intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung tìm hiểu những đặc điểm, những nét đặc sắc của nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu trên phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật với mục đích tìm kiếm, phát hiện những nét khác biệt và sự đổi mới trong cách nhìn và cách thể hiện hình ảnh người phụ nữ của nhà văn. Qua đó, khẳng định đóng góp, vị trí của nhà văn trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––––– KIỀU THỊ NHUNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60. 22. 01. 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Tôn Thảo Miên THÁI NGUYÊN - 2014 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Người cam đoan Kiều Thị Nhung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  3. LỜI CẢM ƠN Được sự giúp đỡ và chỉ bảo ân tình của cô hướng dẫn PGS – TS Tôn Thảo Miên trong suốt quá trình tìm đọc tài liệu, thiết lập đề cương cũng như tìm ra các phương pháp nghiên cứu, đến nay bản luận văn của em đã được hoàn thành. Trước tiên, cho phép em được bày tỏ sự biết ơn chân thành và sâu sắc đến cô Tôn Thảo Miên (Viện Văn học). Có được luận văn này, em cũng xin gửi tới những người thân, bạn bè, đồng nghiệp gần xa lòng biết ơn vô hạn vì đã luôn động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện và thắp lên ngọn lửa nhiệt tình để em có thể hoàn thành được luận văn. Để hoàn thành luận văn này, em cũng xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Thái Nguyên cũng như Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa, phòng quản lí khoa sau đại học của trường lòng biết ơn chân thành vì luôn tạo điều kiện để em có được kết quả như ngày hôm nay. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014 Tác giả luận văn Kiều Thị Nhung Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  4. MỤC LỤC Lời cam đoan ....................................................................................................... .i Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi ......................................................................... 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8 7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 8 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNGCHẢY TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI. 1.1. Khái quát tiểu thuyết Việt Nam đương đại................................................... 9 1.1.1. Đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam đương đại ................................................ 9 1.1.2. Đội ngũ nhà văn viết tiểu thuyết.............................................................. 15 1.1.3. Nhân vật nữ trong tiểu thuyết đương đại ................................................. 18 1.2. Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới ........................................................... 22 1.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn .......................... 22 1.2.2. Quan niệm sáng tác của Lê Lựu .............................................................. 25 1.2.3. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu ............................................ 29 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  5. CHƢƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU. 2.1. Khái niệm nhân vật văn học và tầm quan trọng của nhân vật trong tác phẩm văn học ..................................................................................................... 33 2.2. Khái quát hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu ................... 35 2.3. Các kiểu nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu .......................................... 37 2.3.1. Nhân vật nữ có số phận bi kịch và luôn khát khao được yêu thương ..... 37 2.3.1.1. Nhân vật nữ có số phận bất hạnh, luôn cam chịu trước hoàn cảnh ...... 37 2.3.1.2. Nhân vật nữ luôn khát khao yêu thương ............................................. 54 2.3.2. Nhân vật nữ thông minh, giàu bản lĩnh, luôn tìm cách khẳng định mình 57 2.3.3. Nhân vật nữ tha hoá ................................................................................. 65 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU. 3.1. Nghệ thuật tổ chức tình huống…………………………………………… 71 3.2. Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật…………………………………………… 74 3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình………………………………………… 74 3.2.2. Nghệ thuật miêu tả hành động………………………………………… 78 3.2.3. Nghệ thuật biểu hiện độc thoại tâm……………………………………. 81 3.3. Ngôn ngữ nhân vật……………………………………………………… . 83 3.4. Giọng điệu miêu tả nhân vật………………………………………… ...... 86 3.4.1. Giọng điệu châm biếm, hài hước……………………………………… 86 3.4.2. Giọng điệu xót thương, day dứt ................... ……………………………88 KẾT LUẬN………………………………………………………………… . 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………… ..... 94 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  6. MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài: Nói đến văn học đương đại là nói đến văn học Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay. Đây là mốc quan trọng đánh dấu sự cách tân sáng tạo về cả nội dung và hình thức ở nhiều thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết. Chiến thắng vĩ đại 1975 đã ghi mốc quan trọng không chỉ trong lịch sử đất nước mà còn là mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển mình của văn học. Nếu như trước kia, văn học phục vụ kháng chiến và phản ánh công cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc thì giờ đây văn học đã có sự thay đổi cả về cảm hứng và đề tài sáng tác để phù hợp với tình hình mới. Văn học giai đoạn này, đòi hỏi các nhà nghệ sĩ phải đi sâu khám phá đời sống của con người đời thường nhân bản với tất cả những cái hay cái dở vốn có trong đời sống hiện thực. Vì thế, các nhà nghệ sĩ phải tiếp cận đời sống bằng cái nhìn mới, cách tiếp cận mới. Trong số những nhà văn có sự đổi mới sáng tạo ấy, ta không thể không kể đến nhà văn Lê Lựu với một số tiểu thuyết đặc sắc. Với sự miệt mài, nhiệt huyết, Lê Lựu đã sáng tác được một khối lượng tác phẩm đáng trân trọng, đạt nhiều giải thưởng và đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi kì đổi mới. Có thể thấy rằng, người phụ nữ là mạch nguồn tuôn chảy không bao giờ cạn trong văn học Việt Nam nói chung, tiểu thuyết đương đại nói riêng, trong đó có sáng tác của Lê Lựu. Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu đã để lại dấu ấn sâu sắc đối với người đọc qua nhiều số phận, nhiều cảnh đời. Đó là hình ảnh những người phụ nữ trong các tiểu thuyết: Thời xa vắng, Chuyện làng cuội, Sóng ở đáy sông, Hai nhà, Thời loạn... Hình tượng người phụ nữ trong các tiểu thuyết này là bước đột phá trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn. Với tình cảm và hứng thú khi tiếp cận với hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu cho luận văn thạc sĩ của mình. Qua đề tài này, một mặt chúng tôi muốn khẳng định đóng góp của nhà văn Lê Lựu vào sự phát triển của văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  7. học Việt Nam đương đại, mặt khác muốn có thêm những phát hiện mới về cách thể hiện hình ảnh người phụ nữ trong sáng tác của ông. 2. Lịch sử vấn đề Qua quá trình tìm hiểu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về tác giả, các tác phẩm của Lê Lựu. Bên cạnh những bài nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học còn có nhiều bài viết được đăng tải trên các báo, nhiều khoá luận tốt nghiệp, các luận văn tìm hiểu về tác giả, tác phẩm của Lê Lựu…Vốn là nhà văn có nhiều tác phẩm xuất sắc trong văn học thời kỳ tiền đổi mới và đổi mới, sáng tác của Lê Lựu đã thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng độc giả trong suốt một thời gian dài. Có thể kể ra nhiều công trình, bài viết về tác giả, về tiểu thuyết Lê Lựu nói chung, cũng như về từng tác phẩm cụ thể của ông như: Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm Báo văn nghệ tháng 12-1986. Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng của Lê Thành Nghị, Chuyện phiếm với anh Sài của Hồng Vân, Nhu cầu nhận thức lại thực tại Thời xa vắng của Nguyễn văn Lưu, Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu của Hoàng Ngọc Hiến, Suy tư một thời xa vắng của Nguyễn Hoà, Hình tượng nguời nông dân và nhà văn đô thị của Nguyễn Thu Hằng, Tâm sự phim Sóng ở đáy sông của Hồng Thái, Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới của Đoàn Thị Thuỷ, Vấn đề con người và thời gian trong tiểu thuyết hậu chiến Việt Nam qua Thời xa vắng của Lê Lựu và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh trong luận văn thạc sĩ của Đinh Thi Huyền, Lê Lựu – chân dung văn học của Trần Đăng Khoa, Lê Lựu- Thời xa vắng của Đinh Quang Tốn, Nhà văn Lê Lựu đi đến tận cùng tính cách nhân vật của Lê Hồng Lâm, Những đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của Lê Lựu trong chuyện làng cuội - Vũ Xuân Triệu, Nghĩ về một thời xa vắng của Thiếu Mai…Trong những bài nghiên cứu này, có nhiều bài được chính Lê Lựu tập hợp trong cuốn tạp văn của mình. Qua những bài viết, bài nghiên cứu đó, người đọc không chỉ hình dung ra bức tranh xã hội muôn màu của đời sống hiện thực mà còn cảm nhận được sự chuyển biến sâu sắc, tinh tế trong đời sống tư tưởng, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  8. tình cảm con người thời đại. Từ đó, ta thấy được những đóng góp to lớn của Lê Lựu cho đời sống văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, làm cho đời sống văn học nước nhà thêm sôi động. Đúng như nhà văn Đinh Quang Tốn nhận xét: “Lê Lựu lớn lên giữa lúc dân có ruộng dập dìu hợp tác. Tất cả những niềm vui và nỗi buồn của làng quê thời kỳ ấy anh đều chứng kiến. Bản chất là anh nông dân mặc áo lính, anh luôn nghĩ về quê hương, chú ý đến những người nông dân và nông thôn. Nông thôn và nông dân là cội nguồn, là quê hương văn học của anh từ tác phẩm đầu tiên đến tác phẩm anh viết gần đây nhất, dẫu cả đời anh gắn bó với quân đội, ăn lương quân đội và làm việc cho quân đội’’[35, tr. 656]. Từ đó, ông cũng khẳng định vị trí của Lê Lựu trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong tổng số sáu mươi nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện đại, chọn lấy ba mươi tác phẩm thì có mặt thời xa vắng. Nói thế để có thể thấy trong văn học Việt Nam hiện đại, Lê Lựu đã có một vị trí đáng kể” [35, tr . 663]. Bên cạnh đó, còn có một số bài nghiên cứu, đánh giá về các tác phẩm của Lê Lựu. Trần Đăng Khoa cũng đã thẳng thắn đánh giá về tác phẩm của Lê Lựu “ đã cuốn hút người đời bằng một thứ văn không nhạt. Ngay cả những chuyện xoàng xĩnh, người đọc vẫn thu lượm được cái gì đấy, có khi là một chi tiết , một đoạn tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật. Nghĩa là đọc anh không bị lỗ trắng. Cũng bởi lẽ Lê Lựu là nhà văn không chấp nhận được sự nhạt nhẽo tầm thường” [35, tr. 669]. Và riêng với “đứa con cưng” của Lê Lựu thì Trần Đăng Khoa cũng dành lời lẽ sắc sảo “Với ba trăm trang sách, tiểu thuyết Thời xa vắng đã ôm chứa một dung lượng lớn. Đấy là một chặng đường lịch sử oai hùng. Chặng đường ba mươi năm, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng xong toàn bộ đất nước. Lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết” [35, tr . 676]. Qua những lời nhận xét ấy, ta có thể thấy “tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận đánh giá lại hiện thực. Sự phản ánh chân thực, sinh động tạo nên hoàn cảnh nhào nặn nên con người đó, sự nín nhịn nhẫn nhục và vùng vẫy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  9. cuống cuồng, những thay đổi trong tâm lý và hành động của anh ta đã được Lê Lựu dựng lại rất sinh động, đã lôi cuốn mạnh người đọc, gợi ra những liên tưởng có ý nghĩa xã hội mà hiện nay mọi người đang rất quan tâm... Thời xa vắng phản ánh khá sâu sắc một giai đoạn tâm lý của nông dân, giai đoạn vùng lên, hoà theo, nhập thân hoàn toàn vào đời sống của xã hội mới” [24, tr.588 - 589]. Đến với những trang viết của Lê Lựu, mỗi người đọc đều cảm thấy sự cuốn hút đặc biệt. Nhân vật hiện lên trên trang viết với số phận đầy bi kịch. Những bi kịch do xã hội tạo ra và những bi kịch do chính họ tạo ra. Chúng ta vừa giận lại vừa thương Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Núi trong Sóng ở đáy sông và ngay cả sự tha hoá của Lưu Minh Hiếu trong Chuyện làng cuội… Các tác phẩm của Lê Lựu ra đời vào lúc này đã làm cho đời sống văn học Việt Nam thêm sôi động. Ở một số bài viết như: Thời xa vắng – Một tâm sự nóng bỏng của Lê Thành Nghị, Nghĩ về một thời xa vắng của Thiếu Mai, Nhận thức lại thực tại qua một thời xa vắng của Nguyễn Văn Lưu, Suy tư từ một thời xa vắng của Nguyễn Hoà...Ở những bài viết này, các tác giả đã đề cập đến những suy nghĩ mới mẻ của Lê Lựu. Đó là những vấn đề nhận thức lại một thời xa vắng - Một thời sống hộ, yêu hộ. Cũng đánh giá về vấn đề này, có bài viết Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị của Nguyễn Thu Hằng. Tác giả đã nhận xét: “Có thể họ chưa có tủ lạnh, nhưng họ đã có xe chở đá về, quán nào ở quê mà chả đọc thấy Giải khát có đá! Còn xe máy à, có đấy nhưng họ khác dân thành phố, anh thành phố thì cưỡi nghênh ngang cho oai. Anh nhà quê họ thực tế hơn, họ đi Sim sơn, đi Minxcơ, hợp với đường quê, lại thồ được gà, được lợn. Cái xe của họ thồ được bốn người, họ tính toán kỹ lắm chứ” [15, tr.652]. Cùng những bài viết ấy, có bài viết Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu của Hoàng Ngọc Hiến, bài Nhà văn Lựụ đi đến tận cùng tính cách nhân vật của Lê Hồng Lâm. Ở bài viết này, ông nhận định, đánh giá về vị trí của Lê Lựu: “Ông Lê Lựu từ khi được bạn đọc chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là gây dư luận cuốn đó. Có cuốn nổi tiếng bởi bản thân nội dung đặc sắc, nó đi vào mạch ngầm trong tâm tư, tình cảm nhân vật như Thời xa vắng, có cuốn nổi tiếng bởi... tai tiếng như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  10. Chuyện làng cuội, lại có cuốn mãi vài năm sau khi lên phim mới nổi đình nổi đám kéo theo đó là tai bay vạ gió như Sóng ở đáy sông’’ [22, tr. 708]. Cũng có bài viết lại đi sâu về sự nghiệp và hoàn cảnh sáng tác của Lê Lựu như bài Lê Lựu –Thời xa vắng của Đinh Quang Tốn. Trong bài Lê Lựu – Chân dung văn học, Trần Đăng Khoa lại nhấn mạnh đến nghệ thuật trong Thời xa vắng. Đến với bài viết Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới của Đỗ Hải Ninh, tác giả lại nêu ra những nét khái quát nhất về tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ sau 1975, tuy nhiên tác giả không đi sâu vào phân tích cụ thể. Tiểu thuyết Lê Lựu còn được nhìn ở góc độ khác. Tác giả Nguyễn Bích Thu nhận xét về việc khai thác đề tài trong tiểu thuyết Lê Lựu và khẳng định đến tính tích cực trong việc đề cập đến hạnh phúc con người “Tiểu thuyết không ngần ngại miêu tả sắc dục, tình yêu nhục thể là một lĩnh vực rất riêng của mỗi cá nhân. Miêu tả nhưng con người, khai thác yếu tố tích cực của con người tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân bản của văn học” (Hai nhà của Lê Lựu). Nguyễn Tường Lịch cũng khẳng định thành công của Lê Lựu trong tiểu thuyết Thời xa vắng ở việc khai thác những xung đột của trái tim con người có thể khẳng định nét đổi mới ở Thời xa vắng là tác giả không hướng ngòi bút của mình mô tả các sự kiện lịch sử bên ngoài theo thời gian tự sự nơi chiến trường máu lửa như một số tác phẩm cùng thời và trước đó mà đi sâu khai thác những xung đột đầy bi kịch của trái tim con người trong bối cảnh từ giã chiến tranh về hậu phương thời hoà bình. Nhìn chung qua các bài nghiên cứu, ta có thể nhận thấy tiểu thuyết Lê Lựu trong thời kì đổi mới được giới nghiên cứu phê bình quan tâm sâu sắc. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều trân trọng những thành công của nhà văn. Những bài nghiên cứu đã mở ra cho chúng tôi hứng thú khi tìm hiểu về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng các nhà nghiên cứu, phê bình, các luận văn, luân án chủ yếu tập trung tìm hiểu tiểu thuyết Lê Lựu nói chung hoặc một số nhân vật, tác phẩm quen thuộc gắn liền với tên tuổi nhà văn. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn đi tìm hiểu về năm cuốn tiểu thuyết tiêu biểu trong sáng tác của nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  11. văn: Thời xa vắng, Chuyện làng cuội, Sóng ở đáy sông, Thời loạn, Hai nhà để thấy được sự chuyển đổi trong cảm hứng sáng tác qua nhân vật phụ nữ. Từ đó, chúng tôi muốn chỉ ra những đóng góp của Lê Lựu trong hành trình tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung tìm hiểu những đặc điểm, những nét đặc sắc của nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu trên phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật với mục đích tìm kiếm, phát hiện những nét khác biệt và sự đổi mới trong cách nhìn và cách thể hiện hình ảnh người phụ nữ của nhà văn. Qua đó, khẳng định đóng góp, vị trí của nhà văn trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đối tượng nghiên cứu là nhân vật nữ trong một số tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới: Thời xa vắng (1986); Chuyện làng cuội (1993); Sóng ở đáy sông (1994); Hai nhà (2000);Thời loạn (2010). Từ đó, khái quát về bức chân dung người phụ nữ trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chủ yếu đi sâu tìm hiểu để chỉ ra các kiểu nhân vật nữ, quan niệm nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo, nghệ thuật xây dựng nhân vật qua một số tiểu thuyết tiêu biểu của nhà văn. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu đề tài Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu, luận văn làm rõ những vấn đề sau: Xác định vị trí các tiểu thuyết: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông, Hai nhà, Thời loạn trong sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu và trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Phân tích những đặc điểm nổi bật của các kiểu nhân vật nữ trong các tiểu thuyết Lê Lựu và những nét đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhân vật như nghệ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  12. thuật tạo tình huống, nghệ thuật khắc họa nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu nhân vật... Từ đó, khẳng định sự chuyển đổi trong cảm hứng sáng tác về đề tài người phụ nữ của Lê Lựu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Với đề tài này, chúng tôi lựa chọn một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp Để làm rõ những đặc điểm tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật khi xây dựng hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu thì không thể không đi sâu tìm hiểu, khám phá tác phẩm. Vì vậy, sử dụng phương pháp này, sẽ giúp chúng tôi đi sâu khám phá mọi cung bậc tình cảm, diễn biến tâm lý của nhân vật cũng như những trăn trở của nhà văn trên từng trang viết. Từ đó sẽ rút ra được những mạch chuyển đổi trong cảm hứng sáng tác về nhân vật nữ trong tiểu thuyết cuả Lê Lựu. 5.2. Phương pháp so sánh Văn học phản ánh hiện thực và chịu sự chi phối của hoàn cảnh xã hội. Sự chuyển biến và đổi mới của văn học gắn với quá trình vận động và biến đổi của xã hội. Việc sử dụng phương pháp so sánh giúp chúng tôi có điều kiện so sánh sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật xây dựng hình tượng người phụ nữ của Lê Lựu trong thời kỳ đổi mới cũng như những điểm độc đáo, đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu so với tiểu thuyết của các tác giả cùng thời. 5.3. Phương pháp hệ thống Chúng tôi sử dụng phương pháp hệ thống nhằm xem xét những bình diện, những yếu tố và những mối quan hệ cơ bản tạo nên đặc điểm nổi bật của hình tượng người phụ nữ trong một số tiểu thuyết Lê Lựu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  13. 6. Đóng góp của luận văn Qua luận văn Nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu, chúng tôi muốn chỉ ra sự chuyển đổi trong cảm hứng sáng tạo của Lê Lựu khi viết về người phụ nữ. Từ đó, khẳng định vị trí cùng những đóng góp to lớn của Lê Lựu trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng chảy tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Chương 2: Thế giới nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu. Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật nữ trong tiểu thuyết Lê Lựu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  14. NỘI DUNG CHƢƠNG 1 TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNG CHẢYTIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1.1.Khái quát tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại 1.1.1. Đặc điểm tiểu thuyết Việt Nam đương đại Văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến nay có sự đổi mới rõ nét trên mọi bình diện, ở nhiều cấp độ và trong mọi thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết. Tiểu thuyết là một loại hình tự sự cỡ lớn đang có sự chuyển mình liên tục để đáp ứng yêu cầu của thời đại, của đời sống văn học. Ở đó, các nhà văn đã thể hiện sự đổi mới về tư duy nghệ thuật, cách tiếp cận hiện thực, quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ...Càng về sau trong sự tiếp xúc giao lưu văn học hiện đại phương Tây, các cây bút tiểu thuyết càng tích cực và tỏ ra nhạy bén trong việc làm mới chính mình. Tác phẩm của họ đã làm nên diện mạo đa dạng của tiểu thuyết đương đại. Tiểu thuyết thời kỳ này đã vượt qua một chặng dài trên con đường đổi mới. Nhiều cây bút tiểu thuyết đã có ý thức cách tân trong cách nhìn và lối viết. Vì thế, tiểu thuyết đã thực sự trở thành nhân vật chính trên văn đàn văn học Việt Nam hiện đại. Có thể kể đến những cây bút khá thành công như: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Xuân Thiều, Lê Lựu...Tiếp đến là lớp nhà văn trưởng thành sau cuộc chiến như: Bảo Ninh, Chu Lai, Hồ Anh Thái, Dương Hướng, Phan Thị Vàng Anh...Càng về sau, trong sự tiếp xúc, giao lưu với các thành tựu văn học phương Tây và những yêu cầu đổi mới của văn học, các cây bút tiểu thuyết càng tỏ ra nhạy bén trong việc làm mới chính mình. Tác phẩm của họ tạo nên sự đa dạng của tiểu thuyết Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, tạo nên dòng chảy của văn học hậu hiện đại. Trong thời kỳ đầu của tiến trình đổi mới, một loạt các tiểu thuyết đã gây tiếng vang như những tín hiệu mở đầu trong sáng tạo và đổi mới của văn học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  15. thời kỳ này. Từ Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thuỵ)...đến Thời gian của người (Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)... Vào thời điểm 1986 và những năm tiếp theo trong cao trào đổi mới, tiểu thuyết đã thực sự bộc lộ ưu thế của mình. Đội ngũ viết tiểu thuyết đã cố gắng đổi mới tư duy, tìm ra một hướng đi mới trong sáng tạo nghệ thuật của mình. Họ mải miết trên cánh đồng văn chương để khai sinh ra những đứa con tinh thần của mình. Có thể kể đến một số tác phẩm của các tác giả tiêu biểu như: Thời xa vắng, Hai nhà ( Lê Lựu), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Luật đời và cha con (Nguyễn Bắc Sơn)...Tiểu thuyết thời kỳ này đã khẳng định được vị trí của mình. Bởi thế, không phải ngẫu nhiên mà người ta đã cảm nhận thời bây giờ là “ thời của tiểu thuyết” ( Nguyễn Huy Thiệp ), thời của dân chủ hoá trong sáng tạo và tiếp nhận. Những nhà văn lão thành như Nguyễn Xuân Khánh đã từng thành công với tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn – Cuốn tiểu thuyết vừa ráo mực đã được nhận giải thưởng cao nhất của Hội nhà văn Hà Nội với số phiếu tuyệt đối; Nguyễn Khải với Thượng đế thì cười dường như muốn khép lại một hành trình hơn nửa thế kỷ cầm bút để lại nhiều tiếng vang trong sự nghiệp tác giả. Dù đã thuộc vào hàng cây cao bóng cả, Mạc Can vẫn không thôi làm người đọc ngạc nhiên và cảm động với tiểu thuyết đầu tay Tấm ván phóng dao. Qua nhiều năm tích luỹ kinh nghiêm và nếm trải, Bùi Ngọc Tấn làm nóng dư luận với Chuyện kể năm 2000. Và không thể không nhắc đến một Ma văn Kháng vẫn dồi dào bút lực trong Ngược dòng nước lũ. Cùng đồng hành với những nhà văn lớp trước là hàng loạt các cây bút của các thế hệ kế tiếp luôn ý thức về sự đổi mới sáng tạo, sẵn sàng thể nghiệm, cách tân, sáng tạo và chấp nhận thử thách. Người đọc đã dần quen và nhớ tên hàng loạt tiểu thuyết Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi ( Nguyễn Bình Phương); Cõi người rung chuông tận thế ( Hồ Anh Thái); Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh)...Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập văn hoá quốc tế, sáng tác của các cây bút hải ngoại đã xuất hiện ở Việt Nam và được giới thiệu tới bạn đọc ở trong nước: Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  16. Phượng)...Những tác phẩm của các cây bút ấy đã góp phần làm cho diện mạo tiểu thuyết hậu hiện đại phong phú và đa dạng hơn. Như vậy, tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã thực hiện khá thành công nhu cầu đổi mới tư duy tiểu thuyết. Nhìn từ góc độ thể loại, ở thời kỳ này tiểu thuyết có sự tìm tòi, cách tân trên nhiều phương diện: Đề tài, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ...Ở phương diện đề tài, tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào sự thật, vào những mảnh vỡ, những bi kịch đời thường để mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn mới mẻ, trung thực. Văn học chính là tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống muôn màu, muôn vẻ. Cuộc sống riêng tư với những tâm tư, tình cảm và nguyện vọng cá nhân được các nhà văn đi sâu khai thác. Chủ đề thế sự đời tư trở thành chủ đề xuyên suốt các sáng tác văn học thời kỳ này. Cuộc sống với những trạng thái khác nhau: cao cả - thấp hèn, ánh sáng – bóng tối, khát vọng – ham muốn được phơi bày, tạo nên diện mạo mới cho văn học. Các nhà văn đã đi sâu khám phá những va đập của đời sống chiến tranh đến cuộc sống của con người thời hậu chiến với nỗi đau, sự mất mát, những bi kịch của cuộc sống đời thường. Vì thế, văn học đã gần với con người và cuộc đời hơn. Bên cạnh sự thay đổi đề tài là sự đổi mới, cách tân ở cốt truyện. Trong một số tiểu thuyết trước đây người ta thường kể lại cốt truyện, chú ý nhiều đến cốt truyện mà ít để ý đến cách viết của nhà văn. Nhưng từ sau 1975, nhất là trong thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết đã phong phú hơn trong hình thức diễn đạt, tự do hơn ở cách thức dựng truyện. Bên cạnh những cốt truyện giàu kịch tính là những cốt truyện giàu tâm trạng. Có những kết cấu cốt truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc; cũng có những tiểu thuyết có cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở - kết thúc bỏ ngỏ, không hoàn kết. Tất cả các dạng thức trên đều nhằm phân tích, lý giải những vấn đề phức tạp và bí ẩn của con người, cuộc sống đương đại. Cốt truyện tiểu thuyết từ những năm đổi mới đến nay, một mặt kế thừa những đặc trưng của cốt truyện truyền thống mặt khác đã tiếp cận một cách có chọn lọc những tinh hoa của tiểu thuyết hiện đại thế giới. Nghệ thuật đồng hiện, những độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép, nghệ thuật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  17. gián cách, đa giọng điệu... đã được tiểu thuyết thời kỳ này vận dụng một cách linh hoạt. Nhiều tác giả đã đổi mới tư duy, tìm một hướng đi mới trong sáng tạo thể loại: Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Dương Hướng, Hồ Anh Thái, Bảo Ninh... Ở các tiểu thuyết Chim én bay, Ăn mày dĩ vãng...tác giả đã sử dụng cấu trúc đồng hiện trong tác phẩm. Ở đó, quá khứ và hiện tại được đan xen trong cốt truyện. Tiểu thuyết được viết một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Có nhiều tiểu thuyết giai đoạn này được tạo dựng từ các mảnh cốt truyện, các mảnh tâm trạng không theo trình tự thời gian mà theo ý đồ sáng tạo của tác giả. Làm nên tác phẩm không thể thiếu nhân vật. Nhân vật văn học thể hiện quan niệm của nhà văn về con người. Tiểu thuyết ngoài khả năng tái hiện bức tranh toàn cảnh xã hội còn đi sâu khám phá số phận con người. Nếu như văn học giai đoạn 1945 -1975 nhìn con người dưới góc độ cộng đồng dám xả thân vì nghĩa lớn, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong sự gắn bó với cộng đồng. Đến văn học thời kỳ đổi mới lại là giai đoạn chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng thế sự đời tư. Vì thế, tiểu thuyết quan tâm đến số phận con người trước những va đập của chiến tranh. Nhiều cuốn tiểu thuyết đã hướng tới miêu tả số phận những con người bình thường với những bi kịch của đời họ. Trong văn học đổi mới vấn đề con người cá nhân được các nhà văn quan tâm hàng đầu. Đó không phải là con người của chủ nghĩa cá nhân, của cái tôi cực đoan, không chịu sự tác động của xã hội như trước kia. Mà ở đây, số phận cá nhân được giải quyết một cách thoả đáng trong mối liên hệ mật thiết với cộng đồng, xã hội. Đằng sau mỗi cá thể là những vấn đề mang ý nghĩa của thời đại. Tiểu thuyết thời kỳ này, đề cập đến khát vọng sống, về hạnh phúc cá nhân, về tình yêu đôi lứa. Các tác giả đã khai thác con người tự nhiên trước nhu cầu của hạnh phúc đời thường, của cuộc sống riêng tư. Khi con người trở về với cuộc sống đời thường, trong hàng loạt tác phẩm của Lê Lựu, Chu Lai, Ma Văn Kháng, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường... các nhà văn đã thể hiện được sự gắn bó giữa sự nghiệp chung với hạnh phúc riêng, giữa con người cá nhân và con người xã hội. Các cây bút tiểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  18. thuyết ấy đã đi sâu khám phá thế giới nội tâm của con người. Ở đó, các tác giả đã đi sâu vào thế giới bên trong đầy bí ẩn và phức tạp của con người. Tiểu thuyết từ sau đổi mới đã quan niệm con người cá nhân như một nhân cách kiểu mới. Các nhà văn đã nhận diện con người đích thực với nhiều kiểu dáng nhân vật, biểu hiện phong phú và đa dạng, có sự kết hợp hài hoà giữa con người tự nhiên và con người xã hội. Ngôn ngữ là phương tiện, chất liệu để xây dựng nên tác phẩm văn học. Ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ gần với đời sống, ẩn chứa những đặc trưng của thể loại: Tính văn xuôi, tính tổng hợp, tính đa thanh. Xoá bỏ khoảng cách sử thi, tiểu thuyết miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần thuật, với cách nhìn nhân vật như những con người bình thường. Do yêu cầu cá thể hoá cao độ ngôn ngữ nhân vật nên tiểu thuyết thâu nạp các dạng thức khác nhau của nhiều tầng lớp trong xã hội. Nhà văn được giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào một ngôn ngữ duy nhất mà có thể hoán vị ngôn ngữ của nhà văn và ngôn ngữ nhân vật. Miêu tả cuộc đời như nó vốn có, ngôn ngữ tiểu thuyết không chỉ được soi sáng bởi ngôn ngữ tác giả mà còn được soi sáng bởi ngôn ngữ nhân vật. Tính đối thoại nội tại là một yếu tố cơ bản trong ngôn ngữ tiểu thuyết. Ngôn ngữ tiểu thuyết không bao giờ thoả mãn với một ý thức, một tiếng nói mà luôn mang tính đa thanh. Ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật tạo nên giá trị nghệ thuât của tác phẩm qua đối thoại. Nhờ đối thoại mà các vấn đề trong tác phẩm được xem xét, thể hiện dưới những điểm nhìn khác nhau. Ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm thường tạo ra những tình huống bất ngờ và cảm giác thực của đời sống qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Bên cạnh đối thoại, độc thoại nội tâm trở thành một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá trình tự ý thức của nhân vật, đi sâu vào thế giới nội tâm bí ẩn của nhân vật. Bên cạnh đó là bút pháp trào lộng, giễu nhại. Dường như càng về sau sự xuất hiện của bút pháp này càng nhiều trong tiểu thuyết đương đại. Có thể nói, Thời xa vắng (Lê Lựu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoà), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải)... là những tác phẩm sử dụng bút pháp trào lộng, giễu nhại thành công. Góp phần làm nên gương mặt của tiểu thuyết đương đại cũng phải kể đến bút pháp phúng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  19. dụ, huyền thoại. Đây là bút pháp nghệ thuật được rất nhiều nhà tiểu thuyết thời kỳ này sử dụng. Sự có mặt của bút pháp này vừa giúp nhà văn đi sâu hơn vào thế giới hiện thực vừa tạo ra sự lạ hoá để thu hút người đọc đem đến cho họ nhiều cảm xúc mới mẻ về một hiện thực đầy nghiệt ngã và phức tạp qua những huyền thoại giàu chất tưởng tượng. Từ đó, người đọc có cái nhìn đa dạng, nhiều chiều về đời sống hiện thực. Nhìn từ góc độ khác, tiểu thuyết thời kỳ này đã tiếp cận vấn đề đạo đức một cách tối đa. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống xã hội biến đổi nhanh chóng, vấn đề đạo đức của con người đang bị xuống cấp. Với thiên chức của mình – là ngọn nguồn nuôi dưỡng, là phương tiện giáo dục con người, văn chương đã góp phần thức tỉnh lương tri, nâng đỡ tâm hồn, hướng con người tới Chân – Thiện – Mỹ. Và lẽ dĩ nhiên, không thể dửng dưng đứng ngoài cuộc, tiểu thuyết sau 1975 thâm nhập vào cuộc sống con người. Trên hành trình tìm kiếm đạo đức, nhân cách mới cho con người hôm nay và mai sau thì việc đặt con người trong các mối quan hệ đạo đức xã hội là điều cần thiết. Tiểu thuyết hôm nay đã hướng vào việc phản ánh mặt trái của những con người phi nhân tính, đánh mất đạo lý... Thấp thoáng ở đó, người đọc tìm thấy những mảnh đời, những số phận được tái tạo mang chiều sâu triết lý nhân sinh cụ thể mà phổ quát. Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới hoà nhập để phản ánh chân thực, gần gũi những vấn đề mà các nhà văn trăn trở. Ở đó, các tác giả đặt ra nhu cầu về ý thức, trách nhiệm lương tri trước những biến động ghê gớm của các chuẩn mực giá trị đạo đức, góp phần làm cuộc sống hoàn thiện, tốt đẹp hơn. Hàng loạt các tác phẩm như: Thời xa vắng, Chuyện làng cuội, Hai nhà, Thời loạn của (Lê Lựu); Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng); Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)... Cùng với đó là sự góp mặt của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Huy Thiệp...Từ đó, giúp người đọc nhận thấy đời sống xã hội không còn là một chiều, giản đơn, dễ hiểu mà chúng luôn biến chuyển phức tạp, nhiều chiều. Bằng trách nhiệm của người cầm bút, các nhà văn đã đưa ngòi bút của mình len lỏi tới những ngõ ngách của đời sống xã hội để viết lên những mặt tiêu cực, những mảnh đời đau khổ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
  20. những cảnh đời éo le, những tấn bi hài kịch của con người. Thực tế xã hội Việt Nam những năm sau đổi mới có nhiều phức tạp, nhiều biến động. Con người bị cuốn theo cuộc sống xô bồ, hỗn độn. Trong đó có một bộ phận không nhỏ bị chi phối bởi sức mạnh của đồng tiền, vì lợi ích cá nhân, gia đình, dòng tộc. Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới thể hiện sự nhạy bén về tư duy nghệ thuật trong việc nhận thức thực trạng suy thoái, sự băng hoại về đạo đức, nhân cách con người. Nhờ vậy, tiểu thuyết đã đáp ứng được những yêu cầu của văn học giai đoạn đổi mới. Như vậy với những đổi mới, cách tân trên, ta có thể khẳng định rằng tiểu thuyết đã thực sự trở thành nhân vật chính trên sân khấu văn học hiện đại. Sở dĩ chúng tôi muốn luận giải một cách khái lược về tiểu thuyết Việt Nam đương đại là bởi nhà văn Lê Lựu luôn nằm trong guồng quay hối hả đó. Với sự miệt mài, dẻo dai cày xới trên cánh đồng văn chương, chữ nghĩa, ông đã gặt hái được nhiều thành quả đáng kính phục. Đúng như lời nhận xét của nhà phê bình Bùi Việt Thắng: “Nếu như nhà văn Nguyễn Minh Châu được tấn phong là “người mở đường tinh anh” cho đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 thì Lê Lựu tôi sẽ gọi ông là “người lính xung kích” trong trận đánh mở đường ngoạn mục đổi mới văn chương đương đại Việt Nam. Người lính xung kích thường hi sinh nhiều hơn đồng đội của mình. Lê Lựu là như thế!” (Lê Lựu, người lính xung kích trong trận đánh mở đường ngoạn mục). 1.1.2. Đội ngũ nhà văn viết tiểu thuyết. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới, ở thời kỳ này các nhà tiểu thuyết đã ý thức được vai trò, sứ mệnh của mình nên họ ra sức sáng tạo để khẳng định mình. Với nội lực riêng trong cá tính sáng tạo, các nhà văn đã và đang chiêm nghiệm, vừa ở trong tư thế nhập cuộc vừa biết lùi xa và đứng trên tầm cao của đất nước trong những năm có sự chuyển đổi về cách nhìn, cách khám phá nghệ thuật của nhà văn. Hoà mình vào dòng chảy văn học thời kỳ này, các nhà tiểu thuyết đương đại ra sức sáng tạo để khẳng định mình. Điều đó Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2