intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: So sánh các phương án phát triển rừng trồng sản xuất tại xã Trường Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình

Chia sẻ: Tri Lễ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

21
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu phương án trồng rừng sản xuất gỗ lớn và trồng rừng sản xuất gỗ nhỏ trên địa bàn xã Trường Sơn - Lương Sơn - Hòa Bình, từ đó so sánh và đề xuất các giải pháp khuyến khích chủ rừng lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: So sánh các phương án phát triển rừng trồng sản xuất tại xã Trường Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm qua, nước ta đã thực hiện chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã thu được nhiều thành quả to lớn. Bên cạnh đó nền nông nghiệp cũng đã từng bước chuyển từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá và lâm nghiệp đã chuyển từ một ngành kinh tế đang được tập trung bao cấp trở thành là ngành có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế hoạt động theo định hướng thị trường, tiềm năng lâm nghiệp dần được khai thác. Những thập kỷ trước, nguồn tài nguyên rừng ở nước ta dồi dào, chất lượng rừng cũng được đảm bảo, sản lượng gỗ lớn cung cấp cho tiêu dùng và các ngành công nghiệp lớn. Trong những năm gần đây diện tích rừng đã bị thu hẹp do sự gia tăng dân số và sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ khác. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu, cùng với nhu cầu lớn của các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước cần rất nhiều lượng gỗ tròn làm nguyên liệu. Sản lượng gỗ tròn khai thác hàng năm trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, thậm chí chỉ cho xuất khẩu. Vì vậy, phần lớn số nguyên liệu để sản xuất đồ gỗ xuất khẩu hiện nay đều phải nhập khẩu từ các nước ASEAN, Nga, New Zealand, vv... Tuy nhiên, nguồn cung cấp gỗ từ bên ngoài cũng đang trở nên khan hiếm do chính sách kiểm soát của các nước xuất khẩu. [1],[2],[3] Trong thực tế, hầu hết các chủ rừng tư nhân lại quan tâm nhiều hơn tới phương án trồng rừng gỗ nhỏ, trong khi nhu cầu về gỗ lớn cho sản xuất lại rất cao. Chúng ta có thể thấy rõ có 2 phương án kinh doanh rừng trồng khác nhau là: trồng rừng gỗ nhỏ và trồng rừng gỗ lớn. Mỗi phương án đều có những ưu,
  2. 2 nhược điểm riêng và để lựa chọn phương án nào có hiệu quả nhất là một việc rất khó khăn. Về nguyên tắc, chủ rừng - với mục tiêu tối đa hóa lợi ích ròng từ kinh doanh rừng, sẽ lựa chọn phương án nào có hiệu quả nhất, tức là lợi ích ròng trên một đơn vị diện tích là lớn nhất. Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “So sánh các phương án phát triển rừng trồng sản xuất tại xã Trường Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình” tại địa điểm xã Trường Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình.
  3. 3 Chương 1 MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.1. Mục tiêu nghiên cứu + Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu phương án trồng rừng sản xuất gỗ lớn và trồng rừng sản xuất gỗ nhỏ trên địa bàn xã Trường Sơn - Lương Sơn - Hòa Bình, từ đó so sánh và đề xuất các giải pháp khuyến khích chủ rừng lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. + Mục tiêu cụ thể - Khái quát hoá được cơ sở lý luận về lĩnh vực kinh doanh trồng rừng sản xuất gỗ nhỏ và gỗ lớn. - Đánh giá được hiện trạng và kết quả kinh doanh trồng rừng sản xuất tại xã Trường Sơn - Lương Sơn - Hoà Bình. - Nghiên cứu đánh giá và so sánh được hiệu quả hai phương án trồng rừng sản xuất gỗ nhỏ và trồng rừng sản xuất gỗ lớn tại xã Trường Sơn - Lương Sơn - Hoà Bình. - Đề xuất các giải pháp khuyến khích chủ rừng lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. 1.2. Phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Phương pháp thu thập số liệu: + Thu thập các số liệu sơ cấp: Phỏng vấn nông hộ thông qua phiếu điều tra theo phương pháp chọn mẫu có hệ thống, chọn mẫu là ngẫu nhiên, dung lượng mẫu tối thiểu là 30 hộ. Nội dung điều tra chủ yếu là: loại hình trồng rừng, loài cây, diện tích, năng suất,
  4. 4 sản lượng, giá trị sản lượng, chi phí, thu nhập, lao động, mức độ thích hợp của các cây trồng, quan điểm, ý kiến của các hộ về phát triển rừng trồng sản xuất... + Thu thập các số liệu thứ cấp: Thu thập các tài liệu có sẵn, bản đồ, số liệu quy hoạch sử dụng đất, hiện trạng rừng, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, lâm nghiệp tại khu vực nghiên cứu, các tài liệu tại các phòng ban chuyên môn của xã Trường Sơn. Điều tra ngoài thực địa để bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và chuẩn hoá số liệu. 1.2.2. Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá hiệu quả trồng rừng sản xuất. 1.2.3. Phương pháp kế thừa có chọn lọc các tài liệu đã có: Kế thừa các kết quả nghiên cứu trong vùng, các tài liệu khác có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 1.2.4. Phương pháp xử lý số liệu: xử lý số liệu trên bảng tính Excel 1.2.5. Phương pháp phân tích - Phân tích chi phí – lợi ích; các chỉ tiêu như: Giá trị hiện tại thuần (NPV), chỉ tiêu Tỷ lệ thu nhập trên chi phí (BCR), chỉ tiêu Tỷ lệ thu hồi nội bộ (IRR), chỉ tiêu Giá trị tương đương hàng năm (AEV) và một số chỉ tiêu khác được cụ thể trong các mục: 2.2.5.1; 2.2.5.2; 2.2.5.3; 2.2.5.4; 2.2.5.5 của luận văn. 1.3. Nội dung nghiên cứu - Cơ sở lý thuyết về kinh doanh rừng trồng (cơ sở lâm học và cơ sở kinh tế học). - Các cơ chế chính sách hiện hành về kinh doanh rừng trồng. - Vấn đề quản lý lâm nghiệp tại địa phương. - Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, kỹ thuật trồng và chăm sóc rừng của địa bàn nghiên cứu.
  5. 5 - Hiện trạng sử dụng đất và kinh doanh lâm nghiệp. - Phân tích các hoạt động kinh tế. - So sánh các phương án trồng rừng. - Đề xuất giải pháp phát triển rừng trồng sản xuất tại địa phương. 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu phát triển loài cây Keo Tai tượng, do loài cây này phù hợp với điều kiện khí hậu, địa hình và đất đai của địa bàn nghiên cứu. - Lấy đơn vị tính toán: 1 ha rừng trồng sản xuất tại địa bàn xã. - Sản phẩm chính là: gỗ tròn khai thác. - Không gian nghiên cứu: tại xã Trường Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình - Tập trung chủ yếu vào hiệu quả kinh tế (tài chính), còn hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường đánh giá bằng các chỉ tiêu định tính nếu có thể. - Thời gian nghiên cứu: từ năm 2006 tới năm 2011. 1.5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần đầu và kết luận, kết cấu của luận văn bao gồm những chương sau: Chương 1: Mục tiêu, nội dung, phương pháp nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lý thuyết về phát triển rừng trồng sản xuất Chương 3: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu Chương 4: So sánh các phương án phát triển rừng trồng sản xuất
  6. 6 Chương 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÁT TRIỂN RỪNG TRỒNG SẢN XUẤT 2.1. Đặc điểm cơ bản của sản xuất lâm nghiệp.[11] Lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Nghiên cứu các đặc điểm sản xuất để hoạch định chiến lược phát triển và qua đó đề ra các giải pháp quản lý, khai thác triệt để các nguồn lực nhằm hướng tới mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Sản xuất lâm nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau đây: 2.1.1. Chu kỳ sản xuất dài Đối với lâm nghiệp, đối tượng sản xuất chính là rừng. Rừng là cơ thể sống, trong đó quần xã cây rừng đóng vai trò chủ đạo và chúng khác biệt với các loài thực vật khác là chu kỳ sinh trưởng kéo dài và phát triển chậm. Nếu tính chu kỳ thành thục tự nhiên phải hàng trăm năm, còn chu kỳ thành thục công nghệ cũng phải hàng chục năm trong khi đó chu kỳ sản xuất của một số sản phẩm thuộc ngành công nghiệp chỉ tính bằng giờ, bằng phút. Chu kỳ sản xuất dài đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tổ chức sản xuất, tình hình quản lý, sử dụng các yếu tố nguồn lực trong lâm nghiệp. Trước hết là vốn đầu tư lớn, vốn bị ứ đọng ở sản phẩm dở dang nằm tại rừng, dưới dạng rừng non, rừng chưa thành thục công nghệ, do đó tốc độ chu chuyển chậm, thời hạn thu hồi lâu và thường hiệu quả đầu tư thấp. 2.1.2. Quá trình tái sản xuất tự nhiên xen kẽ với quá trình tái sản xuất kinh tế, trong đó quá tình tái sản xuất tự nhiên đóng vai trò quan trọng và quyết định Trong sản xuất lâm nghiệp luôn luôn diễn ra hai quá trình xen kẽ, đó là quá trình tái sản xuất tự nhiên và quá trình tái sản xuất kinh tế. Tái sản xuất tự nhiên đó là quá trình sinh trưởng, phát triển của cây rừng bắt đầu từ quá trình
  7. 7 gieo hạt tự nhiên, cây rừng nảy mầm, lớn lên, ra hoa kết quả rồi lại tiếp tục lặp đi lặp lại quá trình đó và tuân thủ theo quy luật sinh học. Như vậy, quá trình tái sản xuất tự nhiên là quá trình tái sản xuất hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và tuân theo quy luật sinh học mà không cần sự can thiệp của con người. Tái sản xuất kinh tế được hiểu là quá trình lặp đi lặp lại sự phát triển của cây rừng dưới sự tác động của con người như bón phân, làm cỏ...(thâm canh rừng, làm giầu rừng) nhằm thoả mãn mục đích nào đó của con người. 2.1.3. Tái sinh và khai thác rừng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau Tái sinh là quá trình xây dựng rừng. Khai thác rừng là quá trình lợi dụng rừng, quá trình thu hoạch thành quả của quá trình xây dựng rừng. Từ đặc điểm này đòi hỏi các nhà quản lý và các nhà kỹ thuật lâm nghiệp phải có giải pháp đúng đắn trong việc xây dựng cân đối giữa khai thác và tái sinh để khỏi lạm dụng vào vốn rừng và sử dụng công cụ khai thác hiệu quả trong công tác tái sinh rừng. 2.1.4. Sản xuất lâm nghiệp tiến hành trên quy mô rộng, chủ yếu hoạt động ngoài trời và trên những địa bàn có những điều kiện tự nhiên phức tạp, điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn Đây là đặc thù rất rõ nét của sản xuất lâm nghiệp. Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên 33,12 triệu ha, trong đó diện tích có rừng là 12,61 triệu ha và 6,16 triệu ha đất trống đồi núi trọc là đối tượng của sản xuất lâm nông nghiệp. Diện tích đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở trên các vùng đồi núi của cả nước, đây cũng là nơi sinh sống của 25 triệu người với nhiều dân tộc ít người, có trình độ dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm phát triển và đời sống còn nhiều khó khăn.[4] Trên các điều kiện tự nhiên đó, hoạt động sản xuất lâm nghiệp chủ yếu tiến hành ở ngoài trời, cự ly hoạt động ngày một xa... nên thu nhập thấp, đời sống của người làm nghề rừng gặp rất nhiều khó khăn. Đồng thời, địa bàn rộng
  8. 8 lớn như vậy rất khó khăn cho công tác quản lý bảo vệ thành quả lao động, do đó tính rủi ro trong sản xuất lâm nghiệp rất cao. 2.1.5. Sản xuất lâm nghiệp có tính thời vụ Trong sản xuất lâm nghiệp, tính thời vụ là đặc trưng của ngành sản xuất sinh học. Do đặc tính sinh lý, sinh thái của cây rừng, do đòi hỏi của công nghệ (đặc biệt là công nghệ khai thác, vận chuyển) mà tình hình sản xuất diễn ra tập trung vào một số tháng trong năm, hiện tượng đó được gọi là tính thời vụ. 2.1.6. Hoạt động sản xuất lâm nghiệp vừa mang mục tiêu kinh tế vừa mang mục tiêu xã hội Trước hết, mục tiêu kinh tế của sản xuất lâm nghiệp là cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cho xây dựng cơ bản, cung cấp lâm sản, đặc sản,... phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Về mục tiêu xã hội, sản xuất lâm nghiệp là phòng hộ, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ di tích lịch sử, cảnh quan văn hoá và các danh lam thắng cảnh,... Mặc dù hiện nay người ta đã quan tâm nhiều hơn tới giá trị gián tiếp của rừng (giá trị phi vật thể) song vấn đề đặt ra đối với người quản lý là phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ giá trị của rừng mà quan tâm đầu tư nhiều hơn nữa cho phát triển lâm nghiệp. Đây cũng là vấn đề được quan tâm trong chiến lược phát triển bền vững của Đảng và Nhà nước. 2.1.7. Sản xuất lâm nghiệp vừa mang tính chất hoạt động sản xuất nông nghiệp vừa mang tính chất hoạt động sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ bản Sản xuất lâm nghiệp có nhiệm vụ trồng cây, gây rừng, chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ rừng, khai thác, vận chuyển và chế biến các sản phẩm từ rừng. Trong các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ trồng cây, gây rừng, chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ rừng là hoạt động mang tính sinh học và có tính chất hoạt động giống như hoạt động nông nghiệp.
  9. 9 Nhiệm vụ tiếp theo của sản xuất lâm nghiệp là khai thác, vận chuyển và chế biến các sản phẩm từ rừng, đây là các hoạt động có tính chất công nghiệp. Ngoài ra, do đặc thù của sản xuất lâm nghiệp là chu kỳ sản xuất dài, vốn hoạt động chủ yếu là vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản, về hình thức và phương pháp hạch toán đều có nét giống như hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. 2.1.8. Sản xuất lâm nghiệp mang tính xã hội sâu sắc và nhiều thành phần kinh tế tham gia Với địa bàn hoạt động gần 60% diện tích tự nhiên toàn quốc là nơi sinh sống của các cộng đồng cư dân mà đặc biệt là đồng bào các dân tộc ít người, nên mọi hoạt động của cư dân địa phương đều ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển lâm nghiệp và ngược lại các hoạt động sản xuất lâm nghiệp đều ảnh hưởng lớn đến đời sống của cư dân địa phương. Đặc điểm này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác tổ chức sản xuất, đặc biệt là công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng. Xuất phát từ đặc thù trên, vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý, trước hết phải tôn trọng các phong tục và kiến thức bản địa. Sản xuất lâm nghiệp luôn luôn phải tính đến lợi ích và bảo vệ lợi ích của cộng đồng địa phương. Vì vậy, có thể nói sự phát triển của ngành lâm nghiệp không thể tách rời sự phát triển tổng hợp về kinh tế văn hoá xã hội và an ninh quốc phòng của trung du, miền núi. 2.2. Cơ sở khoa học của phát triển cây gỗ lớn 2.2.1. Khái niệm và các mô hình trồng rừng sản xuất - Cây gỗ lớn là những cây thân gỗ có thân chính rõ ràng, dài, phân cành xa mặt đất, cây cao, là thành phần chính của rừng và là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngành lâm nghiệp. - Theo tiêu chuẩn Châu Âu thì gỗ lớn là gỗ có kích thước đường kính đầu nhỏ lớn hơn 25 cm (không kể vỏ).
  10. 10 Trong đề tài nghiên cứu này, Gỗ lớn là gỗ có đường kính đầu nhỏ từ 20cm trở lên dùng trong sản xuất gỗ sẻ, đồ mộc, đồ nội thất. Gỗ nhỏ là những loại gỗ dùng cho công nghiệp giấy, gỗ trụ mỏ, gỗ dùng làm ván dăm, ván nhân tạo,... Hiện nay có nhiều mô hình trồng rừng sản xuất khác nhau như trồng thuần loài, trồng hỗn loài, trồng xen với cây nông nghiệp trong giai đoạn đầu như trồng xen sắn, trồng xen với cây công nghiệp như chè. 2.2.2. Cơ sở lâm sinh học của việc phát triển rừng nguyên liệu gỗ lớn. Là đối tượng của quản lý lâm nghiệp nhưng rừng vẫn chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên. Điều này được thể hiện thông qua quan hệ giữa sản lượng cây đứng và tuổi cây (Hình 2.1). Sản lượng cây đứng trên một đơn vị diện tích (ha), V(t), tăng với tốc độ chậm trong những năm đầu sau khi trồng hay tái sinh, tăng nhanh đến thời điểm tx và sau đó tăng chậm lại cho đến khi đạt cực đại tại te (te còn được gọi là tuổi thành thục tự nhiên). Sau thời điểm này, cây rừng bắt đầu già cỗi và xuống cấp do các yếu tố như tuổi cao, sâu bệnh, ... Sản lượng (m3/ha) V(te) V(tx) tx te Tuổi (năm) Hình 2.1: Quan hệ giữa sản lượng cây đứng và tuổi cây
  11. 11 Đối với các loài cây mọc nhanh sử dụng trong trồng rừng, t e có thể rất ngắn, thậm chí chỉ 7 - 8 năm. Tuy nhiên, các loài cây mọc trong rừng tự nhiên lại có thời gian te dài hơn nhiều, thậm chí hàng trăm năm. Trong thực tiễn, quá trình sinh trưởng này có thể được điều chỉnh bằng các biện pháp lâm sinh như: chọn mật độ tối ưu, bón phân, tỉa thưa và phòng chống sâu bệnh, vv… nhằm rút ngắn thời gian thành thục của cây rừng (tức là tuổi cho sản phẩm phù hợp với mục đích kinh doanh). Điều này có nghĩa là đồ thị biểu diễn quan hệ sản lượng và tuổi cây có thể dịch chuyển theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mức độ can thiệp của con người. Quan hệ sản lượng - tuổi cây có thể được thể hiện dưới dạng quan hệ giữa mức tăng sản lượng hàng năm so với sản lượng cây đứng (Hình 2.2). Mức tăng trưởng đạt cực đại tại sản lượng V(tx) tại thời điểm tx (tx chính là điểm uốn của đồ thị trong Hình 2.1). Còn tại thời điểm te tương ứng với sản lượng V(te), lượng tăng trưởng bằng không (= 0) do đồ thị cắt trục hoành tại đó. Điều này phù hợp với lập luận về quá trình sinh trưởng của cây rừng ở trên. Năng suất (dV/dt) V(t) max 0 V(tx) V(te) Sản lượng của rừng Hình 2.2: Quan hệ năng suất - sản lượng của rừng Trong mối quan hệ giữa năng suất và tuổi cây (Hình 2.3), có hai khái niệm quan trọng được sử dụng là lượng tăng trưởng thường xuyên hàng năm (CAI) và lượng tăng trưởng bình quân hàng năm (MAI). Đường cong CAI thể
  12. 12 hiện mức thay đổi cận biên về thể tích cây đứng trong từng thập kỷ và vì vậy, CAI được coi là hàm số của biến thời gian. Tăng trưởng Tăng trưởng thường xuyên m3/ha hàng năm (CAI) Tăng trưởng bình quân hàng năm (MAI) O tmax Tuổi Hình 2.3: Quan hệ giữa mức tăng trưởng hàng năm và tuổi cây Về mặt toán học, CAI có thể được xác định theo công thức: V V (t ) CAI  hoặc CAI   V ' (t ) (1) t t Khác với CAI, MAI thể hiện mức tăng sản lượng bình quân từ năm (thập kỷ) này qua năm (thập kỷ) khác. Về mặt toán học, MAI được xác định theo công thức: V (t ) MAI  (2) t Điều kiện cần để MAI đạt cực đại là đạo hàm bậc nhất của nó theo thời gian phải bằng không, tức là: V (t ) 0 t V’(t)t – V(t) = 0 V (t ) Từ đây ta có: V ' (t )  t Nghĩa là: MAI = CAI (3)
  13. 13 Như vậy, MAI sẽ đạt cực đại khi nó bằng với CAI. Còn theo thuật ngữ kinh tế, CAI có thể được coi là sản phẩm cận biên theo thời gian, trong khi MAI được coi là sản phẩm bình quân theo thời gian. 2.2.3. Cơ sở kinh tế học của việc phát triển rừng nguyên liệu gỗ lớn Các nhà quản lý thường áp dụng các biện pháp lâm sinh để điều chỉnh tuổi thành thục tự nhiên của cây rừng. Từ đó, họ có thể ước tính được tuổi thành thục công nghệ của lâm phần. Tuy nhiên, quản lý rừng không thể đạt hiệu quả tối ưu nếu chỉ đơn thuần dựa trên khía cạnh kỹ thuật của quản lý. Đối với mỗi chủ rừng bất kỳ mà mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận thì tuổi thành thục kinh tế nhiều khi lại được quan tâm hơn là tuổi thành thục công nghệ. Tuổi thành thục (luân kỳ) kinh tế có thể được hiểu như là tuổi của lâm phần mà tại đó rừng nếu được khai thác sẽ đem lại thu nhập ròng lớn nhất trên một đơn vị diện tích cho chủ rừng. Nói một cách khác, luân kỳ tối ưu sẽ được xác định khi lợi ích ròng từ trồng rừng trên đất lâm nghiệp sẽ đạt điểm cực đại. Trong lâm nghiệp, hai loại chi phí trực tiếp liên quan tới các hoạt động trồng rừng là: i) chi phí liên quan tới trồng rừng, các biện pháp lâm sinh, khai thác, lưu bãi, vận chuyển tới nơi tiêu thụ, vv... là những chi phí phát sinh thực tế trong quản lý rừng; ii) lợi ích phải hy sinh (chi phí cơ hội) để chờ khai thác rừng, tức là phần tiền lẽ ra được hưởng nếu rừng được khai thác sớm hơn và thu nhập được đầu tư vào trồng thêm rừng trên diện tích đó hoặc vào các hoạt động khác. Chi phí gián tiếp chính là giá trị của đất dùng để trồng rừng. Thu nhập ròng theo giá trị hiện tại từ đất rừng hay giá trị của đất rừng (W), được xác định như sau: ( P  C)V ( I )e^ (rI )  D W (1  e^ (rI )) Trong đó: p – Thu nhập từ 1 m3 gỗ khai thác.
  14. 14 c – Chi phí khai thác 1 m3. D – Chi phí tạo 1 ha rừng. V – Sản lượng gỗ khai thác . I – Luân kỳ khai thác. r – Tỷ lệ lãi suất. e – Cơ số logarit tự nhiên. W sẽ đạt giá trị cực đại khi ∂W/∂I = 0. Từ đó: (p – c)V’(I) = r(p – c)V(I) + rW* Trong biểu thức trên, vế trái chính là giá trị sản phẩm cận biên (tăng thêm) của rừng nếu không bị khai thác mà được giữ lại thêm một chu kỳ nữa. Trong chu kỳ đó, cây đứng “tăng thêm” phần sản lượng V’(I) và mỗi đơn vị tăng thêm đáng giá (p - c). Vế phải bao gồm 2 chi phí cơ hội (đo lường những khoản chủ rừng phải hy sinh nếu rừng không được khai thác và đất rừng không được trồng lại sau đó): i) phần giá trị r(p – c)V(I) là tiền lãi mà chủ rừng lẽ ra được hưởng nếu chủ rừng khai thác cây đứng và đầu tư tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất r; ii) giá trị rW* là chi phí cơ hội của đất, thể hiện giá cho thuê đất, trong đó W* là giá trị tối ưu của đất từ trồng rừng. Trong lâm nghiệp, chu kỳ kinh doanh thường kéo dài với chi phí phát sinh chủ yếu ở giai đoạn đầu và lợi ích nhận được chủ yếu ở giai đoạn cuối. Các hoạt động lâm nghiệp cũng phải chịu nhiều rủi ro. Vì vậy, ảnh hưởng của tỷ lệ lãi suất (chiết khấu) tới các hoạt động lâm nghiệp được thể hiện khá rõ nét. Theo Varian (1987), với tỷ lệ lãi suất (chiết khấu) cao trong lâm nghiệp, chủ rừng sẽ khai thác rừng sớm hơn để đầu tư khoản thu nhập từ rừng vào ngân hàng nhằm hưởng lãi cao.
  15. 15 2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế trong sản xuất gỗ rừng trồng 2.2.4.1. Nhóm yếu tố tự nhiên * Yếu tố đất đai Đất đai là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng chính cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Tính chất của đất ảnh hưởng rất lớn đến loài cây trồng cũng như năng suất, sản lượng của từng loài cây. Xã Trường Sơn có 4 loại đất chính: đất feralit, đất dốc tụ, đất Feralit đỏ vàng, đất Feralit trên núi. Đất Feralit có màu đỏ và đỏ vàng là loại đất chính cho trồng cây lâm nghiệp. Nhiều hộ điều tra cho rằng loại đất này rất thích hợp cho trồng cây Keo Tai tượng và cây phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, cũng do địa hình đồi núi phức tạp nên việc sản xuất của người dân cũng gặp khó khăn. Đặc biệt độ dốc của đất ảnh hưởng không nhỏ tới mật độ trồng rừng và chế độ chăm sóc cây trồng, từ đó ảnh hưởng tới năng suất và hiệu quả kinh tế của từng loài cây. Có thể thấy, độ dốc lớn đã ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh tế của các cây lâm nghiệp. Đất dốc làm mật độ gieo trồng trở nên thưa hơn so với đất bằng phẳng và cũng gây khó khăn trong quá trình chăm sóc và khai thác rừng. Không những thế, với mật độ trồng thấp hơn so với mật độ trồng ở đất bằng thì năng suất rừng trồng cũng giảm đi đáng kể. * Yếu tố thời tiết, khí hậu Điều kiện thời tiết, khí hậu có vai trò quan trong việc lựa chọn cơ cấu cây trồng cũng như quy mô, hệ thống canh tác trong sản xuất lâm nghiệp. Do có điều kiện thuận lợi về địa hình, đất đai, cộng thêm khí hậu nhiệt đới gió mùa nên rất thuận lợi cho các loài cây lâm nghiệp phát triển. Tuy nhiên, những năm gần đây, thời tiết khí hậu thay đổi thất thường gây không ít khó khăn cho người trồng rừng.
  16. 16 Trước hết đó là khả năng tăng tần suất và mức độ gây hại của các hiện tượng thiên tai như bão, lũ lụt. Mưa, lũ tăng lên đồng nghĩa với việc tăng nguy cơ ngập lụt ở các vùng trũng vốn thường xuyên bị ngập, gây chua úng, xói lở đất, trượt lở đất trên diện rộng, làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất, đến đời sống và sản xuất lâm nghiệp của các hộ dân. Thứ hai, đó là hiện tượng hạn hán kéo dài trong năm 2009 và đầu năm 2010 làm cho nguy cơ cháy rừng càng được đẩy lên cao. Hạn hán cũng làm cho những đặc điểm cơ lý của đất như độ tơi xốp, độ liên kết, độ thấm, hàm lượng các chất dinh dưỡng và hàm lượng vi sinh bị giảm đi đáng kể, đất trở nên khô, cứng, bị nén chặt, không thích hợp cho trồng trọt. 2.2.4.2. Nhóm yếu tố kinh tế - xã hội * Điều kiện kinh tế của chủ rừng Điều kiện kinh tế của chủ rừng là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế sản xuất cây lâm nghiệp của chủ rừng. Đây là yếu tố tác động đến các quyết định trong sản xuất của cả chu kỳ. Keo Tai tượng là cây trồng mang lại hiệu quả cao nên có tới 100% hộ dân được điều tra trong xã trồng keo. * Trình độ của chủ rừng Xét về trình độ của chủ hộ thì người có trình độ chuyên môn về sản xuất lâm nghiệp sẽ có khả năng hơn trong việc tổ chức sản xuất và từ đó có hiệu quả sản xuất cao hơn những hộ khác. * Yếu tố thị trường, giá cả Giá lâm sản có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tài chính trong trồng rừng sản xuất, giá xuống thấp khiến nhiều chủ rừng không muốn khai thác. Giá giảm cũng khiến thu nhập của người trồng rừng giảm đi đáng kể, từ đó làm giảm hiệu quả sản xuất của các hộ trồng rừng. Ngược lại, giá lâm sản cao sẽ kích thích sản xuất, nâng cao thu nhập và hiệu quả sản xuất cho chủ rừng.
  17. 17 Ngoài ra, yếu tố chủ yếu chi phối thị trường lâm sản là các nhà máy, xí nghiệp chế biến lâm sản và các khu công nghiệp lớn như nhà máy giấy, nhà máy ván ép nhân tạo, công nghiệp than. Các nhà máy khi xây dựng đều có khu nguyên liệu riêng và như vậy các dạng sản phẩm ở từng khu vực cũng được định hình. Trong đó thị trường nguyên liệu giấy, ván nhân tạo và trụ mỏ là được định hình một cách rõ nét và tập trung nhất, còn lại thị trường gỗ xây dựng và đồ mộc gia dụng không tập trung và chỉ được tư thương và các cơ sở nhỏ chế biến. Do đó, các chủ rừng chỉ muốn giá thu mua ổn định hoặc tăng để tăng thêm thu nhập. * Hình thức bán sản phẩm Hình thức bán sản phẩm cũng là yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất. Hiện nay có hai hình thức bán sản phẩm rừng trồng chính là bán gỗ tròn khai thác và bán cây đứng. Vì việc khai thác sản phẩm từ rừng trồng đòi hỏi phải tốn nhiều công lao động và phải có người trông nom, giám sát. Do đó, có thể lựa chọn phương thức bán cây đứng, tức là ước lượng sinh khối của rừng rồi bán. Người mua sẽ tự chịu trách nhiệm khai thác và vận chuyển sản phẩm. Hình thức này tuy đơn giản, đỡ mất công và chi phí khai thác cho chủ rừng nhưng giá bán lại thường rẻ hơn so với bán gỗ tròn khai thác. * Các yếu tố xã hội khác Các hệ thống dịch vụ nông lâm nghiệp như: dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, chuyển giao khoa học kỹ thuật, dịch vụ vốn cho sản xuất lâm nghiệp… phát triển là rất cần thiết, có ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần thay đổi cơ cấu và phát triển kinh tế hộ quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng đóng vai trò rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế của các loài cây lâm nghiệp. Sự phát triển của công nghệ sinh học đã tạo ra những giống cây mới có năng suất và chất lượng cao hơn so
  18. 18 với các giống cây bản địa. Bên cạnh đó cần nói đến các chính sách của Đảng và Nhà nước cho phát triển trồng rừng sản xuất. 2.2.4.3. Nhóm yếu tố kĩ thuật Yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh rừng trồng, việc áp dụng tốt các yêu cầu kỹ thuật trong trồng và chăm sóc rừng sẽ giúp cây rừng sinh trưởng và phát triển nhanh, nâng cao được chất lượng và giá trị cây rừng. Việc áp dụng đúng các quy trình kỹ thuật trong trồng rừng sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư và có thể rút ngắn được chu kỳ kinh doanh. 2.2.5. Các chỉ tiêu kinh tế đánh giá và các căn cứ để lựa chọn phương án kinh doanh trồng rừng sản xuất Có rất nhiều chỉ tiêu khác nhau được sử dụng để đánh giá các dự án (các phương án), nhưng thông thường trong các dự án người ta thường tập trung vào một số chỉ tiêu sau đây: 2.2.5.1. Giá trị hiện tại thuần (NPV) [9] Giá trị hiện tại thuần là giá trị hiện tại thuần của lợi nhuận ròng gia tăng, giá trị hiện tại thuần là hiệu số giữa giá trị hiện tại của dòng chi phí sau khi đã chiết khấu về giá trị hiện tại. Công thức tính giá trị hiện tại thuần như sau: n n n NPV =  t 0 Bt (1 r )^t  t 0 Ct (1 r )^t   (Bt Ct 1 r )^t t 0 Trong đó: - NPV: là giá trị hiện tại thuần của dự án. - Bt : là thu nhập trong năm t. - Ct : là chi phí trong năm t. -r : là tỷ lệ chiết khấu. Chỉ tiêu này nói lên được quy mô của lợi nhuận về mặt số lượng. Mọi phương án (dự án) sẽ được chấp nhận nếu NPV > 0. Khi đó tổng thu nhập
  19. 19 được chiết khấu lớn hơn tổng chi phí được chiết khấu và phương án có khả năng sinh lợi nhuận. NPV là chỉ tiêu tốt nhất để lựa chọn các phương án loại trừ nhau và các phương án có quy mô kết cấu đầu tư giống nhau, phương án nào có NPV lớn nhất thì được lựa chọn. Nhưng chỉ tiêu này không thể hiện được mức độ hiệu quả của dự án và không dùng để xếp hạng dự án, chỉ tiêu này không nói lên được mức độ của các chi phí để đạt được giá trị hiện tại thuần, chưa cho biết chất lượng đầu tư. 2.2.5.2. Tỷ lệ thu nhập trên chi phí (BCR) [9] Tỷ lệ thu nhập trên chi phí là tỷ lệ nhận được khi chia giá trị hiện tại của dòng thu nhập cho giá trị hiện tại của dòng chi phí. Công thức tính như sau: n  Bt (1 r )^t BCR  t 0 n  t 0 Ct (1 r )^t Trong đó: - Bt : là thu nhập trong năm t. - Ct : là chi phí trong năm t. - r : là tỷ lệ chiết khấu hay lãi suất. Đây là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi trong đánh giá các phương án, nó phản ánh một chất lượng đầu tư, là mức thu nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất. Tỷ lệ thu nhập trên chi phí được dùng để xếp hạng các phương án độc lập theo nguyên tắc dành vị trí cho những phương án có BCR cao hơn. Sử dụng chỉ tiêu BCR để so sánh các phương án có quy mô, kết cấu đầu tư khác nhau.
  20. 20 Các phương án được chấp nhận nếu có BCR > 1, khi đó những thu nhập của phương án bù đắp các chi phí đã bỏ ra và phương án có khả năng sinh lợi. 2.2.5.3. Tỷ lệ thu hồi nội bộ (IRR) [9] Tỷ lệ thu hồi nội bộ là một tỷ lệ chiết khấu, khi tỷ lệ này làm cho giá trị hiện tại thuần của phương án bằng không, điều đó có nghĩa là: n Bt  Ct Khi NPV   0 0 (1  r )^t thì r = IRR IRR là một chỉ tiêu được sử dụng để mô tả tính hấp dẫn của dự án đầu tư. Chỉ tiêu này phản ánh được mức quay vòng của vốn đầu tư trong nội bộ chu kỳ dự án. IRR được sử dụng để so sánh các dự án đầu tư độc lập nhau. Nguyên tắc xếp hạng là các dự án đầu tư có IRR cao hơn phản ánh khả năng sinh lợi cao hơn và được xếp hạng ưu tiên hơn. Để tính IRR sử dụng một số phương pháp sau: + Phương pháp nội suy: Theo phương pháp này, cần chọn hai tỷ lệ lãi suất r1 và r2 sao cho ứng với lãi suất nhỏ ta có NPV > 0, còn ứng với lãi suất lớn thì NPV < 0. IRR cần tìm sẽ nằm giữa hai lãi suất r1 và r2 theo công thức sau: NPV (r1) IRR  r1  (r 2  r1) NPV (r1)  NPV (r 2) Trong đó: - r1 và r2 : là hai tỷ lệ lãi suất lựa chọn bất kỳ - NPV(r1): là giá trị hiện tại thuần ứng với r1 - NPV(r2): là giá trị hiện tại thuần ứng với r2 Thông thường khoảng cách giữa hai lãi suất được chọn không nên vượt quá 5%.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2