intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn con người và khởi nghiệp dưới ảnh hưởng của mức độ phát triển tài chính ở Việt Nam và một số quốc gia khác

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

27
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích mối quan hệ của tinh thần khởi nghiệp và vốn con người dưới ảnh hưởng của kênh phát triển tài chính ở Việt Nam cùng một số quốc gia khác trên thế giới. Các tài liệu trước đây đã nhất trí rằng phát triển tài chính và vốn con người là thành phần quan trọng của tăng trưởng kinh tế; cùng với đó, những yếu tố này cũng không thể thiếu cho sự thành công của một doanh nhân khởi nghiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn con người và khởi nghiệp dưới ảnh hưởng của mức độ phát triển tài chính ở Việt Nam và một số quốc gia khác

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH __________________ HỒ THỊ THANH HẰNG NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA VỐN CON NGƯỜI VÀ KHỞI NGHIỆP DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA KHÁC LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH __________________ HỒ THỊ THANH HẰNG NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA VỐN CON NGƯỜI VÀ KHỞI NGHIỆP DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA KHÁC Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng (Hướng ứng dụng) Mã số: 8340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS Trần Ngọc Thơ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Trần Ngọc Thơ. Các số liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu trong luận văn này là do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Các kết quả này chưa được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Hồ Thị Thanh Hằng
  4. MỤC LỤC GIỚI THIỆU ................................................................................. 1 1.1 Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 1.2 Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 4 1.3 Phương pháp, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................... 5 1.4 Bố cục bài nghiên cứu ......................................................................................... 5 KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM .............................................................................................................. 7 2.1 Khung lý thuyết .................................................................................................. 7 2.1.1 Lý thuyết về vai trò của khởi nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế .................. 7 2.1.2 Lý thuyết về vốn con người và tinh thần khởi nghiệp ................................. 14 2.2 Bằng chứng thực nghiệm .................................................................................. 27 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU....................... 36 3.1 Phương pháp ước lượng .................................................................................... 36 3.2 Mô tả biến và dữ liệu ........................................................................................ 39 3.2.1 Mô tả biến .................................................................................................. 39 3.2.1 Dữ liệu ....................................................................................................... 45 KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ...................................................... 51 4.1 Kết quả thực nghiệm và giải thích ..................................................................... 51 4.1.1 Kết quả hồi quy phương trình (1) ............................................................... 51 4.1.2 Kết quả hồi quy phương trình (2) ............................................................... 57 4.2 Các kiểm định cho mô hình hồi quy GMM ....................................................... 58 4.2.1 Kiểm định đa cộng tuyến ............................................................................ 58 4.2.2 Kiểm định hiện tượng tự tương quan .......................................................... 59 4.3 Thảo luận kết quả thực nghiệm ......................................................................... 60 4.4 Các đề xuất từ kết quả nghiên cứu..................................................................... 62 KẾT LUẬN .................................................................................. 64 5.1 Kết luận chung .................................................................................................. 64 5.2 Các hạn chế của bài nghiên cứu và hướng nghiên cứu sắp tới ........................... 65
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DGMM Mô hình hồi quy GMM khác biệt DPD Dữ liệu bảng động (Dynamic Panel Data) GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) GEM Dữ liệu giám sát khởi nghiệp toàn cầu (Global Entrepreneurship Monitor) GFDD Dữ liệu phát triển tài chính toàn cầu (Global Financial Development Database) GMM Mô hình hồi quy GMM (Generalized Method of Moments) KSA Kiến thức, kỹ năng, khả năng (Knowledge, skills, and abilities) MLS Maximum Likelihood Estimation (Ước lượng hợp lý cực đại) OLS Phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất R&D Nghiên cứu và phát triển (Research and development) SGMM Mô hình hồi quy GMM hệ thống WDI Chỉ số phát triển thế giới (World Development Indicators)
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Các lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu khởi nghiệp của con người tính đến tháng 9/2014 ............................................................................................................ 16 Bảng 2.2. Cấu trúc vốn nhân lực chung ........................................................................ 17 Bảng 2.3. Các loại hình vốn nhân lực ........................................................................... 22 Bảng 3.1. Thống kê mô tả biến ..................................................................................... 44 Bảng 3.2. Danh sách các nước sử dụng trong nghiên cứu ............................................. 47 Bảng 3.3. Nguồn dữ liệu của các biến sử dụng trong mô hình ....................................... 49 Bảng 4.1. Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) ....................................................... 52 Bảng 4.2. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3 thước đo phát triển tài chính ở một số quốc gia ............................................................. 54 Bảng 4.3. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3 thước đo phát triển tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015 ................................... 56 Bảng 4.4. Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) ....................................................... 57 Bảng 4.5. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến ............................................................ 59
  7. DANH MỤC HÌNH Hình 2.1. Trọng tâm của nghiên cứu trong quá khứ .................................................... 20 Hình 2.2. Mô hình vốn nhân lực và quá trình khởi nghiệp .......................................... 25 Hình 4.1. Mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp và phát triển tài chính .................. 53 Hình 4.2. Mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp và phát triển tài chính .................. 56
  8. TÓM TẮT Công trình nghiên cứu này của tôi tìm hiểu về mối quan hệ giữa vốn con người và khởi nghiệp dưới ảnh hưởng của mức độ phát triển tài chính ở Việt Nam và một số quốc gia khác. Trong bài nghiên cứu, tôi sử dụng mẫu dữ liệu của 43 quốc gia trong giai đoạn từ 2001 – 2015, trong đó có Việt Nam. Để tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu trong bài, tôi đã dựa trên những lý thuyết nền tảng và các bài nghiên cứu trước đây, từ đó xây dựng một mô hình để xem xét sự tác động lẫn nhau giữa ba yếu tố trên. Tôi sử dụng dữ liệu bảng cùng phương pháp ước lượng GMM hệ thống để ước lượng cho phương trình này, kèm theo đó là các kiểm định liên quan như: hiện tượng tự tượng quan, đa cộng tuyến để kiểm tra các “khuyết tật” có thể có của mô hình. Kết quả tôi thu được là sự tác động của nguồn vốn nhân lực lên tinh thần khởi nghiệp là lớn hay nhỏ phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính của một quốc gia. Cụ thể, tác động của giáo dục đại học lên tinh thần khởi nghiệp mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn khả dụng và phát triển tài chính thấp và ngược lại. Thêm vào đó, ở những quốc gia có thu nhập thấp hơn mức trung bình, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập trung cải thiện giáo dục hơn là tập trung vào phát triển tài chính. Qua những kết quả thực nghiệm trên tôi đã đưa ra những giải thích, đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo và các khuyến nghị cho chính sách giáo dục của Việt Nam để giúp nâng cao tinh thần khởi nghiệp và giúp đất nước phát triển một cách mạnh mẽ trong tương lai. Từ khóa: Khởi nghiệp, vốn nhân lực, tuyển sinh đại học, phát triển tài chính.
  9. ABSTRACT The previous literature is filled with mixed findings with regard to human capital’s impact on entrepreneurial outcomes. In particular, the prior literature has treated human capital’s impact on entrepreneurship in isolation, while in reality its impact depends on access to financial capital. This study of mine explores the relationship between human capital and entrepreneurship under the influence of the level of financial development in Vietnam and some other countries. In the study, I used data samples from 43 countries in the period from 2001 to 2015, including Vietnam. In order to find out the answers to the research questions in the paper, I have based on the fundamental theories of entrepreneurship, human capital of previous studies to build two models to consider the impact of mutual feedback between the above factors. I use the table data and the GMM system estimation method to estimate the two equations proposed in the paper. My results show that a rise in tertiary enrollment benefits entrepreneurship most when the level of financial development is low. For higher levels of financial development, the impact of tertiary enrollment on entrepreneurship is still positive but much lesser in magnitude compared to countries with lower level of financial development. Through the above results, I have provided explanations and suggestions for Vietnam's education policy to enhance the entrepreneurial spirit and develop the country more strongly. Keywords: Entrepreneurship, Human Capital, Tertiary Enrollment, Financial Development.
  10. 1 GIỚI THIỆU 1.1 Lý do chọn đề tài Các tài liệu trước đây đã tìm thấy rất nhiều kết quả liên quan đến mối quan hệ giữa kết quả giáo dục và tinh thần khởi nghiệp. Một loạt các nghiên cứu kết luận rằng vốn con người có liên quan đến thành công của doanh nhân (Cassar, 2006; Van der Sluis et al., 2005; Bosma et.al., 2004), cụ thể là vốn con người tăng lên rất quan trọng trong việc thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp (Haber và Reichel, 2007). Tuy nhiên, các nghiên cứu của Baum và Silverman (2004) cho rằng mối quan hệ giữa vốn con người và tinh thần khởi nghiệp đang được nhấn mạnh quá mức. Trong bài nghiên cứu này, tôi tiếp tục làm rõ vấn đề liên quan đến tác động của vốn con người đến tinh thần khởi nghiệp. Trong khi lý thuyết vốn con người tiêu chuẩn (Becker, 1964) cho rằng kết quả giáo dục tốt hơn sẽ cải thiện hiệu quả kinh tế, nhưng điều này không phải lúc nào cũng làm tăng tỷ lệ doanh nhân khởi nghiệp thực tế, vì tỷ lệ này còn chịu tác động của một số yếu tố khác. Yếu tố đầu tiên là giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, có thể cản trở sự không đồng nhất và tư duy sáng tạo cần thiết cho sự đổi mới (Baumol, 2004). Ông thấy rằng việc nắm vững các phương pháp khoa học được cung cấp bởi giáo dục đại học tiêu chuẩn là vô cùng quý giá đối với các hoạt động R & D của tập đoàn lớn nhưng cản trở sự sáng tạo thực sự cần thiết cho những đổi mới đột phá góp phần không nhỏ vào tăng trưởng (chủ yếu đến từ các công ty khởi nghiệp nhỏ và mới). Về bản chất, giáo dục đại học hầu hết đều dẫn đến những tiến bộ gia tăng hơn là tạo ra những đổi mới đột phá (Christensen, 1997). Đây chính xác là lý do tỷ phú doanh nhân Peter Thiel của PayPal đã tài trợ học bổng Thiel mang lại cho sinh viên 100.000 đô la trong hai năm cho những sinh viên nào dám bỏ học đại học và nỗ lực theo đuổi khởi nghiệp kinh doanh. Thứ hai, bởi vì một cá nhân có trình độ giáo dục cao và chất lượng sẽ dẫn đến cơ hội việc làm mở rộng trong các công ty và doanh nghiệp hiện tại có sẵn, điều đó làm tăng chi phí cơ hội cho cá nhân trở thành một doanh nhân khởi nghiệp. Đây chính xác là lý do tại sao các khu vực kém phát triển với môi trường kinh doanh kém và chính sách yếu kém có xu
  11. 2 hướng có tỷ lệ tự khởi nghiệp cao, chính xác đây là những gì được chứng minh trong bài nghiên cứu về chi phí cơ hội của khởi nghiệp (Cassar, 2006). Cuối cùng, giáo dục được cải thiện có thể khiến các cá nhân đánh giá tốt hơn các rủi ro, thất bại tiềm ẩn và các vấn đề với ý tưởng của họ, khiến các cá nhân khởi nghiệp phải từ bỏ theo đuổi ý tưởng xấu và giảm tổng số khởi nghiệp mới. Mặc dù yếu tố thứ ba này dẫn đến ít thất bại hơn trong kinh doanh vì ít ý tưởng tồi tệ hơn được thực hiện, nhưng nó cũng dẫn đến các doanh nghiệp khởi nghiệp ít được thành lập hơn. Các kết quả không đồng nhất về mối quan hệ giữa giáo dục đại học và tỷ lệ khởi nghiệp không những thể hiện qua các nghiên cứu lý thuyết trước đây mà chúng còn được tìm thấy trong thực tế, đặc biệt dành cho sinh viên tham gia các khóa học về kinh doanh và lập kế hoạch kinh doanh, và những phát hiện này được nhân rộng ở nhiều quốc gia khác nhau (Martin, McNally và Kay, 2013). Ví dụ, Oosterbeek, van Praag và Ysselstein (2010) nhận thấy rằng sinh viên đại học Ý định khởi nghiệp đã giảm bớt sau khi tham gia một khóa học về tinh thần kinh doanh và điều này đã được nhân rộng. Mentoor và Friedrich (2007) tìm thấy các khóa học đại học ở Nam Phi tập trung vào quản lý doanh nghiệp nhỏ và kết quả là tinh thần kinh doanh có mối tương quan nghịch với các kỹ năng và kiến thức kinh doanh, đồng thời Von Graevenitz, Harhoff, và Weber (2010) tìm thấy kết quả tương tự đối với các sinh viên Đức. Một số nghiên cứu của sinh viên Pháp và Litva (Fayolle, Gailly và Lassas-Clerc, 2006; Garalis và Strazdiene, 2007) lại tìm thấy kết quả hỗn hợp. Nhiều yếu tố có thể giải thích mối quan hệ nghịch đảo này bao gồm việc hiểu rõ hơn về rủi ro thực sự và khối lượng công việc liên quan đến việc bắt đầu một doanh nghiệp mới đã làm giảm tỷ lệ khởi nghiệp thực tế của sinh viên. Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu giá trị về đề tài trên, tuy nhiên các kết quả lại khá hỗn loạn và chưa đi đến một câu trả lời xác đáng cho mối quan hệ trên, đồng thời còn tồn tại khá nhiều vấn đề cần khắc phục. Đầu tiên, đa số các nghiên cứu nhầm lẫn và bỏ qua tác động phi tuyến tính của vốn con người đối với tinh thần kinh doanh. Thứ hai, tác động của nguồn nhân lực đối với tinh thần kinh doanh còn phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính của quốc gia đó, tuy nhiên cũng chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu nào khai thác. Cuối cùng, các nghiên cứu trước vẫn chủ yếu tập trung vào các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, hệ thống kinh tế thị trường được hình thành đồng bộ và vận
  12. 3 hành hiệu quả, môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển nên chưa phản ánh một cách chung nhất và chính xác nhất về mối quan hệ này; dữ liệu nghiên cứu cũng chưa được cập nhật đầy đủ đến thời điểm gần nhất nên sẽ không phản ánh được chính xác mối quan hệ trên trong nền kinh tế nhiều biến động những năm gần đây. Ngoài ra, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, tôi thấy rằng vấn đề khởi nghiệp và vốn con người đang được các nước trên thế giới ngày càng quan tâm vì nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển chung của một quốc gia. Hãy cùng điểm qua một vài quốc gia luôn chú trọng đến tinh thần khởi nghiệp trong những năm qua. Đầu tiên phải nói đến quốc gia có tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ nhất trên thế giới trong vài chục năm qua là Israel. Có lẽ vì thấy được tầm quan trọng của khởi nghiệp trong sự phát triển kinh tế mà họ đã rèn luyện và giáo dục tinh thần khởi nghiệp cho trẻ em ngay từ khi còn nhỏ. Tiếp theo, không thể không nhắc đến nước Mỹ, đất nước với những tập đoàn lớn mạnh, hàng chục nhà bác học đạt giải Nobel, hàng trăm nhà tỷ phú, hàng nghìn nhà khoa học thiên tài, chiếm lĩnh hầu hết những công nghệ hiện đại nhất thế giới. Vậy điều gì đã tạo nên điều đó cho nước Mỹ? Có rất nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quyết định là tinh thần khởi nghiệp của người Mỹ. Ở Việt Nam hiện nay, môi trường khởi nghiệp được đánh giá là còn non trẻ so với thế giới nhưng có nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp một cách mạnh mẽ. Theo đó, có hàng trăm Trường đại học, Viện – nơi được coi là trung tâm của hệ sinh thái khởi nghiệp, đang hoạt động khắp cả nước và ngày càng nhân rộng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là có thật sự kết quả giáo dục (vốn con người) sẽ có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ khởi nghiệp hay không? Thấy được những khoảng trống lý thuyết cũng như tính thực tiễn của đề tài này trong giai đoạn hiện nay, tôi đã quyết định thực hiện đề tài này nhằm kiểm tra thực nghiệm mối quan hệ giữa tuyển sinh giáo dục đại học và tỷ lệ khởi nghiệp (sự hình thành các doanh nghiệp mới) trên khắp các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tôi cố gắng làm rõ vấn đề này bằng cách xem xét mối quan hệ giữa vốn con người và tinh thần khởi nghiệp dưới ảnh hưởng của các mức độ phát triển tài chính khác nhau. Đặc biệt ở nước ta, khi xu hướng khởi nghiệp đang bắt đầu lan tỏa mạnh mẽ và Chính phủ cũng đã quyết định chọn năm 2016 là năm khởi đầu cho năm năm quốc gia khởi nghiệp sắp tới, cho thấy các nhà chính sách cũng đã nhận ra tầm quan trọng của khởi nghiệp và đổi mới lên
  13. 4 sự tăng trưởng của quốc gia, tuy nhiên lại chưa có nghiên cứu nào về đề tài này cho thực tế Việt Nam. Do đó, tôi đã tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn con người và khởi nghiệp dưới ảnh hưởng của mức độ phát triển tài chính ở Việt Nam và một số quốc gia khác”. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Bài nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích mối quan hệ của tinh thần khởi nghiệp và vốn con người dưới ảnh hưởng của kênh phát triển tài chính ở Việt Nam cùng một số quốc gia khác trên thế giới. Các tài liệu trước đây đã nhất trí rằng phát triển tài chính và vốn con người là thành phần quan trọng của tăng trưởng kinh tế; cùng với đó, những yếu tố này cũng không thể thiếu cho sự thành công của một doanh nhân khởi nghiệp. Câu hỏi đầu tiên đặt ra trong nghiên cứu này là hai yếu tố giáo dục và phát triển tài chính có tác động đến tinh thần khởi nghiệp của một quốc gia hay không và nếu có thì tác động theo chiều hướng nào? Thứ hai là liệu mức độ phát triển tài chính có tác động phi tuyến tính đến tinh thần khởi nghiệp không? Nghĩa là đối với quốc gia có mức độ phát triển tài chính cao thì vốn tài chính tăng lên nữa có làm tinh thần khởi nghiệp tăng lên nữa không và ngược lại. Thứ ba, mức độ phát triển tài chính có ảnh hưởng đến sự tác động của nguồn vốn con người lên tinh thần khởi nghiệp hay không? Tức là đối với một quốc gia có mức độ phát triển tài chính thấp, thì sự tăng lên về nguồn vốn con người có làm tinh thần khởi nghiệp tăng lên hay không và ngược lại. Cuối cùng, ở những nước có thu nhập thấp hơn trung bình, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập trung cải thiện giáo dục hay phát triển tài chính và một sự cải thiện trong yếu tố nguồn vốn con người có đủ khả năng bù đắp sự thiếu hụt của hiệu quả tài chính hay không? Bởi vì đối với nhiều nước đang phát triển, việc có cả lĩnh vực tài chính mạnh và mức vốn con người cao có thể khó xảy ra do hạn chế về nguồn lực. Để giải quyết những câu hỏi chưa được khám phá đó, tôi đã đào sâu và mở rộng các nghiên cứu lý thuyết trước đây về tinh thần khởi nghiệp, nguồn vốn con người và phát triển tài chính. Đồng thời sử dụng một phân tích thực nghiệm cho một nhóm các quốc gia rộng lớn theo thời gian, tôi dùng các biến định lượng đặc trưng thay thế cho từng yếu tố
  14. 5 trên để kiểm định mối quan hệ và những tác động lẫn nhau của chúng. Từ đó, đưa ra những khuyến nghị cho các chính sách nhằm tạo động lực để gia tăng tinh thần khởi nghiệp và phát triển nền kinh tế đất nước. 1.3 Phương pháp, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Bài nghiên cứu này trình bày phân tích thực nghiệm mối quan hệ ba yếu tố: hoạt động khởi nghiệp, vốn con người và phát triển tài chính ở 43 quốc gia trên khắp thế giới trong đó có Việt Nam. Tôi sử dụng dữ liệu bảng cho các quốc gia đó trong giai đoạn từ 2001 đến 2015. Đồng thời tôi sử dụng phương pháp ước lượng GMM hệ thống để ước lượng dữ liệu bảng động xuyên quốc gia để khắc phục triệt để hiện tượng nội sinh (nếu có). Ngoài ra tôi đã thực hiện các kiểm định liên quan như kiểm tra hiện tượng nội sinh bằng kiểm định kiểm tra tự tương quan bằng kiểm định Wooldridge và kiểm định đa cộng tuyến để xác định những “khuyết tật” có thể có của mô hình GMM để đảm bảo tính vững chắc của nghiên cứu. Thậm chí ngay cả trong điều kiện giả thiết nội sinh bị vi phạm, phương pháp GMM hệ thống vẫn cho ra các hệ số ước lượng vững, không chệch và hiệu quả nên tôi đã chọn phương pháp này. 1.4 Bố cục bài nghiên cứu Để phục vụ cho việc tra cứu của độc giả, giúp độc giả có thể nắm tổng quan bài nghiên cứu một cách dễ dàng, tôi đưa ra các danh mục tra cứu như mục lục và các danh mục bảng biểu, danh mục từ viết tắt, danh mục biểu đồ. Sau đó tôi mô tả một cái nhìn tổng quát cho toàn bài nghiên cứu bằng những giới thiệu tổng quan trong phần tóm tắt. Công trình nghiên cứu của tôi được chia thành năm chương. Trong chương một, tôi nêu lên lý do thực hiện và mục tiêu nghiên cứu của đề tài này, tiếp sau đó tôi giới thiệu tổng quan về phương pháp nghiên cứu cũng như đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài. Ở chương 2, tôi sẽ trình bày những khung lý thuyết liên quan đến hoạt động khởi nghiệp, vốn con người, và phát triển tài chính, cùng với đó là những bằng chứng thực nghiệm từ các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế học đi trước, những bằng chứng thực nghiệm đã khẳng định vai trò của tinh thần khởi nghiệp trong quá trình đổi mới và tăng trưởng kinh tế. Đến chương 3, tôi trình bày chi tiết về phương pháp ước lượng và các mô hình thực nghiệm. Trong đó, tôi mô tả cụ thể hơn về phương pháp ước lượng mà tôi sử dụng trong bài, sau đó tôi đưa ra mô hình thực nghiệm cho công trình của mình dựa trên
  15. 6 những lý thuyết đã nêu ở trên. Tiếp sau đó, tôi giải thích các biến số trong mô hình và nguồn của bộ dữ liệu mà tôi thu thập. Đến chương 4, tôi trình bày những kết quả thực nghiệm của mình sau khi chạy các mô hình hồi quy nêu trên, đồng thời tiến hành các kiểm định cần thiết để kiểm tra những khuyết tật có thể mắc phải của mô hình. Hơn nữa, ở phần cuối chương này, tôi đã đưa ra những giải thích cho kết quả thực nghiệm, sau đó trả lời các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra ở đầu bài và đưa ra các đề xuất đóng góp dựa trên nhưng kết quả mà tôi phát hiện được. Chương cuối cùng, tôi đưa ra kết luận chung cho toàn bộ bài nghiên cứu, ngoài ra tôi cũng chỉ ra những hạn chế còn gặp phải cùng với hướng nghiên cứu tiếp theo cho đề tài này trong tương lai.
  16. 7 KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM 2.1 Khung lý thuyết 2.1.1 Lý thuyết về vai trò của khởi nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế Trước khi tiến hành nghiên cứu về động lực thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp có phải là nguồn vốn nhân lực không, ta phải thấy được tầm quan trọng của tinh thần khởi nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế. Động lực của tăng trưởng kinh tế luôn là đề tài gây hứng thú cho các nhà kinh tế trong nhiều năm qua. Trước đây, đã có rất nhiều công trình của những nhà nghiên cứu nổi tiếng về sự tác động của các yếu tố như vốn, lao động, khoa học công nghệ lên tăng trưởng kinh tế và nhiều trong số đó đã trở thành nền móng cơ bản cho các nghiên cứu mở rộng sau này. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Liệu có mối quan hệ nào giữa khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế không? Theo lý thuyết của Adam Smith cho rằng: Các thị trường đang ngày càng mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, từ đó năng suất lao động sẽ tăng lên và tạo ra sự tăng trưởng kinh tế. Trái chiều với lý thuyết của Adam Smith, David Ricardo lại nhận định rằng sự kết hợp của các yếu tố đầu vào như: đất đai, lao động, nguồn vốn sẽ cho ta một hàm sản lượng nói lên sự tăng trưởng kinh tế. Xem xét các yếu tố trên để nhận xét về tăng trưởng kinh tế, ông cho rằng: Nguồn vốn có thể tăng lên trong quá trình đầu tư nhưng đất đai thì hữu hạn và sự gia tăng dân số luôn cao hơn sự tăng trưởng kinh tế do đó phần lớn dân số chỉ có mức thu nhập vừa đủ. Nhìn trên phương diện này, ông nhận xét rằng khởi nghiệp sẽ không làm gia tăng nhanh của cải, hay nói cách khác, khởi nghiệp và sáng tạo đổi mới không phải là yếu tố chủ yếu trong sự tăng trưởng. Hai ý kiến về vấn đề khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế trên là những khái niệm cơ bản và giản đơn nhất. Smith kết luận rằng sự tăng trưởng kinh tế có một tiềm năng không giới hạn, còn Ricardo cho rằng tiềm năng đó không thể vô hạn mà bị hạn chế bởi những hữu hạn trong các yếu tố, các nguồn lực cấu thành nên sự tăng trưởng. Ta thấy rằng, Adam Smith khi xem xét về sự tăng trưởng kinh tế đã có tầm nhìn rộng hơn Ricardo. Nhưng các nghiên cứu kinh tế lại có vẻ gần gũi với tư tưởng của Ricardo hơn khi nhắc đến vấn đề tăng trưởng kinh tế. Lý do là khi thiết lập các mô hình kinh tế, cách tiếp cận của Ricardo
  17. 8 có tính ứng dụng tốt hơn vì quá trình mô hình hóa các hiện tượng kinh tế đòi hỏi mô hình phải tính toán và so sánh được, trong khi yếu tố “đổi mới sáng tạo” của Adam Smith lại rất khó đưa vào các mô hình kinh tế một cách chính xác. Trong hàm sản lượng của Ricardo, nguồn vốn (vốn đầu tư) là yếu tố chính của quá trình tăng trưởng kinh tế, còn theo Adam Smith, sự đổi mới sáng tạo mới là chìa khóa của tăng trưởng kinh tế, nhưng quá trình đổi mới sáng tạo diễn ra như thế nào thì không được ông giải thích. Về sau này, nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu và thảo luận vấn đề này, nhà kinh tế học Kirzner cũng theo trường phái của Smith về tăng trưởng kinh tế khi ông chỉ đưa ra quan điểm rằng: Động lực của tinh thần khởi nghiệp chính là “cơ hội sinh lời chưa được phát hiện từ trước”. Theo quan điểm đó, khởi nghiệp chính là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giống phát biểu của Smith. Theo Kirzner, tri thức khởi nghiệp là việc nhận ra cơ hội kiếm lời mà từ trước đến giờ không ai chú ý đến. Nhà khởi nghiệp thực hiện những ý tưởng tạo ra một năng suất cao hơn, sự thỏa mãn nhu cầu lớn hơn với mức chi phí thấp hơn. Nhà kinh tế học Schumpeter phân tích một bối cảnh mà điểm cân bằng cạnh tranh làm tối thiểu hóa lợi nhuận, và một bối cảnh trong đó lợi nhuận chính là phần thưởng cho quá trình khởi nghiệp. Schumpeter cho rằng, tinh thần khởi nghiệp là nền móng cho sự tăng trưởng kinh tế. Bắt đầu từ những kinh nghiệm lịch sử, các tư tưởng và ý tưởng về khởi nghiệp được sinh ra và phát triển, rồi những tri thức mới lại được tích góp làm kinh nghiệm để tạo ra những tư tưởng khởi nghiệp mới, quá trình này cứ tiếp diễn dấn đến sự tăng trưởng kinh tế. Vậy theo Schumpeter quá trình tăng trưởng kinh tế diễn ra là do quá trình khởi nghiệp đã tạo ra một môi trường mà trong đó sự đổi mới sáng tạo được nuôi dưỡng và phát triển do vậy mà năng suất lao động ngày càng tăng, hiệu quả kinh tế của sản xuất ngày càng cao, tạo ra tăng trưởng kinh tế. Chúng ta sẽ cùng xem xét lại các mô hình tăng trưởng kinh tế từ sơ khai đến nay để có cái nhìn tổng quát hơn. Đầu tiên phải kể đến là mô hình tăng trưởng cơ bản. Trong mô hình này, phương trình hàm sản xuất phụ thuộc vào 2 yếu tố: Nguồn vốn (K) và lực lượng lao động (L). Đây là mô hình cơ bản nhất và phương trình của hàm sản xuất (hay hàm tổng sản lượng) sẽ là: Y = F (K, L) (2-1)
  18. 9 Qua phương trình này ta thấy rằng: Nếu lực lượng lao động hay nguồn vốn gia tăng, sẽ dẫn đến sản xuất gia tăng. Theo cách lập luận này thì tăng trưởng kinh tế diễn ra do tăng đầu tư (đầu tư vào nhà xưởng, máy móc, cơ sở vật chất, hạ tầng,…) hoặc tăng quy mô của lực lượng lao động, hay cả hai. Dạng chính xác của hàm F (cho biết chính xác sản xuất sẽ tăng bao nhiêu khi thay đổi K và L) chính là điểm phân biệt giữa các mô hình tăng trưởng khác nhau. Mô hình này còn đơn giản và chưa đề cập nhiều đến các yếu tố quan trọng khác như sự đổi mới khoa học công nghệ, quá trình khởi nghiệp,…Và với nền kinh tế hiện đại ngày nay, các nghiên cứu mới cho rằng: nguồn vốn và số lượng lao động không còn là những yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế, và chúng chỉ là một thành phần trong quá trình tăng trường. Tiếp đến là mô hình tăng trưởng của Harrod-Domar, một mô hình dựa vào lý thuyết trong trường phái Keynes. Vào năm 1929-1933 thế giới phải đối mặt với cuộc đại khủng hoảng kinh tế thừa do các nước tư bản chạy theo lợi nhuận, sản xuất hàng hóa ồ ạt, trong khi sức mua giảm sút vì người dân đang còn nghèo. Đến đây thì mô hình tăng trưởng cổ điển tỏ ra bất lực khi giải thích hiện tượng kinh tế này. Bên cạnh đó, một sự xuất hiện của các thành tựu về khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, kỹ thuật thâm canh, và đặc biệt là máy kéo đã giúp cho sản lượng trong ngành nông nghiệp tăng lên nhanh chóng và tuy bị giới hạn bởi nguồn đất đai “hữu hạn” nhưng sản lượng thực phẩm cung cấp cho mọi người vẫn đầy đủ. Và điều này đã khiến các nhà nghiên cứu có một cái nhìn rộng hơn trong tăng trưởng kinh tế. Phương trình của mô hình này có thể được mô tả như sau: Y = K/v hay Y = 1/v x K (2-2) Trong đó, v là một hằng số. Nguồn vốn (K) trong phương trình được nhân cho 1 số cố định (1/v) để tính tổng sản lượng. Vậy v có ý nghĩa gì? Các nhà kinh tế thường gọi v là tỷ số vốn tăng thêm trên sản lượng, hay v chính là tỷ số ICOR, cho biết cần bỏ thêm bao nhiêu đơn vị trong nguồn vốn để tạo ra thêm một đơn vị sản lượng. Và tỷ số này giúp chúng ta đo lường năng suất của mỗi lượng vốn được đưa vào sản xuất. Mô hình Harrod Domar đã mở rộng hơn mô hình cổ điển nhưng vẫn mang một sự đơn giản, phương trình dễ dàng sử dụng và ước lượng. Mô hình còn nhận xét rằng, các quyết
  19. 10 định cá nhân về việc tiết kiệm bao nhiêu và tiêu dùng bao nhiêu từ thu nhập là trọng tâm của quá trình tăng trưởng. Người ta thích tiêu dùng ngay bây giờ hơn là mai sau, nhưng càng tiêu dùng nhiều, thì càng có ít tiết kiệm để tài trợ đầu tư, vì thế mô hình đã tập trung vào vai trò cốt lõi của tiết kiệm trong tăng trưởng kinh tế theo thời gian. Nhưng phải chăng mô hình Harrod Domar quá chú trọng vào tiết kiệm? Nếu xét đến các điều kiện của tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm được xem là một điều kiện cần, nhưng trong mô hình của Harrod Domar thì ngụ ý rằng tiết kiệm là điều kiện cần và đủ trong tăng trưởng kinh tế, nhưng thực tế thì điều này còn nhiều vấn đề cần làm rõ. Tiếp đến là mô hình tăng trưởng tân cổ điển - mô hình tăng trưởng Solow. Năm 1956, nhà kinh tế học MIT Robert Solow giới thiệu một mô hình tăng trưởng kinh tế mới, đó là một sự phát triển từ mô hình Harrod Domar. Solow thừa nhận là có nhiều vấn đề phát sinh từ hàm sản xuất khá cứng nhắc trong mô hình Harrod Domar. Vì vậy Solow đã đưa ra giải pháp là bỏ hàm sản xuất có hệ số cố định và thay thế nó bằng hàm sản xuất tân cổ điển, điều này cho phép mô hình có tính linh hoạt hơn và có sự thay thế giữa các yếu tố sản xuất. Trong mô hình Solow, yếu tố thay đổi công nghệ được đưa vào phương trình như sau: Y = F(K, TxL) (2-3) Trong đó, nguồn vốn (K) và nguồn lao động (L) được kết hợp với sự thay đổi công nghệ (T). Theo các mô tả này, phát triển công nghệ được đưa vào mô hình và làm thay đổi hiệu quả của yếu tố lao động (LxT). Khi công nghệ được cải tiến (T tăng), hiệu quả và năng suất của lao động tăng, vì cùng một giá trị lao động bây giờ có thể sản xuất được nhiều sản lượng hơn. T có thể tăng lên nhờ những cải tiến trong công nghệ theo ý nghĩa khoa học (các phát minh và các quy trình mới) hay theo nguồn vốn nhân lực, như sự cải thiện về y tế, giáo dục, hay kỹ năng của lực lượng lao động. Trong mô hình Solow, công nghệ là một biến ngoại sinh, vì thế mà nó được xác định độc lập với tất cả các biến và các thông số trong mô hình. Tuy Solow không mô tả chính xác sự thay đổi công nghệ diễn ra như thế nào nhưng rõ ràng sự đổi mới công nghệ đã bổ sung cho khả năng tăng sản lượng của các yếu tố sản xuất. Solow thừa nhận rằng tỷ lệ lợi nhuận trong đầu tư là một hàm giảm dần theo vốn bình quân đầu người, và thu nhập bình quân đầu người ở các nước khác nhau sẽ hội tụ vào
  20. 11 một trạng thái dừng ổn định trong trường hợp không có thay đổi công nghệ ngoại sinh. Quả thật, tiến bộ công nghệ đã trở thành một nhân tố chính đằng sau sự tăng trưởng kinh tế, mô hình cho thấy việc tiếp thu công nghệ mới thông qua phát minh trong nước hay nhập khẩu công nghệ mới từ nước ngoài, có thể kích thích tăng trưởng kinh tế vô cùng mạnh mẽ. Tuy nhiên, những dự đoán của mô hình có phần không phù hợp với các quan sát trong thực tế, đặc biệt khi cho rằng tất cả các phần không giải thích được của tăng trưởng kinh tế là do các cú sốc công nghệ ngoại sinh. Mô hình tân cổ điển Solow chúng ta vừa đề cập ở phía trên đã mô tả được những đặc điểm chủ yếu của một mô hình kinh tế mang tính thực tế ở các nước phát triển. Mô hình Solow có thể được gọi là cơ sở trong hầu hết các nghiên cứu thuộc kinh tế vĩ mô ở các nước phát triển. Tuy nhiên, mô hình Solow chưa giải thích đầy đủ những thực tế trong tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Ở môi hình Solow, ngoài nguồn vốn (K) ra thì yếu tố quyết định sản lượng là hiệu suất của nguồn lao động (TxL) nhưng nguồn lao động có ý nghĩa như thế nào thì mô hình chưa làm rõ. Vậy làm sao để thấy được sự khác biệt giữa hai quan điểm về tăng trưởng của Smith và Ricardo? Trong bối cảnh của kinh tế học đương đại, một phương pháp có thể áp dụng để trả lời câu hỏi này đó chính là mô hình tăng trưởng Solow (1956). Theo mô hình này, Y là sản lượng, K và L lần lượt là nguồn vốn và lao động, t là thời gian và hàm sản lượng là một hàm gồm sự kết hợp của các yếu tố trên. Y = f(K, L, t) Giải thích cho sự có mặt của thời gian trong hàm sản lượng này, Solow cho rằng: Theo thời gian, đổi mới công nghệ sẽ xảy ra tạo ra một hiệu suất sử dụng nguồn vốn và lao động cao hơn. Ta thấy rằng, để xây dựng mối quan hệ giữa các yếu tố sản lượng, nguồn vốn và nguồn lao động trong mô hình thì không khó nhưng để đưa vào mô hình sự ảnh hưởng của thời gian thì không phải việc đơn giản, chính vì thế người ta thường xem thời gian là một biến ngoại sinh. Bên cạnh đó, lao động (L) cũng thường được xem là một biến ngoại sinh và nếu ta phân tích về thu nhập đầu người thì ta sẽ chia hàm số cho lao động (L) để chỉ còn lại nguồn vốn (K) và biến ngoại sinh thời gian (t) lúc này sẽ giúp ta giải thích được sự tăng trưởng. Ở dạng hàm tổng quát trên, khi chia hàm số cho lao động (L), có khả năng ta vẫn chưa loại trừ được hết biến số đó bên vế phải của phương trình
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
26=>2