intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua “Đội gạo lên chùa”

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

28
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

hông qua đề tài, luận văn muốn khẳng định vai trò không thể thay thế được của thể loại tiểu thuyết truyền thống trong việc thể hiện nội dung văn hoá - lịch sử mà tiểu thuyết Đội gạo lên chùa đã truyền tải. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua “Đội gạo lên chùa”

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG THỊ THU HƢƠNG NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH QUA “ĐỘI GẠO LÊN CHÙA” LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thái Nguyên – Năm 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG THỊ THU HƢƠNG NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT NGUYỄN XUÂN KHÁNH QUA “ĐỘI GẠO LÊN CHÙA” Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS TRỊNH BÁ ĐĨNH Thái Nguyên – Năm 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, là kết quả hoạt động nghiêm túc, tìm tòi trong quá trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4, năm 2013 Tác giả luận văn Hoàng Thị Thu Hƣơng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. LỜI CẢM ƠN Hoàn thành luận văn, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh - người thầy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu bằng một tinh thần khoa học nhiệt thành và nghiêm túc. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học - Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên đã giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khoá học. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã quan tâm động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Với trình độ và kiến thức hạn chế của người viết, luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong nhận được sự lượng thứ và góp ý chân thành của các thầy, cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp đã quan tâm đến vấn đề được tìm hiểu trong luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013. Tác giả luận văn Hoàng Thị Thu Hƣơng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ............................................................... 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 7 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 7 NỘI DUNG ...................................................................................................... 9 Chƣơng 1: HAI XU HƢỚNG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH....................................... 9 1.1. Hai xu hướng đổi mới của tiểu thuyết........................................................ 9 1.1.1. Xu hướng “hiện đại hóa” triệt để .......................................................... 11 1.1.2. Xu hướng đổi mới dựa trên lối viết truyền thống……………………..20 1.2. Quá trình sáng tác và quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Xuân Khánh .. 27 1.2.1. Quá trình sáng tác.................................................................................. 27 1.2.2. Quan niệm về nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh ........... 34 1.2.3. Vài nét về hoàn cảnh sáng tác tiểu thuyết Đội gạo lên chùa ................ 36 Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT ĐỘI GẠO LÊN CHÙA ................................................................. 38 2.1. Khái niệm nhân vật tiểu thuyết ................................................................ 38 2.2. Các kiểu nhân vật trong Đội gạo lên chùa ............................................... 41 2.2.1 Nhân vật hành động “tuỳ duyên” ........................................................... 41 2.2.2. Nhân vật tư tưởng.................................................................................. 48 2.2.3. Nhân vật bản năng ................................................................................. 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 2.2.4. Các nhân vật khác ................................................................................. 54 2.3. Nghệ thuật thể hiện nhân vật.................................................................... 56 2.3.1. Nghệ thuật thể hiện nhân vật qua miêu tả ngoại hình ........................... 56 2.3.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật qua miêu tả nội tâm................................ 60 2.3.3. Nghệ thuật thể hiện số phận nhân vật ................................................... 65 Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT KẾT CẤU VÀ TỰ SỰ ................................... 72 3.1. Nghệ thuật kết cấu ................................................................................... 72 3.1.1. Mở đầu và kết thúc tiểu thuyết Đội gạo lên chùa ................................. 72 3.1.2. Tổ chức kết cấu cốt truyện .................................................................... 74 3.2. Nghệ thuật tự sự ....................................................................................... 81 3.2.1. Điểm nhìn tự sự ..................................................................................... 81 3.2.2 Vị thế và ngôn ngữ người kể chuyện………………………………….83 3.2.3. Các yếu tố kì ảo, ẩn dụ, tượng trưng ..................................................... 88 KẾT LUẬN .................................................................................................... 93 THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 96 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Với lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều biến cố, thăng trầm song cũng đầy hào hùng. Trong quá trình sinh tồn, việc giữ gìn bản sắc văn hoá người Việt luôn được quan tâm. Do đó, mảng đề tài viết về lịch sử - văn hoá luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của các nhà văn và độc giả. Trong khoảng thời gian từ 1945 đến thời kỳ Đổi mới, văn học ưu tiên cho các vấn đề thời sự nên tiểu thuyết lịch sử ít được chú trọng. Sau Đại hội Đảng VI (1986) với tinh thần đổi mới “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” văn học Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh về văn xuôi. Trong đó, tiểu thuyết lịch sử không còn bị bó buộc, chi phối bởi nhiệm vụ chính trị mà được tự do sáng tác. Vì thế, tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này gặt hái được nhiều thành công với nhiều cây bút tên tuổi như Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh,…. Các tác giả tiểu thuyết lịch sử thời kỳ Đổi mới đã có nhiều thể nghiệm, cách tân nhằm đem lại sự chuyển biến mới mẻ, sâu sắc về tư tưởng và nghệ thuật tiểu thuyết. Việc tìm hiểu tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng là đề tài thời sự và được sự quan tâm sát sao của giới nghiên cứu văn học nước nhà. 1.2. Nguyễn Xuân Khánh sáng tác từ cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng phải sang thập kỷ đầu của thế kỷ XXI mới được biết đến như một cây bút tiểu thuyết hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết gia “lão thành” này đã lần lượt “trình làng” bộ ba tiểu thuyết lịch sử - văn hoá đồ sộ: Hồ Quý Ly (2000), Mẫu thượng ngàn (2006) và Đội Gạo lên chùa (2011). Về tiểu thuyết lịch sử, Nguyễn Xuân Khánh quan niệm “Lịch sử là cái kho tàng chứa đựng những mơ ước ẩn ngầm của cái vô thức tập thể của cộng đồng dân tộc. Viết về lịch sử ta có thể tìm hiểu dân tộc ta sâu hơn. Văn hoá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 2 Việt cũng là vấn đề nằm trong dòng ấy, nhất là văn hoá làng xã” (“Chúng ta là những người nhà quê”, Báo Tuổi trẻ, số ra ngày 16-7-2006). Do đó, Đội gạo lên chùa tiếp tục mạch tự sự văn hoá - lịch sử trong Hồ quý Ly và Mẫu thượng ngàn. Tác phẩm viết về ảnh hưởng của văn hoá Phật giáo trong đời sống người dân nông nghiệp Bắc Bộ, qua những biến thiên của lịch sử Việt Nam gần như trải dài suốt thế kỷ XX, từ công cuộc xây dựng và khai hoá của thực dân Pháp, cuộc kháng chiến chống Pháp, đến cải cách ruộng đất, kháng chiến chống đế quốc Mỹ, những ngày đầu thống nhất đất nước... Đội gạo lên chùa vừa ra đời đã nhận được sự đánh giá cao của giới nghiên cứu phê bình, báo chí và sự đón nhận nồng nhiệt của nhiều độc giả yêu văn học. Sự thành công của tác phẩm được ghi nhận bằng các giải thưởng cao nhất của Hội nhà văn Việt Nam 2011, Hội nhà văn Hà Nội 2011. Và chỉ sau khi “xuất xưởng” hai tháng, nhà xuất bản Phụ Nữ đã chuẩn bị tái bản để đáp ứng đòi hỏi của độc giả. 1.3. Đội gạo lên chùa ra mắt bạn đọc khi nhà văn Nguyễn Xuân Khánh gần 80 tuổi, đã cho ta thấy được bút lực dồi dào, khả năng sáng tạo đáng kính nể của nhà văn. Ngay sau khi xuất bản, tiểu thuyết Đội gạo lên chùa đã thu hút được sự quan tâm chú ý của xã hội và trở thành một trong những tác phẩm thành công nhất của thể loại tiểu thuyết đương đại. Làm nên thành công của Đội gạo lên chùa không chỉ có nội dung tư tưởng mà còn có cả những yếu tố hình thức nghệ thuật đặc sắc để truyền tải những tư tưởng đó. Sẽ thật thiếu sót khi chúng ta chỉ quan tâm tới nội dung mà quên mất những sáng tạo, đóng góp của tác giả về mặt nghệ thuật. Do đó, tìm hiểu Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua tác phẩm Đội gạo lên chùa là một công việc cần thiết, giúp ta nhìn nhận tác phẩm một cách toàn diện. Qua đó cũng chỉ ra được tài năng của nhà văn, những đóng góp quan trọng của Nguyễn Xuân Khánh cho nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 3 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933, bút danh là Đào Nguyễn, quê gốc ở làng Cổ Nhuế - Từ Liêm - Hà Nội. Năm 1953 vào bộ đội sau đó ông làm việc tại tạp chí Văn nghệ quân đội rồi Báo Thiếu niên Tiền Phong. Nguyễn Xuân Khánh là một cây bút khá đa dạng, ông sáng tác truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết và dịch thuật, trong đó có thể kể đến: - Rừng sâu (tập truyện ngắn, Nxb Văn học, 1962), - Miền hoang tưởng (tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng, 1990), - Hai đứa trẻ và con chó Mèo xóm núi (Nxb Nhi đồng, Hà Nội, 2002), - Mưa quê (Nxb Nhi đồng, Hà Nội, 2003). - Hồ Quý Ly (tiểu thuyết), 2000. Tác phẩm này nhận được một loạt các giải thưởng: Giải thưởng Cuộc thi tiểu thuyết (1998 - 2000) của Hội nhà văn Việt Nam; Giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội 2001; Giải thưởng Mai vàng của Báo Người lao động, 2001; Giải thưởng Thăng Long của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, 2002. - Mẫu thượng ngàn (tiểu thuyết), 2006. Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội, 2006; Giải thưởng văn Doanh nhân, 2007. - Đội gạo lên chùa (tiểu thuyết), 2011. Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam, 2011; Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội 2011. - Và nhiều tác phẩm dịch. Nguyễn Xuân Khánh tuy sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của nhà văn thực sự là những viên ngọc quý của thể loại tiểu thuyết lịch sử nói riêng và của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới nói chung. 2. 2. Các bài viết có liên quan tới tác phẩm Đội gạo lên chùa Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa được sáng tác khi nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã ở cái tuổi “ xưa nay hiếm”, sự thành công của tác phẩm một lần nữa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 4 đã góp phần khẳng định tên tuổi và tài năng của ông trong nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tác phẩm vừa ra mắt đã thành sự kiện: - Ngày 20 tháng 6 năm 2011 Hội nhà văn Hà Nội và Nhà xuất bản Phụ Nữ tổ chức giới thiệu và tọa đàm tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Nổi bật trong cuộc tọa đàm này là một số ý kiến sau: + Nhà văn Hoàng Quốc Hải một người tâm huyết với loại tiểu thuyết lịch sử đã nêu những điều tâm đắc của mình về tiểu thuyết Đội gạo lên chùa của tác giả Nguyễn Xuân Khánh: “Anh luôn đụng đến những vấn đề bản chất của văn hoá Việt, đó là Mẫu thượng ngàn - hiện tượng văn hoá thuần Việt; và giờ đây là đạo Phật - hiện tượng văn hoá du nhập nhưng đã được Việt hoá. Đội gạo lên chùa cũng là lời cảnh báo về những giá trị cốt yếu, sâu thẳm, đẹp đẽ của văn hoá Việt đang bị phá huỷ, đang dần biến mất”[21]. + Nhà nghiên cứu trẻ Phạm Xuân Thạch nhìn nhận ở một góc độ khác - góc độ hình thức thể loại đã chỉ ra sự độc đáo của Đội gạo lên chùa trong tương quan sự phát triển của tiểu thuyết hiện đại. Đó là “Nguyễn Xuân Khánh là một trường hợp độc đáo khi mọi sự thể nghiệm, đột phá về hình thức đã trở nên bão hoà thì ông lại trở về với dạng sơ khai của tiểu thuyết: tiểu thuyết truyền thống”[21]. Không chỉ nhìn nhận nhận ở hình thức thể loại, Phạm Xuân Thạch còn chỉ ra rằng, tiểu thuyết Đội gạo lên chùa cho ta cái nhìn sâu sắc hơn về các giá trị văn hoá, tinh thần của người Việt trong sự vận động của lịch sử. Đó là “Tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh giống như một “kẻ cạnh tranh” của sử học, nó buộc chúng ta phải nhìn hiện thực lịch sử với một con mắt phức tạp hơn. Nó buộc ta phải suy tư về những nền móng của sự tồn tại bền bỉ của làng xã ở đồng bằng Bắc Bộ, những cơ chế tự điều tiết về mặt tinh thần và về cả những gì đã bị những sự vận động của lịch sử tàn phá…”(trang bìa 4 - Tiểu thuyết Đội gạo lên chùa). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 5 + Ngoài ra, cũng trong cuộc toạ đàm này, ý kiến của Nguyễn Xuân Khánh khi nhìn nhận “đứa con‟‟của mình sau bốn năm miệt mài viết đã góp phần giúp độc giả hiểu rõ hơn về quá trình ra đời của tác phẩm: „„Tôi Đội gạo lên chùa bằng tất cả vốn sống của cuộc đời mình, bằng tất cả sự trải nghiệm 79 năm của đời mình. Có những chi tiết đời giúp tôi nhặt được: năm 1977 tôi bị nghi ung thư, nằm viện, có sư ông nằm cùng phòng. Sư lại có chú tiểu theo chăm sóc, chú tiểu nguyên là bộ đội, đi lính về thì vào chùa. Tôi rỉ rả tâm sự cùng sư cụ và chú tiểu, và tiểu thuyết là sự thu nhặt, gắn kết, đúc rút, tỉa gọt…từ tất cả”[21]. Ngoài các ý kiến đóng góp trong cuộc tọa đàm, còn có ý kiến của nhiều cây bút trong các bài báo, các cuốn sách khác. Trong đó có thể kể đến: - Bài viết của tác giả Mai Anh Tuấn “Tiểu thuyết như một tham khảo phật giáo” đã đưa ra nhận định: Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh “là cuốn tiểu thuyết ngay từ tiêu đề đã tiết lộ một dấu chỉ Phật giáo và bởi thế, liền sau đó, vẫy gọi những cảm xúc cũng như tri thức tiếp nhận thuộc chốn cửa thiền”. Cũng trong bài viết này tác giả đã chỉ ra thể loại của tác phẩm: “Vẫn miệt mài với lối viết tiểu thuyết trường thiên, Đội gạo lên chùa ngót một ngàn trang có lẽ không quá xa lạ với cây bút từng tạo điều tương tự với hai tiểu thuyết trước đó. Nhưng vẫn đầy bất ngờ với thời tiểu thuyết ngắn mà văn đàn thì tranh nhau hoài nghi đại tự sự. Đội gạo lên chùa ở khía cạnh này, lại trở thành tham khảo thể loại trường thiên tiểu thuyết và chắc rằng, chưa dễ đã mất đi vị thế cho những nỗ lực phục hưng dung lượng tiểu thuyết của một nhóm người, chí ít là cao tuổi”[66]. - Nhà thơ Hoàng Việt Hằng trong bài viết Thong thả kiếp người đội gạo lên chùa đưa ra nhận định:“Từng nổi tiếng với Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn, tiểu thuyết gia Nguyễn Xuân Khánh lại mang đến cho làng văn một cuốn sách tầm cỡ. Đội gạo lên chùa giản dị và lôi cuốn”[25]. Đồng thời tác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 6 giả bài viết cũng chỉ ra nghệ thuật xây dựng nhân vật người phụ nữ trong Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh đều là “điển hình của chịu thương, chịu khó, sống vì gia đình, quê hương”[25]. - Nhà nghiên cứu Đoàn Ánh Dương với Nguyễn Xuân Khánh và tiểu thuyết văn hóa - lịch sử đã khẳng định Đội gạo lên chùa sáng tác theo “mạch tự sự văn hoá - lịch sử”[14]. Và Đội gạo lên chùa “Phải chăng đấy cũng là một kiến giải của nhà văn về dân tộc, tương lai dân tộc?”[14]. - Với bài viết Người đưa lịch sử vào tiểu thuyết, tác giả Vĩnh Hưng cũng đã đề cập đến nghệ thuật của tiểu thuyết Đội gạo lên chùa, đó là: “viết theo lối cổ điển, mang tính luận đề về ảnh hưởng của đạo Phật”[29]. Như vậy, qua các bài viết và các công trình nghiên cứu các nhà nghiên cứu, phê bình đều khẳng định sự thành công của Đội gạo lên chùa và tài năng của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh khi tiếp tục đề tài văn hoá - lịch sử. Tuy nhiên có thể nhận thấy chưa có một bài viết hay một công trình nghiên cứu chuyên sâu, tổng quát về Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua Đội gạo lên chùa. Vì thế, chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề mới mẻ và có ý nghĩa chờ đợi sự khám phá của người nghiên cứu. 3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu Trước tiên luận văn giới thuyết về các xu hướng tiểu thuyết Việt Nam đương đại và sáng tác tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh. Phần chính của luận văn tiến hành khảo sát, phân tích đặc sắc nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua tác phẩm Đội gạo lên chùa về: nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật kết cấu và tự sự. Ngoài ra luận văn cố gắng đi vào tìm hiểu sâu hơn kiến thức lý luận về nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết, nghệ thuật kết cấu và tự sự tiểu thuyết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 7 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua Đội gạo lên chùa. Tức là chỉ ra những nét đặc sắc trong lối viết, lối dựng tiểu thuyết của nhà văn ở tất cả các bình diện. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi tập trung khảo sát tiểu thuyết Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân Khánh). Những tác phẩm khác của Nguyễn Xuân Khánh, luận văn chỉ sử dụng để đối chiếu, tham khảo, củng cố thêm nhận định của mình về nghệ thuật tiểu thuyết của ông qua tác phẩm Đội gạo lên chùa. Đồng thời khảo sát tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh chúng tôi cũng đặt nó trong tương quan với các tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích theo thể loại. - Phương pháp phân tích hệ thống các thủ pháp biểu hiện. - Phương pháp so sánh đối chiếu và khái quát tổng hợp. 6. Đóng góp của luận văn 6.1. Thông qua đề tài, luận văn muốn khẳng định vai trò không thể thay thế được của thể loại tiểu thuyết truyền thống trong việc thể hiện nội dung văn hoá - lịch sử mà tiểu thuyết Đội gạo lên chùa đã truyền tải. 6.2. Luận văn đưa ra cái nhìn chuyên sâu và tổng quan về nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh qua Đội gạo lên chùa về: xây dựng nhân vật, nghệ thuật kết cấu và tự sự . 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần nội dung của luận văn được triển khai thành ba chương: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 8 - Chương 1: Hai xu hướng tiểu thuyết Việt Nam đương đại và sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh. - Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đội gạo lên chùa. - Chương 3: Nghệ thuật kết cấu và tự sự. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 9 NỘI DUNG Chƣơng 1 HAI XU HƢỚNG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH 1.1. Hai xu hƣớng đổi mới của tiểu thuyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã khẳng định “Đối với đất nước ta, đổi mới có ý nghĩa sống còn”. Có thể nói, đổi mới là là yếu tố duy nhất, đảm bảo cho sự phát triển của đất nước, đồng thời cũng là khát khao, nguyện vọng của toàn dân tộc khi đất nước vừa trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt. Đời sống sau hoà bình với những khó khăn, bề bộn đòi hỏi các nhà văn phải sáng tác được những tác phẩm phản ánh được hơi thở của thời đại. Với tinh thần “cởi trói”, “dân chủ” mà Đảng khuyến khích, các nhà văn không còn bị gò bó theo những quy phạm, khuôn khổ của giai đoạn trước nữa mà được thoả sức sáng tạo, thể nghiệm. Các nhà văn luôn trăn trở, chủ động tìm cho mình một hướng đi mới thích hợp với sự vận động của xã hội - thời đại và xu hướng vận động của bản thân văn học. Và điều cốt yếu của cuộc đổi mới này chính là việc đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm, làm cho đúng và phù hợp với quy luật khách quan. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn Giáo sư Phan Cự Đệ đưa ra quan niệm mới về đổi mới tư duy: “Đổi mới tư duy là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt nhưng đồng thời cũng là một công việc lâu dài, phải tiến hành một cách khoa học, nghiêm túc… Trong quá trình đổi mới tư duy, tất nhiên không chỉ có phê phán mà chủ yếu là phải suy nghĩ, khám phá, sáng tạo, cá nhân và tập thể cùng đổi mới và sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI ”[16]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 10 Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã nói: “Ai cũng đổi mới nhưng đổi mới thật sự là gì? Theo tôi đổi mới là nghĩ đúng, làm đúng quy luật khách quan, là tôn trọng tinh thần khoa học”[48]. Cùng nhìn nhận về vấn đề đổi mới tư duy, trong cuộc toạ đàm “Văn học đổi mới và phát triển”, nhà nghiên cứu Hà Xuân Trường đã nhận định:„„Đổi mới trong văn học, điều quan trọng nhất, quyết định nhất là cái nhìn và cái tâm của nhà văn. Đề tài, nhân vật, phong cách cá tính không là cái gì nếu không có cái nhìn thời đại sâu sắc, thấu suốt nhân tình, nếu không có được một cái tâm trong sáng, nhân ái, cộng với ý thức đầy đủ về chức trách cao cả của văn học đối với con người, đối với cuộc đời, với nhân dân mình. Không có những cái đó thì không có đổi mới ‟‟[67, tr.49-50]. Dưới ánh sáng của đại hội Đảng lần thứ VI, văn học Việt Nam sau thời kỳ Đổi mới (1986) đang dần chuyển mình và có những thành tựu đáng ghi nhận. Đời sống văn học đổi mới một cách toàn diện: Với nhà văn có sự thay đổi sâu sắc về quan niệm nghệ thuật, hiện thực về con người; Với tác phẩm có sự thay đổi về chủ đề, cảm hứng sáng tác, các thủ pháp nhệ thuật; Với độc giả là sự thay đổi về thị hiếu thẩm mĩ. Cùng với sự vận động chung của nền văn học, thể loại tiểu thuyết cũng đã và đang nỗ lực “đổi mới” để phù hợp với phản ánh hiện thực, phù hợp với sự phát triển của văn học và thị hiếu của người đọc. Bởi tiểu thuyết là “thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và cũng chưa định hình. Những hiện tượng cấu thành thể loại này cũng đang hoạt động trước mặt chúng ta. Thể loại tiểu thuyết ra đời dưới ánh sáng thanh thiên bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại tiểu thuyết này chưa hề rắn lại và chúng ta chưa hề dự đoán được khả năng uyển chuyển của nó”[46]. Hơn nữa trong sáng tạo nghệ thuật việc sáng tạo, không lặp lại là quy luật phát triển của văn học nghệ thuật. Điều đó cũng đã được khẳng định trong hội nghị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 11 “Đổi mới tư duy tiểu thuyết”: đổi mới tư duy là điều cần kíp để có được những tiểu thuyết có giá trị thực sự trong bối cảnh văn hoá hiện nay. Sự đổi mới văn học phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan: khách quan là môi trường xã hội, thị hiếu độc giả; chủ quan là sự thay đổi của thế hệ nhà văn sau Đổi mới, bên cạnh các nhà văn lão thành, các nhà văn trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến, đã xuất hiện thế hệ nhà văn hậu chiến, nhà văn thời Đổi mới. Sự thay đổi này khiến cho trong văn học xuất hiện hai xu hướng tìm tòi, sáng tạo tiểu thuyết. Thứ nhất là xu hướng “hiện đại hoá” triệt để và thứ hai là xu hướng đổi mới dựa trên lối viết truyền thống. 1.1.1. Xu hƣớng “hiện đại hóa” triệt để Đổi mới không chỉ là đòi hỏi của đời sống văn học, của độc giả mà còn mục đích sáng tạo các nhà văn. Các nhà văn luôn trăn trở phải viết như thế nào để tự đổi mới chính mình và khác với những nhà văn khác. Vì thế xu hướng “hiện đại hoá triệt để” chính là xu hướng mà người viết tiểu thuyết mong muốn vượt qua sự “tồn dư ngoan cố của lối viết cũ”( Roland Barthes). Sau thời kỳ Đổi mới, người ta đã quan niệm tiểu thuyết truyền thống (kết cấu tuyến tính) đã xưa rồi, không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại. Các nhà văn, nhất là những cây bút trẻ đã thể nghiệm những kỹ thuật tự sự mới nhằm cách tân thể loại tiểu thuyết, đưa tiểu thuyết Việt Nam hoà nhập với tiểu thuyết hiện đại thế giới. Những cách tân, đổi mới tiểu thuyết theo xu hướng “hiện đại hoá triệt để” dựa trên sự đổi mới quan niệm tiểu thuyết, vận dụng những kỹ thuật tự sự hiện đại phương Tây, chủ yếu về lối viết và những thủ pháp nghệ thuật của văn học hiện sinh, văn học phi lý….Tuy nhiên không đơn thuần là việc sao chép máy móc, các cây bút tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã tiếp thu, học tập có chọn lọc. Những cách tân tiểu thuyết Việt Nam theo xu hướng “hiện đại hoá” thể hiện ở những khía cạnh: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 12 Trước hết đó là đổi mới quan niệm về tiểu thuyết theo tinh thần dân chủ, các nhà tiểu thuyết thoả sức với những đề tài của cuộc sống bởi tiểu thuyết lúc này đã được giải phóng khỏi nhiệm vụ phản ánh hiện thực một cách chính xác, đầy đủ. Sự phản ánh hiện thực không còn là cái nhìn đơn giản, xuôi chiều như thời kỳ trước nữa mà được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Mọi ngõ ngách về đời sống con người đều được đào xới, mọi góc khuất trong tâm hồn con người đều được khai thác một cách triệt để. Về hình thức, chúng ta có thể nhận diện những tiểu thuyết viết theo xu hướng “hiện đại hoá” triệt để ở một số dấu hiệu sau: - Về dung lượng: thường ngắn. - Cốt truyện: tiểu thuyết được viết một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống, có xu hướng mờ nhạt về tính “chuyện”, cốt truyện có sự “phân rã”, lỏng lẻo, cấu trúc là sự lắp ghép của mảng tâm trạng, mảng cốt truyện không theo trình tự thời gian mà đảo ngược theo dụng ý của tác giả tạo nên những hiện thực đứt gãy, quanh co phức tạp trong cấu trúc tiểu thuyết, tạo ra kiểu “truyện lồng trong truyện”. Ở đó, những sự kiện, tình huống, những biến cố như không có quan hệ với nhau nhưng lại liên đới gần nhau. Nói cách khác, đó là lối kết cấu đa tầng, đa tuyến, song hành, xoắn vặn, sắp đặt, lắp ghép… - Tiểu thuyết đương đại khước từ truyền thống với sự đề cao tính chất “Trò chơi”: chơi ngôn từ, chơi kết cấu, chơi nhân vật, chơi lịch sử… với những sắp đặt, dán ghép, nhảy cóc, dòng ý thức, xen cài lồng ghép, vật hoá, số hoá, nhiều kết thúc, phá vỡ mạch truyền thống. Cuộc chơi kết cấu dẫn đến sự pha trộn giữa các thể loại, có nhiều văn bản khác nhau trong một tác phẩm: tiểu thuyết đan xen kịch, tiểu thuyết - nhật kí, tiểu thuyết - thư, tiểu thuyết - phóng sự, tiểu thuyết trong tiểu thuyết, tiểu thuyết đan xen thơ, ca dao, truyền thuyết, huyền thoại… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 13 - Nhân vật tiểu thuyết là kiểu nhân vật phức hợp, đa bình diện. Đó là những nhân vật có tính cách và tâm lý phức tạp; kiểu nhân vật phi trung tâm, vênh lệch giữa vai tính cách và vai hình tượng, không có nhân vật lý tưởng. Khá phổ biến là kiểu nhân vật dị biệt, kì ảo, bản năng, người điên, kẻ lạc loài, có khi chỉ là cái bóng mờ ảo, ..... - Ngôn ngữ đa thanh, mang tính đối thoại, kết hợp nhiều kênh ngôn ngữ, có xu hướng làm nhòa ranh giới giữa tính tinh tuyển và thông tục. Trong tác phẩm có sự kết hợp nhiều giọng điệu: giọng điệu trữ tình, giọng điệu triết lý, giọng điệu hoài nghi, chất vấn, giọng điệu đối thoại, giọng điệu giễu nhại và giọng vô âm sắc... - Về nghệ thuật trần thuật, tiểu thuyết đương đại quay lưng lại với vai trò toàn tri của người kể chuyện ngôi ba, trần thuật theo ngôi thứ nhất chiếm ưu thế. Trong tác phẩm có nhiều điểm nhìn trần thuật, có sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, sự luân chuyển điểm nhìn người trần thuật. - Về thủ pháp nghệ thuật, trong tiểu thuyết đương đại nhà văn sử dụng các thủ pháp huyền thoại, kì ảo. Nó cho phép nhà văn nhìn sâu hơn vào thế giới, vừa tạo ra sự lạ hoá để thu hút người đọc. Trong nhiều tiểu thuyết, bút pháp huyền thoại có khả năng tạo nên những hình tượng mang tính ẩn dụ cao và các hình tượng ẩn dụ này tồn hiện như một kí hiệu nghệ thuật đa nghĩa giàu chất tượng trưng. Ngoài ra các nhà tiểu thuyết con sử dụng bút pháp tượng trưng, giễu nhại… Để làm rõ loại tiểu thuyết với lối viết “hiện đại”, chúng tôi xin lược qua một số ví dụ tiêu biểu: 1.1.1.1. Nguyễn Bình Phƣơng Nguyễn Bình Phương tâm niệm: không có sự sáng tạo nhà văn sẽ tự tiêu diệt mình. Do đó, nhà văn đã vượt qua những ràng buộc của truyền thống, nỗ lực đổi mới, cách tân tiểu thuyết với một loạt các tác phẩm: Vào cõi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 14 (1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kì thủy (2004), Ngồi (2006). Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương ám ảnh người đọc bởi sự khủng hoảng niềm tin của con người, của nhà văn vào cuộc đời, sự đổ vỡ của trật tự gia đình và xã hội, sự đánh mất bản ngã, sự băng hoại về đạo đức, sự khốc liệt, đau đớn, bơ vơ, tình trạng bất an của con người. Vì thế, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thường có cốt truyện phân mảnh, lối kết cấu song hành xoắn vặn. Trong Vào cõi gồm hai mạch truyện: mạch chuyện của Tuấn với cõi thực và cõi mơ và mạch chuyện của chị em Vang, Vọng với cõi quê và cõi phố, cõi thế và cõi chết. Hay trong Những đứa trẻ chết già với mạch cõi âm (Câu chuyện về mấy hồn ma trở về làng trong các Vô thanh) và cõi trần (câu chuyện về hai gia đình ông Trường hấp và ông Trinh gắn với bí mật kho báu mà cả hai gia đình đều quyết giành lấy). Trong Thoạt kì thủy có cấu trúc ba phần: A- Tiểu sử (của 18 nhân vật được đánh số thứ tự từ 1 đến 18 sắp xếp không theo một tiêu chí cụ thể nào. Phần này chưa có sự thống nhất giữa tiêu đề và nội dung triển khai, nhà văn không tập trung vào tiểu sử mà chỉ miêu tả ngoại hình, thói quen của các nhân vật); B- Chuyện (gồm hai câu chuyện được đan lồng vào nhau: câu chuyện về con cú bị bắn rụng trên sông Cái từ lúc 11 giờ 15, bay lên lúc 12 giờ và câu chuyện ở một làng nhỏ ven sông chủ yếu xoay quanh nhân vật tên Tính, bị mọi người coi là điên); C - Phụ chú (gồm một tác phẩm của ông Phùng tên là Và cỏ và mười một giấc mơ của Tính và Hiền). Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, nhân vật thường có tính cách, tâm lý phức tạp. Đó là những con người luôn sống với thế giới tâm linh, nhiều dằn vặt, đau khổ. Nhiều kiểu nhân vật có tính dị biệt, bản năng,…. Trong Ngồi các nhân vật chính đều bị xoá tên, hoặc bị làm mờ hay làm cho bị vắng mặt. Đó là Khẩn, Minh, Thuý, Trương, Kim đều bị xoá tên đi bằng kỹ thuật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2