VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VŨ DANH

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY

TẠI TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌ11C XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VŨ DANH

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY

TẠI TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành

: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số

: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Trần Hữu Tráng

HÀ NỘI, năm 2019

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây thực hiện chương trình hành động phòng

chống ma túy của Chính phủ, thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm của tỉnh

Quảng Nam, Thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 26/3/2008 của Bộ Chính

trị về “Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm

soát ma túy trong tình hình mới”, trong 10 năm qua lực lượng Công an toàn

tỉnh đã triển khai có hiệu quả các biện pháp công tác, đấu tranh triệt xóa các

điểm, tụ điểm phức tạp về ma túy (85 điểm, 17 tụ điểm), các đường dây mua

bán trái phép chất ma túy (31 đường dây), tiến hành bắt giữ, khởi tố 731 vụ

1.035 bị can phạm tội về ma túy; ngoài ra, đã phát hiện, xử lý hành chính

2.152 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, phạt 1,45 tỷ đồng, tiến hành

lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn 719 đối

tượng, đưa vào Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh 802 đối tượng... góp phần đảm

bảo an ninh, trật tự tại tỉnh.

Tuy nhiên, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy tại tỉnh vẫn còn diễn biến

phức tạp, tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy và số người nghiện ma túy

có chiều hướng gia tăng (đặc biệt trong nhóm tuổi thanh thiếu niên số người

nghiện dưới 35 tuổi chiếm 72,3% tổng số người nghiện), số xã, phường, thị

trấn có tệ nạn ma túy chiếm hơn 65% số xã, phường, thị trấn tại tỉnh; công tác

đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy tại một số địa phương còn nhiều hạn

chế; các chỉ tiêu về phòng ngừa tội phạm, tệ nạn ma túy chưa đảm bảo yêu

cầu đặt ra qua từng năm... Từ năm 2014 đến năm 2018, lực lượng Công an

tỉnh Quảng Nam đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể tổ

chức tốt việc tuyên truyền giáo dục phòng ngừa đấu tranh với các loại tội

phạm, tệ nạn về ma túy, góp phần rất quan trọng vào việc kéo giảm và kiềm

1

chế sự gia tăng các loại tội phạm tại tỉnh, tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư,

phát triển kinh tế - xã hội. Thế nhưng, tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam

vẫn đang có nhiều diễn biến khó lường, ẩn chứa nhiều phức tạp.

Theo thống kê lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an

tỉnh Quảng Nam trong 05 năm từ năm 2014 đến năm 2018 lực lượng Cảnh sát

điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Quảng Nam đã điều tra khám phá 385

vụ với 561 đối tượng. Như vậy trung bình mỗi năm đã điều tra khám phá được

77 vụ với 122,2 đối tượng. Cụ thể trong năm 2014 đã điều tra, khám phá 69

vụ, bắt 124 đối tượng; năm 2015 điều tra khám phá được 71 vụ, bắt 106 đối

tượng; năm 2016 điều tra khám phá 93 vụ bắt 129 đối tượng; năm 2017 điều tra

khám phá 73 vụ bắt 95 đối tượng; năm 2018 điều tra khám phá 79 vụ bắt 107

đối tượng. Có thể thấy tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam đang diễn biến

rất phức tạp có chiều hướng gia tăng qua từng năm.

Tính đến thời điểm hiện tại tại 18 huyện, thành phố, thị xã ở tỉnh Quảng

Nam có khoảng trên 30 tuyến, địa bàn và tụ điểm phức tạp về ma túy. Ví dụ

như địa bàn huyện Phước Sơn có địa hình đồi núi và nhiều đèo dốc lại giáp với

tỉnh Kom Tum của Tây Nguyên, là nơi khai thác vàng từ nhiều năm nên gây

khó khăn cho công tác trinh sát, việc bắt các đối tượng mua bán ma túy. Mặt

khác do trong công tác điều tra truy xét mở rộng vụ án của công an một số

quận, huyện chưa đạt hiệu quả cao mà chủ yếu là bắt theo vụ việc nên chưa

triệt để xóa nguồn cung cấp ma túy. Các huyện Nam Trà My không còn địa

bàn, tụ điểm phức tạp, nhưng ở các thành phố, thị xã, huyện khác hầu như vẫn

tồn tại từ 1 đến 2 địa bàn, tụ điểm phức tạp về tội phạm ma túy.

Ngoài ra, trong 05 năm qua, chúng tôi thấy trong tổng số các tội phạm về

ma túy bị phát hiện thì tội phạm mua bán trái phép chất ma túy luôn chiếm tỷ

lệ cao trong tổng số các vụ phạm tội về ma túy. Năm 2014 chiếm 56.86%

trong tổng số vụ án, đến năm 2015 chiếm tỷ lệ 61.9% trong tổng số vụ, năm

2

2016 chiếm 78,49% tổng số vụ, năm 2017 chiếm 80.28% tổng số vụ, năm

2018 chiếm 94,93% tổng số vụ. Nhìn chung, số vụ mua bán trái phép chất ma

túy luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vụ phạm tội về ma túy (chiếm 72,30%

tổng số các vụ phạm tội về ma túy từ năm 2011 đến năm 2015). Đối tượng

phạm tội mua bán trái phép chất ma túy trong cơ cấu các đối tượng phạm tội

về ma túy có sự thay đổi theo từng năm, Cụ thể như: Năm 2014 chiếm

56.86% đối tượng phạm tội, đến năm 2015 chiếm tỷ lệ 61.9% , năm 2016

chiếm 78,49% , đến năm 2017 chiếm 80.28% , năm 2018 chiếm 94,93%

trong tổng số đối tượng phạm tội.(Cần có trích dẫn nguồn)

Nhìn chung so với các địa bàn như Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội, Nghệ An

hay Đà Nẵng thì tệ nan Ma túy tại Quảng Nam chiếm tỉ lệ nhỏ. Tuy nhiên,

trước sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội và sự tác động mạnh

mẽ của nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng của thời đại 4.0 thì tệ nạn ma túy

tại Quảng Nam ngày đang phát triển phức tạp. Trước thực trạng đó, công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Nam cần phải được

nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu nhằm đưa ra những giải pháp

nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới. Từ những lý do trên, học

viên chọn vấn đề: “Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam” để làm

đề tài luận văn thạc sĩ mang tính cấp thiết.

2. Tình hình nghiên cứu luận văn

Qua nghiên cứu, học viên thấy rằng có một số công trình khoa học liên

quan đến đề tài luận văn, điển hình là:

- Nguyễn Thanh Bình, (2010), Lấy lời khai người làm chứng trong điều

tra các vụ án ma túy của cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận 3, Thành

phố Hồ Chí Minh, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân,

Thành phố Hồ Chí Minh;

3

Đỗ Thành Trường, Cơ cấu tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Điện

Biên, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Số 8/2016, tr. 62 – 64;

Đinh Trọng Liên “Tội phạm về ma túy tại các khu nhà trọ tại tỉnh Đồng

Nai: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” Luận án tiến sĩ Luật

học, bảo vệ tại Học viện Khoa học xã hội, năm 2017;

Trần Bảo Sang, Những thông số về lượng của tình hình tội tàng trữ, vận

chuyển, mua bán trái phép chất ma túy tại Nam Bộ, Tạp chí Nguồn nhân lực,

Học viện Khoa học Xã hội, số tháng 9/2017.

Đỗ Thành Trường, Cơ cấu tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Điện

Biên, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Số 8/2016, tr. 62 – 64;

Nguyễn Thị Thu Thảo, Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự Việt

Nam và thực tiễn xét xử tại tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2000-2010, Luận văn

thạc sỹ bảo vệ tại Khoa Luật ĐH Quốc gia, năm 2014;

Phan Hoài Phương, Một số giải pháp phòng ngừa người chưa thành niên

phạm tội về ma túy tại thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát. Số 23/2012, tr. 41 - 43, 64;

Lê Quang Tiến, Thực trạng và giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm

và tệ nạn về ma túy ở Đắc Lắc, Tạp chí Kiểm sát. Số 15/2014, tr. 20 - 22, 42.

Hoàng Thị Hoài Phương, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại thành phố

Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại trường Đại học Luật Hà Nội, 2014;

Ngô Thị Lan Hương, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng

Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014;

Nông Thiện Doanh, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Cao Bằng,

Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014;

Hoàng Thị Ngọc Loan, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Điện

Biên, Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014;

Vũ Minh Phương, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Hải Dương,

Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014;

4

Nguyễn Bá Hoàng, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Nghệ

An, Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014;

Phạm Ngọc Cao, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Thanh

Hóa, Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014;

Nguyễn Thị Phượng, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng

Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013;

Cầm Xuân Thủy, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Sơn La,

Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011;

Nguyễn Thái Bình, Phòng ngừa các tội phạm về ma túy tại tỉnh Thái

Nguyên, Luận văn thạc sĩ luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012;

Đánh giá chung, về mặt lý luận cũng như tình hình, nguyên nhân, điều

kiện và những giải pháp để phòng ngừa tội phạm về Ma túy tại các địa

phương thì các công trình nghiên cứu, luận văn trên đã góp phần làm sáng tỏ

phần nào đấy. Tại tỉnh Quảng Nam cho đến nay vẫn chưa có công trình nào

nghiên cứu chuyên sâu về tình hình tội phạm về Ma túy từ năm 2014 đến năm

2018. Vì vậy, đề tài luận văn đảm bảo tính mới, không trùng lặp với các công

trình khoa học đã được nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nền tảng lý luận về tình hình tội phạm và từ số liệu thống kê

cũng như các bản án xét xử về các tội phạm về ma túy, luận văn hướng đến

mục đích làm rõ thực tiễn tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam,

từ đó luận văn làm rõ một số vấn đề đặt ra trong phòng ngừa tội phạm về ma

túy tại tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đảm bảo hoàn thành tốt các mục đích trên, luận văn cần phải tiến

hành thực hiện các nhiệm vụ quan trọng sau:

5

- Những vấn đề lý luận chung về tình hình tội phạm về ma túy cần phải

nghiêm túc nghiên cứu làm rõ

- Nghiên cứu làm rõ thực tiễn tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh

Quảng Nam

- Từ kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm về ma túy, luận văn làm rõ một

số vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn

tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam và những giải pháp được đặt

ra trong phòng ngừa tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu lý luận và

thực tiễn tình hình tội phạm về ma túy. Đề tài không nghiên cứu nguyên nhân

và điều kiện của tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam cũng

không đi sâu nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh

Quảng Nam. Tuy nhiên, từ kết quả nghiên cứu về tình hình tội phạm về ma

túy tại tỉnh Quảng Nam, đề tài sẽ làm rõ một số vấn đề đặt ra trong phòng

ngừa tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam.

- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018 (05 năm)

- Phạm vi về địa bàn: Tại tỉnh Quảng Nam

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể

5.1. Phương pháp luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa

Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước; các văn bản pháp luật liên quan đến tình hình

tội phạm về ma túy.

6

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập các tài liệu có liên quan đến

tình hình tội phạm về ma túy

- Phương pháp thống kê: Xây dựng hệ thống biểu mẫu theo những tiêu

chí nhất định, phù hợp với yêu cầu của luận văn để thu thập số liệu từ nhiều

nguồn khác nhau về tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam

- Phương pháp tổng kết, báo cáo kinh nghiệm thực tiễn: Thông qua

các tập hợp các báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng kết về tình hình tội phạm

về ma túy tại tỉnh Quảng Nam

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu

thập được về tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam để tiến hành

phân loại, phân tích, đánh giá và sắp xếp hệ thống, phục vụ làm rõ các yêu

cầu đặt ra.

- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tiến hành nghiên cứu điển hình

nhằm làm rõ hơn về tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn hoàn thành sẽ góp phần bổ sung thêm những vấn đề lý luận,

thực tiễn về tình hình tội phạm về ma túy nói chung và tình hình tội phạm về

ma túy tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Những giải pháp được đề xuất trong luận văn góp phần nâng cao hiệu

công tác phòng, chống tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam

- Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu

nghiên cứu, tham khảo trong hoạt động giảng dạy, học tập tại các trường

Cảnh sát nhân dân.

7. Cấu trúc của luận văn

7

Nội dung luận văn được cấu trúc thành 03 chương chính bên cạnh các

phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ma túy

Chương 2. Thực trạng tình hình tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Nam

Chương 3. Tình hình tội phạm ma túy và những vấn đề đặt ra trong phòng

ngừa tình hình tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Nam

8

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

VỀ MA TÚY TẠI TỈNH QUẢNG NAM

1.1. Khái niệm của tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam

Tại Việt Nam chuyên ngành Tội phạm học đã làm rõ lý luận về tình

hình tội phạm (THTP). Theo đó, “THTP là hiện tượng tâm - sinh lý - xã hội

tiêu cực, vừa mang tính lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý hình sự

với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện thông qua tổng thể các hành vi

phạm tội đã xảy ra cùng với các chủ thể đã thực hiện các hành vi đó trong một

đơn vị thời gian và không gian nhất định”[5,tr.55 ]. Đây là khái niệm chung về

THTP, thể hiện những bản chất, quy luật vận động của hiện tượng tội phạm ở

các địa bàn khác nhau và trong những thời gian khác nhau. Mỗi địa phương có

những đặc thù riêng về các mặt của đời sống xã hội, vì thế, THTP ở Quảng Nam

phải khác THTP ở địa bàn các tỉnh khác của Việt Nam. Mặt khác, tình hình tội

phạm của một tội trong mối quan hệ với tình hình tội phạm nói chung chính là

mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Tình hình tội phạm nói chung được

hình thành từ tình hình tội phạm của từng tội, nhóm tội cụ thể. Từ sự phân tích

trên, có thể đưa ra định nghĩa như sau:

THTP về ma túy tại tỉnh Quảng Nam là hiện tượng tâm - sinh lý - xã hội

tiêu cực, vừa mang tính lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa mang tính pháp lý hình sự

với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện thông qua tổng thể các hành vi

phạm các tội phạm về ma túy đã xảy ra cùng với các chủ thể đã thực hiện các

hành vi phạm tội đó tại tỉnh Quảng Nam trong một khoảng thời gian xác định

(từ năm 2014 đến năm 2018).

9

1.2. Phần hiện và phần ẩn của tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh

Quảng Nam

THTP về ma túy tại tỉnh Quảng Nam là một hiện tượng xã hội tiêu cực,

vốn tồn tại khách quan, song khả năng nhận thức của con người là có giới hạn, tức

là sẽ có một lượng tội phạm nhất định, tuy đã xảy ra, nhưng lại không được phát

hiện và xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành và do đó không có trong

thống kê thường xuyên về tội phạm. Vì thế, ở mọi thời điểm của nhận thức, THTP

về ma túy tại tỉnh Quảng Nam luôn có hai phần: Phần hiện và Phần ẩn [23].

1.2.1. Phần hiện của THTP về ma túy tại tỉnh Quảng Nam

Phần hiện của THTP về ma túy là toàn bộ những hành vi phạm tội về

ma túy cùng với chủ thể thực hiện những hành vi đó tại tỉnh Quảng Nam đã bị

xử lý theo quy định của luật hình sự trong một khoảng thời gian nhất định,

(được tính từ năm 2014 đến năm 2018) và có trong thống kê hình sự của cơ

quan có thẩm quyền ở Quảng Nam.

Cơ quan Công an tỉnh Quảng Nam (Báo cáo công tác hằng năm của

Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy) thống kê số liệu về tin báo, tố

giác tội phạm, số liệu các vụ án về ma túy được phát hiện và số người liên

quan đến các vụ án đó, số vụ khởi tố và số bị cáo...; Viện kiểm sát nhân dân

các cấp của tỉnh Quảng Nam tiến hành báo cáo, thống kê những vụ án đã

được khởi tố để tiến hành điều tra cũng như đề nghị truy tố trước Tòa án. Tòa

án nhân dân các cấp của tỉnh Quảng Nam tiến hành thống kê số liệu về số vụ

án và người phạm tội đã được thụ lí cũng như các vụ án, bị cáo đã đưa ra xét

xử tại các phiên tòa.

Những số liệu thống kê của các cơ quan nói trên đều phản ánh về phần

hiện của THTP tại tỉnh Quảng Nam và trên thực tế thì các công trình nghiên

cứu về tội phạm học đã được tiến hành tại tỉnh Quảng Nam cho tới nay, mỗi

công trình lại sử dụng nguồn số liệu minh họa THTP khác nhau. Cho nên,

10

việc lựa chọn, sử dụng các nguồn tài liệu, số liệu phản ánh phải đảm bảo các

yêu cầu về cơ sở pháp lý, tính hệ thống, tính đại diện và tính nhất quán. Để

thể hiện rõ nét được THTP về ma túy tại tỉnh Quảng Nam thì phần hiện của

THTP tại tỉnh Quảng Nam được xác định qua các số liệu sau:

Thứ nhất, số tội phạm/ người phạm tội đã bị phát hiện (chủ yếu do Cơ

quan Công an thống kê);

Thứ hai, số tội phạm /người phạm tội đã qua xét xử (chủ yếu do cơ

quan Tòa án thống kê).

Mặt khác, vì nhiều lý do khác nhau mà các thông số trên đều có sự sai

số nhất định. Do đó, những số liệu nào ít sai số nhất phản ảnh về THTP và

phần hiện của THTP tại tỉnh Quảng Nam rõ nét nhất là những số liệu thống kê

về số lượng người phạm tội và những hành vi phạm tội đã bị Tòa án xét xử.

Cho nên, để phát họa tổng quan phần hiện của THTP tại tỉnh Quảng Nam

chúng ta cần sử dụng nguồn số liệu thống nhất do Tòa án nhân tỉnh Quảng

Nam cung cấp, dù có những sơ suất nhất định nhưng những số liệu này ít sai

lệch và phù hợp nhất.

Với những chất liệu trên, phần hiện của THTP tại tỉnh Quảng Nam

được thể hiện qua các thông số là thực trạng (mức độ), động thái (diễn biến),

cơ cấu và tính chất của THTP tại tỉnh Quảng Nam.

1.2.1.1. Mức độ của THTP tại tỉnh Quảng Nam

Có thể hiểu mức độ (thực trạng) tinh hình tội phạm tại tỉnh Quảng Nam

là số lượng các tội phạm đã được thực hiện và những người đã thực hiện các

tội phạm đó tại Quảng Nam trong một khung thời gian nhất định. Khi nghiên

cứu, đánh giá số lượng các tội phạm đã được thực hiện thì cần phải nghiên

cứu tất cả các số lượng sau: (1) số lượng các tội phạm và những người phạm

tội đã bị tòa án xét xử và tuyên bản án buộc tội có hiệu lực pháp luật; (2) số

lượng các vụ án hình sự bị đình chỉ điều tra, truy tố vì không chứng minh

11

được hành vi phạm tội của các bị can trong các tội phạm đã được thực hiện;

(3) các tội phạm đã xảy ra nhưng không có số liệu thống kê về số lượng tội

phạm không được phát hiện (các tội ẩn); (4) hệ số của tình hình tội phạm về

ma túy; (5) mức đội của tình hình tội phạm.

1.2.1.2. Động thái (diễn biến) của THTP tại tỉnh Quảng Nam

Động thái (diễn biến) của THTP là sự vận động và thay đổi của thực

trạng và cơ cấu THTP trong một khoảng thời gian nhất định[42,tr.64]. Theo

đó, nghiên cứu động thái của THTP tại tỉnh Quảng Nam cho chúng ta thấy sự

thay đổi tăng lên hay giảm đi của các thông số của THTP (số lượng tội phạm,

người phạm tội, cơ cấu, tính chất...) trong các năm, giai đoạn khác nhau.

Để đưa ra được những đánh giá về diễn biến của THTP tại tỉnh Quảng

Nam cần phải xem xét sự thay đổi, vận động của mức độ và cơ cấu của THTP

trong khoảng thời gian nhất định (05 năm, từ năm 2014 đến năm 2018) thông

qua việc nghiên cứu, so sánh số liệu về tổng số vụ phạm tội, số lượng người

phạm tội trong tổ chức tội phạm đó của các năm sau đối chiếu với các số liệu

tương ứng của năm đầu (làm gốc so sánh) để thấy được xu hướng vận động

tăng, giảm cũng như phát hiện các yếu tố tác động đến sự vận động đó trong

các năm khác nhau trong một giai đoạn nghiên cứu.

1.2.1.3. Cơ cấu của THTP tại tỉnh Quảng Nam

Để đưa ra những đặc điểm định tính tiêu biểu của THTP phải nghiên

cứu cụ thể cơ cấu của THTP. Vậy cơ cấu của THTP chính là tỷ trọng và mối

tương quan của các loại tội phạm khác nhau trong số lượng chung của chúng

tại tỉnh Quảng Nam trong một thời gian nhất định. Dựa vào mục đích của

nghiên cứu mà ta phân chia thành các cơ cấu THTP khác nhau, thông thường

xét trên những cơ cấu cụ thể:

a) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo phân loại tội phạm

12

Tại Điều 9, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, quy định việc

phân loại tội phạm thành 04 loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm

trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Việc xác định tỷ trọng giữa từng loại tội phạm đó với tổng số tội phạm đã

xảy ra trong thực tế chính là cơ cấu theo phân loại tội phạm. Đồng thời cũng cần

đánh giá tỷ trọng số người phạm tội đó với tổng số người phạm tội nói chung.

b ) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo các chương (nhóm) của BLHS

Tỷ trọng giữa các tội của từng chương (được quy định trong BLHS) các

tội phạm đã xảy ra tại tỉnh Quảng Nam theo các chương với tổng số tội phạm

đã xảy ra. Cho nên, để xác định Cơ cấu theo các chương (nhóm) của BLHS

chúng ta cần lấy tổng số tội phạm đã xảy ra trên địa bàn tỉnh trong một

khoảng thời gian (từ năm 2014 đến năm 2018) làm mốc so sánh (100%) thì

các tội phạm đã xảy ra theo các chương chiếm tỷ lệ bao nhiêu % trong tổng số

tội phạm đã xảy ra.

Nghiên cứu cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo chương giúp chúng

ta có cái nhìn tổng quan, xác định được nhóm tội phạm nào hay xảy ra, qua đó

có sự điều chỉnh lực lượng và biện pháp tập trung tác động phòng ngừa và

đấu tranh.

c) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo tội danh cụ thể được quy

định trong BLHS

Khi tìm hiểu, đánh giá về một nhóm tội nào đó, được tính bằng tỷ trọng

giữa tội tội danh cụ thể đã xảy ra với tổng tội phạm đã xảy ra của một nhóm tội

tại tỉnh Quảng Nam trong một thời gian nhất định thông qua việc xác định theo

cơ cấu từng tội danh cụ thể để biết được giá tỷ trọng của từng loại tội phạm cụ

thể nào chiếm số đông, xảy ra mang tính chu kỳ, lặp đi lặp lại với tần suất cao.

Từ đó, giúp các cơ quan chức năng tiến hành tổ chức tiến hành các hoạt động

13

nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân cũng như sử dụng các biện pháp đấu tranh

phòng ngừa tội phạm hiệu quả.

d ) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo hình thức phạm tội

Cơ cấu này cho chúng ta thấy tỷ lệ phần trăm của từng hình thức phạm

tội đó chiếm bao nhiêu trong tổng số tội phạm đã xảy ra trong khoản thời gian

nghiên cứu. Vì tội phạm xảy ra có thể do một đối tượng thực hiện nhưng cũng

có thể do nhiều người cùng thực hiện dưới các dạng đồng phạm có vai trò

khác nhau, hay tội phạm có đường dây, hình thành tổ chức tội phạm. Đây là

loại cơ cấu có ý nghĩa trong việc xác định tính chất của THTP, đặc biệt với

chỉ số phần trăm của tội phạm có đường dây, được tổ chức chặt chẽ.

e ) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo địa bàn phạm tội

Việc xác định cơ cấu này, giúp chúng ta xác định được nguyên nhân,

điều kiện phát sinh, phát triển của THTP gắn với từng địa bàn cụ thể trong

khoản thời gian nghiên cứu. Trên cơ sở đánh giá được mức độ ảnh hưởng của

các điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội cũng như các yếu tố tác động

khác đến THTP tại tỉnh Quảng Nam, chúng ta thường sử dụng loại cơ cấu

theo địa giới hành chính từ cấp huyện, thành phố của tỉnh Quảng Nam để thấy

được cơ cấu tội phạm theo địa bàn cụ thể. Từ đó tiến hành điều chỉnh lực

lượng chuyên trách cũng như triển khai áp dụng các biện pháp tác động thích

hợp nhằm đấu tranh phòng ngừa THTP.

f ) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo hình phạt áp dụng đối với

người phạm tội

Bản án kết tội đối với người phạm tội là những chế tài hình sự nghiêm

khắc nhất được áp dụng dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi

phạm tội cũng như tầm quan trọng của khách thể bị xâm hại, gây ra hậu quả

cụ thể do hành vi phạm tội đó gây ra. Việc đánh giá cơ cấu THTP theo hình

phạt cũng là cơ sở để xác định tính chất của THTP. Đây chính là một trong

14

nhưng căn cứ hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh các chính sách về hình

sự liên quan đến công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật của các

cơ quan chức năng trong đời sống; xây dựng ý thức chấp hành, tìm hiểu pháp

luật cũng như liên quan đến công tác cải tạo, giáo dục phạm nhân trong thực

tế tại các Nhà tạm giữ, Trại tạm giam và Trại giam.

g ) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo hình thức lỗi

Cơ cấu theo hình thức lỗi thể hiện tỷ trọng giữa các tội phạm được thực

hiện do lỗi cố ý và lỗi vô ý trong tổng số tội phạm đã xảy ra. Góp phần giúp

chúng ta đánh giá, rút ra được tính chất nguy hiểm của THTP tại tỉnh Quảng

Nam trong giai đoạn nghiên cứu.

h) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo đặc điểm nhân thân của người

phạm tội (gồm tuổi, giới tính, học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, tôn giáo,

dân tộc, quốc tịch….)

Các đặc điểm nhân thân của người như giới tính, dân tộc, độ tuổi, nghề

nghiệp, trình độ học vấn... là căn cứ để xác định các hình thức lỗi, động cơ,

mục đích khi phạm tội. Điều này mang ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem

xét, đánh giá, tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện của THTP, là cơ sở để tiến

hành xây dựng, áp dụng có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát xã

hội và đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm khác nhau. Để xác định cơ cấu

của THTP đối với chuyên ngành tội phạm hoc, nhất thiết chúng ta phải nghiên

cứu tất cả các đặc điểm nhân thân như: giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, trình

độ văn hóa.

i ) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo động cơ phạm tội

Có thể nói động cơ phạm tội chính là cái nội tại bên trong thôi thúc, là

động lực để thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội như động cơ

phạm tội vì vụ lợi cá nhân, hay tư thù cá nhân, hoặc ganh ghét, độ kỵ không

muốn người khác hơn mình, cũng như ghen tuông tình ái mù quáng.... Khi

15

nghiên cứu cơ cấu THTP theo động cơ phạm tội góp phần giúp chúng ta đánh

giá được phần nào bức tranh đời sống xã hội thực, những ảnh hưởng tiêu cực

trong đời sống tác động đến THTP để tiến hành nghiên cứu các biện pháp tác

động phù hợp nhằm điều chỉnh theo hướng tích cực.

k ) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo đặc điểm công cụ, phương

tiện và thời gian phạm tội

Đối với từng loại tội phạm cụ thể nào đó thì luôn có những đặc trưng

riêng gắn với phương thức, thủ đoạn cùng với công cụ, phương tiện và thời

gian phạm tội cụ thể khác nhau. Việc tìm hiểu chúng giúp ta nắm bắt được

quy luật hoạt động của từng loại tội nào đó phục vụ cho công tác phòng ngừa,

đấu tranh và ngăn chặn một cách hiệu quả nhất.

l) Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam theo mối quan hệ của nạn nhân

với người phạm tội

Cơ cấu này thể hiện tội phạm hình thành thông thường xuất phát từ mối

quan hệ quen biết giữa nạn nhân và người phạm tội, lợi dụng các mối quan hệ

quen biết để thực hiện hành vi phạm tội, đặc biệt như các nhóm tội xâm phạm

tình dục, hay xâm hại tài sản. Việc nghiên cứu cơ cấu THTP theo nhóm này

giúp chúng ta nắm vững quy luật, mánh khóe đặc trưng của từng loại cụ thể,

góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra khám phá vụ án cũng như

truyên truyền, giáo dục những người nguy cơ cao có thể trở thành nạn nhân.

1.2.1.4. Tính chất của THTP tại tỉnh Quảng Nam

Tính chất của THTP tại tỉnh Quảng Nam thể hiện ở số lượng của các

tội phạm nguy hiểm gây ra cho xã hội trong cơ cấu của THTP cũng như các

đặc điểm nhân thân những người thực hiện hành vi phạm tội. Tính chất của

THTP được làm sáng tỏ thông qua việc đánh giá, nghiên cứu, tìm hiểu các cơ

cấu cụ thể của nó. Tính chất của THTP được thể hiện cụ thể thông qua một số

nội dung cơ bản như sau:

16

Theo đó, tính chất của THTP tại tỉnh Quảng Nam là một đặc điểm định

tính, phản ánh mức độ nguy hiểm của THTP tại tỉnh.

Thông qua mức độ của THTP chúng ta đánh giá sự tăng, giảm cũng

như dự kiến xu hướng vận động.

Thông qua cơ cấu, diễn biến của THTP chúng ta đánh giá được tỉ lệ, sự

biến đổi, chiều hướng vận động theo hướng tăng cao hay giảm thấp, phức tạp

hay đơn giản, quy luật hay bộc phát. Như vậy, tính chất của THTP là kết quả

của sự đánh giá mức độ, cơ cấu cũng như diễn biến nó.

1.2.2. Phần ẩn của THTP tại tỉnh Quảng Nam

Nếu tổng thể các tội phạm cùng các chủ thể của các tội phạm đã bị xử

lý theo pháp luật hình tạo nên phần hiện của THTP tại tỉnh Quảng Nam, thì

những tội phạm đã xảy ra trong thực tế, nhưng cơ quan chức năng của tỉnh

không biết, không có thông tin về chúng hoặc đã có thông tin, song lại không

đủ căn cứ để xử lý hình sự hoặc đã xử lý theo đúng quy định của pháp luật

hình sự, mà quy định về thống kê còn khiếm khuyết, sơ hở, tạo thành một bộ

phận khác của THTP gọi là phần ẩn của THTP. Nói cách khác, “phần ẩn của

THTP là tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra trong thực tế, song không

được phát hiện, không được xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc

không có trong thống kê” [5, tr.99].

Phần ẩn của THTP có tác động đặc biệt tiêu cực đến tình hình an ninh

trật tự và các vấn đề khác của địa phương. Vì thể, nó phải được xem xét, đánh

giá, nghiên cứu, làm rõ một cách nghiêm túc.

1.2.2.1. Phân loại tội phạm ẩn

Để đánh giá, phân loại tội phạm ẩn cần dựa vào việc nghiên cứu, đánh

giá thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tại tỉnh Quảng Nam

trong những năm qua. Thông thường tội phạm ẩn được phân thành các loại

như sau:

17

Thứ nhất, tội phạm ẩn khách quan là những tội phạm đã xảy ra trong

thực tế song các cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật của tỉnh không có

thông tin về chúng hoặc chưa phát hiện hành vi phạm tội cùng chủ thể của nó

nên loại tội phạm này không được thống kê. Đây loại tội phạm ẩn chủ yếu của

THTP.

Thứ hai, tội phạm ẩn chủ quan là những tội phạm trong thực tế đã xảy

ra và các cơ quan pháp luật của đã nắm được thông tin, nhưng vì nhiều lý do

khác nhau mà tội phạm đó không được xử lý theo quy định của pháp luật. Tội

phạm ẩn chủ quan này có thể xuất hiện ở bất cứ giai đoạn tố tụng hình sự nào

từ việc tiếp nhận tin báo tội phạm, tố giác tội phạm, khởi tố vụ án đến quá

trình điều tra, truy tố, xét xử.

Thứ ba, tội phạm ẩn thống kê là những hành vi đã xảy ra hành vi phạm

tội và bị đã được xử lý theo pháp luật hình sự, tuy nhiên vì một lý do nào đó

mà trong quá trình thống kê hình sự chưa thống kê được.Tội phạm ẩn thống

kê thường xuất hiện trong các trường hợp một bị cáo phạm nhiều tội danh

khác nhau.

18

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1 tác giả đã nêu được một số vấn đề lý luận về tình hình

tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam.

Thứ nhất, khái niệm về tình hình tội phạm ma túy.

Sơ lược một số vấn đề lý luận cơ bản về tình hình tội phạm ma túy tại

địa bàn tỉnh Quảng Nam như:

- Phần hiện của THTP về ma túy tại tỉnh Quảng Nam;

- Động thái (diễn biến) của THTP tại tỉnh Quảng Nam;

- Cơ cấu THTP tại tỉnh Quảng Nam;

- Tính chất của THTP tại tỉnh Quảng Nam

Thứ hai, Phần ẩn của THTP tại tỉnh Quảng Nam

- Đánh về tội phạm ẩn.

- Phân loại tội phạm ẩn.

19

Chương 2

THỰC TIỄN TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TẠI TỈNH

QUẢNG NAM

2.1. Thực tiễn tình hình tội phạm rõ của tội pham ma túy

2.1.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội phạm ma túy

Trong những năm qua, tỉnh ủy và UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành

nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Đề án xây dựng nếp sống văn minh đô thị, phòng

chống tội phạm và tệ nạn xã hội như: Thực hiện Quyết định số 424/QĐ-

TTg ngày 07/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình

phòng, chống ma túy đến năm 2020, UBND tỉnh xây dựng kế hoạch số

2881/KH-UBND ngày 9 tháng 6 năm 2017 của Chủ tịch Ủy Ban nhân dân

tỉnh về việc “Thực hiện chương trình phòng, chống ma túy đến năm 2020”.

Tuy nhiên, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn tỉnh vẫn còn diễn

biến phức tạp, tình trạng sử dụng trái phép chất ma túy và số người nghiện ma

túy có chiều hướng gia tăng (đặc biệt trong nhóm tuổi thanh thiếu niên số

người nghiện dưới 35 tuổi chiếm 72,3% tổng số người nghiện), số xã,

phường, thị trấn có tệ nạn ma túy chiếm hơn 65% số xã, phường, thị trấn trên

địa bàn tỉnh; công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy tại một số địa

phương còn nhiều hạn chế; các chỉ tiêu về phòng ngừa tội phạm, tệ nạn ma

túy chưa đảm bảo yêu cầu đặt ra qua từng năm...

Năm 2014 số đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

trấn là 114 đối tượng; số đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 118

đối tượng; xử phạt hành chính liên quan đến sử dụng trái phép chất ma túy

121 vụ, với 279 đối tượng, thu nộp ngân sách nhà nước 220.525.000 VNĐ.

[Xem Bảng 2.2 - Phụ lục] và [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Năm 2015 số đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

20

trấn là 129 đối tượng; số đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 141

đối tượng; xử phạt hành chính liên quan đến sử dụng trái phép chất ma túy

174 vụ, với 375 đối tượng, thu nộp ngân sách nhà nước 253.200.000 VNĐ.

[Xem Bảng 2.2 - Phụ lục] và [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Năm 2016 số đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

trấn là 144 đối tượng; số đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 162

đối tượng; xử phạt hành chính liên quan đến sử dụng trái phép chất ma túy

215 vụ, với 423 đối tượng, thu nộp ngân sách nhà nước 276.200.000 VNĐ.

[Xem Bảng 2.2 - Phụ lục] và [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Năm 2017 số đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

trấn là 159 đối tượng; số đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 180

đối tượng; xử phạt hành chính liên quan đến sử dụng trái phép chất ma túy

228 vụ, với 531 đối tượng, thu nộp ngân sách nhà nước 363.800.000 VNĐ.

[Xem Bảng 2.2 - Phụ lục] và [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Năm 2018 số đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị

trấn là 173 đối tượng; số đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 201

đối tượng; xử phạt hành chính liên quan đến sử dụng trái phép chất ma túy

264 vụ, với 675 đối tượng, thu nộp ngân sách nhà nước 584.025.000 VNĐ.

[Xem Bảng 2.2 - Phụ lục] và [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Có thể thấy tình trạng người nghiện ma túy được áp dụng biện pháp

giáo dục tại xã, phường, thị trấn và số đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc tăng liên tục từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Số xã, phường, thị trấn có tệ nạn ma túy chiếm hơn 65% số xã, phường, thị

trấn trên địa bàn tỉnh. Trong các năm từ năm 2014 đến năm 2018, số đối

tượng bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tăng

qua từng năm, tăng về cả số vụ và số đối tượng tham gia. Có thể khẳng định,

tình hình người nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn nhiều, tỷ lệ

21

đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiên bắt buộc

còn cao, số người nghiện mới liên tục gia tăng, loại ma túy sử dụng chủ yếu là

ma túy dạng tổng hợp.

Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến

năm 2018 thì số vụ án ma túy bị xét xử so với số vụ án hình sự nói chung bị

Tò án nhân dân tỉnh xét xử thì tội phạm về ma túy có xu hướng gia tăng, trong

tình hình tội phạm nói chung tại Quảng Nam. [Xem Bảng 2.7 - Phụ lục]

Cụ thể:

Năm 2014 tội phạm ma túy chiếm 77/810 vụ, tỉ lệ 9,5%;số bị cáo

chiếm 110/1357 bị can, tỉ lệ 8,1%.

Năm 2015 tội phạm về ma túy chiếm 67/740 vụ, tỉ lệ 9,05%; số bị cáo

là 86/1232, tỉ lệ 6,99%.

Năm 2016 tội phạm về ma túy chiếm 86/750 vụ, tỉ lệ 11,45%; số bị cáo

là 120/1225, tỉ lệ 9,79%.

Năm 2017 tội phạm về ma túy chiếm 91/717 vụ, tỉ lệ 12,69%; số bị cáo

là 127/1164, tỉ lệ 10,09%.

Năm 2018 tội phạm về ma túy chiếm 97/768 vụ, tỉ lệ 12,63%; số bị cáo

là 133/1232, tỉ lệ 10,81%.

Nhìn chung trong giai đoạn tội phạm ma túy chiếm 11,04% số vụ và

9,28% số bị can trong tổng thể tội phạm trong địa bàn tỉnh bị Tòa án nhân dân

xét xử. Như vậy có thể thấy, so với tổng số tội phạm nói chung, các tội phạm

về ma túy chiếm một số lượng đáng kể.

So với hai địa bàn lân cận là Đà Nẵng và Quảng Ngãi thì tình hình tội

phạm về ma túy tại Quảng Nam như sau:

Theo thống kê của Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về Ma túy – Bộ

Công an thì số vụ và số bị can bị truy cứu các tội về ma túy trên địa bàn tỉnh

Quảng Nam, tỉnh Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng. Cụ thể: trong 05 năm

22

qua tổng số vụ án của tỉnh Quảng Ngãi là 460 vụ với 483 bị can, tính trong

tổng số 100.000 dân thì Quảng Ngãi có gần 40 người phạm tội về ma túy; tại

Quảng Nam là 491 vụ với 685 bị can, tính trong tổng số 100.000 dân thì

Quảng Nam có 44 người phạm tội về ma túy; còn tại thành phố Đà Nẵng là

673 vụ với 960 bị can, tính trong tổng số 100.000 dân thì Tp. Đà Nẵng có 85

người phạm tội về ma túy. Như vậy xét về cơ số tội phạm tính trên 100.000

dân thì số lượng tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam nhiều hơn tỉnh

Quảng Ngãi nnhwng lại thấp hơn Tp. Đà Nẵng. [Xem Bảng 2.6 - Phụ lục]

Như vậy có thể thấy tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam

luôn cao hơn tỉnh Quảng Ngãi như thấp hơn Đà Năng. Điều này có thể lý giải

rằng do Đà Nẵng là thành phố nên đời sống kinh tế xã hội cao, thành phần

dân cư phức tạp lại có cảng biển lớn, cảng hàng không quốc tế nên nhiều loại

tội phạm thường xuyên tập trung hoạt động, nhiều nhà hàng quán bar là nơi

dẽ nảy sinh các điều kiện cho tội phạm ma túy phát triển. Tội phạm về ma túy

của tỉnh Quảng Nam nhiều hơn tỉnh Quảng Ngãi một phần cũng là do tội

phạm ma túy tại Quảng Nam một phần chiệu ảnh hưởng, chi phối, liên quan

về tội phạm ma túy của Đà Nẵng. Trong thời gian đến các cơ quan chức năng

của Thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi cần phối hợp chặt chẽ

hơn nữa trong phòng ngừa đấu tranh với tội phạm về ma túy.

2.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm ma túy

Từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam lực lượng

chức năng phát hiện, bắt giữ 509 vụ, với 706 đối tượng; trong đó số vụ đã

được khởi tố 436 vụ (chiếm 85,65% số vụ phát hiện , bắt giữ ) với 607 bị can

(chiếm 85,97% số đối tượng bị bắt giữ) cụ thể như sau:

Năm 2014 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam lực lượng chức năng phát hiện,

bắt giữ 80 vụ, với 103 đối tượng, khởi tố 68 vụ (chiếm 85% số vụ phát hiện ,

bắt giữ) với 90 bị can (chiếm 87,37% số đối tượng bị bắt giữ). [Xem Bảng 2.1

23

- Phụ lục]

Năm 2015 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam lực lượng chức năng phát hiện,

bắt giữ 88 vụ, với 117 đối tượng, khởi tố 73 vụ (chiếm 82,95% số vụ phát

hiện, bắt giữ) với 95 bị can (chiếm 81,19% số đối tượng bị bắt giữ). So với

năm 2014 tăng 11% số vụ, tăng 13,5% số đối tượng và tăng 7,35% số vụ khởi

tố và 5,55% số bị can. [Xem Bảng 2.1 - Phụ lục]

Năm 2016 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam lực lượng chức năng phát hiện,

bắt giữ 100 vụ, với 149 đối tượng, khởi tố 86 vụ (chiếm 86% số vụ phát hiện,

bắt giữ) với 133 bị can (chiếm 89,26% số đối tượng bị bắt giữ). So với năm

2014 tăng 25% số vụ, 44,6% số đối tượng, tăng 26,47% số vụ khởi tố và

47,47% số bị can. [Xem Bảng 2.1 - Phụ lục]

Năm 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam lực lượng chức năng phát hiện,

bắt giữ 114 vụ, với 154 đối tượng, khởi tố 100 vụ (chiếm 87,71% số vụ phát

hiện , bắt giữ) với 137 bị can (chiếm 88,96% số đối tượng bị bắt giữ). So với

năm 2014 tăng 42,5% số vụ bắt giữ, 49,5% số đối tượng, tăng 47,05% số vụ

án bị khởi tố và 52,22% số bị can. [Xem Bảng 2.1 - Phụ lục]

Năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam lực lượng chức năng phát hiện,

bắt giữ 127 vụ, với 183 đối tượng, khởi tố 109 vụ (chiếm 85,82% số vụ phát

hiện , bắt giữ) với 152 bị can (chiếm 83,06% số đối tượng bị bắt giữ). Với

năm 2014 tăng 15,87% số vụ bắt giữ, 17,76% số đối tượng, tăng 16,02% số

vụ án bị khởi tố và 16,88% số bị can. [Xem Bảng 2.1 - Phụ lục]

Có thể thấy tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

từ năm 2014 đến năm 2018 có xu hướng tăng về số vụ và số đối tượng theo

từng năm. Tang vật thu giữ trong các vụ án từ chỗ là ma túy tự nhiên như Cần

sa và ma túy bán tổng hợp như Hêrôin thì hiện nay chủ yếu chuyển sang các

là ma túy tổng hợp như thuốc lắc (Amphetamine), hàng đá

(Methamphetamine), Khay (Ketamine) và mới hơn nữa là ma túy Cỏ Mỹ

24

(XRL11). Đây là những loại ma túy dễ sử dụng, dễ cất giấu, khi sử dụng thì

kích thích nhanh, mang lại cảm giác khoái cảm cực mạnh đồng thời kéo dài

thời gian.

2.1.3. Cơ cấu của tình hình tội phạm

2.1.3.1. Cơ cấu tình hình tội phạm ma túy theo giới tính

Tại địa bàn tỉnh Quảng Nam tội phạm ma túy xét cơ cấu về giới có sự

thay đổi theo từng năm, nhưng chiếm đa số người phạm tội là nam giới. Cụ

thể:

Năm 2014: Tổng số đối tượng bị bắt là 103 đối tượng trong đó nam

giới là 93 đối tượng chiếm 90,3% trong khi đó nữ giới chỉ có 10 đối tượng

chiếm 9,7%. Số bị can năm 2014 là 90 thì có đến 85 đối tượng nam chiếm

94% trong khi đó số bị can nữ chỉ có 05 đối tượng chiếm 5,6%. [Xem Bảng

2.2 - Phụ lục]

Năm 2015: Tổng số đối tượng bị bắt là 117 thì số đối tượng nam là 108

đối đượng chiếm 92,3% trong khi đó số tướng tượng nữ là 09 đối tượng

chiếm 7,7%. Số bị can bị là 95 trong đó có 88 bị can nam chiếm 92,6% trong

khi đó số bị can nữ chỉ chiếm 7,4% với 07 bị can. [Xem Bảng 2.2 - Phụ lục]

Năm 2016: Tổng số đối tượng bị bắt là 149 trong đó 131 nam chiếm

87,9% và số đối tượng nữ là 18 chiếm 12%. Tổng số bị can 133 bị can trong đó

có 125 nam chiếm 93,9% và 8 bị can nữ chiếm 6,1%. [Xem Bảng 2.2 - Phụ lục]

Năm 2017: Tổng số đối tượng bị bắt là 154 đối tượng trong đó nam

giới là 132 đối tượng chiếm 85.7%, số đối tượng nữ là 22 chiếm 14,3%. Tổng

số bị can là 137 bị can với 129 bị can nam chiếm 94,2% trong khi đó số bị can

nữ là 08 chiếm 5,8%. [Xem Bảng 2.2 - Phụ lục]

Năm 2018: Tổng số đối tượng bị bắt 183 đối tượng trong đó nam 154

đối tượng chiếm 84,2%, số đối tượng nữ là 29 đối tượng chiếm 15,8%. Số bị

can bị khởi tố năm 2018 là 152 bị can, trong đó bị can nam là 142 chiếm

25

93,4% trong khi đó số bị can nữ là 10 bị can chiếm 6,6%. [Xem Bảng 2.2 -

Phụ lục]

Từ năm 2014 đến 2018 tổng số đối tượng là nam giới bị bắt là 618 đối

tượng chiếm 87,5%, số đối tượng là nữ giới bị bắt 88 đối tượng chiếm tỉ lệ

12,5%; số bị can nam bị khởi tố là 569 bị can chiếm 93,7%, số bị can nữ bị

khỏi tố là 38 bị can chiếm 6,3%.[Xem Bảng 2.2 - Phụ lục]

Như vậy, nhìn chung chúng ta có thể thấy số đối tượng bị bắt cũng như

số bị can bị do cơ quan điều tra khởi tố thì nam giới chiếm tỉ lệ rất cao so với

nữ. Mặc dù chiếm tỉ lệ rất nhỏ nhưng có thể thấy số đối tượng vi phạm về ma

túy là nữ giới đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng cũng như tỉ lệ phần

trăm theo các năm từ 2014 đến 2018.

2.1.3.2. Cơ cấu theo độ tuổi

Số người phạm tội về ma túy tại Quảng Nam bị xét xử từ năm 2014 đến

2018 chủ yếu nằm ở nhóm tuổi chính đó là từ 18 đến 30 tuổi và trên 30 tuổi.

Cụ thể:

Năm 2014: Tổng số bị cáo là 110 bị cáo Nhóm tuổi dưới 18 tuổi có 04 bị

cáo bị xét xử chiếm 3,63%; nhóm từ 18 đến 30 tuổi là 46 bị cáo chiếm

41,81%; nhóm tuổi từ trên 30 là 60 bị cáo chiếm 54,54%. [Xem Bảng 2.3 -

Phụ lục]

Năm 2015: Tổng số bị cáo là 86 bị cáo Nhóm tuổi dưới 18 tuổi có 0 bị

cáo bị xét xử chiếm 0%; nhóm từ 18 đến 30 tuổi là 28 bị cáo chiếm 32,55%;

nhóm tuổi từ trên 30 là 58 bị cáo chiếm 67,44%. [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Năm 2016: Tổng số bị cáo là 120 bị cáo Nhóm tuổi dưới 18 tuổi có 01 bị

cáo bị xét xử chiếm 0,83%; nhóm từ 18 đến 30 tuổi là 26 bị cáo chiếm

21,66%; nhóm tuổi từ trên 30 là 94 bị cáo chiếm 78,33%. [Xem Bảng 2.3 -

Phụ lục]

26

Năm 2017: Tổng số bị cáo là 127 bị cáo Nhóm tuổi dưới 18 tuổi có 0 bị

cáo bị xét xử chiếm 0%; nhóm từ 18 đến 30 tuổi là 42 bị cáo chiếm 33,07%;

nhóm tuổi từ trên 30 là 85 bị cáo chiếm 66,92%. [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Năm 2018 Tổng số bị cáo là 133 bị cáo Nhóm tuổi dưới 18 tuổi có 0 bị

cáo bị xét xử chiếm 0%; nhóm từ 18 đến 30 tuổi là 51 bị cáo chiếm 38,34%;

nhóm tuổi từ trên 30 là 82 bị cáo chiếm 61,65%. [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Nhìn chung từ 2014 đến 2018 nhóm tuổi dưới 18 chiếm tỉ lệ 3,3%; nhóm

từ 18 đến 30 chiếm tỉ lệ 60,3%; nhóm từ 30 đến 45 tuổi chiếm tỉ lệ 30,3%;

nhóm từ 45 đến 60 tuổi chiếm tỉ lệ 6,5%. [Xem Bảng 2.3 - Phụ lục]

Như vậy, có thể thấy chủ yếu người phạm tội về ma túy tại đại bàn tỉnh

Quảng Nam thuộc đội tuổi trên 30. Nhưng tỉ lệ người phạm tội, bị can, bị cáo

thuộc nhóm từ 18 đến 30 cũng chiếm tỉ trọng cao (trung bình 33,5%). Điều

này cho thấy người phạm tội về ma túy tại tỉnh Quảng Nam hiện nay có xu

hướng trẻ hóa tội phạm.

2.1.3.3. Cơ cấu theo tội danh

Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến

năm 2018 đã xét xử tổng số 418 vụ án sơ thẩm về ma túy. Trong đó tất các cả

vụ án xét xử tập trung vào các tội tàng trử, vận chuyển và mua bán trái phép

các chất ma túy. Không có vụ án nào bị xét xử về các tội Tội trồng cây thuốc

phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy, Tội

sản xuất trái phép chất ma túy, Tội chiếm đoạt chất ma túy và các tội khác của

Chương 20 BLHS năm 2015. [Xem Bảng 2.5 - Phụ lục]

Như vậy, có thể thấy rằng tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam không

quá đa dạng, chủ yếu tập trung vào các tội phổ biến là Tàng trử, vận chuyển,

mua bán trái phép các chất ma túy. Điều này đặc ra cho các cơ quan chức

năng cần có biện pháp riêng để hạn chế, tiến tới loại trừ loại tội phạm này ra

khỏi đời sống xã hội.

27

2.1.3.4. Cơ cấu theo trình độ học vấn

Theo thống kê của Tào án nhân dân tỉnh Quảng Nam thì số người phạm

tội bị xét xử trong 5 năm từ 2014 đến 2018 có trình độ học vấn thấp. Không

có người phạm tội nào phạm tọi có trình độ trung cấp,cao đẳng hay đại học.

Cụ thể:

Năm 2014 số người phạm tội thất học là 32 bị can chiếm 29,09%; số

người phạm tội có trình độ cấp I là 30 người phạm tội chiếm tỉ lệ 27,27%; số

người phạm tội có trình độ học vấn cấp II là 51 chiếm tỉ lệ 46,36%; số người

phạm tội có trình độ cấp III là 07 người phạm tội chiếm tỉ lệ 6,36%. [Xem

Bảng 2.8 - Phụ lục]

Năm 2015 số người phạm tội thất học là 29 người phạm tội chiếm

33,72% so với năm 2014 giảm 2,73%; số người phạm tội có trình độ cấp I là

26 người phạm tội chiếm tỉ lệ 30,63% so với năm 2014 giảm 3,64%; số người

phạm tội có trình độ học vấn cấp II là 21 chiếm tỉ lệ 24,41% so với năm 2014

giảm 21,95%; số người phạm tội có trình độ cấp III là 10 người phạm tội

chiếm tỉ lệ 9,09% so với năm 2014 tăng 2,73%. [Xem Bảng 2.8 - Phụ lục]

Năm 2016 số người phạm tội thất học là 15 người phạm tội chiếm 12,5%

so với năm 2014 giảm 13,64%; số người phạm tội có trình độ cấp I là 37

người phạm tội chiếm tỉ lệ 30,83% so với năm 2014 tăng 3,56%; số người

phạm tội có trình độ học vấn cấp II là 63 chiếm tỉ lệ 52,5% so với năm 2014

tăng 10,91,%; số người phạm tội có trình độ cấp III là 05 người phạm tội

chiếm tỉ lệ 4,16% so với năm 2014 giảm 1,82%.[Xem Bảng 2.8 - Phụ lục]

Năm 2017 số người phạm tội thất học là 19 người phạm tội chiếm

14,96% so với năm 2014 giảm 11,82%; số người phạm tội có trình độ cấp I là

40 người phạm tội chiếm tỉ lệ 31,9% so với năm 2014 tăng 9,09%; số người

phạm tội có trình độ học vấn cấp II là 61 chiếm tỉ lệ 548,03%, so với năm

28

2014 tăng 9,09,%; số người phạm tội có trình độ cấp III là 07 bị can chiếm tỉ

lệ 5,51% so với năm 2014 không tăng, không giảm. [Xem Bảng 2.8 - Phụ lục]

Năm 2018 số người phạm tội thất học là 23 người phạm tội chiếm

17,29% so với năm 2014 giảm 1,27%; số người phạm tội có trình độ cấp I là

57 người phạm tội chiếm tỉ lệ 42,85% so với năm 2014 tăng 24,54%; số

người phạm tội có trình độ học vấn cấp II là 49 chiếm tỉ lệ 36,84% so với năm

2014 giảm 1,82,%; số người phạm tội có trình độ cấp III là 04 người phạm tội

chiếm tỉ lệ 3% so với năm 2014 giảm 2,73%.[Xem Bảng 2.8 - Phụ lục]

Như vậy, trong toàn chu kỳ chúng ta có thể thấy số người phạm tội có

các trình độ học vấn khác nhau tăng giảm không đều, tuy nhiên số người

phạm tội thất học không chiếm tỉ lệ đa số nhưng có xu hướng giảm dần. Số

người phạm tội có trình độ học vấn cấp I, II luôn chiếm tỉ lệ cao, còn số người

phạm tội có trình độ cấp III thì rất thấp không quá 7%. Điều này chứng tỏ

rằng tội phạm ma túy tại Quảng Nam có trình độ học vấn thấp.

2.1.3.5. Cơ cấu theo nghề nghiệp

Tình hình tội phạm về ma túy có cơ cấu nghề nghiệp như sau:

Năm 2014 tổng số người phạm tội 110 trong đó số người phạm tội có

nghề nghiệp là lao động phổ thông là 20 người phạm tội chiếm 18,18%; số

người phạm tội có nghề nghiệp buôn bán là 10 bị cáo chiếm 9,09%; số bị cóa

làm các ngành nghề khác là 24 người phạm tội chiếm tỉ lệ 21,81%; số người

phạm tội không có nhề nghiệp là 56 người phạm tội chiếm 50,9%. [Xem Bảng

2.9 - Phụ lục]

Năm 2015 tổng số người phạm tội 86 trong đó số người phạm tội có

nghề nghiệp là lao động phổ thông là 15 người phạm tội chiếm 17,44%; số

người phạm tội có nghề nghiệp buôn bán là 6 người phạm tội chiếm 6,97%;

số người phạm tội làm các ngành nghề khác là 20 người phạm tội chiếm tỉ lệ

29

23,25%; số người phạm tội không có nhề nghiệp là 45 người phạm tội chiếm

52,32%. [Xem Bảng 2.9 - Phụ lục]

Năm 2016 tổng số người phạm tội 120 trong đó số người phạm tội có

nghề nghiệp là lao động phổ thông là 31 người phạm tội chiếm 25,83%; số

người phạm tội có nghề nghiệp buôn bán là 7 người phạm tội chiếm 5,83%;

số người phạm tội làm các ngành nghề khác là 20 người phạm tội chiếm tỉ lệ

16,66%; số người phạm tội không có nhề nghiệp là 62 người phạm tội chiếm

51,66%. [Xem Bảng 2.9 - Phụ lục]

Năm 2017 tổng số người phạm tội 127 trong đó số người phạm tội có

nghề nghiệp là lao động phổ thông là 28 người phạm tội chiếm 22,04%; số

người phạm tội có nghề nghiệp buôn bán là 9 người phạm tội chiếm 7,08%;

số người phạm tội làm các ngành nghề khác là 21 người phạm tội chiếm tỉ lệ

17,53%; số người phạm tội không có nhề nghiệp là 69 người phạm tội chiếm

54,33%. [Xem Bảng 2.9 - Phụ lục]

Năm 2018 tổng số người phạm tội 133 trong đó số người phạm tội có

nghề nghiệp là lao động phổ thông là 35 người phạm tội chiếm 26,31%; số

người phạm tội có nghề nghiệp buôn bán là 11 người phạm tội chiếm 8,27%;

số người phạm tội làm các ngành nghề khác là 16 bị cáo chiếm tỉ lệ 12,03%;

số người phạm tội không có nhề nghiệp là 71 người phạm tội chiếm 53,38%.

[Xem Bảng 2.9 - Phụ lục]

Như vậy, qua nghiên cứu, phân tích số liệu chúng ta thấy rằng tỉ trọng

của các người phạm tội phạm tội về ma túy từ năm 2014 đến 2018 có tỉ trọng

thay đổi thường xuyên theo năm. Tuy nhiên, đa số người phạm tội phạm tội

đều không có nghề nghiệp, thiếu công ăn việc làm hoặc có thì cũng không ổn

định chiếm tỉ lệ cao. Số người phạm tội có việc làm ổn định, nghề nghiệp như

buôn bán ít phạm tội, luôn chiếm tỉ lệ dưới 8%. [Xem Bảng 2.9 - Phụ lục]

2.1.3.6. Cơ cấu theo tình trạng nghiện ma túy

30

Năm 2014 tổng số người phạm tội là 110 người phạm tội người phạm tội

về ma túy có đến 96 người phạm tội nghiện ma túy chiếm tỉ lệ 87,27%; số

người phạm tội không nghiện ma túy là 14 người phạm tội chiếm 12,72%.

[Xem Bảng 2.10 - Phụ lục]

Năm 2015 tổng số bị cáo là 86 người phạm tội về ma túy có đến 81

người phạm tội nghiện ma túy chiếm tỉ lệ 94,14%; số người phạm tội không

nghiện ma túy là 5 người phạm tội chiếm 5,81%. [Xem Bảng 2.10 - Phụ lục]

Năm 2016 tổng số người phạm tội là 120 người phạm tội về ma túy có đến

114 người phạm tội nghiện ma túy chiếm tỉ lệ 95%; số người phạm tội không

nghiện ma túy là 6 người phạm tội chiếm 5%.[Xem Bảng 2.10 - Phụ lục]

Năm 2017 tổng số người phạm tội là 127 người phạm tội về ma túy có

đến 115 bị cáo nghiện ma túy chiếm tỉ lệ 90,55%; số người phạm tội không

nghiện ma túy là 8 người phạm tội chiếm 6,26%.[Xem Bảng 2.10 - Phụ lục]

Năm 2018 tổng số người phạm tội là 133 người phạm tội về ma túy có

đến 127 người phạm tội nghiện ma túy chiếm tỉ lệ 95,48%; số người phạm tội

không nghiện ma túy là 6 người phạm tội chiếm 4,51%. [Xem Bảng 2.10 -

Phụ lục]

Trong toàn giai đoạn từ 2014 đến 2018 tình hình tội phạm ma túy chúng

ta thấy rằng đa số người phạm tội trong diện nghiện ma túy (92,49%). Số

người phạm tội không nghiên ma túy chiếm tỉ lệ nhỏ (6,86).

2.1.3.7. Cơ cấu theo điều kiện, hoàn cảnh gia đình

Năm 2014 tổng số người phạm tội là 110 người phạm tội phạm tội về ma

túy có 39 người phạm tội thuộc diện gia đình nghèo đói, kinh tế khó khăn,

chiếm tỉ lệ 35,45%; số người phạm tội người phạm tội sống trong mội trường

gia đình có người vi phạm pháp luật, có người phạm tội là 61 người phạm tội

chiếm 55,45%. [Xem Bảng 2.11 - Phụ lục]

31

Năm 2015 tổng số người phạm tội là 86 người phạm tội về ma túy có 35

người phạm tội thuộc diện gia đình nghèo đói, kinh tế khó khăn, chiếm tỉ lệ

40,69%; số người phạm tội người phạm tội sống trong mội trường gia đình có

người vi phạm pháp luật, có người phạm tội là 53 người phạm tội chiếm

61,62%. [Xem Bảng 2.11 - Phụ lục]

Năm 2016 tổng số người phạm tội là 120 người phạm tội phạm tội về ma

túy có 41 người phạm tội thuộc diện gia đình nghèo đói, kinh tế khó khăn,

chiếm tỉ lệ 34,16%; số người phạm tội người phạm tội sống trong mội trường

gia đình có người vi phạm pháp luật, có người phạm tội là 79 người phạm tội

chiếm 65,83%. [Xem Bảng 2.11 - Phụ lục]

Năm 2017 tổng số người phạm tội là 127 người phạm tội phạm tội về ma

túy có 46 người phạm tội thuộc diện gia đình nghèo đói, kinh tế khó khăn,

chiếm tỉ lệ 36,22%; số người phạm tội phạm tội sống trong mội trường gia

đình có người vi phạm pháp luật, có người phạm tội là 81 người phạm tội

chiếm 63,77%. [Xem Bảng 2.11 - Phụ lục]

Năm 2018 tổng số người phạm tội là 133 người phạm tội người phạm tội

về ma túy có 62 người phạm tội thuộc diện gia đình nghèo đói, kinh tế khó

khăn, chiếm tỉ lệ 46,61%; số người phạm tội người phạm tội sống trong mội

trường gia đình có người vi phạm pháp luật, có người phạm tội là 71 người

phạm tội chiếm 53,38%. [Xem Bảng 2.11 - Phụ lục]

Vậy ta có thể thấy số người phạm tội về ma túy có điều kiện hoàn cảnh

khó khăn, nghèo đói chiếm tỉ lệ ít hơn so với người phạm tội về ma túy sống

trong gia đình có người vi phạm pháp luật, người phạm tội (39,69%/60,31%).

2.1.4. Tính chất của tình hình tội phạm

- Tình hình TPVMT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thời gian qua có tính

chất ngày càng có những diễn biến phức tạp, nghiêm trọng. Nhìn chung trong

05 năm (từ 2014 đến 2018) tình hình tội phạm về ma túy có sự tăng giảm

32

không thất thường nhưng nhìn chung xu hướng tăng là chủ yếu. Cụ thể như

sau:

Thứ nhất, Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 trung bình mỗi năm

phát hiện, bắt giữ 101,8 vụ, tỉ lệ tăng trung bình 27,44% vụ/năm. Số đối tượng

bị bắt giữ trung bình mỗi năm là 141,2 đối tượng, tỉ lệ tăng 37,04% đối

tượng/năm. Số vụ án khởi tố trung bình một năm là 87,2 vụ, tỉ lệ tăng trung

bình 28,23% vụ/năm. Số bị can bị khởi tố trung bình một năm là 121,4 người

phạm tội /năm, tỉ lệ tăng 24,38% người phạm tội /năm. Trung bình mỗi năm

xét xử 83,6 vụ án về ma túy với 115,2 người phạm tội. Trung bình tỉ lệ tăng

hằng năm là 8,57% vụ/năm và 4,72 người phạm tội /năm.

Thứ hai, đánh giá tính chất tội phạm trên cơ sở cơ cấu giới tính thì ta

thấy rằng tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam: Từ năm 2014 đến

2018 tổng số đối tượng là nam giới bị bắt là 618 đối tượng chiếm 87,5%, số

đối tượng là nữ giới bị bắt 88 đối tượng chiếm tỉ lệ 12,5%; người phạm tội

nam bị khởi tố là 569 bị can chiếm 93,7%, số bị can nữ bị khỏi tố là 38 bị can

chiếm 6,3%.[Xem Bảng 2.2 - Phụ lục]. Như vậy, nhìn chung chúng ta có thể

thấy số đối tượng bị bắt cũng như số bị can bị do cơ quan điều tra khởi tố thì

nam giới chiếm tỉ lệ rất cao so với nữ. Mặc dù chiếm tỉ lệ rất nhỏ nhưng có

thể thấy số đối tượng vi phạm về ma túy là nữ giới đang có xu hướng gia tăng

cả về số lượng cũng như tỉ lệ phần trăm theo các năm từ 2014 đến 2018.

Thứ ba, xét trên phương diện cơ cấu nhóm tuổi thì tình hình tội phạm ma

túy tại tỉnh Quảng Nam như sau: Nhìn chung từ 2014 đến 2018 nhóm tuổi

dưới 18 chiếm tỉ lệ 3,3%; nhóm từ 18 đến 30 chiếm tỉ lệ 60,3%; nhóm từ 30

đến 45 tuổi chiếm tỉ lệ 30,3%; nhóm từ 45 đến 60 tuổi chiếm tỉ lệ 6,5%. [Xem

Bảng 2.3 - Phụ lục]. Như vậy, có thể thấy chủ yếu người phạm tội về ma túy

tại đại bàn tỉnh Quảng Nam thuộc đội tuổi trên 30. Nhưng tỉ lệ người phạm

tội, bị can, bị cáo thuộc nhóm từ 18 đến 30 cũng chiếm tỉ trọng cao (trung

33

bình 33,5%). Điều này cho thấy người phạm tội về ma túy tại tỉnh Quảng

Nam hiện nay có xu hướng trẻ hóa tội phạm.

Thứ tư, đánh giá tình hình tội phạm ma túy trên góc độ cơ cấu các tội

danh đã được Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm thì có thể thấy

rằng tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam không quá đa dạng, chủ yếu tập

trung vào các tội phổ biến là Tàng trử, vận chuyển, mua bán trái phép các chất

ma túy.

Thứ năm, Dưới gọc độ nhận thức về pháp luật dựa trên trình độ học vấn

ta thấy trong giai chúng ta có thể thấy số bị cáo có các trình độ học vấn khác

nhau tăng giảm không đều. Tuy nhiên, số bị cáo thất học không chiếm tỉ lệ đa

số nhưng có xu hướng giảm dần. Số bị cáo có trình độ học vấn cấp I, II luôn

chiếm tỉ lệ cao, còn số bị cáo có trình độ cấp III thì rất thấp không quá 7%.

Điều này chứng tỏ rằng tội phạm ma túy tại Quảng Nam có trình độ học vấn

thấp.

Thưa sáu, Qua nghiên cứu, phân tích số liệu chúng ta thấy rằng tỉ trọng

của các bị cáo phạm tội về ma túy có các nghề nghiệp khác nhau từ năm 2014

đến 2018 có tỉ trọng thay đổi thường xuyên theo năm. Tuy nhiên, đa số bị cáo

phạm tội đều không có nghề nghiệp, thiếu công ăn việc làm hoặc có thì cũng

không ổn định chiếm tỉ lệ cao. Số bị cáo có việc làm ổn định, nghề nghiệp

như buôn bán ít phạm tội, luôn chiếm tỉ lệ dưới 8%. [Xem Bảng 2.9 - Phụ

lục]. Xem xét trong giai đoạn từ 2014 đến 2018 tình hình tội phạm ma túy

chúng ta thấy rằng đa số người phạm tội trong diện nghiện ma túy (92,49%).

Số người phạm tội không nghiên ma túy chiếm tỉ lệ nhỏ (6,86).

Thứ bảy, Bên cạnh đó ta có thể thấy số người phạm tội về ma túy có điều

kiện hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói chiếm tỉ lệ ít hơn so với người phạm tội

về ma túy sống trong gia đình có người vi phạm pháp luật, người phạm tội

(39,69%/60,31%).

34

2.2. Thực tiễn tội phạm ẩn

2.2.1. Đánh giá tội phạm ẩn

Tội phạm ẩn về ma túy có vai trò hết sức nguy hiểm đối với công tác đấu

tranh phòng ngừa trong thực tiễn. Tội phạm ẩn về ma túy hay tội phạm ẩn nói

chung chúng ta có thể xem xét đánh giá nó như tảng băng trôi, chúng ta chỉ

nhìn thấy, quan sát được phần nổi chính là tội phạm rõ, còn phần ẩn chính là

bề chìm phía dưới mà chúng ta chưa nhìn thấy.

Trong thời gian qua với sự phối hợp của các cơ quan, chức năng, đoàn

thể dưới sự chủ trì của Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công

an tỉnh Quảng Nam đã tiến hành tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia,

chung tay góp sức trong công tác phòng chống tệ nạn ma túy. Qua đó, xây

dựng hàng trăm hòm thư tố giác tội phạm tại các xã, phường, thị trấn trên địa

bàn toàn tỉnh. Trong 05 năm năm từ 2014 đến 2018 lực lượng CSĐTTPVMT

đã phát hiện, bắt giữ 509 vụ với 706 đối tượng. Qua đó khởi tố 436 vụ án ma

túy với 607 bị can. Có được kết quả cao đó ngài sự chủ động, tích cực tấn

công trấn áp tội phạm, tạo ra các đợt cao điểm truy quét tệ nạn ma túy, còn có

sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân qua các nguồn tin báo tố giác tội

phạm. Trên cở qua trọng từ các nguồn tin báo tố giác tội phạm lực lượng

Cảnh sát tội phạm về ma túy đã tiến hành điều tra, xác minh làm rõ thông tin

về tội pham.

Trong 05 năm từ 2014 đến 2018 tổng công đã có 13.619 tin báo tối giác

tội phạm của các cơ quan, hội, đoàn thể và nhân dân về ma túy mà phòng

Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy và lực lượng cảnh sát ma túy các huyện

đã nhận được.

Tuy số tin báo đã nhận được là rất nhiều và đã giúp ích rất nhiều cho cơ

quan chức năng trong điều tra, khám phá tội phạm. Nhưng số vụ án được điều

tra khám phá so với tin báo tố giác tội phạm đã thu thập được khá khiêm tốn.

35

Điều này chứng minh tội phạm ẩn về ma túy tại tỉnh Quảng Nam dang tồn tại

khá nhiều mà các cơ quan chức năng chưa tiến hành điều tra khám phá để truy

tố xét xử.

Bên cạnh các số liệu được thu thập, thống kê theo số vụ, số bị can, người

phạm tội như đã phân tích ở phần trên thì một phần vo cùng quan trọng không

thể bỏ qua đó là phần ẩn của THTP. Việc mong muốn đánh giá một cách

chính xác, tuyệt đối phần ẩn của tình hình TPVMT là không khả thi do một số

nguyên nhân khách quan và chủ quan như do nhân dân không tố giác, do

thiếu sót của cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện hành vi, hay việc

sử dụng các thủ đoạn gây án mới, sự tinh vi, xảo quyệt hòng che đậy hành vi

phạm tội của tội phạm. Vì thế, chỉ có thể đánh giá mức độ ẩn của tội phạm về

ma túy tại Quảng Nam một cách tương đối so với thực tế chứ không thể nào

đánh giá tuyệt đối.

2.2.1. Nguyên nhân tội phạm ẩn

Tội phạm ẩn có rất nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu có ba nguyên nhân

chủ yếu sau:

a. Phần ẩn do nguyên nhân khách quan

Phần ẩn của tình hình TPVMT tại tỉnh Quảng Nam do nguyên nhân

khách quan là tất cả các TPVMT đã xảy ra trong thực tế, nhưng vì các cơ

quan chức năng có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự không có thông tin về

chúng hoặc không đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự, khởi tố vụ án, khởi tố bị

can. Vì thế, loại tội phạm này không chịu các hình thức xử lý từ phía Nhà

nước và xã hội và do đó nó không có trong báo cáo thống kê của các cơ quan

điều tra, truy tố, xét xử. Độ ẩn được hiểu là mức độ của từng loại tội phạm

hoặc từng nhóm tội phạm đã xảy ra trong thực tế nhưng không bị phát hiện và

xử lý hình sự, có thể được xác định độ ẩn dựa vào mức độ bộc lộ của tội

phạm, số lượng tin báo tố giác tội phạm. Vì vậy, tác giả tập trung làm rõ tội

36

phạm ẩn do nguyên nhân khách quan có lý do ẩn từ phía chủ thể của hành vi

phạm tội.

Phải khẳng định người phạm tội ma túy luôn dùng mọi thủ đoạn, phương

thức, mánh khóe để che giấu hành vi, bưng bít thông tin hoạt động phạm tội;

với tính chất rất manh động, nguy hiểm của tội phạm, nên đa số người tố giác,

báo tin, làm chứng trong các vụ án ma túy thường rất ít vì lý do khách quan

và chủ quan khác nhau. Nguyên nhân ẩn của loại tội phạm ẩn tự nhiên cũng

rất đa dạng nhưng trên cơ sở của sự phát triển đất nước trong những năm gần

đây và từ những nghiên cứu, đánh giá cụ thể thực tế của tình hình tội phạm về

ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cho thấy cần đánh giá, xem xét nguyên

nhân ẩn từ góc độ:

- Về mặt tâm lý, tội phạm về ma túy luôn có ý thức cố ý tìm mọi cách che

giấu hành vi phị phạm tội để qua mặt cơ quan chức năng. Trong thực tế

TPVMT luôn luôn có xu hướng "tinh vi hóa" hành vi phạm tội; tâm lý chung

là luôn mong muốn che giấu, sử dụng mọi khả năng và điều kiện có để che

giấu tội phạm và tạo ra những khó khăn, cản trở nhất định để tránh sự phát

hiện cùng với những thủ đoạn gây án mới. Không phải khi nào người phạm

tội về ma túy hoặc đang thực hiện hành vi phạm tội về ma túy lần đầu đã bị

phát hiện, bắt giữ mà đa số phải qua quá trình thực hiện rất nhiều lần thì mới

bị phát hiện.

- Tội phạm ẩn xuất phát từ nhân thân người phạm tội:

Tiến hành tội phạm một cách thường xuyên:

Trong số các bị cáo phạm tội về ma túy thì rất nhiều bị cáo phạm tội do

nghiện ma túy. Xét trên thực tế theo logic thì người nghiện ma túy chủ yếu

tiến hành việc mua bán, tàng trữ, vận chuyển ma túy chủ yếu và đầu tiên là

mục đích để sử dụng, thỏa mãn cơn nghiện của bản thân. Theo thống kê

Phòng Cảnh sát ma túy Công an Quảng Nam tính hết năm 2018 trên địa bàn

37

tỉnh có 1922 đối tượng nghiện đang được quản lý theo hồ sơ. Số lượng người

nghiện chưa được phát hiện, quản lý ngoài thực tế còn nhiều hơn rất nhiều.

Thực hiện hành vi phạm tội một cách thường xuyên, kéo dài thời gian liên tục

cho tới khi bị phát hiện: điển hình là những người phạm tội về ma túy nhưng

hoạt động có tổ chức theo đường dây, gia đình, dòng họ, thôn bản, có quan hệ

mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau, với hệ thống liên hoàn, khép kín, thường

thì trong một thời gian dài nhưng khó bị phát hiện bởi người trong đường dây

là những người có quan hệ huyết thống, gia đình... nên sẵn sàng che chắn, bảo

vệ cho nhau, khi bị phát hiện lập tức nhận tội thay cho nhau.

b. Tội phạm ẩn do nguyên nhân chủ quan

Khác với tội phạm ẩn do nguyên nhân khách quan, tội phạm ẩn do

nguyên nhân chủ quan chủ yếu xuất phát từ các chủ thể mà pháp luật đã quy

định chức năng, nhiệm vụ trực tiếp tiến hành đấu tranh phòng, chống tội

phạm, kể từ khâu trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm hoặc tiếp nhận tin

báo tố giác về tội phạm đến xét xử vụ án và thi hành án hình sự. Việc làm rõ

tội phạm ẩn do nguyên nhân chủ quan là nhiệm vụ quan trọng đã được Đảng

nêu cụ thể trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. cụ thể tại:

phần II, mục A, tiểu mục 3 nhận định "Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn

xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào

nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa

vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi

vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp".

Từ thực tế phòng ngừa tình hình các TPVMT trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam, câu hỏi đặt ra là, có hay không sự "bỏ lọt người, lọt tội" trong quá trình

tiến hành hoạt động giải quyết tin báo tố giác về tội phạm của các tầng lớp

nhân dân trong thời gian qua? Cụ thể là yếu tố tiếp tay, bao che, bảo kê của

38

lực lượng nòng cốt làm công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, lực lượng

có nhiệm vụ trực tiếp phát hiện tội phạm; nếu thật sự có thì đây chính là

nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tội phạm ẩn do nguyên nhân chủ quan (cố ý).

Bên cạnh đấy một vấn đề cũng hết sức quan trọng đang gây khó khăn đó

chính là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, chưa

chặt chẽ, một số văn bản hướng dẫn thực hiện BLHS chưa phù hợp với thực

tiễn đấu tranh phòng chóng tội phạm. Điển hình là việc áp dụng Thông tư liên

tịch số 17/2007/TTLT-B CA-VKSNDTC-TANDTC-BTP hướng dẫn áp dụng

một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS 1999

chưa rõ ràng, kịp thời và thống nhất, năm 2015 Quốc Hội thông qua Bộ luật

Hình sự nhưng chưa kịp áp dụng trong thực tiễn thì năm 2017 lại sửa đổi, bổ

sung. Như đã phân tích tại phần diễn biến của tình hình các TPVMT trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam, văn bản hướng dẫn đã nảy sinh nhiều khó khăn, vướng

mắc cho CQĐT, VKSND, TAND trong thực tiễn giải quyết án ma túy dẫn

đến số lượng tội phạm ẩn có sự gia tăng.

c. Phần ẩn do sai số trong thống kê

Theo lý luận về tội phạm học thì tội phạm ẩn thống kê bao gồm những

hành vi phạm tội đã bị xử lý bằng chế tài hình sự, nhưng vì nhiều lý do khách

quan và chủ quan khác nhau, số này bị lọt ra ngoài con số thống kê hình sự,

những con số là căn cứ cho việc đánh giá chính xác THTP tại tỉnh Quảng

Nam. Lý do tồn tại tội phạm ẩn thống kê nằm trong phạm vi công tác thống

kê hình sự, nhưng nó không phải nằm ở chủ thể tiến hành công việc thống kê,

không phải ở phương tiện khoa học - kỹ thuật - công nghệ áp dụng cho công

tác thống kê lạc hậu hay hiện đại, mà chính là nằm ở những quy định có tính

chất pháp lý đối với công tác thống kê hình sự. Tội phạm ẩn thống kê là tội

phạm đã xảy ra, đã bị xử lý nhưng không có trong thống kê hình sự. Nguyên

nhân dẫn đến tình hình ẩn thống kê là do lỗi của người trực tiếp thống kê và

39

một số qui định thiếu sót trong biểu mẫu thống kê. Về biểu mẫu thống kê theo

quy định hiện hành đã vô tình bỏ sót một số lượng lớn tội phạm. Hiện nay tại

tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện đang thống kê tội phạm theo biểu mẫu

1A. Vì thế, nếu trong trường hợp một người phạm nhiều tội trong một vụ án

thì người thống kê theo quy định chỉ lựa chọn tội danh nào nghiêm trọng nhất

và có hình phạt cao nhất để điền vào biểu mẫu thống kê, điều này vô tình đã

bỏ sót các tội danh còn lại trong vụ án.

2.2.3. Các loại tội phạm ẩn của THTP về ma túy tại tỉnh Quảng Nam

Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá tình hình tội pạm về ma

túy tại tỉnh Quảng Nam chúng tôi nhận thấy đa số tội phạm ẩn của tội phạm

này chủ yếu là ở các tội:

- Tội phạm thực hiện các hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Các đối

tượng này thường là thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, tại các địa bàn

hiểm trở, hẻo lánh, xa khu dân cư nên thường rất khó phát hiện, chứng cứ yếu

rất khó kết tội.

- Tội phạm thực hiện hành vi tàng trử trái phép chất ma túy với mực đích

sử dụng và bán lại cho con nghiện kiếm lời. Thực tế, tại địa bàn quản Nam

các đối tượng thường mua số lượng ma túy ít, khối lượng nhỏ lẽ, ít hình thành

đường dây phạm tội như các địa phương khác nên các đối tượng nay thường

cất dấu trong người, đồ vật một cách tinh vi rất khó để phát hiện.

2.3. Tình hình tội phạm và nguyên nhân của tình hình tội phạm về

ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Từ thực trạng tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam, có thể phân tích để làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội

phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam.

2.3.1. Nguyên nhân và điều kiện về kinh tế xã hội

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của xu thế toàn cầu hóa, sự phát

40

triền nhanh chóng của các quốc gia trong khu vực và sự giao thoa của các

nước trong khu vực ngày càng sâu rộng. Quảng Nam là một tỉnh duyên hải

Nam trung bộ, có đường biên giới trên bộ giáp với Lào, cùng với sự đa dạng

các loại hình giao thông trong nước và quốc tế. Điều này tạo thuận lợi cho

việc phát triển kinh tế, nhưng chính nó cũng đã gây ra sự phân hóa giàu

nghèo rõ rệch giữa các vùng nông thôn và thành thị. Đa số những người sống

các vùng nông thôn, vùng núi và biên giới thì điều kiện cuộc sống vô cùng

khổ sở, nhận thức pháp luật rất kém, còn ảnh hưởng nhiều hủ tục lạc hậu.

Chính điều này là một trong những nguyên nhân chính gây ra nạng thất

nghiệp dẫn đến tình trạng tội phạm gia tăng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

những năm qua.

Thực tế việc nghiên cứu tình hình tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Nam

cho thấy người phạm tội ma túy thuộc những đối tượng không có nghề

nghiệp lên đến 52,60%, còn lại những đối tượng lao động phổ thông không

có chuyên kỷ thuật cũng chiếm 22,39%.

Qua nghiên cứu cá biệt có xã Bình Trị là xã vùng quê nghèo, kinh tế rất

khó khăn thuộc huyện Thăng Bình. Được biết các thanh niên lớn lên đều bỏ

xứ đi làm ăn xa. Vào năm 1999, nhiều người đổ xô lên huyện Phước Sơn làm

vàng, rồi dẫn đến nghiện ngập ma túy. Những người này mang "nàng tiên

nâu" về làng lôi kéo, rủ người chơi. Dần dần tình trạng nghiện ngập lan ra cả

xã với những người có độ tuổi từ 18 - 35".

Theo thống kê của Công an huyện Thăng Bình trong thời gian từ 1999 -

2015, xã Bình Trị đã có đến 213 trường hợp nghiện ma túy chính quyền biết

được, có lập hồ sơ. Còn con nghiện từ nơi khác đến, dân địa phương nghiện

rất nhiều nhưng không thống kê được. Có một thời gian, xã Bình Trị bị người

vùng khác gọi là "xã ma túy", "xã chết chóc",… tệ nạn ma túy, tình trạng

trộm cắp, cướp giật xảy ra thường xuyên. Ngay cả việc con cái hành hung,

41

ngược đãi cha mẹ để có tiền chích hút là chuyện như… cơm bữa ở đây. Ngoài

ra, xã có hơn 40 người chết vì nhiễm HIV, trong đó có rất nhiều thanh niên đã

lập gia đình. "Ngày trước, nơi chích hút của các nhóm đối tượng là khu chợ

Vinh Huy. Điện không có, lại thêm các quầy, sạp nằm gần nhau là chỗ lý

tưởng để thanh niên giấu hàng. Buổi sáng tôi ra dọn hàng thì thấy ống kim

tiêm khắp nơi".

Tệ nạn ma túy ở đây rất phúc tạp, các cơ quan chức năng đặc biệt Công

huyện Thăng Bình thường xuyên tổ chức truy quét các đối tượng nghiện. Bắt

các đối tượng cung cấp ma túy cho con nghiện. Theo thống kê của Công an

huyện Thăng Bình riêng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy từ năm

2014 đến 2018 đã bắt và khởi tố 8 vụ buôn bán ma túy, khởi tố 11 đối tượng.

Vậy, dự báo về THTP ma túy trong thời gian đến do tác động mạnh mẽ

của sự thay đổi nhanh chóng về điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng gia tăng

trên toàn tỉnh. Cho nên cần thiết phải đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm tác

động trực tiếp vào các yếu tố tiêu cực, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm về ma túy trên địa bàn

toàn tỉnh Quảng Nam.

2.3.2. Nguyên nhân và điều kiện về văn hóa gia đình, môi trường sống

Về môi trường văn hóa, xã hội

Thực tế tại địa bàn tỉnh Quảng Nam tỉ lệ người phạm tội về ma túy từ 18

đến 30 tuổi chiếm 33,51%. Độ tuổi đúng ra phải đang góp phần lớn trong

công cuộc học tập, góp phần xây dựng, kiến thiết tỉnh Quảng Nam ở hiện tại

và trong tương lai thì lại là đối tượng phạm tội nguy hiểm cho xã hội.

Điển hình như vụ đối tượng Huỳnh Văn Thịnh (sinh năm 1998, người

đồng bào Cơ Tu, trú xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh, Quảng Nam) bị Đội

Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP Tam Kỳ phối hợp với Bộ

Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 2 bất ngờ kiểm tra khi đang có hành vi bán trái

42

phép chất ma túy cho các con nghiện lúc 17 giờ ngày 6/7/2018, tại khu vực

quán karaoke Big World thuộc khối phố 7, phường An Sơn, TP Tam Kỳ.

Tang vật thu giữ tại chỗ gồm: 5 viên thuốc lắc có khối lượng 1,9 gam, 1

ĐTDĐ và 2.800.000 đồng tiền mặt. Tiến hành khám xét nơi ở của đối tượng

Thịnh tại phường Trường Xuân, TP Tam Kỳ, lực lượng chức năng thu giữ

thêm 14 viên thuốc lắc và 17.400.000 đồng tiền mặt. Theo đó, Cơ quan Cảnh

sát điều tra Công an TP Tam Kỳ (Quảng Nam) đã ra quyết định khởi tố vụ án,

khởi tố bị can đối với Huỳnh Văn Thịnh về hành vi “Mua bán trái phép chất

ma túy”. Được biết Thịnh là là người đồng bào, do kém hiểu biết, trình độ

văn hóa thấp, thích đua đòi theo các bạn người kinh tỏ vẻ sành điệu, hiểu biết

nên bị các đối tượng nghiện dụ dỗ vào con dường nghiện ngập, Thịnh thường

xuyên trộm cắp tiền và nhiều tài sản có giá trị của gia đình, người thân để

mua ma túy sử dụng cùng nhiều đối tượng trên địa bàn Thành phố Tam Kỳ.

để tiếp tục có tiền sử dụng ma túy Thình đã mua ma túy về chia nhỏ ra bán lại

cho con nghiện đồng thời sử dụng từ năm 2017.

Sự du nhập lối sống của các nền văn hóa quốc tế (đặc biệt là văn hóa

Phương tây) cùng với sự thực dụng của nền kinh tế thị trường làm cho nhiều

giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam bị mờ dần đi, thay vào đó là lối

sống đua đòi, thực dụng, chạy theo giá trị đồng tiền. Xuất hiện nhiều hơn tình

trạng con người trở nên vô cảm, sự thờ ơ của cộng đồng đối với những người

nghiện ma túy, tội phạm về ma túy làm cho những người nghiện, người có

tiền án về ma túy mặc cảm, tự ti, không giám đối mặt với xã hội ngày càng

gia tăng. Mặc khác sự kỳ thị của cộng đồng góp phần làm cho việc tái hòa

nhập sau khi cai nghiện, chấp hành xong án phạt tù trở nên vô cùng khó khăn

từ đó họ lại trở về với con đường củ.

Bên cạnh đó là sự phát triển và bùng nổ mạnh mẽ của mạng xã hội và sự

phát triển của khoa học công nghệ thông tin, tác động rộng rãi của cuộc cách

43

mạng công nghiệp 4.0. Xã hội ngày càng phát triển, khoa học công nghệ phát

triển nhanh, bên cạnh yếu tố tích cực đáng kể, mặt trái của nó cũng rất đáng

được quan tâm. Đánh giá của các tổ chức thế giới đến năm 2025 lĩnh vực

khoa học công nghệ thông tin sẽ phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng lớn đến

mọi mặc đời sống trên toàn cầu trong đó có Việt Nam.

Giới trẻ hiện nay đang chịu tác động lớn của cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0 từ cả tích cực và tiêu cực. Mặc tích cực là tạo ra cơ hội giao lưu,

kết nối trong học tập, tìm kiếm việc làm. Còn phần tiêu cực chính là sự du

nạp văn ấn phẩm đồi trụy, các luận điệu xuyên tạc chống phá sự phát triển xã

hội, lối sống cực đoan, bạo lực, ảo tưởng, cá nhân chủ nghĩa thích hưởng thụ

trên công sức người khác. Mà sự tác động tiêu cực đấy dễ gây ra những hành

vi lệch chuẩn, vi phạm những quy tắc xử sự chung của xã hội hay còn gọi

hành vi vi phạm phạm pháp luật và tội phạm. Tuy trong giai đoạn từ 2014

đến 2018 chưa phát hiện vụ án nào đối tượng phạm tội sử dụng công nghệ 4.0

để phạm tội. Nhưng đa số các đối tượng đặc biệt người phạm tội từ độ tuổi từ

18 đến 35 chủ yếu áp dụng các ứng dụng như facebook, hay zalo để liên lạc,

trao đổi thông tin phạm tội.

Về môi trường nhà trường, môi trường bạn bè

Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến

2018, tỉ lệ người phạm tội thất học chiếm 20,49%, tỉ lệ người phạm tội có học

vấn đến cấp một chiếm 32,97%, người phạm tội có trình độ học vấn đến cấp

hai chiếm tỉ lệ 31,94%, tỉ lệ này đối với trình độ học vấn đến cấp ba là 5,73%.

Như vậy, có thể nói môi trường nhà trường tại Quảng Nam đang ảnh hưởng

lớn đến sự hình thành nhân cách, hoàn thiện kiến thức chuyên môn nhưng

cũng chiệu tác động lớn từ tình hình tội phạm về ma túy. Trình độ học vấn

thấp không hoàn toàn do môi trường nhà trường bạn bè gây ra. Nhưng học

sinh bỏ học đang trong độ tuổi đến trường mà ngành giáo dục chưa có chính

44

sách căng cơ giải quết triệt để nên tình trạng người phạm tội ma túy tại

Quảng Nam có trình độ học vấn thấp đang chiếm tỉ lệ cao.

Đơn cử như: Chiều 25/7/2016, Công an huyện Phước Sơn (Quảng Nam)

cho biết, vừa bắt quả tang một đối tượng mua bán trái phép chất ma túy trên

địa bàn.

Trước đó, lực lượng trinh sát Công an huyện Phước Sơn phát hiện, đối

tượng Trần Vũ Hà (SN 1988 trú tại tổ dân phố số 5, thị trấn Khâm Đức) có

nhiều biểu hiện nghi vấn về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Theo đó,

Công an huyện Phước Sơn quyết định xác lập chuyên án đấu tranh. Sau khi

củng cố đầy đủ các tài liệu, chứng cứ phạm tội của Trần Vũ Hà, Ban chuyên

án quyết định phá án. Vào lúc 17h ngày 24/7/2016, tại khu vực rừng keo

thuộc tổ dân phố số 1, thị trấn Khâm Đức, Công an huyện Phước Sơn tổ chức

mai phục và bắt quả tang đối tượng Trần Vũ Hà đang thực hiện hành vi bán

ma túy cho các con nghiện. Tại hiện trường, cơ quan chức năng thu giữ tang

vật gồm: 01 gói chứa tinh thể màu trắng khối lượng 0,05 gam nghi chất ma

túy, 01 ĐTDĐ hiệu OPPO, 01 xe máy hiệu sirius và 1 triệu đồng. Tiến hành

khám xét khẩn cấp nơi ở của đối tượng, lực lượng chức năng tiếp tục phát

hiện phía trên trần la phông của ngôi nhà có cất giấu 01 gói chứa tinh thể màu

trắng, khối lượng 0,66 gam nghi là chất ma túy. Tại cơ quan điều tra, Trần Vũ

Hà khai nhận, các gói chứa tinh thể màu trắng nói trên là ma túy, Hà cất giấu

để sử dụng và bán lại cho các con nghiện khác để kiếm lời.

Được biết, lúc học THCS vì nhà khó khắn Hà phải thường xuyên nghỉ

học phụ giúp gia đình nên học lực rất kém, đến trường bị thầy cô phạt phải

đứng trên bục giảng để học vì không thuộc bài, làm việc riêng. Hà thường

xuyên bị bạn bè chê cười, xa lánh do học yếu, nhà nghèo từ đó Hà trở nên tự

ti và đánh nhau khi bị bạn bè trêu chọc.Trần Vũ Hà là đối tượng đã có tiền án

về tội cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản, từng được đưa đi Trung tâm cai

45

nghiện bắt buộc năm 2011. Sau khi trở về Hà không có nghề nghiệp nhưng lại

quan hệ mật thiết với các đối tượng trong bãi vàng Phước sơn, đặc biệt Hà rất

thân với nhóm bạn Nam quê Nghệ an cầm đầu không rõ lai lịch đang sống tại

bãi vàng chuyên cung cấp ma túy từ nghệ an vào cho con nghiện trong bãi

vàng.

Vấn đề đầu tư vào giáo dục ngày càng được coi trọng và phát triển trong

cả nước, Đảng và Nhà nước ta coi đây là “Quốc sách hàng đầu”. Tuy nhiên,

cùng với phát triển của kinh tế - xã hội, sự giao thoa của nhiều nền văn hóa

khác nhau và những sơ hở, thiếu sót trong giáo dục hiện nay. Đa số chỉ mới

dừng lại ở việc tập trung trang bị kiến thức chuyên môn mà chưa chú trọng

trang bị kỷ năng sống, ý thức tự giác, tư duy cộng đồng cũng như nắm bắt

pháp luật cho người dân đặc biệt là giới trẻ, tầng lớp học sinh, sinh viên. Nên

một bộ phận không nhỏ người dân chưa có được nhận thức đúng đắn về pháp

luật, thêm vào đó lại bị cuốn theo những lối sống sai lệch chuẩn mực đạo đức:

Ăn chơi, đua đòi, tiêu tiền không tiếc tay, sống thích hưởng thụ mà lười lao

động, tư tưởng không làm vẫn có ăn...

Tóm lại, trong thời gian đến nếu ngành giáo dục tỉnh Quảng Nam không

tiến hành cải cách, đổi mới và đầu tư đúng mức, không có những phương

pháp đúng đắn chặt chẽ hơn trong nhà trường về giáo dục pháp luật, không có

sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong

những năm tới đây thì môi trường nhà trường vẫn sẽ là một trong những

nguyên nhân quan trọng của THTP về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Về môi trường gia đình

Gia đình có vị trí quan trọng trong việc giáo dục đối với con cái là điều

rất cần thiết, mọi biểu hiện về tư duy, sự hình thành nhân cách của mỗi con

người đều chịu ảnh hưởng lớn từ cha mẹ ngay tự khi còn nhỏ. Tuy nhiên,

trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đồng tiền đang được đặt lên trên hết,

46

con người đến với nhau, quan tâm nhau với mục đích mang về lợi ích vật chất

cho cá nhân, gia đình, tính vụ lợi cá nhân dần hình thành do ảnh hưởng của

nền kinh tế thị trường. Dự báo trong những năm tới, sẽ có không ít người vì

tập trung kiếm tiền mà quên mất việc giáo dục con cái từ nhỏ và vấn nạn bạo

lục gia đình sẽ dẫn đến việc có những nhận thức sai lệch, hư hỏng, ăn chơi

đua đòi theo bạn bè và những suy nghỉ cực đoan. Hiện nay, các cơ quan chức

năng cần phải có những biện pháp hỗ trợ các gia đình đặc biệt các bậc cha mẹ

tuổi đời còn trẻ, ít kinh nghiệm chăn sóc con cái, trình độ học vấn thấp, kinh

tế khó khăn trong việc quản lý, nuôi dạy con trẻ một cách thiết thực và hiệu

quả hơn, nếu không việc sa ngã vào con đường ma túy là tất yếu.

Ngày 5/8/2017, CATP Tam Kỳ đã phối hợp cùng lực lượng phòng chống

ma túy của Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 2 bắt quả tang 2 đối tượng gồm

Lê Nữ Oanh Kiều (1990, trú khối phố Mỹ Thạch Bắc, P. Tân Thạnh, TP Tam

Kỳ) và Nguyễn Viết Cường (1997, trú thôn Khánh Tân, xã Tam Dân, H. Phú

Ninh, Quảng Nam) đang có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Cả

Kiều và Cường đều là những tay “buôn” ma túy có “kinh nghiệm”. Từ những

mối quan hệ, hai đối tượng nhận ma túy ở các đầu mối rồi cung cấp cho các

con nghiện trên địa bàn TP Tam Kỳ và các vùng lân cận. Cả hai phân chia

công việc rõ ràng. Khi Cường tìm hiểu về “bạn hàng” thì Kiều sẽ có nhiệm vụ

“ship” hàng. Được biết Lê Nữ Kiều Oanh sinh ra trong gia đình không có cha

phải sống với mẹ và cha dượng có một tiền án tội hiếp dâm. Oanh khai do

thường xuyên bị cha dượng đánh đập, quấy rối tình dục nên bỏ nhà đi sống

lang thang cùng với Cường từ năm 2009. Hai đối tượng này sống lang thang

bằng nghề trộm cắp và bắt đầu nghiện ma túy năm 2012. Vì không có tiền sử

dụng ma túy nên đã tiến hành mua ma túy về chia nhỏ ra vừa sử dụng vừa bán

để lấy tiền.

Thực tế tình hình tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Nam cho thấy tỉ lệ

47

người phạm tội có hoàn cảnh gia đình giàu có, kinh tế ổn định chiếm tỉ lệ

4,86%, số người phạm tội sống trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nghèo

đói chiếm 34,72% cong lại số người phạm tội sống trong gai đình có người vi

phạm pháp luật chiếm tỉ lệ rất cao lên đến 60,42%. Như vậy, ngoài môi

trường kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường trường học thì gia đình nghèo đói,

khó khăn về kinh tế, thiếu sự hòa thuận, nhiều bào lực luôn tiềm ẩn nguy cơ

phát sinh tội phạm.

Tình hình tội phạm ma túy tại Quảng Nam cho thấy đa số người phạm tội

chủ yếu sống trong gia đình có người vi phạm pháp luật, người sống trong gia

đình có hoàn cảnh khó khăn, ngèo đói. Tại những gia đình này vấn đề giáo

dục đạo đức, nhân cách lối sống, thường xem nhẹ, thiếu quan tâm, ý thức

chấp hành pháp luật ít hiệu quả.

2.3.3. Nguyên nhân từ công tác cai nghiện và tái hòa nhập sau cai

Hiện nay, đa số các đối tượng phạm tội ma túy chủ yếu là các đối tượng

nghiện vì không có tiền sử dụng nên phải thực hiện các tội mua bán trái phép

chất ma túy để có tiền sử dụng. Bên cạnh đấy công tác cai nghiện còn nhiều

bất cập từ khi Luật xử lý hành chính có hiệu lực, vấn đề cai nghiện bắt buộc

tại Trung tâm cai nghiện gặp khó khăn, trong khi có việc cai nghiện tự nguyện

tại cộng chưa đạ hiệu quả cao.

Nguồn kinh phí bố trí triển khai thực hiện công tác công tác cai nghiện và

quản lý sau cai nghiện hằng năm còn quá thấp và còn nhiều bất cập; chưa bố

trí nguồn kinh phí cho công tác tuyên truyền, tập huấn các văn bản liên quan

đến công tác phòng, chống ma túy và trở về tái hòa nhập cộng đồng. Mặt khác

nhiều địa phương còn khó khăn về ngân sách chưa bố trí từ nguồn đảm bảo xã

hội chi cho công tác phòng, chống tệ nạn xã hội trong lúc nguồn kinh phí hỗ

trợ của Trung ương và tỉnh đối với công tác xây dựng mới và duy trì xã,

phường, thị trấn lành mạnh không có tệ nạn ma túy, nhất là công tác cai và

48

quản lý sau cai còn quá thấp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Công tác

hỗ trợ việc làm cho đối tượng sau cai chưa nhiều, việc quản lý đối tượng chưa

chặt chẽ. Trình độ dân trí ở các xã vùng sâu, vùng xa còn thấp, kiến thức, kinh

nghiệm chuyên môn của một số cán bộ ở cơ sở trực tiếp làm công tác phòng,

chống tệ nạn xã hội còn hạn chế lại kiêm nhiệm nhiều việc và thường xuyên

thay đổi nên việc triển khai thực hiện công tác này chưa hiệu quả. Công tác

cai nghiện phục hồi tuy được đẩy mạnh, nhưng chỉ tập trung biện pháp cai

nghiện bắt buộc và tự nguyện tại Cơ sở cai nghiện ma túy Quảng Nam, biện

pháp cai nghiện tại gia đình và cộng đồng còn nhiều khó khăn bất cập từ cơ

sở vật chất đến việc lập hồ sơ, xác định người nghiện, phác đồ cai nghiện.

Một số địa phương chưa quan tâm, chỉ đạo thường xuyên hoặc còn xem

nhẹ công tác phòng, chống tệ nạn xã hội, nhất là công tác cai nghiện phục hồi

nên hiệu quả còn thấp; Việc báo cáo thống kê, rà soát người sử dụng trái phép

chất ma túy, người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý ở một số địa phương còn

chậm trễ và không đúng thời gian quy định; Việc phối hợp giúp đỡ, động

viên, hỗ trợ vay vốn giải quyết việc làm người sau cai nghiện ma túy chưa

được các ngành địa phương quan tâm, vì vậy sau khi trở về địa phương họ

không tìm được việc làm, còn sự kỳ thị, phân biệt đối xử, xa lánh của cộng

đồng,... do vậy nguy cơ tái nghiện cao.

2.3.3. Các sai lệch thuộc cá nhân người phạm tội về ma túy

2.3.3.1. Sai lệch trong ý thức pháp luật cá nhân

Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc thực hiện người phạm tội nói chung và người phạm tội về ma túy nói riêng là do các đối tượng phạm tội thiếu thông tin, không hiểu biết về pháp luật. Như đã phân tích tại chương 2 trong khoảng thời gian từ năm 2014 - 2018 trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Nam cho thấy tỷ lệ người phạm tội về ma túy có trình độ học vấn từ cấp ba trở xuống và người mù chữ chiếm đến 97% và chủ yếu là không nghề nghiệp ổn định, chiếm tỷ lệ 70,13%. Nếu xem xét ý thức pháp luật của cá nhân có hai tầng, một là tri thức pháp luật và hai là tâm lý pháp luật, thì các thiếu hụt ở những người phạm tội ở nước ta nói chung và địa bàn Quảng Nam nói riêng

49

rõ ràng là không phải ở tầng thứ hai mà nó nằm ngay ở tầng tri thức pháp luật. Đây chính là cơ sở để có thể nêu ra biện pháp phòng ngừa thích hợp.

2.3.3.2. Xem thường các nghĩa vụ công dân

Sự thiếu hiểu biết kiến thức về ma túy nên chưa nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội, do lối sống thực dụng, thích ăn chơi đua đòi là nguyên nhân xuất hiện những hành vi lệch chuẩn giá trị xã hội, họ coi thường sự giáo dục của gia đình và nhà trường, coi thường sức khỏe của bản thân, coi thường tính mạng và sức khỏe của người khác, kể cả người thân sẵn sàng phạm tội để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy.

Cơ chế của nền kinh tế thị trường đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng đến mọi mặt đời sống xã hội. nó càng tác động mạnh mẽ hơn đến việc hình thành những chuẩn mực đạo đức, tâm lý sai lệch trong một bộ phận nhân dân, do không có công ăn việc làm, không có nghề nghiệp lại không chịu lao động chân tay gian khổ mà thu nhập lại thấp. Nhưng vì muốn có kinh tế khá giã, lợi nhuận cao, ước mơ giàu sang, phú quý nên dù biết thực hiện hành vi phạm tội là nguy hiểm, có thể bị pháp luật trừng trị họ vẫn bất chấp sự nghiêm minh của pháp luật mà lao vào con đường phạm tội. hơn thế nửa, tội phạm về ma túy thường nghĩ hoạt động phạm tội về ma túy luôn có những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, việc hình thành đường dây, tổ chức hoạt động khép kín nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng nên nguy cơ bị bắt chỉ chiếm tỷ lệ thấp nên bọn tội phạm tiếp tục lao vào con đường phạm tội và xẵn sàng đánh đổi tất cả.

2.3.3.3. Những sai lệch trong quá trình động cơ hóa hành vi

Động cơ hóa hành vi là là một quá trình tâm - sinh lý - xã hội mà trong đó chủ thể có được động lực để thôi thúc thực hiện một hành vi (phạm tội) đến cùng. Quá trình tâm - sinh lý - xã hội này không mang tính hàn lâm khó hiểu, mà nó có cơ sở khách quan, do điều kiện xã hội, do hoàn cảnh sống cụ thể của mỗi con người mang lại. Để có quá trình này, trước hết phải nói đến các yếu tố mang tính chất động lực như nhu cầu, lợi ích, xúc cảm, sở thích, thói quen, tín ngưỡng, tôn giáo... của cá nhân con người.

Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam hiện nay cho thấy rõ trong quá trình động cơ hóa hành vi, các đối tượng phạm tội có những sai lệch như sau:

a. Sai lệch vê nhu cầu

Mua bán ma túy luôn là công việc mang lại lợi nhuận rất cao cộng với bản chất tính tham lam tự nhiên của con người, muốn làm giàu bằng mọi cách, bất chấp tất cả để thỏa mãn nhu vật cầu đặt ra luôn thôi thúc đối tượng

50

nảy sinh ý định phạm tội. Vì thế, để làm giàu nhanh nhất, ngắn nhất chỉ có con đường phạm tội. Bên cạnh đó do sự tác động của nền kinh tế thị trường đã góp phần tạo nên sự phân hóa giàu nghèo, tạo ra khoản cách ngày càng lớn giữa người giàu, kẻ nghèo. Một bộ phận không nhỏ người dân nông thôn không có vốn làm ăn, do trình độ văn hóa thấp, không có nghề nghiệp, không có việc làm ổn định mà việc vận chuyển, mua bán ma túy tốn ít thời gian, công sức thu nhập lại cao. Họ có thể có đủ kinh phí trang trải cuộc sống gia đình cũng như thỏa mãn nhanh chóng các nhu cầu vật chất của bản thân nên họ nảy sinh ý định và có động lực thúc đẩy thực hiện tội phạm.

Đối với những người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy đa phần do bản thân là người nghiện nên mua ma túy, tàng trữ nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu nghiện ngập của bản thân. Tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam chủ yếu là người nghiện, nhằm để thỏa mãn nhu cầu vừa có ma túy để sử dụng, vừa có tiền để nuôi sống bản thân đã làm cho họ hình thành nên động cơ phạm tội, thực hiện hành vi phạm tội.

b. Sai lệch về phương pháp thỏa mãn nhu cầu

Phương pháp thỏa mãn nhu cầu là phương thức thực hiện của chủ thể để đạt được mong muốn, nguyện vọng, đòi hỏi nhu cầu của bản thân. Khi con người đã hình thành nhu cầu và ý thức về lợi ích của mình từ đó họ sẽ hình thành động cơ trong tư tưởng, vạch ra kế hoạch cho hành động và hình thành phương pháp, cách thức để thỏa mãn nhu cầu đó. Tuy nhiên, không phải ai cũng xác định được phương pháp, cách thức thỏa mãn nhu cầu một cách phù hợp, đúng đắn. Một khi phương pháp thỏa mãn nhu cầu không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với quy định của pháp luật, với các giá trị xã hội thì sẽ dẫn đến các hành vi lệch chuẩn hay còn gọi là hành vi vi phạm pháp luật. Đa số các đội tượng phạm tội về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đề có những nhận thức sai lệch đối với phương pháp nhằm thỏa mãn mục đích của mình. Khi bị phát hiện, dối diện với hậu quả và sự trừng phạt của phát luật thì mới ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình.

c. Sai lệch về sở thích

Một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên hiện nay đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng lối sống thực dụng, thích hưởng thụ, thích ăn chơi, đua đòi, muốn tạo khoái cảm, tìm cảm giác mới lạ bằng cách tìm đến ma túy nhưn đấng cứu thế. Việc sử dụng các chất ma túy là một trong những sở thích của đại bộ phận thanh thiếu niên để chứng tỏ mình, coi đây là một cách thể hiện đẳng cấp bản thân trong xã hội, chọn ma túy để mua vui, để giải sầu cũng như thể hiện đẳng cấp dân chơi. Trong khi đó một bộ phận nhỏ khác do bị bạn bè, rủ rê, lôi kéo, cưởng ép sử dụng ma túy rồi sa vào con đường nghiện ngập và

51

phạm tội.

d. Sai lệch trong quả trình kế hoạch hành vi phạm tội về ma túy

Khi chủ thể có nhu cầu và đã nhìn thấy lợi ích thì hành vi sẽ vạch ra kế hoạch hành động. Đây chính là bước chuẩn bị cho thực hiện hành vi. Từ những sai lệch trên chủ thể tiến hành xác định mục đích trực tiếp, đối tượng tác động của hành vi, phương tiện, địa điểm, thời gian thực hiện và xác định cả phương thức giải quyết hậu quả của hành vi đó gây ra. Trong giai đoạn này, chủ thể chuẩn bị cả những điều kiện tinh thần và vật chất cho việc thực hiện hành vi, có nghĩa là đã đưa ra quyết định cuối cùng của mình.

Các đối tượng trước khi tiến hành thực hiện tội phạm chúng luôn vạch ra những kế hoạch cụ thể, có chuẩn bị kỹ càng cho việc thực hiện hành vi phạm tội để đáp ứng những sai lệch về nhu cầu, sai lệch về sở thích của mình. trong giai đoạn này các phương thức, thủ đoạn hoạt động, cách thức đối phó với cơ quan chức năng cũng đã được tính toán cụ thể phòng khi bị phát hiện. không những vậy, một phần nguyên nhân đến từ việc thiếu chặt chẽ, tắt trách của một số cán bộ làm công tác quản lý, giám sát về ma túy công với việc vận động, tuyên truyền, răn đe, giáo dục để họ nhận thức tính đúng đắn về pháp luật để không thực hiện hành vi phạm tội còn chưa hiệu quả; chưa phát hiện kịp thời, không có tác động nào ngăn chặn quá trình kế hoạch hóa hành vi phạm tội, để họ thực hiện hành vi phạm tội theo kế hoạch.

e. Sai lệch trong việc hiện thực hóa hành vi phạm tội về ma túy

Tác động trực tiếp vào đối tượng nhằm thoả mãn các nhu cầu, tức là ở

bước này nhu cầu (động cơ, lợi ích) được cụ thể hoá bằng hành vi.

Đây là giai đoạn tội phạm đã xảy ra nhưng không ngăn chặn kịp thời

được do một số nguyên nhân:

- Ở giai đoạn này không có tác động nào hoặc dù có tác động cũng không đủ mức độ từ phía xã hội để tác động đến quá trình hiện thực hóa hành vi, nên dẫn đến hành vi phạm tội vẫn được thực hiện đến cùng.

- Bọn tội phạm về ma túy hiện nay hoạt động với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn, đã gây không ít khó khăn cho hoạt động phát hiện manh mối, điều tra, khám phá vụ án. Thực tiễn cho thấy bạn chúng thường hình thành đường dây, tổ chức hiều chân rết hoạt động khép kín nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng. Bên cạnh đấy, lực lượng chuyên trách trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý được trang bị công cụ hổ trợ còn hạn chế, bố trí lực lượng còn mỏng, trình độ nhận thức cũng như đào tạo chuyên môn cũng không đồng đều, cá biệt một bộ phận không nhỏ trình độ năng lực còn nhiều hạn chế, yếu kém. Không

52

những vậy, có trường hợp vì thiếu bản lĩnh, ý chí chiến đấu đã đầu hàng trước sức mạnh của đồng tiền và tiếp tay cho tội phạm về ma túy hoạt động.

Công tác tiếp nhận, kiểm tra, xử lý tin báo tội phạm về ma túy ở một số địa phương chưa đảm bảo đúng quy trình, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân cung cấp thông tin, một số trường hợp gây phiền hà hoặc xác minh giải quyết kéo dài không tạo được sự đồng tình trong nhân dân.

Việc đấu tranh, khai thác mở rộng điều tra trong nhiều vụ án chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến công tác đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm chưa được triệt để, còn sót lọt tội phạm.

Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân về phòng chống ma túy còn nhiều hạn chế, chưa làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của quần chúng về quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng chống tội phạm về ma túy. Một số người dân còn sợ bị trả thù, sợ bị phiền hà, sợ bị ảnh hưởng đến quan hệ hàng xóm... nên nhiều khi biết rõ hành vi của đối tượng nhưng không báo tin, không tố giác tội phạm với các cơ quan chức năng để cho đối tượng hoạt động.

Ngoài ra, do chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước trong việc bắt. giữ, xử lý tội phạm nên chưa đủ tính răn đe, giáo dục nên đối tượng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

53

Tiểu kết chương 2

Với hệ thống số liệu được thu thập đầy đủ, bài bản, khoa học qua quá

trình nghiên cứu hồ sơ, tài liệu; phân tích, so sánh, đối chiếu; phương pháp

nghiên cứu các vụ án điển hình trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2018...

Trong Chương 2 tac giả đã tập trung nghiên cứu phân tích làm rõ thực trạng

THTP về Ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018.

Qua phân tích cho thấy, THTP về Ma túy trên địa bàn tỉnh Quang Nam

có những diễn biến tăng, giảm phức tạp có xu hướng tăng cả về số vụ và số

người phạm tội. THTP về ma túy chủ yếu tập trung vào các nhóm tội phạm

tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy.

Tính chất của tội phạm thể hiện ở: Sự phức tạp, nguy hiểm trong cơ cấu

hành vi phạm tội, có sự tham gia của nhiều đối tượng; gây ra nhiều vụ án với

tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau. Cũng trong giai đoạn 2014 đến 2018

tại tỉnh Quảng Nam tội phạm về ma túy chủ yếu tập trung đa số ở nhóm tội ít

nghiêm trọng nhưng tỷ lệ tội rất nghiệm trọng và đặc biệt nghiêm trọng cũng

chiếm tỷ lệ đáng kể và có xu hướng gia tăng cho thấy mức độ tái phạm và tái

phạm nguy hiểm đang diễn biến phức tạp.

Sau khi đánh giá toàn bộ bức tranh về tội phạm về ma túy tại tỉnh

Quảng Nam tác giả tập trung chỉ ra một số nghuyên nhân, điều kiện chính dẫn

đến tình hình tội phạm về ma túy phát sinh, phát triển và đang có những diễn

biến khó lường.

54

Chương 3

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MA TÚY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MA TÚY

TẠI TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Tình hình tội phạm và dự báo tình hình tội phạm về ma túy trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam

3.1.1. Cơ sở của dự báo

Dự báo tình hình tội phạm là nhiệm vụ đặc biệt của tội phạm học và quá trình dự báo được thực hiện bằng cả triết lý nghiên cứu của tội phạm học như đã đề cập ở chương 1 mà cơ sở của nó không ngoài triết học mác - xít kết hợp với thực tế của tình hình tội phạm về ma túy đã được nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 - 2018. Vấn quan trọng nhất trong công tác dự báo tội phạm là nhận thức về tình hình tội phạm tiềm ẩn có xu hướng phát triển trong tương lai. Đây là định nghĩa mới và sự tiếp thu nó hoàn toàn không làm sai lệch trật tự nghiên cứu của tội phạm học vốn đã hình thành từ trước đến nay mà bổ sung thêm về lý luận của chuyên ngành này. Từ kết quả nghiên cứu về thực trạng của tình hình tội phạm về ma túy được minh họa ở Chương 2 chính là cơ sở trực tiếp và vững chắc nhất để có thể đưa ra những đánh giá về xu hướng phát triển tiềm tàng đối với tội phạm về ma túy tai tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. Những điều đó là đáp án có cơ sở thực tế hơn của việc dự báo về tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới cả về mức độ và cơ cấu.

3.1.2. Dự báo tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Căn cứ vào những phân tích, đánh giá tình hình tội phạm về ma túy, kết

hợp việc phân tích nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm này trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 - 2018 và tình hình phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh Quảng Nam và cả nước trong thời gian tới, cho phép đưa ra một

số dự báo cơ bản về tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam trong thời gian tới như sau:

Một là, với điều kiện địa lý đã được đề cập trong phần trên, cùng với sự

ảnh hưởng của tình hình tội phạm ma túy quốc tế và sự tác động của tình hình

55

tội phạm ma túy trong nước cũng như các nước trong khu vực nên diễn biến

tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam tìm ẩn nhiều nguy

cơ diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng về quy mô, tính chất và mức

độ phạm tội; cũng không loại trừ khả năng tội phạm sẽ lợi dụng sự phát triển

của các phương tiện giao thông vận tải để vận chuyển ma túy từ nước ngoài

vào trong nước và giữa các địa phương trong nước, từ đó hình thành các

đường dây, tổ chức tội phạm xuyên quốc gia với phương thức thủ đoạn hoạt

động tinh vi, xảo quyệt, manh động, có trang bị vũ khí; có thể xuất hiện các

cơ sở sản xuất trái phép ma túy từ các tiền chất, hóa chất, nhiều loại ma túy

mới, nhất là ma túy tổng hợp sẽ xuất hiện, phát triển. Các loại tội phạm có sự

móc nối: Giữa tội phạm đang hoạt động ở ngoài xã hội với một số đối tượng

tiêu cực đang làm viecj trong các cơ sở quản lý, sản xuất, chế biến thuốc tân

dược, gây nghiện hoặc cơ sở sản xuất tiền chất, hoá chất trong các cơ sở y

dược, phòng thí nghiệm… Các đối tượng phạm tội có xu hướng sử dụng vũ

khí nóng để chống trả lại các lực lượng chức năng khi bị phát hiện, bắt giữ sẽ

phố biến hơn; sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ được các đối tượng

phạm tội về ma túy ứng dụng nhiều hơn vào việc thực hiện hành vi phạm tội.

Hai là, số lượng người nghiện ma túy trong cộng đồng còn tiềm ẩn nhiều

nguy cơ phức tạp, số lượng người nghiện mới do bị lôi kéo, rủ rê, dùng thử

các loại ma túy ổng hợp tại các điểm vui chơi như Vũ trường, quán Bar,

khách sạn, nhà nghỉ sẽ phát sinh nhiều, số người nghiện sau cai sẽ tiếp tục tái

nghiện, số người sử dụng các loại ma túy truyền thống như cần sa, heroin có

thể giảm dần, ngược lại số người sử dụng ma túy tổng hợp và các loại tân

dược gây nghiện có xu hướng gia tăng và ngày càng trẻ hóa, tập trung nhiều ở

lứa tuổi thanh thiếu niên, sinh viên, học sinh. Có nghĩa là “nguồn cầu" về ma

túy tổng hợp có chiều hướng gia tăng, “nguồn cầu” này sẽ tác động ngược trở

lại, kích thích thích các loại tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán, tổ chức

56

sử dụng trái phép chất ma túy phát sinh, gia tăng và chiếm tỷ lệ lớn (“nguồn

cung” tăng theo).

Ba là, phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội của tội phạm về ma tuý

sẽ có sự thay đổi để phù hợp với tình hình chung trong thời gian tới, các đối

tượng sẽ khai thác, lợi dụng triệt để các thành tựu của khoa học kỹ thuật trong

giai đoạn cách mạng 4.0 vào quá trình phạm tội, để đối phó với các cơ quan

chức năng. Việc thực hiện giao dịch mua bán ma túy chủ yếu qua điện thoại

di động và các phương tiện thông tin hiện đại, các đối tượng không trực tiếp

gặp gỡ đề giao dịch nên không cần biết mặt và địa chỉ của nhau, chỉ cần qua

liên lạc qua điện thoại, qua internet để nhận hàng và tiền được chuyển qua tài

khoản. Các loại tội phạm có xu hướng sát lại gần nhau đặc biệt là tội phạm ma

túy sẽ cấu kết, quan hệ chặt chẽ với tội phạm hình sự, tội phạm có tổ chức, tội

phạm rửa tiền và một số loại tội phạm khác, có qui mô xuyên quốc gia.

Bốn là, trong thời gian tới tội phạm về ma túy bên cạnh nhóm đối tượng

thành niên bị dụ dỗ, lôi kéo thì nhóm chủ yếu vẫn tập trung vào các đối tượng

đã có tiền án, tiền sự về ma túy, số đối tượng nghiện ma túy và đối tượng có

nguy cơ tái nghiện cao. Tội phạm thực hiện là nam giới vẫn ở mức cao hơn so

với nữ giới, điều này phù hợp tính chất của tội phạm về ma tuý luôn rất nguy

hiểm, manh động, liều lĩnh, cần thể chất cho hoạt động di chuyển liên tục bên

cạnh đấy các đối tượng là nữ cũng sẽ phát triển mạnh nhờ sự khéo léo, dễ

đánh lừa cơ quan chức năng và nhân dân. Thành phần các đối tượng tập trung

chủ yếu vẫn là các đối tượng không nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn

định, số có tiền án, tiền sự phạm tội về ma túy vẫn ở mức cao hơn các thành

phần khác, độ tuổi phạm tội tập trung từ 18-35 tuổi.

Năm là, về khu vực, địa bàn trọng điểm nhất trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam vẫn là các thành phố Tam Kỳ, Hội An, thị xã Điện Bàn nơi có các quán

Bar, các trung tâm thương mại, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp, các

57

khu công nghiệp và các khu chế xuất; các huyện Núi Thành, Thăng Bình,

Duy Xuyên, Đại Lộc nơi có các dịch vụ kinh doanh có điều kiện đang phát

triển. Tuyến hoạt động vận chuyển, mua bán trái phép ma tuý tập trung tuyến

đường bộ, tuyến đường sắt Bắc – Nam và giao thông nội tỉnh.

3.2. Thực tiễn tình hình tội phạm ma túy và việc hoàn thiện pháp

luật (pháp luật hình sự)

Bất cứ đất nước nào, với triều đại nào thì Pháp luật hình sự được coi là

sương sống và là công cụ quan trọng, mang tính cốt lõi trong công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm nhằm giữ gìn kỹ cương,trật tự của xã hội.

Chỉ có thể đánh giá xem xét mức độ nguy hiểm của hành vi gây ra cho

xã hội cùng với các chế tài kèm theo nhằm ngăn chặn cũng như trừng trị

nghiêm khắc để răn đe cũng như giáo dục người khác không phạm tội dựa

trên căn cứ duy nhất đó là những quy định của pháp luật hình sự. Chính vì

thế, yêu cầu cấp thiết đặt ra, đặc biệt là việc tội phạm hóa những hành vi nguy

hiểm cho xã hội ở mức phổ biến, không tội phạm hóa những hành vi trước

đây bị coi là nguy hiểm cho xã hội nay không còn nguy hiểm nửa là phải

nhanh chóng hoàn thiện pháp luật hình sự.

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định

hướng đến năm 2020”. Để cụ thể hóa Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội

Khóa XIII, tại kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/15 đã thông qua Bộ luật

hình sự (BLHS) năm 2015. Tại kỳ họp thứ 10, ngày 20 tháng 6 năm 2017,

Quốc hội khóa XIV, đã tiến hành thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều

của Bộ luật Hình sự năm 2015 và ấn định thời gian luật này có hiệu lực thi

hành bắt đầu từ ngày 01/01/2018. Như vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa

đổi, bổ sung năm 2017 chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 trở

về sau.

58

Nhằm cụ thể hóa nội dung đổi mới trong Hiến pháp năm 2013 cũng như

phù hợp với tình hình thực tiễn về phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong

thời kỳ hội nhập quốc tế. BLHS năm 2015 với khoảng 343 điểm mới. So với

Bộ luật hình sự năm 1999 (bổ sung năm 2009) có những điểm mới đối với các

tội về ma túy như sau:

Thứ nhất, Về cơ cấu: Chương 18 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ

sung năm 2009) gồm 10 Điều (từ Điều 192 đến Điều 201) qui định các tội

phạm về ma túy tong đó các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép

chất ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma túy gọp chung thành một điều (Điều 194).

Thực tế, đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thì hành

vi tàng trữ trái phép chất ma túy và hành vi chiếm đoạt chất ma túy không

nguy hiểm bằng hành vi mua bán trái phép chất ma túy, trong khi đó Điều 194

lại qui định về định lượng, mức hình phạt đối với các hành vi này giống nhau

nên thực tế gặp nhiều khó khăn trong định tội danh và hình phạt. Nhằm để

căn cứ đánh giá hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

cho người phạm tội, giúp các cơ quan tố tụng trong quá trình xác định tội

danh và áp dụng mức hình phạt một cách công bằng phù hợp giữa các hành vi

phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc chiếm

đoạt chất ma túy. BLHS năm 2015 đã tách Điều 194 quy định các tội tàng trữ,

vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt trái phép chất ma túy BLHS 1999 thành

04 tội riêng tại các Điều 249,Điều 250, Điều 251, Điều 252. So với BLHS cũ

tổng số điều luật trong chương XX BLHS 2015 tăng lên 13 Điều. Đối với

Điều 192 BLHS 1999 chỉ quy định chung Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các

loại cây khác có chứa chất ma tuý thì Điều 247 BLHS 2015 đã sửa đổi, quy

định cụ thể thành Tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các

loại cây khác có chứa chất ma túy.

59

Thứ hai, hình phạt tử hình được hạn chế áp dụng đối với các tội phạm

về ma túy.

Tinh thần của Hiến pháp năm 2013 là bảo vệ quyền sống của con

người, đồng thời tiếp tục cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về giảm

hình phạt tử hình trong các Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và

Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020. Cụ thể: Nghị quyết số 49/NQ-TW của Trung

ương đã khẳng định “Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp

dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Việc hạn chế

hình phạt tử hình ở nước ta hiện nay đối với các tội phạm về ma túy chính là

thể hiện tính nhân đạo các chính sách trên.

Bên cạnh đấy, cũng cần phải nhận thấy rằng, các hành vi tàng trữ, vận

chuyển trái phép chất ma túy trong các vụ án nghiêm trọng diễn ra trong thời

gian qua chủ yếu là để phục vụ hoặc có liên quan trực tiếp đến việc mua bán

trái phép chất ma túy. Trên thực tế, những đối tượng tàng trữ, vận chuyển trái

phép chất ma túy chủ yếu là người nghèo, người làm thuê, có nhận thức pháp

luật hạn chế nhưng khi bị bắt giữ đều phải chịu trách nhiệm tại những khung

hình phạt cao, kể cả tử hình giống như tôi mua bán trái phép chất ma túy. Hơn

nữa, tội phạm được quy định tại Điều 194 của BLHS là một tội phạm kép

gồm nhiều hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm rất khác nhau nhưng lại

cùng chung một chính sách xử lý. Đây là điều bất hợp lý. Chính vì thế việc

quy định nhiều hành vi khách quan có tính chất, mức độ khác nhau trong cùng

một khung hình phạt là chưa đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hành vi và cá thể hóa

trách nhiệm hình sự. Do vậy, để góp phần giảm án tử hình trên thực tế, BLHS

2015 (sửa đổi 2017) đã tách tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc

chiếm đoạt chất ma tuý quy định tại Điều 194 BLHS cũ thành các tội danh

độc lập, đồng thời chỉ giữ lại hình phạt tử hình đối với tội mua bán trái phép

60

chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Đối với các tội danh khác

dù mức độ nguy hiểm đến đâu thì mức hình phạt cao nhất chỉ dừng lại ở hình

phạt tù chung thân.

Thứ ba, Sửa đổi một số tình tiết định khung hình phạt.

Tại Điều 247 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định về Tội trồng

cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma

túy đã liệt kê cụ thể các hành vi vi phạm ở khoản 1 như sau:

a) Đã được giáo dục 02 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án

về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây.

Đồng thời bổ sung thêm khoản 4“Người nào phạm tội thuộc khoản 1

Điều này, nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có

thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn trách nhiệm hình

sự” mà ở Điều 192 BLHS 1999 chưa có quy định. Khoản 2 bổ sung thêm

điểm b “Với số lượng 3.000 cây trở lên”.

Điểm b, khoản 2 sửa “phạm tội nhiều lần” thành“Phạm tội 02 lần trở

lên” đối với các Điều 248, Điều 253, 254, 255, 256, 257:

Các điều ở chương XX của BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) ở

khoản 1 không chỉ quy định các mức chế tài như BLHS 1999 mà còn liệt kê

vi phạm cụ các hành vi, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người áp dụng

luật.

Thứ tư, Về việc xác định hàm lượng để làm cơ sở, căn cứ định tội, định

khung hình phạt của Tòa án trong quá trình xét xử.

Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) đã có nhiều điều chỉnh,

sửa đổi, bổ sung về thuật ngữ đối với quy định về định lượng, đơn vị tính

cũng như hình phạt. Theo hướng quy định cụ thể, chi tiết, rõ ràng mức tối

61

thiểu đến mức tối đa định lượng các chất ma túy để truy cứu trách nhiệm hình

sự trong từng Điều, đó là các Điều 249, Điều 250, Điều 252 qui định cụ thể về

định lượng, xác định mức tối thiểu đến mức tối đa các chất ma túy để cấu

thành tội phạm như:

Hêroin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối

lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05

kilôgam đến dưới 50 kilôgam; Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01

kilôgam đến dưới 10 kilôgam. Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc côca có

khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam; Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả, cây

cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam.

Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20

gam; Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililit đến dưới

100mililit.

Đối với vấn đề định lượng các chất ma túy, BLHS 2015 (sửa đổi bổ

sung 2017) thay đổi đơn vị tính từ “trọng lượng” thành“khối lượng”, các vụ

án ma túy từ trước đến nay khi thu giữ được vật chứng đều được xác định

bằng gam, kilogam… đây chính là đơn vị tính khối lượng chứ không phải

trọng lượng. Chính vì thế, BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) đã thay

đổi đơn vị tính từ “trọng lượng” thành “khối lượng” trong các điều luật để

đảm bảo tính chính xác trong hành vi phạm tội.

BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) đã quy định thêm một số chất

ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy đã được Chính phủ quy định vào

các Điều luật cụ thể như chất ma túy Methamphetamine, Amphetamine,

MDMA…

Như vậy, Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định các tội

phạm về ma túy có rất nhiều điểm mới so với Bộ luật năm 1999, tạo thuận lợi

trong thực tiễn quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan chức năng tiến

62

hành điều tra, truy tố và xét xử tạo cơ sở việc xác định tội danh, xác định

khung hình phạt cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho người phạm

tội một cách chính xác, đúng người đúng tội. Không những vậy người dân

cũng dễ dàng xác định được những hành vi nào vi phạm những điều cấm quy

định trong Bộ luật và từ đó tự giác chấp hành.

3.3. Thực tiễn tình hình tội phạm ma túy và việc hoàn thiện tổ chức

phòng ngừa tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Nam

Trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung đặc biệt với tội phạm

về ma túy luôn lấy phòng ngừa tội phạm là hoạt động quan trọng nhất của cơ

quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp nhằm hướng

đến việc thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm,

cũng là ngăn chặn, hạn chế và từng bước loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã

hội.

Để phòng ngừa tội phạm này có hiệu quả, chúng ta phải tìm những giải

pháp khắc phục được những nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh, tồn tại

và phát triển tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong các năm qua, từ đó

dưa ra dự báo tình hình tội phạm, xu thế vận động của nó trong các năm tiếp

theo. Mục đích quan trọng nhất của việc nghiên cứu tình tội phạm ma túy trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua là đưa ra được những giải pháp

phòng ngừa loại tội phạm một cách có căn cứ khoa học, phù hợp với thực tế

và có tính khả thi cao. Từ những nội dung đã nghiên cứu ở trên, tác giả đề

xuất một vài nhóm giải pháp phòng ngừa như sau:

3.3.1. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền

Để góp phần kéo giảm tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

nói chung tình hình tội phạm về ma túy nói riêng. Hằng năm, Uỷ Ban nhân

dân tỉnh Quảng Nam luôn có chương trình phòng chống và kiểm soát ma túy

trên địa bàn tỉnh. Để làm tốt công tác tuyên truyền, kêu gọi người dân tích cực

63

tham gia phòng chống tệ nạn ma túy trong thời gian đến cần thực hiện tốt các

nội dung sau:

Thứ nhất, Xác định rõ vai trò, phân công cụ thể trách nhiệm của đơn vị

chủ trì, đơn vị phối hợp và thống nhất nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo

dục về phòng, chống ma túy giữa các cơ quan chức năng. Tiến hành nghiên

cứu, cải tiến phương pháp, nội dung, hình thức, xây dựng các chương trình

tuyên truyền phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể.

Thứ hai, Việc xây dựng đề cương tuyên truyền phòng chống ma túy cần

thống nhất về mặt nội dung và đảm bảo phải cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, tránh

trừu tượng, chung chung. Gia tăng thời lượng và cần đa dạng các nội dung

tuyên truyền để giúp cho mọi người dân hiểu được thế nào là ma tuý, tác hại

của ma tuý, các loại ma túy, nâng cao cảnh giác chủ động phòng ngừa, xây

dựng phương pháp phát hiện sớm người nghiện ma tuý và tội phạm ma tuý.

Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp tuyên truyền

phòng, chống ma túy giữa các sở, ban, ngành, của tỉnh. Xây dựng chương

trình phát sóng của các đài truyền hình, đài truyền thanh về các phóng sự,

thông điệp và những thông tin phòng, chống ma túy cần thiết, thu hút được sự

quan tâm của đại đa số người dân vào những thời điểm phù hợp với đại đa số

người dân, đặc biệt người đân sống ở vùng nông thôn, vùng núi. Nội dung

nhất thiết phải thể hiện được quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước trong phòng, chống và kiểm soát ma tuý trên cở Hiến

pháp và pháp luật; nêu lên được trách nhiệm của từng tổ chức, tập thể và cá

nhân người dân trong chiến lược phòng chống tệ nan ma túy. Chú trọng xây

dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách có năng khiếu, có trình độ chuyên môn cả

về lý luận và thực tiễn, tạo mọi điều kiện để họ phát huy tốt nhất khả năng của

mình để trở thành những báo cáo viên, tuyên truyền viên, công tác viên phục

vụ tốt công tác tuyên truyền.

64

Thứ ba, Kết hợp các hình thức tuyên truyền qua các phương tiện truyền

thông đại chúng với tuyên truyền trực tiếp, trong đó chú ý vai trò của các tổ

chức, cá nhân có uy tín, ảnh hưởng; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trực

quan bằng Pano, băng rôn cổ động, các buổi biểu diễn văn nghệ quần chúng,

xây dựng và phát tường xuyên chuyên mục về phòng chống ma túy trên đài

phát thanh, truyền hình và các đài truyền thanh huyện, thành phố thuộc tỉnh.

Tổ chức các cuộc thi sáng tác nghệ thuật về âm nhạc, điện ảnh, sân khấu hóa

và các hoạt động giao lưu văn nghệ, thể thao sinh động mang thông điệp

phòng, chống ma túy, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về ma túy và pháp luật

phòng chống ma túy. Tổ chức, triển khai thực hiện các chương trình tuyên

truyền, giáo dục kỹ năng phòng, chống ma túy phù hợp với từng nhóm đối

tượng cụ thể, trọng tâm là học sinh - sinh viên, công nhân, viên chức, đoàn

viên công đoàn và nhân dân ở các vùng nông thôn, miền núi có nguy cơ bị tội

phạm lợi dụng hoạt động pham tội. Bên cạnh việc tuyên truyền theo chiều

rộng cần kết hợp tuyên truyền cá biệt phù hợp với từng loại đối tượng như:

Cán bộ quản lý, lãnh đạo, đối tượng nghiện ma tuý, đối tượng có nguy cơ

thực hiện các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý.

Thứ tư, Thành lập các tổ, đội, cán bộ chuyên trách thực hiện công tác

tuyên truyền trong các cơ quan chuyên trách phòng chống ma túy trên địa bàn

tỉnh Quảng Nam như: Cán bộ chuyên trách tuyên truyền của lực lượng Công

an, của sở lao động thương binh và xã hội, phòng lao động thương binh xã

hội, sở giáo dục và đào tạo, Tòa án, Viện kiểm sát các cấp tại tỉnh. Hàng năm,

có kế hoạch tập huấn, hội họp, nói chuyện, báo cáo chuyên đề, mít tinh, hội

thảo và tuyên truyền miệng để bồi dưỡng, nâng cao kiến thức nghiệp vụ và kỹ

năng cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy từ

tỉnh đến các huyện, xã, phường, đội ngũ phóng viên, cán bộ giảng dạy tại các

nhà trường được phân công trực tiếp thực hiện công tác này.

65

Thứ năm, Hỗ trợ tổ chức triển khai đồng bộ các hoạt động phòng,

chống ma túy ở cấp cơ sở, tập trung cho các xã, phường, thị trấn có ma túy.

Trong đó, chú trọng triển khai các hoạt động tuyên truyền nhằm làm tốt công

tác phòng ngừa tệ nạn ma túy phát sinh; bồi dưỡng nâng cao khả năng nghiệp

vụ cho lực lượng công an cấp xã và các tổ chức đoàn thể về phòng, chống ma

túy; xây dựng và duy trì các mô hình có hiệu quả về phòng, chống ma túy.

Thứ sáu, Kết hợp hài hòa chương trình quốc gia phòng chống tội phạm

với chương trình xóa đói giảm nghèo. Đẩy mạnh chương trình xây dựng nông

thôn mới trong toàn tỉnh. “Xây dựng xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma

túy” trên phạm vi toàn tỉnh theo từng giai đoạn để tạo sự chuyển biến mạnh

mẽ, đồng bộ trên các lĩnh vực nhằm hạn chế và từng bước loại trừ nguyên

nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, tệ nạn ma túy, đảm bảo sự ổn định vững

chắc về an ninh trật tự trên địa bàn toàn tỉnh.

Thứ bảy, Các cơ sở giáo dục nghiên cứu tổ chức đưa nội dung giáo dục

phòng chống ma túy vào chương trình đào tạo của các nhà trường sao cho phù

hợp với các cấp học, bậc học. Các cơ sở giáo dục trên địa bàn cần thường

xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu, văn hóa văn nghệ, chiếu phim, hội thi,

các buổi nói chuyện chuyên đề với chủ đề phòng chống ma túy. Đưa ra các

quy chế phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong quản lý, giáo dục học

sinh, sinh viên; ngăn chặn ma túy xâm nhập học đường; Có quy chế phối hợp

với chính quyền địa phương, gia đình và nhà trường trong việc ngăn chặn sự

xâm nhập của ma túy vào bộ phận sinh viên ngoại trú tại các trường đại học,

cao đẳng, trung cấp…trên địa bàn tỉnh.

Thứ tám, xây dựng chương trình phối hợp quản lý chặt chẽ, cùng giải

quyết một cách tích cực và hiệu quả giữa các cơ quan Công an, Đoàn thanh

niên, nhà trường, các tổ chức xã hộ, chính quyền địa phương và các hộ gia

đình theo dõi, điều tra và khảo sát tất cả học sinh, sinh viên có biểu hiện hoạt

66

động sử dụng ma túy và có khả năng sa ngã vào tệ nạn ma túy. Xây dựng các

kênh thông tin và mối quan hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh, sinh

viên bằng nhiều hình thức, gắn trách nhiệm giữa gia đình, nhà trường và xã

hội thành mối quan hệ thống nhất và bằng các quy chế phối hợp cụ thể để

phòng ngừa, xử lý vi phạm trong học sinh, sinh viên. Lắp đặt các hộp thư tố

giác tội phạm nói chung, tội phạm ma túy nói riêng để học sinh, sinh viên, cán

bộ công nhân viên, giáo viên và vận động mọi người dân có điều kiện tham

gia phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ”. Thường xuyên duy trì việc sơ kết,

tổng kết rút ra những kinh nghiệm trong công tác tuyên truyền vận động nhân

dân tham gia phòng chống ma túy; tiến hành khen thưởng, động viên, nhân

rộng các điển hình tiên tiến, những tập thể, cá nhân có thành tích trong phong

trào bảo vệ toàn dân bảo vệ ANTQ để động viên, khích lệ nhân dân tham gia.

Thứ chín, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh và

các đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an các huyện, thị, thành

phố trên địa bàn tỉnh cần đẩy mạnh việc xây dựng phong trào toàn dân tham

gia phòng chống ma túy trong khu dân cư, duy trì việc thực hiện tốt các quy

chế phối hợp về bảo vệ an ninh trật tự trong các trường học và cơ sở giáo dục

của Công an tỉnh với Sở giáo dục đào tạo tỉnh. Tổ chức rà soát, bổ sung hoặc

xây dựng mới các quy chế phối hợp, các kế hoạch liên tịch giữa Công an với

các ban, ngành đoàn thể, cơ quan, tổ chức trong công tác phòng, chống tệ nạn

ma tuý. Đặc biệt chú trọng vận động phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ

chức, đoàn thể ở cơ sở trong công tác cảm hoá, giáo dục người lầm lỗi, người

trong diện quản lý sau cai, người có tiền án, tiền sự tại địa phương.

Xây dựng phong trào quần chúng mạnh, tổ chức động viên đông đảo

huy động mọi nguồn lực, kêu gọi sự tham gia của cả hệ thống chính trị thực

hiện tốt kế hoạch phòng chống ma túy của tỉnh. Một Khi kiến thức về phòng

chống ma túy được nâng cao và đồng đều từ nhân thức đến hành động thì mọi

67

tầng lớp dân trong xã hội đều nhận thức được tác hại của ma túy, tự giác tiến

hành phòng, chống, “nói không với ma túy” mọi lúc mọi nơi một cách chủ

đống sẽ dẫn đến nhu cầu về ma túy sẽ không còn, khi đó tội phạm về ma túy

có nguy cơ sẽ bị triệt tiêu.

3.3.2. Tăng cường nguồn lực

Huy động tối đa sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong việc tăng

cường các nguồn lực đưa tỉnh Quảng Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững

về kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội xứng đáng với bề dày lịch sử và truyền

thống quê hương cách mạng anh hùng. Cụ thể : Đầu tư phát triển kinh tế kêu

gọi đầu tư, ưu tiến các nhà đầu tư có kinh nghiệm phát triển các ngành công

nghiệp, nông lâm nghiệp mà đia phương có thế mạnh, phát triển các ngành

dịch vụ và thương mại, phát triển công nghiệp, tạo chuyển biến mạnh mẽ về

cơ cấu kinh tế, vì tăng trưởng kinh tế sẽ tạo chỗ làm mới và giải quyết việc

làm một cách thuận lợi hơn. Tuy vậy, để giải quyết việc làm cho người lao

động hiện chưa có việc làm cần phải đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, chú

trọng đầu tư kinh phí để đào tạo nghề ngắn hạn miễn phí cho những người

không có nghề nghiệp, lao động nông thôn, cho lao động phổ thông, chuyển

đổi cơ cấu ngành nghề phù hợp với điều kiện của tỉnh. Xây dựng các cơ chế

giải quyết việc làm; ưu đãi, hỗ trợ dạy nghề cho người nghèo, người nghiện,

người sau cai nghiện, người mới chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng

đồng... để họ có nghề nghiệp và tìm được việc làm phù hợp, ổn định cuộc

sống, đảm bảo an sinh xã hội; huy động các nguồn vốn để cho vay ưu đãi, giải

quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo.

Ưu tiên khuyến khích phát triển mạnh các loại hình sản xuất, kinh

doanh đa dạng, phong phú, thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước; ưu

đãi cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất thu hút được nhiều lao động trong

xã hội vào làm việc; xây dựng thêm các khu công nghiệp, các khu chế xuất,

68

phục dựng và phát triển các ngành nghề, làng nghề sản xuất thủ công, truyền

thống có thế mạnh... để tạo điều kiện giải quyết triệt để nguồn lao động xã

hội. Chuyển hướng sang công tác đào tạo, hỗ trợ kinh phí đào tạo cho con em

hộ nghèo, gia đình chính sách, người không có việc làm ở vùng nông thôn,

vùng núi đủ điều kiện đưa đi lao động có thời hạn ở nước ngoài, định hướng

xuất khẩu lao động chất lượng cao; gắn chặt chính sách giải quyết việc làm

với chính sách kinh tế với các chính sách an sinh xã hội để tạo khả năng giải

quyết việc làm cho lao động xã hội.

Làm tốt công tác xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần cho người dân đặc biệt là các khu vực vùng sâu, vùng xa là yếu tố quan

trọng để tạo đà tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Đề xuất

chính quyền địa phương xây dựng các chính sách hỗ trợ người nghèo, người

có thu nhập thấp, hộ gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng

được vay vốn với lãi xuất thấp để phát triển kinh tế nhằm thu hẹp khoảng

cách giàu nghèo.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới, xây dựng môi trường văn

hóa, văn minh cho đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh đặc biệt vùng nông

thôn, vùng núi và biên giới.

Bên cạnh đấy cần huy động nguồn lực, tăng cường tài chính từ ngân

sách nhà nước, kêu gọi hỗ trợ các tổ chức cá nhân khác cho chương trình

phòng chống kiểm soát ma túy đến năm 2020 của Ủy Ban nhân dân tỉnh

Quảng Nam.

3.3.3. Tăng cường mối quan hệ

Phòng chống và kiểm soát ma túy là nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi

địa phương, mỗi quốc gia và cả thế giới. Để đấu tranh hiệu quả với tệ nạn ma

túy cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức quốc tế, các quốc gia với

nhau. Thực hiện tốt kế hoạch phòng chống ma túy của Chính phủ Ủy Ban

69

nhân dân tỉnh Quảng Nam luôn chủ động triển khai thực hiện có hiệu quả

Công ước quốc tế về kiểm soát ma túy, các Hiệp định và thỏa thuận song

phương, đa phương về hợp tác phòng, chống ma túy mà Việt Nam đã ký kết

hoặc tham gia; các nội dung hợp tác về phòng, chống, kiểm soát ma túy đã

được thỏa thuận tại Biên bản Hội nghị cấp cao thường niên giữa UBND tỉnh

Quảng Nam và UBCQ tỉnh SêKông (Lào); Biên bản ghi nhớ Hội nghị hợp tác

thường niên giữa Công an tỉnh, Bộ đội Biên phòng tỉnh với Sở An ninh tỉnh

Sê Kông (Lào).

Tổ chức giao ban định kỳ, đột xuất để trao đổi các vấn đề có liên quan

trong công tác PCMT; phối hợp với các lực lượng chức năng của tỉnh

SêKông (Lào) tổ chức tuần tra, kiểm soát tuyến biên giới, giải quyết các vụ

việc liên quan đến an ninh trật tự, vận động, tuyên truyền, giáo dục Nhân dân

vùng biên, tôn trọng pháp luật hai nước, kiểm soát chặt chẽ đường biên,

không để hình thành các đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy qua biên

giới và nảy sinh các vấn đề phức tạp liên quan đến ANTT tuyến đường biên.

Phối hợp với Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Quốc tế tại Việt Nam và địa

phương với Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội các huyện tổ chức đi

thăm gặp, nắm bắt thông tin tình hình đời sống có các hoạt động gây quỷ hỗ

trợ người chấp hành xong án phạt tù, người nghện ma túy tái hòa nhập cộng

đồng, ổn định cuộc sống.

3.3.3.1. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước,

quản lý kinh tế văn hóa, quản lý xã hội

Cần xác định cụ thể trách nhiệm và thấy rõ vai trò của các cơ quan

quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế văn hóa, quản lý xã hội chiếm vị trí quan

trọng và là then chốt trong công tác phòng chống tội phạm về ma túy. Để

công tác này thật sự hiệu quả cần phải phân công cụ thể trách nhiệm của từng

sở ngành gắng với chức năng quản lý xã hội như: Ngành y tế với chức năng

70

được giao nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất thuốc cai nghiện, các loại thuốc

hướng thần cần có cơ chế quản lý chặt chẽ các chất ma túy dùng trong ngành

y tế và thuốc tân dược gây nghiện, không để lọt ra thị trường tự do là góp

phần trực tiếp phòng ngừa tội phạm về ma túy. Ngành công nghiệp quản lý

chặt chẽ việc nhập tiền chất, sử dụng tiền chất không để tội phạm lợi dụng sản

xuất ra chất ma túy là góp phần phòng ngừa tội phạm về ma túy. Ngành văn

hóa thông tin thông qua công tác tuyên truyền tác hại của tội phạm ma túy,

phương thức thủ đoạn của tội phạm về ma túy mà nâng cao ý thức phòng

ngừa tội phạm ma túy của nhân dân. Ngành giáo dục làm tốt công tác giáo

dục phòng chống sử dụng ma túy trong học sinh, sinh viên, trong thế hệ trẻ là

hoạt động phòng ngừa tội phạm ma túy tích cực và chủ động. Đẩy mạnh

phương pháp dạy học tích cực, lấy người học là trung tâm, giáo viên chỉ là

người định hướng, hướng dẫn các em đi tìm tri thức. Trong quá trình công tác

các ban ngành, đoàn thể cần nâng cao trách nhiệm ý thức được vai trò của

mình đối với xã hội cũng như trong công tác phòng chống ma túy sẽ góp phần

xóa bỏ những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm và ma túy.

3.3.3.2. Các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, các hộ gia

đình

a. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, Mặt trân Tổ quốc và đoàn

thể quần chúng nhân dân:

Các tổ chức chính trị - xã hội, Mặt trân Tổ quốc và đoàn thể quần

chúng nhân dân, các hộ gia đình chính là những chủ thể, mảnh ghép quan

trọng từ cơ sở góp phần quan trọng vào thắng lợi của hoạt động phòng ngừa

tội phạm về ma túy trên địa bàn toàn tỉnh. Tiếp tục triển khai, hướng dẫn

thành lập mới và duy trì Đội công tác xã hội tình nguyện theo Quyết định số

1625/QĐ-UBND ngày 07/5/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam phê

duyệt Quy hoạch mạng lưới Đội công tác xã hội tình nguyện trên địa bàn tỉnh

71

đến năm 2020. Thường xuyên phối hợp với các ngành liên quan, Mặt trận, các

tổ chức đoàn thể và các địa phương tăng cường công tác rà soát, phân loại,

quản lý, trợ giúp người sử dụng trái phép chất ma túy đi cai nghiện ma túy trở

về hòa nhập cộng đồng ổn định cuộc sống.

Tiếp tục đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn

tỉnh gắn với các mô hình “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở

khu dân cư”, “Đoạn đường tự quản”, “Con đường thanh niên tự quản”… để

huy động sự mạnh của cả hệ thống chính trị đặc biệt sức mạnh của nhân dân

trong đấu tranh phòng chống tệ nan ma túy.

Vai trò của gia đình trong công tác phòng chống tình hình tội phạm ma

túy tại tỉnh Quảng Nam:

- Thế giới đang diễn ra những biến động to lớn, những tác động nhiều

chiều của xu thế toàn cầu hóa, quá trình giao lưu văn hóa thời hiện đại đang

đặt thanh niên trước những đòi hỏi, thách thức mới. Lối sống của thanh niên

Việt Nam có nhiều biểu hiện tiêu cực như buông thả bản thân, ích kỷ, thờ ơ,

thiếu trách nhiệm, hành xử bạo lực…Xu hướng gia tăng giới trẻ sa vào các tệ

nạn xã hội và phạm tội, trong đó nghiêm trọng nhất là đại vấn nạn HIV/AIDS,

nạn nghiện chất ma túy, nạn mãi dâm, nạn bị lệ thuộc vào “thế giới ảo”.

-`Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lối sống của thanh niên hiện nay,

trong đó, gia đình và giáo dục gia đình là một trong những yếu tố tác động

quan trọng nhất đối với quá trình phát triển nhân cách, hình thành hành vi tích

cực và định hướng lối sống đúng đắn cho thanh niên trong tương lai.

- Với tư cách là “tế bào” nhỏ nhất, là thiết chế cơ bản bền vững của xã

hội, gia đình là nơi nuôi dưỡng con người về thể chất và tinh thần từ lúc còn

nhỏ đến khi trưởng thành. Nên gia đình có vai trò quan trọng trong việc duy

trì, gìn giữ và trao truyền các giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa dân tộc,

thuần phong mỹ tục và động viên các thành viên của mình phấn đấu theo

72

đúng chuẩn mực của xã hội. Bên cạnh đấy, gia đình vừa là màng lọc cũng là

của ngõ đầu tiên để mọi thanh niên tiếp nhận những tác động của tri thức, văn

hóa từ bên ngoài, nhưng vừa giống như bức tường rào bảo vệ họ khỏi những

tác động xấu của xã hội.

Tóm lại, các tổ chức xã hội, đoàn thể nhân dân, cá nhân và gia đình

chính là những chủ thể quan trọng nhất, góp phần quyết định trong hoạt động

phòng ngừa tội phạm nói chung đặc biệt tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng

Nam nói riêng.

b. Vai trò của nhà trường trong phòng chống tình hình tội phạm ma túy

tại tỉnh Quảng Nam

Nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm ma túy gia tăng trong thời

gian qua một phầm là do nhận thức kém, không được trang bị kiến thức pháp

luật, học vấn thấp. Chính sự việc không được trang bị kiến thức ở trường học

nên người dân dễ có những hành vi vi phạm pháp luật cũng như tội phạm mà

mình không biết. Để kéo giả tình hình tội phạm trong thời giam đến cần tập

trung đầu tư cho trường học, phát huy vai trò của trường học đến các cơ quan,

tổ chức xx hội và mị người dân. Cụ thể:

- Xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi về kiến thức chuyên môn và là tấm

gương sáng về nhân cách, đạo đức cho học sinh noi theo.

- Tiến hành đổi mới cơ bản chương trình đào tạo. Đổi mới từ phương

pháp giảng dạy đến nội dung và chương trình học, lấy người học làm trung

tâm.

- Thường xuyên, tích cực động viên, thu hút trẻ đến trường. Đẩy mạnh

xây dựng xã hội học tập, dòng họ học tập, gia đình học tập đế tiến tới xóa bỏ

mù chữ, học vấn thấp, từng bước phổ cấp giáo dục theo các cấp độ học.

73

- Chú ý công tác hướng nghiệp, trang bị kiến thức ngành, chuyên ngành

hướng đến việc đào tạo chuyên môn hóa cho học sinh ở cấp THPT và trung

cấp, cao đẳng để các em có thể làm việc tốt sau khi ra trường.

Sở Giáo dục – đào tạo tỉnh Quảng Nam cần có kế hoạch liên kết với

các cơ quan, đoàn thể trên địa bàn tỉnh để phối hợp phòng chống tệ nạn ma

túy trong học đường.

c. Thực hiện tốt công tác cai nghiện, triển khai tốt công tác tái hòa

nhập sau cai nghiện ma túy tại tỉnh Quảng Nam

Thứ nhất, Tổ chức tốt các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực

chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tệ nạn

xã hội từ cấp huyện đến cấp xã và đội ngũ cán bộ viên chức tại Cơ sở cai

nghiện ma túy Quảng Nam; tuyên truyền " tác hại ma túy đối với con người "

cho lực lượng học sinh, sinh viên tại một số Trường Đại học, Cao đẳng và đội

ngũ công nhân lao động tại một số doanh nghiệp lớn trong các khu công

nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Thứ hai, Tiếp tục triển khai, hướng dẫn thành lập mới và duy trì Đội

công tác xã hội tình nguyện theo Quyết định số 1625/QĐ-UBND ngày

07/5/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam phê duyệt Quy hoạch mạng

lưới Đội công tác xã hội tình nguyện trên địa bàn tỉnh đến năm 2020.

Thứ ba, Thường xuyên phối hợp với các ngành liên quan, Mặt trận, các

tổ chức đoàn thể và các địa phương tăng cường công tác rà soát, phân loại,

quản lý, trợ giúp người sử dụng trái phép chất ma túy đi cai nghiện ma túy trở

về hòa nhập cộng đồng ổn định cuộc sống. tạo điều kiện cho vay vốn, hỗ trợ

phát triển kinh tế gia đình để họ có thể xây dựng cuộc sống mới.

Thứ tư, Tiếp tục hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện duy trì và

nâng cao hiệu quả hoạt động các mô hình "Điểm tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ và

điều trị nghiện ma túy tại cộng đồng"; mô hình làm tốt công tác cai nghiện và

74

quản lý sau cai nghiện ma túy.

Thứ năm, Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn Cơ sở cai

nghiện ma túy Quảng Nam thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao.

3.3.3.3. Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án,

cơ quan tư pháp và các cơ quan có chức năng có nhiệm vụ phòng ngừa tội

phạm về ma túy (Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển)

Các cơ quan bảo vệ pháp luật giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động

phòng ngừa tội phạm về ma túy. Theo chức năng nhiệm vụ được Đảng, Nhà

nước phân công, được nhân dân tín nhiệm gửi gắm các cơ quan Công an,

Viện Kiểm sát, Tòa án cũng như các cơ quan Hải quan, Bộ đội Biên phòng,

Cảnh sát biển cần phải chủ động nắm bắt tình hình, phối hợp với nhau theo

chức năng nhiệm vụ được phân công trong đấu tranh phòng chống tội phạm

về ma túy. Đảm bảo không để tội phạm về ma túy có điều kiện phát triển trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này cần căn cứ vào các

văn bản của Tỉnh ủy, Ủy Ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành cũng như quy

chế phối hợp trong phòng chống tội phạm về ma túy giữa các đơn vị, quy

định của Luật phòng chống ma túy (Cơ quan chuyên trách phòng chống tội

phạm về ma túy thuộc công an nhân dân... chủ trì phối hợp với các cơ quan

hữu quan thực hiện các hoạt động ngăn chặn đấu tranh chống tội phạm về

ma túy).

3.3.4. Tiếp tục cải cách tư pháp

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, Đảng và

Nhà nước ta đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và phát triển đội

ngũ cán bộ tư pháp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới theo

tinh thần Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Theo đó, các chế

độ, chính sách phụ cấp đối với đội ngũ cán bộ ngành Kiểm sát Quảng Nam

được quan tâm nhằm cải thiện thu nhập, góp phần để đội ngũ cán bộ, công

75

chức ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, đồng thời thu hút được nguồn nhân

lực có chất lượng vào Ngành. Các chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo, quản lý,

phụ cấp khu vực, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp thâm niên nghề,

phụ cấp công vụ được đơn vị thực hiện đảm bảo và chi trả đúng theo nguyên

tắc. Cơ sở vật chất, phương tiện trang bị phục vụ hoạt động của ngành Kiểm

sát ngày càng được tăng cường.

Ban Cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tiếp tục thực

hiện có hiệu quả Nghị quyết 49-NQ/TW; Kết luận số 92-KL/TW của Bộ

Chính trị; Kế hoạch số 05-KH/TU ngày 18/11/2014 của Ban Chỉ đạo Cải

Cách Tư pháp tỉnh thực hiện Kết luận 92- KL/TW và các văn bản chỉ đạo

khác về công tác cải cách tư pháp; các văn bản chỉ đạo, giao nhiệm vụ của

Tỉnh ủy Quảng Nam như Chương trình số 10/CTr/BCĐ ngày 11/07/2016 của

Ban chỉ đạo cải cách tư pháp tỉnh về trọng tâm cải cách tư pháp giai đoạn

2016-2021.

Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt chức năng của ngành Kiểm sát là Thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; kiểm sát chặt chẽ hoạt

động điều tra gắn công tố với hoạt động điều tra; phát hiện kháng nghị kịp

thời các bản án, quyết định có vi phạm pháp luật; xử lý công bằng, nghiêm

minh theo qui định của pháp luật;

Thực hiện tốt các qui chế phối hợp trong Khối Nội chính; phối hợp với

các cơ quan tố tụng giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc, các vụ án

mà dư luận xã hội quan tâm;

Tiếp tục rà soát và khảo sát về nhu cầu, điều kiện cơ sở vật chất, trụ sở

làm việc của hai cấp để báo cáo, đề xuất VKSND tối cao quan tâm hỗ trợ, ưu

tiên những đơn vị có yêu cầu cấp thiết nhất đồng thời nghiên cứu đề xuất cơ

chế, chính sách để tỉnh hỗ trợ cho ngành Kiểm sát;

76

Thực hiện tốt việc kiện toàn tổ chức bộ máy theo chỉ đạo của VKSND

tối cao và theo đề án vị trí việc làm; tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, tuyển chọn những người có

tâm huyết, đạo đức, có trách nhiệm, bản lĩnh vào công tác trong ngành Kiểm

sát nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng của Ngành;

chăm lo tốt các chế độ chính sách cho CBCC trong toàn ngành Kiểm sát

Quảng Nam./.

77

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trong Chương 3 TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MA TÚY VÀ NHỮNG VẤN

ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM MA TÚY

TẠI TỈNH QUẢNG NAM tác giả đã tiến hành những nội dung:

3.1. Tình hình tội phạm và dự báo tình hình tội phạm về ma túy trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam

3.1.1. Cơ sở của dự báo

3.1.2. Dự báo tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Nam 3.2. Thực tiễn tình hình tội phạm ma túy và việc hoàn thiện pháp

luật (pháp luật hình sự)

Thứ nhất, Về cơ cấu: Chương 18 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ

sung năm 2009) gồm 10 Điều (từ Điều 192 đến Điều 201) qui định các tội

phạm về ma túy tong đó các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép

chất ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma túy gọp chung thành một điều (Điều 194).

Thứ hai, Giảm hình phạt tử hình đối với người phạm tội về ma túy.

Thứ ba, Sửa đổi một số tình tiết định khung hình phạt.

Thứ tư, Xác định cụ thể hàm lượng các chất ma túy để làm căn cứ định

tội, định khung hình phạt đối với người phạm tội về ma túy.

3.3. Thực tiễn tình hình tội phạm ma túy và việc hoàn thiện tổ chức

phòng ngừa tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Nam

3.3.1. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền

3.3.2. Tăng cường nguồn lực

3.3.3. Tăng cường mối quan hệ

3.3.3.1. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước,

quản lý kinh tế văn hóa, quản lý xã hội

3.3.3.2. Các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, các hộ gia

đình

78

a. Vai trò của các tỏ chức chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể quần chúng nhân dân:

b. Vai trò của gia đình trong công tác phòng chống tình hình tội phạm

ma túy tại tỉnh Quảng Nam:

c. Vai trò của nhà trường trong phòng chống tình hình tội phạm ma túy

tại tỉnh Quảng Nam

d. Thực hiện tốt công tác cai nghiện, triển khai tốt công tác tái hòa

nhập sau cai nghiện ma túy tại tỉnh Quảng Nam

3.3.3.3. Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án,

cơ quan tư pháp và các cơ quan có chức năng có nhiệm vụ phòng ngừa tội

phạm về ma túy (Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển)

3.3.4. Tiếp tục cải cách tư pháp

79

KẾT LUẬN

Qua quá trình nghiên cứu đề tài “Tình hình tội phạm ma túy tại tỉnh

Quảng Nam”, tác giả đã có được một số kết quả quan trọng đáng chú ý sau:

Thứ nhất, trên cơ sở thống kê các số liệu mà tác giả đã thu thập được và

trong quá trình phân tích, so sánh, tác giả đã đưa ra những đánh giá mang tính

hàn lâm, khách quan, trung thực về thực trạng, diễn biến, cơ cấu, tính chất của

tình hình tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018.

Nhìn chung, tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua có

nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng xét trong toàn chu kỳ thì chủ yếu tội

phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam có xu hướng gia tăng cả về số vụ và số

người phạm tội, cũng như quy mô, tính chất tội phạm.

Thứ hai, tác giả đã tập trung nghiên cứu, thống kê và đưa được một số

đặc điểm về nhân thân của những người phạm tội. Các đối tượng phạm tội đa

số là người đã thành niên, số người phạm tội là người chưa thành niên dù

chiếm tỷ lệ không đáng kể nhưng có xu hướng gia tăng; phần lớn là những

người có học vấn thấp, nghề nghiệp không ổn định. Số người phạm tội do có

tiền sử nghiện các chất ma túy trước khi thực hiện hành vi phạm tội, số người

phạm tội có nhân thân xấu, đã có tiền án, tiền sự chiếm tỷ lệ cao. Nguy cơ tái

phạm và tái phạm nhiều lần có khả năng diễn biến phức tạp trong thời gian

đến.

Thứ ba, tác giả nghiên cứu, phân tích và đưa ra những nhận định góp

phần làm rõ được một số nhóm nguyên nhân cơ bản làm phát sinh, phát triển

tội phạm trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua như: những yếu tố tiêu cực thuộc

môi trường gia đình; những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường;

những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường xã hội như các yếu tố trong lĩnh vực

kinh tế, trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, tuyên truyền pháp luật, trong lĩnh vực

80

tổ chức, quản lý, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương; các yếu

tố tiêu cực thuộc về cá nhân người phạm tội.

Thứ tư, từ những phân tích, đánh giá về tình hình tội phạm ma túy tại

tỉnh Quảng Nam tác giả đã đưa ra một số dự báocó căn cứ khoa học: tình hình

tội phạm trên địa bàn tỉnh có những biến động phức tạp và có xu hướng gia

tăng cả về số người phạm tội và số vụ; số vụ án được thực hiện dưới hình

thức đồng phạm có xu hướng tăng lên, xuất hiện nhiều đường dây khép kín tổ

chức phạm tội với mức độ câu kết chặt chẽ có khả năng thực hiện những tội

phạm với mức độ nguy hiểm cao hơn trước; tội phạm có xu hướng bị trẻ hóa,

thực hiện hoạt động phạm tối có tổ chức, quy mô, kế hoạch cụ thể tinh vi, xảo

quyệt.

Cuối cùng, tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp mang tính phòng ngừa

xã hội đối với tội phạm về ma túy có tính khả thi có thể áp dụng trên thực tế

tại địa bàn tỉnh Quảng Nam như sau: Nhóm các biện pháp ngăn chặn tội

phạm; Nhóm các biện pháp loại trừ tội phạm gồm như các giải pháp trong

lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực văn hóa, giáo dục, tuyên truyền pháp luật, lĩnh vực

tổ chức – quản lý xã hội.

Tác giả đã tiến hành nghiên cứu luận văn một cách nghiêm túc có khoa

học, cùng với sự tạo điều kiện giúp đỡ của đội ngũ giảng viên Học viện khoa

học xã hội –Viện hàn lâm khoa học Việt Nam và đặc biệt người hướng dẫn

khoa học - thầy giáo, Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Hữu Tráng. Bên cạnh những

điểm mới, mặt tích cực công trình nghiên cứu mang lại. Trong quá trình

nghiên cứu, do kiến thức và kinh nghiệm của tác giả trong lĩnh vực này còn

nhiều hạn chế, thiếu sót nên tác giả rất mong muốn nhận được sự chỉ bảo,

đóng góp ý kiến chân thành của các nhà khoa học để luận văn được hoàn

thiện hơn./.

81