VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI NGỌC MAI
CHẾ ĐỘ THAI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI NGỌC MAI
CHẾ ĐỘ THAI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất cứ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
Bùi Ngọc Mai
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ đạo và
định hướng sâu sát, nhiệt tình quý báu của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu
Chí.
Tác giả luận văn xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu Học
viện khoa học xã hội, khoa Luật của học viện cùng các giảng viên, những
người đã giúp tôi trang bị và nâng cao kiến thức trong quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Chí đã định hướng, chỉ bảo tận tình giúp
tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian có hạn, luận văn của tôi sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong
được sự đóng góp của các Thầy, Cô giáo và quý độc giả.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2019
Tác giả luận văn
Bùi Ngọc Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ THÁI SẢN VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘBẢO HIỂM THAI SẢN Ở VIỆT NAM ......... 10
1.1. Khái niệm và vai trò, ý nghĩa của chế độ bảo hiểm thai sản. ................... 10
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của chế độ bảo hiểm thai sản ............................... 14
1.3 Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế độ bảo hiểm thai sản .... 18
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CHẾ ĐỘ THAI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN ............................................ 35
2.1. Khái quát về lao động, việc làm tỉnh Thái Nguyên và bảo hiểm xã hội
tỉnh Thái Nguyên ............................................................................................... 35
2.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật chế độ bảo
hiểm xã hội thai sản tỉnh Thái Nguyên ............................................................. 36
2.3 Những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn thực hiện pháp luật chế độ bảo
hiểm xã hội thai sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và nguyên nhân ............... 40
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
THAI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN ................................. 47
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội thai sản ..... 47
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội thai sản ...... 50
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chế độ bảo
hiểm xã hội thai sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ......................................... 54
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 61
BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bảo hiểm xã hội
BHXH
Chế độ thai sản
CĐTS
Bảo hiểm xã hội thai sản
BHXHTS
Bảo hiểm y tế
BHYT
Bảo hiểm thất nghiệp
BHTN
Người lao động
NLĐ
Người sử dụng lao động
NSDLĐ
Tổ chức lao động quốc tế
ILO
CEDAW
Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số người tham gia BHXHTS (năm 2016-2018) ........................... 38
Bảng 2.2: Bảng chi trả trợ cấp BHXHTS( từ 2016-2018) ............................. 39
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng
laođộng cao nhất trên thế giới (khoảng 48,3%). Trong tất cả các lĩnh vực từ
đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,… đều có sự tham gia đông đảo
của lực lượng lao động nữ, với tỷ trọng chiếm khá lớn trong lực lượng lao
động. Như vậy việc họ đóng góp tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra các
sản phẩm vềvật chất, tinh thần phục vụ cho lợi ích xã hội, thì những
quyềnlợi của học phải được hưởng phải xứng đáng theo đúng quy định của
pháp luật hiện hành. Hiện nay trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, tầm
quan trọng của các lao động nữ là rất lớn, nhất là trong những ngành đòi
hỏi sự khéo léo và linh hoạt trong sản xuất và lao động. Ngoài đóng góp
lớn vào cho xã hội, người phụ nữ với thiên chức làm vợ, làm mẹ cũng đồng
thời phải gánh vác phần lớn công việc trong gia đình.
Cùng với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ ở Việt Nam với sự lớn mạnh
không ngừng của hệ thống an sinh xã hội.Thêm vào đó là các quy định về
BHXH hướng tới NLĐ với mục đích giúp họ vượt qua khó khăn, rủi ro
trong lao động. Các quy định này đã phát huy vai trò trụ cột trong hệ thống
an sinh xã hội, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xãhội công bằng, dân chủ, văn minh. BHXH được coi là một
chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước đối với NLĐ nhằm từng bước
mở rộng và nâng cao đảm bảo vật chất, góp phần ổn định đời sống cho
NLĐ khi gặp rủi ro như bị ốm đau, hết tuổi lao động, qua đời, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp. Vì thế việc tham gia chế độ BHXH là của NLĐ là
1
rất cần thiết để đảm bảo quyền lợi của NLĐ khi gặp rủi ro và xác định trách
nhiệm pháp lý của NLĐ, NSDLĐ khi NLĐ gặp khó khăn thông qua đóng
góp nghĩa vụ tài chính bắt buộc.
Ở Việt Nam, việc trợ cấp cho lao động nữ khi mang thai, sinh con,
nuôi con được ghi nhận trong các văn bản pháp luật ngay từ những ngày
đầu tiên giành độc lập. Tiếp sau đó hàng loạt các văn bản pháp luật về
BHXH cũng đều đã ghi nhận vấn đề này. Gần đây nhất Luật bảo hiểm xã
hội năm 2014 cũng ghi nhận CĐTS theo hướng mở rộng hơn diện hưởng và
đặc biệt chế độ này cũng được áp dụng cho lao động nam khi vợ sinh
con.Các chính sách bảo đảm ưu tiên lao động nữ, trong đó quan trọng nhất
là quyền lợi, đặc biệt là quyền lợi trong chế độ trợ cấp thai sản cho phụ nữ
khi có thai, sinh con và nuôi con luôn được chú trọng khi xây dựng hệ thống
pháp luật an sinh xã hội tại Việt Nam.Việc giải quyết và chi trả chế độ ốm
đau thai sản cho NLĐ luôn được coi là nhiệm vụ trung tâm và có vai trò rất
quan trọng trong hoạt độngcủa hệ thống an sinh xã hội. Giải quyết và chi
trả kịp thời, đầy đủ, đúng chế độ có tác động trực tiếp tới quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm đócũng là yêu cầu quan trọng đối với hệ thống an
sinh xã hội Việt Nam.
Tổ chức lao động quốc tế ILO đã ban hành Công ước số 102 về quy
phạm tối thiểu trong an toàn xã hội năm 1952 khẳng định lao động nữ được
quyền hưởng trợ cấp thai sản và chăm sóc trong giai đoạn trước khi sinh,
trong khi sinh và sau khi sinh.[16]
Pháp luật về bảo hiểm thai sản về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu
thực tiễn, đảm bảo được quyền lợi cho lao động nữ. Tuy nhiên, bên cạnh
đó vẫn còn một số quy định chưa phù hợpthiếu tính khả thi. Chính vì vậy,
2
việc nghiên cứu pháp luật về CĐTS gắn với thực tiễn thực hiện của một địa
phương có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan
trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, tôi thực hiện đề tài “Chế độ thai sản
theo pháp luật lao động Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” làm
đề tài nghiên cứu. Trong phạm vi của luận văn, tác giả hy vọng rằng nghiên
cứu sẽ góp phần nào vào việc hoàn thiện chính sách CĐTS nói chung cũng
nhưnhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ quyền lợi của lao động nữ nói riêng.
2. Tình hình hình nghiên cứu đề tài
CĐTS nói chung và chế độ về BHXHTS nói riêng không phải là vấn đề
mới nhưng nó trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu và hoạt động thực
tiễn.
Trong thời gian gần đây, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và
những người quan tâm đến CĐTS đã có nhiều bài viết, công trình khoa học
nhằm đóng góp ý kiến xây dựng hệ thống CĐTS ở nước ta như: Có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu như: Giáo trình Luật An sinh xã hội của
trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Tư Pháp; sách chuyên khảo:
Quyền an sinh xã hội và đảm bảo thực hiện trong pháp luật Việt Nam,Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội do PGS.TS Lê Thị Hoài Thu làm chủ
biên. Các bài tạp chí có thể kể đến: “Chế độ bảo hiểm thai sản và hướng
hoàn thiện nhằmbảo đảm quyền lợi của lao động nữ” của Đỗ Thị Dung,
Tạp chí Luật học số 3/2006; “Nội luật hoá CEDAW về bảo hiểm xã hội đối
với lao động nữ khi dự thảo Luật bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Luật học số
3/2006 của TS Nguyễn Thị Kim Phụng; đề tài nghiên cứu cấp trường,
trường Đại học Luật Hà Nội: “Bình luận khoa học một số quy định của
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014” do TS Nguyễn Hiền Phương làm chủ
3
biên.Về luận văn thạc sĩ có thể kể đến luận văn “Những điểm mới của Luật
bảo hiểm xã hội của Chu Hà My năm 2015, trường Đại học Luật Hà Nội,
trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Chế độ bảo hiểm thai sản
và thực tiễn thực hiện tại quận Thanh Xuân- Hà Nội” của Hoàng Thuý Hà
năm 2017; Luận văn thạc sĩ luật học“Chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt
Nam” của Đặng Thị Thơm năm 2007…
Các bài viết, công trình nghiên cứu đề cập đến một hoặc một số vấn đề
lý luận và quy định pháp luật về CĐTS.Nhìn chung các công trình nghiên
cứu trên đã đề cập đến những vấn đề cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận về CĐTS nói chung. Làm
rõ những vấn đề cơ bản về khái niệm và các đặc trưng cơ bản của CĐTS.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng làm rõ những vấn đề lí luận của pháp luật về
CĐTS. Lịch sử hình thành và phát triển của CĐTS và chế độ BHXHTS.
Hai là, nghiên cứu những quy định pháp luật về CĐTS nói chung,
thực trạng pháp luật về CĐTS nói chung trong đó có BHXHTS.
Ba là, nghiên cứu những giải pháp hoàn thiện pháp luật CĐTS, các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về CĐTS.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, các công trình nghiên cứu trên
chưa có công trình nào đề cập đến thực tiễn áp dụng pháp luật về CĐTStại
tỉnh Thái Nguyên thông qua luật BHXH.
Nhìn nhận một cách chung nhất, các công trình nghiên cứu trên đã đề
cập một số vấn đề cơ bản về pháp luật CĐTS nói chung trong đó có
BHXHTS. Luận văn kế thừa các nội dung nghiên cứu đó, đồng thời làm rõ
và nghiên cứu cụ thể các vấn đề về CĐTS và đánh giá thực tiễn thi hành
4
pháp luật về chế độ BHXHTS tại tỉnh Thái Nguyên.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
về CĐTS, đánh giá một cách toàn diện pháp luật BHXHTS hiện hành cũng
như thực tiễn thực hiện tại tỉnh Thái Nguyên đồng thời đưa ra những giải
pháp cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXHTS trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở mục tiêu đó luận văn sẽ giải quyết các nhiệm
vụ sau đây:
Một là, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về CĐTS.
Hai là, phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về CĐTS và
thực trạng thực hiện pháp luật chế độ BHXHTS ở địa bàn tỉnh Thái
Nguyên.
Ba là, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật chế độ
BHXHTS và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tại tỉnh Thái Nguyên.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của CĐTS có tính chất đặc thù chủ yếu là lao động nữ trong
độ tuổi sinh đẻ, lao động nữ đang trong thời kỳ nuôi con sơ sinh hay thực
hiện các biện pháp tránh thai, nạo hút thai... Thông qua việc bù đắp một
phần chi phí tăng lên trong quá trình đó, CĐTS nhằm mục đích giúp bình
ổn về mặt vật chất, cân bằng về thu nhập, bảo vệ sức khoẻ cho lao động nữ
nói riêng, NLĐ nói chung. Chế độ thai sản là một chế độ gồm nhiều chế độ
khác nhau được thực hiện từ nhiều chủ thể như người sử dụng lao động, cơ
quan BHXH... Tuy nhiên trong luận văn này, chủ yếu nghiên cứu CĐTS
trong luật BHXH hay nói cách khác là nghiên cứu chế độ thai sản với tư
5
cách là một chế độ BHXH bắt buộc ở các nội dung như đối tượng và điều
kiện hưởng, chế độ hưởng, thủ tục hưởng BHXHTS…theo pháp luật lao
động Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu CĐTS trong luật BHXH tức là các vấn đề liên quan
đến NLĐ khi thực hiện chủ yếu chức năng duy trì nòi giống, nuôi con…
các quyền lợi của họ được hưởng khi có tham gia BHXH và mục đích của
BHXHTS. Trong phạm vi luận văn, tập trung phân tích các quy định về
CĐTS trong Luật bảo hiểm xã hội 2014, một số văn bản hướng dẫn, cùng
với các số liệu thực tiễn tại tỉnh Thái Nguyên (từ năm 2016 đến năm 2018).
Chỉ tập trung vào thực trạng áp dụng CĐTS tại tỉnh Thái Nguyên theo Luật
bảo hiểm xã hội 2014, Luật lao động 2012, qua đó đưa ra những giải pháp
trong phạm vi nghiên cứu và hiểu biết của mình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Thứ nhất, về cơ sở khoa học: Thực hiện chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hướng tới một xã hội công bằng dân chủ văn
minh, đảm bảo quyền con người, tất cả vì con người, do con người cho
nên vấn đề đảm bảo chính sách an sinh xã hội nhất là CĐTS là một trong
những mục tiêu lớn thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ khi có Hiến pháp năm 1946 Nhà nước ta đã rất quan tâm đến
quyền lợi của phụ nữ, rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử. Lần đầu tiên
trong lịch sử Nhà nước Việt Nam quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi
công dân được Hiến pháp ghi nhận.[13]
Luật hoá các nhu cầu an sinh xã hội là một bước tiến quan trọng của
6
hệ thống chính sách xã hội. Dựa trên hai nguyên tắc của an sinh xã hội là
san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội cho nên BHXH nói
chung và BHXHTS nói riêng đảm bảo an toàn cho các thành viên trong xã
hội (chủ yếu là NLĐ có tham gia BHXH) cho phép họ sống có ý nghĩa
trong các trường hợp thai sản: sinh sản, nuôi con sơ sinh thực hiện các biện
pháp tránh thai khi họ tạm thời khó khăn không có thu nhập. Hơn nữa, Việt
Nam đang từng bước hội nhập khu vực và quốc tế trên tất cả các lĩnh vực
trong đó có pháp luật. Việt Nam đã chính thức phê chuẩn công ước
CEDAW và trở thành thành viên thứ 35 của Công ước này. Nước ta là một
trong số các quốc gia có nhiều ưu tiên cho phụ nữ trong lĩnh vực thai sản,
đặc biệt các công ước ILO như:Công ước số 3 năm 1919, Công ước số 103
năm 1952… là tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo quyền của phụ nữ được đặc
biệt quan tâm về CĐTS.
Như vậy, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Hiến
pháp, các văn bản pháp luật, các điều ước quốc tế đa phương và song
phương là cơ sở pháp lý đáp ứng đòi hỏi thực tế của cuộc sống là cơ sở
khoa học cho chế độ bảo hiểm thai sản ở nước ta
Thứ hai, về cơ sở thực tiễn: Nền kinh tế thị trường sức lao động được
coi là hàng hoá, sự thuê mướn nhân công phát triển, quan hệ lao động trở
nên bất ổn cho NLĐ làm công ăn lương như ốm đau, tai nạn, thai sản cho
nên rất cần có sự san sẻ rủi ro và chính sách trợ giúp của nhà nước và
NSDLĐ. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến NLĐ rơi
vào cảnh bất lợi nên nhu cầu an sinh xã hội càng cao như nhu cầu trợ giúp
xã hội thường xuyên đối với đối tượng yếu thế có nguy cơ bị xã hội loại trừ
như người già, con trẻ, người sinh con…giúp họ thăng bằng thu nhập bị
7
giảm sút hay bị mất. Chế độ Bảo hiểm thai sản chủ yếu dành cho lao động
nữ như khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai, sinh con, nuôi con nuôi... Ước
tính ở nước ta mỗi nămcó gần hai triệu người bước vào độ tuổi lao động,
với những đặc thù về giới như thể lực, tâm sinh lí, cùng với chức năng làm
mẹ và trách nhiệm chăm sóc gia đình đã gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế,
cần phải có CĐTS phù hợp để khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho
NLĐ khi tham gia vào quan hệ lao động.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp mô tả,
phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp …Kết hợp với việc sử
dụng kiến thức của các môn học chuyên ngành kinh tế để đánh giá, khái
quát, phân tích các nội dung kinh tế.
Nguồn số liệu được trích dẫn từ các Quy định, quy chế hoạt động, Báo
cáo tổng kết,báo cáo hàng kỳtại BHXHtỉnh Thái Nguyên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn phân tích những vấn đề lý luận cũng như
quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS tạo cơ sở cho việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về CĐTS cũng như đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về CĐTS.
Ý nghĩa thực tiễn: bản thân tác giả có cơ hội tìm hiểu sâu về chế độ
BHXHTS, thông qua đó nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học của bản
thân và tăng cường hiểu biết trong thực tế.
Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong
công tác giảng dạy và nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất kỳ ai có
8
quan tâm đến CĐTS nói chung cũng như pháp luật về BHXHTS nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về CĐTSvà quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về xã hội thai sản
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật BHXHTS trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
9
pháp luật BHXHTS trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ THÁI SẢN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ CHẾ ĐỘBẢO HIỂM THAI SẢN Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và vai trò, ý nghĩa của chế độ bảo hiểm thai sản.
1.1.1 Khái niệm chế độ bảo hiểm thai sản
Ý tưởng về BHXH chỉ thực sự hình thành và phát triển khi xảy ra
cuộc cách mạng công nghiệp tại Châu Âu. Từ khi kinh tế hàng hóa phát
triển, việc thuê mướn nhân công ngày càng trở nên phổ biến. Ban đầu giới
chủ chỉ cam kết trả công lao động. Dần dần, NLĐ muốn NSDLĐ phải cam
kết trả thêm những khoản thu nhập cho NLĐ để họ trang trải những nhu
cầu thiết yếu khi ốm đau, tai nạn, thai sản hay tuổi già… Vấn đề mâu thuẫn
lợi ích giữa hai bên dẫn tới việc nhà nước phải can thiệp điều chỉnh.
BHXH chính thức xuất hiện tại Châu Âu từ đầu thế kỉ XIX khi nền
công nghiệp và kinh tế hàng hóa đã phát triển mạnh mẽ. Bộ luật đầu tiên đề
cập tới chế độ bảo hiểm ra đời ở Anh năm 1819 là Luật nhà máy. Năm
1883, nước Đức dưới thời Thủ tướng Bismark đã ban hành Đạo luật
BHXH, đây là văn bản về BHXH đầu tiên trên thế giới. Theo đạo luật này,
hệ thống BHXH ra đời với sự tham gia bắt buộc của cả người làm công ăn
lương và cả giới chủ. Nhà nước giữ vai trò quản lý, định hướng hoạt động
của BHXH. Sau đó nhiều nước Châu Âu cũng cho ra đời các Đạo luật của
mình như Bỉ (1905), Ý, Áo, Pháp,... Đến đầu thế kỷ XX, BHXH đã mở
rộng ra nhiều nước trên Thế giới, đặc biệt là các nước Mỹ La Tinh, Hoa
10
Kỳ, Canada và một số nước khác.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, tổ chức liên hợp quốc được thành lập.
Ngày 10/12/1949, Liên Hợp Quốc thông qua bản tuyên ngôn nhân quyền
mà trong đó đã khẳng định mọi thành viên trong xã hội đều có quyền
hưởng an sinh xã hội. Không lâu sau đó, đến ngày 25/6/1952 tổ chức lao
động quốc tế (ILO) thuộc liên hợp quốc lần đầu tiên thông qua Công ước
102 về an sinh xã hội. Đây là mốc son nổi bật đánh dấu sự phát triển của
BHXH thế giới. Công ước 102 của ILO có đề cập đến một số chế độ
BHXH trong đó có CĐTS. ILO cho rằng việc đảm bảo thu nhập cho NLĐ,
đặc biệt là lao động nữ khi mang thai, sinh con là hết sức cần thiết.[20]
Ở Việt Nam, ngay từ khi giành chính quyền Đảng và Nhà nước ta
cũng đã rất quan tâm đến chính sách BHXH trong đó có chế độ BHTS.
BHTS được xác định là chế độ bảo hiểm mang tính bắt buộc áp dụng cho
NLĐ khi tham gia quan hệ lao động. Nó bao gồm những quy định của Nhà
nước nhằm đảm bảo thu nhập và sức khỏe của NLĐ nữ khi mang thai, sinh
con; NLĐ khi nhận nuôi con là trẻ sơ sinh; lao động nữ khi thực hiện biện
pháp tránh thai. Cụ thể BHXH quy định về thời gian nghỉ khám thai, thời
gian nghỉ trước và sau khi sinh con; mức hưởng trợ cấp; các điều kiện để
hưởng trợ cấp; thời gian nghỉ dành cho lao động nam khi có vợ sinh con;
mức hưởng trợ cấp thai sản với các trường hợp tương ứng; hướng dẫn quy
trình thủ tục.Như vậy, bảo hiểm thai sản là gì.
“BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào
quỹ BHXH”[15]. Trong quá trình tham gia vào quan hệ lao động, người
11
lao động có thể sẽ gặp phải các rủi ro khác nhau như ốm đau, tai nạn. Đồng
thời trong quá trình tham gia quan hệ lao động, cùng với việc thực hiện các
nghĩa vụ của người lao động, người lao động cũng thực hiện thiên chức của
mình, đó là sinh đẻ và nuôi con. Khi đó người lao động có thể phải dừng
việc tham gia quan hệ lao động khiến thu nhập của họ sẽ bị gián đoạn.
BHXH sẽ bù đắp thu nhập cho người lao động trong thời gian này, giúp họ
thực hiện thiên chức của mình, yên tâm sinh đẻ và nuôi con. Bởi vậylà một
trong những chế độ bảo hiểm xã hội, BHXHTS thực chất cũng chính là sự
bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập liên quan đến thai sản trên cơ sở đóng vào
quỹ BHXH.
Vì vậy có thể đưa ra định nghĩa về bảo hiểm xã hội thai sản như sau:
BHXHTS là chế độ BHXH nhằm đảm bảo hoặc bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi bị giảm hoặc mất thu nhập liên quan đến thai sản
trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH, do Nhà nước tổ chức thực hiện.
Người lao động được hưởng BHXHTS ở đây không có nghĩa chỉ là
lao động nữ mà có thể còn là lao động nam. Sự kiện thai sản ở đây bao
gồm mang thai, sinh con hoặc có các sự kiện thai sản khác như thực hiện
các biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Tùy thuộc vào từng điều kiện, trường
hợp cụ thể mà lao động nữ hoặc lao động nam sẽ được hưởng chế độ thai
sản theo quy định.
1.1.2.Vai trò, ý nghĩa của chế độ bảo hiểm thai sản
Thứ nhất, chế độ BHTS có vai trò bù đắp một phần thiếu hụt về thu
nhập của NLĐ. Đó là quá trong quá trình thai sản NLĐ phải nghỉ việc,
không có lương, vì thế thu nhập sẽ bị giảm. Chế độ BHTS trợ cấp cho
12
NLĐ một mặt đã bù đắp được thu nhập bị giảm, mặt khác hỗ trợ các khoản
chi phí tăng thêm. Đồng thời góp phần thực hiện tốt chức năng và bảo vệ
quyền làm mẹ, làm vợ của người phụ nữ. Quy định trong chế độ BHTS đã
góp phần ổn định tâm lý cho NLĐ, đặc biệt là lao động nữ khi họ có nhu
cầu có con, xin con nuôi, giúp họ có thời gian chăm sóc con cái bảo vệ sức
khỏe của cả mẹ và con, không lo lắng về chi phí sinh con khi không tham
gia lao động. Chế độ BHTS đồng thời thể hiện sự quan tâm của Nhà nước,
NSDLĐ và cả những NLĐ với nhau.
Thứ hai, đối với NSDLĐ, thực hiện chính sách thai sản tốt góp phần
thu hút lao động nữ vào các doanh nghiệp, mà hiện nay lực lượng nữ tham
gia lao động ngày càng lớn, có tay nghề và trình độ ngày càng cao trong
các lĩnh vực hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Thông qua chính sách
này NSDLĐthể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với NLĐ và đối
với toàn xã hội, nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ thu hút được một lực
lượng lớn lao động.
Thứ ba, đối với Nhà nước và xã hội, chế độ BHTS là sự chia sẻ của
những người tham gia bảo hiểm đối với NLĐ khi thực hiện thiên chức.Tính
xã hội được thể hiện là do có sự chia sẻ rủi ro của bảo hiểm thai sản,
NLĐkhông phải đóng phí, phí đóng cho NLĐ hưởng được tính từ lợi
nhuận sau thuế của NSDLĐ. Khoản tiền nàygiúp đảm bảo cuộc sống đối
với NLĐkhi đang ở trong chế độ thai sản. Vì thế CĐTS thể hiện trách
nhiệm đặc biệt của NSDLĐ đối với NLĐ, tạo công bằng xã hội, tâm lý yên
tâm cho NLĐ, góp phần dung hòa mối quan hệ NSDLĐ và NLĐ giúp cho
việc sản xuất diễn ra liên tục giúp phát triển kinh tế gia đình và nền kinh tế
chung của đất nước. Việc thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thai sản sẽ góp
13
phần tái tạo lực lượng lao động lớn cho nền kinh tế trong tương lai.
BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tương thân
tương ái của cộng đồng thông qua việc chia sẻ rủi ro của một người hay
của một số ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro
cùng loại. Với chế độ bảo hiểm thai sản, đó là sự sẻ chia, quan tâm từ cộng
đồng và xã hội đối với phụ nữ, trẻ em là những đối tượng cần có sự quan
tâm, chăm sóc đặc biệt. Đồng thời, còn thể hiện chính sách bình đẳng giới
khi san sẻ gánh nặng, trách nhiệm đối với gia đình giữa lao động namvà lao
động nữ. Do đó BHXHTS góp phần ổn định trật tự xã hội.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của chế độ bảo hiểm thai sản
Các nguyên tắc cơ bản của BHXH là những tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật BHXH. BHXH
luôn chứa đựng và đan xen hai yếu tố kinh tế và xã hội. Là một trong
những chế độ BHXH, bảo hiểm thai sản mang bản chất chung của BHXH
đồng thời cũng có những nguyên tắc đặc trưng riêng khác biệt với những
chế độ BHXH khác. Theo Điều 5 của Luật Bảo hiểm xã hội quy định:
1. Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo
hiểm xã hội.
2. Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được tính trên cơ sở tiền
lương tháng của NLĐ. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên
cơ sở mức thu nhập tháng do NLĐ lựa chọn.
3. NLĐ vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời
gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ
14
tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian đóng bảo
hiểm xã hội đã được tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì không tính
vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
4. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung, thống nhất, công
khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục đích và được hạch toán độc lập
theo các quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực hiện chế độ tiền lương
do Nhà nước quy định và chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định.
5. Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện,
bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.
Ngoài những nguyên tắc chung của BHXH thì BHXHTS còn có
những nguyên tắc riêng như:
Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng
BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.Nói cách khác, cần
căn cứ vào mức đóng góp của NLĐ để từ đó quy định mức trợ cấp phù hợp
với đóng góp của NLĐ đó cho xã hội. Cụ thể, nguyên tắc này được thể
hiện trên các mặt sau: Có đóng BHXH thì được hưởng CĐTS; mức đóng
góp cao thì mức trợ cấp thai sản được hưởng với mức cao và ngược lại.
Tuy nhiên, về nguyên tắc, mức trợ cấp cho CĐTS phải không được cao
hơn tiền lương nhưng vẫn phải đảm bảo mức sống tối thiểu. Về bản chất,
trợ cấp bảo hiểm thai sản là loại trợ cấp thay thế tiền lương được chi trả
cho nguời lao động khi NLĐ có sức khỏe bình thường lao động bình
thường. Do đó, mức trợ cấp cho CĐTS phải không được cao hơn mức tiền
lương lúc đang đi làm. Ngoài ra, với đặc tính của bảo hiểm thì chia sẻ giữa
những người tham gia là không thể thiếu. Nguyên tắc “lấy số đông bù số
15
ít” thể hiện tính nhân đạo xã hội.
Mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của
NLĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập
tháng do NLĐ lựa chọn. Thu nhập được BHXH thực tế là phần thu nhập
của NLĐ tham gia bảo hiểm mà nếu nó biến động giảm hoặc mất do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động thì tổ chức BHXH phải chi trả trợ cấp để
thay thế hoặc bù đắp. Theo đó, tại nước ta, mức đóng BHXH được tính trên
cơ sở tiền công, tiền lương của NLĐ và mức đóng BHXH tự nguyện dựa
trên cơ sở mức thu nhập của họ nhưng không thấp hơn mức tối thiểu
chung. Như vậy, mới có thể đảm bảo NLĐ khi xảy ra sự kiện thai sản được
cung cấp một nguồn tài chính ổn định, bằng với mức sống tối thiểu
Nhà nước thống nhất quản lý chính sách và quỹ BHXH nói chung và
BHTS nói riêng theo nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch. Hệ thống
BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ phận cấu thành. Trong đó, bộ
phận lớn nhất do Nhà nước tổ chức và bảo hộ bao trùm toàn bộ những
người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và NLĐ thuộc khu vực kinh tế
quan trọng của đất nước. Ở nước ta do những điều kiện kinh tế, xã hội chưa
cho phép các tổ chức và cá nhân thực hiện BHXH mà chỉ có BHXH của
Nhà nước. Để đảm bảo BHXH hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải đảm
bảo tính thống nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tuỳ
tiện, tính cục bộ hoặc những mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có
cơ chế để bộ phận cấu thành có thể năng động trong hoạt động để chúng có
thể bù đắp, bổ sung những ưu điểm cho nhau. Bên cạnh đó, quỹ BHXH là
hạt nhân của chính sách BHXH nói chung và bảo hiểm thai sản nói riêng,
vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ
16
sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và
phát triển. Do đó, quỹ BHXH được quản lý thống nhất và hạch toán theo
các quỹ thành phần trên cơ sở công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục
đích nhằm đảm bảo cho việc quản lý, đầu tư quỹ có hiệu quả và phục vụ
cho công tác hạch toán, đánh giá tình hình cân đối quỹ để có điều chỉnh về
chính sách cho phù hợp, đảm bảo cân đối thu – chi, điều chỉnh kịp thời khi
các quỹ thành phần tạm thời bị mất cân đối, không ảnh hưởng đến quyền
lợi của người tham gia BHXH. Có như vậy thì mới đảm bảo được mục đích
ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro hoặc
sự kiện thai sản làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động
Việc thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản phải đơn giản, dễ dàng,
thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia
BHXH Với nguyên tắc này, việc thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản đối
với NLĐ phải được nghiên cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời
hạn giải quyết sao cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NLĐ,
NSDLĐ khi tham gia BHXH và khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH.
Các quy định về CĐTS phải đảm bảo quyền lợi về vật chất và tinh
thần của cả NLĐ và trẻ sơ sinh. Đặc điểm của thời kỳ thai sản là một chu
kỳ liên tục và kéo dài bắt đầu từ lúc mang thai, đến quá trình nghỉ sinh con,
sau đó là chăm sóc trẻ sơ sinh cho đến khi NLĐ ổn định lại sức khoẻ trở lại
lao động như bình thường, nên trong việc khám thai phải được khám và tư
vấn một cách đều đặn để phát hiện sớm các sự cố trong quá trình mang
thai, quá trình nghỉ sinh con, khi nuôi con nuôi sơ sinh… phải có những
chính sách cụ thể và nhằm đảm bảo người phụ nữ phải được chăm sóc một
cách thật sự chu đáo cà có tính liên tục, kéo dài. Các chính sách chế định
17
bảo hiểm thai sản cũng phải bảo đảm đủ thời gian để người mẹ ổn định và
phục hồi sức khoẻ sau khi sinh con và chăm sóc con trong thời gian ban
đầu cũng như tạo điều kiện cho trẻ sơ sinh thích nghivà phát triển trong
môi trường mới.
1.3 Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế độ bảo hiểm thai
sản
1.3.1 Đối tượng và điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
Đối tượng áp dụng BHXHTS
Đối tượng áp dụng chế độ thai sản được quy định tại các điểm a, b, c,
d, đ và h khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, theo đó bao gồm:
Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời
hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12
tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa NSDLĐ với người đại
diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp
luật về lao động;
Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng
đến dưới 03 tháng;
Cán bộ, công chức, viên chức;
Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác
trong tổ chức cơ yếu;
Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
18
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có
hưởng tiền lương.[15]
Qua đây có thể thấy, đối tượng hưởng CĐTS theo quy định của pháp
luật hiện hành bao gồm những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước
như cán bộ, công nhân viên chức nhà nước và những người hưởng lương
theo hợp đồng lao động. So với Luật bảo hiểm xã hội 2006, những đối
tượng được hưởng CĐTS đã được mở rộng hơn, bao gồm cả người làm
việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng
và người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có
hưởng tiền lương. Quy định mở rộng này rõ ràng đã tạo điều kiện tốt hơn
trong việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ.
Điều kiện hưởng CĐTS:
Theo Khoản 1 Điều 31 Luật BHXH năm 2014 để được hưởng CĐTS
thì NLĐ phải thuộc một trong các trường hợp sau:
- Lao động nữ mang thai;
- Lao động nữ sinh con;
- Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;
- NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;
- Lao động nữ đặt vòng tránh thai, NLĐ thực hiện biện pháp triệt
sản;
- Lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con.
Theo quy định tại Luật bảo hiểm xã hội thì đối tượng được nghỉ việc
được hưởng trợ cấp thai sản phải thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc.
19
Trong hai trường hợp: lao động nữ sinh con và NLĐ nói chung nhận nuôi
con nuôi dưới 06 tháng tuổi phải đóng phí BHXH từ đủ 06 tháng trở lên
trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nuôi con nuôi mới được
hưởng CĐTS. Rõ ràng quy định này thể hiện được mục đích xây dựng luật
nhằm bảo vệ quyền lợi an sinh xã hội của NLĐ Việt Nam. Tính bắt buộc ở
đây không thể hiện mục đích cưỡng chế nhưng thể hiện tầm quan trọng của
việc áp dụng CĐTS. Ngoài ra, luật còn quy định điều kiện hưởng CĐTS
với các trường hợp: lao động nữ mang thai; lao động nữ sinh con; NLĐ
nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi; NLĐ đặt vòng tránh thai; thực hiện
biện pháp triệt sản. Với hai trường hợp lao động nữ sinh con, NLĐ nhận
con nuôi dưới 06 tháng tuổi phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong
thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận con nuôi. Quy định về điều
kiện đóng BHXH đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh
con hay nhận nuôi con nuôi đảm bảo nguyên tắc của BHXH, dựa trên cơ sở
đóng góp của chính NLĐ. Hoàn toàn khác biệt với giai đoạn nhận trợ cấp
của Nhà nước trước đây. Điều kiện này không chỉ thể hiện ý nghĩa thật sự
của BHXH nói chung, CĐTS nói riêng, nhưng còn ảnh hưởng đến nguồn
quỹ BHXH. Ngoài ra, Nghị định số 143/2018/NĐ-CP cũng quy định
trường hợp NLĐ đủ điều kiện nêu trên nhưng nghỉ việc trước thời điểm
sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì vẫn được hưởng
CĐTS theo quy định tại điều 36, 38 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014.[9]
1.3.2 Thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
Quyền lợi chính yếu của NLĐ khi hưởng CĐTS chính là thời gian
dành để nghỉ ngơi, khám thai, phục hồi sức khỏe và mức trợ cấp tương ứng
nhằm đảm bảo thu nhập, phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong giai đoạn đặc biệt
20
này.[15]
Nghỉ khám thai:
Cũng giống như quy định của các nước trên thế giới, Luật bảo hiểm xã
hội Việt Nam cho phép lao động nữ khi mang thai có thời gian nghỉ để
khám thai, cụ thể: nghỉ 5 ngày cho 5 lần đi khám thai. Trường hợp ở xa cơ
sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường có
thể nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai. Tuy nhiên, luật cũng quy định thời
gian nghỉ việc để khám thai tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ,
nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
Nghỉ khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu:
Trong trường hợp sự cố ngoài ý muốn xảy ra như sẩy thai, nạo, hút thai
hoặc thai chết lưu, NLĐ nữ là người trực tiếp gánh chịu những đau đớn về
mặt thể xác và tinh thần. Luật pháp Việt Nam dành riêng cho họ những
ngày nghỉ hưởng trợ cấp để có thể phục hồi sức khỏe và tinh thần, trước
khi quay trở lại với môi trường làm việc. Cụ thể, lao động nữ nghỉ hưởng
trợ cấp 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi, 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi
đến 13 tuần tuổi, 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến 25 tuần tuổi tuổi và
50 ngày nếu thai từ 25 tuần trở lên. Thời gian nghỉ hưởng CĐTS kể trên
bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
Nghỉ khi sinh con:
Giai đoạn sau khi sinh là giai đoạn lao động nữ cần hồi phục sức khỏe,
thực hiện nghĩa vụ nuôi con nhỏ, đặc biệt nuôi con bằng sữa mẹ và làm
quen cuộc sống mới. Pháp luật Việt Nam căn cứ vào từng trường hợp cụ
thể dành cho lao động nữ thời gian nghỉ sau khi sinh thích hợp. Theo quy
định của Luật bảo hiểm xã hộinăm 2014 quy định thời gian nghỉ thai sản
21
của lao động nữ là 6 tháng. Riêng trường hợp một lần lao động nữ sinh đôi
trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, lao động nữ sẽ được nghỉ
thêm 01 tháng.
Trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì mẹ
được nghỉ việc 04 tháng tính từ ngày sinh con; Nếu con từ 02 tháng tuổi trở
lên bị chết thì mẹ được nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết và thời
gian này không tính vào thời gian nghỉ việc riêng.
Ngoài ra, khi vợ sinh con, nam giới cũng được nghỉ làm trong các
trường hợp sau: đối với lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con thì
trong vòng 30 ngày đầu kể từ ngày sinh được nghỉ 5 ngày làm việc nếu vợ
sinh thường; 7 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con
dưới 32 tuần tuổi; 10 ngày làm việc trong trường hợp vợ sinh đôi, từ sinh
ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 3 ngày làm việc; 14 ngày
làm việc trong trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.
Quy định về thời gian nghỉ sau khi sinh không chỉ đảm bảo sức khỏe
cho người mẹ, luật pháp còn chú trọng đến quyền được nhận sự nuôi dưỡng
đầy đủ từ bố mẹ của trẻ nhỏ. Trong trường hợp xấu xảy ra, chỉ có cha tham
gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà
không còn đủ sức khỏe để chăm sóccon theo xác nhận của cơ sở y tế có
thẩm quyền thì: Cha được nghỉ việc hưởng CĐTS cho đến khi con đủ 06
tháng tuổi. Trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều
tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha được nghỉ việc hưởng
CĐTS đối với thời gian còn lại của người mẹ. Nếu mẹ tham gia BHXH
nhưng không đủ điều kiện hưởng và mẹ chết sau sinh thì cha được nghỉ
việc hưởng CĐTS cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Thời gian nghỉ thai
22
sản sau khi sinh tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
Nghỉ khi nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi:
Pháp luật Việt Nam cho phép công dân nước mình được phép nhận
nuôi con nuôi. Theo đó, cũng phải xây dựng cơ chế đảm bảo cho họ thực
hiện quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng của mình. Luật BHXH Việt Nam quy
định trường hợp NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được nghỉ
việc hưởng CĐTS cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
Nghỉ khi thực hiện các biện pháp tránh thai:
Thực hiện các biện pháp tránh thai là quyền lợi hợp pháp của NLĐ. Do
đó, Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam có điều khoản quy định về ngày nghỉ
hưởng CĐTS cho những trường hợp đặc biệt này. Cụ thể, NLĐ được phép
nghỉ 07 ngày khi đặt vòng tránh thai; 15 ngày khi thực hiện biện pháp triệt
sản. Thời gian nghỉ việc hưởng CĐTS nêu trên tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ
Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
Thời gian nghỉ của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang
thai hộ:
Đây là lần đầu tiên trong luật quy định mang tính nguyên tắc về
quyền hưởng BHTS đối với người mẹ nhờ mang thai hộ và người mang
thai hộ mà trước đó luật chưa quy định. Quy định thêm này của Luật bảo
hiểm xã hội 2014 cho người mẹ nhờ mang thai hộ và lao động nữ mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo để phù hợp và nhất quán với Luật hôn nhân
và gia đình từ ngày 01/01/2015 cho phép lao động nữ mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo. Điều này giúp đảm bảo cho người phụ nữ phục hồi sức
khỏe, tinh thần khi cùng gánh vác nhiệm vụ mang thai và nuôi dạy trẻ sơ
23
sinh và mang tính chất nhân đạo cao.[16]
Quy định này được quy định cụ thể tại Điều 35 Luật bảo hiểm xã hội
năm 2014: “Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai,
sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi sinh
con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng
không vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều 34 của Luật này.
Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian
hưởng CĐTS chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng
CĐTS cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ
hằng tuần. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng CĐTS từ thời điểm
nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi”.
Như vậy có thể thấy, trong trường hợp lao động nữ là người mẹ nhờ
mang thai hộ hay là người mang thai hộ, thì vẫn được hưởng đầy đủ quyền
về bảo hiểm thai sản như những trường hợp mang thai và sinh con thông
thường khác.
Do có sự chuyển giao việc nuôi dưỡng con sơ sinh được sinh ra nên
thời gian hưởng BHTS của lao động nữ mang thai hộ sẽ được tính đến thời
điểm giao đứa trẻ cho người nhờ mang thai hộ. Khi đó, sức khỏe của cả lao
động nữ mang thai hộ cũng như đứa trẻ được đảm bảo một cách tốt nhất,
tuy nhiên không vượt quá mức quy định là 06 tháng.
Còn đối với người mẹ nhờ mang thai hộ, họ có quyền được nghỉ
hưởng BHTS kể từ thời điểm nhận con đến khi con đủ 06 tháng tuổi nhằm
đảm bảo quỹ thời gian hợp lý chăm sóc con trong giai đoạn sơ sinh một
cách tốt nhất.
Ngoài những thời gian nghỉ nói trên, nếu sức khỏe của lao động nữ vẫn
24
chưa hồi phục, chưa thể hòa nhập với môi trường làm việc, họ vẫn có thể
nghỉ thêm và vẫn được hưởng mức trợ cấp tương ứng theo luật định. Luật
Bảo hiểm xã hội quy định vấn đề này tại điều khoản về dưỡng sức, phục
hồi sức khỏe sau thai sản. Theo đó, lao động nữ sẽ được nghỉ tối đa thêm
10 ngày nếu sinh một lần từ 2 con trở lên, tối đa 7 ngày nếu sinh con phải
phẫu thuật và 5 ngày với các trường hợp khác.
Pháp luật Việt Nam cũng rất mở cho NLĐ. Trước khi hết thời hạn
nghỉ sinh con, lao động nữ vẫn có thể đi làm nếu thỏa đủ các điều kiện luật
định: sau khi sinh con từ đủ 04 tháng trở lên; có xác nhận của cơ sở y tế về
việc đi là Sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất được 04 tháng; phải báo
trước và được NSDLĐ đồng ý. Trong thời gian này, ngoài tiền lương, tiền
công, NLĐ vẫn tiếp tục được hưởng CĐTS cho đến khi hết thời hạn theo
quy định.
1.3.3 Mức trợ cấp thai sản
Trong thời gian nghỉ việc hưởng CĐTS, NLĐ nữ sẽ được hưởng tiền
trợ cấp từ cơ quan BHXH thay vào phần thu nhập bị mất do không có
lương. Theo Công ước 102, mức trợ cấp bằng tiền sẽ do pháp luật hoặc
pháp quy quốc gia ấn định, sao cho có thể bảo đảm đầy đủ việc nuôi dưỡng
cả người mẹ và đứa con trong những điều kiện vệ sinh tốt và ở một mức
sống thỏa đáng.[20]
Theo Điều 38 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, lao động nữ sinh con sẽ
được hưởng trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại
tháng lao động nữ sinh con. Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham
gia BHXH thì cha được nhận khoản trợ cấp này.Hiện nay, mức lương cơ sở
là 1,39 triệu đồng/tháng (theo Nghị định 72/2018/NĐ-CP), tức tiền trợ cấp
25
thai sản là 2,78 triệu đồng.[8]
Từ ngày 01/07/2019, mức lương cơ sở sẽ chính thức tăng lên 1,49
triệu đồng/tháng (theo Nghị quyết 70/2018/QH14).Theo đó, kể từ thời
điểm này, lao động nữ sinh con sẽ được nhận tiền trợ cấp thai sản là 2,98
triệu đồng/tháng; tăng 200.000 đồng so với hiện nay.[18]
Khám thai:Trong thời gian mang thai, lao động nữ được đi khám thai
5 lần, mỗi lần 1 ngày; trường hợp xa cơ sở y tế hoặc thai có bệnh lý hoặc
thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày/1 lần khám thai.
Mức hưởng = {(mức bình quân tiền lương đóng BHXH 6 tháng liền kề
trước khi nghỉ việc) / 24 ngày }x 100% x số ngày nghỉ.
Sẩy thai, nạo thai, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý:10
ngày: nếu thai dưới 5 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 5 đến dưới 13 tuần; 40
ngày nếu thai từ 13 đến dưới 25 tuần tuổi; 50 ngày nếu thai từ 25 tuần trở
lên. Thời gian nghỉ tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần.
Mức hưởng = {Mức bình quân tiền lương đóng BHXH 6 tháng liền kề
trước khi nghỉ việc/ 30 ngày} x 100% x số ngày nghỉ.
Khi thực hiện biện pháp tránh thai:Đặt vòng tránh thai (nghỉ 7 ngày);
Triệt sản (nghỉ 15 ngày);
Mức hưởng = {Mức bình quân tiền lương đóng BHXH 6 tháng liền kề
trước khi nghỉ việc/ 30 ngày} x 100% x số ngày nghỉ.
Theo Luật Bảo hiểm xã hội 2014, quy định NLĐ hưởng CĐTS được
nhận mức hưởng bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng
đóng BHXH của 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
Mức hưởng: Mức bình quân tiền lương đóng BHXH 6 tháng liền kề
trước khi nghỉ việc x 100% x số tháng nghỉ việc do sinh con hoặc nuôi con
26
nuôi.
Điều này cho thấy mức hưởng cũng căn cứ trên tiền lương, nói khác
hơn căn cứ trên mức đóng bảo hiểm, đảm bảo nguyên tắc dựa trên cơ sở
đóng góp của người tham gia bảo hiểm. Thời gian nghỉ việc hưởng CĐTS
được tính là thời gian đóng BHXH. Thời gian này NLĐ và NSDLĐ không
phải đóng BHXH. Đây là một điểm đặc biệt của CĐTS.
Ngoài nhận trợ cấp thai sản, NLĐ còn được hưởng trợ cấp một lần khi
sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. Theo đó, lao động nữ sinh con hoặc
NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được trợ cấp một lần bằng
hai tháng lương cơ sở cho mỗi con. Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH
mà mẹ chết khi sinh con thì cha được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương
tối thiểu chung cho mỗi con.
Đối với nam giới khi nghỉ chăm con sẽ có chế độ hưởng BHXH như
sau:
Mức hưởng = 100% x (mức bình quân tiền lương: 24) x số ngày được
nghỉ.
Trong đó, nếu đã đóng BHXH từ 6 tháng trở lên tính tới thời điểm sinh
con thì mức bình quân tiền lương bằng mức bình quân tiền lương tháng
đóng BHXH của 6 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ; nếu đóng
BHXH chưa đủ 6 tháng thì mức bình quân tiền lương bằng mức bình quân
tiền lương tháng của các tháng đã đóng.
Trong trường hợp nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản, lao
động nữ được hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một
ngày bằng 30% mức lương cơ sở.
Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH làm cơ sở tính
27
hưởng CĐTS là mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH
của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Nếu thời gian đóng BHXH không
liên tục thì được cộng dồn.
Trong trường hợp NLĐ đóng BHXH chưa đủ 6 tháng thì mức hưởng
CĐTS khi đi khám thai, khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực
hiện các biện pháp tránh thai là mức bình quân tiền lương, tiền công tháng
của các tháng đó đóng BHXH. Trường hợp NLĐ hưởng CĐTS khi đi khám
thai, khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp
tránh thai ngay trong tháng đầu tham gia BHXH, thì lấy mức tiền lương,
tiền công đóng BHXH của tháng đó làm cơ sở tính hưởng CĐTS tương
ứng
1.3.4 Thủ tục hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
Thủ tục và quy trình giải quyết chế độ hưởng BHXHTS đối với lao
động nói chung và lao động nữ nói riêng được quy định tại Nghị định
115/2015/NĐ-CP, Quyết định 636/QĐ-BHXH/2016, Thông tư số
59/2015/TT-BLĐTBXH, Luật bảo hiểm xã hội 2014 và được hướng dẫn tại
Công văn số 1075/BHXH-CSXH của BHXH Việt Nam.
Về hồ sơ thủ tục hưởng chế độ BHXH thai sản
Trường hợp lao động nữ đang đóng BHXH sinh con hoặc đối với
chồng, người nuôi dưỡng trong trường hợp người mẹ chết hoặc con chết
sau khi sinh hoặc người mẹ gặp rủi ro sau khi sinh không còn đủ sức khỏe
để chăm sóc con thì hồ sơ để NLĐ nữ được hưởng trợ cấp thai sản bao
gồm: Bản sao giấy khai sinh hoặc bản sao giấy chứng sinh của con;Bản sao
giấy chứng tử của con trong trường hợp con chết, bản sao giấy chứng tử
của mẹ trong trường hợp sau khi sinh con mà mẹ chết; Giấy xác nhận của
28
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về tình trạng người mẹ sau khi
sinh con mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con; Trích sao hồ sơ bệnh
án hoặc giấy ra viện của người mẹ trong trường hợp con chết sau khi sinh
mà chưa được cấp giấy chứng sinh;
Ngoài những hồ sơ nêu trên đối với trường hợp con chết thì hồ sơ còn
có: Giấy chứng tử hoặc trích lục khai tử của con hoặc trích sao hồ sơ bệnh
án hoặc giấy ra viện của người mẹ trong trường hợp con chết sau khi sinh
mà chưa được cấp giấy chứng sinh; Trường hợp mẹ chết: Giấy chứng tử
hoặc trích lục khai tử của mẹ; Giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh có thẩm quyền về việc lao động nữ phải nghỉ việc để dưỡng thai trong
trường hợp lao động nữ khi mang thai phải nghỉ việc dưỡng thai (mẫu và
thẩm quyền cấp theo quy định của Bộ Y tế); Giấy xác nhận của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về tình trạng người mẹ sau khi sinh con mà
không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con trong trường hợp người mẹ sau
khi sinh con không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con (mẫu và thẩm quyền
cấp theo quy định của Bộ Y tế).
Bên cạnh đó, hồ sơ hưởng trợ cấp thai sản cho lao động nữ sinh con
cũng cần có danh sách hưởng CĐTS do NSDLĐ lập theo mẫu. (Điều 102
Luật bảo hiểm xã hội năm 2014)
Trường hợp lao động nữ đi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu
hoặc phá thai bệnh lý, NLĐ thực hiện biện pháp tránh thai. Hồ sơ để NLĐ
nữ được hưởng trợ cấp thai sản trong các trường hợp khám thai, sẩy thai,
nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý, NLĐ thực hiện biện pháp
tránh thai bao gồm: Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH
đối với trường hợp điều trị ngoại trú, bản chính hoặc bản sao giấy ra viện
29
đối với trường hợp điều trị nội trú do cơ sở y tế có thẩm quyền nơi NLĐ nữ
thăm khám, điều trị cấp. NLĐ nữ có trách nhiệm cung cấp loại giấy tờ nêu
trên để được hưởng CĐTS.
Hồ sơ để NLĐ nữ được hưởng trợ cấp thai sản khi nhận nuôi con nuôi
dưới 06 tháng tuổi bao gồm: Giấy chứng nhận nuôi con nuôi do cơ quan có
thẩm quyền cấp theo mẫu quy định tại Luật nuôi con nuôi và các văn bản
hướng dẫn; Danh sách hưởng CĐTS theo quy định.
Hồ sơ hưởng BHXHTS đối với lao động nữ mang thai hộ khi sinh con,
bao gồm: Bản sao bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
theo quy định tại và văn bản xác nhận thời điểm giao đứa trẻ của bên nhờ
mang thai hộ và bên mang thai hộ; Bản sao giấy khai sinh hoặc bản sao
giấy chứng sinh của con; Danh sách NLĐ hưởng CĐTS do NSDLĐ lập;
Trường hợp con chết mà thời gian hưởng CĐTS chưa đủ 60 ngày thì có
thêm bản sao giấy chứng tử của con; Trong trường hợp con chết sau khi
sinh mà chưa được cấp giấy chứng sinh thì có thêm trích sao hồ sơ bệnh án
hoặc giấy ra viện của người mẹ; Trong trường hợp sau khi sinh con mà lao
động nữ mang thai hộ chết thì có thêm bản sao giấy chứng tử của lao động
nữ mang thai hộ; Trong trường hợp lao động nữ mang thai hộ khi mang thai
phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
có thẩm quyền thì có thêm giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có
thẩm quyền.
Ngoài ra trường hợp con chết còn cần: Giấy chứng tử hoặc trích lục
khai tử của con hoặc trích sao hồ sơ bệnh án hoặc giấy ra viện của lao động
nữ mang thai hộ trong trường hợp con chết sau khi sinh mà chưa được cấp
giấy chứng sinh; Trường hợp lao động nữ mang thai hộ sau khi sinh bị
30
chết: Giấy chứng tử hoặc trích lục khai tử; Giấy xác nhận của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền trong trường hợp lao động nữ khi mang
thai hộ phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh có thẩm quyền (mẫu và thẩm quyền cấp theo quy định của Bộ Y
tế).
Người mẹ nhờ mang thai hộ khi lao động nữ mang thai hộ sinh con, để
được hưởng trợ cấp hồ sơ phải đảm bảo các giấy tờ sau đây: Bản sao bản
thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và văn bản xác nhận thời
điểm giao đứa trẻ của bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ; Bản sao
giấy khai sinh hoặc bản sao giấy chứng sinh của con; Danh sách NLĐ hưởng
CĐTS do NSDLĐ lập; Trong trường hợp người mẹ nhờ mang thai hộ chết thì
có thêm bản sao giấy chứng tử; Trong trường hợp người mẹ nhờ mang thai hộ
không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con thì có thêm giấy xác nhận của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; Trong trường hợp con chưa đủ 06
tháng tuổi bị chết thì có thêm bản sao giấy chứng tử của con.
Ngoài ra đối với trường hợp con chưa đủ 06 tháng tuổi bị chết còn
phải có: Giấy chứng tử hoặc trích lục khai tử; Trường hợp người mẹ nhờ
mang thai hộ chết còn phải có: Giấy chứng tử hoặc trích lục khai tử; Giấy
xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về tình trạng
người mẹ nhờ mang thai hộ không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con (mẫu
và thẩm quyền cấp theo quy định của Bộ Y tế).
Trường hợp lao động nam có vợ sinh con hoặc chồng của lao động nữ
mang thai hộ gồm thì hồ sơ để hưởng trợ cấp gồm có: Giấy khai sinh hoặc
trích lục khai sinh hoặc giấy chứng sinh của con trừ trường hợp con chết
mà chưa được cấp giấy chứng sinh; Trường hợp con chết: Giấy chứng tử
31
hoặc trích lục khai tử của con hoặc trích sao hồ sơ bệnh án hoặc giấy ra
viện của người mẹ trong trường hợp con chết sau khi sinh mà chưa được
cấp giấy chứng sinh; Giấy xác nhận của cơ sở y tế đối với trường hợp sinh
con dưới 32 tuần tuổi hoặc sinh con phải phẫu thuật (mẫu và thẩm quyền
cấp theo quy định của Bộ Y tế).
Ngoài ra, đối với trường hợp mang thai hộ còn cần danh sách NLĐ
nghỉ việc hưởng CĐTS do NSDLĐ lập như các trường hợp khác.
Trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe: Trong trường hợp này, hồ sơ
giải quyết hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản là
Danh sách thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức
khỏe do NSDLĐ lập.
Trợ cấp một lần khi vợ sinh con đối với lao động nam (trong trường
hợp chỉ có cha tham gia BHXH thì hồ sơ gồm: Giấy khai sinh hoặc trích
lục khai sinh hoặc giấy chứng sinh của con trừ trường hợp con chết mà
chưa được cấp giấy chứng sinh; Trường hợp con chết: Giấy chứng tử hoặc
trích lục khai tử của con hoặc trích sao hồ sơ bệnh án hoặc giấy ra viện của
người mẹ trong trường hợp con chết sau khi sinh mà chưa được cấp giấy
chứng sinh.[6] [2]
Thủ tục giải quyết
Việc tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ trợ cấp thai sản theo nguyên tắc chung
áp dụng là do cơ quan BHXH (huyện hoặc tỉnh) trực tiếp quản lý, phụ trách
và thu BHXH. Đối với đơn vị sử dụng lao động cấp nào thì cơ quan BHXH
cấp đó chịu trách nhiệm về việc tiếp nhận hồ sơ, xét duyệt, chi trả và thanh
toán, quyết toán CĐTS cho đơn vị sử dụng lao động đó. Cụ thể về việc giải
32
quyết chế độ BHXHTS cho NLĐ được thực hiện theo thủ tục sau:
NLĐ nộp hồ sơ hưởng BHXHTS cho NSDLĐ: NLĐ nộp hồ sơ cần
thiết theo quy định cho NSDLĐ trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày trở lại
làm việc.Trường hợp NLĐ nữ thôi việc trước thời điểm sinh con, nhận
nuôi con nuôi thì nộp hồ sơ và xuất trình sổ BHXH cho cơ quan BHXH nơi
cư trú mà không thông qua NSDLĐ.
NSDLĐ lập hồ sơ và gửi đến cơ quan bảo hiểm: Trong thời hạn 10
ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ từ NLĐ, NSDLĐ có trách nhiệm lập hồ sơ
theo mẫu quy định và nộp kèm với các hồ sơ tiếp nhận từ NLĐ đến cơ
quan BHXH đang quản lý đơn vị.
Trường hợp hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản
thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày NLĐ đủ điều kiện hưởng trợ cấp
dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản, NSDLĐ lập danh sách
và nộp cho cơ quan BHXH.
Cơ quan BHXH giải quyết chế độ cho NLĐ: Trong thời hạn 10 ngày
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định từ NSDLĐ, cơ quan BHXH phải
giải quyết và tổ chức chi trả cho NLĐ; Đối với trường hợp NLĐ thôi việc
trước thời điểm sinh con, nhận nuôi con nuôi và nộp hồ sơ hưởng CĐTS
trực tiếp cho cơ quan BHXH thì thời hạn để giải quyết và tổ chức chi trả
cho NLĐ là 05 ngày kể từ ngày cơ quan BHXH tiếp nhận đủ hồ sơ theo
quy định. Khi có lý do để không giải quyết hồ sơ hưởng CĐTS, cơ quan
33
BHXH phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do [1]
Tiểu kết chương
BHXHTS là một trong những chế độ BHXH bắt buộc nhằm bảo đảm
và bù đắp thu nhập cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm trong
quá trình mang thai, sinh con… Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
bởi nó đảm bảo cuộc sống cho NLĐ, đặc biệt là lao động nữ khi sinh con,
mang thai, đảm bảo cho lao động nam thực hiện trách nhiệm gia đình.
Pháp luật BHXHTS hiện hành ở Việt Nam về cơ bản đã tạo ra khung
pháp lý tương đối toàn diện nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động
tham gia BHXH được hưởng chế độ thai sản khi có điều kiện BHXH phát
sinh. Như về đối tượng, điều kiện hưởng, thời gian hưởng, mức hưởng và thủ
tục hưởng bảo hiểm. Chế độ thai sản không chỉ áp dụng cho lao động nữ khi
mang thai, sinh con, lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ
34
mà còn được áp dụng cho lao động nam tham gia bảo hiểm khi vợ sinh con.
Chương 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CHẾ ĐỘ THAI SẢN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Khái quát về lao động, việc làm tỉnh Thái Nguyên và bảo hiểm xã
hội tỉnh Thái Nguyên
Khái quát lao động, việc làm tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là một trung tâm về giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực
lớn thứ ba của cả nước, nằm liền kề phía Bắc Thủ đô Hà Nội với tổng diện
tích tự nhiên 3.533 km2, dân số trên 1,2 triệu người, mỗi năm có từ 15 - 16
nghìn người bước vào tuổi lao động. Năm 2016 đào tạo nghề được 30.210
người, trong đó lao động nông thôn là 2.662 người; năm 2018 là 39.676
người, trong đó lao động nông thôn là 2.909 người.
Năm 2016 tỉnh đã tạo việc làm cho 746.898 người; năm 2018 là
758.082 người. Một trong những lý do chính các tập đoàn kinh tế, các
doanh nghiệp quyết định đầu tư vào Thái Nguyên đó là nguồn nhân lực.
Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) là nhà đầu tư FDI lớn nhất vào Thái
Nguyên có 2 dự án lớn với tổng giá trị đầu tư trên 6 tỷ USD. Tính đến
tháng 4/2018, tập đoàn này tuyển dụng vào làm việc trên 75,2 nghìn lao
động trong đó có gần 20 nghìn lao động là người Thái Nguyên. [19]
Khái quát về Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên
Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng
Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. BHXH tỉnh Thái Nguyên có tài
khoản và con dấu riêng, trụ sở chính đặt tại Thành phố Thái Nguyên.
Về chức năng, BHXH tỉnh Thái Nguyên có chức năng tổ chức thực
35
hiện các chính sách, chế độ BHXH và tổ chức quản lý tài chính BHXH của
tỉnh Thái Nguyên. Nhiệm vụ chính của BHXH tỉnh Thái Nguyên là: tổ
chức thực hiện công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến chế độ chính sách,
pháp luật về BHXH, bảo hiểm y tế; tổ chức khai thác, đăng ký, quản lý các
đối tượng tham gia và hưởng chế độ bảo hiểm; tổ chức cấp sổ bảo hiểm,
thẻ bảo hiểm y tế; tổ chức thu các khoản đóng BHXH, bảo hiểm y tế; nhận
hồ sơ, giải quyết chế độ BHXH, BHYT; tổ chức chi trả các chế độ BHXH,
BHYT; tổ chức ký hợp đồng với các cơ sở khám chữa bệnh BHYT.
2.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật chế
độ bảo hiểm xã hội thai sản tỉnh Thái Nguyên
Nhờ sự chủ động phối hợp giữa BHXH tỉnh Thái Nguyên với các đơn
vị, tổ chức có liên quan mà chính sách, pháp luật về BHXH được tuyên
truyền phổ biến rộng rãi, công tác quản lý giám sát đối tượng cũng được
thực hiện thường xuyên liên tục. Chính bởi vậy, BHXH tỉnh Thái Nguyên
đã đạt được những kết quả đáng kể trong công tác phát triển đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc nói chung, BHXHTS nói riêng.
Năm 2018 đơn vị đã hoàn thành việc rà soát, bàn giao sổ BHXH cho
người lao động; tổ chức ký hợp đồng khám, chữa bệnh với 46 cơ sở khám,
chữa bệnh, bao gồm 37 cơ sở khám, chữa bệnh công lập và 9 cơ sở khám,
chữa bệnh ngoài công lập, trong đó có 1 bệnh viện tuyến Trung ương, 12
bệnh viện tuyến tỉnh, 21 bệnh viện tuyến huyện và tương đương…, đảm
bảo cho trên 1,7 triệu lượt người khám, chữa bệnh với số tiền chi trả trên
1.239 tỷ đồng. Với việc thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, BHXH tỉnh đã
kiểm soát được vấn đề gia tăng chi phí, đảm bảo cân đối trong dự toán Thủ
tướng Chính phủ giao. Đặc biệt,công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH
36
luôn được BHXH tỉnh phối hợp với ngành Bưu điện triển khai thực hiện
kịp thời, đúng quy định; công tác thanh kiểm tra và thanh tra chuyên ngành
đối với các đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT, BTHN được quan tâm, chú
trọng và đã truy thu về quỹ hàng tỷ đồng; công tác cải cách hành chính
được đẩy mạnh; công tác tuyên truyền được tăng cường với nhiều hình
thức và nội dung đa dạng, phong phú, đã góp phần trong công tác phát triển
đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BTHN ...
Cụ thể năm 2018 Tổng số người tham gia BHXH, BHYT, BHTN toàn
tỉnh: 1.215.509 người, đạt 100,10% kế hoạch BHXH Việt Nam giao.Số thu
đến ngày 31/12/2018 là: 5.125.865 triệu đồng,đạt 101,23% kế hoạch, tăng
11,12% so với cùng kỳ 2017.Năm 2018, tổng số người tham gia BHXH,
BHYT, BHTN toàn tỉnh: 1.325.299 người, trong đó: tham gia BHXH bắt
buộc trong đó có chế độ BHXHTS là: 33.268 người.[3]
Các số liệu trên cho thấy số lượng người tham gia BHXH nói chung,
BHXHTS nói riêng tăng dần theo các năm. Điều đó chứng tỏ đối tượng
tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. BHXH đã thu hút được sự tham
gia của người lao động và người sử dụng lao động. Đây được xem là những
kết quả đáng kích lệ của BHXH của tỉnh Thái Nguyên. Điều này không chỉ
giúp tăng nguồn thu hằng năm cho quỹ BHXH mà còn đảm bảo thực hiện
mục tiêu chung của chính sách BHXH, từng bước mở rộng đối tượng tham
gia BHXH nhằm thiết lập một hệ thống an sinh xã hội bền vững và phát triển.
Có thể thấy số lượng người tham gia BHXHTS tại tỉnh Thái Nguyên
37
qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: Số người tham gia BHXHTS (năm 2016-2018)
Đơn vị: người
Tổng số đối tượng tham gia Số đối tượng tham gia Năm BHXH BHXHTS (BHXH+BHYT+BHTN)
1.244.180 23.875 2016
1.325.229 29.259 2017
1.384.509 29.700 2018
(Nguồn: BHXH tỉnh Thái Nguyên)
Trong 6 tháng đầu năm 2019, số lao động nam được hưởng BHTS là
3.568 người.Qua bảng số liệu trên có thể thấy số lượng người tham gia
BHXH bắt buộc nói chung và BHXHTS nói riêng ngày càng có xu hướng
gia tăng, đặc biệt là hai năm gần đây 2016 và 2017. Mỗi năm số lượng
người tham gia BHXH tăng thêm một lượng nhất định. Điều đó cho thấy
việc phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ở tỉnhThái Nguyên
tương đối tốt, diện bao phủ BHXH ngày càng được mở rộng theo đúng chủ
trương của Đảng và Nhà nước.
Về chi trả chế độ bảo hiểm thai sản cho người lao động.
BHXH tỉnh Thái Nguyên về cơ bản đã thực hiện tốt quyền lợi về
BHXHTS cho người lao động khi có điều kiện BHXH phát sinh. BHXH
tỉnh Thái Nguyên đã chi trả trợ cấp bảo hiểm thai sản cho người lao động
đúng theo quy định.
Vì số lượng người tham gia tăng nên đối tượng hưởng BHXHTS cũng
38
tăng dần theo các năm nên hàng năm BHXH tỉnh Thái Nguyên cũng đã chi
trả một khoản không nhỏ cho chế độ này. Có thểthấy việc chi trả BHXHTS
của BHXH tỉnh Thái Nguyên qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2: Bảng chi trả trợ cấp BHXHTS( từ 2016-2018)
Đơn vị: triệu đồng
Năm Tổng chi cho BHXH Chi cho BHTS
3.462.015 348.681 2016
3.820.201 466.034 2017
4.264.887 523.604 2018
(Nguồn: BHXH tỉnh Thái Nguyên)
Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy, tổng chi cho BHXH tăng và chi
cho BHXHTS cũng tăng lên trong các năm. Năm 2016chi cho BHXHTS là
348.681 triệu đồng nhưng đến năm 2018số chi đã là 523.604 triệu đồng[6].
Điều đó chứng tỏ, đối tượng tham gia BHXHTS ngày càng được mở rộng
và đối tượng hưởng chế độ cũng có chiều hướng gia tăng. Mặc dù cả thu và
chi quỹ bảo hiểm ốm đau thai sản đều có chiều hướng gia tăng song lại
luôn đảm bảo sự cân đối giữa thu và chi quỹ bảo hiểm.
Về thủ tục giải quyết chế độ BHXHTS:
Trong những năm qua, BHXH tỉnh Thái Nguyên đã cố gắng thực
hiện việc đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác chi trả chế độ
BHXH nói chung và BHXHTS nói riêng cho người lao động nên việc giải
quyết chế độ BHXHTS cho người lao động tương đối đúng, đủ và kịp thời.
Công tác quản lý đối tượng của BHXH tỉnh Thái Nguyên tương đối
chặt chẽ; tăng, giảm kịp thời đối tượng tham gia; việc thẩm định hồ sơ
39
hưởng BHXH đúng thời gian, chế độ quy định và thời hạn giải quyết. Các
khâu quyết toán được chi trả thực hiện khoa học, có sự phối hợp nhịp
nhàng giữa các phòng, bộ phận chức năng. Thời điểm chi trả cũng như
phương thức chi trả được đảm bảo thuận tiện và phù hợp với nguyện vọng
của đối tượng thụ hưởng. BHXH Thái Nguyên đã chi trả đúng, kịp thời an
toàn nên cũng đã hạn chế tối đa tình trạng thất thoát, thâm thụt quỹ đồng
thời có sự phối hợp giữa các phòng chức năng của cơ quan bảo hiểm đã
góp phần làm cho thủ tục giải quyết chế độ BHXHTS nhanh gọn hơn.
Bên cạnh đó, BHXH Thái Nguyên vẫn luôn duy trì công tác tiếp dân,
giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo. BHXH tỉnh Thái Nguyên cũng thường
xuyên thực hiện các hoạt động thanh tra, kiểm tra kịp thời đôn đốc, nhắc
nhở các doanh nghiệp trong việc đóng BHXH. Chính vì vậy, số lượng các
doanh nghiệp nợ đọng BHXH không nhiều.
2.3 Những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn thực hiện pháp luật chế độ
bảo hiểm xã hội thai sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và nguyên
nhân
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác thực hiện pháp luật
vềBHXHTS hiện nay ở tỉnh Thái Nguyên cũng còn tồn tại một số điểm hạn
chế, vướng mắc, cụ thể như sau:
Thứ nhất,mặc dù đối tượng tham gia BHXH đã được mở rộng hơn
nhiều so với trước đây, nhưng số lao động nữ thực tế được tham gia BHXH
vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số NLĐ nữ trong độ tuổi lao
động ở tỉnh Thái Nguyên. Một số lượng không nhỏ lao động nữ ở tỉnh Thái
Nguyên khi sinh đẻ không được hưởng quyền lợi về BHXHTS do đối
40
tượng lao động nữ chưa thuộc phạm vi của BHXH bắt buộc (chủ yếu là lao
động nữ làm nông nghiệp ở các vùng nông thôn, lao động nữ ở vùng sâu,
vùng xa…) .
Bên cạnh đó, ngay cả đối với người lao động tham gia quan hệ lao
động ở khu vực chính thức cũng chưa hẳn tất cả đều đã tham gia BHXH.
Hiện tượng người lao động và người sử dụng lao động tìm cách trốn đóng
BHXH vẫn còn xảy ra. Điều đó dẫn đến nhiều lao động nữ không được
tham gia BHXH nên không được hưởng chế độ thai sản khi mang thai và
sinh con.
Ngoài ra, việc quản lý các đối tượng hưởng chế độ BHXHTS tại các
phường, xã hiện nay vẫn còn gặp khó khăn như tình trạng đối tượng có
thân nhân không khớp với hồ sơ, chứng minh nhân dân, hộ khẩu.Trong khi
đó số lượng đối tượng hưởng chế độ BHXHTS không phải là nhỏ dẫn đến
không thể tránh khỏi những sai sót, chậm trễ trong khâu giải quyết, chi trả
chế độ.
Thứ hai, mức hưởng BHXHTS trên thực tế của NLĐ còn rất thấp do
nhiều chủ sử dụng lao động sử dụng thủ đoạn để làm giảm mức đóng
BHXH. Thực tế cho thấy rất nhiều các doanh nghiệp đã sử dụng 2 hệ thống
thang bảng lương. Một hệ thống để tham gia BHXH và một là hệ thống
tiền lương thực tế. Theo đó tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cho người
lao động thấp hơn rất nhiều so với tiền lương thực tế của người lao động.
Chính vì vậy khi người lao động hưởng trợ cấp thai sản dù theo quy định
được hưởng ở mức 100% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của 6 tháng
liền kề trước đó nhưng mức trợ cấp thai sản của người lao động vẫn thấp.
Thứ ba, công tác tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thủ tục hành chính
41
cũng còn những hạn chế.
Những năm trước đây (như 2013,2014), trang thiết bị công nghệ
thông tin do BHXH Việt Nam cung cấp chậm và chưa đồng bộ; một số
phần mềm mới ban hành chất lượng chưa cao (còn xảy ra nhiều lỗi), chưa
đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ; việc liên kết giữa các phần mềm đôi khi
không thực hiện được do các phần mềm được nâng cấp không đồng bộ;
phần mềm quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý về mức lương tối
thiểu... Sau này, do công nghệ thông tin mới được áp dụng nên việc thực
hiện có tốt hơn. Song do công tác cấp lại sổ BHXH sau rà soát bàn giao sổ
cho người lao động còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc như: điều chỉnh
chức danh, chức vụ, mức lương…chưa đúng chưa kịp thời, do vậy đôi khi
làm chậm tiến độ cấp sổ cho người lao động ảnh hưởng đến quyền lợi của
người hưởng BHXH.
Bên cạnh đó, số lượng cán bộ BHXH còn thiếu nên số người trực
tiếp xét duyệt hồ sơ ngắn hạn còn ít dẫn đến áp lực công việc lớn. Một lần
nộp hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ ngắn hạn cho nhiều người và nhiều
doanh nghiệp cùng nộp một lúc thì trong thời hạn 10 ngày vừa giải quyết,
vừa chi trả quả là một khó khăn rất lớn. Nếu giải quyết không kịp, bị chậm
so với thời gian hẹn trả kết quả, có khả năng phải bồi thường; nếu vì áp lực
thời hạn giải quyết mà bỏ qua công tác kiểm tra, kiểm soát chứng từ, hồ sơ
thì rất dễ xảy ra sai sót.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau. Có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
Về phía các chủ thể tham gia BHXH: Có thể thấy, một trong những
42
nguyên nhân dẫn đến những tồn tại và hạn chế trong công tác thực hiện
pháp luật về BHXHTS là do nhận thức, ý thức pháp luật của các chủ thể
tham gia BHXH còn ở mức độ hạn chế.
Tham gia vào BHXH gồm có: người sử dụng lao động và người lao
động. Tuy nhiên, cả hai chủ thể này đôi khi còn chưa nhận thức được hết
vai trò, tầm quan trọng của BHXH nói chung, BHXHTS nói riêng. Chẳng
hạn như về phía người lao động, mặc dù BHXHTS hết sức thiết thực đối
với họ, gắn liền với quyền lợi của họ. Song trong nhiều trường hợp cũng
chưa nhận thức được hết về vai trò cũng như lợi ích lâu dài về BHXH nên
nhiều khi còn thời cơ với quyền lợi của chính mình, không có nhu cầu
tham gia bảo hiểm hoặc chỉ tham gia đóng ở mức thấp. Nhất là đối với
những lao động tự do do thu nhập thấp, người lao động càng không mặn
mà với việc tham gia BHXH. Họ chỉ nghĩ đến vấn đề giải quyết trước mắt
mà không nghĩ đến tương lai lâu dài nên họ không có nhu cầu tham gia
BHXH.
Về phía người sử dụng lao động: Do chưa nhận thức được hết vai trò ý
nghĩa của BHXH cũng như chưa có sự hiểu biết một các thấu đáo pháp luật
về BHXH nên nhiều người sử dụng lao động đã chưa thực sự quan tâm đến
quyền lợi BHXH của người lao động, chưa ý thức được trách nhiệm đóng
BHXH cho người lao động. Hơn nữa nhiều chủ sử dụng lao động vì lợi nhuận của
doanh nghiệp mà đã quên đi lợi ích của người lao động. Thậm chí họ sẵn sàng
chịu nộp phạt, chịu bị xử lý hành chính trong việc nợ đọng BHXH để đạt được lợi
ích riêng của mình.Chính vì vậy tình trạng một số doanh nghiệp trốn đóng BHXH
hoặc nợ đọng BHXH hoặc vi phạm pháp luật về BHXH vẫn còn xảy ra.
Về phía cơ quan nhà nước: BHXH tỉnh Thái Nguyên tuy đã đạt được
43
những kết quả nhất định trong công tác quản lý quỹ BHXH.Tuy nhiên, ở
góc độ nào đó thì việc quản lý này chưa thực sự hiệu quả. Tình trạng nợ
đọng BHXH vẫn còn tồn tại. Hiện nay lực lượng cán chuyên môn của
BHXH vẫn còn đang thiếu nên nhiều khi chưa đáp ứng được yêu cầu của
công việc quản lý và nghiệp vụ bảo hiểm. Hơn nữa công tác thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH cũng chưa được thực hiện
một các quyết liệt nên nhiều khi chưa kịp thời phát hiện cũng nhý xử lý
được các tồn tại trong việc thực hiện các quy định về quỹ BHXH.
Về quy định của pháp luật: Luật bảo hiểm xã hội 2014 được ban hành
với các quy định đổi mới về chế độ bảo hiểm thai sản được đánh giá là kết
quả của quá trình kế thừa và phát huy những điểm mạnh của pháp luật giai
đoạn trước về chế độ bảo hiểm thai sản. Đa số các quy định về vấn đề đối
tượng hưởng trợ cấp thai sản, điều kiện hưởng, thời gian nghỉ và mức trợ
cấp hưởng được đánh giá là có sự tiến bộ vượt bậc so với pháp luật cũ, thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật
chất tinh thần cho người lao động nữ trong giai đoạn thai sản. Tuy nhiên,
bên cạnh đó một số các quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS vẫn
còn bất cập, thiếu tính khả thi dẫn đếp việc áp dụng pháp luật còn có những
khó khăn vướng mắc cũng như hạn chế nhất định như quy định về thời hạn
giải quyết quyền lợi BHXHTS cho người lao động quá ngắn khiến thực tế
người sử dụng lao động không thực hiện được nên có sự vi phạm; mức xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi nợ đọng BHXH cũng không cao
nên chưa đảm bảo tính răn đe khiến các doanh nghiệp vẫn vi phạm.
Thực trạng xử lý vi phạm pháp luật Bảo hiểm xã hội thai sản:
Trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, BHXH nói
44
chung cũng như BHXHTS nói riêng chưa xử lý vi phạm pháp luật đối với
trường hợp nào, chủ yếu là tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, tăng
cường phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc quản lý thực hiện chính
sách BHXH, phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực BHXH, ký kết các chương trình, kế hoạch phối hợp phòng chống tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, tổ chức các buổi giải đáp,
tuyên truyền chế độ, chính sách BHXH, chú trọng hướng dẫn nghiệp vụ, phối
hợp cung cấp và điều tra, xử lý những thông tin, tài liệu có dấu hiệu vi phạm
45
pháp luật.
Tiểu kết chương
Qua thực tiễn thực hiện pháp luật về BHXHTS tỉnh Thái Nguyên cho
thấy, công tác bảo hiểm thai sản của BHXH tỉnh Thái Nguyên đã đạt được
những kết quả nhất định. Đối tượng tham gia BHXH nói chung, BHXHTS
nói riêng có xu hướng tăng qua các năm. Việc chi trả chế độ BHXHTS
được thực hiện đơn giản, thuận tiện đúng đối tượng và đúng thời gian, tuy
nhiên việc thực hiện BHXHTS tỉnh Thái Nguyên vẫn còn một số tồn tại và
gặp một số khó khăn như việc các đơn vị sử dụng chậm đóng hoặc nợ tiền
BHXH, thủ tục hành chính còn chặt chẽ chưa linh hoạt...
Nguyên nhân của nhưng hạn chế này xuất phát từ nhiều lý do nhưng
một trong những lý do đó là nhận thức, ý thức pháp luật của các chủ thể
tham gia BHXH còn ở mức độ hạn chế, việc quản lý của các cơ quan nhà
nước về BHXH đôi khi còn lỏng lẻo, một số quy định của pháp luật còn
thiếu tính khả thi và bất cập. Điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật và
46
nâng cao hơn nữa việc thực hiện pháp luật BHXHTS ở tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI THAI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội thai
sản
Để pháp luật về bảo hiểm xã hội thai sản ngày càng được hoàn thiện,
việc hoàn thiện pháp luật BHXHTS cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản
sau:
Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật về BHXHTS phải phù hợp với
những đường lối, chính sách của Đảng về BHXH
Từ khi ra đời đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến NLĐ
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có chính sách về BHXH
cho mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phù hợp với điều kiện kinh tế phát triển của
đất nước theo thời kỳ và giai đoạn đó. Đảng đã đề ra mục tiêu là cải cách
chính sách BHXH để chính sách BHXH thực sự là một trụ cột chính của hệ
thống an sinh xã hội. Từng bước mở rộng và mở rộng vững chắc diện bao
phủ BHXH. Phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa tầng, hiện đại và hội
nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng và bền
vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển
hệ thống thực hiện chính sách BHXH tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin
cậy, minh bạch và tăng cao chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người dân
khi tham gia BHXH.
Để đạt được mục tiêu đó, Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra những
47
định hướng cải cách chính sách BHXH nhằm làm cho BHXH mang tính thực
tiễn hơn, dễ tiếp cận hơn, tạo điều kiện tối đa để mọi người dân trong độ tuổi
lao động có thể tham gia vào hệ thống, đảm bảo hầu hết người lao động được
hưởng quyền lợi về an sinh xã hội khi họ gặp rủi ro, không còn khả năng lao
động.
Tại Nghị quyết số 21NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác BHXH đến năm 2020 đã đặt ra mục tiêu:
“Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ BHXH; tăng nhanh diện bao
phủ đối tượng tham gia BHXH, nhất là BHXH tự nguyện. Phấn đấu đến
năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH. Sử dụng
an toàn và bảo đảm cân đối Quỹ BHXH trong dài hạn; quản lý, sử dụng có
hiệu quả và bảo đảm cân đối Quỹ BHXH. Xây dựng hệ thống BHXH hiện
đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế”.[4]
Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương đã ban
hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã
hội.Theo đó, nhận thức của Nghị quyết thể hiện rất rõ trong quan điểm chỉ
đạo, mục tiêu, nội dung cải cách, các nhiệm vụ, giải pháp. Ðó là: Cải cách
chính sách BHXH hướng đến bao phủ toàn dân được nhìn nhận toàn diện
từ yếu tố đầu vào tương ứng với yếu tố đầu ra thể hiện chất lượng an sinh
xã hội.[17]
Bởi vậy, pháp luật về BHXH nói chung, BHXHTS nói riêng cần phải thể
chế hóa tinh thần của Nghị quyết, phát triển theo chủ trương đường lối của
Đảng.
Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật BHXHTS phải khắc phục được
48
những bất cập của quy định pháp luật hiện hành và trong mối tương quan
với các chế độ BHXH khác.
Pháp luật BHXHTS hiện hành tuy về cơ bản đã phù hợp với thực tiễn,
song bên cạnh đó vẫn còn một số bất cập vướng mắc. Điều này sẽ khó
khăn cho việc áp dụng cũng như đảm bảo quyền lợi cho người hưởng
BHXH. Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về BHXHTS phải khắc
phục được những bất cập, vướng mắc, đảm bảo tính thống nhất và khả thi
các quy định pháp luật BHXHTS.
Bên cạnh đó vì BHXHTS là một trong những chế độ BHXH bắt buộc
và được xếp vào chế độ BHXH ngắn hạn. Do đó việc hoàn thiện pháp luật
BHXHTS không thể làm ảnh hưởng đến các chế độ BHXH khác. Chính vì
vậy việc hoàn thiện pháp luật BHXHTS phải trong mối tương quan với
việc hoàn thiện các chế độ BHXH khác nhằm đảm bảo tính thống nhất và
hợp lý của hệ thống pháp luật về BHXH. Có như vậy pháp luật BHXH nói
chung, pháp luật về BHXHTS nói riêng mới phát huy hết vai trò của mình
và phù hợp với đời sống thực tiễn.
Thứ ba, việc hoàn thiện pháp luật về BHXHTS phải dựa trên sự phát
triển của nền kinh tế đất nước và phù hợp với pháp luật quốc tế.
Cùng với chính sách mở cửa hội nhập, nước ta đã tham gia vào nhiều
tổ chức trong khu vực và quốc tế, ký kết nhiều công ước, thỏa thuận...
Quyền lợi của lao động nữ nói chung và trong lĩnh vực BHXHTS nói riêng
luôn là vấn đề được quan tâm. Bên cạnh đó Liên Hiệp Quốc cũng đã ban
hành công ước CEDAW về bình đẳng giới, tổ chức lao động quốc tế (ILO)
cũng đã ban hành 3 công ước về chế độ thai sản. Đồng thời, với xu thế phát
triển kinh tế, thị trường lao động Việt Nam cũng sẽ có rất nhiều lao động
49
nước ngoài vào làm việc. Do đó, pháp luật BHXH nói chung, BHXHTS
nói riêng cũng cần phải được hoàn thiện theo hướng phù hợp với pháp
luật quốc tế, thích nghi với tình hình thực tiễn đất nước. Pháp luật
BHXH phải luôn đi cùng và không ngừng tiếp thu các quan điểm tiến
bộ của pháp luật nước ngoài.
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội thai
sản
Luật bảo hiểm xã hội 2014 đã đánh phát triển theo hướng hoàn thiện
hơn về chế độ, chính sách BHXH ở Việt Nam. Với những ưu điểm nổi bật
có thể nhận thấy đây là việc mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng nhằm
nâng cao quyền lợi cho NLĐ và góp phần bao quát toàn bộ lực lượng lao
động trong xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số bất
cập cần hoàn thiện. Cần sửa đổi bổ sung, hoàn thiện một số quy định sau
đây về BHXHTS.
Thứ nhất, thay việc “bảo đảm, bảo vệ”cho lao động nữ bằng việc
“thúc đẩy bình đẳng giới” cho lao động nữ: tại Điều 160 Bộ luật lao động
2012 và Thông tư 26/2013/TT-BLĐTBXH đưa ra danh mục các công việc
nhằm hạn chế lao động nữ tham gia mà Nhà nước cho rằng có thể gây nguy
hiểm tới sức khoẻ, cụ thể là chức năng sinh đẻ và nuôi con[5]. Tuy nhiên,
trong thực tiễn văn bản này vô hình chung gây phân biệt đối xử và hạn chế
quyền của họ ở góc độ bình đẳng về quyền tự do lựa chọn, tức là quyền để
một lao động nữ tự mình lựa chọn xem công việc đó có hợp hay
không. Trong nhiều trường hợp, nhiều lao động nữ vẫn lựa chọn làm
những công việc bị cấm vì họ không đủ bằng cấp cần thiết hay không có
những lựa chọn nghề nghiệp nào khác để mang lại thu nhập cho gia đình.
50
Thay vào đó việc thúc đẩy bình đẳng giới tạo ra quyền lựa chọn cho lao
động nữ, họ có thể chọn các công việc có điều kiện họ cho là phù hợp với
bản thân.Vì vậy nên thay đổi cách tiếp cận của Điều 160 Bộ luật lao động
năm 2012, từ “Ban hành Danh mục công việc cấm sử dụng lao động nữ”
sang cách tiếp cận “Ban hành và công bố công khai Danh mục công việc có
yếu tố ảnh hưởng xấu đến chức năng sinh sản, nuôi con nhỏ”, đồng thời
trao quyền tự chủ, tự quyết định cho NLĐ (cả nam và nữ) trong việc giao
kết hợp đồng lao động liên quan đến công việc thuộc Danh mục là phù hợp
với nguyên tắc bình đẳng giới cũng như phù hợp với tinh thần của các cam
kết quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của NLĐ và
NSDLĐ. Tại Điều 37 Luật lao động quy định: Quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động của người lao động
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
Điều 39. Trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện
quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
3. Lao động nữ quy định tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật này.
Điều 155. Bảo vệ thai sản đối với lao động nữ
3.Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang
thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử
dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là
cá nhân chấm dứt hoạt động.[14]
51
Tình trạng lao động nữ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
nghỉ việc để chăm sóc con nhỏ dưới 36 tháng tuổi khá phổ biến, nhất là ở
nhóm lao động nữ chưa qua đào tạo, thu nhập thấp và lao động nữ di cư từ
nông thôn. Đây lại không phải là lý do để NLĐ được đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động năm 2012. Tình trạng này dẫn
đến các hệ quả tiêu cực đối với NLĐ và NSDLĐ (ví dụ: NLĐ bị thiệt
thòi vì không đûợc bù đắp các khoản trợ cấp khi thôi việc, thậm chí
phải bồi thûờng cho NSDLĐ do bị coi là chấm dứt hợp đồng lao động
trái pháp luật; các doanh nghiệp thûờng xuyên bị động trong việc
sử dụng lao động, nhiều doanh nghiệp phải liên tục tuyển dụng lao
động để bù đắp vào số lao động bỏ việc…). Quy định về việc NLĐ
chỉ được chấm dứt HĐLĐ trong một số trường hợp là sự hạn chế đối với
quyền làm việc của người lao động theo Công ước quốc tế các quyền kinh
tế, xã hội và văn hoá, năm 1966, cụ thể Điều 6 của công ước này quy định:
1. Các quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền làm việc, trong
đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công
việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành
các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này.
2. Các quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành các biện pháp để thực
hiện đầy đủ quyền này, bao gồm triển khai các chương trình đào tạo kỹ
thuật và hướng nghiệp, các chính sách và biện pháp kỹ thuật nhằm đạt tới
sự phát triển vững chắc về kinh tế, xã hội và văn hoá, tạo công ăn việc làm
đầy đủ và hữu ích với điều kiện đảm bảo các quyền tự do cơ bản về chính
trị và kinh tế của từng cá nhân.[10]
Thứ ba,thiếu sự đồng bộ và tương thích giữa Bộ luật lao động và
52
Luật BHXH.
Theo Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội quy định: Điều kiện hưởng chế
độ thai sản
a) Lao động nữ mang thai;
b) Lao động nữ sinh con;
c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;
d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;
đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;
e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.
Trong khi đó tại Điều 157Luật lao động quy địnhvề chế độ Nghỉ thai
sản lạichưa có quy định về quyền của lao động nam nghỉ khi vợ sinh con,
điều này chưa bảo đảm sự đồng bộ, thiếu sự thống nhất với quy định của
Luật Bảo hiểm xã hội về chế độ nghỉ thai sản đối với lao động nam và
nữ.Qua đây cần thay đổi từ “lao động nữ” sang “người lao động” (bao gồm
cả nam và nữ) được quyền nghỉ hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội khi thực
hiện việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản của bản thân và chăm nuôi con nhỏ,
con ốm đau. Điều này giúp tạo ra sự nhất quán giữa Luật lao động và Luật
Bảo hiểm xã hội, giảm thiểu sự chồng chéo giữa các bộ luật.
Thứ tư, xây dựng cơ chế cộng đồng trách nhiệm của Nhà nước và
Doanh nghiệp trong việc thực hiện các biện pháp bảo đảm, thúc đẩy bình
đẳng giới nói chung, hỗ trợ người lao động gửi con đi nhà trẻ, lớp mẫu giáo
nói riêng
Cần thể hiện chính sách khuyến khích (giảm thuế) của Nhà nước đối
với NSDLĐ, để NSDLĐ thực hiện tốt và hiệu quả các biện pháp thúc đẩy
53
bình đẳng giới. Cần quy định nghĩa vụ của NSDLĐ trong việc “giúp đỡ, hỗ
trợ xây dựng nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc một phần chi phí gửi trẻ, mẫu
giáo cho người lao động” chứ không chỉ riêng cho lao động nữ.
Đây không chỉ là trách nhiệm của riêng NSDLĐ mà cần phải có
chính sách hỗ trợ cũng như có những quy định của Nhà nước góp phần tạo
nên cơ chế cộng đồng trách nhiệm của Nhà nước và Doanh nghiệp thực
hiện các biện pháp bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới nói chung, bình đẳng
giới trong việc chăm nuôi con nhỏ ở tuổi nhà trẻ, mẫu giáo nói riêng.
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chế
độ bảo hiểm xã hội thai sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Thứ nhất, đẩy mạnh phổ biến chính sách, pháp luật BHXH,công tác
tuyên truyền, nhằm nâng cao nhận thức của NSDLĐ và NLĐ về BHXHTS.
Thực tiễn cho thấycông tác tuyên truyền có ý nghĩa hết sức quan trọng để
một đạo luật đi vào đời sống con người. Tuyên truyền mạnh mẽ những nội
dung cơ bản nhất của luật BHXH đối vớinhững đối tượng chịu tác động trực
tiếp của các quy định trong luật cũng như tuyên truyền sâu rộng đến các cấp,
các ngành, các cơ quan, tổ chức góp phần nâng cao nhận thức cá nhân cũng
như tập thể trong hiểu biết về pháp luật. Bên cạnh đó, cần phân loại đối
tượng tuyên truyền, với từng đối tượng nên có những phương pháp tuyên
truyền khác nhau (đối tượng nào phải tham gia bắt buộc, đối tượng nào tham
gia dưới hình thức tự nguyện) từ đóáp dụng biện pháp tuyên truyền một cách
cụ thể và có hiệu quả. BHXH Việt Nam cần phối hợp một cách chặt chẽ với
cơ quan ban ngành, đoàn thể có liên quan để tổ chức tuyên truyền một cách
có hệ thống thông qua các phương tiện đài báo cũng như mạng internet, các
phương tiện truyền thông xã hội. Song song với việc nâng cao nhận thức của
54
NLĐ cũng cần nâng cao nhận thức cũng như ý thức pháp luật của NSDLĐ
đối với BHTS. Nhận thức và ý thức trách nhiệm của NSDLĐ đối với trách
nhiệm với quyền lợi của NSDLĐ khi giúp NLĐ tham gia BHTS là một vấn
đề cốt lõi để công tác thực hiện BHTS trong thực tiễn đạt hiệu quả. Trên
thực tế, tại tỉnh Thái Nguyên các Công ty lớn trên địa bàn sử dụng phần lớn
là lao động nữ như Samsung, Glonics...do đó, nâng cao nhận thức của
NSDLĐ để họ hiểu được những lợi ích khi thực hiện đúng và đầy đủ trách
nhiệm đối với BHXH không chỉ giúp giảm tình trạng nợ đóng BHXH, chậm
trễ thực hiện thủ tục hưởng trợ cấp.... mà còn tạo ra một kênh thông tin hữu
hiệu để tuyên truyền về BHXHTS tới toàn thể NLĐ.
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách công
nghệ trong hoạt động nghiệp vụ ngành BHXH.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội và sự phát triển
mạnh mẽ của các ứng dụng thông tin điện tử, các cấp các ngành nói
chung cũng như ngành bảo hiểm xã hội nói riêng, để giảm thiểu sức lao
động của con người và nâng cao hiệu quả hoạt động trong bộ máy tổ
chứccần có sự ứng dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ vào hoạt động
của mình. Đồng thời, có thể vận dụng ứng dụng công nghệ thông tin
trong các công việc quản lý, giai đoạn báo cáocũng như trong việc tiếp
nhận thông tin để nâng cao hiệu quả hoạt động và phát huy năng lực của
cán bộ trong hoạt động chuyên môn.
BHXH tỉnh Thái Nguyên những năm qua cũng đã rất tích cực trong
việc cải tiến và ứng dụng công nghệ thông tin trong bảo hiểm. Song do đặc
thù là tỉnh miền núi nên sự tiếp cận với công nghệ thông tin của cán bộ
55
BHXH tỉnh Thái Nguyên còn có những hạn chế nhất định. Chính vì vậy
cần phải đẩy mạnh cải cách, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
nghiệp vụ BHXH.
Thứ ba, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ của BHXH tỉnh Thái
Nguyên.Từ xưa đến nay con người là nhân tố quyết định trong mọi lĩnh
vực.Do đó, để thực hiện có hiệu quả pháp luật về BHXH thì trình độ của
người thực hiện pháp luật là một nhân tố quan trọng. Đối với việc tuyển
chọn cán bộ quản lý về BHXH, phải tuyển chọn những người có năng lực,
có tài. Đối với việc đào tạo nguồn nhân lực, phải tổ chức tiến hành đào tạo
bài bản, định kỳ và nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực.
Thực tế hiện nay cho thấy, cán bộ được đào tạo chuyên sâu về
BHXH là rất ít. Phần lớn cán bộ cấp tỉnh, huyện trong quá trình làm việc
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính dẫn đến tình trạng chậm tiếp cận với
các văn bản nhà nước hoặc tiếp cận một cách thụ động, thiếu sáng tạo,
phong cách làm việc còn mang đậm tính chất quan liêu.
Do vậy, BHXH tỉnh Thái Nguyên cần phải xây dựng một định hướng
đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ toàn ngành BHXH có đủ năng lực,
trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, đảm nhiệm thực hiện nhiệm
vụ, nâng cao chất lượng phục vụ; góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo đảm an
sinh xã hội.
Thứ tư,đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải tiến quy trình và
thủ tục trong công tác chi trả.
Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ quan trọng
đối với ngành BHXH nói chung, BHXH tỉnh Thái Nguyên nói riêng để
thuận tiện cho việc tham gia BHXH cũng như hưởng trợ cấp BHXH. Cần
56
tổ chức thực hiên tốt quy trình tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ hưởng các chính
sách BHXH cho người lao động theo quy định, giảm bớt các giấy tờ, thủ
tục không cần thiết, tạo điều kiện giải quyết các chế độ được thuận lợi,
nhanh chóng. Việc thanh toán chế độ ngắn hạn (trong đó có BHXHTS) cho
các đơn vị để trả cho các đối tượng có thể thông qua tài khoản giao dịch
của đơn vị. Bên cạnh đó cũng cần phải có biện pháp để giám sát việc chi
trả trợ cấp thai sản của người sử dụng lao động cho người lao động, đảm
bảo cho người sử dụng lao động trả trợ cấp thai sản cho người lao động
một cách nhanh chóng, không chậm trễ để trợ cấp thai sản phải kịp thời
đến với người lao động nữ và gia đình họ một cách kịp thời trong lúc cần
thiết nhất.
Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực
BHXH và phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Cần tăng cường công tác thanh tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực
BHXH nói chung, BHXHTS nói riêng để có thể kịp thời phát hiện hành vi
vi phạm pháp luật BHXH và có biện pháp xử lý kịp thời nhằm đảm bảo
quyền lợi cho người tham gia BHXH.
Trong quá trình tổ chức quản lý quỹ BHXH phải xây dựng mối quan
hệ chặt chẽ giữa BHXH Việt Nam với BHXH các địa phương. Mối quan
hệ này phải được thể hiện trên các khía cạnh: BHXH Việt Nam có các văn
bản hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước để tạo điều kiện cho BHXH các địa phương thực hiện một cách
đúng đắn. Kịp thời xử lý những vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật
về quỹ BHXH ở các địa phương. Giúp địa phương trong đào tạo và đào tạo
lại kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức quản lý cho đội ngũ cán
57
bộ, công chức làm quản lý BHXH ở các địa phương, nhất là quản lý thu,
chi BHXH.
Cơ quan BHXH cũng cần xây dựng quan hệ gắn bó mật thiết với
đơn vị sử dụng lao động vì quyền lợi của NLĐ và quyền lợi của bản thân
đơn vị mình cũng như của cơ quan BHXH bởi chính đơn vị sử dụng lao
động và NLĐ là khách hàng của cơ quan BHXH. Trong thực tế, nếu các
đơn vị SDLĐ và NLĐ không thực hiện tốt việc đăng ký tham gia và trích
nộp BHXH thì cơ quan BHXH cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ của
mình. Bên cạnh đó, việc giải quyết tốt và kịp thời chế độ chính sách BHXH
theo quy định pháp luật cho NLĐ sẽ tạo động lực thúc đẩy các đơn vị sử
dụng lao động và NLĐ tích cực tham gia và trích nộp quỹ BHXH theo quy
định nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ.
Ngoài ra cơ quan BHXH cũng cần phối hợp với tổ chức Công đoàn
trong việc khởi kiện các đơn vị nợ đọng BHXH theo quy định khi các đơn
58
vị sử dụng lao động nợ đọng BHXH
Tiểu kết chương
BHXHTS là một trong những chế độ bảo hiểm xã hội quan trọng của
BHXH, nó không chỉ có ý nghĩa trong việc nâng cao chất lượng đời sống
vật chất cũng như đời sống tinh thần cho NLÐ nói chung mà còn có ý
nghĩa nhất định đối với đời sống kinh tế xã hội đặc biệt là lao động nữ nói
riêng trong thời kỳ thai sản. Trên thực tế pháp luật về BHXHTS đã đạt
được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng vẫn còn có
những bất cập nên chưa thực sự hiệu quả. Chính vì vậy, việc hoàn thiện
pháp luật BHXHTS cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
BHXHTS là hết sức cần thiết. Để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
BHXHTS, cần đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách cũng
như pháp luật BHXH đến tất cả mọi NLĐ, tiếp tục đẩy mạnh, rà soát cải
cách các thủ tục hành chính, nâng cao việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động nghiệp vụ BHXH. Bên cạnh đó liên tục không ngừng kiện
toàn bộ máy tổ chức và chức năng, nhiệm vụcủa ngành bảo hiểm xã hội
theo quy định của Luật BHXH, tiếp tục bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
59
trong lĩnh vực BHXH.
KẾT LUẬN
Ở nước ta từ khi giành được chính quyền đến nay,chế độ bảo
BHXHTS đã được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật lao động.
Đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nên chính sách thai sản ngày càng phù
hợp, đầy đủ và hoàn thiện hơn với thực tế đời sống hiện nay, cơ bản đáp
ứng được quyền lợi hợp pháp, cũng như thể hiện chính sách đặc biệt ưu đãi
đối với người lao động đặc biệt là lao động nữ.
Từ khi được triển khai thực hiện pháp luật BHXHTS đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng trong việc đảm bảo thu nhập cho người lao động khi họ
bị giảm hoặc mất thu nhập do thai sản, tạo điều kiện cho NLĐ nói chung, lao
động nữ nói riêng ổn định cuộc sống, sức khỏe nhằm phát huy có hiệu quả
năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia
đình.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn đặt ra đối
với chế độ bảo hiểm thai sản, đặc biệt là chế độ bảo hiểm thai sản tại một
tỉnh miền núi phái bắc như tỉnh Thái Nguyên. Làm sao để tăng mức trợ cấp
thai sản mà không làm mất cân đối quỹ BHXH, làm sao để tăng nhanh số
lao động nữ tham gia và được hưởng trợ cấp thai sản, đó là một vấn đề vô
cùng khó khăn và nan giải. Vì lẽ đó, bên cạnh việc kiện toàn hệ thống pháp
luật BHXH, cũng cần có những giải pháp thiết yếu và thực sự cần thiết để
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ở tỉnh Thái Nguyên.
Với những chính sách của nhà nước ngày càng được nâng cao và
hoàn thiện, BHXH nói chung BHXHTS nói riêng trong tương lai sẽ có
những bước phát huy mạnh mẽ và đóng góp vai trò, ý nghĩa lớn hơn trong
60
công cuộc phát triển xã hội kinh tế chính trị ở Việt Nam trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo Hiểm Xã Hội (2016), Công văn 1075/BHXH-CSXH quy định thời
hạn nộp hồ sơ hưởng chế độ thai sản
2. Bảo Hiểm Xã Hội (2016), Quyết định 636/2016/QĐ-BHXH quy định về
việc ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ
bảo hiểm xã hội.
3. Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên,Báo cáo thực hiện công tác các năm
2016,2017, 2018.
4. Bộ Chính Trị (2012), Nghị quyết số 21/2012/NQ-TW Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác Bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020.
5. Bộ Lao động thương binh xã hội (2013), Thông tư 26/2013/TT-
BLĐTBXH về danh mục không được sử dụng lao động nữ.
6. Bộ Lao động thương binh xã hội (2015), Thông tư 59/2015/TT-
BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Bảo hiểm Xã hội về Bảo hiểm Xã hội bắt buộc.
7. Chính Phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một
số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
8. Chính Phủ (2018), Nghị định số 72/2018/NĐ-CP quy định Mức lương
cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
9. Chính Phủ (2018), Nghị định số 143/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật
bảo hiểm xã hội và Luật an toàn, vệ sinh lao động về bảo hiểm xã hội bắt
61
buộc đối với người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
10. Liên Hợp Quốc (1966), Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã
hội và Văn hóa.
11. Liên Hợp Quốc (1979), Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ.
12. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
13. Quốc Hội (1946), Hiến pháp năm 1946.
14. Quốc Hội (2012), Luật Lao Động.
15. Quốc Hội (2014), Luật Bảo Hiểm Xã Hội.
16. Quốc Hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình.
17. Nghị quyết (2018), Nghị quyết số 28-NQ/TW cải cách chính sách bảo hiểm xã
hội.
18. Quốc Hội (2018), Nghị quyết số 70/2018/QH14 quy định Về dự toán
ngân sách nhà nước năm 2019.
19. Sở lao động thương binh và xã hội Tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo công
tác tổng kết năm 2016, 2017, 2018.
20. Tổ chức Lao động quốc tế (1952), Công ước số 102 về quy phạm tối
62
thiểu về an toàn xã hội.