân là một xã miền núi thuộc huyện Như Thanh, tỉnh Thanh hoá. Nh÷ng n¨m qua, thùc hiÖn chñ ch-¬ng cña §¶ng vµ Nhµ n-íc, các hộ nhân dân địa phương đã được nhận đất, nhận rừng theo nghị định 01/CP và 02/CP. Từ khi thực hiện chính sách đến nay đời sống vật chất, tinh thần của người dân đã có nhiều thay đổi. Luận văn “Nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách giao đất, giao rừng đến kinh tế hộ tại xã Hải Vân - huyện Như Thanh - tỉnh Thanh Hoá” được thực hiện trên cơ sở đánh giá tác động chủ yếu của chính sách giao, khoỏn đất lâm nghiệp tới sự phát triển kinh tế hộ gia đình và môi trường trên địa bàn xã, hy vọng góp phần nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
  4. 3 CHƯƠNG I TỔNG QUAN VẤN ĐỀ 1.1. Giao đất lâm nghiêp 1.1. 1. Giao đất lâm nghiệp trên thế giới Mỗi quốc gia trên thế giới có một đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội , điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán và lịch sử phát triển riêng. Chính vì vậy mà mỗi nước hình thành nên một hệ thống quản lý, sử dụng đất đai mang đặc thù riêng. Đối với những nước không phải trải qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thì vấn đề quản lý, sử dụng đất đai hầu như ít có biến động, sở hữu đất đai mang tính truyền thống và chủ yếu là sở hữu tư nhân. Những nước phải trải qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ thì vấn đề quản lý và sử dụng đất đai có nhiều thay đổi qua từng thời kỳ khác nhau, nhiều nước đã tiến hành giao đất lâm nghiệp, xu hướng chung là quay trở lại với hình thức quản lý truyền thống dựa trên cơ sở gắn đất đai với người nông dân. Ở Inđônexia, mỗi gia đình ở gần rừng được nhận khoán 2.500 m2 đất trồng cây, trong 2 năm đầu được phép trồng lúa cạn, hoa màu trên diện tích đó và được hưởng toàn bộ sản phẩm hoa màu không phải nộp thuế. Công ty lâm nghiệp cho nông dân vay vốn dưới hình thức cung cấp giống, phân hoá học, thuốc trừ sâu, sau khi thu hoạch người nông dân phải trả lại đầy đủ số giống đã vay, còn phân hoá học và thuốc trừ sâu chỉ phải trả lại 70%. Trường hợp rủi ro, nếu mất mùa thì không phải trả vốn vay đó. Ngoài ra, nhà nước còn hỗ trợ một phần kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Hướng dẫn kỹ thuật nông lâm nghiệp thông qua các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. Tổ chức làm thí điểm, học tập rút kinh nghiệm và triển khai ra diện rộng 26. Ở Nhật bản, có ba hình thức sở hữu đất lâm nghiệp đó là sở hữu nhà nước, sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Nhà nước sở hữu 7,84 triệu ha chiếm 31,2% rừng và đất rừng của cả nước, những diện tích rừng và đất rừng này chủ yếu ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình hiểm trở... thuộc quyền quản lý của
  5. 4 Cục Lâm nghiệp - Bộ Nông lâm thủy sản. Các tổ chức chính quyền địa phương sở hữu trên 2,7 triệu ha chiếm 10,74%. Các công ty tư nhân và các hộ gia đình sở hữu 14,6 triệu ha, chiếm 58,10%. Có tới 88% chủ rừng là các hộ tư nhân, trong số đó 89% là những người có từ 0,1 ha - 5 ha đất lâm nghiệp; 10,7% là những chủ hộ tư nhân có từ 5 ha - 50 ha còn lại 0,4% là những chủ hộ tư nhân có trên 50 ha đất lâm nghiệp. Do phần lớn các chủ rừng là những người sở hữu dưới 5 ha đất lâm nghiệp nên các chủ rừng này đã liên kết với nhau thành các Hội. Hiện nay Nhật Bản có 1.430 Hội các chủ rừng với 1.718.000 thành viên. Để nhằm thúc đẩy công tác xây dựng và phát triển, Chính phủ có chương trình trợ cấp nhằm hỗ trợ cho các hoạt động lâm sinh, xây dựng đường lâm nghiệp thông qua Hội các chủ rừng, ngoài ra các chủ rừng còn được ưu tiên vay vốn để sản xuất kinh doanh với lãi xuất thấp, đồng thời còn được giảm thuế đất lâm nghiệp 13 Ở Philipin, chính sách lâm nghiệp xã hội “Institutional Social Forestry Program” (ISFP) năm 1980 của chính phủ nhằm dân chủ hoá việc sử dụng đất rừng công cộng và khuyến khích việc phân chia một cách hợp lý các lợi ích của rừng, chương trình này nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội cho cộng đồng người dân sống phụ thuộc vào đất rừng thông qua đó phát triển và bảo vệ tốt tài nguyên rừng . ở đó đã đề cập đến chứng chỉ hợp đồng, thoả thuận quản lý, bộ phận lâm nghiệp xã hội chịu trách nhiệm xử lý và phát hành các chứng chỉ hợp đồng quản lý: “Certificates for Stewardship Contracts” (CSC), bản thoả thuận quản lý lâm nghiệp cộng đồng: “Community Forestry Stewardship Agreements” (CFSA). Với hai loại thoả thuận này thì chứng chỉ CSC do chính phủ cấp cho người dân sống trên đất rừng đã có đủ tư cách pháp nhân được hưởng các thành quả lao động trên mảnh đất đó, ở đấy cho phép người dân sử dụng diện tích thực đang ở hay đang canh tác không quá 7 hécta. Đối với chứng chỉ CFSA chính là một hợp đồng giữa chính phủ với một công đồng hay một hội
  6. 5 lâm nghiệp kể cả nhóm hộ bộ lạc. Với CFSA thì đất không được giao cho các nhân mà chỉ giao cho một cộng đồng hay hiệp hội và các thành viên của nó với sự thoả thuận trước để sử dụng trên phạm vị một xã. Cả CSC và CFSA để có giá trị là 25 năm và có thể gia hạn sau khi hết hạn giao. Những nggười giữ CSC hay CFSA đều có trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ trong khu vực thực hiện dự án. Sau định kỳ 5 năm thì hội đồng được thành lập để đánh giá hiệu quả chương trình. Nội dung đánh giá được tập trung một số vấn đề: hiệu quả của việc sử dụng rừng và đất rừng, diện tích được cấp CSC và CFSA trên toàn xã, hiệu quả sản xuất trên diện tích đất được cấp, và mức độ gìn giữ và bảo vệ tài nguyên rừng 26. Ở Trung Quốc, theo Hiến pháp của Nhà nước vào đầu những năm 80, Chính quyền nhà nước Trung ương đến tỉnh và huyện bắt đầu cấp chứng nhận quyền sử dụng đất cho tất cả các chủ rừng là các tổ chức nhà nước, tập thể và tư nhân. Mỗi hộ nông dân được phân phối một diện tích đất rừng để sản xuất kinh doanh “ Luật lâm nghiệp quy định đơn vị tập thể và nông dân trồng cây trên đất mình làm chủ thì hoàn toàn được hưởng sản phẩm trên mảnh đất đó”. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chính phủ đã áp dụng chính sách nhạy bén thúc đẩy phát triển trang trại rừng và kinh doanh đa dạng để có lợi trước mắt và lâu dài. Đồng thời với việc cải cách và mở cửa, ngành lâm nghiệp Trung Quốc đã được chuyển dịch từ chỗ chỉ thực hiện chế độ sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể sang thực hiện nhiều thành phần tham gia kinh doanh lâm nghiệp (nhà nước, tập thể, cá nhân, liên doanh, hợp tác…). Nhiều chính sách về đất lâm nghiệp được thực hiện, đặc biệt là chính sách “tam định”, trong đó định rõ ba vấn đề: Quyền sử đất đồi núi, quyền sử dụng rừng và quy hoạch đất, diện tích đất lâm nghiệp được để lại cho các hộ nông dân sử dụng. Người dân được giao và cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất rừng. Nhà nước cũng ban hành
  7. 6 nhiều luật, chính sách để tạo điều kiện cho việc lưu chuyển và trao đổi quyền sử dụng đất lâm nghiệp 26 Ở Thái Lan, từ năm 1979 chương trình cấp giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi trong rừng dự trữ quốc gia đã được thực hiện. Theo đó mỗi mảnh đất được chia thành hai miền: miền dưới nguồn nước dùng để canh tác nông nghiệp, còn miền trên nguồn nước thì bị hạn chế nhằm giữ rừng. Đối với mỗi miền đát phù hợp cho canh tác nông nghiệp mà trước đây người dân đã sử dụng(dưới 2,5 ha) thì được cấp cho người dân giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi. Mục đích của việc làm này chính là khuyến khích đầu tư vào đất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao hạn chế sự xâm lấn vào rừngTư khi chương trình này thực hiện đến năm 1986 đã có tới hơn 600.000 hộ dân không có đất đựoc cấp giấy chứng nhận hưởng hoa lợi. Bên cạnh chương trình cấp giấy cứng nhận hưởng hoa lợi, năm 1975 Cục lâm nghiệp Hoàng gia Thái Lan còn thực hiện chương trình làng lâm nghiệp, với hy vọng giải quyết những người đựoc chọn ở lại trên đất rừng. Chương trình sau khi thực hiện đã đem lại trật tự cho những người nông dân đang sinh sống ở rừng và khuyến khích họ tham gia bảo vệ rừng quốc gia, phục hồi lại những diện tích rừng đã bị suy thoái do du canh. Chương trình làng lâm nghiệp được thực hiện trên những nguyên tắc: - Mọi người sống ở rừng sẽ đựoc tập trung lại thành từng nhóm trong những vùng không phải là nguồn nước gọi là làng. Mỗi làng bầu ra người lãnh đạo và một hội đồng để tự quản lý. - Trong mỗi làng, Cục lâm nghiệp và chính phủ sẽ cung cấp nhà ở phù hợp, nguồn nước, đường giao thông đi lại, Trường học, trung tâm y tế, ngân hàng, dịch vụ, tiếp thị và đào tạo nghề nghiệp. - Chính phủ chia cho mỗi hộ gia đình nông dân từ 2-4 ha đất có giấy phép quyền sử dụng và được thừa kế nhưng không đựơc bán, chuyển nhượng. Việc
  8. 7 làm này nhằm mục đích ngăn chặn những địa chủ đầu cơ mua bán toàn bộ diện tích đát của nông dân. - Sau khi các làng được thành lập thì một hợp tác xã nông lâm nghiệp đựoc tổ chức và hoạt động dưới sự bảo trợ của ban khuyến khích hợp tác xã với các quyền lợi cụ thể. Từ đó Cục lâm nghiệp Hoàng gia sẽ ký hợp đồng giao đất dài hạn cho những hợp tác xã đó theo yêu cầu và thành lập nhóm chuyên gia đánh giá hiệu quả đầu tư trên diện tích đất được giao26. Ở Thuỷ Điển, nhà nước quản lý 25% diện tích rừng và đất rừng, các công ty lớn sở hữu 25% còn lại 50% diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu của các hộ tư nhân. Ở Phần lan, sở hữu tư nhân về rừng và đất rừng ở Phần Lan mang tính truyền thống, có tới hai phần ba diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu tư nhân và có khoảng 430.000 chủ rừng, bình quân mỗi chủ rừng sở hữu 33 ha. 1.1.2. Giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam 1.1.2.1 Khái quát chung về chính sách giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam Quá trình giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam được thực hiện từ năm 1968 và trải qua nhiều thời kỳ khác nhau: - Thời kỳ 1968 - 1982: Thời kỳ này đất nước ta đang trong giai đoạn chiến tranh, chỉ có hai thành phần kinh tế là Quốc doanh và hợp tác xã. ở giai đoạn này Nhà nước mới khuyến khích và công nhận sự tồn tại 2 thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh lâm nghiệp (Lâm trường quốc doanh) và hợp tác xã trong kinh doanh rừng. Một số văn bản của Nhà nước có liên quan đến vấn đề giao đất giao rừng đó là Nghị định 38/CP ngày 12/3/1968 của chính phủ về “Công tác vận động định canh định cư kết hợp với hợp tác xã đối với đồng bào còn du canh du cư”, Thông báo số 18/TB-UB ngày 23/10/1968 của hội nghị ban bí thư bàn về lĩnh vực Lâm nghiệp có ghi “Nhà nước cần giao cho Hợp tác xã sử dụng một số đất hoang hoặc rừng cây để kinh doanh nghề rừng, Hợp tác xã sẽ
  9. 8 được hưởng lợi tuỳ theo công sức của mình bỏ ra” năm 1968, Quyết định số 179/HĐ-BT ngày 12 tháng 11 năm 1968 của Hội đồng Bộ trưởng:”Về một số chính sách đối với hợp tác xã có kinh doanh nghề rừng”, mục đích của chính sách này là nhằm đẩy mạnh công tác trồng rừng, bảo vệ rừng và giao đất lâm nghiệp cho hợp tác xã. Đây là những văn bản đầu tiên quy định chính sách giao đất lâm nghiệp cho từng đối tượng cụ thể. Trên diện tích đất rừng và rừng đã được nhà nước giao cho Hợp tác xã kinh doanh toàn diện thì cây cối và hoa lợi kể cả các sản phẩm đã có, Hợp tác xã phải có nghĩa vụ bán cho nhà nước các sản phẩm chính (gỗ, củi, tre nứa) theo đúng chỉ tiêu kế hoạch và giá thu mua như đối với cây công nghiệp. Một vấn đề nữa cũng được quy định trong quyết định 179/HĐ-BT là trên diện tích rừng và đất rừng đựơc giao cho Hợp tác xã kinh doanh từng phần theo quy hoạch và kế hoạch của nhà nước như trồng rừng, tu bổ, cải tạo, khai thác và làm đường vận chuyển. Khi hợp tác xã làm xong công việc cần giao lại cho nhà nước theo nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch và phảI có kiểm kê, nghiệm thu, nhà nước sẽ trả công khoán cho Hợp tác xã căn cứ theo hao phí từng khâu, có phân biệt xã gần. Như vậy tại văn bản này đã đề ra hai hình thức giao đất giao rừng đó là: Giao cho Hợp tác xã quản lý kinh doanh toàn diện và giao khoán từng khâu công việc. Việc tổ chức thực hiện việc giao đất lâm nghiệp trong giai đoạn này còn nhiều thiếu sót do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của người dân trong kinh doanh, việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp thiếu chặt chẽ, làm ồ ạt hình thức, chạy theo số lượng diện tích, chưa có quy hoạch đất đai, chưa phân 3 loại rừng và xác định giao đất lâm nghiệp cho từng đối tượng cụ thể. - Thời kỳ 1983 - 1992: Sau khi có Quyết định 184 -HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Lâm nghiệp đã tổ chức nhiều hội nghị cấp cao lãnh đạo tỉnh, có sự phối hợp và tham gia của các Ban ngành có liên quan ở Trung ương đồng thời mở nhiều cuộc hội thảo, nhiều lớp tập huấn, tổ chức tham quan học tập, phổ biến
  10. 9 các điển hình vv... Sau hội nghị ở Trung ương, các tỉnh, huyện đều mở hội nghị tập huấn cho cán bộ của cấp mình và thành lập Ban chỉ đạo giao đất lâm nghiệp các cấp. Tính từ Hội nghị đồi rừng ở Vĩnh Phú cuối năm 1983 đến năm 1985, đã có hơn 30 tỉnh và 103 huyện xây dựng và thông qua được nghị quyết về lâm nghiệp cũng như ban hành được các chính sách về giao đất lâm nghiệp của địa phương mình 10. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Nhà nước có chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, ngoài thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, Nhà nước còn có chủ trương giao đất cho tư nhân, vì vậy đã khuyến khích nhiều người nhận đất đồi núi trọc bỏ vốn gây trồng rừng. Thời kỳ này, giao đất lâm nghiệp trên cơ sở có quy hoạch sử dụng đất đai. Bộ Lâm nghiệp đã ban hành Quyết định số 1171 LN/QĐ ngày 30/12/1986 về quy chế quản lý 3 loại rừng: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất, tiến hành phân cấp quản lý rừng... chuyển dần từ cơ chế bao cấp sang tự chủ sản xuất kinh doanh và từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. Các chủ chương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước có Nghị quyết số 10/NQTW, Nghị quyết số 22/NQTW về phát triển kinh tế xã hội miền núi và Quyết định số 72/HĐBT về thực hiện Nghị quyết số 22/NQTW khẳng định phải thực hiện mạnh mẽ chủ trương giao đất lâm nghiệp cho các gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, các gia đình cán bộ, công nhân người kinh sống ở miền núi, các hộ tư nhân ở miền xuôi lên, các đơn vị kinh tế cơ sở, các cơ quan, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang. Cùng với việc thực hiện các văn bản nói trên, cuối năm 1986 có Quy chế quản lý 3 loại rừng sau một thời gian tổ chức thực hiện có hiệu quả đã làm cơ sở xây dựng Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ban hành ngày 14/7/1991. Để hướng dẫn việc giao đất giao rừng, ngày 6/2/1991 Bộ Lâm nghiệp và Tổng cục Quản lý ruộng đất đã ban hành Thông tư liên Bộ số 01/TT/LB hướng dẫn việc giao rừng và đất để trồng rừng cho các tổ chức, cá nhân sử dụng vào
  11. 10 mục đích lâm nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cũng đã ban hành đồng bộ một số chính sách đầu tư, hỗ trợ như Quyết định số 327/CT về một số chủ chương, chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng bãi bồi ven biển và mặt nước, trong đó ban hành chính sách đầu tư hỗ trợ khoảng 40% tổng vốn đầu tư dành cho các hộ gia đình vay theo nguyên tắc không lấy lãi. Việc hoàn trả vốn vay bắt đầu thực hiện khi có sản phẩm; Quyết định 264/CT về khuyến khích đầu tư phát triển rừng đã giải quyết khó khăn về vốn cho người dân trồng cây lâm nghiệp ở vùng định canh định cư. Có thể thấy rằng, việc tổ chức thực hiện chủ trương giao đất lâm nghiệp trong thời kỳ này của Ngành lâm nghiệp là nghiêm túc, cụ thể, có những bước đi cơ bản và đã đạt được những thành tựu đáng kể 10. Công tác giao đất giao rừng thời kỳ này có những tiến bộ đáng kể đã mang lại sự khởi sắc cho nghề rừng nước ta 19, đã tạo động lực phát triển kinh tế nông lâm nghiệp ở miền núi, bước đầu đã hình thành nên thị trường ở trung du miền núi. - Thời kỳ 1993 đến nay: Thời kỳ này Đảng và nhà nước ta đã có những thay đổi lớn trong quản lý rừng và đất rừng, nhà nước đã ban hành các chủ trương chính sách về đất đai nhằm thực hiện triệt để công tác giao khoán đất rừng. Luật đất đai năm 1993 được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 14/7/1993 và có hiệu lực ngày 15/10/1993 (Luật này thay thế Luật đất đai năm 1987) 15. Luật này đã đánh dấu kết quả một quá trình nghiên cứu, vận dụng thực tiễn để thể chế hoá các chính sách mới về đất đai, vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở hữu toàn dân, vừa phù hợp với cách vận dụng mới của nền kinh tế hàng hoá, bắt đầu tiếp cận với cơ chế thị trường hiện đại. Qua hai lần sửa đổi, bổ sung năm vào 1998 và năm 2001, Luật này thể hiện chủ chương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về đất đai, cụ thể hoá điều 17 và 18 hiến pháp năm 1992 Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  12. 11 Nghiên cứu tổng quát những sửa đổi bổ sung về chính sách được thể chế trong Luật đất đai, có những vấn đề nổi bật sau: + Củng cố và tăng cường quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai, tăng cường vai trò quản lý thống nhất của Nhà nước. + Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình để sử dụng ổn định lâu dài. + Nhà nước xác định giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá tài sản khi giao, bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi. + Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất đã được xác định tạo cơ sở pháp lý về những lợi ích cụ thể để người sử dụng đất thực sự làm chủ về sử dụng và kinh doanh trên đất được giao 4. Cùng với sự ra đời của Luật đất đai năm 1993, Chính phủ đã ban hành một số chính sách quan trọng như: Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp 6. Quyết định 202/TTg ngày 2/5/1994 về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng và trồng rừng. Nghị định số 01/CP ngày 4/1/1995 về việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước 7. Nghị định 163/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp 8 Nghị định này thay thế cho nghị định 02/CP (1994). Sự ra đời của các chính sách này nhằm gắn lao động với đất đai, tạo thành động lực để phát triển sản xuất lâm nông ngư nghiệp, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Để hướng dẫn việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp theo Nghị định số 163/NĐ-CP, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Địa chính đã ra Thông tư liên tịch số 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC ngày 06/6/2000, đề ra những quy định về thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy
  13. 12 chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp và tổ chức thực hiện giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp 5. Để đảm bảo lợi ích hài hoà giữa Nhà nước với người trực tiếp bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, cho thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp nhằm tạo động lực khuyến khích nhân dân tích cực tham gia bảo vệ và phát triển rừng 9. Nghiên cứu Nghị định số 01/CP, 02/CP, 163/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC , thấy nổi lên một số nội dung được quy định cụ thể như sau: Về giao đất lâm nghiệp - Đối tượng được giao đất lâm nghiệp không thu tiền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài bao gồm: + Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có đựơc từ các hoạt động sản xuất đó, được UBND xã, phường , thị trấn nơi có đất lâm nghiệp xác nhận; + Các tổ chức: Các Ban Quản lý khu rừng phòng hộ, khu rừng đặc dụng; các doanh nghiệp Nhà nước về lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp; các trạm, trại, xí nghiệp giống lâm nghiệp, trường học, trường dạy nghề; các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác; các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân. - Căn cứ để giao đất lâm nghiệp: + Giao đất lâm nghiệp căn cứ vào quỹ đất lâm nghiệp của từng địa phương; + Hiện trạng quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; + Hạn mức giao đất lâm nghiệp đã được quy định: Hạn mức giao cho hộ gia đình do UBND cấp tỉnh quyết định nhưng không quá 30 ha, hạn mức giao cho tổ chức theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
  14. 13 + Nhu cầu sử dụng đất lâm nghiệp của tổ chức ghi trong dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; đơn xin giao đất lâm nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được UBND xã, nơi cấp đất lâm nghiệp xác nhận. - Thời hạn giao đất lâm nghiệp quy định như sau: + Các tổ chức của Nhà nước, thời hạn giao theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; + Các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế khác, thời hạn giao được quy định đến hết thời hạn được Nhà nước giao; + Thời hạn giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài là 50 năm. Khi hết thời hạn, nếu người sử dụng đất lâm nghiệp có nhu cầu tiếp tục sử dụng và trong quá trình sử dụng đất lâm nghiệp chấp hành đúng pháp luật về đất đai, pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét giao đất đó để tiếp tục sử dụng. Nếu trồng cây lâm nghiệp có chu kỳ trên 50 năm, khi hết thời hạn này vẫn được Nhà nước giao tiếp để sử dụng. Về giao khoán đất lâm nghiệp - Đối tượng để giao khoán đất lâm nghiệp: Đối tượng giao khoán đất (Gắn liền với vật nuôi, cây trồng) theo thứ tự ưu tiên: Hộ gia đình, cá nhân là công nhân viên chức đang làm việc cho bên giao khoán; hộ gia đình, cá nhân đã làm việc cho doanh nghiệp, Ban Quản lý nay đã nghỉ hưu; hộ gia đình, cá nhân đã cư trú hợp pháp tại địa phương được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác có vốn đầu tư vào sản xuất theo quy hoạch của bên giao. - Loại đất để giao khoán: Đất lâm nghiệp, Nhà nước đã giao cho các nông trường, lâm trường trực tiếp sản xuất nông lâm nghiệp; Đất lâm nghiệp, Nhà nước giao cho các Ban Quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng....
  15. 14 - Căn cứ để giao khoán: Căn cứ vào quỹ đất đã được Nhà nước giao cho các tổ chức của Nhà nước; dự án khả thi hoặc dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Vốn, lao động bên nhận khoán; các chính sách đầu tư hỗ trợ của Nhà nước và chính sách lao động - xã hội liên quan. - Thời hạn giao khoán: Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là 50 năm; rừng sản xuất theo chu kỳ kinh doanh. Đến năm 2003 luật đất đai mới ra đời, được thông qua ngày 26/11/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Luật bao gồm 7 chương với 146 điều luật khác nhau. Nội dung chủ yếu là: - Làm rõ nội dung quyền sở hữu toàn dân về đất đai với những quyền định đoạt, quyền hưởng lợi cụ thể và vai trò của nhà nước với tư cách là người chủ sở hữu. - Hoàn chỉnh chính sách đất đai đối với khu vực nông nghiệp, phù hợp với nền kinh tế thị trường và tạo điều kiện đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. - Thiết lập sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xoá bỏ sự khác biệt giữa người Việt nam và người nước ngoài. - Xoá bỏ bao cấp về đất đai trên cơ sở coi đất đai là nguồn vốn, nguồn nội lực của đất nước và phải được định giá theo cơ chế thị trường. - Khuyến khích phát triển giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất, hạn chế sự can thiệp về hành chính không cần thiết, khắc phục những bất cập về chính sách, pháp luật trong bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc gia. - Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vưcj quản lý đất đai bằng cách phân cấp toàn bộ quyền quyết định giao đất , cho thuê đất cho địa phương. Quy định với người sử dụng đất, bao gồm: Các tổ chức cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, lực lượng vũ trang, hộ gia đình, cá nhân, công đồng dân
  16. 15 cư người Việt Nam , cơ sở tôn giáo thì được nhà nước giao, công nhận hoặc cho thuêquyền sử dụng đất. Còn các tổ chức nước ngoài, người Việt nam định cư ở nước ngoài về đầu tư thì đựơc thuê đất. Trong luật đất đai mới này cũng có những điều khoản quy định về việc giao, cho thuê và chuyển đổi mục đích sử dụng thời hạn và hạn mức sử dụng các loại đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. 1.1.2.2. Tình hình thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp ở Việt nam - Thời kỳ 1968 - 1982: đây là thời kỳ phát triển quốc doanh và hợp tác xã, ở giai đoạn này Nhà nước mới khuyến khích và công nhận sự tồn tại 2 thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh lâm nghiệp (Lâm trường quốc doanh) và hợp tác xã trong kinh doanh rừng. Năm 1975 miền Nam giải phóng có Tập đoàn sản xuất cũng được giao đất lâm nghiệp. Các chủ chương, chính sách chủ yếu trong thời kỳ này có: Thông báo số 18 TB/TVV ngày 23/10/1968 của Ban Bí thư Trung ương Đảng có ghi “Nhà nước cần giao cho Hợp tác xã sử dụng một số đất hoang hoặc rừng cây để kinh doanh nghề rừng, Hợp tác xã sẽ được hưởng lợi tuỳ theo công sức của mình bỏ ra”. Tiếp đến là Quyết định số 179/CP ngày 12/11/1968 của Hội đồng Chính phủ về việc đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng và giao đất giao rừng cho Hợp tác xã kinh doanh. Để thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp cho các Hợp tác xã, lần đầu tiên Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định 272/CP ngày 3/10/1977 về việc ban hành chính sách đối với Hợp tác xã mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, thực hiện định canh định cư, tiếp sau đó Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 184-HĐBT ngày 6/11/1982 đẩy mạnh giao đất lâm nghiệp cho tập thể và cá nhân trồng cây gây rừng Việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp trong giai đoạn này còn nhiều thiếu sót do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của người dân trong kinh doanh, việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp thiếu chặt chẽ, làm ồ ạt hình thức,
  17. 16 chạy theo số lượng diện tích, chưa có quy hoạch đất đai, chưa phân 3 loại rừng và xác định giao đất lâm nghiệp cho từng đối tượng cụ thể 10. - Thời kỳ 1983 - 1992: + Từ năm 1983 - 1989: đã giao được 1.934.000 ha cho 1.724 Hợp tác xã, 610 cơ quan, trường học và cho 349.750 hộ gia đình. + Từ năm 1989 - 1992: đã giao được 796.000 ha cho 440.000 hộ gia đình và 5,8 triệu ha cho khu vực quốc doanh. Sau 24 năm thực hiện giao đất lâm nghiệp từ 1968 - 1992 cả nước đã giao được tổng số hơn 11 triệu ha, trong đó 5,8 triệu ha cho khu vực quốc doanh, 3,7 triệu ha cho Hợp tác xã nông nghiệp và 1,53 triệu ha cho hộ gia đình. Việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp trong giai đoạn đầu từ 1968 - 1982 còn nhiều thiếu sót do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của người dân trong kinh doanh, việc tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp thiếu chặt chẽ, làm ồ ạt hình thức, chạy theo số lượng diện tích, chưa có quy hoạch đất đai, chưa phân 3 loại rừng và xác định giao đất lâm nghiệp cho từng đối tượng cụ thể. Có thể thấy rằng, việc tổ chức thực hiện chủ trương giao đất lâm nghiệp trong thời kỳ này của Ngành lâm nghiệp là nghiêm túc, cụ thể, có những bước đi cơ bản và đã đạt được những thành tựu đáng kể 10. Công tác giao đất giao rừng thời kỳ này có những tiến bộ đáng kể đã mang lại sự khởi sắc cho nghề rừng nước ta 19, đã tạo động lực phát triển kinh tế nông lâm nghiệp ở miền núi, bước đầu đã hình thành nên thị trường ở trung du miền núi. - Thời kỳ từ 1993 đến nay: Sau khi luật đất đai năm 1993 ra đời, Chính phủ ban hành Nghị định 02/CP, Nghị định 01/CP, Nghị định 163/CP... Sự ra đời của các chính sách này nhằm gắn lao động với đất đai, tạo thành động lực để phát triển sản xuất lâm nông ngư nghiệp, công tác giao đất lâm nghiệp được thực hiện theo những nguyên tắc và quy định mới.
  18. 17 Theo báo cáo của Cục Kiểm lâm, tính đến năm 2008, đã có 77,5 tổng diện tích đất lâm nghiệp cả nước đã giao. Trong quá trình thực hiện công tác giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 02/CP, có một số tỉnh làm tốt công tác này điển hình là tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện việc giao đất lâm nghiệp theo đúng các văn bản quy phạm, pháp luật về giao đất lâm nghiệp mà trọng tâm là giao tới hộ gia đình, giao đến đâu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay đến đó, hồ sơ giao đất được lưu trữ trong máy vi tính. Tỉnh Bắc Thái đã chủ động cấp kinh phí để thực hiện việc giao đất lâm nghiệp, sử dụng lực lượng các đội điều tra quy hoạch rừng ở Trung ương làm các thủ tục giao đất, có hệ thống thống kê lưu trữ hồ sơ từ Chi cục Kiểm lâm - Hạt Kiểm lâm - xã, phường 10. Chính sách giao rừng cùng với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong thời gian qua đã tạo điều kiện khai thác tiềm năng, lao động, tiền vốn tại chỗ. Tình trạng chặt phá rừng đã bị hạn chế, rừng trồng đạt tỷ lệ sống cao, đã xuất hiện nhiều mô hình trang trại nông lâm nghiệp, mô hình kinh tế hộ gia đình có hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm nâng cao thu nhập cải thiện đời sống người dân, một bộ phận người dân đã giàu lên từ sản xuất kinh doanh trên đất được giao, mở hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ ở nhiều nơi, góp phần xoá đói giảm nghèo, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi. 1.2. Những nghiên cứu về giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam Trong những năm vừa qua, đã có những dự án, những công trình nghiên cứu về công tác giao đất lâm nghiệp ở nước ta, mỗi dự án, mỗi công trình nghiên cứu đều có những cách tiếp cận riêng đối với tác động của chính sách này tới sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi vùng. Dự án “ Đổi mới chiến lược ngành lâm nghiệp” đây là dự án xuất phát từ yêu cầu cấp bách của nước ta sau khi ban hành Luật bảo vệ phát triển rừng năm 1991. Mục tiêu của dự án là bằng quá trình tìm tòi học hỏi và hợp tác để góp phần tìm ra các giải pháp chiến lược nhằm từng bước thực thi có hiệu quả mục
  19. 18 tiêu phát triển ngành lâm nghiệp trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Dự án đã góp phần xây dựng phương pháp mới về giao đất lâm nghiệp, trên cơ sở học tập kinh nghiệm của các năm trước và dựa vào các văn bản pháp quy liên quan đến Luật đất đai, Luật bảo vệ phát triển rừng. Đề tài “Định hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi” của tác giả Trần Thanh Bình, đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi 23. Đề tài “Những định hướng và giải pháp bước đầu nhằm đổi mới việc giao đất giao rừng ở miền núi” của Nguyễn Đình Tư đã xem xét tình hình giao đất từ năm 1968 - 1992, đánh giá được thực trạng sau khi nhận đất, nhận rừng, đề tài cũng đã chỉ ra được những định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác giao đất lâm nghiệp ở miền núi 23. Công trình “Tăng cường công tác giao đất lâm nghiệp và khuyến khích trồng rừng trên đất được giao”, của tác giả Đoàn Diễm đã đưa ra những tồn tại trong việc quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp, đưa ra những kiến nghị đẩy nhanh tiến độ quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp trong thời gian tới 2. Đề tài” Tìm hiểu tác động của giao đất giao rừng đến phát triển kinh tế - xã hội - môi trường tại xã Văn Lăng huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”của nhóm tác giả trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên (Đặng Kim Vui, Lý Văn Trọng, Lê Sỹ Trung) đã tiến hành đánh giá hiệu quả của việc thực hiện chính sách giao đất lâm nghiệp trên phạm vi ở một xã miền núi 28. Báo cáo” Người nông dân mong muốn được lợi ích gì trên đất được giao để trồng rừng” của Phạm Sinh đã đề xuất một số quan điểm có liên quan đến lợi ích của người trồng rừng và nêu nên một số mong muốn của họ khi nhận đất nhận rừng để sản xuất kinh doanh 16.
  20. 19 Hội thảo với chủ đề “Chủ rừng và lợi ích của chủ rừng trong kinh doanh rừng trồng”, do Vụ Chính sách, Vụ Hợp tác quốc tế, Cục Phát triển lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp tổ chức tại thị xã Sầm Sơn tỉnh Thanh Hoá, từ ngày 13 đến 15/7/1998 đã xem xét nghiên cứu khuôn khổ pháp lý và tác động của hệ thống pháp lý đang tồn tại đối với từng loại chủ rừng Hội thảo quốc gia với chủ đề “Chính sách và thực tiễn phục hồi rừng ở Việt Nam” do Cục Phát triển lâm nghiệp phối hợp với một số tổ chức quốc tế IUCN, GTZ, WWF tổ chức vào tháng 11 năm 1999 tại Hoà Bình đã phân tích những nguyên nhân mất và suy thoái rừng đồng thời chỉ ra những tồn tại trong quá trình giao đất lâm nghiệp: Quá trình giao đất lâm nghiệp diễn ra tương đối chậm chạp và chưa mang lại cảm giác thoải mái về quyền sở hữu cho các hộ gia đình và các cộng đồng địa phương. Có hai nguyên nhân chính đó là khả năng có hạn của các cơ quan được giao nhiệm vụ để thực hiện qúa trình giao đất một cách hữu hiệu, cũng như thời hạn và điều kiện hạn chế đi kèm với quá trình giao đất 11. Đề tài “ Đánh giá hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp Nhà nước giao cho hộ gia đình” của tác giả Nguyễn Thị Lai - Viện Khoa học lâm nghiệp đã tiến hành đánh giá hiệu quả kinh tế của các hộ gia đình đã thực hiện trên đất lâm nghiệp trên cơ sở đó đề ra những khuyến nghị thiết thực với mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng đất tại huyện Yên Bình tỉnh Bắc Thái, đề tài đã tiến hành đánh giá hiệu quả kinh tế của việc canh tác các mô hình sản xuất chính trên đất lâm nghiệp được giao của hộ gia đình 17. Lê Trọng Hùng (2009) trong nghiên cứu đánh giá tác động của chính sách giao đất lâm nghiệp đến nông hộ ở quy mô cấp xã đã chỉ ra rằng giao đất giao rừng có tác động tích cự đên sinh kế của người dân tuy nhiên hiệu quả chưa cao do nhiều nguyên nhân từ quá trình giao đất đến các chính sách hỗ trợ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0