Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân sự năm 2014 từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh
lượt xem 9
download
Bố cục của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1 - Khái quát lý luận và pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự; Chương 2 - Thực trạng về tình hình kê biên tài sản trong thi hành án dân sự qua thực tiễn thực hiện ở tỉnh Quảng Ninh; Chương 3 - Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân sự năm 2014 từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH DUY KHÁNH KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, NĂM 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH DUY KHÁNH KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2014 TỰ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật Kinh Tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH HÀ NỘI, NĂM 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: “Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân sự năm 2014 từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu độc lập của tôi, không có sự sao chép từ người khác. Tất cả những số liệu được đưa vào sử dụng trong Luận văn này đều là những số liệu trên thực tế trong lĩnh vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh do Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh đã cung cấp cho tôi. Trong luận văn của mình tôi cũng có tham khảo nhiều bài viết, sách, tạp chí của các tác giả có nguồn gốc rõ ràng và có sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Nguyễn Đức Minh. Tôi xin cam đoan và tự chịu trách nhiệm nếu có vấn đề gì xảy ra với bài luận văn của mình. Đồng thời qua đây tôi xin được gửi lời cảm ơn tới Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh, các Chi cục thi hành án thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả, thành phố Uông Bí đã giúp đỡ tôi thông qua việc cung cấp số liệu phục vụ cho bài viết của tôi được thực tế. Tôi cảm ơn thầy Nguyễn Đức Minh là người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi để tôi có thể hoàn thiện luận văn này. Cảm ơn tất cả những người thân đã luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình. Xin chân thành cảm ơn! Tác giả
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............................................... 5 1.1 Khái niệm kê biên tài sản trong thi hành án dân sự. ............................. 5 1.2. Vai trò của biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ......... 14 1.3. Nội dung chế định pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ........................................................................................................ 17 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở TỈNH QUẢNG NINH ................................................................................... 33 2.1. Thực trạng pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ..... 33 2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản đảm bảo thi hành án .... 45 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .......................................................................................................... 58 3.1 Quan điểm, yêu cầu, định hướng hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự................................................................. 58 3.2. Giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ............................................................................ 60 3.3. Kiến nghị sửa đổi một số nội dung trong Luật THADS năm 2014 ... 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73
- BẢNG CHỮ VIÊT TẮT: BA Bản án CHV Chấp hành viên ĐBTHA Đảm bảo thi hành án ĐKTHA Điều kiện thi hành án QSDĐ Quyền sử dụng đất THA Thi hành án THADS Thi hành án dân sự
- MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, song song với đó là những giá trị vật chất được tạo ra ngày một tăng đáng kể, Đảng và nhà nước đang dần xây dựng và kiện toàn bộ máy chính trị theo định hướng xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu đã đặt ra. Nhân dân dần được làm chủ trong các hoạt động của mình để xây dựng nhà nước pháp quyền. Với chính sách đổi mới toàn diện về kinh tế chính trị, văn hóa xã hội, lấy đổi mới kinh tế trước tiên sau đó dần dần từng bước đổi mới về chính trị, trong quá trình phát triển kinh tế theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chính vì lẽ đó trong các quan hệ pháp luật dân sự tăng lên một cách nhanh chóng, đi cùng với đổi mới là sự tăng lên của các vụ, việc tranh chấp dân sự, kéo theo sự tăng lên của của các việc THADS, để thi hành triệt để các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực, các cơ quan THADS phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong đó có biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản được sử dụng nhằm giải quyết dứt điểm những bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án cần phải thi hành. Chúng ta cũng biết rằng, kê biên tài sản là một hình thức cưỡng chế kê biên phức tạp đòi hỏi chấp hành viên phụ trách hồ sơ thi hành án phải có kỹ năng toàn diện mới có thể thực hiện được công việc này. Mặt khác việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp của các ngành các cấp, nếu thiếu một thành phần theo quy định thì khó mà thành công được. Đây là một đề tài không mới nhưng rất ít có công trình nghiên cứu được xây dựng bài bản, rõ nét, chủ yếu tập trung ở các tạp chí luật học của các thầy cô là giảng viên các trường đại học lớn trên toàn quốc, gần đây đã có một số trường Đại học đưa đề tài này vào làm đề tài luận văn cho chương trình đào tạo sau đại học, tuy nhiên những bài viết liên quan tới đề tài này thì chủ yếu tập trung vào một hoặc một số vấn đề riêng lẻ trong các biện pháp kê biên tài 1
- sản, hoặc tập trung vào phân tích từng loại tài sản được kê biên, ví dụ như tài sản là quyền sử dụng đất…Rất ít đề tài đi sâu phân tích tất cả các loại tài sản cần phải kê biên trong quá trình thi hành án dân sự, đặc biệt là kể từ khi Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trước những vấn đề cấp thiết của đề tài, những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, trong những năm qua đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể là: Đề tài: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001” do Bộ tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận văn và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ Luật học “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về “Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Quang Thái về “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn với đề tài “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam”, ngoài ra còn các bài viết đăng trên tạp chí luật học, dân chủ và pháp luật… Nhìn chung các công trình nghiện cứu nói trên đã một phần nào đó đánh giá, nghiên cứu ở những khía cạnh và góc độ khác nhau của vấn đề kê biên tài sản trong thi hành án. Ở đề tài của tác giả trong luận văn này, tác giả sẽ tập trung đi sâu phân tích những vẫn đề lý luận về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự kể từ thời điểm Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014, đồng thời tác giả đưa vào bài viết những số liệu thực tế phản án tình hình thực hiện biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, để thấy được những thành quả đạt được cũng như những mặt hạn chế mà công tác thi hành án trên địa bàn tỉnh nhà còn tồn đọng. 2
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đây là đề tài mà tác giả rất tâm huyết để thực hiện và mong muốn bài viết của mình được ghi nhận rộng rãi hơn. Trong bài viết tác giả hướng tới phân tích những vấn đề lý luận về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự, và tác giả tập trung chủ yếu tới lĩnh vực THA dân sự. Về lĩnh vực THA hình sự, nếu có điều kiện tác giả sẽ thực hiện bằng một công trình nghiên cứu khoa học khác. Mục đích của việc thực hiện đề tài này, tác giả tập trung phân tích toàn bộ những vấn đề liên quan tới lĩnh vực kê biên tài sản trong thi hành án dân sự, đặc biệt kể từ sau khi Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014. Qua đó tác giả sẽ cho người đọc thấy được những thành quả đạt được của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh trong quá trình áp dụng Luật thi hành án dân sự sửa đổi, đồng thời cũng rút ra được những hạn chế còn tồn đọng để có giải pháp khắc phục sớm nhất góp phần nâng cao hiệu quả công tác kê biên Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận về kê biên tài sản, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên tài sản và thực tiễn thực hiện. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Do thời gian cũng như giới hạn của luận văn nên trong toàn bộ bài viết này tôi chỉ tập trung hướng tới phân tích về lĩnh vực kê biên tài sản đảm bảo thi hành án dân sự. Trong đó tập trung đi sâu vào những vấn đề lý luận về kê biên tài sản THADS, các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện các quy định đó trên địa bản tỉnh Quảng Ninh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam 3
- về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và một số phương pháp liên quan để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh hơn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về lý luận: Luận văn đã đi sâu và phân tích được khái quát những vấn đề về khái niệm, trong đó có khái niệm chung nhất là kê biên tài sản, phân tích được những đặc điểm của vấn đề kê biên tài sản trong thi hành án dân sự, góp thêm một Luận văn nghiên cứu vào kho tài liệu về kê biên tài sản. - Về thực tiễn: Qua nghiên cứu tổng thể về lý luận thi hành án, có thể thấy được thực trạng vấn đề kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm trong quá trình làm việc và tìm ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác kê biên tài sản thi hành án. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được xây dựng với cơ cấu 03 chương. - Chương 1: Khái quát lý luận và pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự; - Chương 2: Thực trạng về tình hình kê biên tài sản trong thi hành án dân sự qua thực tiễn thực hiện ở tỉnh Quảng Ninh; - Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự. 4
- Chương 1 KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1 Khái niệm kê biên tài sản trong thi hành án dân sự. 1.1.1. Định nghĩa kê biên tài sản trong thi hành án dân sự: Theo từ điển bách khoa toàn thư thì định nghĩa kê biên tài sản được giải thích rất ngắn gọn: kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế của nhà nước đối với tài sản của người vi phạm để đảm bảo thi hành án. Nếu chỉ dừng lại ở định nghĩa kê biên tài sản thì định nghĩa kê biên tài sản được hiểu cả trong lĩnh vực hình sự. Đó là một biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng đối với bị can, bị cáo mà theo quy định của pháp luật có thể bị phạt tiền. Đây là cách hiểu và giải thích gói gọn trong lĩnh vực kê biên tài sản thi hành án hình sự. Những năm trước đây, khoảng từ năm 1989 trở về trước, trong pháp luật tố tụng dân sự chưa có sự phân biệt và định nghĩa rõ ràng về khái niệm kê biên tài sản và tịch biên tài sản. Tài sản bị kê biên thường được xử lý để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án còn tài sản trong biện pháp tịch biên sẽ được xung công quỹ Nhà nước. Sau này theo quá trình phát triển của xã hội, pháp luật cũng được chú trọng để sửa đổi cho hợp lý hơn thì khái niệm kê biên tài sản đã được hiểu đúng bản chất. Kê biên tài sản luôn gắn với một chủ thể nhất định, nhân danh cho quyền lực Nhà nước, không phải ai cũng có quyền kê biên tài sản của người khác, mà quá trình kê biên tài sản đòi hỏi phải được thực hiện thông qua những bước nghiêm ngặt, thể hiện quyền lực của Nhà nước thể hiện qua hành động của chấp hành viên được phân công thực hiện. Như vậy kê biên tài sản của người phải thi hành án dân sự là một biện pháp cưỡng chế thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản án, quyết định của tòa 5
- án được áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án chuyển dịch tài sản cho người khác tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản. 1.1.2. Đặc điểm của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự. Bất cứ một khái niệm thuật học nào cũng đều mang trong nó những đặc điểm để phân biệt giữa khái niệm này với khái niệm khác. Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự cũng vậy, khái niệm kê biên luôn đi cùng với khái niệm cưỡng chế. Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiện để Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước của mình. Kê biên tài sản được Nhà nước trao chocác cơ quan khác nhau thực hiện như: Thủ trưởng cơ quan điều tra công an, Thẩm phán tòa án nhân các cấp … trong đó có chấp hành viên cơ quan THADS. Sự khác biệt này được thể hiện ở những khía cạnh chính là chủ thể áp dụng kê biên và mục đích kê biên. Ví dụ chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn xét xử là thẩm phán giải quyết vụ việc, chủ thể thực hiện kê biên trong giai đoạn thi hành án là do chấp hành viên. Về mục đích kê biên của các cơ quan điều tra và cơ quan tòa án nhằm bảo đảm việc thi hành án, tránh việc tẩu tán, hủy hoại tài sản của bị can, bị cáo, đương sự. Nhưng mục đích áp dụng biện pháp kê biên của các cơ quan hành chính và cơ quan THADS là ngoài mục đích như trên còn mục đích xử lý tài sản thanh toán trả tiền cho khoản tiền phạt, khoản thu cho ngân sách nhà nước và chủ nợ. Một số đặc điểm chính của Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự có thể nêu ra như sau: Một là, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được thực hiện cũng bằng sức mạnh đặc biệt của Nhà nước. Trên thực tế cũng như quy định của pháp luật, việc cưỡng chế thi hành án phải do cơ quan nhà nước có thểm quyền thực hiện. Theo đó, người được thi hành án không có quyền tự mình dùng sức mạnh để buộc người có nghĩa vụ thi hành án (người phải thi hành án) thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án. 6
- Theo quy định trong Luật thi hành án dân sự thì Nhà nước ta trao quyền năng này cho Chấp hành viên, người của cơ quan thi hành án dân sự. Do đó, khi cần thiết phải sử dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thì chỉ có CHV mới có quyền ban hành những quyết định có liên quan tới việc thi hành án, lựa chọn biện pháp để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án. Hai là, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân sự được Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc buộc họ thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Tòa án. Dân sự luôn ưu tiên sự thỏa thuận của các đương sự, do vậy trong thi hành án dân sự, các bên có quyền tự định đoạt nên nhà nước luôn ưu tiền cho các bên tự nguyện thi hành án trước khi người được thi hành án có đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc áp dụng các biện pháp để thi hành được bản án, quyêt định đó. Tuy nhiên trên thực tế, việc người phải thi hành án tự nguyện thi hành bản án, quyết định là rất ít khi xảy ra. Do vậy mới có biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án, để áp dụng cho những người không tự nguyện thi hành án. Đây được xem là bước đi cuối cùng để có thể đảm bảo thi hành án được theo đúng bản án, quyết định đã tuyên, bước cuối cùng nhưng đem lại được sự hài hòa và lợi ích chính đáng cho người được thi hành án. Ba là, đối tượng của biện pháp kê biên tài sản thi hành án dân sự chính là tài sản của người phải thi hành án. Khác với hình sự mục đích của các biện pháp hình sự mang tính trừng phạt là chủ yếu, nhưng với dân sự, trong thi hành án việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản chỉ hướng tới mục đích yêu cầu hay buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người được thi hành án. Bốn là, khia áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân sự thì người phải thi hành án ngoài việc phải thực hiện nghĩa vụ theo bản án, 7
- quyết định của Tòa án thì còn phải chịu những chi phí khác phát sinh trong quá trình cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án. Những chi phí nêu trên có thể kể tới như chi phí để trả cho các cơ quan liên quan trong quá trình cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án, trong đó có ủy ban cấp xã, cơ quan công an thực hiện việc đảm bảo an ninh cho công tác thi hành án, hoặc chi phí để bảo vệ tài sản, chi phí định giá tài sản, xác minh những vấn đề liên quan tới tài sản thi hành án… Năm là, biện pháp kê biên tài sản trong THADS thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước. Biện pháp kê biên tài sản THADS được CHV quyết định áp dụng không chỉ có hiệu lực đối với người phải thi hành án, người được thi hành án mà còn tác động tới các cơ quan, cá nhân, tổ chức có liên quan khác. Đây là biện pháp thể hiện quyền lực của Nhà nước nên mọi quyết định của CHV đều phải được các chủ thể liên quan nghiêm túc chấp hành để đảm bảo tính thượng tôn pháp luật và công tác thi hành án được thực hiện đúng, đủ, nhanh chóng. 1.1.3. Phân loại kê biên tài sản trong THADS. Theo quy định của pháp luật thì CHV chỉ được kê biên tài sản của người phải THA tương ứng với phần nghĩa vụ của họ đối với nghĩa vụ THA và các chi phí hợp lý phát sinh khác trong quá trình tố tụng. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản sẽ có những tác động trực tiếp vào những người sau: Người được THA, người phải THA và người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Trong các đối tượng trên, đối tượng liên quan mật thiết, chặt chẽ tới hoạt động THA phải kể tới đó là tài sản bảo đảm kê biên. Tài sản này có thể là động sản hoặc bất động sản, nhưng nó buộc phải đảm bảo điều kiện về sở hữu của người phải thi hành án, không phụ thuộc vào thực tế ai đang là người quản lý sử dụng. Miễn tài sản đó là của người phải thi hành án. Việc này đảm bảo được nguyên tắc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ bằng chính tài sản của mình. Tài sản kê biên phải tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành và các chi phí có liên quan. Trong trường hợp đặc biệt 8
- mà tài sản kê biên lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án thì phải xác định rõ phần nghĩa vụ cụ thể, phần còn lại nằm ngoài nghĩa vụ thì phải xem xét trao trả cho người phải thi hành án. Pháp luật về THADS liệt kê các loại tài sản kê biên như sau: - Một là kê biên tài sản thuộc sở hữu chung: Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định: “1. Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.” Điểm mới trong quy định của Luật THADS năm 2014 là phân định rõ trường hợp sở hữu chung thành hai loại: Sở hữu chung của vợ chồng; và sở hữu chung ở hình thức khác, từ đó chấp hành viên dễ dàng lựa chọn cách thức giải quyết việc kê biên tài sản. Đồng thời Luật còn cho phép chủ sở hữu chung được quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho mình, điều này thể hiện tính dân chủ trong quá trình giải quyết, bảo vệ quyền lợi của các đồng sở hữu. Mặc dù đây là một điểm tiến bộ khi bảo vệ được những người liên quan, nhưng lại phát sinh vấn đề tốn thời gian cho người được thi hành án. Bởi vì quá trình khởi kiện để xác định tài sản chung mất không ít thời gian, đến lúc có sự phân xử của Tòa án có hiệu lực thì liệu giá trị tài sản đảm bảo thi hành có còn được giữ nguyên vẹn hay không? Bên cạnh đó là trường hợp kê biên tài sản trong trường hợp sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Trong trường hợp này CHV chỉ được kê biên tài sản thuộc sở hữu riêng của người có nghĩa vụ phải thi hành án (vợ hoặc chồng). Nếu trong trường hợp tài sản riêng đó không đảm bảo nghĩa vụ phải thi hành án thì CHV hướng dẫn và giải thích cho người còn lại có quyền ưu tiên mua phần tài sản của người kia. Nếu vợ hoặc chồng không mua thì sau khi bán tài sản CHV phải thanh toán lại cho họ phần giá trị tài sản mà họ 9
- được hưởng. Sau đó trích lại cho người phải THA số tiền nhất định dùng cho việc trợ cấp nuôi con chưa thành niên hoặc tàn tật hoặc người mà người phải THA có trách nhiệm nuôi dưỡng. Đây là việc làm thể hiện tính nhân đạo rất lớn, đảm bảo được nhu cầu tối thiểu nhất của một con người. Giả sử trường hợp tài sản chung của vợ chồng gồm nhiều loại thì CHV căn cứ vào giá trị của từng tài sản để kê biên loại tài sản tương ứng với nghĩa vụ và chi phí để đảm bảo THA. Quy định này nhằm ngăn chặn tình trạng vượt quyền của CHV bởi nếu không quy định như vậy thì CHV sẽ cưỡng chế kê biên theo hiểu biết chủ quan của mình, ảnh hưởng tới lợi ích của người còn lại và CHV có thể kê biên bất cứ tài sản nào kể cả trường hợp tài sản thực tế lớn hơn nghĩa vụ phải THA (Khoản 2 Điều 74 Luật THADS sửa đổi năm 2014 quy định rất rõ vấn đề này). Việc quy định rõ ràng vừa đảm bảo lợi ích của người phải thi hành án, cho đồng sở hữu chung và cho người được THA. Đối với trường hợp nghĩa vụ thi hành án chung của hai vợ chồng nhỏ hơn giá trị tài sản chung thì CHV có thể xem xét kê biên tài sản tương ứng với phần giá trị phải thi hành án mà không phải kê biên toàn bộ tài sản chung đó. Việc kê biên toàn bộ tài sản sẽ rất tốn kém kinh phí, thời gian thi hành án. Ví dụ: Anh Trần Văn Sơn và vợ là chị Lường Thị Hòa có tài sản chung gồm 01 ngôi nhà trị giá 1 tỷ đồng, 02 chiếc xe ô tô trị giá 950.000.000đồng 01 chiếc xe môtô trị giá 28.000.000 đồng. Bản án của tòa án tuyên buộc anh Sơn và chị Hòa phải có nghĩa vụ thi hành án trả lại cho chị Nguyễn Minh Tâm số tiền 800.000.000đồng tiền vay, trong trường hợp này Chấp hành viên có thể xem xét việc kê biên 02 chiếc xe ô tô của hai vợ chồng để đảm bảo thi hành án cho chị Tâm, mà không phải kê biên tất cả các loại tài sản của vợ chồng anh Sơn chị Hòa. - Hai là việc kê biên tài sản đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ. Việc kê biên tài sản là những tài sản hữu hình đã khó, lĩnh vực sở hữu trí tuệ lại là tài sản vô hình thì việc kê biên còn gặp vô vàn khó khăn. Nắm bắt được tình hình đó nên pháp luật THADS sửa đổi đã quy định rất cụ thể những 10
- trường hợp xảy ra trong quá trình kê biên tài sản SHTT. Ngay cả trong trường hợp quyền SHTT được chuyển giao cho cơ quan nhà nước khác thì quyền SHTT đó vẫn bị kê biên. Bởi vì người chuyển quyền SHTT chỉ là chuyển giao quyền sử dụng, khai thác. Còn quyền chiếm hữu, định đoạt vẫn nằm trong tay chủ sở hữu ban đầu. Do vậy đây vẫn là tài sản có thể kê biên được. (Điều 84 Luật THADS 2014 sửa đổi, bổ sung). - Ba là việc kê biên tài sản đối với trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Điều 89 Luật THADS 2014 quy định: “1.Trước khi kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật, Chấp hành viên yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký. 2. Sau khi kê biên, Chấp hành viên thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký về việc kê biên tài sản đó để xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Luật này.” Để đảm bảo việc kê biên tài sản đúng mục đích, đúng nghĩa vụ thì đối với những tài sản như QSDĐ và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, thì CHV phải có nghĩa vụ yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản đó. Để xác minh rõ tài sản được thi hành hiện trạng như thế nào, có thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án hay không? Giá trị của tài sản đó là bao nhiêu so với nghĩa vụ phải thi hành án? Đồng thời sau khi xác định rõ những vấn đề liên quan và đã kê biên tài sản đó thì CHV có trách nhiệm thông tin lại cho cơ quan đăng ký quyền sở hữu biết về tình trạng của tài sản kê biên, tránh tình trạng tài sản đó lại được đem ra giao dịch bất hợp pháp để hòng trốn tránh nghĩa vụ. Đây là những trường hợp kê biên tài sản nổi bật và gây nhiều tranh cãi cũng như những vấn đề liên quan phát sinh nhất. Những trường hợp kê biên tài sản còn lại như: - Kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp; 11
- - Kê biên tài sản do người thứ ba đang nắm giữ; - Kê biên tài sản là vốn góp; - Kê biên tài sản là phương tiện giao thông; Trên đây là việc phân loại các biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản đảm bảo thi hành án theo quy định của pháp luật hiện nay, được thể hiện rất cụ thể trong Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014. 1.1.4. Cơ sở của việc quy định biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án trong pháp luật thi hành án dân sự 1.1.4.1: Cơ sở lý luận Thứ nhất, trong bất cứ một hoạt động nào liên quan đến bộ máy nhà nước cũng cần phải có một chế tài nhất định, điều đó thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và đảm bảo được tính thượng tôn pháp luật, để bù lại việc tự nguyện thi hành án không đạt được. Khi một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành, người phải thi hành án vẫn có sự lựa chọn của mình để thực hiện nghĩa vụ đó là việc tự nguyện THA trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên sau khoảng thời gian đó mà người phải THA không tự nguyện thi hành thì buộc cơ quan THA, đại diện là CHV trực tiếp phụ trách vụ án phải có bước cưỡng chế kê biên tài sản để đảm bảo thực hiện được bản án, pháp luật được thực thi và quyền lợi của người được THA được bảo đảm. Thời hạn tự nguyện THA được quy định rõ nét tại điều 45 luật THADS năm 2014: “Thời hạn tự nguyện THA là mười ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được quyết định THA hoặc được thông báo hợp lệ quyết đinh THA” Như vậy để thực hiện được việc kê biên tài sản, cơ sở đầu tiên CHV cần xét đến là người phải THA phải có điều kiện để THA. Điều này được hiểu rất đơn giản, “có điều kiện thi hành án” nghĩa là người đó có những tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ THA được thi hành đúng luật. Tài sản đó có thể là động sản, là bất động sản…Để xác định được người phải THA có đủ điều kiện THA thì buộc CHV phải có bước xác minh điều kiện THA. Việc này phải làm chính 12
- xác và nghiêm minh, tránh xảy ra trường hợp xác minh không khách quan, không chính xác dẫn tới bản án không được thi hành hoặc thi hành không đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở việc đảm bảo có điều kiện để THA thì chưa đủ, mà phải có một điều kiện đi kèm là: đã hết thời hiệu tự nguyện thi hành án. Bởi lẽ, nếu đang còn trong thời hiệu tự nguyện THA thì cơ quan THA không được quyền ra quyết định cưỡng chế THA, mà nếu đã không thể ra quyết định cưỡng chế THA thì không được phép kê biên tài sản. Trường hợp này loại trừ đối với việc CHV có cơ sở cho rằng nếu không kê biên tài sản kịp thời thì người phải thi hành án sẽ tẩu tán tài sản đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người được THA. Trong hai điều kiện nói trên, CHV không được xem nhẹ bất cứ điều kiện nào bởi hai điều kiện này làm tiền đề cho nhau, là hai điều kiện bắt buộc và phải thỏa mãn đủ. Đã có rất nhiều trường hợp xảy ra khi CHV coi nhẹ một điều kiện nào đó, ở đây chằng hạn việc xem nhẹ bước thông báo quyết định THA cho người phải THA, sau khi cưỡng chế người phải THA đã làm đơn khiếu nại vì không được nhận thông báo của cơ quan THA nên không nắm được thời hạ tự nguyện THA là bao lâu. 1.1.4.2. Cơ sở thực tiễn Trong thực tiễn hoạt động THADS, khi người phải THA không tự nguyện THA và biện pháp bảo đảm THADS chỉ mang tính tạm thời thì thực tiễn đòi hỏi cần phải có biện pháp cưỡng chế THA. Từ thực tế đó mà buộc phải có biện pháp cưỡng chế bằng hình thức kê biên tài sản. Thực tiễn chứng minh biện pháp kê biên tài sản là biện pháp được CHV áp dụng nhiều nhất trong quá trình THADS. Do vậy biện pháp kê biên tài sản để THA là biện pháp cần thiết, vừa đảm bảo quyền lợi của người được THA, đảm bảo tính khách quan của cơ quan nhà nước, góp phần giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho người dân trong công tác THADS. 13
- 1.2. Vai trò của biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự Kê biên tài sản là một biện pháp được quy định tại Điều 71 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014, những trường hợp không thuộc phải kê biên tài sản có thể hiểu là những trường hợp tự nguyên THA. Như vậy, có thể nói kê biên tài sản là sự đánh giá rõ nét nhất về vai trò và tầm quan trọng của cơ quan THADS. Điều đó được thể hiện như sau: - Thể hiện tính nghiêm minh, thượng tôn pháp luật, đúng bản chất pháp quyền của Nhà nước XHCN, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được thi hành án. Một bản án,quyết định của Tòa án phải được thi hành nhanh chóng và đúng luật. Nếu người phải THA không tự nguyện THA thì cơ quan được Nhà nước giao thẩm quyền có quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản. Nếu bản án, quyết định đó không được thi hành đúng luật, không đảm bảo được quyền lợi của người được THA thì sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Trước mắt là quyền lợi của người được THA không được đảm bảo, làm cho người dân mất niềm tin vào pháp luật. Thứ hai, tính nghiêm minh của pháp luật không còn ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của những cơ quan liên quan khác, trong đó gần nhất là là Tòa án, viện kiểm sát. - Thứ hai, THADS góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân. Đây là đặc thù riêng của lĩnh vực THA. Bởi vì việc THADS không phải là việc làm của duy nhất của CQTHA mà nó là sự kết hợp của nhiều ban ngành tại địa phương. Thông qua việc THA thì ý thức pháp luật của dân được nâng cao và tuyên truyền rộng rãi ra toàn xã hội. - Thứ ba, kê biên tài sản trong THADS là khâu cuối cùng giải quyết và thể hiện kết quả của bản án, quyết định của Tòa án. Một vụ án có thể kéo dài rất nhiều năm gây tốn kém cho người tham gia tố tụng, cho những người liên quan khác. Sau khi bản án, quyết định được tuyên mà trường hợp người phải THA lại không tuân thủ việc THA mặc dù có đủ điều kiện để thi hành án thì buộc cơ quan THADS phải áp dụng ngay biện pháp kê biên tài sản. Có như 14
- vậy mới giải quyết dứt điểm được những nội dung đã được tuyên trong bản án, quyết định của Tòa án. - Thứ tư, kê biên tài sản ngoài đảm bảo lợi ích cho công dân còn thể hiện tính thượng tôn pháp luật của Nhà nước ta. Thông qua việc kê biên tài sản xử lý thi hành án góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật thi hành án dân sự. Hiện nay công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật thi hành án dân sự còn nhiều hạn chế và chưa được chú trọng. Nhiều trường hợp xảy ra điển hình như việc người được thi hành án không biết rằng để bản án được thi hành thì người được thi hành án phải có đơn yêu cầu thi hành án gửi tới cơ quan THADS. Điều này dẫn tới việc đã quá thời hạn để yêu cầu thi hành án nhưng người được THA không có đơn nên mất quyền của mình. Việc kê biên tài sản thi hành án thể hiện rõ nét nhất vai trò của Chấp hành viên. Thông qua đó thấy được rằng CHV có tuân thủ đúng pháp luật về THA hay không? Đánh giá được trình độ chuyên môn của CHV, đồng thời xác định được nguyên nhân của việc chậm trễ THA hoặc không thi hành án được. Từ đó khắc phục và sữa chữa những sai lầm không đáng có. Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 có nhiều thay đổi, bổ sung quan trọng, trong đó khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án khi có đủ điều kiện thi hành án. Đây là sự tôn trọng quyền lợi của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên để đảm bảo thi hành án trong trường hợp người phải THA không tự nguyện thi hành sau thời gian 10 ngày mà pháp luật cho phép, thì CHV được quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án. Việc kê biên tài sản để thi hành án dân sự do CHV thực hiện nhưng phải tuân thủ quy định chặt chẽ của pháp luật thi hành án. Cơ quan có trách nhiệm quản lý việc thi hành án dân sự là Bộ tư pháp, đây là cơ quan chủ quản trong vấn đề quản lý việc thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự bao gồm cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án cấp tỉnh); cơ quan thi hành án dân sự cấp quận, huyện, 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 266 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 103 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 76 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 105 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn