Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở Việt Nam - Trần Thanh Thảo
lượt xem 3
download
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp của Aizenman, Chinn và Ito (2008) để tính chỉ số độc lập tiền tệ (MI) và ổn định tỷ giá (ERS) cho Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012. Sau đó, dùng mô hình đồ thị kim cương để đánh giá việc điều hành bộ ba bất khả thi trong mối quan hệ với tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP của Việt Nam trong thời gian này. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở Việt Nam - Trần Thanh Thảo
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ----------------- TRẦN THANH THẢO NGHIÊN CỨU BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ----------------- TRẦN THANH THẢO NGHIÊN CỨU BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ HẢI LÝ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
- i LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả với sự giúp đỡ của Cô hướng dẫn TS. Trần Thị Hải Lý. Số liệu thống kê được lấy từ nguồn đáng tin cậy, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn này chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào cho tới thời điểm hiện tại. TP. Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 9 năm 2013 Tác giả Trần Thanh Thảo
- ii MỤC LỤC Tóm tắt ................................................................................................................... 1 1. Giới thiệu mục tiêu nghiên cứu và vấn đề cần nghiên cứu ........................... 2 2. Các kết quả nghiên cứu trước đây ................................................................. 3 3. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 16 3.1. Phương pháp thu thập số liệu.................................................................... 16 3.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 17 4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu ............................................................ 17 4.1. Đo lường mức độ độc lập tiền tệ ............................................................... 17 4.2. Đo lường độ ổn định tỷ giá ....................................................................... 19 4.3. Điều hành bộ ba bất khả thi trong mối quan hệ với dự trữ ngoại hối ở Việt Nam ................................................................................................................. 22 4.4. Ước lượng mô hình hồi quy...................................................................... 23 4.4.1. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy có các biến liên quan đến dự trữ ngoại hối ......................................................................................................... 23 4.4.2. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy không có các biến liên quan đến dự trữ ngoại hối .............................................................................................. 28 5. Kết luận ......................................................................................................... 32 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 34 PHỤ LỤC A: KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG MÔ HÌNH HỒI QUY CÓ CÁC BIẾN LIÊN QUAN ĐẾN DỰ TRỮ NGOẠI HỐI ........................................................ 35 PHỤ LỤC B: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH THỪA BIẾN WALD........................... 43 PHỤ LỤC C: KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG MÔ HÌNH HỒI QUY KHÔNG CÓ CÁC BIẾN LIÊN QUAN ĐẾN DỰ TRỮ NGOẠI HỐI .................................... 55
- iii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt AREAER Annual Report on Exchange Báo cáo hàng năm về cơ chế tỷ Arrangements and Exchange giá và những hạn chế ngoại hối Restrictions CNY China Renminbi Nhân dân tệ Trung Quốc ERS Exchange Rate Stability Ổn định tỷ giá FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội IMF International Montary Fund Tổ chức Tiền tệ Quốc tế INR Indian Rupee Rupi Ấn Độ KAOPEN Financial Integration Hội nhập tài chính MI Monetary Independence Độc lập tiền tệ NHTW Ngân hàng Trung ương OLS Ordinary Least Squares Bình phương bé nhất thông thường USD United States Dollar Đô la Mỹ VND Vietnam Dong Đồng Việt Nam WB World Bank Ngân hàng Thế giới
- iv DANH MỤC BẢNG Bảng 4.1: Chỉ số độc lập tiền tệ của Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012 ........... 18 Bảng 4.2: Chỉ số ổn định tỷ giá của Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012 ............ 19 Bảng 4.3: Kết quả hồi quy của các mô hình có các biến liên quan đến dự trữ ngoại hối ......................................................................................................................... 25 Bảng 4.4: Kết quả kiểm định thừa biến Wald......................................................... 29 Bảng 4.5: Kết quả hồi quy của các mô hình không có các biến liên quan đến dự trữ ngoại hối ............................................................................................................... 31
- v DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 4.1: Chỉ số độc lập tiền tệ của Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012 ............ 18 Hình 4.2: Chỉ số ổn định tỷ giá của Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012 ............ 19 Hình 4.3: Độ dao động tỷ giá hàng tháng của Việt Nam từ tháng 01 năm 1997 đến tháng 12 năm 2012 ................................................................................................ 21 Hình 4.4: Đồ thị kim cương của Việt Nam giai đoạn 1997 – 2012 ......................... 22 Hình 4.5: Dự trữ ngoại hối và tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP của Việt Nam từ năm 1997 đến 2012 ....................................................................................................... 28
- 1 Tóm tắt Nghiên cứu này áp dụng phương pháp của Aizenman, Chinn và Ito (2008) để tính chỉ số độc lập tiền tệ (MI) và ổn định tỷ giá (ERS) cho Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012. Sau đó, dùng mô hình đồ thị kim cương để đánh giá việc điều hành bộ ba bất khả thi trong mối quan hệ với tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP của Việt Nam trong thời gian này. Đồng thời, ước lượng mô hình hồi quy đa biến theo phương pháp OLS để kiểm định mối quan hệ giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi, tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP và mối tương tác của chúng với tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Kết quả nghiên cứu đạt được: (i) Tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP của Việt Nam gần như không đổi trong suốt thời gian nghiên cứu. (ii) Việt Nam đã chuyển từ xu hướng hội nhập tài chính thấp, độc lập tiền tệ trung bình, và ổn định tỷ giá cao trong khoảng thời gian 1997 – 2002 sang hội nhập tài chính thấp, độc lập tiền tệ thấp và ổn định tỷ giá hoàn toàn trong giai đoạn 2003 – 2007. Và từ năm 2008 đến năm 2012, sự kết hợp các chính sách bộ ba bất khả thi là độc lập tiền tệ cao, ổn định tỷ giá cao và hội nhập tài chính trung bình. (iii) Các chỉ số bộ ba bất khả thi không ảnh hưởng đến lạm phát. (iv) Chỉ số độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính có ảnh hưởng ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế, trong khi chỉ số ổn định tỷ giá thì không có ảnh hưởng.
- 2 1. Giới thiệu mục tiêu nghiên cứu và vấn đề cần nghiên cứu Việc nghiên cứu về bộ ba bất khả thi đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong hơn 50 năm qua; từ những lý thuyết cơ bản về bộ ba bất khả thi của Robert Mundell và Marcus – Fleming trong những năm 1960, cho đến những nghiên cứu của Aizenman, Chinn và Ito trong thời gian gần đây. Theo lý thuyết về bộ ba bất khả thi, một quốc gia không thể đồng thời đạt được ba mục tiêu chính sách sau: độc lập tiền tệ, tỷ giá linh hoạt và hội nhập tài chính. Cụ thể hơn, nếu một quốc gia chọn độc lập tiền tệ và tỷ giá linh hoạt thì phải đánh đổi mục tiêu hội nhập tài chính, và ngược lại. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về bộ ba bất khả thi hiện nay không chỉ tập trung vào ba chiều của nó, mà có thêm vào tác động của dự trữ ngoại hối. Theo Aizenman, Chinn và Ito (2008), xu hướng gần đây của đa số các quốc gia mới nổi là “hội tụ” ba chiều của cấu hình bộ ba bất khả thi tại một “điểm trung gian” với tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, và mức độ độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính trung bình, được củng cố bằng việc nắm giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn. Bên cạnh đó, việc nắm giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn có thể tạo cho những nền kinh tế mới nổi nhiều điều kiện để kết hợp các chính sách hơn (Aizenman và Ito, 2012). Việc điều hành bộ ba bất khả thi trong mối quan hệ với dự trữ ngoại hối của Việt Nam từ sau khủng hoảng Châu Á 1997 đến nay như thế nào? Dự trữ ngoại hối có phải là một “tấm đệm” giúp Việt Nam có thể kết hợp nhiều lựa chọn chính sách hơn không? Có tồn tại mối quan hệ giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi, tỷ lệ dự trữ ngoại hối và sự tương tác của chúng với tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam hay không? Mục tiêu nghiên cứu của luận văn này là để trả lời những câu hỏi trên. Câu hỏi nghiên cứu - Chỉ số độc lập tiền tệ (MI) và ổn định tỷ giá (ERS) của Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012 được tính theo phương pháp của Aizenman, Chinn và Ito (2008) là bao nhiêu? - Việc điều hành chính sách của bộ ba bất khả thi trong mối tương quan với dự trữ ngoại hối trong giai đoạn 1997-2012 diễn ra như thế nào?
- 3 - Có tồn tại mối quan hệ giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi, tỷ lệ dự trữ ngoại hối trên GDP, và tương tác của chúng với tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam từ năm 1997 đến năm 2012 hay không? 2. Các kết quả nghiên cứu trước đây “A new measure of financial openness” (Menzie D. Chinn và Hiro Ito, 2007): Nghiên cứu này chi tiết hóa cách thức xây dựng chỉ số KAOPEN – chỉ số đo lường độ mở của các biện pháp kiểm soát vốn - dựa trên các thông tin từ Báo cáo thường niên về thoả thuận trao đổi và hạn chế ngoại hối (AREAER) của IMF, và xem xét mối liên quan của chỉ số này với các tài liệu đang tồn tại. Ưu điểm chính của chỉ số này là cách thức tính toán tương đối minh bạch, dễ dàng cập nhật, và phủ sóng rộng cho 181 quốc gia trong thời gian từ năm 1970 đến năm 2005; và hiện nay vẫn đang được các tác giả cập nhật đến năm 2011. Các tác giả tính KAOPEN dựa trên các biến giả nhị phân mà chúng hệ thống hóa việc lập bảng các hạn chế về giao dịch tài chính xuyên biên giới được trình bày trong AREAER. Đến năm 1996, các tác giả chỉ định biến giả cho bốn loại chính trên những hạn chế về tài khoản bên ngoài. Các biến này là : • biến cho thấy sự hiện diện của chế độ đa tỷ giá (k1) ; • biến cho thấy hạn chế về giao dịch tài khoản vãng lai (k2) ; • biến cho thấy hạn chế về giao dịch tài khoản vốn (k3) và • biến cho thấy các quy định của sự nộp lại (surrender) số thu xuất khẩu (k4) Để tập trung vào hiệu quả của mở cửa tài chính - chứ không phải các biện pháp kiểm soát – các tác giả đã nghịch đảo các giá trị của các biến nhị phân, như vậy các biến bằng 1 khi các hạn chế tài khoản vốn không tồn tại. Hơn nữa, đối với các biện pháp kiểm soát giao dịch tài khoản vốn (k3), Chinn và Ito sử dụng các phần của một thời kỳ năm năm (bao gồm năm t và trước bốn năm trước đó) mà các biện pháp kiểm soát vốn không có hiệu quả (SHAREk3). k k3,t 1 k3,t 2 k3,t 3 k3,t 4 SHAREk3,t 3,t 5
- 4 Sau đó Chinn và Ito xây dựng một chỉ số về "mở cửa tài khoản vốn" (KAOPENt), mà nó là thành phần chính đã được chuẩn hóa đầu tiên của k1t, k2t, SHAREk3t, k4t. Chỉ số này của một quốc gia càng cao, thì quốc gia đó càng mở cửa hơn đối với các giao dịch vốn qua biên giới. Các tác giả kết hợp các biến k1t, k2t, và k4t trong biến KAOPEN thay vì tập trung vào k3 mà nó đề cập đến những hạn chế về giao dịch tài khoản vốn. Sự kết hợp của k1t, k2t, và k4t trong chỉ số này cho phép nắm bắt chính xác hơn cường độ của các biện pháp kiểm soát vốn. Một trong những ưu điểm của chỉ số KAOPEN là nó cố gắng đo lường cường độ của các biện pháp kiểm soát vốn, trong chừng mực cường độ này tương quan với sự tồn tại của các hạn chế khác về giao dịch quốc tế. Do bản chất của quá trình tính toán, người ta có thể lập luận rằng chỉ số KAOPEN đo lường cường độ của các biện pháp kiểm soát vốn, bởi vì nó không đề cập trực tiếp đến sự nghiêm ngặt của các hạn chế về giao dịch qua biên giới, mà đề cập đến sự tồn tại của các loại hạn chế khác nhau. Tuy nhiên, việc đo lường độ mở rộng của các biện pháp kiểm soát vốn có thể là một sự đại diện tốt để đo lường cường độ của các biện pháp kiểm soát vốn. Ví dụ, một quốc gia với một tài khoản vốn mở cửa vẫn có thể hạn chế dòng vốn bằng cách hạn chế các giao dịch trên tài khoản vãng lai hoặc các hệ thống khác như chế độ đa tỷ giá và các quy định nộp lại số thu xuất khẩu. Ngoài ra, các quốc gia đóng cửa tài khoản vốn có thể cố gắng để tăng sự nghiêm ngặt của các biện pháp kiểm soát bằng cách áp đặt các loại hạn chế (chẳng hạn như hạn chế về tài khoản vãng lai và các quy định nộp lại số thu thương mại) để khu vực tư nhân không thể tránh né những hạn chế tài khoản vốn. Sau khi tính toán được chỉ số KAOPEN của các quốc gia, nhóm tác giả đã rút ra những kết luận sau: + Thế giới ngày càng chuyển dần theo hướng mở cửa tài chính lớn hơn. Các nước công nghiệp đã duy trì độ mở cửa tài chính cao trong suốt thời gian qua, và tăng đều đặn từ những năm 1970. Cả hai nhóm nước kém phát triển và các thị
- 5 trường mới nổi đều giảm những nỗ lực mở cửa thị trường tài chính trong những năm 1980, và đã tăng tốc mở cửa tài chính từ những năm 1990. + Tốc độ - và cả mô hình - mở cửa tài chính thể hiện sự khác biệt lớn qua khu vực. Khu vực châu Á có mức độ mở cửa tài chính tương đối cao từ những năm 1970, mặc dù nó giảm xuống sau cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997-98. Bên cạnh đó, các nước Mỹ Latinh cũng thể hiện một sự tương đồng thú vị, hội nhập tài chính của các nước này giảm mạnh trong những năm 1980 - điều này có thể được giải thích như phản ứng đối với cuộc khủng hoảng nợ - và tăng lên nhanh chóng kể từ đầu những năm 1990. Trong thập niên cuối của thế kỷ XX, những nền kinh tế kế hoạch hóa ở Đông và Trung Âu đã tự do hóa thị trường tài chính của họ với tốc độ nhanh nhất và bắt kịp với các nước phát triển khác. + Hiện nay, Bắc Mỹ và Tây Âu là khu vực mở cửa về tài chính nhất, trong khi hầu hết châu Phi, Trung Quốc, và Nam Á mở cửa ít nhất. Đông Nam Á và châu Mỹ La tinh nằm ở giữa với các thị trường tài chính vừa mở cửa. “Assessing the emerging global financial architecture: measuring the trilemma’s configurations over time” (Aizenman, Chinn và Ito, 2008): Nghiên cứu này đưa ra phương pháp đo lường mức độ linh hoạt tỷ giá (ERS), mức độ độc lập tiền tệ (MI), và độ mở tài khoản vốn (KAOPEN), trong khi có tính đến sự phát triển đáng kể của dự trữ ngoại hối. Đồng thời, các chỉ số này được sử dụng để mô tả đặc điểm những lựa chọn mà các nước đã thực hiện với bộ ba bất khả thi trong suốt giai đoạn hậu Bretton-Woods. Mức độ độc lập tiền tệ (MI) được đo lường bằng hàm nghịch đảo của mức tương quan hằng năm của lãi suất hàng tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở. Cụ thể, chỉ số này được xác định bằng công thức sau: corr (ii , i j ) (1) MI 1 1 (1) Trong đó: i là quốc gia sở tại, j là quốc gia cơ sở.
- 6 Quốc gia cơ sở là quốc gia mà chính sách tiền tệ của quốc gia sở tại có liên kết chặt chẽ. Cụ thể, Aizenman, Chinn và Ito xác định quốc gia cơ sở theo dữ liệu có sẵn có Shambaugh (2004) và AREAER. Lãi suất được sử dụng để tính toán là lãi suất thị trường tiền tệ (money market rate) hàng tháng. Theo công thức này, MI sẽ dao động từ 0 tới 1. Chỉ số MI của một quốc gia càng gần 1 tức là chính sách tiền tệ của quốc gia đó càng độc lập. Nhóm tác giả đưa ra phương pháp đo lường độ ổn định tỷ giá dựa trên thực tế mà một quốc gia đang áp dụng, chứ không dựa trên những gì mà quốc gia đó tuyên bố. Theo đó, độ ổn định tỷ giá chính là độ lệch chuẩn của tỷ giá, được tính theo năm dựa trên dữ liệu tỷ giá mỗi tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở. Tương tự như MI, ERS cũng nằm trong khoảng [0,1]. Giá trị cao hơn của chỉ số này cho thấy sự ổn định của tỷ giá so với đồng tiền của quốc gia cơ sở. Công thức cụ thể như sau: 0,01 ERS 0,01 stdev( log(exch _ rate)) Tuy nhiên theo các tác giả này, nếu chỉ áp dụng công thức trên, có thể dễ dàng tạo ra một xu hướng đi xuống của chỉ số ERS, có nghĩa là, nó sẽ cường điệu “độ linh hoạt” của tỷ giá, đặc biệt khi tỷ giá thường theo một biên độ hẹp, nhưng ít khi được định giá lại. Để tránh một xu hướng đi xuống như vậy, các tác giả đã áp dụng một ngưỡng cho sự dao động tỷ giá. Cụ thể, nếu tỷ giá hàng tháng dao động trong khoảng +/- 0,33% (dựa trên dao động +/-2% hàng năm thường được sử dụng trong các tài liệu nghiên cứu), thì tỷ giá được xem là cố định và gán giá trị 1 cho chỉ số ERS. Bên cạnh đó, để ngăn chặn sự phá vỡ trong tình trạng neo tỷ giá do sự định giá lại, bất kỳ tỷ giá nào mà có tỷ lệ phần trăm thay đổi bằng 0 trong 11 tháng trong một năm thì được xem là cố định. Khi có hai sự định giá lại / phá giá trong 3 tháng, thì chúng được coi là một sự kiện định giá lại / phá giá, và nếu trong 10 tháng còn lại tỷ giá không dao dộng, thì năm đó được coi là năm có tỷ giá hối đoái cố định.
- 7 Ngoài ra, nghiên cứu còn ước lượng mô hình hồi quy đa biến sau đây để kiểm định những lựa chọn chính sách khác nhau sẽ ảnh hưởng đến độ biến động sản lượng, lạm phát và độ biến động lạm phát như thế nào: yit 0 1TLM it 2TRit 3 (TLM it TRit ) X it B Z t Di t Với yit là độ biến động sản lượng được đo lường bằng độ lệch chuẩn trong 5 năm của tốc độ tăng trưởng của sản lượng bình quân đầu người, hoặc độ biến động lạm phát được đo lường bằng độ lệch chuẩn trong 5 năm của lạm phát hàng tháng, hoặc trung bình 5 năm của lạm phát của quốc gia i trong năm t. TLM it là một vector của 2 trong 3 chỉ số bộ ba bất khả thi. TRit là tỷ lệ dự trữ ngoại hối (trừ vàng) so với GDP TLM it TRit là một số hạng tương tác giữa chỉ số bộ ba bất khả thi với tỷ lệ dự trữ ngoại hối. X it là một vector của các biến kiểm soát vĩ mô, bao gồm thu nhập tương đối với Mỹ, bình phương của thu nhập tương đối, độ mở thương mại (tỷ lệ phần trăm của tổng xuất nhập khẩu trên GDP, độ biến động của tốc độ tăng trưởng M2 (như là độ lệch chuẩn 5 năm của tốc độ tăng trưởng M2), tín dụng tư nhân so với GDP như là thước đo của sự phát triển của hệ thống tài chính (financial development), lạm phát, và độ biến động lạm phát. Z t là một vector của các cú sốc toàn cầu, gồm có thay đổi trong lãi suất thực của Mỹ, khe hở sản lượng thế giới, và các cú sốc giá dầu thực tế (được đo lường như ln của tỷ lệ giá dầu với CPI thế giới). Dt là một tập hợp các biến giả đặc trưng bao gồm một biến giả cho các nước xuất khẩu dầu hỏa và một biến giả cho khu vực. it là sai số. Các kết quả nghiên cứu đạt được: + Trong giai đoạn 1970-2006, có sự khác biệt nổi bật giữa những lựa chọn của các nước công nghiệp và các nước đang phát triển. Xu hướng gần đây cho thấy rằng, ở các thị trường mới nổi, ba hướng của cấu hình bộ ba bất khả thi đang hội tụ
- 8 đến một “điểm trung gian” với chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt có quản lý, mà các nước này đã cố gắng để đệm bằng cách nắm giữ dự trữ ngoại hối khá lớn, trong khi vẫn duy trì mức độ độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính trung bình. Mặt khác, các nước công nghiệp đã trải qua sự phân kỳ trong ba hướng của bộ ba bất khả thi, và di chuyển về phía cấu hình tỷ giá hối đoái ổn định cao, và độ mở cửa tài chính và độc lập tiền tệ thấp, như hầu hết các nước sử dụng đồng Euro. + Cấu hình này của ba chính sách kinh tế vĩ mô là một kết quả phát triển của những lựa chọn chính sách khác nhau. Qua nhiều năm, các cú sốc bên ngoài đã ảnh hưởng đến sự phối hợp chính sách của các nước. Những cuộc khủng hoảng chính trong bốn thập kỷ qua, cụ thể là, sự sụp đổ của hệ thống Bretton-Woods, cuộc khủng hoảng nợ năm 1982, và khủng hoảng Châu Á năm 1997-98, đã gây ra sự phá vỡ cấu trúc trong cấu hình bộ ba bất khả thi. Đối với cả hai nhóm nước công nghiệp và đang phát triển, các sự kiện lớn trong thập kỷ qua, chẳng hạn như sự xuất hiện của toàn cầu hóa nhanh chóng và sự tăng trưởng của Trung Quốc, cũng ảnh hưởng đáng kể đến sự sắp xếp chính sách. + Các nước phải đối mặt với sự ràng buộc của bộ ba bất khả thi. Nghĩa là, một sự thay đổi trong một biến của bộ ba bất khả thi sẽ gây ra một sự thay đổi ngược chiều ở mức trung bình có trọng số của hai biến còn lại. + Các quốc gia với mức độ độc lập tiền tệ cao hơn có xu hướng biến động sản lượng thấp hơn. Đối với các nền kinh tế mới nổi, các nước với mức độ cố định tỷ giá cao hơn có xu hướng biến động sản lượng cao hơn. Tuy nhiên, hiệu ứng này có thể được giảm nhẹ bằng cách nắm giữ dự trữ ngoại hối cao hơn 19-22% GDP. Kết quả này giải thích lý do tại sao nhiều thị trường mới nổi muốn giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn như vậy. + Các quốc gia tự chủ về tiền tệ cao hơn có xu hướng có lạm phát cao hơn, điều này có thể phản ánh động cơ của các nước nhằm kiếm tiền trả nợ. Các quốc gia với tỷ giá hối đoái ổn định cao hơn có xu hướng có lạm phát thấp hơn. Hơn nữa, mở cửa tài chính nhiều hơn giúp một quốc gia có tỷ lệ lạm phát thấp hơn.
- 9 + Có tác động tương tác giữa sự phát triển của hệ thống tài chính và mở cửa tài chính. Nghĩa là, thị trường tài chính phát triển cao có thể giúp chính sách tự do hóa tài chính làm giảm biến động sản lượng, trong khi thị trường tài chính kém phát triển có thể làm trầm trọng thêm độ biến động sản lượng. + Cho vay ngân hàng xuyên biên giới ròng (net recipients of cross-border bank lending) hoặc các dòng chảy danh mục đầu tư - hoặc "tiền nóng" - có xu hướng làm tăng biến động sản lượng. + Một động cơ cho các nước đang giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn là mong muốn làm giảm tác động của bộ ba bất khả thi; việc nắm giữ lượng dự trữ ngoại hối lớn cho phép các nước theo đuổi một mức độ ổn định tỷ giá cao hơn và bình quân có trọng số của hai chính sách bộ ba bất khả thi còn lại cũng cao hơn, thông qua can thiệp của hoạt động ngoại hối. Cụ thể là, giữ một mức độ dự trữ ngoại hối cao hơn 21-24% GDP có thể làm giảm hoặc thậm chí đảo ngược ảnh hưởng gia tăng độ biến động sản lượng của chế độ tỷ giá ổn định. “Testing, monitoring, and dating structural changes in exchange rate regimes” (Achim Zeileis, Ajay Shah và Ila Patnaik, 2009): Nghiên cứu này mở rộng thuật toán hồi quy OLS thành các mô hình ML (maximum model) và QML (quasi-maximum model) để kiểm định, giám sát, và xác định ngày phá vỡ cấu trúc trong chế độ tỷ giá. Mô hình này được áp dụng để khảo sát những thay đổi trong chế độ tỷ giá của hai loại tiền tệ: CNY (07/2005 – 07/2009) và INR (04/1993 – 01/2008). + Đối với CNY, một mô hình 4 phân đoạn được tìm thấy sau tháng 7 năm 2005, khi Trung Quốc đã từ bỏ một chế độ tỷ giá cố định với USD. Trong khi CNY gắn liền với USD trong tất cả các phân đoạn, có một thời gian dài với sự linh hoạt tăng lên một chút, và định giá lại một ít trong thời gian 2006-2008, trước khi chế độ tỷ giá trở lại chặt chẽ với USD trong năm 2009. + Đối với INR, một mô hình 4 phân đoạn được tìm thấy với một mối liên kết chặt chẽ của INR với USD trong ba thời kỳ đầu tiên (tương ứng với neo chặt chẽ,
- 10 linh hoạt, chặt chẽ) trước khi di chuyển đến một chế độ neo vào giỏ tiền tệ linh hoạt hơn vào mùa xuân năm 2004. “Managing the impossible trinity: the case of Malaysia” (Goh và Soo Khoon, 2009): Bài viết này xem xét Malaysia quản lý bộ ba bất khả thi như thế nào từ năm 1990 đến năm 2008, và phân tích lý do tại sao một giải pháp trung gian có thể được thực hiện tại Malaysia. Malaysia đã hồi phục sau khủng hoảng tiền tệ Châu Á và đã đạt được tiến bộ khá tốt từ năm 1999. Với việc loại bỏ dần dần kiểm soát vốn năm 1998 và có một tài khoản vốn mở với một tỷ giá hối đoái cố định, quốc gia này đã rơi vào trường hợp bộ ba bất khả thi, nghĩa là từ bỏ quyền tự chủ tiền tệ để trả giá cho tỷ giá ổn định và nguồn vốn linh hoạt. Tháng 7 năm 2005, Malaysia đã đối phó với bộ ba bất khả thi bằng cách áp dụng một tỷ giá thả nổi có quản lý nhưng không quốc tế hóa đồng Ringgit. Điều này đã cho phép các nhà hoạch định chính sách cân bằng sự ổn định tỷ giá với quyền tự chủ chính sách tiền tệ tại một mức độ mở cửa tài khoản vốn nhất định. Tuy nhiên, để quản lý tất cả ba sự lựa chọn của bộ ba bất khả thi đòi hỏi phải can thiệp vào thị trường và sự can thiệp này có cái giá của nó. Với hội nhập tài chính gia tăng, bộ ba bất khả thi buộc đa số các quốc gia châu Á chấp nhận một sự ổn định tỷ giá hối đoái ít hơn hoặc tiền tệ tự chủ ít hơn. Điều này càng rõ ràng hơn trong trường hợp của Malaysia. Trong thực tế, sự sẵn sàng của NHTW Malaysia trong việc cho phép một mức độ điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhất định để đối phó với khủng hoảng toàn cầu hiện nay đã phản ánh rằng Malaysia không phải là một ngoại lệ của bộ ba bất khả thi. Các tác giả cho rằng sự lựa chọn tốt nhất để thực hành trong tương lai là tự do hóa dòng vốn, duy trì ổn định giá cả và thả nổi tỷ giá hối đoái.
- 11 “Managing the impossible trinity: volatile capital flows and Indian monetary policy” (Rakesk Mohan, Munees Kapur, 2009): Chính sách tiền tệ ở Ấn Độ đã đối mặt với những thách thức ngày càng lớn từ dòng vốn lớn và biến động từ 1993-1994, đặc biệt là trong thời gian 2007-2009. Trong việc phản ứng với các dòng vốn này, một cách tiếp cận theo nhiều hướng đã được thông qua. Các yếu tố chính của khuôn khổ này là: quản lý tích cực tài khoản vốn, đặc biệt là dòng vốn nợ; hạn chế chặt chẽ hơn việc vay mượn nợ nước ngoài của các tổ chức tài chính trung gian; tỷ giá biến động linh hoạt nhưng với khả năng can thiệp nếu có quá nhiều biến động; xử lý các dòng vốn ví dụ những dòng vốn dễ bay hơi, trừ khi đã được chứng minh ngược lại; xây dựng dự trữ đầy đủ; vô hiệu hóa các biện pháp can thiệp trong thị trường ngoại hối thông qua nhiều công cụ, bao gồm dự trữ tiền mặt bắt buộc; tiếp tục phát triển thị trường tài chính về vấn đề thành viên và các công cụ, nhưng với một cách tiếp cận thận trọng với các công cụ nguy hiểm; tăng cường lĩnh vực tài chính thông qua bảo đảm quy định an toàn đồng thời tăng cường cạnh tranh; ưu tiên thắt chặt những tiêu chuẩn thận trọng; và cải tiến trong khuôn khổ chính sách tiền tệ. Các chính sách hoạt động một cách đối xứng. Trong suốt giai đoạn dòng vốn vào lớn, tính thanh khoản bị hấp thu thông qua việc tăng tỷ lệ dự trữ tiền mặt và thực hiện chương trình bình ổn thị trường. Trong giai đoạn dòng vốn đảo ngược, khả năng thanh khoản được bơm vào thông qua việc cắt giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt và ngừng lại chương trình bình ổn thị trường. Nhìn chung, nhiều công cụ đã được sử dụng phối hợp hơn là dựa trên một công cụ duy nhất. Điều này khả thi vì cả chính sách tiền tệ, các quy định của ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, và các thị trường tài chính quan trọng đang thuộc quyền hạn của Ngân hàng Dự trữ, mà nó cho phép sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách khác nhau. Không giống như nhiều nước mới nổi, Ấn Độ đã giảm nhanh thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai. Trong khi thâm hụt tài khoản vãng lai là nhỏ và có thể quản lý, thì thâm hụt thương mại lại cao. Theo quan điểm này, việc quản lý tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái là quan trọng.
- 12 Bài học quan trọng từ kinh nghiệm của Ấn Độ là chính sách tiền tệ cần rời khỏi mục tiêu ổn định giá cả hẹp / lạm phát mục tiêu. Vấn đề mà các NHTW cần phải quan tâm không chỉ là chính sách tiền tệ mà còn là sự phát triển và quy định của các ngân hàng và những thị trường tài chính quan trọng - thị trường tiền, tín dụng, trái phiếu và tiền tệ. Tùy thuộc vào thể chế ở các quốc gia khác nhau, nếu các chức năng bổ sung không được trao cho các NHTW, cơ chế phối hợp thích đáng cần phải được đưa ra nhằm cho phép các NHTW tương tác với cơ quan khác và thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn. Với sự biến động và sự cần thiết để đảm bảo sự ổn định rộng lớn hơn của hệ thống tài chính, NHTW cần nhiều công cụ. Quản lý tài khoản vốn phải phản chu kỳ, cũng giống như trường hợp chính sách tiền tệ và tài khóa. “Asia confronts the impossible trinity” (Ila Patnaik và Ajay Shah, 2010): Nghiên cứu này tập trung vào 11 nền kinh tế ở châu Á: Ấn Độ, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Việt Nam và Hàn Quốc, gọi chung là nhóm Châu Á-11. Sử dụng số liệu thống kê tóm tắt cho mỗi nền kinh tế từ năm 1991 đến năm 2009, và tập trung vào giá trị của 3 nền kinh tế lớn nhất: Ấn Độ, Trung Quốc, và Hàn Quốc, các tác giả này khảo sát xem nhóm Châu Á-11 đứng ở vị trị nào đối với ba góc của bộ ba bất khả thi. Các kết quả nghiên cứu như sau: + Mặc dù châu Á tránh tự do hóa tài khoản vốn theo luật định, nhưng trên thực tế vẫn tiếp tục hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Những nền kinh tế Châu Á-11 đã di chuyển về hướng tự do hóa khu vực tài chính trong nước. Hiệu quả của các biện pháp kiểm soát vốn bị giảm khi hệ thống tài chính trở nên tinh vi hơn, và sự hội nhập tài khoản vãng lai đang tăng dần tạo cơ hội cho các công ty tham gia vào các hoạt động chuyển giao vốn bất hợp pháp. Với sự ngoại lệ của Indonesia, Philippines, Malaysia, những nền kinh tế Châu Á-11 tăng độ mở tài khoản vốn trên thực tế từ năm 2000-2008. + Về trung bình, cơ chế tỉ giá hối đoái của châu Á đã di chuyển theo hướng linh hoạt hơn. Tuy nhiên, không quốc gia nào trong số các nền kinh tế châu Á-11 có chế độ tỷ giá thả nổi - thậm chí là Hàn Quốc, với chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt
- 13 nhất ở châu Á. Từ năm 2000 đến 2008, chế độ tỷ giá của Malaysia và Ấn Độ di chuyển theo hướng linh hoạt hơn; tương tự như vậy, Trung Quốc cũng di chuyển nhẹ theo hướng linh hoạt hơn. + Phần lớn các nước trong nhóm Châu Á-11 có độ mở cửa trên thực tế ngày càng tăng, cùng với sự thiếu cải cách trong chính sách tiền tệ. + Việc tăng cường độ mở tài khoản vốn trên thực tế trong khi vẫn duy trì tỷ giá hối đoái cứng nhắc có hai kết quả: Những NHTW theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái cố định có thể bóp méo chính sách để đạt được mục tiêu tỷ giá hối đoái. Trong phạm vi mà các dòng vốn theo chu kỳ, chế độ neo tỷ giá sẽ tạo ra chính sách tiền tệ theo chu kỳ. Đặc biệt được quan tâm là mức độ thuận chu kỳ ở Trung Quốc và Ấn Độ, nơi có hệ thống tài chính yếu hơn và độ mở cửa trên thực tế thấp hơn so với hầu hết các nước châu Á. Nếu các nền kinh tế này không thể tránh khỏi chính sách tiền tệ thuận chu kỳ khi tỷ giá thiếu linh hoạt, thì những nền kinh tế châu Á khác có thể phải trải nghiệm mức độ thuận chu kỳ lớn hơn nhiều. Cuộc khủng hoảng hệ thống cũng có thể phát sinh. Những nền kinh tế châu Á tiếp tục trải nghiệm những cuộc đụng độ giữa các nhà đầu cơ và các NHTW, những vấn đề về ngoại tệ không được tự bảo hiểm được vay mượn bởi các tập đoàn, và những hậu quả khác của một chế độ chính sách tiền tệ không phù hợp. Vấn đề lớn hơn trong tương lai có thể không được loại trừ, đặc biệt là ở Malaysia và Đài Loan, nơi có một sự kết hợp nguy hiểm (i) độ mở cửa đáng kể trên thực tế, (ii) hệ thống tài chính trong nước tinh vi và (iii) tỷ giá hối đoái cố định so với Trung Quốc. + Từ quan điểm của cuộc khủng hoảng hệ thống, nguồn gốc quan trọng của vấn đề nằm trong các hộ gia đình, ngân hàng, và các tổng công ty dựa vào tỷ giá hối đoái cố định. Khi cảm thấy không có biến động trong tỷ giá, những thiệt hại đáng kể về mặt tỷ giá được tích lũy. Điều này dẫn đến khó khăn khi có sự biến động tỷ giá hối đoái lớn. Do đó, giai đoạn đầu tiên của cải cách cần nhấn mạnh tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái và sự phát triển của thị trường công cụ phái sinh tiền tệ. Tỷ giá
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 26 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn