intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:66

536
lượt xem
45
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày những nội dung chính sau: Lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc; Thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc qua thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- TRẦN PHẠM HIỀN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- TRẦN PHẠM HIỀN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. LÊ MAI THANH Hà Nội, năm 2021
  3. 1
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng và bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Chưa bao giờ các vấn đề liên quan đến tác phẩm âm nhạc lại đặt ra gay gắt, cấp bách như hiện nay. Trí tuệ vốn là tài sản của công dân, vì vậy, bản thân các quan hệ của quyền tác giả quyết định nội dung pháp luật bảo hộ quyền tác giả tác phẩm âm nhạc. Tình trạng vi phạm quyền tác giả diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực với các hình thức và mức độ khác nhau, nhất là trong lĩnh vực âm nhạc số, biểu diễn âm nhạc, karaoke, khai trương cơ sở kinh doanh… Tình trạng này gây thiệt hại và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sáng tạo, môi trường đầu tư, phát triển kinh tế- văn hóa - xã hội của đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, tình trạng tải nhạc trên mạng, sử dụng các bài hát mà không trả tiền thù lao cho tác giả đang diễn ra ngày một nhiều ảnh hưởng đến tâm lý những người sáng tác trở nên dè đặt, không còn động lực để tiếp tục sáng tạo bởi những đứa con tinh thần của họ vừa ra đời ngay lập tức bị sao chép, ăn cắp và họ không đủ tiền bạc để phát triển tài năng của mình. Tính chất “lan truyền” nhanh của môi trường kỹ thuật số đã tạo cơ hội cho người sử dụng tiếp cận quyền tác giả một cách nhanh nhất, song các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực này cũng khá phổ biến, dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong thời gian qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo hộ, nhưng thực tiễn áp dụng chưa mang lại hiệu quả cao. Tình trạng vi phạm quyền tác giả vẫn diễn ra, đặc biệt trong ý thức của mọi người đối với tác phẩm âm nhạc, việc tải, sử dụng bài hát không được sự đồng ý tác giả. 1
  5. Một số nghiên cứu khác về bảo hộ QTG nói chung và quyền tác giả đối với một số đối tượng chuyên biệt nói riêng. Nhưng vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc tại địa bàn một thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa được nghiên cứu. Xuất phát từ những căn cứ trên, học viên chọn đề tài: “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để làm đề tài cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc mới chỉ đựợc nghiên cứu bằng các bài viết, tranh luận, trong các Hội thảo khoa học hoặc trên một số tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình, sách chuyên khảo hay sách tham khảo; hay được đề cập với tư cách là một khía cạnh của các chế định quyền tác giả, các bài báo bình luận về tình hình vi phạm nổi. Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu như: Luận văn Thạc sĩ của tác giả Ngô Ngọc Phương, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội (Năm 2006) đề tài: Bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam với việc Việt Nam gia nhập công ước Berne; Luận văn Thạc sĩ của tác giả Quản Tuấn An, Đại học Luật Hà Nội (Năm 2009), đề tài: Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường kỹ thuật số - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn; Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Hồng Hải, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (Năm 2013) đề tài: Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Thùy Dung, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2016) đề tài: Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc; Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Văn Cường, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Trường Đại học Kinh tế - Luật (Năm 2018) đề tài: Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo pháp luật Việt Nam; 2
  6. Bài tham luận “Hội thảo bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số tại Việt Nam” của tác giả Lê Thị Nam Giang, trường Đại học Luật TP.HCM (năm 2014) bài viết: Những thách thức về mặt pháp lý trong việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường internet. Nhìn một cách tổng quan, từ nhiều góc độ các công trình vừa kể trên đã góp phần tạo ra những cơ sở lý luận ban đầu và chỉ ra nhiều vướng mắc trong thực tiễn. Tuy vậy, có thể nói chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách tập trung và có hệ thống mang tính chất chuyên sâu bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc từ thực tiễn địa bàn cụ thể là thành phố Hồ Chí Minh. Bởi vậy, tác giả tin tưởng rằng việc nghiên cứu đề tài này là việc làm có ý nghĩa và mang tính thời sự trong điều kiện hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn đánh giá phân tích thực trạng pháp luật bảo hộ QTG đối với TPAN từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và cơ sở pháp luật của Việt Nam bảo hộ quyền này. Đánh giá phân tích thực trạng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thực trạng bảo hộ, luận văn đề xuất phương hướng và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với tác phẩm âm nhạc nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu, phân tích lý luận, đánh giá thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn 3
  7. thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu lý luận và pháp luật về bảo hộ quyền tác giả (không bao gồm quyền liên quan) đối với tác phẩm âm nhạc mà không mở rộng đến các đối tượng khác của quyền tác giả. Luận văn giới hạn đánh giá phân tích thực trạng pháp luật thông qua thực tiễn bảo hộ QTG đối với tác phẩm âm nhạc tại thành phố Hồ Chí Minh từ khi Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ cơ lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật làm phương pháp luận nghiên cứu về bảo hộ QTG đối với tác phẩm âm nhạc. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện luận văn tác giả có sử dụng phương pháp chuyên ngành như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Phân tích tổng thể lý luận và pháp luật bảo hộ QTG đối với TPAN. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Qua thực trạng về QTG đối với tác phẩm âm nhạc tại thành phố Hồ Chí Minh sẽ đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả về việc bảo hộ QTG đối với tác phẩm âm nhạc. 4
  8. 7. Kết cấu của luận văn Để thực hiện các yêu cầu và mục đích nói trên, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần mục lục, nội dung chính của Luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Chương 2: Thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc qua thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trên địa bàn thành phố hồ chí min 5
  9. Chương 1 LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC 1.1. Khái quát về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và nhu cầu bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Từ điển Luật học có đưa ra khái niệm “tác phẩm” là “sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới hình thức và bằng phương tiện nào đó, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào” [11, tr.682]. Khoản 2 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, năm 2019 định nghĩa: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Quyền tác giả nói chung được hiểu là quyền nhân thân và tài sản đối với một tác phẩm của tác giả mà tác phẩm đó là kết quả của hoạt động sáng tạo. Quyền nhân thân thuộc về tác giả; riêng quyền công bố tác phẩm thuộc về chủ sở hữu tác phẩm. Quyền tài sản thuộc về chủ sở hữu tác phẩm. Có những trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả thì họ chỉ có các quyền nhân thân không gắn với tài sản. Hầu hết luật quyền tác giả của các nước đều phân biệt rõ giữa quyền tài sản và quyền nhân thân. Các ngoại lệ nhất định cũng được đặt ra đối với các loại hình tác phẩm đủ tiêu chuẩn bảo hộ, và đối với việc thực thi các quyền đó. Quyền tác giả là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm do chính mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. QTG đối với TPAN được định nghĩa tương ứng gắn với TPAN. 6
  10. Tác phẩm âm nhạc là một tác phẩm lớn chứa đựng nhiều đoạn nhạc ghép với nhau, bằng những thủ pháp nối tiếp, dạo đầu, khai triển, biến hóa, lặp lại để có được các cấu trúc [42, Tr.226]. Như vậy, tác phẩm âm nhạc được tạo nên từ các đoạn nhạc nhỏ ghép lại với nhau bằng những thủ pháp riêng đặc trưng của ngành này, tác phẩm âm nhạc là một loại tác phẩm rất phong phú về thể loại và cả hình thức. Khái niệm “Tác phẩm âm nhạc” được quy định rất cụ thể tại Điều 10 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, theo đó: “Tác phẩm âm nhạc quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn.”. Tóm lại, quyền tác giả đối với TPAN là tổng hợp các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu đối với các tác phẩm âm nhạc do chính mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Đó chính là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền tác giả đối với các TPAN có đặc điểm sau đây: QTG đối với TPAN có giới hạn về thời gian bảo hộ. Quyền nhân thân vô thời hạn; quyền tài sản có thời hạn bảo hộ (theo pháp luật mỗi quốc gia và điều uwóc quốc tế liên quan quy định); ví dụ, quyền tài sản có thời hạn là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết, có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết. QTG đối với TPAN có tính lãnh thổ triệt để. Tương tự như các quyền SHTT khác, QTG đối với TPAN chỉ được thừa nhận trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà quyền đó yêu cầu bảo hộ dựa trên căn cứ pháp luật của quốc gia đó. 7
  11. QTG đối với TPAN được trao chủ yếu cho hai loại chủ thể bao gồm, tác giả tác phẩm (nhạc sĩ và người viết lời) và chủ sở hữu tác phẩm âm nhạc nếu tác giả không đồng thời là chủ sở hữu TPAN. Bên cạnh đó, đôi khi một số nội dung QTG đối với TPAN cũng được chủ sở hữu quyền cho phép hoặc chuyển giao cho chủ thể khác trong quá trình khai thác quyền (gọi là nhóm chủ thể quyền). Nếu chủ thể là cá nhân thì có thể đóng vai trò là chủ sở hữu hoặc tác giả, hoặc cả hai. Còn chủ thể là tổ chức thì có quyền tác giả với tư cách là chủ sở hữu [32, Tr.18]. 1.1.2. Nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền tác giả bao gồm những quyền cụ thể mà pháp luật trao cho tác giả hay chủ sở hữu của một tác phẩm về việc đặt tên tác phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; Sao chép, điều chỉnh hay truyền tải, phổ biến tác phẩm đến với công chúng bằng và việc cho phép người khác tham gia vào quá trình khai thác tác phẩm. Quyền tác giả đối với TPAN bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản a. Quyền nhân thân Quyền nhân thân của tác giả bao gồm các quyền: + Đặt tên cho tác phẩm; + Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm. Được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; + Công bố tác phẩm hoặc cho người khác công bố tác phẩm (thuộc chủ sỏ hữu TPAN); + Bảo vệ sự vẹn toàn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén. Hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. 8
  12. Quyền nhân thân bao gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao, bao gồm ba quyền: quyền được đặt tên tác phẩm, đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của nội dung tác phẩm. Nếu chúng ta ví tác phẩm âm nhạc là đứa con tinh thần của tác giả, thì các quyền nhân thân cũng tương tự quyền của cha mẹ được khai sinh cho con, bảo vệ chăm sóc cho đứa con tinh thần tác giá sáng tạo. Vì là quyền nhân thân không được chuyển giao nên nó chỉ được dành cho tác giả (cho dù đồng thời hay không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả). Các quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và danh dự của tác giả, tồn tại một cách độc lập đối với quyền tài sản, gắn liền với tên tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm âm nhạc đã được chuyển giao. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được bảo hộ vô thời hạn, khác với những quyền khác được bảo hộ có thời hạn [24, Tr.62]. Mặc dù quyền nhân thân không gắn với tài sản cũng là quyền quan trọng, nhưng quyền quan trọng nhất trong tất cả các nội dung của quyền tác giả là các quyền nhân thân gắn với tài sản. Đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm. Quyền này là quyền nhân thân nhưng lại chuyển giao cho chủ sở hữu quyền (nếu tác giả không đồng thời là chủ sở hữu), gắn với các quyền tài sản trong chế định quyền tác giả, đó là điều còn bất cập về lý luận dưới góc độ tính chất của quyền nhân thân. b. Quyền tài sản Quyền tài sản của tác giả/chủ sở hữu TPAN bao gồm các quyền: + Làm tác phẩm phái sinh; + Biểu diễn TPAN trước công chúng; + Sao chép TPAN; + Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao TPAN; 9
  13. + Truyền đạt TPAN đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử. Hoặc bất kỳ phương tiện thông tin kỹ thuật nào khác; Các quyền này do tác giả đồng thời là chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện; hoặc họ cho phép người khác thực hiện theo quy định của luật Sở hữu trí tuệ. Các cá nhân, tổ chức khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền trên phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả [24, Tr.63]. Theo Luật SHTT, quyền tài sản bao gồm quyền sử dụng và quyền được khai thác tác phẩm dưới các hình thức do pháp luật quy định như chuyển giao các quyền này cho những người khác. Thông thường chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng quyền sử dụng, còn tác giả được hưởng thù lao, giải thưởng. Quyền sử dụng bao gồm quyền công bố, phổ biến, trình diễn, sao chép, cải biên, chuyển thể, ghi âm, ghi hình, phát thanh truyền hình, cho thuê tác phẩm. Quyền sử dụng này gắn liền với quyền nhân thân gắn với tài sản (cho/không cho sử dụng tác phẩm). Vì thế, mọi hành vi sử dụng tác phẩm (sao chép, dịch, chuyển thể, v.v.) mà không xin phép chủ sở hữu quyền tác giả là xâm phạm quyền tác giả, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác. Các hành vi sử dụng tác phẩm quan trọng nhất bao gồm: Sao chép và phân phối, bán tác phẩm: hành vi sao chép có thể bao gồm sao chép toàn bộ tác phẩm hay một phần quan trọng của tác phẩm. Sao chép khác với trích dẫn. Trích dẫn là việc sử dụng một phần tác phẩm (không đáng kể) của người khác để nêu bật ý tác giả. Việc trích dẫn phải không đơn thuần vì mục đích kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng bình thường tác phẩm và phải nêu nguồn gốc tác phẩm. Các hành vi sử dụng không phải là trích dẫn đều có thể bị coi là sao chép và phải được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Sao chép có thể tiến hành dưới dạng trực tiếp (chẳng hạn như đạo nhạc, thu băng đĩa) hay dưới dạng gián tiếp (như dùng máy ghi âm, máy 10
  14. quay phim để ghi âm, ghi hình buổi hoà nhạc). Công bố, phổ biến, phát thanh, truyền hình: quyền này còn được gọi là quyền “truyền thông đến công chúng” bao gồm các hành vi trình diễn, phân phối tác phẩm đến một số lượng đáng kể người sử dụng. Như bao gồm trình diễn một buổi hoà nhạc, phát hành một đĩa nhạc. Việc đưa một tác phẩm lên mạng ngày nay cũng được coi là truyền thông đến công chúng. Dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, tuyển tập, chú giải (còn gọi là làm tác phẩm phái sinh). Khi một người muốn dịch, cải biên, chuyển thể một tác phẩm, họ phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả gốc, bởi vì những hành vi kể trên là những hành vi sử dụng tác phẩm, mà chủ sở hữu quyền tác giả có quyền cho hay không cho. Tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể được coi là những tác phẩm riêng, khác với tác phẩm gốc. Luận văn này không mở rộng phạm vi nghiên cứu đối với quyền liên quan gắn với TPAN. 1.1.3. Nhu cầu bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Việc bảo hộ quyền tác giả càng ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt ngày nay mạng truyền thông số hóa mạng internet và môi trường số, bên cạnh nhiều lợi ích cũng tiềm tàng rất nhiều rủi ro cho những ai sử dụng và khai thác quyền tác giả bản nhạc. Khi tốc độ lan truyền của mạng số hóa tính trên từng giây thì việc sao chép trái phép các tác phẩm âm nhạc chưa bao giờ lại dễ dàng đến thế. Thực tế ghi nhận, việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc mang ý nghĩa vô cùng quan trọng: Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của tác giả đối với tác phẩm âm nhạc do mình tạo ra; bảo hộ quyền của chủ sở hữu tác phẩm Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc đồng thời mang ý nghĩa bảo vệ giá trị của các tác phẩm âm nhạc, thúc đẩy hoạt động sáng tạo của tác giả. 11
  15. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc chính là loại trừ các hành vi khai thác, sử dụng bất hợp pháp các tác phẩm của người khác mà không có sự cho phép của tác giả hoặc người đại diện hợp pháp của tác giả. Góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật nói riêng và sự phát triển của nền văn hóa nói chung. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến các tác phẩm âm nhạc tới công chúng. Đảm bảo cơ chế bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc ngày càng hoàn thiện, hiệu quả hơn. 1.2. Khái niệm, đặc điểm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 1.2.1. Khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Quyền tác giả: Theo khoản 2 Điều 4 luật SHTT Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền tác giả đối với TPAN là quyền tài sản, tính chất vô hình nên chỉ có thể xác lập và nhận biết bằng pháp luật nên cần sự bảo hộ từ phía Nhà nước. Thuật ngữ “bảo hộ”: là “che chở, không để bị hư hỏng, tổn thất” [41] Do đó, bảo hộ quyền tác giả đối với TPAN là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bằng pháp luật công nhận, đảm bảo thực hiện và bảo vệ quyền tác giả của người sáng tạo, chủ sở hữu tác phẩm âm nhạc. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là bảo hộ một quyền tài sản vô hình do đó việc bảo hộ đòi hỏi khung pháp lý tương ứng cùng với cơ chế thực hiện/thực thi pháp luật phù hợp. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng như hệ thống các thiết chế bảo hộ quyền SHTT được xây dựng với mục đích tạo cơ chế bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ QTG đối với tác phẩm âm nhạc nói riêng nhằm thúc đẩy sáng tạo của các tác giả cũng như bảo vệ quyền của họ, tạo cơ hội cho công chúng tiếp cận các giá trị sáng tạo văn hóa, âm nhạc phong phú. Mục tiêu của 12
  16. bảo hộ còn nhằm ngăn ngừa các hành vi xâm phạm xảy ra đối với loại quyền tài sản dễ bị xâm hại này. Tóm lại, bảo hộ QTG đối với TPAN là việc Nhà nước ban hành pháp luật và thiết lập cơ chế tương ứng xác lập, thực hiện và bảo vệ QTG đối với TPAN nhằm thúc đẩy sáng tạo âm nhạc. QTG đối với TPAN chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo của tác phẩm, không bảo hộ nội dung sáng tạo. Một tác phẩm âm nhạc được bảo hộ quyền tác giả phải đảm bảo tính nguyên gốc cho tác phẩm âm nhạc và không được áp dụng đối với bất kỳ yếu tố nào vay mượn từ tác phẩm âm nhạc khác. Một tác phẩm muốn được bảo hộ phải do chính lao động của tác giả tạo ra. 1.2.2. Đặc điểm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Một là, pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng sáng tạo trong tác phẩm âm nhạc, mà không bảo hộ những ý tưởng sáng tạo chứa đựng trong tác phẩm, được thể hiện ra từ tác phẩm âm nhạc. Hình thức thể hiện sự sáng tạo của tác giả trong một tác phẩm âm nhạc là việc sắp xếp lời trong tác phẩm âm nhạc có lời, cấu trúc của tác phẩm âm nhạc và các nốt nhạc trong tác phẩm không lời. Ý tưởng của tác phẩm được truyền tải bằng sự sắp xếp, cấu trúc của lời tác phẩm hay những nốt nhạc của bản nhạc. Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm được hình thành từ một ý tưởng dưới một hình thức nhất định. Có một số trường hợp cùng một ý tưởng về tình yêu có các bài hát “Thuyền và biển” của Phan Huỳnh Điểu, “Tình ca” của Hoàng Việt, “Hành khúc ngày và đêm”, v.v. Quyền tác giả chỉ tập trung bảo vệ hình thức thể hiện tác phẩm, không bảo vệ nội dung tác phẩm. Vì thế, quyền tác giả được phát sinh tự động không cần thông qua các hình thức xác lập quyền kể từ khi tác phẩm được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Điều này có nghĩa là cơ quan nhà nước sẽ không xem xét nội dung tác phẩm, và việc đăng ký bảo hộ quyền tác giả chỉ có giá trị chứng cứ chứng minh tác giả và tác phẩm [24, Tr.49]. 13
  17. Hai là, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được bảo hộ mà không phụ thuộc vào nội dung hay giá trị nghệ thuật của tác phẩm âm nhạc. Các công ước quốc tế về quyền tác giả và pháp luật sở hữu trí tuệ đều có quy định thống nhất rằng sự sáng tạo trí tuệ trong việc tạo ra các tác phẩm âm nhạc mang tính nguyên gốc và được vật chất hóa, được công nhận là tác phẩm và được bảo hộ theo pháp luật về quyền tác giả. Theo đó, không đặt ra bất kỳ điều kiện về nội dung và giá trị nghệ thuật đối với một tác phẩm âm nhạc để tác phẩm âm nhạc đó được bảo hộ. Các tác phẩm âm nhạc khi được người này sử dụng thì mức hữu ích của tác phẩm đối với người khác không suy giảm. Đây cũng là một điểm khác biệt giữa sản phẩm trí tuệ và sản phẩm hiện vật. Do vậy, pháp luật quy định thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc nhằm đảm bảo hai mục đích là bảo vệ quyền lợi của tác giả, khuyến khích sự tự do sáng tạo nghệ thuật đồng thời đảm bảo tối đa hóa lợi ích công cộng trong việc sử dụng tác phẩm đó. Ba là, quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được bảo hộ tự động. Kết quả của hoạt động sáng tạo ra tác phẩm âm nhạc mang tính nguyên gốc và được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định sẽ được công nhận là tác phẩm âm nhạc và được pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc thừa nhận và bảo vệ. Như vậy, thủ tục đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc không phải là yêu cầu bắt buộc. Tuy nhiên thủ tục này giúp giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh cho tác giả của tác phẩm âm nhạc, chủ sở hữu quyền tác giả âm nhạc khi có tranh chấp hay xâm phạm quyền tác giả xảy ra. 1.3. Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc 1.3.1. Xác lập quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Xác lập quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc với nguyên tắc “tự động sinh quyền”, quyền tác giả phát sinh khi tác phẩm được định hình không cần qua bất kỳ một thủ tục nào, thế nhưng việc đăng ký vẫn được khuyến khích để tạo thuận lợi về sau khi có tranh chấp. Chính vì đăng ký quyền tác 14
  18. giả, là một thủ tục hành chính đơn thuần mà tác giả hay chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được ghi nhận các thông tin về tác giả, tác phẩm. Đây không phải là thủ tục hành chính bắt buộc để xác lập quyền tác giả vì quyền tác giả trong pháp luật sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ một cách tự động khi được sáng tạo ra và thể hiện dưới một dạng vật chất định (Khoản 1 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ). Tuy nhiên, việc làm này sẽ là biện pháp đảm bảo nhằm ngăn ngừa các rắc rối khi có tranh chấp xảy ra. Việc đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc tạo điều kiện pháp lý khi xảy ra tranh chấp, tác giả không cần chứng minh tác giả, chủ sở hữuu tác phẩm và tác phẩm được bảo hộ. 1.3.2. Thực hiện quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc Chủ sở hữu quyền tác giả được hiểu là chủ thể mà tác phẩm âm nhạc thuộc sở hữu của chủ thể đó, với cách tiếp cận quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam quy định: Chủ sỡ hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nằm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản. Chủ sỡ hữu quyền tác giả là người độc quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm, trong đa số các trường hợp, tác giả sẽ đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, nếu tác phẩm được hình thành do các tổ chức, cá nhân thuê, giao nhiệm vụ cho tác giả thì các tổ chức, cá nhân này sẽ là chủ sỡ hữu quyền tác giả [23, Tr.59]. Tác giả có quyền đứng tên tác giả trên bản gốc và bản sao tác phẩm. Tác giả có quyền lựa chọn việc đứng tên thật, bút danh hoặc có thể chủ động không đứng tên, để tác phẩm của mình ở “Tình trạng khuyết danh” ví dụ như bài hát hò vè, dân ca. Quyền này của tác giả là quyền yêu cầu được ghi tên tác giả trên bản gốc, quyền được nêu tên khi biểu diễn, phát sóng tác phẩm. Quyền công bố và cho người khác công bố tác phẩm mang khía cạnh kinh tế, quyền này cho phép được chuyển giao thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả (có thể là tác giả/đồng tác giả). 15
  19. Quyền sao chép tác phẩm (Khoản 10 điều 4 Luật SHTT) là quyền quan trọng của tác giả. Việc sao chép một phần hay toàn bộ tác phẩm phải được sự đồng ý của tác giả/chủ sở hữu tác phẩm, không phân biệt hình thức, phương tiện được sử dụng để sao chép, kể cả sao chép điện tử. Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc bản sao tác phẩm (Điểm d Khoản 1 điều 20 Luật SHTT): là quyền phân phối bản gốc, bản sao tác phẩm do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho người khác thực hiện bằng việc sử dụng bất kì hình thức, phương tiện kĩ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác. Nhìn chung chuyển nhượng, sử dụng và khai thác là một trong quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tác phẩm âm nhạc phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giá. Bên cạnh nôi dung QTG đối với TPAN, còn tồn tại giới hạn QTG. Giới hạn này được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 25 và Điều 26). Giới hạn quyền tác giả trong những trường hợp này giúp cho công chúng có khả năng khai thác, sử dụng các tác phẩm âm nhạc vào mục đích phi thương mại (như nghiên cứu khoa học, giảng dạy, sử dụng riêng) dễ dàng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh quyền lợi này, tổ chức, cá nhân sử dụng các tác phẩm trong những trường hợp giới hạn quyền tác giả có nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Hơn nữa, bản sao tác phẩm trong những trường hợp này cũng bị giới hạn quyền tác giả ở số lượng một bản. Giới hạn quyền tác giả có thể hiểu là một số ngoại lệ dành cho người sử dụng tác phẩm trong một số trường hợp nhất định không phải xin phép, không trả nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả. 16
  20. Giới hạn quyền tác giả được quy định tại Điều 9 Công ước Bern [35] và Điều 13 Hiệp định TRIPS [37]. Theo đó, tác phẩm được sử dụng tự do trong một số trường hợp như: trích dẫn để minh họa cho giảng dạy, in lại trên báo chí, phát lại trên đài truyền hình hay phương tiện thông tin đại chúng những bài báo có tính chất thời sự về kinh tế, chính trị hay tôn giáo đã đăng tải trên các tập san hay các tác phẩm truyền thanh. Tuy nhiên trong trường hợp này quyền tác giả vẫn được bảo vệ vì người sử dụng phải ghi rõ nguồn gốc tác phẩm và tên tác giả. Sự trích dẫn phải phù hợp với những thông lệ chính đáng và trong mức độ phù hợp với mục đích. 1.3.3. Bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc QTG đối với TPAN dễ bị xâm hại, nhất là trong môi trường số. TPAN lại có nhu cầu truyền đạt và tiếp cận lớn trong công chúng; vậy nên nhiều trường hợp bất chấp pháp luật sẵn sàng xâm phạm QTG đối với TPAN nhằm mục địch khai thác thương mại TPAN mà không được sự cho phép/không trả phí cho chủ sở hữu tác phầm. Vậy nên các chủ sở hữu tác phẩm có quyền tự bảo vệ TPAN (Điều 198 Luật SHTT) của mình bằng các biện pháp hợp pháp như: - Áp dụng biện pháp khoa học công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm. - Yêu cầu cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại. - Yêu cầu cơ quan nhà nước (tòa án) có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm. - Khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong trường hợp chủ sở hữu không thể tự bảo vệ QTG đối với TPAN, có thể yêu cầu các cơ quan thực thi bảo vệ quyền của mình. Do tính chất dễ xâm hại của QTG đối với TPAN nên Nhà nước bằng pháp luật và cơ chế thực thi hỗ trợ cho chủ thể quyền bảo vệ TPAN của mình. Điều 199 Luật SHTT quy định các cá nhân, tổ chức, có hành vi xâm phạm QTG đối với TPAN thì 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0