Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên
lượt xem 24
download
Mục đích của luận văn từ việc phân tích, làm rõ thực trạng pháp luật về bảo vệ người lao động chưa thành niên qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên. Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động chưa thành niên. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÂM HOÀNG THUẬN YẾN BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội - 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÂM HOÀNG THUẬN YẾN BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN Hà Nội - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Lâm Hoàng Thuận Yến
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ....................................................................... 8 1.1 Lao động chưa thành niên ..................................................................... 8 1.2 Bảo vệ lao động chưa thành niên ........................................................ 16 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN........................................................................................................ 25 2.1 Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên .................................................... 25 2.2 Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên .... 45 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN........................................................................................................ 52 3.1. Các yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên ........................................................... 52 3.2 Hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên .................................................................................................. 56 3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên .................. 62 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
- DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT ILO: Tổ chức lao động quốc tế BLLĐ: Bộ luật lao động năm 2012 BLDS: Bộ luật dân sự năm 2015 NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động HĐLĐ: Hợp đồng lao động ATLĐ, VSLĐ: An toàn lao động, vệ sinh lao động
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam bắt đầu quá trình đổi mới nền kinh tế. Các nguồn chi bao cấp cho y tế, văn hóa giáo dục và nhiều lĩnh vực khác dần dần bị giảm hoặc cắt hoàn toàn. Mặt khác, Nhà nước cũng khuyến khích và tạo điều kiện phát triển cho kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân. Điều này đã thu hút nhiều loại hình lao động, trong đó có không ít lao động chưa thành niên. Theo Báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) nhân ngày Thế giới về chống bóc lột lao động 12/6/2019, thế giới có khoảng 152 triệu lao động dưới 18 tuổi. Việc trẻ em phải lao động sớm để lại hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến sự phát triển hài hòa của con người, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, nhất là chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Tại Việt Nam, theo Báo cáo Khảo sát quốc gia về lao động trẻ em năm 2018, có 1,75 triệu lao động trẻ em và người chưa thành niên từ 5 - 17 tuổi, chiếm 9,6% tổng dân số trẻ em. Để giảm thiểu số lượng lao động trẻ em và kiểm soát chặt chẽ những hậu quả của việc người chưa thành niên tham gia lao động, thời gian qua Chính phủ đã cam kết giải quyết vấn đề này thông qua ban hành hệ thống luật pháp và chính sách. Ngay trong Bộ Luật lao động cũng đã có các quy định về độ tuổi lao động tối thiểu, thời giờ làm việc và điều kiện làm việc, quy định về lao động đối với người chưa thành niên. Bên cạnh đó, Luật trẻ em năm 2016 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/6/2017 tiếp tục có các quy định cụ thể về các hành vi nghiêm cấm bóc lột trẻ em. Năm 2016 Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, trên thực tế các vấn đề liên quan đến người lao động chưa thành niên hiện vẫn còn nhiều bất cập. Theo dõi các báo cáo kết quả khảo sát của Cục An toàn lao động và Báo cáo kết quả thanh tra của Thanh tra Bộ Lao 1
- động - Thương binh xã hội qua các năm gần đây cho thấy vẫn còn rất nhiều người lao động chưa thành niên phải làm các nghề, các công việc độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm,... Chưa kể tình trạng người sử dụng lao động còn lợi dụng sự non nớt, thiếu hiểu biết của các em để vi phạm giao kết hợp đồng lao động, làm trái các quy định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, an toàn lao động, vệ sinh lao động,... Đã có nhiều trường hợp trên thực tế ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển thể lực, nhân cách, trí tuệ của các đối tượng này. Ngoài ra, trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày nay, việc vi phạm quy định về sử dụng lao động chưa thành niên còn ảnh hưởng tới cam kết của Việt Nam về thực hiện Công ước số 138 về độ tuổi tối thiểu làm việc và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Xét thấy, thực trạng nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một mặt, xuất phát từ nhu cầu thiết yếu của thị trường lao động nói chung. Người sử dụng lao động vì lợi ích kinh tế trước mắt mà bất chấp sử dụng người lao động chưa thành niên theo những cách "bóc lột", trả công rẻ, dễ sai khiến,... Mặt khác, xuất phát từ chính nhu cầu chủ quan của người lao động chưa thành niên dưới sức ép của sự nghèo đói, mưu sinh, từ gánh nặng gia đình,... Họ chấp nhận làm những công việc nặng nhọc, không vừa sức, cam chịu đồng lương ít ỏi vì "không còn cách nào khác" dù có thể biết những việc đó ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như sự phát triển trí tuệ, nhân cách. Thực trạng này đòi hỏi cộng đồng và pháp luật cần ra tay tương trợ. Tuy nhiên, pháp luật về người lao động chưa thành niên hiện hành còn nhiều những hạn chế, bất cập, ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh. Các quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến người chưa thành niên không nhiều, chưa rõ ràng và chưa có nhiều sự đổi mới phù hợp, linh hoạt theo tình hình thay đổi của kinh tế - xã hội đất nước. Công tác điều tra, thống kê, nghiên cứu về thực trạng áp dụng pháp luật 2
- đối với người lao động chưa thành niên còn chưa được chú trọng, chưa có sự tổng kết, đúc rút kinh nghiệm một cách toàn diện và khách quan. Đặc biệt là ở những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, khó khăn cho cơ quan Nhà nước trong việc quản lý, giám sát và áp dụng pháp luật trong khi người dân đa số đều chưa có điều kiện tiếp cận và hiểu biết pháp luật. Có thể lấy ví dụ điển hình như tỉnh Thái Nguyên. Là một địa phương có nhiều lợi thế khi có đất đai canh tác nông nghiệp rộng lớn, nguồn tài nguyên về khoáng sản dồi dào, nhiều khu công nghiệp trải dài ở một số huyện, thị xã,... Tuy nhiên, cũng chính vì diện tích rộng rất khó cho việc quản lý, giám sát, nhiều huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, do đó tình trạng vi phạm trong sử dụng lao động chưa thành niên cũng diễn ra khá phổ biến mà đến nay vẫn chưa có biện pháp khắc phục và áp dụng hiệu quả để bảo vệ tốt nhất cho người lao động chưa thành niên – đối tượng lao động “yếu thế” trên địa bàn. Đây chính là những lý do để tác giả chọn đề tài " Bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên " làm đề tài thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung là một vấn đề nhức nhối và được chú trọng quan tâm trong suốt nhiều năm. Đã có nhiều công trình khoa học tâm huyết nghiên cứu về các khía cạnh pháp lý xoay quanh người lao động chưa thành niên và đặc biệt là phải làm sao để bảo vệ đối tượng được coi là “yếu thế” trong xã hội này trước tình hình kinh tế - xã hội đang ngày một biến đổi và phát triển nhanh chóng. Mới đây nhất có luận văn về đề tài “ Bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Hồng Nhị (2019) đã nghiên cứu và khái quát khá toàn diện về vấn đề bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật trên toàn 3
- quốc hiện nay và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ người lao động chưa thành niên ở nước ta. Tuy nhiên, với một đề tài có phạm vi nghiên cứu khá rộng, vấn đề bảo vệ người lao động chưa thành niên được tác giả xem xét trên nhiều lĩnh vực của pháp luật, từ pháp luật dân sự, lao động cho đến thương mại,... Do vậy, ở một mặt nào đó, những vấn đề này chưa được đánh giá sâu hoặc có một số tồn tại trong công tác bảo vệ người lao động chưa thành niên trên thực tế vẫn còn bỏ ngỏ, chưa có giải pháp thỏa đáng. Trước đó, vào năm 2016, tác giả Nguyễn Thị Nhàn cũng đã nghiên cứu đề tài “ Lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” trong đó có nghiên cứu và đánh giá khá sâu sát về lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động tại Việt Nam. Việc nghiên cứu xem xét chỉ trên một “mảnh đất” là pháp luật lao động Việt Nam cho phép tác giả có thể dành nhiều thời gian và công sức hơn để “cày sâu” về vấn đề người lao động chưa thành niên tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài, tác giả cũng chỉ đánh giá chung trên bình diện lao động chưa thành niên mà không nghiên cứu và đưa ra các giải pháp phù hợp để bảo vệ người lao động chưa thành niên – nhóm đối tượng “ yếu thế” rất cần được Nhà nước, gia đình và xã hội chở che. Ngoài ra, cũng có một vài đề tài lựa chọn nghiên cứu một hoặc một số đối tượng cụ thể, ví dụ “ Vấn đề trẻ em gái giúp việc trong các thành phố lớn” của tác giả Chu Mạnh Hùng, đăng trên Tạp chí gia đình giới (2015). Như vậy, có thể thấy có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học tiếp cận ở nhiều vị trí khác nhau liên quan đến người lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay chưa có đề tài nào liên quan đến vấn đề bảo vệ người lao động chưa thành niên tại một địa phương cụ thể. Trong khi đây là một đề tài mang tính thực tiễn và rất cần thiết. Bởi lẽ, mỗi địa phương có tình hình phát triển kinh tế - văn hóa xã hội cũng như đặc thù về địa lý, dân cư 4
- khác nhau. Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ người lao động chưa thành niên vì thế cũng khác nhau và cần phải có những nghiên cứu toàn diện về thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân cũng như đưa ra giải pháp phù hợp cho điều kiện của mỗi địa phương. Do vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu sâu sát, những giải pháp đổi mới với tình hình phát triển thực tế về " Bảo vệ người lao động chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên" nhằm tăng tính hiệu quả cho cơ chế pháp luật điều chỉnh, bảo vệ nhóm đối tượng đặc thù và yếu thế này. Các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan khác đều có mục đích, phạm vi nghiên cứu, nội dung nghiên cứu và phương pháp tiếp cận khác với luận văn này, nhưng cũng là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quý giá đối với tác giả luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn từ việc phân tích, làm rõ thực trạng pháp luật về bảo vệ người lao động chưa thành niên qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên. Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động chưa thành niên. Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về người lao động chưa thành niên cũng như cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với nhóm đối tượng này. - Nghiên cứu và đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng, chỉ ra những ưu điểm và những mặt còn hạn chế cần đổi mới, khắc phục trong việc bảo vệ quyền lợi tối ưu cho người lao động chưa thành niên. 5
- - Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn đánh giá nêu trên, luận văn mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên, đặc biệt chú trọng các giải pháp nâng cao hiệu quả "bảo vệ" của pháp luật đối với nhóm đối tượng yếu thế này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài chủ yếu là các quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên. Bên cạnh đó, luận văn còn đề cập đến một số nội dung chủ yếu trong các Công ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết, trong đó có Công ước số 138 về độ tuổi lao động tối thiểu (1973) và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999) làm cơ sở đối sánh để đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam. Do pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên chủ yếu điều chỉnh trong mối quan hệ " làm công ăn lương", nên để phù hợp với tên gọi của đề tài và chuyên ngành nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về đối tượng này và các nhóm quy định có liên quan mật thiết trong vai trò bảo vệ người lao động chưa thành niên: Nhóm quy định về bảo vệ việc làm cho người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ sức khỏe cho người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ tiền lương và thu nhập cho người lao động chưa thành niên; Nhóm quy định về bảo vệ các quyền nhân thân cho người lao động chưa thành niên. Ngoài ra, tác giả còn mở rộng ở một mức độ phù hợp về người lao động chưa thành niên trong giai đoạn học nghề,...và một số mối quan hệ xã hội có liên quan. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin cũng như lý luận chung về Nhà nước và pháp luật 6
- làm cơ sở cho phương pháp luận để đạt được mục đích và giải quyết tốt các nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. Ngoài ra, tùy vào mục đích, phạm vi và nội dung nghiên cứu của từng chương trong luận văn mà tác giả sử dụng riêng lẻ hoặc tổng hợp các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... sao cho phù hợp và hiệu quả nhất. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy khoa học luật lao động, cho các cá nhân quan tâm đến việc bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động. Bên cạnh đó, ở mức độ nhất định, luận văn cũng giúp cho những người hoạt động trong lĩnh vực lao động xã hội hay chính bản thân những người lao động chưa thành niên những kiến thức cần thiết trong thực tiễn áp dụng pháp luật lao động về người lao động chưa thành niên phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam nói chung và thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục từ viết tắt, kết cấu chính của luận văn gồm 3 chương với nội dung cơ bản như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động chưa thành niên. Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ người lao động chưa thành niên và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật lao động và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên tại tỉnh Thái Nguyên. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN 1.1 Lao động chưa thành niên 1.1.1 Khái niệm Trên thế giới hiện chưa có khái niệm thống nhất về “ lao động chưa thành niên”. Theo Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc và Công ước số 182 năm 1999 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất không đưa ra khái niệm “ lao động chưa thành niên” mà đưa ra khái niệm “lao động trẻ em”. Theo đó, “ trẻ em được xác định là người dưới mười tám tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn”. Còn trong Bản quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990 có quy định: “ người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn dưới tuổi này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên”. Như vậy, khi đưa ra khái niệm chưa thành niên, pháp luật quốc tế không dựa hoàn toàn, trực tiếp vào đặc điểm tâm, sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh thần,... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Nhìn chung, pháp luật quốc tế đã đưa ra khả năng “mở” cho các quốc gia tùy điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống riêng để có thể quy định độ tuổi thành niên sớm hơn. Ở Việt Nam, những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần nhưng tham gia lao động là hiện tượng phổ biến và được nhà nước thừa nhận. Hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta đang ghi nhận cả hai thuật ngữ “trẻ em” và “người chưa thành niên”. Theo Điều 1 Luật trẻ em 2016 thì “ trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Còn theo Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “ người 8
- chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Điều đó cho thấy khái niệm “ trẻ em” trong pháp luật Việt Nam là không hoàn toàn đồng nhất với quy định của Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Xét về độ tuổi, “ trẻ em” theo quan niệm của Liên hợp quốc tương ứng với khái niệm “ người chưa thành niên” của pháp luật Việt Nam là người dưới 18 tuổi. Trong lĩnh vực pháp luật lao động, khái niệm người lao động chưa thành niên hiện nay được quy định tại Điều 119 Bộ luật lao động 2012. Theo đó, “người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Căn cứ các quy định liên quan về người lao động chưa thành niên, giáo trình Luật lao động Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội có diễn giải rõ hơn như sau: “ lao động chưa thành niên là những lao động dưới 18 tuổi, bao gồm hai loại lao động là lao động dưới 15 tuổi và lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi”. Quy định này thể hiện sự phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự 2015 về xác định độ tuổi, năng lực chủ thể và trách nhiệm chủ thể, thông qua đó để xác định phạm vi tham gia công việc, điều kiện bảo đảm và phương hướng bảo vệ lao động chưa thành niên trong quan hệ lao động. Đồng thời cũng thể hiện sự phù hợp với quy định của Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên hợp quốc và Công ước số 182 năm 1999 của ILO. Tuy nhiên, tương tự như Điều 119 Bộ luật lao động, khái niệm này chưa nêu rõ những đặc tính cơ bản làm cơ sở để nhận biết đối tượng người lao động chưa thành niên. Theo tiến sỹ Nguyễn Hữu Chí: “ mọi người lao động dưới 18 tuổi có khả năng lao động và giao kết hợp đồng lao động là lao động chưa thành niên”. Đây là khái niệm phản ánh tương đối đầy đủ nội hàm về người lao động chưa thành niên, trong đó đã xác định phạm vi đối tượng, tính chất, thuộc tính của nhóm đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần tham gia quan hệ lao động, làm cơ sở để phân biệt với những người lao động đã phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần. 9
- Từ đó có thể đưa ra khái niệm lao động chưa thành niên như sau: người lao động chưa thành niên là người lao động có đặc điểm riêng, gồm những người dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. Khái niệm này đã nhấn mạnh đây là nhóm lao động đặc thù, có những đặc điểm riêng biệt nhằm xây dựng một hành lang pháp lý phù hợp để bảo vệ quyền lợi xác đáng cho họ. Đây cũng là khái niệm thể hiện tính đồng nhất với các quy định của pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng khi chỉ rõ phạm vi giới hạn tối đa về độ tuổi của người lao động chưa thành niên là dưới 18 tuổi nhằm phân biệt với người lao động thành niên, có sự phát triển đầy đủ về thể lực, trí tuệ. Ngoài ra, khái niệm trên cũng nêu điều kiện, tính chất của người lao động chưa thành niên. Đó chính là khả năng lao động. Việc xác định khả năng lao động là điều kiện, thuộc tính của đối tượng này nhằm phân biệt với người không có khả năng lao động (có khuyết tật nặng về trí lực, thể lực,...). Một điều kiện quan trọng khác để được thừa nhận là người lao động chưa thành niên, đó là phải có giao kết hợp đồng lao động. Người chưa thành niên có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đầy đủ nhưng có trường hợp họ không được coi là người lao động chưa thành niên khi họ không tham gia vào quan hệ lao động. Việc tham gia quan hệ lao động thông qua hình thức hợp đồng lao động. Theo đó, chủ thể trong hợp đồng lao động phải là người sử dụng lao động và người lao động chưa thành niên. Đồng thời, hai bên khi giao kết hợp đồng lao động phải tuân theo những quy định về hình thức, nội dung hợp đồng để đảm bảo hợp đồng có hiệu lực. 10
- 1.1.2 Tính đặc thù của lao động chưa thành niên So sánh với lao động thành niên, có thể thấy lao động chưa thành niên là nhóm lao động đặc thù, có những đặc điểm riêng cơ bản như sau: Thứ nhất, lao động chưa thành niên là người có độ tuổi dưới 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần. Ở giai đoạn dưới 18 tuổi, nhóm người này đang phát triển vượt bậc về thể chất nhưng chưa có sự ổn định về sinh lý. Nếu phải lao động với cường độ quá sức, hoặc làm việc nhiều giờ, hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại,...hoặc phải tiếp xúc thường xuyên với các môi trường dễ xảy ra tệ nạn xã hội như: quán bar, quán karaoke, quán bia – rượu,... sẽ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành và phát triển cả về thể chất lẫn trí tuệ của người chưa thành niên. Tâm lý phức tạp của lứa tuổi này cũng là một vấn đề lo ngại khi họ bắt đầu có sự tự ý thức về cá tính của mình, việc sinh hoạt, giao tiếp với xã hội cũng được mở rộng và mang tính độc lập hơn, không chịu sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ từ gia đình như trước. Nếu không có sự uốn nắn kịp thời, người lao động chưa thành niên, với tâm lý tuổi trẻ bồng bột, hiếu thắng, rất dễ ảnh hưởng xấu đến khả năng học nghề, năng suất lao động, thậm chí là cả sự hình thành về tính cách sau này. Chính vì vậy, các yếu tố bên ngoài là một trong những yếu tố để hình thành nhân cách, lối sống của lao động chưa thành niên. Mặt khác, lao động chưa thành niên là người chưa hoàn thiện về nhận thức, trì tuệ, còn non nớt về xã hội và pháp luật cho nên rất khó để họ độc lập thực hiện và bảo vệ tính mạng, danh dự của mình. Vì thế, đây là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị xâm hại, bị lợi dụng, dụ dỗ, bóc lột lao động. Xuất phát từ đặc điểm này mà pháp luật lao động cũng có quy định chặt chẽ các vấn đề liên quan đến việc tuyển dụng và sử dụng lao động chưa thành niên. Thứ hai, người lao động chưa thành niên được pháp luật bảo vệ ở mức độ cao hơn so với người lao động thành niên. Lao động chưa thành niên còn 11
- thiếu kinh nghiệm sống và làm việc, chưa hiểu biết pháp luật, hiểu biết xã hội. Do độ tuổi còn trẻ, nên lao động chưa thành niên chưa có nhiều kinh nghiệm sống, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, chưa nhận thức được đầy đủ về quyền và nghĩa vụ lao động của mình. Cho nên khả năng tự bảo vệ là chưa cao, nhiều em nhỏ phải chịu nguy cơ bị bóc lột, lợi dụng sức lao động. Do vậy, họ được pháp luật bảo vệ theo hướng hưởng một số quyền, lợi ích ngang bằng hoặc hơn những quyền và lợi ích mà pháp luật quy định với người lao động thành niên, như: tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,... Mặt khác, việc bảo vệ người lao động chưa thành niên còn thể hiện ở quy định hạn chế họ tham gia làm một số công việc, ngành nghề nhất định. Đối với nhóm lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi là nhóm tuổi tham gia quan hệ lao động khá phổ biến hiện nay. Theo như Bộ luật dân sự năm 2015 thì đây cũng là nhóm tuổi tối thiểu để có năng lực chủ thể khi tham gia vào quan hệ lao động, có thể tự mình xác lập một số quyền và nghĩa vụ trong quan hệ lao động ( Ví dụ như giao kết hợp đồng lao động). Việc quy định nhóm tuổi lao động này căn cứ vào một số yếu tố như: cơ cấu và nhu cầu giải quyết việc làm của xã hội, điều kiện kinh tế, xã hội của một số quốc gia, lực lượng lao động xã hội và một số yếu tố khác. Bên cạnh đó, việc quy định về nhóm tuổi này hoàn toàn phù hợp với Công ước số 138 năm 1973 về độ tuổi tối thiểu. Mặc dù, pháp luật cho phép độ tuổi này được tham gia lao động, học nghề những do chưa hoàn thiện đầy đủ về thể chất lẫn tinh thần nên độ tuổi này chỉ được phép làm những công việc phù hợp với sức khỏe, không được làm những công việc độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc nơi làm việc, tính chất công việc ảnh hưởng xấu đến nhân cách của họ. Đối với nhóm lao động dưới 15 tuổi là nhóm tuổi đang trong quá trình hoàn thiện về trí tuệ, nhân cách và thể lực. Nhóm tuổi này đa phần còn đang là học sinh, vẫn còn đang đi học và vì một số nguyên nhân mà các em phải 12
- lao động để phụ giúp gia đình hoặc để phục vụ nhu cầu cho chính bản thân mình. Trong khoa học pháp lý thường gọi đây là những người có năng lực pháp luật không đầy đủ. Vì vậy, khi các em ở độ tuổi này tham gia lao động chỉ được làm những công việc nhẹ nhàng, đơn giản, không ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Còn đối với người dưới 13 tuổi, pháp luật quy định không được sử dụng lao động là người dưới 13 tuổi trừ một số công việc do Bộ lao động – Thương binh và Xã hội quy định. Thứ ba, người lao động chưa thành niên bị hạn chế một phần năng lực hành vi khi giao kết hợp đồng trong những trường hợp nhất định. Căn cứ điều 20, điều 21 BLDS năm 2015: người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Người chưa đủ 6 tuổi khi tham gia giao dịch dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Quy định này cũng được ghi nhận trong pháp luật lao động nhằm đảm bảo có sự giám sát, bảo hộ chặt chẽ hơn đối với quyền và lợi ích của người lao động chưa thành niên. Tại Điều 3 Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động có nêu rõ hơn về vấn đề này. Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi giao kết hợp đồng phải có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Đối với người lao động dưới 15 tuổi không được trực tiếp giao kết hợp đồng mà phải giao kết qua người đại diện theo pháp luật và phải có sự đồng ý bằng văn bản của người lao động. 1.1.3 Phân loại lao động chưa thành niên Có nhiều cách phân loại lao động chưa thành niên dựa trên các tiêu chí khác nhau, như: phân loại theo địa điểm ( nông thôn, thành thị); phân loại theo nhóm ngành lao động ( nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,...); phân loại theo độ tuổi,... Một vài cách phân loại phổ biến và dễ quản lý nhất như sau: 13
- Thứ nhất, căn cứ vào độ tuổi có thể phân người lao động chưa thành niên thành ba nhóm: - Nhóm độ tuổi dưới 13 tuổi Đây là nhóm có độ tuổi thấp nhất mà pháp luật cho phép và được quy định rất cụ thể, chặt chẽ đối với người sử dụng lao động khi cho các em tham gia học nghề hoặc làm việc. Đây cũng là nhóm không được khuyến khích tham gia lao động, trừ một số ngành nghề đặc thù thuộc lĩnh vực nghệ thuật có tính chất công việc nhẹ nhàng, không ảnh hưởng đến sự phát triển về thể lực và trí tuệ, có thể tạo điều kiện phát triển tài năng cho các em như: đóng phim, ca hát, trình diễn thời trang,... - Nhóm độ tuổi từ 13 đến dưới 15 tuổi: Đây là độ tuổi trẻ em hoàn toàn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, một số các em trong số đó tiếp tục học lên các bậc học cao hơn. Còn một số em vì một lý do nào đó không thể tiếp tục theo con đường học tập, thường là đối tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn thì các em buộc phải học nghề hoặc đi làm để nuôi sống bản thân và gia đình. Tuy nhiên, đây cũng là nhóm tuổi đang trong quá trình phát triển về thể chất, tinh thần lại có hạn chế về trình độ, kiến thức, kỹ năng nên chỉ được phép tham gia vào những công việc nhẹ nhàng, đơn giản, ít yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật và diễn ra trong thời gian ngắn. Để bảo đảm được quyền lợi cho các em cũng như có sự rõ ràng hơn cho người sử dụng lao động, Nhà nước ta đã quy định danh mục những công việc mà nhóm tuổi này được làm kèm theo những điều kiện áp dụng chặt chẽ. - Nhóm độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Người chưa thành niên tham gia lao động ở tuổi này chiếm tỷ lệ đa số. Họ có thể giao kết hợp đồng lao động và trở thành một bên của quan hệ lao động và chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động. Thêm vào đó, chương 14
- trình đào tạo cuối cấp ở đa số các trường học tại Việt Nam đều đã bổ sung thêm một số nghề nhất định, giúp các em có định hướng, kiến thức và kỹ năng cơ bản để bắt đầu lao động và làm việc gần như người trưởng thành. Tuy nhiên, đối với nhóm tuổi này, pháp luật cũng có những quy định bảo hộ cần thiết và hạn chế cho phép họ làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hay ảnh hưởng tới nhân cách. Thứ hai, căn cứ vào giới tính, có thể phân người lao động chưa thành niên thành hai nhóm là lao động nam và lao động nữ. Tiêu chí này được đặt ra dựa trên đặc điểm về cấu trúc cơ thể và tâm sinh lý khác biệt của các đối tượng này nhằm sắp xếp các công việc phù hợp đồng thời đặt ra những biện pháp bảo vệ và quản lý sâu sát, tránh sự lạm dụng đối với lao động chưa thành niên nữ. Thứ ba, căn cứ vào trình độ chuyên môn kỹ thuật, người lao động chưa thành niên có thể được phân thành hai nhóm: lao động chưa thành niên đã qua đào tạo và lao động chưa thành niên chưa qua đào tạo. Tiêu chí đào tạo này được xác định thông qua việc người lao động chưa thành niên được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo nghề, hoặc do người lao động chưa thành niên tự rèn luyện, tích lũy, học hỏi kinh nghiệm từ những người làm nghề đi trước. Mục đích của cách phân loại này nhằm có những chính sách cần thiết để hỗ trợ, đào tạo tay nghề cho người lao động chưa thành niên, giúp họ tăng thêm thu nhập đồng thời nâng cao chất lượng nguồn lao động trong tương lai. Trên thực tế còn rất nhiều cách phân loại người lao động chưa thành niên theo các tiêu chí khác nhau. Tuy vậy, cách phân loại nào cũng chỉ mang tính chất tương đối và đều nhằm mục đích tạo sự điều chỉnh pháp lý phù hợp, để người lao động chưa thành niên được làm việc dưới sự bảo vệ tối ưu nhất của pháp luật, chống lại sự lạm dụng, bóc lột sức lao động và tinh thần của họ. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 108 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 77 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 90 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn