VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯỚC

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI

CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN

THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯỚC

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI

CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN

THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số

: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Phước

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG

TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

TRONG LUẬT HÌNH SỰ ........................................................................................ 6

1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam ............................................... 6

1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng tháng 8 năm

1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ........................................ 14

1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............................ 19

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ

Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA

NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN

BÀN, TỈNH QUẢNG NAM .................................................................................... 26

2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................................................................ 26

2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác với một số tội phạm khác.................................................................................. 44

2.3. Thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .................................... 47

2.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản ............................................... 52

CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH

SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI

CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP

DỤNG ....................................................................................................................... 61

3.1. Yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015

về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ......... 61

3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................... 66

3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan ..................................................... 69

3.4. Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....................... 71

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 BLHS Bộ luật hình sự

2 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

3 CQĐT Cơ quan điều tra

4 CSHS Chính sách hình sự

5 LHS Luật hình sự

6 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

7 TNHS TNHS

8 THTT Tiến hành tố tụng

9 VAHS Vụ án hình sự

10 VKS Viện kiểm sát

11 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao

12 XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh 2.1 48 Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn

2013-2018

Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, 2.2 49 tỉnh Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai

đoạn 2013-2018

Nhân thân các bị cáo đã bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét xử về cố

2.3 ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác 50

giai đoạn 2013-2018

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Có thể nói,

quyền con người mang những giá trị cao quý chung của toàn nhân loại, có tính

phổ biến [23, tr.5]. Chính vì vậy, hầu hết pháp luật các nước đều có quy định ghi

nhận và bảo đảm cho quyền con người.

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản và

quan trọng trong quyền con người, được quy định cụ thể trong Tuyên ngôn quốc tế

về nhân quyền 1948. Trong đó, Điều 3 của Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều

có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân” [14, tr.48]. Theo đó, không ai bị

xâm phạm bất hợp pháp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự. Mọi người đều có quyền

được pháp luật bảo vệ chống lại những xâm phạm. Ở Việt Nam, quyền bất khả xâm

phạm về thân thể được coi trọng và quy định trong đạo luật có giá trị pháp lý cao

nhất. Điều 20 Hiến pháp Việt Nam ghi nhận: “Mọi người có quyền bất khả xâm

phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;

không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác

xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [21, tr.19]. Như vậy,

có thể nói quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính

mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là quyền cơ bản của công dân được Hiến

pháp ghi nhận và bảo vệ.

Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án đã tích cực

đấu tranh ngăn chặn và xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích cực vào cuộc đấu

tranh phòng, chống tội phạm [25, tr.6]. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật

hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác cho

thấy, còn có nhiều bất cập, vướng mắc, nhiều vụ án việc định tội còn gặp mâu

thuẫn, dễ dẫn đến xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm, trong đó có địa bàn thị

1

xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, quy định của BLHS năm 2015 đã có

những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức

khỏe của người khác, tuy nhiên, việc áp dụng vẫn còn chưa thống nhất, chưa phù

hợp với thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.

Từ những lẽ trên, việc nghiên cứu sâu sắc một số vấn đề lý luận các tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử tội

phạm này không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn

là vấn đề mang tính cấp thiết, đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể. Đây cũng là lý

do luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn nghiên cứu của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các tội xâm

phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và “Tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nói riêng. Đầu

tiên, đó là công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế: TNHS đối với hành vi

xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, Nxb Công an nhân dân, năm 1994.

Tiếp đến là công trình TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1997 (tái bản năm

1999). Công trình luận văn thạc sỹ của Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam, Khoa luật, Đại

học quốc gia Hà Nội, năm 2014. Gần đây, có luận án tiến sĩ luật học: “Các tội xâm

phạm sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy

Hữu, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tuy nhiên, tác giả làm cả nhóm

tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác và mang tính tổng thể, đánh giá địa

bàn cả nước về nhóm tội phạm này, qua đó, cũng là tư liệu để học viên tiếp tục

nghiên cứu vấn đề này.

Như vậy, các nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này

chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con

2

người nói chung, mà chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, sâu kỹ và độc lập về

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS hiện

hành. Mặt khác, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết đánh giá thực tiễn

áp dụng tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó chỉ ra các tồn tại, vướng mắc,

đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, nên rõ ràng vấn đề này có tính

thời sự cao. Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan

trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc hơn về mặt lý luận quy

định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong

BLHS Việt Nam hiện hành và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn tại thị xã

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó xác định những bất cập để đề xuất hoàn thiện quy

định của BLHS về tội phạm này và đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:

- Xây dựng khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của

người khác, từ đó làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội

phạm này trong BLHS năm 2015.

- Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy định BLHS năm 2015 về tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong thực tiễn thị xã

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đồng thời phân tích các tồn tại, vướng mắc, chỉ ra

nguyên nhân.

- Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại sức khỏe của người khác và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, quy định BLHS

và thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe

của người khác tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

3

4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Luận văn được thực hiện dưới góc độ khoa học luật hình sự, thuộc chuyên

ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, mã số: 8.38.01.04

Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại sức khỏe của người khác trong Điều 134 BLHS năm 2015 và quy định

BLHS một số nước, cũng như một số vấn đề lý luận về tội phạm này.

Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn thị

xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Phạm vi về thời gian: Các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được

thu thập trong thời gian từ 2013 đến 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-

Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan

điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, “Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác” trong BLHS và những quy định

pháp luật có liên quan.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,

lịch sử, so sánh, thống kê; v.v... của khoa học luật hình sự để luận chứng và làm

sáng tỏ các vấn đề tương ứng.

Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn điều

tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân thị xã

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu hồ sơ các vụ án làm cơ sở thực tiễn cho

việc nghiên cứu, đồng thời đã đưa ra các giải pháp cụ thể bảo đảm áp dụng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả của luận văn góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về tội cố ý gây

4

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó, kiến nghị các nội

dung tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại sức khỏe của người khác và một số quy định có liên quan, đồng thời nó có

thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học

pháp lý hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả

của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về

các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở khía

cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương.

Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự;

Chương 2: Quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử trên địa bàn thị xã

Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam;

Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và các giải pháp bảo đảm

áp dụng.

5

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

TRONG LUẬT HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác

Quyền được bảo vệ về sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con

người. Sức khỏe được hiểu “là trạng thái không có bệnh tật, cảm thấy thoải mái về

thể chất, thư thái về tinh thần” [29, tr.878-879]. Như vậy, hành vi cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đã tác động làm mất đi sự “thoải mái về thể chất,

thư thái về tinh thần” của người khác. Tuy nhiên, sự tác động này có tính chất, mức

độ nguy hiểm cao thì mới bị coi là tội phạm. Việc đánh giá tính nguy hiểm hành vi

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được cụ thể hóa

bằng các quy định của BLHS. Ở đó cho phép chúng ta nhận diện đâu là tội phạm và

đâu không phải là tội phạm.

Tội phạm là khái niệm được quan tâm nghiên cứu trọng tâm trong khoa học

pháp lý hình sự và đã có nhiều quan điểm, định nghĩa về tội phạm. Trên cơ sở kế

thừa những quy định trước đó, Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 đưa ra khái niệm:

“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do

người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc

vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm

phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an

toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,

quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự

pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”

[22]. Quy định trên đã thể hiện tập trung nhất quán quan điểm của Nhà nước ta về

6

tội phạm và trên cơ sở đó, nhà làm luật có thể xác định các dấu hiệu căn bản để

phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác dựa trên các yếu tố sau:

tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu

hình phạt; đồng thời, các nhà nghiên cứu có thể tự xây dựng khái niệm đối với các

tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu căn bản được nên trong khái niệm tội phạm.

Trong BLHS, các nhà làm luật lại chia các hành vi được coi là tội phạm thành

các nhóm, loại tội phạm khác nhau. Để phân biệt giữa chúng, bên cạnh các dấu hiệu

chung của tội phạm, người ta đưa một hoặc một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng

có của tội phạm đó. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác cũng dựa vào nguyên lý đó mà hình thành.

Trước hết, theo quan điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Các tội xâm

phạm sức khỏe là những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý

hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác” [4,

tr.127].

Quan điểm trên đã bao quát toàn bộ đặc điểm các hành vi cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khái niệm này cho thấy phạm vi

các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất

rộng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều

134 BLHS năm 2015 nhưng theo khái niệm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa thì

ngoài tội phạm được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 còn có các tội phạm

khác. Cụ thể, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

(Điều 136). Có thể nói, các tội này là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trong các trường hợp đặc biệt và gắn với chúng là các dấu

hiệu đặc biệt.

Quan điểm của PGS.TS. Trần Văn Luyện lại có chút khác biệt, theo đó, tội

7

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác “là hành vi

nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền sống,

quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người” [30, tr.60].

Xét một cách toàn diện, quan điểm trên chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý khi

phân tích tương đối bao quát các hành vi như thế nào được coi là cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu,

khái niệm này chưa phân tích mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe là bao

nhiêu thì đủ dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác. Có thể thấy, trong nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi

dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể của người khác gây tổn hại cho

sức khỏe của người đó nhưng chưa đến mức tội phạm. Cụ thể hơn, khi mức độ

thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe không lớn, dưới 11% và không thuộc các

trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì không coi là

tội phạm.

Bên cạnh đó, tại Phần các tội phạm Giáo trình luật hình sự Việt Nam của

Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, TS. Phạm Mạnh Hùng đưa ra khái niệm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là “hành

vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường

hợp sau: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở

lên; dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm

tội 02 lần trở lên; phạm tội đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi,

phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả

năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo

của mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang

bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt

buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc

8

gây tổn hại sức khỏe do được thuê; có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm; đối

với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” [12, tr.146].

Tóm lại, các quan điểm trên đã khái quát nhiều mặt các dấu hiệu đặc trưng

cơ bản để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác. Tuy nhiên, việc mô tả quá chi tiết các dấu hiệu của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ làm hẹp cách hiểu về tội này.

Mặt khác, đó là các dấu hiệu có tính định lượng nên việc thay đổi sẽ là tất yếu. Vì

vậy, theo tác giả, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu

được định nghĩa như sau:

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là

hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS

thực hiện một cách có lỗi, xâm hại đến sức khỏe của người khác đến mức bị coi là

là tội phạm trong BLHS.

1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác

Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 góp phần hoàn

thiện hệ thống các chế định về tội danh trong BLHS trên cơ sở kế thừa và phát huy

các BLHS trước đó.

Nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý cơ bản

của tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các phương hướng, cách thức, phương pháp tiến

hành các hoạt động điều tra nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết VAHS liên quan

đến tội phạm này. Cấu thành tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt

động điều tra VAHS. Bởi lẽ, các dấu hiệp pháp lý đặc trưng cơ bản trong cấu thành

tội phạm mang tính chất đặc trưng của một tội danh cụ thể, cho phép người áp dụng

pháp luật phân biệt tội phạm này với tội phạm khác cũng như giúp họ xác định được

tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trên cơ sở cấu thành

tội phạm của một tội danh cụ thể, người áp dụng pháp luật xác định chính xác

9

TNHS và định tội danh đối với hành vi phạm tội theo đúng pháp luật cũng như xác

định được các vấn đề: Hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào? Người thực

hiện hành vi phạm tội có phải chịu TNHS hay không?...

Bên cạnh đó, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định tội danh và

quyết định hình phạt, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,

tránh bỏ lọt tội phạm. Ngay phần Lời nói đầu của BLHS Việt Nam đã khẳng định

pháp luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa

và chống tội phạm. Đồng thời, luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố

gây cản trở cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Từ quy định của BLHS, có thể thấy, sự cần thiết phải quy định các tội xâm

phạm sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam xuất phát từ các chức năng của

nó, mà luật hình sự có chức năng trước hết và cơ bản là chức năng bảo vệ cho sự

phát triển bình thường của các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp công

nhân và nhân dân lao động Việt Nam. “Là một trong những bộ phận quan trọng của

hệ thống tư pháp hình sự, luật hình sự được coi là công cụ tự vệ của xã hội chống

lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà nước, cho con người.

Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của LHS là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia

nào, luật hình sự cũng có nhiệm vụ ấy...” [28, tr.90]. Trong các quan hệ xã hội mà

luật hình sự bảo vệ có quan hệ xã hội liên quan đến quyền được bảo vệ về sức khỏe

của con người. Do đó, sự cần thiết quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người

khác trong LHS Việt Nam được thể hiện như sau:

Một là, xuất phát từ vị trí của quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con

người trong hệ thống các quyền con người theo pháp luật quốc tế

Nghiên cứu đặc tính cơ bản của quyền con người, ngoài các đặc tính như tính

phổ biến, tính không thể tước đoạt, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau… thì một đặc

tính quan trọng của quyền con người là tính không thể phân chia [23, tr.31]. Nhưng

điều này không có nghĩa là các quyền cụ thể của con người có vị trí, vai trò như

10

nhau. Có những quyền có mức độ gắn bó thiết thân với sự tồn tại của con người, thể

hiện sự tôn trọng nhân phẩm cá nhân nên phải được xem là quan trọng hơn, cần

được ưu tiên hơn so với các quyền khác. Trong số các quyền đó có quyền được tôn

trọng, bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tự do thân thể của con

người. Nói khác đi, đó chính là “quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” [30, tr.49].

Như vậy, con người cần được bảo đảm về quyền sống, quyền tự do và an

ninh cá nhân. Ngay từ Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của

LHQ, con người đã khẳng định những quyền cơ bản của mình tại Điều 3, Điều 4,

Điều 5 và Điều 9 của văn bản này, cũng như nhiều quyền khác, đó là:

Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (Điều 3);

Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ

và buôn bán nô lệ đều bị cấm (Điều 4); Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt

một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; Không ai bị bắt, giam giữ

hay lưu đày một cách tùy tiện (Điều 9) [15, tr.49-50].

Tiếp đến, Công ước Quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền kinh tế, xã hội

và văn hóa năm 1966 lại nhấn mạnh hơn: Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc

trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng

để làm thí nghiệm y học hay khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người

đó (Điều 7). [15, tr.220]

Như vậy, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,

trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác được Hiến pháp

và LHS Việt Nam quy định là xuất phát từ vị trí của quyền đó trong hệ thống các

quyền con người. Việc trật tự hóa quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người

khác trong BLHS năm 2015 dựa theo các tiêu chí về quyền con người của luật pháp

quốc tế. Nó đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải trên cơ sở những tiêu chí đó mà cụ

thể hóa vào hệ thống pháp luật, cũng như chính sách hình sự của Nhà nước những

quy định thiết thực, khả thi nhất. Điều này đúng như PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí đã

khẳng định: “Với chính sách hình sự hướng tới việc bảo vệ quyền con người thì quá

trình này đòi hỏi, một mặt phải xác định yêu cầu cần thiết phải hình sự hóa, tội

11

phạm hóa những hành vi xâm hại đến quyền con người, mặt khác phải rà soát, loại

bỏ những tội phạm mà cấu thành của nó hạn chế quyền con người…” [5, tr.37].

Tựu trung lại, với vị trí quan trọng như vậy, quyền được bảo vệ về sức khỏe

được coi là khách thể bảo vệ quan trọng của LHS các nước và cũng như của Việt

Nam. Do đó, LHS Việt Nam có nhiệm vụ phải ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo

đảm quyền này bằng cách quy định những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của con

người, trong đó có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là tội phạm và đi liền với đó là các hình phạt tương xứng với mức độ,

tính chất của hành vi phạm tội. Hiện nay, thế giới ngày càng coi trọng quyền con

người nói chung và quyền được bảo vệ về sức khỏe nói riêng, thì việc thể chế hóa

luật pháp quốc tế và hình sự hóa các hành vi nguy hiểm xâm hại đến sức khỏe con

người ở Việt Nam cần phải được chú trọng, tập trung hơn nữa.

Hai là, xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và việc bảo vệ

quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam

Nhìn nhận một cách khách quan, sức khỏe gắn liền với tính mạng con người

là thứ vô cùng trân quý. Không có sức khỏe thì sự sống của thực thể dường như

không tồn tại. Một con người mất đi sức khỏe cố nhiên sẽ rơi vào trạng thái thực

vật. Vì lẽ đó, họ không thể tham gia vào các quan hệ xã hội mà mình mong muốn và

bị phụ thuộc vào người khác. Quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe luôn gắn bó

chặt chẽ với quyền sống của con người. Chính vì vậy, ranh giới giữa quyền được

bảo vệ về sức khỏe và quyền sống là vô cùng mong manh.

Với tính cách là một quyền quan trọng trong hệ thống quyền con người,

quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe được Nhà nước ghi nhận, tôn trọng và bảo

đảm. Nói khác đi, “đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con

người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm

tội là một trong các chức năng của Nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ

quan tiến hành tố tụng…” [5, tr.37]. Quy định việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm

về sức khỏe trong BLHS Việt Nam xuất phát từ cơ sở nhận thức sâu sắc về tầm quan

trọng của quyền này. Nhưng hơn hết, các quy định đó bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn về

12

đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm đến sức khỏe của người khác.

Mặt khác, giữa quyền bất khả xâm phạm đến sức khỏe của người khác và

quyền sống có mối quan hệ hữu cơ, do đó, muốn bảo vệ quyền sống trước hết phải

bảo đảm được quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Thực tiễn cho thấy, khi người

nào có hành vi dùng bạo lực hoặc các thủ đoạn khác tác động lên thân thể của người

khác thực sự khó kiểm soát mức độ xâm phạm của mình. Có thể, ý định ban đầu chỉ

muốn xâm phạm đến sức khỏe nhưng trong thực tế lại có trường hợp xâm phạm đến

quyền sống của người khác. Vì vậy, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam là cơ sở để xử lý người

phạm tội trong nhiều trường hợp xảy ra trên thực tiễn, đảm bảo được sự công minh

của pháp luật và công bằng xã hội.

Không phải ngẫu nhiên mà trong BLHS Việt Nam cũng như BLHS một số

nước trên thế giới, các nhà lập pháp lại quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm trong cùng một chương hay thường đặt chương này lên

vị trí là chương đầu tiên của BLHS hoặc chương đầu tiên Phần các tội phạm, trong

đó đề cập đến các tội phạm này.

Như vậy, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác (trong đó có tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác) là một trong những

nhóm khách thể quan trọng cần LHS Việt Nam bảo vệ. Bên cạnh đó, qua việc quy

định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trong

BLHS, đã bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm đến tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thân thể của người khác trái pháp luật.

Ba là, xuất phát từ ý nghĩa của vấn đề bảo vệ sức khỏe của con người đối với

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam [13, tr.62]

Trong tồn tại xã hội, sức khỏe nói chung và sức lao động nói riêng chính là

nền tảng tạo ra vật chất, tinh thần cho sinh hoạt xã hội. Khi có sức khỏe, con người

có thể thực hiện đầy đủ và tối ưu các hoạt động cá nhân cũng như hoạt động xã hội.

Từ đó, sức khỏe giúp cho sự mỗi người tự khẳng định vị trí mình trong xã hội. Tiếp

cận trên phương diện xã hội, có thể thấy rằng sức khỏe của mỗi cá nhân có ảnh

13

hưởng sâu sắc đến đời sống chung của cả cộng đồng. Cá nhân không khỏe thì cộng

đồng mất đi một thành viên tích cực. Mặt khác, nếu cá nhân đó rơi vào trạng thái

ốm đau, bệnh tật, thì Nhà nước, xã hội cũng phải đầu tư nhiều nguồn lực cho việc

chăm sóc y tế, trợ giúp cho cá nhân đó. Lúc này, vấn đề sức khỏe đã vượt ra ngoài

phạm vi của mỗi cá nhân mà nó thực sự trở thành đối tượng phải chăm lo chung của

cả cộng đồng. Cũng vì lẽ đó, Nhà nước ta đề ra Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc

và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong

đó xác định rõ: “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là bổn phận của

mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng; là trách nhiệm của các Bộ, ngành, các

cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức

xã hội nghề nghiệp” [32].

Nhìn nhận được tầm quan trọng của vấn đề sức khỏe của nhân dân với ý

nghĩa là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà

nước ta đã xây dựng cơ sở pháp lý để bảo đảm, bảo vệ sức khỏe của con người, mà

trước hết là quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Vì vậy, khi sức khỏe con người

bị tác động bởi hành vi nguy hiểm của xã hội thì với chức năng của mình, LHS phải

tạo ra các quy định, chế tài phù hợp để xử lý tội phạm xâm hại đến sức khỏe người

khác, đảm bảo sự công bằng của xã hội. Từ đó, các quy định này cũng góp phần

phòng ngừa tội phạm, giáo dục và nâng cao ý thức tuân theo pháp luật cho mọi

người, xây dựng ý thức tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của mình cũng như của người

khác cho mọi cá nhân.

1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng

tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

1.2.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1985

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ nước ta bị thực dân Pháp đô hộ.

Vì vậy, đây là thời kì lập pháp nước ta bị gián đoạn. Bằng chính sách chia để trị,

thực dân Pháp đã dùng ba BLHS khác nhau để áp dụng trên ba miền đất nước. Ở

Bắc Kỳ, chúng ban hành Hình luật An Nam, ở Trung Kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt

14

hình luật, ở Nam Kỳ áp dụng Hình luật pháp tu chính. Trong các Bộ luật này đều có

điều khoản quy định liên quan đến tội xâm phạm sức khỏe của người khác.[24, tr.66]

Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam

kiểu mới được hình thành với những thay đổi về áp dụng pháp luật. Do bộ máy

chính quyền mới hình thành kèm theo đó là nhiều những biến động lịch sử nên

nước ta chưa có điều kiện để ban hành luật mới, do đó Nhà nước ta đã cho phép

áp dụng một số văn bản pháp luật của đế quốc - phong kiến, cố nhiên là các quy

định trong đó không trái với nguyên tắc độc lập của đất nước và chính thể dân

chủ cộng hòa của nước ta.

Đến năm 1955, để mở đầu cho những thay đổi mạnh mẽ về pháp luật hình

sự nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích cho người khác nói riêng, Thủ

tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 về việc

trừng trị một số tội phạm. Trong đó, điểm 3 của Thông tư có quy định hành vi

đánh bị thương: phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm; đánh bị thương có tổ chức hay

gây thành cố tật hay chết người có thể phạt đến 20 năm... [26, tr.326].

Không những vậy, Điều 4 của Thông tư 442/TTg còn quy định: “Không

cẩn thận... mà gây tai nạn làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 03 tháng

đến 03 năm. Nếu gây tai nạn làm người chết người thì có thể phạt tù đến 10 năm”

[26, tr.356].

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại, các văn

bản quy phạm pháp luật của thực dân và phong kiến lúc này không còn phù hợp.

Do đó, ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 19/VHH-HS yêu cầu các

Tòa án không áp dụng luật lệ của thực dân - phong kiến nữa. Thông tư này ra đời

đã thay thế Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 và cùng với Chỉ thị số 772/TATC

được TANDTC ban hành ngày 10/7/1959 về vấn đề đình chỉ áp dụng pháp luật cũ

của đế quốc và phong kiến, từng bước ban hành các văn bản pháp luật mới đã tạo

ra bước ngoặc đổi mới cho pháp luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như quy

định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng.

Thời kỳ sau năm 1975, khi miền Nam được giải phóng, đất nước được

15

thống nhất, Nhà nước ban hành Nghị quyết ngày 02/7/1976 giao cho Chính phủ

hướng dẫn việc áp dụng pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước. Trong đó, các

tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định trong Sắc luật số 03-SL/76

của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam và được áp

dụng trên cả nước. Cụ thể hơn, điểm b Điều 5 Sắc luật quy định rất rõ nếu ai

phạm tội cố ý gây thương tích, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Thậm chí,

trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm.

Bên cạnh đó, TANDTC hướng dẫn việc áp dụng pháp luật cho Tòa án các

cấp, trong đó có Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các

hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Nhờ đó, có sự phân biệt

được một số trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

sức khỏe cho người khác, các Tòa án tránh sự nhầm lẫn trong quá trình áp dụng.

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự

năm 2015

Quá trình xây dựng đất nước đã tạo điều kiện để nước ta chú trọng hơn về

vấn đề lập pháp hình sự. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua BLHS đầu tiên

của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đặt cột mốc vô cùng quan trọng trong quá

trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển quy phạm pháp luật về hình sự nói chung và

quy định pháp luật về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng, trong

đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.

Trong BLHS năm 1985, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được

quy định tại Chương II với các tội phạm cụ thể bao gồm: Tội xâm phạm tính mạng

hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 109); tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 110); tội vô ý gây

thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 111) và tội

hành hạ người khác (Điều 103) [19]. Để các quy định này được thực thi, liên ngành

Trung ương bao gồm TANDTC, VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã ban hành một loạt

các văn bản hướng dẫn thi hành nhóm tội phạm này [13, tr.69]. Trong đó, phải kể

16

đến Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC

hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của BLHS đã hướng

dẫn cách thức phân biệt giữa thương tích với thương tích nặng, giữa tổn hại sức

khỏe với tổn hại nặng cho sức khỏe; mô tả một số tình tiết gây thương tích có tính

nguy hiểm cao, có tính côn đồ,... [9, tr.169-170]. Hay Nghị quyết số 01/1989/HĐTP

ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn tình tiết gây

thương tích dẫn đến chết người phải có thương tích nặng là thương tích có tỷ lệ

thương tật từ 31% trở lên, gây tổn thương động mạch, tĩnh mạch, não, cột sống, các

bộ phận nội tạng trong cơ thể nạn nhân. Mặt khác, vẫn coi là cố ý gây thương tích dẫn

đến chết người trường hợp không phải là thương tích nặng, nếu nạn nhân là người quá

già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho họ chết sớm hơn [9, tr.242-243].

Không dừng lại ở đó, BLHS năm 1985 được ban hành đã trải qua nhiều lần

sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Trong các lần đó, các tội

xâm phạm sức khỏe của người khác được sửa đổi hai lần. Lần thứ nhất, ngày

28/12/1989, quy định bổ sung thêm trường hợp: “gây thương tích cho nhiều người

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người” tại khoản 2 Điều 109. Lần thứ hai,

sửa cụm từ “sử dụng vũ khí” thành “dùng vũ lực”; sửa cụm từ “Phạm tội làm chết

nhiều người...” thành “Phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp

nghiêm trọng khác” tại khoản 1 Điều 103. Các bổ sung này ít nhiều đã góp phần rất

lớn trong việc làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sức khỏe.

Qua đó, tạo tiền đề phân định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác với các tội xâm phạm sức khỏe khác.

Tuy nhiên, sau khi được ban hành, BLHS năm 1985 dù đã trải qua nhiều lần

sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn mang chưa theo kịp tình hình kinh tế - xã hội trong

nước cũng như tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến

đời sống nhân dân, trật tự an toàn xã hội. Đó là đòi hỏi phải có BLHS mới với các

quy định phù hợp hơn, đáp ứng các yêu cầu của thời đại.

Ngày 21/12/1999, Quốc hội thông qua BLHS có hiệu lực từ ngày 01/7/2000.

Đến năm 2009, Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung

17

một số điều của BLHS và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Trong BLHS

này, các nhà làm luật quy định tất cả bảy tội xâm phạm sức khỏe của người khác.

Có thể nói, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã phân hóa rõ ràng hơn các

tội xâm phạm sức khỏe của người khác bằng việc tách nội dung một số điều luật để

quy định thành những tội danh [11, tr.15], cụ thể như sau:

Một là, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác

(Điều 109 BLHS năm 1985) được tách làm ba tội riêng biệt: Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh (Điều 105) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106) [20];

Hai là, tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác (Điều 110 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội khác nhau: Tội vô ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108); tội vô ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc

nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109);

Ba là, tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi

hành công vụ (Điều 103 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội gồm: Tội làm chết

người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) và tội gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107).

Quá trình áp dụng BLHS năm 1999, để làm rõ thêm nội dung chưa rõ và tháo

gỡ các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn xét xử, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã

ban hành một số Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Trong đó,

Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy

định của BLHS đã giải thích khá cụ thể và rõ ràng về tình tiết “gây cố tật nhẹ cho

nạn nhân” ở điểm b khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Nghị quyết số 02/2003/NQ-

HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS hướng dẫn cụ

thể việc áp dụng các tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm”, “phạm tội nhiều lần đối

với cùng một người hoặc đối với nhiều người”, “đối với thầy giáo, cô giáo của mình”

18

tại các điểm a, c, đ khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Qua đó, tránh các nhận thức

pháp luật khác nhau và thống nhất việc áp dụng, đảm bảo đồng bộ, hiệu quả.[13, tr.83]

1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới

về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Quá trình lập pháp của Việt Nam đều có sự tiếp thu có chọn lọc các yếu tố

hợp lý của pháp luật một số nước trên thế giới. Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng,

trong lĩnh vực hình sự, Việt Nam có sự học tập các nội dung, kỹ thuật lập pháp chủ

yếu là của Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Nhật Bản.

Đối với Liên bang Nga (trước đây là Liên Xô), khoa học pháp lý hình sự của

Việt nam từ khi hình thành đến khi BLHS đầu tiên ra đời năm 1985 đã chịu ảnh

hưởng lớn của khoa học pháp lý hình sự của của nước này. Nhiều nhà khoa học

pháp lý hình sự của Việt Nam hiện nay đã từng được đào tạo tại các trường Đại học

hoặc cấp, bậc nghiên cứu khác nhau ở Liên Xô. Do đó, quy định về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS của Việt

Nam cũng khá tương đồng về nội dung và kỹ thuật lập pháp với BLHS của Cộng

hoà Liên bang Nga. Đối với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, từ thời phong kiến thì

pháp luật Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu sắc đến BLHS của Việt Nam. Hiện nay,

cùng là nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, giữa Trung Hoa và Việt Nam

luôn có sự giao thoa văn hóa – pháp luật. Vì vậy, quy định về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS của Trung Quốc

cũng có vài nét gần giống với BLHS của nước ta. Còn đối với Nhật Bản, đây là

nước có quy trình, kỹ thuật lập pháp vô cùng chặt chẽ, do đó, những quy định pháp

luật hình sự của họ luôn có những điểm đặc biệt cần học hỏi.

Nghiên cứu BLHS các nước trên là tiền đề để chúng ta tiếp tục hoàn thiện

quy định BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác, cũng như góp phần đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này tại Việt

Nam. Việc tìm hiểu các quy định tương tự trong BLHS Liên bang Nga, Cộng hòa

nhân dân Trung Hoa và Nhật Bản đồng thời so sánh với quy định trong BLHS nước

ta giúp chúng ta tìm thấy và vận dụng các giá trị phù hợp vào điều kiện của Việt Nam.

19

1.3.1. Quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga

Ngày 24/5/1996, BLHS Liên bang Nga được Hạ viện của Quốc hội Liên

bang thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Sau đó BLHS này được sửa đổi,

bổ sung nhiều lần, mới nhất là lần vào ngày 01/7/2010. Xuất phát từ nguyên nhân

lịch sử, ở BLHS Việt Nam và BLHS Liên bang Nga có thể tìm thấy nhiều điểm

tương đồng nhau. Theo Điều 1 BLHS Liên bang Nga thì: “Pháp luật hình sự Liên

bang Nga bao gồm BLHS này và các luật mới ban hành xem xét TNHS sẽ trở thành

bộ phận của Bộ luật này” [27, tr.12].

Như vậy, từ quy định mang tính chất nguyên tắc nêu trên, có thể khẳng định

nguồn cơ bản của BLHS Liên bang Nga có phần giống Việt Nam. Trong BLHS của

họ, các tội xâm phạm sức khỏe người khác cũng được quy định đầy đủ, trong đó các

tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định tại Chương 16 với 11 điều

luật (từ Điều 111 đến Điều 119 và Điều 124, Điều 125). Trong đó, tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định ở 3 điều

luật cụ thể:

- Tội cố ý gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 111), thì bị phạt tù từ

02 năm đến 08 năm; khoản 3 là đến 15 năm [27, tr.166];

- Tội cố ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 112), thì bị phạt

tù đến 03 năm; khoản 2 là đến 05 năm [27, tr.168];

- Tội cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 115), thì bị phạt

giam giữ đến 04 tháng; khoản 2 là đến 02 năm [27, tr.172];

Qua nghiên cứu các quy định trên trong BLHS Liên bang Nga, đối chiếu với

quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong BLHS Việt Nam, có thể thấy rằng:

Một là, các nhà làm luật Liên bang Nga dành một sự quan tâm đặc biệt đối với

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi quy

định hành vi lên đầu Chương xâm phạm về sức khỏe của BLHS. Điều này cho thấy

sự ưu tiên trong tư tưởng lập pháp của Liên bang Nga đối với vấn đề quyền con

người nói chung và quyền bảo vệ sức khỏe của con người trong BLHS nói riêng.

20

Hai là, khác với BLHS Việt Nam, Liên bang Nga xem hành vi gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác đã bao hàm luôn hành vi cố ý gây thương tích. Vì vậy,

họ không chia ra thành hai hành vi cụ thể giống Việt Nam là cố ý gây thương tích

và hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều này có lẽ xuất phát từ

việc hành vi cố ý gây thương tích, xét đến cùng, là hành vi gây tổn hại đến sức khỏe

con người, chỉ là khác nhau ở tính chất, mức độ.

Ba là, so với Việt Nam, BLHS của Liên bang Nga đã có sự đã phân hóa hành

vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thành ba dạng

cụ thể, thể hiện các tính chất, mức độ của hành vi và tương ứng với đó là các mức

hình phạt khác nhau. Theo đó, hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

bao gồm: cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe; cố ý gây tổn hại nghiêm

trọng đến sức khỏe và cố ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe.

Như vậy, mặc dù có những điểm chung về lập pháp, nhưng quy định tương tự

về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong

BLHS Liên bang Nga có nhiều điểm khác biệt so với Việt Nam. Khách quan mà nói,

các quy định của họ đơn giản hơn và phân hóa hành vi cũng như TNHS rõ ràng hơn

chúng ta. Vì vậy, thiết nghĩ, Việt Nam chúng ta cần phải có sự chọn lọc, tiếp thu đầy

đủ các nhân tố hợp lý trong lập pháp của Liên bang Nga để góp phần hoàn thiện thêm

quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong BLHS.

1.3.2. Quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) ban hành BLHS vào

ngày 01/7/1979 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Bộ luật này được sửa đổi, bổ

sung nhiều lần, gần đây nhất là sửa đổi vào năm 2007.

Liên quan đến các tội xâm phạm sức khỏe của người khác, BLHS Trung

Quốc quy định cụ thể tại Chương IV với 06 điều luật chính, bao gồm: hành vi cố ý

gây thương tích cho người khác (Điều 234); hành vi vô ý gây thương tích nặng cho

người khác (Điều 235); hành vi giam giữ trái pháp luật người khác hoặc bằng các

thủ đoạn khác tước đoạt phi pháp quyền tự do thân thể của người khác (Điều 238);

21

hành vi của nhân viên tư pháp mà tiến hành bức cung đối với bị can, bị cáo hoặc

dùng vũ lực bức cung nhân chứng (Điều 247); hành vi của nhân viên quản giáo của

nhà tù, trại giam mà có hành vi đánh đập hoặc ngược đãi đối với những người bị

giám quản, nếu có tình tiết nghiêm trọng (Điều 248) và hành vi ngược đãi thành viên

trong gia đình, có tình tiết xấu xa (Điều 260) [6; tr.156-168].

Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được quy định tại

Điều 234 BLHS Trung Quốc. Theo đó, người nào có hành vi cố ý gây thương tích cho

người khác, thì bị phạt tù đến 03 năm, cải tạo lao động hoặc quản chế [6, tr.156];

Trên cở sở nghiên cứu quy định về hành vi cố ý gây thương tích cho người

khác trong BLHS Trung Quốc, so sánh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác của BLHS Việt Nam, có thể đưa ra các nhận xét sau đây:

Thứ nhất, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác trong BLHS Trung

Quốc không được nêu thành tội danh mà chỉ mô tả hành vi phạm tội trong nội dung

của điều luật. Còn đối với Việt Nam, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác được gọi tên rất cụ thể tại Điều 134 BLHS năm 2015.

Thứ hai, khác với Việt Nam, BLHS Trung Quốc chỉ đề cập đến hành vi cố ý

gây thương tích chứ không thể hiện hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Điều này khác với cả BLHS Liên bang Nga, nhưng nhìn ở góc độ kỹ thuật lập

pháp, thì dường như ở hai nước này lại có điểm chung là hành vi cố ý gây thương

tích đã bao hàm trong đó nội dung gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và

ngược lại. Có thể thấy, các nhà làm luật của Việt Nam có sự tiếp thu quy định của

hai nước, đồng thời cho rằng, đây là hai loại hành vi cần có sự phân biệt để phân

hóa TNHS, vì vậy, Việt Nam quy định cả hai hành vi này trong cùng một điều luật.

Thứ ba, về hình phạt, BLHS Trung Quốc quy định chế tài đối với hành vi cố

ý gây thương tích cho người khác có sự đa dạng so với Việt Nam. Bên cạnh hình

phạt tù, BLHS còn mở rộng khi quy định các chế tài khác ngoài tù gồm lao động cải

tạo và quản chế. Có lẽ, trong tư duy của nhà làm luật Trung Quốc, đối với loại hành

vi phổ biến như cố ý gây thương tích thì việc quy định các chế tài ngoài tù là phù

hợp với thực tiễn. Bởi lẽ, việc quy định này sẽ giảm được áp lực cho các cơ sở giam

22

giữ, hơn nữa đối với các hành vi cố ý gây thương tích có mức độ ít nghiêm trọng thì

việc quản chế hoặc lao động có lẽ mục đích cải tạo sẽ hữu hiệu hơn.

Như vậy, BLHS Trung Quốc chưa có sự phân hóa trong hành vi cố ý gây

thương tích cho người khác triệt để bằng Việt Nam. Tuy nhiên, quy định về hành vi

cố ý gây thương tích cho người khác lại được tinh gọn. Đặc biệt, chế tài xử lý đối

với hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được mở rộng sang các hình phạt

khác như lao động cải tạo, quản chế. Đây là điểm tiến bộ, thiết nghĩ, khi điều kiện

kinh tế - xã hội cho phép, Việt Nam chúng ta nên học hỏi để áp dụng cho phù hợp.

1.3.3. Quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản

Nhật Bản ban hành BLHS vào năm 1908. Sau đó, BLHS này chỉnh lý nhiều

lần, lần gần đây nhất là sửa đổi, bổ sung vào năm 2011. Bộ luật có 40 chương và

264 điều. Các tội xâm phạm sức khỏe của con người được quy định tại chương 27

và 28 bao gồm 10 điều bao gồm: tội gây thương tích (Điều 204); tội gây ra thương

tích dẫn đến chết người (Điều 205); tội vào hùa tại hiện trường (Điều 206); tội đặc

lệ của việc đồng thời gây ra thương tích (Điều 207); tội hành hung (Điều 208); tội

lái xe nguy hiểm gây ra thương tích hoặc chết người (Điều 208-2); tội tập hợp và tụ

tập chuẩn bị hung khí (Điều 208-3); tội sơ ý gây ra thương tích (Điều 209); tội sơ ý

dẫn tới chết người (Điều 210); tội bất cẩn trong khi làm việc gây ra thương tích

hoặc chết người (Điều 211). [10, tr.158-162].

Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích được quy định Điều 204 và đứng đầu

chương 27 BLHS Nhật Bản (nhóm tội gây thương tích với lỗi cố ý). Theo đó, người

nào phạm tội gây thương tích, thì bị phạt tù dưới 15 năm hoặc phạt tiền dưới 50 vạn

Yên [10, tr.158].

Qua nghiên cứu quy định nói trên của BLHS Nhật Bản, đối chiếu với tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Việt

Nam, có thể đưa đến một số nhận định như sau:

Thứ nhất, BLHS Nhật Bản quy định tội danh về cố ý gây thương tích rất

ngắn gọn, súc tích (Tội gây thương tích). Điều này xuất phát từ việc BLHS của họ

đã chia nhóm tội xâm phạm sức khỏe thành hai chương riêng biệt: Chương 27 là

23

nhóm tội (cố ý) gây thương tích; Chương 28 là nhóm tội sơ ý gây thương tích.

Thứ hai, ngoài hình phạt tù, BLHS Nhật Bản còn cho phép áp dụng hình phạt

tiền đối với hành vi gây thương tích. Đây là điểm khác biệt với Việt Nam, việc áp

dụng hình phạt tiền của chúng ta chỉ mang tính chất là hình phạt bổ sung chứ không

phải là hình phạt chính. Đặc biệt, nhìn ở phương diện tư duy lập pháp, các nhà làm

luật Việt Nam rất coi trọng khách thể là sức khỏe con người nên việc áp dụng hình

phạt tiền là không thể. Điều này bắt nguồn từ cách nhìn nhận tầm quan trọng khách

thể xâm hại có sự khác nhau giữa hai nước. Song, ở tương lai, khi văn hóa - pháp lý

nước ta được nâng cao, có lẽ việc quy định thêm hình phạt tiền cần phải được xem

xét, học hỏi áp dụng.

Thứ ba, BLHS Nhật Bản đã tách tội gây thương tích và tội gây thương tích

dẫn tới chết người thành hai điều luật riêng biệt, còn Việt Nam lại quy định đó là

tình tiết tăng nặng TNHS ngay trong điều luật quy định tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Như vậy, BLHS Nhật Bản cũng có những điểm gần với BLHS Việt Nam

trong việc quy định hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác. Tuy nhiên, quy định về tội gây thương tích của Nhật Bản súc tích hơn.

Bên cạnh đó, các chế tài áp dụng đối với hành vi gây thương tích cũng đa dạng và

có phần nhẹ hơn. Đây là các điểm khác biệt mà nếu điều kiện cho phép, chúng ta

nên vận dụng vào lập pháp cũng như thực tiễn áp dụng sau này.

24

Tiểu kết chương 1

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là bộ phận quan trọng của quyền con

người được pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng thừa nhận.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là quy định

đã được hình thành, xây dựng, và hoàn thiện qua các thời kỳ của pháp luật hình sự

Việt Nam dưới nhiều tên gọi khác nhau nhưng mang nội hàm giống nhau nhằm bảo

vệ quyền chính đáng của con người. Do đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan

tâm làm rõ, đặc biệt trong sách báo pháp lý hình sự Việt Nam. Trải qua quá trình

hình thành và phát triển, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác đã được góp ý, sửa đổi để phù hợp với tình hình tội phạm.

Mặt khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

không chỉ được xem xét ở góc độ lịch sử lập pháp trong nước mà còn có sự đối

chiếu, so sánh với các quy định trong LHS một số nước trên thế giới. Qua đó,

Chương 1 đã khái quát những đặc điểm cơ bản, đặc điểm riêng của các tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Từ đó tạo cơ sở lý luận

vững chắc để nghiên cứu sâu hơn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác, từ đó tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam.

25

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý

GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE

CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN

THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác

Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS

năm 2015. Đây là BLHS mới đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập

pháp hình sự với nhiều thay đổi đáng kể. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 và đứng

đầu trong nhóm tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Theo đó, tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có các dấu hiệu pháp lý

như sau:

Thứ nhất, về khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ

bị tội phạm xâm phạm bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở một mức

độ nhất định.

Theo đó, khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác xâm phạm đến quyền được tôn trọng, quyền được bảo vệ về

sức khỏe của người khác được pháp luật bảo hộ.

Người khác ở đây được hiểu là một con người cụ thể đang sống và tồn tại

theo quy luật tự nhiên mà không phải là chính bản thân người thực hiện hành vi

phạm tội. Nếu trong trường hợp một người gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của chính bản thân mình để trốn tránh nghĩa vụ phải làm thì tùy trường

hợp cụ thể có thể bị xem xét TNHS theo quy định của pháp luật.

26

Ví dụ như Nguyễn Văn B đã đến tuổi đi nghĩa vụ quân sự nhưng do bản thân

không muốn thực hiện nghĩa vụ quân sự nên B đã có hành vi “tự gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của mình để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự”.

Trong trường hợp này, B có thể bị truy cứu TNHS về “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân

sự” theo quy định tại Điều 232 BLHS năm 2015.

Thứ hai, về mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài

thế giới khách quan, bao gồm các yếu tố: hành vi khách quan của tội phạm; hậu quả

của tội phạm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội

phạm; phương pháp, phương tiện, công cụ, thủ đoạn; thời gian, không gian, nơi xảy

ra hành vi phạm tội....

Trong đó, hành vi khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con

người ra bên ngoài thế giới khách quan qua những hình thức cụ thể nhằm đạt được

những mục đích đã định trước.

Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã

hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm là mối

quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được xem là nguyên nhân (hành

vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (hậu quả của tội phạm).

Như vậy, mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác được biểu hiện qua các dấu hiệu sau:

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật sự, thể hiện mong

muốn của người phạm tội.

Người phạm tội phải có hành vi tác động trực tiếp lên thân thể của người

khác như đâm, chém, đấm đá, đầu độc,… bằng cách sử dụng tay, chân hoặc sử dụng

những công cụ, phương tiện, vũ khí đa dạng như gạch, đá, gậy gộc, dao, búa, súng,

mã tấu,… nhằm mục đích làm cho người này bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức

khỏe. Ngoài ra người phạm tội thực hiện hành vi tác động gián tiếp lên cơ thể người

27

khác thông qua hình thức sử dụng súc vật như chó, thú dữ,…

Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, nghĩa là người phạm tội

nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích

hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng vẫn mong muốn hoặc có ý thức để

mặc cho hậu quả đó xảy ra.

Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác thông thường hay để lại những thương tích, dấu tính nhất định

trên cơ thể như: vết rách trên da cho bị dao chém, vết bầm tím do bị đánh bằng gậy,

vết bỏng do bị tạt axit… Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp hành vi phạm tội

không để lại thương tích, dấu vết trên thân thể mà để lại những tổn hại cho sức khỏe

của người khác như: bị đầu độc bằng thuốc độc dẫn đến suy kiệt về sức khỏe trong

thời gian dài,…

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội

phạm có cấu thành vật chất, nghĩa là hành vi phạm tội phải gây ra thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tội phạm mới hoàn thành, hay phải có

thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe trên thực tế thì người thực hiện hành vi phạm

tội mới có khả năng bị truy cứu TNHS. Như vậy, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc phải

có của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Theo đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác phải gây ra hậu quả là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác

biểu hiện qua tỷ lệ tổn thương cho cơ thể được đánh giá, xác định một cách kỹ càng

thông qua giám định của hội đồng giám định pháp y trong mọi trường hợp. Tỷ lệ

tổn thương cơ thể vừa là yếu tố định tội, vừa là yếu tố định khung tăng nặng TNHS.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể càng cao thì khung hình phạt quy định cũng như hình phạt

được áp dụng càng cao.

Kế thừa Điều 104 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, BLHS năm

2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác vẫn được cấu tạo theo hướng lấy tỷ lệ thương tật làm

căn cứ xác định TNHS đối với người phạm tội. Đồng thời, do yêu cầu của công

28

cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nên nhà làm luật còn quy định thêm một số

trường hợp tuy hành vi cố ý gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật dưới

mức quy định nhưng vẫn có thể bị truy cứu TNHS.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị

truy cứu TNHS về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác khi gây ra hậu quả mà tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% đến 30%

hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng

gây nguy hại cho nhiều người:

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ

và công cụ hỗ trợ năm 2017, vũ khí được hiểu là “thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp

những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại

cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí

quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác

dụng tương tự”.

Đồng thời, Khoản 7 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công

cụ hỗ trợ năm 2017 hướng dẫn vật liệu nổ là “sản phẩm dưới tác động của xung

kích thích ban đầu gây ra phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt, sinh khí, phát

sáng, tạo ra tiếng nổ, bao gồm: Thuốc nổ là hóa chất hoặc hỗn hợp chất được sản

xuất, sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của xung kích thích; phụ kiện

nổ là kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng

tạo xung kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc thiết bị chuyên dùng có

chứa thuốc nổ”.

Tại tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006

của TANDTC hướng dẫn dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc

phương tiện nguy hiểm để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác. Trong đó, vũ khí là gì đã được giải thích còn phương tiện nguy hiểm là

“công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người

(trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm

29

phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội

có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ

gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công. Về công cụ,

dụng cụ, ví dụ như búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn... Về vật mà người

phạm tội chế tạo ra, ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... Về vật có sẵn trong tự

nhiên, ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, thanh sắt...” (theo Tiểu mục 2.2 Mục 2 Nghị

quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC

hướng dẫn).

Bên cạnh đó, dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là

trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội bằng cách dùng thủ đoạn

không chỉ nhằm xâm hại một người nào đó mà thủ đoạn này còn có khả năng gây

nguy hại cho nhiều người. Ví dụ đặt khúc gỗ ngang đường giao thông khuất tầm

nhìn trong đêm tối để gây tai nạn chp người đi xe máy, làm nhiều người bị thương

tích,…

- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm:

A-xít nguy hiểm được hiểu là hợp chất hóa học có tính sát thương cao, khi

tiếp xúc với da, a-xít phá vỡ các mô liên kết và hút nước của tế bào dẫn đến bỏng và

hoại tử da; nếu không kịp thời sơ cứu, a-xít ăn sâu vào phần cơ và gân gây ra tình

trạng bỏng nặng co rút, nếu sâu hơn sẽ hủy hoại cả xương và khớp dẫn đến tàn phế

suốt đời.

Khoản 4 Điều 4 Luật hóa chất 2007 hướng dẫn, hóa chất nguy hiểm là “hóa

chất có một hoặc một số đặc tính nguy hiểm sau đây theo nguyên tắc phân loại của

Hệ thống hài hòa toàn cầu về phân loại và ghi nhãn hóa chất: Dễ nổ; ôxy hóa

mạnh; ăn mòn mạnh; dễ cháy; độc cấp tính; độc mãn tính; gây kích ứng với con

người; gây ung thư hoặc có nguy cơ gây ung thư; gây biến đổi gen; độc đối với sinh

sản; tích lũy sinh học; ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ; độc hại đến môi trường.”

- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm

đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ:

Đối với người dưới 16 tuổi nghĩa là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc

30

gây tổn hại cho sức khỏe của người dưới 16 tuổi, không phụ thuộc vào ý thức chủ

quan của người phạm tội có nhận biết được hay không nhận biết được nạn nhân là

người dưới 16 tuổi hay không.

Đối với phụ nữ mà biết là có thai là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe đối với người phụ nữ đang mang thai và người thực hiện

hành vi phạm tội nhận biết được nạn nhân là phụ nữ đang có thai.

Đối với người già yếu, ốm đau là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe đối với người già, sức khỏe yếu kém, thường xuyên ốm đau.

Đối với người khác không có khả năng tự vệ là trường hợp cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người không có khả năng chống lại tự tấn

công của người phạm tội do hạn chế về thể chất hoặc tâm thần. Ví dụ gây thương

tích đối với người bệnh nằm liệt giường, không thể di chuyển được.

- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng,

chữa bệnh cho mình:

Đối với ông, bà, cha, mẹ là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe đối với những người có quan hệ ruột thịt, huyết thống với người phạm tội.

Đối với thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên

chế hoặc theo hợp đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy

nghề được cơ quan chức năng có thẩm quyền cho phép vì lý do thực hiện nhiệm vụ

giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với người phạm tội, không phân biệt nhiệm

vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay

ngắn. (theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.3 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP)

Đối với người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình là trường hợp cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đã và đang nuôi dưỡng, dạy

dỗ người phạm tội, người đã và đang chữa bệnh cho họ. Ví dụ gây thương tích cho

bác sĩ đang chữa bệnh cho người phạm tội.

31

- Có tổ chức:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác được thực hiện do nhóm người từ 02 người trở lên, có sự bàn bạc, phân

công, câu kết với nhau để cùng thực hiện hành vi phạm tội.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn và họ sử dụng chức

vụ, quyền hại của mình như một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội.

- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt

tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang

chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,

đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

Đây là trường hợp người phạm tội đang bị cơ quan có thẩm quyền kiểm soát

và đang bị áp dụng các biện pháp có tính chất cưỡng chế nhà nước mà thực hiện

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê:

Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là

trường hợp người phạm tội không trực tiếp thực hiện hành vi gây thương tích mà

dùng tiền hoặc lợi ích khác để sai khiến người khác thực hiện hành vi gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê

là hành vi của người phạm tội được một người nào đó thuê gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vì tiền hoặc vì lợi ích vật chất khác.

Trong trường hợp này, hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức

khỏe của người thuê hoặc người được thuê được coi là nghiêm trọng hơn trường

hợp cố ý gây thương tích bình thường, nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn

hại đến sức khỏe dưới 11% do hành vi của người thuê hoặc người được thuê gây ra

thì người phạm tội đã bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015.

32

- Có tính chất côn đồ:

Tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công

tác ngành Tòa án năm 1995, TAND tối cao đã giải thích về tình tiết “có tính chất

côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi

thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích

(hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì

một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người. Hành động của chúng

thường là xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung

người khác một cách vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt...

Như vậy, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe có tính chất côn đồ

là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

người phạm tội thể hiện tính hung hãn cao độ, coi thường sức khỏe của người khác,

sẵn sàng dùng vũ lực gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người khác vì

nguyên cớ nhỏ nhặt.

- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân:

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công

vụ của nạn nhân mà thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của chính nạn nhân.

Khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi

phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 31% đến 60%:

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%:

33

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đảm bảo 02 điều kiện:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong

một lần hoặc nhiều lần đối với một người.

+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần

từ 11% đến 30%.

- Phạm tội 02 lần trở lên:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác từ 02 lần trở lên, có thể đối với một người hoặc đối với nhiều người và

trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu

TNHS và chưa hết thời hiệu xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu TNHS.

- Tái phạm nguy hiểm:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015, tái phạm nguy hiểm là

trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội

về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc người

phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do

cố ý.

Trong đó, tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại

thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý theo quy định tại Khoản 1

Điều 53 BLHS năm 2015.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại

các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các

trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả

năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

34

đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc

người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo

của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ,

quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt

tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang

chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,

đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; thuê gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; có tính chất côn đồ;

đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

Khoản 3 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi

phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản

4 Điều 134 BLHS:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên và không thuộc trường hợp gây

thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%:

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 02 điều kiện:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong

một lần hoặc nhiều lần đối với một người.

+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần

từ 31% đến 60%.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại

35

các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các

trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả

năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc

người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo

của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ,

quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt

tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang

chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,

đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; thuê gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; có tính chất côn đồ;

đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các

trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 03 điều kiện:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong

một lần hoặc nhiều lần đối với một người.

+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần

từ 11% đến 30%.

+ Thuộc một trang các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy

hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy

hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có

thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông,

bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

36

có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm

giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại

trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa

vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được

thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công

vụ của nạn nhân.

Khoản 4 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi

phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Làm chết người:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác dẫn đến chết người, người phạm tội thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối

với hậu quả chết người xảy ra, nghĩa là người phạm tội thấy trước hành vi của mình

có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có

thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu

quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó; việc nạn

nhân chết là chẳng may và ngoài ý muốn của người phạm tội. Đồng thời, giữa cái

chết của nạn nhân và thương tích của người phạm tội gây ra cho nạn nhân có mối

quan hệ nhân quả.

- Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể 61% trở lên:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên và hậu quả dẫn đến làm biến

dạng vùng mặt của nạn nhân.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên:

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

37

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 02 điều kiện:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong

một lần hoặc nhiều lần đối với một người.

+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần

61% trở lên.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các

điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 02 điều kiện:

+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của của nạn nhân từ 61% trở lên.

+ Thuộc một trang các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy

hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy

hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có

thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông,

bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm

giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại

trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa

vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được

thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công

vụ của nạn nhân.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các

trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 03 điều kiện:

38

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong

một lần hoặc nhiều lần đối với một người.

+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần

từ 31% đến 60%.

+ Thuộc một trang các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy

hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy

hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có

thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông,

bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm

giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại

trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa

vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được

thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công

vụ của nạn nhân.

Khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi

phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Làm chết 02 người trở lên:

Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác dẫn đến làm chết từ 02 người trở lên, người phạm tội thực hiện hành vi

có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra, nghĩa là người phạm tội thấy trước

hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ

không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có

thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả

đó; việc cả 02 nạn nhân đều chết là chẳng may và ngoài ý muốn của người phạm tội.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ

39

lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường

hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 03 điều kiện:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong

một lần hoặc nhiều lần đối với một người.

+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần

từ 61% trở lên.

+ Thuộc một trang các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy

hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy

hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có

thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông,

bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm

giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại

trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa

vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được

thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công

vụ của nạn nhân.

Khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015 cũng quy định trường hợp chuẩn bị

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, theo

đó người phạm tội bị truy cứu trách TNHS về tội phạm này khi người phạm tội

chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy

hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Thứ ba, về chủ thể của tội phạm:

Điều 12 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định tuổi chịu TNHS

như sau:

40

+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội

phạm mà BLHS quy định khác.

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong số các điều

123, 134, 141, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,

252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS năm 2015.

Như vậy, người chịu TNHS phải đến độ tuổi nhất định từ đủ 14 tuổi trở lên,

bởi đối với những người dưới 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ, chưa nhận thức

toàn diện về hành vi nguy hiểm cho xã hội, chưa đủ khả năng để đánh giá chính xác

tác hại và hậu quả do hành vi của mình gây ra, thậm chí chưa có nhiều kinh nghiệm

sống, dễ bị lôi kéo, dụ dỗ, kích động phạm tội.

Như vậy, căn cứ vào quy định của phát luật, chủ thể của tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là bất kỳ người nào có đủ năng

lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Cụ thể như sau:

+ Thứ nhất, khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác thì người phạm tội có khả năng nhận thức được tính chất,

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình gây ra và họ hoàn toàn có đủ

khả năng để điều hiện được hành vi đó của mình.

+ Thứ hai, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì chỉ chịu TNHS về tội

phạm này theo quy định tại Khoản 3, 4, 5 Điều 134 BLHS năm 2015. Còn đối với

người từ đủ 16 tuổi trở lên thì khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác đều phải chịu TNHS về tội phạm này theo quy

định tại tất cả các khoản của Điều 134 BLHS năm 2015.

Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm:

Tội phạm là một thể thống nhất giữa hai mặt khách quan và mặt chủ quan.

Trong đó, mặt khách quan là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới

khách quan còn mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội.

Với ý nghĩa trên, mặt chủ quan của tội phạm không thể tách rời mà luôn gắn liền

41

với mặt khách quan của tội phạm, nghĩa là hoạt động tâm lý bên trong của người

phạm tội luôn có quan hệ chặt chẽ với những biểu hiện bên ngoài của tội phạm.

Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm những dấu hiệu: lỗi, động cơ và mục

đích phạm tội. Trong đó:

+ Lỗi được hiểu là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm phản ánh trạng

thái tâm lý bên trong của người phạm tội dưới sự điều khiển của tâm lý, ý chí và

mong muốn đạt được mục đích nhất định, thông qua lỗi người phạm tội lựa chọn

thực hiện hành vi phạm tội cụ thể và biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan.

+ Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy, thôi thúc

người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý.

+ Mục đích phạm tội được hiểu là kết quả mong muốn đạt được trong ý thức

chủ quan của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội.

Trong ba dấu hiệu trên của mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt

buộc của bất kỳ cấu thành tội phạm nào, bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý; còn động cơ

và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm nhưng cả hai

dấu hiệu này được quy định là tình tiết định khung trong một số cấu thành tội phạm,

do đó nó có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội danh để quyết định hình

phạt.

Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác, dấu hiệu lỗi của tội phạm này đã được thể hiện ở ngay trên tội danh của nó.

Theo đó, người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác với lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý

gián tiếp. Người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể mong

muốn hậu quả xảy ra hoặc có thể không mong muốn xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc

và chấp nhận hậu quả đó xảy ra. Trong trường hợp, người phạm tội thực hiện hành

vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với lỗi vô ý thì

không phạm tội này.

Mặc dù dấu hiệu động cư và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt

buộc trong mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

42

của người khác nhưng cả hai dấu hiệu đều có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định

tội danh, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định hình

phạt, tránh nhầm lẫn với một số tội phạm khác như tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh,…

2.1.2. Hình phạt

Về bản chất, hình phạt là biện pháp tác động mà Nhà nước mong muốn đạt

được khi quy định và áp dụng BLHS đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm

tội. Đi từ BLHS, chúng ta thấy các loại TNHS được quy định rất đa dạng và nhiều

mức độ khác nhau. Trong đó, hình phạt là một hình thức chủ yếu và phổ biến của

BLHS có độ nghiêm khắc cao so với các hình thức TNHS khác. Dù là hình phạt gì

đi nữa thì xét đến cùng, hoặc là tước hoặc là hạn chế các quyền, lợi ích của người bị

kết án ở từng mức độ khác nhau. Các khung hình phạt của tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng được phân cấp thành các mức

độ cụ thể.

Theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, hình

phạt áp dụng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác được chia thành sáu khung hình phạt khác nhau. Cụ thể như sau:

- Khung hình phạt tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015:

Người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ

06 tháng đến 03 năm khi thực hiện hành vi cố ý gây thương hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới

11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm k

Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015.

- Khung hình phạt tại Khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015:

Người phạm tội bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm khi thực hiện hành vi phạm

tội thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm đ Khoản 2

Điều 134 BLHS BLHS năm 2015.

- Khung hình phạt tại Khoản 3 Điều 134 BLHS năm 2015:

43

Người phạm tội bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi thực hiện hành vi phạm

tội thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm d Khoản 3

Điều 134 BLHS BLHS năm 2015.

- Khung hình phạt tại Khoản 4 Điều 134 BLHS năm 2015:

Người phạm tội bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm khi thực hiện hành vi phạm

tội thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm đ Khoản 4

Điều 134 BLHS BLHS năm 2015.

- Khung hình phạt tại Khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015:

Người phạm tội bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi thực

hiện hành vi phạm tội thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điểm a,

điểm b Khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015.

- Khung hình phạt tại Khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015:

Người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ

03 tháng đến 02 năm khi có hành vi chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy

hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội

phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác với một số tội phạm khác

2.2.1. Phân biệt biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

Giữa hai tội này đều có điểm chung là hành vi cố ý gây thương tích hoặc cố

ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác, song chúng phân biệt nhau ở dấu hiệu

“trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.

Hiểu một cách khái quát, tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng không

hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình. Nói cách khác, trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế

ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển

hành vi. Như vậy, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái mà tâm lý bị

ức chế ở mức độ cao dẫn đến nhận thức bị hạn chế làm giảm đáng kể khả năng điều

44

khiển hành vi, nhưng vẫn còn khả năng điều khiển hành vi của mình. .

Có thể lý giải vì sao trong trường hợp bình thường họ không phạm tội mà

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh họ phạm tội thông qua mức độ nhận

thức của họ trong lúc này. Bình thường, họ nhận thức được hành vi của mình là

nguy hiểm, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được điều

đó là sai, trái pháp luật, phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý nên họ kiềm chế hành vi

của mình. Tuy nhiên, trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mức độ nhận

thức của họ giảm đi đáng kể. Họ vẫn có thể nhận thức được hành vi của mình là

nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó, nhận thức một cách khái quát về hậu quả

mà họ không quan tâm đến, không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp

luật cũng như không nhận thức được sẽ phải gánh lấy hậu quả pháp lý từ hành vi

của mình. Thực tế đó làm giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi

của mình (chứ không phải mất hẳn) và kết quả là hành vi phạm tội xảy ra.

Với cách hiểu này, xét ở góc độ chủ quan người phạm tội, có thể phân biệt

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh ở mức độ nhận thức của người phạm tội khi thực hiện hành

vi. Khi thực hiện hành vi, nếu người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là

nguy hiểm cho xã hội, có thể gây ra hậu quả cụ thể nào, bất chấp việc hành vi của

mình có trái pháp luật và mình phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không thì có thể

coi đây là trường hợp “trạng thái tinh thần bị kích động. Làm sáng tỏ điểm này phải

căn cứ vào từng đối tượng cụ thể. Có trường hợp đối với đối tượng đó là bị kích

động mạnh nhưng đối với đối tượng khác thì không. Ví dụ, khi phát hiện vợ mình

ngoại tình với người khác tại nhà mình, có người vác dao chém đôi tình nhân này.

Tuy nhiên, có người bình tĩnh yêu cầu họ mặc đồ vào để nói chuyện nghiêm túc.

Ngoài ra, còn có thể dựa vào nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần bị

kích động để xác định tinh thần có bị kích động mạnh hay không. Nguyên nhân làm

cho “tinh thần bị kích động mạnh” là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn

nhân hoặc của người khác. Tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp

luật của nạn nhân là một căn cứ để xem tinh thần của người phạm tội có bị kích

45

động mạnh hay không. Khi xem xét tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi

trái pháp luật của người bị nạn, cần đánh giá toàn diện về cả cường độ lẫn số lượng

của hành vi. Có trường hợp hành vi có cường độ mạnh nhưng chỉ xảy ra một lần

cũng đủ dẫn đến kích động mạnh. Hoặc có trường hợp, hành vi dù cường độ thấp

nhưng xảy ra nhiều lần cũng có thể dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh.

2.2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác với tội giết người chưa đạt

Để phân biệt hai tội danh này cần xuất phát từ sự phân tích mặt chủ quan của

CTTP. Theo đó, để xác định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp thì khi thực hiện

hành vi, họ phải nhận thức được hậu quả chết người /thương tích, tổn hại sức khoẻ

sẽ xảy ra từ hành vi của mình, mong muốn hậu quả đó xảy ra. Vì vậy, đối với tội

giết người chưa đạt và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của

người khác, nhất thiết phải làm rõ yếu tố lỗi của người phạm tội.

Bên cạnh đó, hậu quả là yếu tố đi liền để phân biệt hai tội danh này. Ví dụ

như nếu hậu quả xảy ra chỉ là thương tích, mục đích cũng là thương tích thì đó là tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Nên nhớ rằng,

hậu quả chết người đều chứa đựng trong CTTP của cả hai tội. Do đó, hậu quả chết

người (nếu không phù hợp với ý thức chủ quan) của người phạm tội thì không thể

xem là dấu hiệu phân biệt. Vì vậy, chúng ta cần phải xem xét cả lỗi về mặt hậu quả,

tức là người phạm tội có mong muốn đạt được hậu quả chết người hay không. Cụ

thể, nếu hậu quả chết người xảy ra không có mối quan hệ nhân quả với hành vi

phạm tội, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người

khác dẫn đến hậu quả chết người.

Như vậy, việc phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác với tội giết người chưa đạt không những dựa trên việc cân

nhắc, xem xét yếu tố lỗi, mục đích, động cơ phạm tội; còn phải tính đến mối quan

hệ hành vi – hậu quả và hậu quả thực tế xảy ra như thế nào. Từ đó, mới đủ cơ sở kết

luận hành vi nào là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác dẫn đến chết người, hành vi nào là giết người chưa đạt. Trong đó, ưu tiên hàng

đầu chính là xác định ý thức chủ quan của người phạm tội

46

2.3. Thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

2.3.1. Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thị xã Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam

Điện Bàn là thị xã nằm phía bắc của tỉnh Quảng Nam, giáp với thành phố

Đà Nẵng. Thị xã Điện Bàn có diện tích tự nhiên là 214,28 km², dân số là 245.013

người (năm 2019), mật độ dân số đạt 1.143 người/km². Đây là những đặc điểm

tạo tiền đề cho sự phát triển về mọi mặt cho Điện Bàn.[35]

Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có vị trí giáp ranh thành phố Đà Nẵng

và thành phố Hội An, có nhiều khu công nghiệp tập trung thu hút lượng lớn lao

động đến làm việc. Trung tâm Điện Bàn là phường Vĩnh Điện sầm uất, với khu

công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc. Trong những năm gần đây, Điện Bàn đã có

những thay đổi mạnh mẽ về diện mạo, đang dần trở thành một trong những trung

tâm kinh tế - văn hóa lớn ở Bắc Quảng Nam. Bên cạnh những thuận lợi nhất định,

Điện Bàn vẫn còn nhiều khó khăn thách thức, cụ thể như trình độ dân trí chưa

cao, tệ nạn xã hội còn nhiều, diễn biến phức tạp. Đặc biệt, một bộ phận thanh

thiếu niên tại đây bỏ học sớm, sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật là vấn đề

mà chính quyền Điện Bàn đang hết sức quan ngại. Tuy vậy, nhìn chung, Điện

Bàn là địa bàn có tình hình an ninh, chính trị tương đối ổn định.

Các đặc điểm trên là môi trường phát sinh các loại tội phạm, đặc biệt là các

tội xâm phạm sức khỏe của người khác, trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điểm đáng chú ý là các vụ án gây

thương tích trên địa bàn có nhiều tình tiết phức tạp, đối tượng thường sử dụng

hung khí nguy hiểm dẫn đến hậu quả khá nặng nề và gây dư luận hoang mang

trong xã hội.

2.3.2. Tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Có thể nói, tình hình cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam diễn biến phức tạp,

được thể hiện qua bảng dưới đây:

47

Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã được

Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn 2013-2018

Thời gian Số vụ Số bị cáo Ghi chú

27 35 Năm 2013

28 34 Năm 2014

33 40 Năm 2015

29 45 Năm 2016

36 42 Năm 2017

40 58 Năm 2018

39 60 Năm 2019

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2018 của Tòa án thị xã Điện Bàn,

tỉnh Quảng Nam

Qua bảng trên, có thể thấy, số vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại

cho sức khỏe của người khác ở Điện Bàn luôn có sự biến thiên song số người phạm

tội này có xu hướng tăng dần. Đặc biệt, mặc dù năm 2016 có giảm 04 vụ so với năm

2015, năm 2019 giảm 01 vụ so với năm 2018, nhưng số lượng bị cáo không ngừng

tăng cao. Điều này cho thấy, án gây thương tích không những không giảm mà còn

tăng về số người tham gia, có sự tăng dần về mặt tổ chức, quy mô. Có lẽ đây là tín

hiệu đáng báo động với một thị xã như Điện Bàn.

Đáng chú ý hơn, nếu so sánh các số liệu này với số án cố ý gây thương tích

hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác ở một thành phố sôi động như Tam Kỳ

thì vẫn thấy sự nổi bật của Điện Bàn:

48

Bảng 2.2. Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam đã

được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn 2013-2018

Thời gian Số vụ Số bị cáo Ghi chú

20 25 Năm 2013

18 23 Năm 2014

21 24 Năm 2015

22 25 Năm 2016

18 20 Năm 2017

20 24 Năm 2018

19 23 Năm 2019

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2018 của Tòa án thành phố Tam Kỳ,

tỉnh Quảng Nam

Qua bảng 2.2, số án mà Tòa án Tam Kỳ thụ lý, giải quyết qua các năm có sự

dao động không lớn. Đặc biệt, số bị cáo qua các năm cũng không vượt con số 25 bị

cáo. Điều này cho thấy tội phạm cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của

người khác ở Tam Kỳ có quy mô, mức độ không lớn hơn thị xã Điện Bàn, trong khi

đó Tam Kỳ là nơi đô thị sầm uất, đông đúc hơn. Như vậy, tội phạm cố ý gây thương

tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Điện Bàn có tính điển hình và phổ

biến. Thời gian gần đây, đặc biệt là năm 2018 và năm 2019, tình hình tội phạm cố ý

gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng

Nam xảy ra với tính chất, mức độ ngày càng manh động, liều lĩnh, nguy hiểm, côn

đồ có sử dụng hung khí. Hậu quả làm thiệt hại đến sức khỏe con người, thiệt hại về

vật chất, có những vụ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng và đặt biệt nghiêm trọng.

Càng lúc, tội phạm này trên địa bàn càng gây ra nhiều dư luận, bức xúc trong quần

chúng nhân dân.

Bên cạnh đó, tìm hiểu về loại tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức

khỏe của người khác ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, chúng ta sẽ thấy được

loại tội này đang có sự phân hóa hết sức rõ nét được thể hiện qua bảng sau đây:

49

Bảng 2.3. Nhân thân các bị cáo đã bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét xử về cố ý gây

thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác giai đoạn 2013-2018

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI

NĂM Trình độ văn Tái phạm, tái Chưa hóa thấp (dưới Nữ phạm nguy thành niên 12) hiểm

25 2 10 3 2013

24 3 10 4 2014

26 3 12 6 2015

24 4 9 8 2016

26 4 11 7 2017

33 5 15 7 2018

158 67 35 21 TỔNG

Nguồn: Thống kê của Viện kiểm sát thị xã Điện Bàn, Quảng Nam

Có thể thấy, các vụ án cố ý gây thương tích ở Điện Bàn có sự phân hóa dựa

trên các đặc điểm nhân thân người phạm tội, cụ thể:

Về giới tính: Đa số người phạm tội là nam giới, do cấu trúc tâm sinh lý của

nữ giới thường thích hợp với những công việc có tính chất nhẹ nhàng, do đó khả

năng thực hiện tội phạm của nữ giới là rất hạn chế; tuy nhiên, hiện nay tội phạm cố

ý gây thương tích có người phạm tội là nữ giới đang có chiều hướng gia tăng, vì vậy

đây là vấn đề cần phải chú ý trong thời gian tới để có biện pháp phòng ngừa phù

hợp; trong các vụ cố ý gây thương tích có phụ nữ tham gia thì hầu hết các mâu

thuẫn phát sinh đều từ mâu thuẫn tình ái, làm ăn,... Đối tượng phạm tội là nam giới

chiếm tỷ lệ cao vì thường có tính khí nóng nãi, không kiềm chế được, thêm vào đó

lại có sức khỏe và hung hãn hơn nên rất dễ phạm tội.

Về độ tuổi: Trên 50% số vụ tội phạm cố ý gây thương tích, người phạm tội

có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi. Tuy nhiên, thành phần chưa thành niên có tỷ lệ phạm

tội không hề nhỏ. Nguyên nhân là do thành phần này chưa có kinh nghiệm sống, dễ

bị tác động từ môi trường xã hội, chưa biết kiềm chế trước các mâu thuẫn,... Cộng

50

thêm, các tác động tiêu cực từ người thành niên, xã hội, các phát triển của công

nghệ thông tin, thực phẩm… đã khiến thể chất, tâm lý, sinh lý của người chưa thành

niên bị mất cân đối, dẫn đến các hành vi lệch chuẩn và có xu hướng bạo lực. Đặc

biệt, tình trạng mê phim bạo lực rồi bắt chước làm theo đang là xu thế của giới trẻ

và gây ra không ít sai lầm đáng tiếc.

Về trình độ văn hóa: Qua theo dõi hầu hết các vụ cố ý gây thương tích thì

người phạm tội có trình độ văn hóa tương đối thấp, chủ yếu là trình độ văn hóa cấp

2. Do trình độ văn hóa thấp nên ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và hành động của

người phạm tội.

Về tiền án, tiền sự: Các đối tượng phạm tội hầu như chưa có tiền án, tiền sự.

Nhưng nếu đã có tiền án hoặc tiền sự thì thường rơi vào các trường hợp tái phạm,

tái phạm nguy hiểm. Điều đó cho thấy sự coi thường pháp luật của các đối tượng

phạm tội.

Về phương tiện, công cụ phạm tội rất đa dạng, chủ yếu là dao, mã tấu, gậy

gộc, các loại súng tự chế,… là những đồ vật gây sát thương cao mà người phạm tội

cố ý gây thương tích thường sử dụng.

Đáng lưu ý là trong thời gian gần đây người chưa thành niên tham gia vào

các vụ việc cố ý gây thương tích có xu hướng gia tăng. Những vụ gây gỗ, đánh nhau

giữa những học sinh cùng trường hay học sinh trường này gây sự với học sinh

trường khác xảy ra tại cổng trường có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt có trường hợp

học sinh đi học mang theo hung khí trong cặp để phòng vệ khi có ẩu đả xảy ra thì

sẵn sàng sử dụng.

Qua nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn Điện Bàn, có thể

đưa ra một số nguyên nhân làm phát sinh tội phạm cố ý gây thương tích như sau:

Một là, sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế

quốc tế bên cạnh những yếu tố tích cực còn phát sinh những vấn đề tiêu cực đã tác

động đáng kể đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là nguồn gốc phát sinh hoặc tạo

điều kiện cho tội phạm phát triển, trong đó có tội phạm cố ý gây thương tích. Đồng

thời làm phát sinh mâu thuẫn giữa con người và con người trong cạnh tranh làm ăn,

trong sinh hoạt đời thường,.. dẫn đến xãy ra xung đột, bạo lực.

51

Hai là, do ảnh hưởng ngày càng nhiều tình trạng phim, ảnh có tính chất bạo

lực xuất hiện trên những phương tiện thông tin đại chúng, nhất là game bạo lực đã

ảnh hưởng trực tiếp đến thanh thiếu niên, từ đó các em dễ sử dụng bạo lực, dao

kiếm để giải quyết mâu thuẫn cá nhân.

Ba là, do tình trạng đạo đức xã hội ngày càng xuống cấp, mặt khác việc lạm

dụng rượu, bia đã đến mức báo động, đối tượng sử dụng rượu bia cũng trẻ hóa,

trong lúc uống rượu bia dễ phát sinh mâu thuẫn; bị rượu, bia kích thích không kiềm

chế được bản thân đã dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn tại chỗ hoặc sau khi

uống rượu bia thì kéo bè phái đánh nhau. Sự du nhập của lối sống ích kỷ, tác động

hình thành bản tính coi thường người khác, nhất là một bộ phận thanh thiếu niên.

Bốn là, sự phối hợp giáo dục giữa Nhà trường và gia đình chưa thật sự chặt

chẽ, Nhà trường chưa trang bị đầy đủ kỹ năng sống, kiến thức pháp luật cho học

sinh, sinh viên. Bên cạnh đó một số gia đình do tập trung làm ăn, phát triển kinh tế

nên thiếu sự quan tâm, giáo dục con cái, buông lỏng sự quản lý, quá nuông chiều,

cung cấp tiền bạc cho con tiêu xài phung phí, không quan tâm đến việc học hành,

sinh hoạt của con, thiếu sự liên hệ với Nhà trường để quản lý con mình khi có biểu

hiện vi phạm, dẫn đến con cái bỏ học, tụ tập, ăn chơi phạm tội.

Năm là, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của các cơ quan Nhà nước

chưa thật sự hiệu quả, chưa đi sâu vào từng người dân, từng bộ phận Nhân dân, từ

đó chưa nâng cao được ý thức chấp hành pháp luật của người dân.

Sáu là, công tác hòa giải cấp cơ sở chưa thật sự được chú trọng, quan tâm

đúng mức, mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ Nhân dân chưa được phát hiện kịp

thời, giải quyết một cách triệt để, dứt điểm, mâu thuẫn kéo dài dẫn đến các hành vi

cố ý gây thương tích.

2.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản

2.4.1. Một số tồn tại, hạn chế

Qua thực tiễn xét xử cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho

người khác thời gian vừa qua cho thấy hầu hết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được đưa ra xét xử một cách công khai,

kịp thời, bảo đảm được sự công minh của luật pháp và công bằng xã hội. Tuy nhiên,

52

bên cạnh những ưu điểm thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót trong việc

quyết định hình phạt; việc thu thập chứng cứ; việc bảo đảm thủ tục tố tụng nên dẫn

đến sai phạm.

Về hình phạt, có lúc Tòa án áp dụng hình phạt vượt quá mức “dự trữ”, tức là

còn nặng so với mức độ, tính chất hành vi phạm tội. Vụ án sau đây là minh chứng

rõ nét nhất cho điều đó:

Tối ngày 26/01/2014, Bùi Đức D cùng với Nguyễn Trọng N, Lê Xuân Ng,

Nguyễn Bá H, Dương Văn H, Mai Đắc Đ sau khi uống rượu rủ nhau đi uống cà phê.

H và Đ không đi mà về nhà ngủ, những người còn lại vẫn đi uống. Đến 19 giờ cùng

ngày, D, N, Ng và H rủ nhau đến chơi tại đám cưới nhà người quen. Ngồi một lúc

chỉ còn N ngồi chơi thì có một nhóm thanh niên đến đòi đánh N vì giữa N và nhóm

thanh niên trên đã mâu thuẫn với nhau từ trước. Trong lúc đánh nhau, D đã rút dao

bấm mang theo trong người đâm anh Hoàng Tuấn M. Hậu quả anh M bị thủng đại

tràng, tỷ lệ thương tật 36% sức khỏe. Do vậy, TAND thị xã Điện Bàn đã xét xử sơ

thẩm bị cáo D về tội cố ý gây thương theo khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999 là có

căn cứ pháp lý, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, việc Tòa án thị xã Điện Bàn tuyên phạt bị cáo Bùi Đức D 5 năm 3

tháng tù là quá nghiêm khắc. Bởi lẽ, mặc dù bị cáo đã gây thương tích cho người bị

hại với tỷ lệ thương tật là 36% nhưng bị cáo là người có đặc điểm nhân thân tốt, bên

cạnh đó lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 46

BLHS. Ngoài ra, khi phạm tội, bị cáo là người chưa thành niên, do đó bị cáo đã tác

động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại để khắc phục, bị hại đã làm đơn xin bãi

nại, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã xem xét

lại phần hình sự của bản án sơ thẩm và sửa xuống còn 04 năm tù.

Về hoạt động chứng minh, có lẽ thiếu sót, sai lầm trong việc thu thập, đánh

giá chứng cứ là phổ biến nhất, đơn cử như vụ án sau:

Khoảng 13 giờ ngày 06/5/2014, do có mâu thuẫn từ trước nên khi biết vợ

chồng anh S đang trên đường đi từ thành phố Tam Kỳ về thị xã Điện Bàn, tỉnh

Quảng Nam thì Nguyễn Văn N rủ thêm Q, H, B, C và M đến khu vực bãi tắm Hà

My để đánh anh S. N dặn chỉ được đánh dọa để răn đe anh Sinh, nhưng không ai

53

nói gì rồi tất cả cùng đi. N gọi điện thoại bảo anh S gặp nói chuyện tại khu vực Hà

My . Anh S chở chị Ng đi gần đến khu vực đã hẹn thấy có nhiều người nên quay xe

chạy về phía Điện Ngọc. Nhóm của N điều khiển xe vượt lên xe anh S, H dùng côn

sắt đánh 01 nhát vào vai trái chị Ng, anh S điều khiển xe vượt lên, Q chở H tiếp tục

đuổi theo, H dùng côn sắt đánh 01 nhát vào thái dương chị Ng, 01 nhát trúng vào

mũ bảo hiểm xe mô tô anh S đang đội trên đầu rồi trượt xuống đạp vào cánh tay trái

chị Ng. Anh S điều khiển xe đi tiếp khoảng 20 mét thì đâm vào cột mốc lộ giới làm

xe mô tô bị đổ, anh S, chị Ng bị ngã xuống đường. Hậu quả: Anh S tử vong tại chỗ,

chị Ng bị thương, tổn hại 40% sức khỏe.

Tại bản án sơ thẩm, Tòa án thị xã Điện Bàn đã áp dụng khoản 3 Điều 104

(thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999), điểm

p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20, Điều 53 (thêm điểm b, khoản 1 Điều 46 đối

với H và C; thêm Điều 69, 74 và Điều 47 đối với B), Xử phạt: Nguyễn Văn N 11

năm tù; Q 10 năm tù; H 9 năm 6 tháng tù; C 5 năm tù; B 36 tháng tù.

Như vậy, hành vi của các bị cáo là gây thương tích dẫn đến chết người. Tuy

vậy, các bị cáo bị xét xử về hành vi cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104

(thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999) là bỏ

lọt hành vi gây thương tích dẫn đến chết người. Mặt khác, tài liệu có trong hồ sơ

còn một số nội dung mâu thuẫn chưa được làm rõ: CQĐT không thu giữ chiếc mũ

bảo hiểm anh S đội trên đầu là vật chứng của vụ án để xác định bị cáo khai nhận có

vụt một đến hai nhát vào mũ bảo hiểm của anh S, sau đó trượt vào vai trái chị Ng có

căn cứ hay không? Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của chị Ng do CQĐT thị

xã Điện Bàn lập không mô tả hết các thương tích trên người chị Ng, vì lẽ các dấu

vết trên thân thể chị Ng không phù hợp với các thương tích có trong biên bản giám

định. Cụ thể, biên bản giám định thể hiện: Vết bầm tím dọc lưng vai trái kích thước

6x3 cm, không rõ hình, dấu vết được tạo nên do tiếp xúc với vật có tiết diện rộng;

Vết trên vai trái có vết bầm tím xước da không rõ hình, chỗ rộng nhất 3,5 cm, chiều

hướng dấu vết mờ dần từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên; Vùng thái dương trái có

vết thương dài 6 cm, bờ vết thương nham nhở. Nhưng Giấy chứng nhận thương tích

ngày 04/10/2014 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam lại thể hiện: Chị Ng bị

54

thương vùng thái dương bên trái dài 07 cm, bờ nham nhở không tổn thương xương

sọ; cổ trái có vết bầm tím (04x03) cm; vết bầm tím dọc lưng vai trái (07x03) cm,

vùng ngực trái ấn đau chói; bụng mềm nắn đau hạ sườn trái, sây sát da bàn chân

trái; X quang gãy xương sườn I, II, III, IV, VI. Biên bản khám nghiệm phương tiện

(xe mô tô) liên quan đến vụ án không mô tả tình trạng, kỹ thuật của xe mô tô anh S

điều khiển; vị trí nào của xe mô tô do anh S điều khiển va quyệt vào cột mốc lộ giới

ven đường dẫn đến ngã xe.

Mặc dù vụ án trên có nhiều vi phạm trong việc điều tra, thu thập chứng cứ,

truy tố và xét xử như đã nêu ở trên, lẽ ra VKSND thị xã Điện Bàn phải kháng nghị

để hủy án, trả hồ sơ điều tra, truy tố, xét xử lại theo khoản 3 Điều 104 BLHS năm

1999 (hành vi gây thương tích dẫn đến chết người). Nhưng xét thấy, mức hình phạt

đối với các bị cáo đã phù hợp và đảm bảo niềm tin của nhân dân vào cơ quan tư

pháp nên VKSND thị xã Điện Bàn không kháng nghị mà trao đổi với các cơ quan

THTT khác để rút kinh nghiệm.

Về thủ tục tố tụng, vẫn còn tồn tại rất nhiều những thiếu sót, sai phạm dẫn

đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có thể lấy vụ án sau làm ví dụ:

Khoảng 17 giờ 25 phút ngày 04/9/2013, Nguyễn Quang V (sinh năm 2003,

con của Nguyễn Quang H) trên đường đi học đạp xe về nhà, khi đến cổng nhà ông

L thì Phan Đình T điều khiển xe mô tô va chạm vào xe đạp của cháu V làm cả

người và xe té ngã xuống đường. Về nhà cháu V có kể cho mẹ là Nguyễn Thị L biết

việc ngã xe. Đến 21 giờ 15 phút cùng ngày chị L qua nhà anh T để hỏi rõ sự việc thì

đã xảy ra cãi nhau và xô xát. Khi chị L đi ra về thì anh T chạy theo ôm chị L lại và

dùng tay, chân đấm đá vào mặt làm chị L ngã xuống đất và kêu cứu. Lúc này,

Nguyễn Quang H (chồng chị L) đi làm về trên tay đang cầm một con dao, nghe thấy

vợ kêu cứu nên liềm cầm dao chạy qua nhà anh T dùng dao chém anh T gây thương

tích làm đứt cổ tay phải, sau đó H bỏ về nhà. Anh T được mọi người đưa đi cấp cứu

và sau đó giám định thương tích tổn hại 41% sức khỏe. Ngày 05/9/2013, chị L đi

điều trị tại Bệnh viện Đà Nẵng và giám địch thương tích bị tổn hại 8% sức khỏe.

Vụ việc xảy ra từ tối ngày 04/9/2013, ngay sau đó H đã trình báo Công an

xã, thì có anh Lê Văn Q là công an viên đã đến làm việc nhưng không có tài liệu gì

55

thể hiện quá trình làm việc của anh Q, không lập biên bản xác định hiện trường.

Ngày 05/9/2012, H đã giao nộp con dao cho Điều tra viên Lê Đức A lập biên bản

tạm giữ con dao H khai dùng chém anh T, nhưng CQĐT thị xã Điện Bàn không tiến

hành khám nghiệm hiện trường để ghi nhận dấu vết máu…và thu giữ các vật chứng.

Bị can, bị hại và những người liên quan biết việc đều có quan hệ thân thuộc, nhưng

chỉ ghi lời khai một chiều, không thể hiện sự đấu tranh những nội dung khai không

hợp lý (như H khai chỉ quơ dao nhưng Thắng bị đứt gần lìa cổ bàn tay phải…) lời

khai còn rất nhiều mâu thuẫn nhưng chưa đối chất đầy đủ, chẳng hạn như lời khai

của H với vợ là chị L: Tại bản khai ngày 13/12/2013 chị L khai qua nhà nói chuyện

thì bị T đánh ngã nên bò vào trong nhà lấy điện thoại gọi cho anh em. Việc anh T và

H đánh nhau như thế nào chị không được chứng kiến. Trong khi đó lời khai của H

ngày 01/10/2013 lại khai là thấy vợ kêu la bên nhà T nên chạy qua thấy T đang ôm

vật vợ của H nằm dưới đất, nên H để dao bên cạnh rồi kéo chân của T ra thì bị T

đấm vào mặt nên mới dùng dao chém T. Việc điều tra cũng chưa mở rộng những

nhân chứng khách quan như: hàng xóm và người biết sự việc khác (nếu có), chưa

ghi lời khai những người biết việc như con của anh T. Do vậy, Kết luận điều tra còn

sơ sài, nêu chung chung, trong khi tài liệu điều tra chưa chứng minh, làm rõ các nội

dung để xác định hành vi đánh chị L của anh Phan Đình T có tính chất côn đồ hay

không? Và để xác định đúng tội danh của bị can Nguyễn Quang H thì chưa làm rõ

một số tình tiết khi bị can H sang nhà anh T, anh T có đang vật đánh chị L không?

H có bị anh T dùng tay đấm vào mặt hay không?...

Chính vì sai phạm, thiếu sót trong quá trình điều tra cũng như kiểm sát điều

tra, mà vụ án đã kết luận điều tra nhưng chưa có đầy đủ các căn cứ chính xác để xác

định tội danh của Nguyễn Quang H và hành vi của Phan Đình T có phạm tội hay

không. Do đó, vụ án đã được Tòa án thị xã Điện Bàn yêu cầu trả hồ sơ để CQĐT

công an thị xã Điện Bàn làm rõ những nội dung trên và khắc phục những vi phạm

đã xảy ra.

Về phần dân sự, TAND thị xã Điện Bàn vẫn còn sai sót trong việc xem xét

đầy đủ các vấn đề như ai là người phải bồi thường thiệt hại, người được nhận bồi

thường, mức bồi thường, hóa đơn hợp pháp, các khoản yêu cầu bồi thường thiệt hại

56

về sức khỏe, tổn thất về tinh thần...

Đơn cử, vụ án Nguyễn Văn S và 3 bị cáo khác bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét

xử về tội cố ý gây thương tích cho anh Hoàng Văn N. Trong quá trình điều tra, các

bên trong vụ án đã thỏa thuận bồi thường 100 triệu đồng nhưng không xác định cụ

thể thỏa thuận bồi thường khoản tiền gì và không thu thập hóa đơn chứng minh thiệt

hại nên khi bị hại kháng cáo thay đổi thỏa thuận và yêu cầu bồi thường thêm 100

triệu đồng thì cấp phúc thẩm không có căn cứ gì giải quyết yêu cầu kháng cáo của

bị hại. Do đó, Tòa án tỉnh Quảng Nam đã hủy phần trách nhiệm dân sự trong bản án

hình sự sơ thẩm.

Như vậy, với đặc thù xét xử cả phần dân sự trong VAHS, Hội đồng xét xử và

đặc biệt là Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa gặp không ít khó khăn trong xử lý các

vấn đề dân sự, đó cũng là yếu tố dẫn đến các sai lầm.

Một tồn tại nữa là tình trạng bị hại trong vụ án từ chối giám định thương tích,

từ đó gây khó khăn cho các cơ quan THTT trong việc xử lý vụ án đúng quy định

pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm.

Vụ án “Cố ý gây thương tích” xảy ra ngày ngày 27/4/2018 tại xã Điện Minh,

thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nguyễn Văn T cùng em ruột là Nguyễn Minh V

đến sân bóng chuyền thì gặp Hồ Văn H. Do có mâu thuẫn từ trước nên hai bên cãi

vã rồi xông vào đánh nhau; H bỏ chạy đến nhà bạn là Trương Văn K nói bị anh em

T đuổi đánh nên nhờ K dẫn về. Khi K dẫn Tân đi được khoảng 150m thì gặp anh

em T và Nguyễn Văn Tr. H chỉ tay nói “có giỏi thì đánh tao nữa đi”. Nghe vậy, T

cùng V, Tr chạy đến thì H và K bỏ chạy. K chạy vào một nhà ở gần đó lấy 01 con

dao chạy ra. K cầm dao xông vào chém T trúng mặt và tay trái. Ngày 28/4/2018,

Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam kết luận tỷ lệ thương tích của T là 19% nhưng bị

hại đang trong thời gian còn điều trị, do đó chỉ đánh giá tạm thời. Vì vậy, đề nghị

CQĐT Công an thị xã Điện Bàn trưng cầu giám định bổ sung sau khi đã điều trị ổn

định.

Ngày 01/6/2018 CQĐT đã trưng cầu giám định bổ sung đối với Nguyễn Văn

T. Ngày 11/6/2010, Trung tâm pháp y tỉnh P kết luận tỷ lệ thương tích của Nguyễn

Văn Tịnh là 13%. Trên cơ sở đó, VKSND thị xã Điện Bàn đã truy tố K về tội “Cố ý

57

gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS (dùng hung khí nguy

hiểm). Ngày 13/01/2019, TAND Điện Bàn đưa vụ án ra xét xử. Sau khi nghị án,

HĐXX đã quyết định trưng cầu giám định lại đối với người bị hại. Kết quả giám

định lại, tỷ lệ thương tích của bị hại giảm xuống còn 09%. Tuy nhiên, người bị hại

đã có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo trước ngày mở phiên tòa nên HĐXX đã

ra quyết định đình chỉ vụ án. Vì cho rằng Tòa án trưng cầu giám định không đúng

quy định của BLTTHS (không triệu tập người giám định tham gia tố tụng mà quyết

định trưng cầu giám định lại là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng) nên Viện

kiểm sát đã kháng nghị, hủy quyết định đình chỉ vụ án để điều tra lại. Quá trình điều

tra lại, do người bị hại từ chối giám định lại và sau đó bị hại đã không có mặt ở địa

phương nên việc giám định chưa thể tiến hành được, đã ảnh hưởng đến việc điều

tra, giải quyết vụ án.

2.4.2. Các nguyên nhân cơ bản

Như vậy, từ thực tiễn xét xử nói trên tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng

Nam, có thể nêu ra một số nguyên nhân cơ bản của những vi phạm, sai lầm và tồn tại

nêu trên như sau:

Một là, nguyên nhân khách quan của thực trạng nêu trên là do:

- Đặc thù của án gây thương tích là dựa trên thương tích trên người của bị hại

để xác định các vấn đề cần chứng minh. Thực tiễn cho thấy, các vụ án cố ý gây

thương tích xảy ra rất phức tạp, có nhiều vụ án số lượng người tham gia rất đông,

xảy ra ở nhiều nơi vắng vẻ, ít người, do đó, không thu giữ được hung khí gây án và

trên thân thể bị hại có nhiều vết thương với cơ chế gây nên thương tích cũng rất

khác nhau. Trong những trường hợp như thế, rất khó xác định ai đã gây nên vết

thương cụ thể nào cho bị hại, cũng như chứng minh về mặt tố tụng, từ đó có thể

việc định tội danh và quyết định hình phạt chưa chính xác;

- Một số quy định của pháp luật liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam và hệ thống văn

bản hướng dẫn còn chưa hợp lý và chưa được hướng dẫn, giải thích cụ thể, rõ ràng

dẫn đến nhận thức chưa thống nhất ngay trong nội bộ các cơ quan THTT và giữa

các cơ quan THTT với người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, từ đó

58

cũng ảnh hưởng đến việc định tội danh và quyết định hình phạt chính xác;

- Việc thực hiện giám định pháp y thương tích ở thời điểm khác nhau cho kết

quả tỷ lệ tổn hại chênh lệch rất lớn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án do chưa

có quy định xác định thời điểm giám định hoặc người bị hại không đi giám định do

bị đe dọa, mua chuộc, khống chế, gây khó khăn cho tổ chức giám định và cơ quan

tố tụng; giám định kỹ thuật số và điện tử trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự chưa thực

sự theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ và phương thức, thủ đoạn hoạt

động của tội phạm.

- Quy định của BLTTHS về việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại

nếu rơi vào trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe tại khoản 1 Điều 134

BLHS gây khó khăn cho quá trình giám định để có kết quả thương tích, do đó

không có cơ sở để giải quyết vụ án.

- Công tác xét xử các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác phụ thuộc nhiều vào kết quả hoạt động giám định thương tật

song trên thực tế việc giám định tỷ lệ thương tật của bị hại không phải lúc nào cũng

thuận lợi, nhất là trong các vụ việc người bị hại bị đa chấn thương hay những vụ bị

hại không được đưa đi giám định kịp thời hoặc bị hại do bị mua chuộc, cưỡng ép nên

không đi giám định...

Hai là, nguyên nhân chủ quan của thực trạng nói trên là do:

- Do nhận thức pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách

nhiệm trong công tác của một số cán bộ tư pháp trong các cơ quan THTT còn hạn

chế, chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

Điều này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các sai sót trong định tội danh, quyết

định hình phạt và các vi phạm, sai lầm đã nêu trên;

- Còn một bộ phận cán bộ, công chức còn thiếu ý thức cầu thị, phấn đấu tự

học tập, rèn luyện tư cách, phẩm chất đạo đức, kỷ luật công vụ nên hiệu quả, chất

lượng công tác còn thấp, từ đó đã làm ảnh hưởng đến công tác xét xử tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

- Bên cạnh đó, các cơ quan tư pháp chưa kịp thời, chủ động đề ra các biện

pháp có hiệu quả để nâng cao chất lượng công tác, khắc phục những thiếu sót,

59

khuyết điểm nhất là trong công tác xét xử... trong đó có tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó làm giảm hiệu quả công tác

đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Tiểu kết chương 2

Đánh giá, nghiên cứu các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trên phương diện chủ thể, khách thể, mặt khách

quan, mặt chủ quan là nền tảng cở sở cốt yếu, quan trọng để đưa ra quy định cụ thể

của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đây là

tội phạm thường xuyên xảy ra thể hiện ở nhiều hành vi khách quan đa dạng, phức

tạp trong đời sống xã hội. Do đó, để củng cố cơ sở vững chắc để xây dựng quy định

cụ thể tác giả đã lập luận, dẫn chứng các tình huống thực tế nhằm làm sang tỏ các

vấn đề pháp lý liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác được pháp luật hình sự quy định qua các thời kỳ, dưới tên gọi khác nhau đã

dần được hoàn thiện hơn.

Qua thực tiễn xét xử cho thấy, vẫn còn một số vi phạm, sai lầm liên quan đến

định tội danh, quyết định hình phạt, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ

án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác làm ảnh

hưởng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân đòi hỏi phải có kiến nghị, giải pháp phù hợp để khắc phục. Tất cả điều này

do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Mặc dù BLHS Việt

Nam năm 2015 đã khắc phục một số tồn tại, bất cập trong thực tiễn xét xử và về kỹ

thuật lập pháp, tuy nhiên, vẫn còn nhiều nội dung cần sửa đổi, bổ sung hoặc có văn

bản hướng dẫn thi hành.

60

CHƯƠNG 3

TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC

KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

3.1. Yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự

năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác

Đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn, ngày 27/11/2015, BLHS năm

2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua với nhiều thay đổi đáng kể, nhưng vì có

quá nhiều sai sót về kỹ thuật lập pháp nên BLHS đã tạm lùi thời gian thi hành [34].

Sau đó, BLHS năm 2015 đã được cập nhật, chỉnh lý theo Luật số 12/2017/QH14

sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số

41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật này cùng một số luật có

liên quan. Tuy nhiên, khi BLHS có hiệu lực vào ngày 01/01/2018, các nội dung

được chỉnh lý vẫn cho thấy những bất cập, vướng mắc gây khó khăn cho hoạt động

áp dụng.

Vì vậy, việc đặt ra định hướng để tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS

năm 2015 nói chung cũng như về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác nói riêng là yêu cầu hết sức cần thiết và cấp bách. Qua đó, tạo

ra tiền đề quan trọng để hoàn thiện LHS bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống

tội phạm trước tình hình mới của đất nước.

3.1.1. Về mặt thực tiễn

Hiện nay, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng trở nên phổ biến,

kéo theo đó là hàng loạt các khó khăn, thách thức của các loại tội phạm mới quy

mô lớn và vô cùng nguy hiểm. Để tiếp cận với các nước trên thế giới, Việt Nam đã

tích cực tham gia nhiều hiệp định, hiệp ước, thỏa thuận quốc tế vì mục tiêu hòa

bình, hợp tác và phát triển.

Ở góc độ hội nhập, việc đấu tranh phòng, chống tội phạm không còn là

61

nhiệm vụ của riêng một nước nào trên thế giới. Các quốc gia buộc phải hợp tác

chặt chẽ thông qua việc ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế trong lĩnh

vực này. Một trong số những nội dung quan trọng trong các điều ước đó là sự

cam kết dành cho nhau sự tương trợ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, cố

nhiên là phải trên tinh thần của pháp luật. Hiện nay, các hợp tác quốc tế luôn đòi

hỏi phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm

về sức khỏe của người khác. Về vấn đề này, GS.TSKH. Lê Văn Cảm hoàn toàn

đúng khi nhận định: Việc bảo vệ các quyền con người đã và đang là vấn đề trung

tâm và có ý nghĩa thời đại, vì nó không chỉ là vấn đề mang tính lịch sử từ bao đời

nay, mà còn mang tính thời sự quốc tế, không những là mục tiêu cơ bản trong cuộc

đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, tự do, dân chủ và công lý, mà còn là mối

quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên toàn trái đất [3, tr.15]. Vì thế, rõ

ràng con người, dù trong điều kiện nào, thì con người vẫn có nhu cầu chung về các

quyền cơ bản nhất như: quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, tính

mạng, danh dự, nhân phẩm của con người, quyền sở hữu, quyền tự do... [7, tr.16].

Vì vậy, để tiệm cận hơn với văn hóa- pháp luật các nước và góp phần vào công

cuộc giữ vững hòa bình, an ninh chính trị khu vực cũng như trên thế giới, Việt Nam

cần phải hoàn thiện mình, hoàn thiện pháp luật mà trước hết là các quy định của

BLHS theo hướng bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người,

trong đó có quyền được bảo vệ về sức khỏe.

Theo số liệu thống kê tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác tại Điện

Bàn, Quảng Nam không thể cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh nhất về tình hình chung

của Việt Nam hiện nay, song các con số đó cho thấy tình trạng tính chất và mức độ

nguy hiểm của tội cố ý gây thương tích đang được gia tăng. Đây cũng là thực trạng

báo động về tình hình tội phạm manh động, sử dụng bạo lực để xâm phạm đến sức

khỏe của người khác, dẫn đến gây ảnh hưởng xấu cho tình hình an ninh, trật tự, an

toàn xã hội. Tuy vậy, nhìn chung, loại tội phạm xâm phạm sức khỏe đã được xét xử

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội

phạm. Điều này đã góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

62

nói chung và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe nói riêng. Qua đó, đem

lại sự bình yên, ổn định cho an ninh chính trị, góp phần tuyên truyền, phổ biến giáo

dục pháp luật ngày càng rộng rãi trong xã hội.

3.1.2. Về mặt lý luận

Trong và ngoài nước, hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, qua đó hình

thành nên hệ thống lý thuyết về tội phạm, cấu thành tội phạm, TNHS và hình

phạt. Theo đó, các vấn đề chung của LHS và của riêng nhóm các tội xâm phạm

sức khỏe của người khác... đã được tác giả sử dụng làm cơ sở khoa học để triển

khai nghiên cứu vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác ở nhiều khía cạnh, bằng nhiều phương pháp khác nhau

lại tạo ra các quan điểm, lập trường có phần khác biệt. Do đó, tính tổng thể và sự

liên kết đồng bộ dưới góc độ khoa học luật hình sự là chưa có. Do đó, việc tiếp

tục nghiên cứu làm rõ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác về mặt lý luận là hết sức cần thiết và có ý nghĩa khoa học quan trọng.

Hơn nữa, nếu đi sâu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chúng ta vẫn tìm thấy

giữa lý luận và thực tiễn về loại tội này dường như vẫn tồn tại một độ “vênh” nhất

định. Theo đó, muốn hoàn thiện các quy định của BLHS năm 2015 để đáp ứng được

sự vận động của thực tiễn thì nhất thiết phải xây dựng một nền tảng lý luận vững

chắc nhưng phải có tính linh hoạt. Nghĩa là, lý luận mang tính nguyên tắc, quy luật

song phải được sử dụng kết hợp hài hòa, không vì chạy theo thực tiễn mà bỏ qua

hoặc đi ngược lại quy luật khách quan. Nhưng cũng không thể vì lý luận mà cứng

nhắc không chịu thay đổi, không chịu vận động.

Tóm lại, việc nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác cũng góp phần làm giàu cho kho lý luận pháp lý hình sự. Mặt

khác, nó tạo ra nền tảng vững chắc để hoàn thiện các quy định liên quan về tội cố ý

63

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS, từ đó,

các quy định này trở nên khả thi và dễ đi vào đời sống xã hội hơn.

3.1.3. Về mặt lập pháp

Qua các thời kỳ, bên cạnh việc tự thân vận động, cộng thêm sự tiếp thu các

kinh nghiệm quốc tế, nền lập pháp hình sự nước ta ngày càng cấp tiến. Đặc biệt, đối

với các tội xâm phạm khách thể là sức khỏe của con người, trong đó có tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS luôn được

sự quan tâm của các nhà làm luật. Điều đó thể hiện qua chiến lược cải cách tư pháp

của Việt Nam, quy trình, kỹ thuật thay đổi các quy định có liên quan đến tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo hướng ngày

càng hoàn thiện hơn.

Có thể nói, cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn vô cùng quan

trọng của Đảng và Nhà nước ta thể hiện sự quan tâm đối với hoạt động tư pháp nói

chung và tư pháp hình sự nói riêng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 đã

nhấn mạnh mục tiêu của cải cách tư pháp là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ

nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà

trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Để thực

hiện các mục tiêu lớn nói trên, Nghị quyết đã đề ra các phương hướng: “Hoàn thiện

chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư

pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ

quyền con người”. [2]

Xét về bản chất, pháp luật cuối cùng cũng là vì con người, vì thế, mục tiêu

của cải cách tư pháp không phải nhằm đến cái gì khác là bảo đảm quyền con người,

tất nhiên trong đó bao hàm cả quyền được bảo vệ về sức khỏe. Các cơ quan tư pháp,

lại bằng những quy định, chế tài được xây dựng trong pháp luật làm thành công cụ,

phương tiện hữu hiệu để phòng ngừa, đấu tranh chống lại các hành vi xâm hại sức

64

khỏe của người khác và bảo vệ bị hại. Nhưng để có những quy định cụ thể trong

BLHS, trước hết Nhà nước phải xây dựng những CSHS khoa học, bao quát. Nói

một cách dễ hiểu, CSHS là “chính sách của Nhà nước, là những quan điểm, tư

tưởng chủ đạo của Nhà nước trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm” [7,

tr.51]. CSHS cho phép chúng ta phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật

khác; xác định tính chất và mức độ của việc tác động bằng các hình thức TNHS và

gắn với đó là các loại hình phạt, mức độ các chế tài tương ứng. Đặc biệt, CSHS

vạch rõ con đường hình thành ý thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho công dân

thông qua việc sử dụng LHS [28, tr.182].

Để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về sức

khỏe nói riêng trước tội phạm thì các nhà làm luật phải xây dựng các CSHS dựa

trên các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà

nước. Bên cạnh đó, họ cũng không thể bỏ qua việc xem xét đến các điều kiện lịch

sử cũng như thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Từ đó, chúng ta mới có thể

sử dụng đúng và đủ pháp luật hình sự [10, tr.18]. Có như vậy, mục đích cuối cùng

của hình phạt trong BLHS mới phát huy hết công năng của mình. Hình phạt đó, xét

đến cùng, không phải là để trừng trị người phạm tội đã gây ra thương tích hoặc tổn

hại sức khỏe cho người khác. Mà hình phạt là thứ sinh ra để phòng ngừa hành vi

xâm hại diễn ra, bảo đảm và bảo vệ sức khỏe của con người trên phương diện của

công bằng xã hội.

Cùng với quá trình cải cách tư pháp, BLHS của Việt Nam không ngừng được

sửa đổi, bổ sung, thay thế để đáp ứng yêu cầu cải cách, yêu cầu của thời đại. Tuy

nhiên, tiếp nối BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 ra đời mặc dù mang hơi hướng

tiến bộ của kỹ thuật lập pháp như phân hóa cụ thể hơn TNHS, định lượng hậu quả

của tội phạm... nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập và phải sửa đổi, bổ sung vào năm

2017.

Từ những phân tích trên, có thể nói rằng một trong những yêu cầu cấp thiết

của lập pháp hiện nay là tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015, trong đó

có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Để làm

65

được như vậy, quá trình lập pháp yêu cầu phải tuân thủ những quan điểm, tư tưởng

của CSHS, bảo đảm hài hòa yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, trong đó

có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác đã được Hiến pháp và

LHS Việt Nam bảo vệ.

3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

3.2.1. Nhận xét quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Có thể nói, BLHS năm 2015 ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong

lập pháp hình sự, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội

phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của

Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát

triển đúng hướng, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Ngày 27/11/2015, Quốc hội đã chính thức thông qua BLHS năm 2015 nhưng

sau đó vì một số lý do nên tạm hoãn thi hành [18]. BLHS năm 2015 có kết cấu 3

phần với 426 điều luật. Trong đó, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác bao

gồm 7 điều và được quy định tại các Điều 134 đến Điều 140, tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được xếp đầu nhóm tại Điều

134. Điều này cho thấy đối với các hành vi xâm hại về sức khỏe thì đây là hành vi

căn bản và phổ biến nhất.

So với BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009, BLHS năm 2015 đã có nhiều

thay đổi nhằm khắc phục được các tồn tại, hạn chế. Riêng về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134

BLHS năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung như sau:

Thứ nhất, sửa cụm từ “thương tật” thành “tổn thương cơ thể” cho chính xác

(các khoản 1-5); đổi từ “nhiều” thành “hai” cho chính xác. Về mặt khoa học, hành

vi gây thương tích sẽ dẫn đến thương tích hoặc tổn hại (tổn thương) cho cơ thể bị

hại. Vì vậy, việc sửa lại cụm từ “thương tật” thành “tổn thương cơ thể” như trên cho

thống nhất là hoàn toàn phù hợp. Điều này cũng tránh nhận thức cho rằng, hành vi

66

gây thương tích tức là gây ra “tật” trên người nạn nhân, cách hiểu này là chưa đầy

đủ. Còn việc đổi từ “nhiều” thành “hai” cũng để thống nhất nhận thức, định lượng

được chính xác, rõ ràng hơn, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng.

Thứ hai, bổ sung tình tiết “Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy

hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” (điểm b

khoản 1). Thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp người phạm tội sử dụng a-xít

hoặc hóa chất nguy hiểm khác như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ... để gây thương tích

hoặc tổn hại sức khỏe. Vì vậy, việc bổ sung tình tiết này là phù hợp với thực tiễn và

đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm gây thương tích.

Thứ ba, cách khung hình phạt để bảo đảm phân hóa TNHS được triệt để hơn,

từ đó người có thẩm quyền áp dụng cũng tùy tính chất, mức độ của hành vi và các

tình tiết liên quan để áp dụng hình phạt sao tương xứng nhất. Bên cạnh đó, điều luật

cũng bổ sung khoản 6 với 3 trường hợp phạm tội bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm

hoặc tù chung thân. Đặc biệt, bổ sung khoản 7 về chuẩn bị phạm tội, thì người phạm

tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Việc đưa chế định chuẩn bị phạm tội vào từng điều luật cụ thể đã tạo điều kiện

thuận lợi cho việc áp dụng, đồng thời cũng phân hóa trách nhiệm của người chuẩn

bị phạm tội. Qua đó, cho thấy sự công bằng và tính nhân đạo của Nhà nước ta thể

hiện ngay trong điều luật cụ thể.

Như vậy, những điểm mới cụ thể trên của BLHS năm 2015 và sau đó là Luật

sửa đổi năm 2017 đã cơ bản khắc phục được các tồn tại, hạn chế trong kỹ thuật lập

pháp và thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác trong BLHS năm 1999. Từ đó, đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho

việc phòng ngừa, xử lý loại tội phạm này trên thực tế. Tuy vậy, cùng với sự phát

triển không ngừng của kinh tế - xã hội - văn hóa, tội phạm cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trở nên ngày càng phổ biến, phức tạp

và manh động. Vì thế, trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời kỳ

mới, thì việc tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017

về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý

nghĩa vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết.

67

3.2.2. Nội dung hoàn thiện cụ thể

Về cơ bản, các tồn tại, vướng mắc về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người đã được BLHS năm 2015 khắc phục. Tuy nhiên, thực

tiễn áp dụng quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 vẫn cho

thấy những hạn chế vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện.

Thứ nhất, khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung theo

hướng:

...

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc từ 3% đến dưới 11% nhưng

thuộc một trong các trường hợp sau đây,..

Sửa đổi trên đáp ứng thực tiễn xét xử và cân nhắc TNHS trong một số trường

hợp mà thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của nạn nhân nhỏ (dưới 11%) và đi kèm

với các điều kiện đặc biệt khác (hung khí nguy hiểm; phạm tội 2 lần trở lên). Chính

quy định rõ ràng tỷ lệ thương tích từ 3% đến dưới 11% sẽ tránh trường hợp phải

xem xét TNHS khi thương tích không đáng kể và có thể hòa giải được. Việc quy

định chặt chẽ vấn đề này sẽ tạo điều kiện cho các bên ngồi lại để giải quyết mâu

thuẫn, qua đó giảm nhẹ áp lực cho công tác tư pháp.

Thứ hai, bổ sung tình tiết “Gây cố tật cho nạn nhân” vào khoản 1 Điều 134

BLHS năm 2015:

Qua nghiên cứu thực tiễn, thấy rằng khi có hành vi gây thương tích thì rất có

khả năng sẽ để lại “cố tật” cho nạn nhân. Nếu dựa theo sự tồn tại của thương tật về

mặt thời gian, chúng ta có thể chia thương tật thành hai loại cơ bản, đó là thương tật

tạm thời và thương tật vĩnh viễn. Dưới sự tác động của y học, các thương tật có khả

năng phục hồi hoàn toàn khác nhau. Chính vì vậy, có trường hợp tỷ lệ thương tích

không cao nhưng “tật” lại rất khó lành, dai dẳng, có thể đi đến cuối đời của nạn nhân.

Các nhà làm luật Việt Nam nhận thức được vấn đề trên và đưa quy định liên

quan đến tình tiết gây cố tật cho nạn nhận vào trong BLHS năm 1999, sửa đổi năm

1999 và tiếp đó là BLHS năm 2015. Tuy vậy, các nhà lập pháp chỉ dừng lại ở chỗ

68

thừa nhận gây cố tật “nhẹ” mà không đề cập gì đến trường hợp gây cố tật “nặng”.

Chính điều này đã tạo ra các quan điểm nhận thức khác nhau về vấn đề như thế nào

là cố tật “nhẹ” và như thế nào là cố tật “nặng”. Đó là lý do ngày 17/4/2003, Hội

đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP để giải thích

“Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” là để lại trạng thái bất thường, không thể chữa được

cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11% khi thuộc một

trong các trường hợp: làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm mất chức năng

một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt động của một bộ phận

cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân... [17, tr.140].

Mặc dù đã hướng dẫn như vậy, nhưng để xác định thế nào là giảm chức năng hoạt

động cơ thể hay ảnh hưởng đến thẩm mỹ thì có lẽ rất nhiều thương tích được liệt kê

vào tình tiết gây cố tật nhẹ cho nạn nhân. Có lẽ vì vậy mà Luật sửa đổi BLHS năm

2015 đã bỏ đi tình tiết này. Song thực tiễn đòi hỏi phải xử lý các trường hợp gây cố

tật cho nạn nhân. Do đó, thiết nghĩ việc quy định “Gây cố tật cho nạn nhân” trong

khoản 1 Điều 134 BLHS hiện hành là phù hợp và cần thiết.

3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan

3.3.1. Bộ luật tố tụng hình sự

Trong vụ án cố ý gây thương tích, việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người

bị hại chỉ phát sinh khi có căn cứ xác định hành vi của người phạm tội rơi vào

khoản 1 Điều 134 BLHS. Cho nên, khi thủ tục giám định chưa được thực hiện thì

quyền yêu cầu của người bị hại cũng chưa phát sinh. Ngoài ra, nếu sau khi giám

định mà hành vi phạm tội thuộc các khoản tăng nặng của Điều 134 BLHS thì việc

khởi tố vụ án không phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại. Nghĩa vụ của người bị

hại trong trường hợp này giống như tất cả các công dân khác là phải thực hiện nghĩa

vụ tham gia phòng chống tội phạm, nghĩa là họ phải thực hiện các yêu cầu của

CQĐT theo luật định, trong đó phải tạo điều kiện để cơ quan chức năng thực hiện

việc giám định thương tích làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.

Mặt khác, người bị hại có thể bị truy cứu TNHS khi họ từ chối khai báo mà

không có lý do chính đáng. Việc từ chối khai báo rõ ràng khác với việc từ chối giám

69

định. Tác giả cho rằng, từ chối khai báo không nghiêm trọng bằng từ chối giám định

bởi vì nếu người bị hại từ chối khai báo thì cơ quan, người THTT có thể sử dụng tài

liệu, chứng cứ từ các nguồn chứng cứ khác như lời khai của người tham gia tố tụng

khác, vật chứng…, nhưng việc người bị hại từ chối giám định thì rõ ràng căn cứ để

khởi tố vụ án không được đảm bảo, chưa nói đến việc không xử lý được TNHS của

người phạm tội. Cho nên, bị hại từ chối giám định nếu không có lý do chính đáng

phải được xem là hành vi cản trở hoạt động của TTHS. Vì vậy, đề nghị bổ sung

khoản 13 vào Điều 466 BLTTHS:

“Điều 466. Xử lý người có hành vi cản trở hoạt động tố tụng của cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng

...

13. Bị hại từ chối giám định thương tích không có lý do chính đáng trong

trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại.”

3.3.2. Luật Giám định tư pháp

Đi liền với hoạt động TTHS, giám định tư pháp đóng vai trò quan trọng

trong việc xử lý các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác. Tuy nhiên, việc thực hiện giám định chậm trễ, cho ra nhiều kết quả,.. đã

gây không ít khó khăn cho việc giải quyết vụ án, xử lý người phạm tội và làm ảnh

hưởng đến lợi ích hợp pháp của bị hại. Do đó, Luật Giám định tư pháp cần phải

được điều chỉnh theo hướng sau:

Thứ nhất, mở rộng phạm vi hoạt động giám định tư pháp thông qua việc sửa

đổi, mở rộng quyền tự yêu cầu giám định của người tham gia tố tụng để bảo đảm

điều kiện, phương tiện tìm kiếm chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích

của họ khi tham gia tố tụng theo tinh thần mở rộng dân chủ, tăng cường tranh tụng

tại tòa.

Thứ hai, bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về thời hạn giám định, quy

định trách nhiệm của các Bộ, ngành chuyên quản lĩnh vực giám định trong việc ấn

định thời hạn giám định cụ thể đối với từng loại việc giám định trong quy trình

giám định để bảo đảm tính đồng bộ, tương thích với quy định của pháp luật tố tụng,

70

đặc biệt là khắc phục tình trạng chậm trễ trong tiếp nhận, thực hiện giám định trong

thời gian qua, gây ảnh hưởng đến tiến độ xử lý các vụ án, vụ việc.

Thứ ba, bổ sung quy định mang tính phân cấp trong tiếp nhận trưng cầu và

thực hiện giám định ở cấp Trung ương và cấp tỉnh để khắc phục tình trạng đùn đẩy,

né tránh trong tiếp nhận và thực hiện giám định ở nhiều địa phương và Bộ, ngành

chủ quản.

3.4. Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm

2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

3.4.1. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và hướng dẫn thi

hành

Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là chiếc cầu nối pháp

luật với đời sống thực tiễn. Nó là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và

có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà

nước pháp quyền. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác này, Đảng

và Nhà nước ta luôn quan tâm đến cách thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp

luật cho nhân dân, đặc biệt là các đối tượng đặc thù.

Hơn nữa, sức khỏe là động lực cho quá trình tạo ra các giá trị vật chất, tinh

thần của xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta càng coi trọng việc phổ biến, giáo

dục pháp luật liên quan đến việc bảo đảm, bảo vệ quyền bất khả về sức khỏe, trong

đó, pháp luật hình sự là ưu tiên hàng đầu. Với tính cách là biện pháp đưa BLHS đến

với cuộc sống, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật đem đến cho

mọi người, mọi giai tầng trong xã hội, kể cả phạm nhân đang cải tạo tại các trại

giam hiểu được giá trị của sức khỏe và thái độ, ý thức tôn trọng sức khỏe của chính

mình và của người khác.

Qua thực tiễn giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác, có thể thấy nguyên nhân của hầu hết các vụ phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là do tình trạng một

bộ phận thanh thiếu niên có ý thức pháp luật kém, nhận thức không rõ về yêu cầu

của pháp luật đối với quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. Vì

71

vậy, nhiệm vụ của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải sâu

sát đến từng cá nhân trong xã hội, nhất là các đối tượng yếu thế, đối tượng thanh

thiếu niên và các đối tượng khó khăn không có điều kiện tiệm cận với thông tin văn

hóa - pháp luật. Làm được như vậy, pháp luật nói chung và BLHS nói riêng sẽ đến

gần hơn với các cá nhân, giúp họ thấu suốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình và

quyền lợi của mình, từ đó mà ứng xử phù hợp hơn, biết tự kiềm chế bản thân hơn.

Như vậy các trường hợp xô xát gây thương tích, hành hạ người khác, dùng hung khí

nguy hiểm gây thương tích... sẽ giảm dần cả về số lượng cũng như về tính chất,

mức độ.

Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật, thiết

nghĩ cần phải thực hiện các giải pháp sau đây:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp trong công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó đặc biệt chú ý đến các quy định của

BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Các cơ quan công quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức khác phải

phối hợp với nhau để thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật một cách

thường xuyên, kịp thời. Trong đó, cần lưu ý phát huy tính chủ động của tổ chức gần

dân nhất - đó là thôn, tổ dân phố. Bởi vì đây là những đơn vị cơ sở nắm chắc nhất

về những thông tin xoay quanh một cá nhân tại khu dân cư họ sinh sống (tính cách,

gia đình, kinh tế, các mối quan hệ, tình hình chấp hành các quy định pháp luật). Từ

đó việc tham mưu cũng như tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình phổ biến,

giáo dục pháp luật ở từng địa phương sẽ thuận lợi hơn, dễ tạo sự chuyển biến tích

cực về nhận thức, qua đó góp phần hạn chế đến mức thấp nhất tình hình tội phạm

xâm phạm sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn.

Hai là, nâng cao sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác tuyên

truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật. Ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng nam giữa

Tòa án và VKS luôn có sự phối hợp trong công tác thực hiện các phiên tòa rút kinh

nghiệm. Ở đó, không chỉ có Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký... rút ra các kinh

nghiệm, các bài học về nghiệp vụ mà xa hơn, phiên tòa được tổ chức công khai cho

72

toàn thể nhân dân rút kinh nghiệm. Thông qua phiên tòa, người tham gia, tham dự,

những người đọc thông tin trên báo, cổng thông tin điện tử có thể tìm đến các thông

tin pháp luật về gây thương tích, qua đó thu nhận những nhận thức pháp luật, văn

hóa ứng xử cũng như kinh nghiệm để học cách giữ gìn sức khỏe bản thân và tôn

trọng, bảo vệ sức khỏe của những người xung quanh. Qua bản án được tuyên, người

ta sẽ nhìn thấy hình phạt thích đáng dành cho hành vi cố ý gây thương tích hoặc cố

ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ bị xử lý như thế nào, nhưng phiên tòa

rút kinh nghiệm của Điện Bàn muốn cho tất cả mọi người thấy đằng sau những hình

phạt 03 năm tù, 05 năm tù hay 10 năm tù kia là điều gì. Đó không chỉ là giáo dục,

cải tạo bản thân người phạm tội mà đó còn là tinh thần công minh của pháp luật, sự

công bằng của xã hội. Có như vậy, mục đích phòng ngừa các hành vi cố ý gây

thương tích mới thật sự đạt hiệu quả. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật mới

đạt đúng ý nghĩa tồn tại của mình.

Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật muốn “sống”

được, muốn tối ưu được hiệu quả hoạt động thì nhất thiết, phương pháp và các loại

hình tuyên truyền, phổ biến và giáo dục phải đa dạng, linh hoạt và sinh động. Cán

bộ làm công tác tuyên truyền, giáo dục hơn ai hết phải gần dân, lắng nghe, quan sát

họ. Làm được như thế rồi, các kế hoạch, chương trình tuyên truyền mới sát với điều

kiện cụ thể của đối tượng tiếp nhận. Mặt khác, phương pháp sử dụng cho việc tuyên

truyền, giáo dục pháp luật cũng phù hợp hơn, dễ được tiếp nhận hơn.

Thứ tư, cần nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác tuyên truyền, phổ

biến và giáo dục pháp luật. Muốn như vậy, việc tuyển chọn, các chế độ tài chính

cung cấp đối với những người làm công tác này cần phải được chú trọng. Mặt khác,

cần phải thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chương trình, kế

hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; bên cạnh đó, phải kiểm điểm, phê bình, xử lý

nghiêm khắc đối với những cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện đúng nhiệm

vụ được giao.

3.4.2. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ

Hoạt động áp dụng pháp luật muốn đạt chất lượng trên thực tế thì môi trường

73

áp dụng, con người áp dụng, cũng như các điều kiện tác động khác phải được tôn

trọng và bảo đảm. Có pháp luật tốt rồi, muốn pháp luật đi vào thực tiễn, tác động có

hiệu quả đến chủ thể bị áp dụng để đạt mục tiêu như mong muốn thì người áp dụng

đó phải tốt, điều kiện xung quanh người áp dụng đó cũng phải tốt. Cũng như vậy, để

hoạt động áp dụng BLHS nói chung và áp dụng quy định về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đạt hiệu quả, các điều kiện

nghiệp vụ liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật nhất thiết phải được bảo đảm

một cách đầy đủ.

Thứ nhất, cần phải kiện toàn về tổ chức, tăng cường hơn nữa công tác xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh; có lộ trình từng

bước nâng cao về số lượng, đảm bảo phẩm chất đạo đức, chính trị, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán. Đặc biệt, cần chú ý xây dựng phương án

tạo nguồn cán bộ, Thẩm phán cho các tình miền núi, vùng sâu, vùng xa. Muốn

như vậy, ngay từ bây giờ cần phải làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử để

tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán.

Vấn đề kinh nghiệm xét xử quyết định rất lớn đến hiệu quả áp dụng pháp

luật của Thẩm phán. Đặc biệt, đặc thù của chúng ta là Thẩm phán xét xử các vụ

án hình sự về tội cố ý gây thương tích còn phải xử lý các vấn đề liên quan đến bồi

thường thiệt hại, các yêu cầu dân sự khác... Do đó, Thẩm phán phải là người dày

dặn các kinh nghiệm nghiệp vụ, xã hội. Để giúp cho Thẩm phán tích lũy các kỹ

năng, kinh nghiệm ở nhiều lĩnh vực, vị trí việc luân chuyển, điều động cán bộ

trong nghành Tòa án cần phải được quan tâm đúng mức, hài hòa.

Bên cạnh đó, cần phải thường xuyên tăng cường việc đào tạo, đào tạo lại

hoặc bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho Thư ký, Thẩm phán và Hội thẩm.

Các đơn vị chức năng của TANDTC phối hợp với TAND cấp tỉnh tổ chức thực

hiện việc bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ, Thẩm phán

và Hội thẩm nhân dân thuộc quyền quản lý, tạo điều kiện thuận lợi và động viên,

khuyến khích cán bộ, công chức tự học tập nâng cao năng lực trình độ. Hiện nay,

khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các Hội nghị trực tuyến được tổ

74

chức ngày càng nhiều và là cơ hội học tập, trao đổi lẫn nhau giữa các Tòa án,

VKS trên địa bàn cả nước. Tuy nhiên, qua thực tiễn một số Hội nghị trực tuyến,

có thể thấy hoạt động này còn nhiều hạn chế như: các điểm cầu địa phương ít

được phát biểu để nói lên khó khăn, vướng mắc; cách đặt vấn đề còn chưa sát

thực tiễn địa phương, chưa có trọng tâm, trọng điểm... Vì vậy, khi tổ chức Hội

nghị trực tuyến cần phải có kế hoạch và hướng dẫn triển khai thực hiện cụ thể để

cho các thành phần tham gia có sự chuẩn bị chu đáo, các vấn đề trao đổi cũng nhờ

thế mà chất lượng hơn, đỡ tốn kém thời gian, kinh phí hơn. Đặc biệt, việc tổ chức

Hội nghị trực tuyến thường là trong nội bộ ngành kiểm sát hoặc ngành tòa án, do

đó, chưa có sự tương tác, thống nhất một số vấn đề còn vướng mắc, bất cập. Vì

thế, tác giả thiết nghĩ nên chăng tổ chức các Hội nghị trực tuyến liên ngành để

các cơ quan THTT có điều kiện ngồi lại với nhau tháo gỡ vướng mắc, bổ sung

cho nhau để thực hiện công tác tư pháp ngày càng chất lượng, góp phần hạn chế

tối đa việc oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.

Ngoài ra, cần phải mở rộng quan hệ quốc tế để cử cán bộ, Thẩm phán đi

học tập, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong

tình hình mới cũng như hội nhập quốc tế ngày nay.

Thứ hai, nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của người THTT, đặc

biệt là Thẩm phán. Trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp là các vấn đề đang được xã

hội rất quan tâm, một hành vi lệch chuẩn của người THTT cũng khiến cho dư luận

chú ý và dậy sóng. Sự kiện “dâm ô với trẻ em” của Nguyễn Hữu Linh là minh

chứng cụ thể cho điều đó.[33] Để đánh giá tinh thần trách nhiệm , đạo đức nghề

nghiệp của cán bộ tư pháp, thiết nghĩ cần phải xây dựng các yêu cầu chung để tăng

cường trách nhiệm nghề nghiệp của họ trong công tác chuyên môn. Để đạt được

điều đó, việc soạn thảo và ban hành quy định các tiêu chí chung về phẩm chất đạo

đức, quy tắc ứng xử đối với cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực đấu tranh phòng

chống tội phạm của các cơ quan pháp luật là điều hết sức cần thiết.

Bên cạnh đó, cũng phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm và sự quan tâm

của Nhà nước đối với những người làm công tác đấu tranh chống tội phạm và các

75

vi phạm pháp luật khác. Theo đó, cần có văn bản luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe

của những người THTT mà do việc thực hiện chức năng nghề nghiệp nên họ có

thể bị đe dọa xâm hại đến an toàn cá nhân. Qua đó, tạo ra hành lang pháp lý bảo

đảm cần thiết để người THTT yên tâm công tác, thực hiện đúng chức trách,

nhiệm vụ của mình.

Thứ ba, cần phải làm tốt hơn nữa công tác tổng kết thực tiễn xét xử và

hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật để kịp thời tháo gỡ các vướng mắc trong

công tác chuyên môn nghiệp vụ. Những quy định của pháp luật hoặc của nghành,

của đơn vị không phù hợp với các thực tiễn công tác giải quyết xét xử án, giải

quyết yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm, giải quyết khiếu nại tố cáo về quyết định,

hành vi tố tụng, những trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

nhưng khi phát hiện có sai lầm.

Hiện nay, các cổng thông tin điện tử, các trang báo mạng luôn có những

chuyên mục để các nhà làm luật, các nhà thực tiễn cùng trao đổi các vấn đề liên

quan đến hoạt động tư pháp và áp dụng pháp luật hình sự. Tuy nhiên, quy trình để

đăng tải các thông tin trao đổi còn phức tạp, rườm rà. Do đó, có một số bài viết

cũng vì thế mà bị loại khỏi danh sách đăng bởi nhà chọn lọc. Tuy nhiên, cần phải

nhớ rằng, khoa học là điểm đến của nghiên cứu, có sai mới có khoa học được.

Theo tác giả, chỉ những bài viết mang quan điểm cực đoan, chống phá Nhà nước

ta thì nhất quyết bị loại bỏ, còn các bài viết dù lớn dù nhỏ đưa ra được vấn đề

nghiên cứu cần sự trao đổi thì nên đăng tải để mọi người cùng tham gia góp ý.

Qua đó, tìm ra được chân lý và thống nhất nhận thức chung. Đó là điều kiện tiên

quyết để hoạt động áp dụng pháp luật được thống nhất, đảm bảo được yếu tố khoa

học lý luận gắn với thực tiễn áp dụng.

3.4.3. Giải pháp về bảo đảm công tác xét xử, tăng cường kiểm tra, giám

sát, kiểm sát việc áp dụng

Áp dụng pháp luật là hoạt động đặc thù của cơ quan, cá nhân được Nhà nước

trao quyền thực hiện đưa các quy định pháp luật áp dụng vào các đối tượng, hoàn

cảnh cụ thể. Do đó, không loại trừ trường hợp lạm quyền trong áp dụng pháp luật.

Đặc biệt, trong lĩnh vực hình sự, việc áp dụng pháp luật liên quan đến quyền con

76

người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Vì vậy, cần phải có cơ

chế kiểm tra, giám sát, kiểm sát hoạt động áp dụng pháp luật này.

Thứ nhất, tự thân các cơ quan THTT, người THTT phải tự giác thực hiện đầy

đủ, nghiêm túc, có trách nhiệm chức năng nhiệm vụ được giao. Trước khi cần đến

công tác kiểm tra, giám sát, kiểm sát thì trước hết, trong nội bộ cơ quan, đơn vị phải

tự nâng cao tính tự kiểm tra, giám sát lẫn nhau để hỗ trợ nhau hoàn thành nhiệm vụ

chung. Làm được như vậy, hoạt động áp dụng áp dụng pháp luật hình sự sẽ đạt ở

mức phù hợp. Đối với hành vi cố gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác thì việc áp dụng đó sẽ tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm

tội, không quá nhẹ hoặc quá nặng, bảo đảm sự nghiêm minh cũng như khoan hồng

của pháp luật.

Thứ hai, cần phải tăng cường chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của

VKS. Theo đó, VKS là cơ quan có quyền kiểm tra, kiểm sát các hoạt động tố tụng

mục đích không phải đơn thuần chỉ là tìm ra các sai phạm của CQĐT hay Tòa án để

kiến nghị, kháng nghị khắc phục, mà quan trọng nhất việc kiểm sát đó phải đảm bảo

hoạt động bình thường của cơ quan THTT cũng như người THTT. Thông qua đó,

hạn chế đến mức tối đa các vi phạm, sai lầm của các chủ thể áp dụng pháp luật. Có

như vậy, bên cạnh các quyền chưa bị hạn chế hoặc tước bỏ, thì các quyền con người

khác, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của những người yếu thế

trong tố tụng mới được đảm bảo. Đặc biệt, nhất là khi họ bị áp dụng các biện pháp

ngăn chặn, bị tiến hành hỏi cung,... thì các quyền con người càng dễ bị xâm hại. Với

chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, VKS phải kịp thời phát hiện ra các sai phạm

trong thu thập, đánh giá chứng cứ và tiến hành các thủ tục tố tụng để yêu cầu CQĐT

khắc phục kịp thời. Không những vậy, sự kiểm sát của Kiểm sát viên đã phần nào

làm cho Tòa án trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như xét xử công khai phải

đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ chứng cứ trong hồ sơ vụ án, tạo

điều kiện để các bên tranh tụng tại phiên tòa.

Thứ ba, cần phải tăng cường sự giám sát của nhân dân, của các cơ quan đại

diện cho nhân dân. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, do đó,

người dân có quyền giám sát đối với các hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan

77

công quyền. Sự giám sát này có thể thực hiện một cách trực tiếp hoặc thông qua đại

diện của mình là Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ

quốc đối với hoạt động của các cơ quan THTT. Liên quan đến tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - loại tội phạm rất được dư luận

xã hội quan tâm thì sự giám sát của cơ quan dân cử càng chặt chẽ và sâu sát hơn. Ít

nhiều sự giám sát này làm cho chất lượng áp dụng pháp luật của cơ quan và người

THTT thêm phần cẩn trọng, trách nhiệm, từ đó mà chất lượng áp dụng pháp luật

cũng được nâng cao.

Thứ tư, phải có cơ chế, chế tài thiết thực để phòng ngừa, xử lý các trường

hợp vi phạm, sai lầm trong tư pháp hình sự. Cố nhiên, các chế tài này cũng cần cân

nhắc xây dựng trên tinh thần tương xứng với vi phạm, sai lầm và chỉ áp dụng khi

hành vi gây thiệt hại nặng nề cho uy tín, tài sản của Nhà nước và kèm theo yếu tố

lỗi. Thực tế cho thấy, không có sai lầm, vi phạm làm sao có kinh nghiệm, làm sao

có sự đúng đắn được. Do đó, vấn đề trách nhiệm chỉ nên đặt ở mức cần thiết, tránh

vì sợ trách nhiệm mà không dám làm, không dám thay đổi. Trong khi đó, bản thân

áp dụng pháp luật là hoạt động sáng tạo pháp luật.

Thứ năm, cần tăng cường các chế độ đãi ngộ, khen thưởng đối với cán bộ

ngành tư pháp. Để tạo điều kiện cho cán bộ tư pháp an tâm tư tưởng, phát huy trách

nhiệm với công việc, thiết nghĩ họ cần được đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của cuộc

sống là chế độ lương, phụ cấp. Cùng với đó, các cá nhân, tập thể có việc làm đúng

đắn, sáng tạo cũng cần phải có sự động viên, khuyến khích kịp thời để họ có động

lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, những cá nhân, tập thể khác cũng nhìn vào

đó mà học tập, cố gắng.

Thứ sáu, cần phải đầu tư củng cố, tăng cường các cơ sở vật chất, phương tiện

kỹ thuật đảm bảo hoạt động tốt nhất cho áp dụng pháp luật hình sự. Các điều kiện

vật chất nếu được đảm bảo sẽ là yếu tố góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp

luật. Chẳng hạn, tại một hội trường xử án uy nghi, thì hoạt động xét xử của Tòa án

sẽ có sự tác động mạnh mẽ hơn đối với bị cáo và những người tham gia phiên tòa hơn.

78

KẾT LUẬN

Trên cơ sở văn kiện quốc tế, trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật Việt

Nam, các quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm có vị trí đặc biệt quan trọng. Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013

của nước ta quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được

pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy

bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,

xúc phạm danh dự, nhân phẩm...”. Do đó, cùng với quyền sống, danh dự, nhân

phẩm, thì quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người là một trong những

khách thể quan trọng cần bảo vệ bằng luật hình sự Việt Nam, là cơ sở pháp lý để

các cơ quan tiến hành tố tụng và các lực lượng chức năng khác phòng ngừa, đấu

tranh có hiệu quả với các hành vi cố ý hoặc vô ý xâm phạm một cách trái pháp luật

đến sức khỏe của người khác.

Trong quá trình pháp điển hóa LHS, quy định trong các BLHS Việt Nam

cho thấy đã có sự kế thừa cơ bản những thành tựu của công tác xây dựng pháp luật

trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta. Các quy định của BLHS năm 1999, sửa đổi

năm 2009 và đến BLHS năm 2015, sau đó sửa đổi năm 2017 về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã tương đối đầy đủ và ngày

càng hoàn thiện hơn, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của đất nước vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn

thiện mà chương 3 đã đề cập.

Luận văn đã phân tích làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng quy định của BLHS

trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp đối với tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như những tồn tại, vướng

mắc trong quá trình áp dụng quy định của BLHS về các tội phạm này trên địa bàn

thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 06 năm (2013 - 2018). Trên cơ sở này,

đánh giá cho thấy quy định của BLHS đã được áp dụng đúng, đáp ứng được yêu

cầu đấu tranh phòng, chống với các tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác

79

xảy ra trên địa bàn Điện Bàn, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp

luật, đem lại hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ

quyền con người. Tuy nhiên, vẫn còn một số sai lầm, thiếu sót liên quan đến định

tội danh, quyết định hình phạt, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án

xâm phạm sức khỏe của người khác làm ảnh hưởng công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đòi hỏi phải có kiến

nghị, giải pháp phù hợp để khắc phục.

Mặt khác, luận văn cũng chỉ ra những khó khăn, tồn tại, vướng mắc và các

nguyên nhân cơ bản, từ đó đặt ra yêu cầu, đề ra kiến nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung

quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi năm 2017, cũng như đưa ra những giải

pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, qua đó, phòng ngừa và đấu tranh chống có hiệu

quả loại tội phạm này. Cụ thể là, giải pháp về tăng cường và nâng cao hiệu quả

công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật hình sự; nâng cao hiệu quả

hoạt động thu thập chứng cứ, tăng cường trách nhiệm của những người tiến hành tố

tụng trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sức khỏe người khác; tăng

cường công tác quản lý Nhà nước về vũ khí, quan tâm giải quyết các mâu thuẫn

phát sinh trong cộng đồng dân cư ngay từ cơ sở trên địa bàn, qua đó, bảo đảm ổn

định tình hình an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn cả nước. Những giải pháp này cần

được tiến hành đồng bộ, kịp thời, liên tục.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành Trung ương (2011), Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011

của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,

nhân dân.

2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005.

3. Lê Cảm (2006), “Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người

bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”, Tòa án nhân dân, 11(6).

4. Lê Cảm (chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội

phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

5. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2015), Quyền con người trong lĩnh vực Tư

pháp hình sự, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

6. Đinh Bích Hà (2007), BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

7. Phạm Hồng Hải (2002), “Tiếp tục hoàn thiện chính sách hình sự phục vụ

quá trình đổi mới và xu thế hội nhập ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, (6).

8. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành (1998), Văn bản pháp luật

về hình sự và tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

9. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành (1998), Văn bản pháp luật

về hình sự và tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Trần Thị Hiển (2011), BLHS Nhật Bản, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

11. Nguyễn Ngọc Hòa (2001), “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự của con người - So sánh giữa BLHS năm 1999 và BLHS

năm 1985”, Tạp chí Luật học, (1).

12. Phạm Mạnh Hùng (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Hà Nội.

13. Nguyễn Duy Hữu (2017), Các tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo

luật hình sự Việt Nam, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.

14. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc

tế về quyền con người, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.

15. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu công ước quốc tế

về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

16. Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự

và nhân phẩm của con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội

phạm, tập 1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016.

19. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1986), Bộ luật hình sự năm

1985, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

20. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2014), Bộ luật hình sự năm

1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2014), Hiến pháp Việt Nam

(2013 - 1992 - 1980 - 1959 - 1946), Nxb Lao động, Hà Nội.

22. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2016), Bộ luật hình sự năm

2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23. Phạm Hồng Thái (chủ biên) (2016), Tư tưởng Việt Nam về quyền con

người, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.

24. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

25. Lê Đình Tĩnh (2014), Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam, Khoa luật, Đại học

quốc gia Hà Nội.

26. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I

(1954-1974), Hà Nội.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Liên bang Nga, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

28. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề

chung), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

29. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm

Từ điển học.

30. Trịnh Tiến Việt (chủ biên) (2015), Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng

pháp luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

31. Trịnh Tiến Việt, Tội phạm và TNHS, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Website

32. Http://www.chinhphu.vn/chienluocbaovechamsocsuckhoe.

33. Https://baovephapluat.vn/cong-to-kiem-sat-tu-phap/theo-dong/ket-luan-

giam-dinh-bo-sung-lien-quan-toi-vu-an-nguyen-huu-linh-73233.html.

34. Https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phapluat/thoisu/14081/ de-

xuat-sua-119-dieu-trong-bo-luat-hinh-su-2015.

35. Https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_B%C3%An.