VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHƯỚC
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHƯỚC
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số
: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Phước
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ ........................................................................................ 6
1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam ............................................... 6
1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng tháng 8 năm
1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ........................................ 14
1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............................ 19
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ
Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN
BÀN, TỈNH QUẢNG NAM .................................................................................... 26
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................................................................ 26
2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác với một số tội phạm khác.................................................................................. 44
2.3. Thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .................................... 47
2.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản ............................................... 52
CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG ....................................................................................................................... 61
3.1. Yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ......... 61
3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ................................... 66
3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan ..................................................... 69
3.4. Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....................... 71
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 BLHS Bộ luật hình sự
2 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
3 CQĐT Cơ quan điều tra
4 CSHS Chính sách hình sự
5 LHS Luật hình sự
6 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
7 TNHS TNHS
8 THTT Tiến hành tố tụng
9 VAHS Vụ án hình sự
10 VKS Viện kiểm sát
11 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
12 XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh 2.1 48 Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn
2013-2018
Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, 2.2 49 tỉnh Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai
đoạn 2013-2018
Nhân thân các bị cáo đã bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét xử về cố
2.3 ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác 50
giai đoạn 2013-2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Có thể nói,
quyền con người mang những giá trị cao quý chung của toàn nhân loại, có tính
phổ biến [23, tr.5]. Chính vì vậy, hầu hết pháp luật các nước đều có quy định ghi
nhận và bảo đảm cho quyền con người.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản và
quan trọng trong quyền con người, được quy định cụ thể trong Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền 1948. Trong đó, Điều 3 của Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều
có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân” [14, tr.48]. Theo đó, không ai bị
xâm phạm bất hợp pháp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự. Mọi người đều có quyền
được pháp luật bảo vệ chống lại những xâm phạm. Ở Việt Nam, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể được coi trọng và quy định trong đạo luật có giá trị pháp lý cao
nhất. Điều 20 Hiến pháp Việt Nam ghi nhận: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [21, tr.19]. Như vậy,
có thể nói quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp ghi nhận và bảo vệ.
Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án đã tích cực
đấu tranh ngăn chặn và xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm [25, tr.6]. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác cho
thấy, còn có nhiều bất cập, vướng mắc, nhiều vụ án việc định tội còn gặp mâu
thuẫn, dễ dẫn đến xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm, trong đó có địa bàn thị
1
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, quy định của BLHS năm 2015 đã có
những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe của người khác, tuy nhiên, việc áp dụng vẫn còn chưa thống nhất, chưa phù
hợp với thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.
Từ những lẽ trên, việc nghiên cứu sâu sắc một số vấn đề lý luận các tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử tội
phạm này không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn
là vấn đề mang tính cấp thiết, đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể. Đây cũng là lý
do luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và “Tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nói riêng. Đầu
tiên, đó là công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế: TNHS đối với hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, Nxb Công an nhân dân, năm 1994.
Tiếp đến là công trình TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1997 (tái bản năm
1999). Công trình luận văn thạc sỹ của Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam, Khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, năm 2014. Gần đây, có luận án tiến sĩ luật học: “Các tội xâm
phạm sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy
Hữu, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tuy nhiên, tác giả làm cả nhóm
tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác và mang tính tổng thể, đánh giá địa
bàn cả nước về nhóm tội phạm này, qua đó, cũng là tư liệu để học viên tiếp tục
nghiên cứu vấn đề này.
Như vậy, các nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
2
người nói chung, mà chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, sâu kỹ và độc lập về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS hiện
hành. Mặt khác, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết đánh giá thực tiễn
áp dụng tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó chỉ ra các tồn tại, vướng mắc,
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, nên rõ ràng vấn đề này có tính
thời sự cao. Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan
trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc hơn về mặt lý luận quy
định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong
BLHS Việt Nam hiện hành và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn tại thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó xác định những bất cập để đề xuất hoàn thiện quy
định của BLHS về tội phạm này và đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Xây dựng khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác, từ đó làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội
phạm này trong BLHS năm 2015.
- Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy định BLHS năm 2015 về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong thực tiễn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đồng thời phân tích các tồn tại, vướng mắc, chỉ ra
nguyên nhân.
- Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe của người khác và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, quy định BLHS
và thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
3
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện dưới góc độ khoa học luật hình sự, thuộc chuyên
ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, mã số: 8.38.01.04
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác trong Điều 134 BLHS năm 2015 và quy định
BLHS một số nước, cũng như một số vấn đề lý luận về tội phạm này.
Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn thị
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi về thời gian: Các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được
thu thập trong thời gian từ 2013 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, “Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác” trong BLHS và những quy định
pháp luật có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,
lịch sử, so sánh, thống kê; v.v... của khoa học luật hình sự để luận chứng và làm
sáng tỏ các vấn đề tương ứng.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu hồ sơ các vụ án làm cơ sở thực tiễn cho
việc nghiên cứu, đồng thời đã đưa ra các giải pháp cụ thể bảo đảm áp dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả của luận văn góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về tội cố ý gây
4
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó, kiến nghị các nội
dung tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác và một số quy định có liên quan, đồng thời nó có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học
pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về
các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở khía
cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự;
Chương 2: Quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử trên địa bàn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và các giải pháp bảo đảm
áp dụng.
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác
Quyền được bảo vệ về sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con
người. Sức khỏe được hiểu “là trạng thái không có bệnh tật, cảm thấy thoải mái về
thể chất, thư thái về tinh thần” [29, tr.878-879]. Như vậy, hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đã tác động làm mất đi sự “thoải mái về thể chất,
thư thái về tinh thần” của người khác. Tuy nhiên, sự tác động này có tính chất, mức
độ nguy hiểm cao thì mới bị coi là tội phạm. Việc đánh giá tính nguy hiểm hành vi
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được cụ thể hóa
bằng các quy định của BLHS. Ở đó cho phép chúng ta nhận diện đâu là tội phạm và
đâu không phải là tội phạm.
Tội phạm là khái niệm được quan tâm nghiên cứu trọng tâm trong khoa học
pháp lý hình sự và đã có nhiều quan điểm, định nghĩa về tội phạm. Trên cơ sở kế
thừa những quy định trước đó, Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 đưa ra khái niệm:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”
[22]. Quy định trên đã thể hiện tập trung nhất quán quan điểm của Nhà nước ta về
6
tội phạm và trên cơ sở đó, nhà làm luật có thể xác định các dấu hiệu căn bản để
phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác dựa trên các yếu tố sau:
tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu
hình phạt; đồng thời, các nhà nghiên cứu có thể tự xây dựng khái niệm đối với các
tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu căn bản được nên trong khái niệm tội phạm.
Trong BLHS, các nhà làm luật lại chia các hành vi được coi là tội phạm thành
các nhóm, loại tội phạm khác nhau. Để phân biệt giữa chúng, bên cạnh các dấu hiệu
chung của tội phạm, người ta đưa một hoặc một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng
có của tội phạm đó. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác cũng dựa vào nguyên lý đó mà hình thành.
Trước hết, theo quan điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Các tội xâm
phạm sức khỏe là những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý
hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác” [4,
tr.127].
Quan điểm trên đã bao quát toàn bộ đặc điểm các hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khái niệm này cho thấy phạm vi
các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất
rộng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều
134 BLHS năm 2015 nhưng theo khái niệm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa thì
ngoài tội phạm được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 còn có các tội phạm
khác. Cụ thể, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
(Điều 136). Có thể nói, các tội này là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong các trường hợp đặc biệt và gắn với chúng là các dấu
hiệu đặc biệt.
Quan điểm của PGS.TS. Trần Văn Luyện lại có chút khác biệt, theo đó, tội
7
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác “là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền sống,
quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người” [30, tr.60].
Xét một cách toàn diện, quan điểm trên chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý khi
phân tích tương đối bao quát các hành vi như thế nào được coi là cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu,
khái niệm này chưa phân tích mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe là bao
nhiêu thì đủ dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác. Có thể thấy, trong nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi
dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể của người khác gây tổn hại cho
sức khỏe của người đó nhưng chưa đến mức tội phạm. Cụ thể hơn, khi mức độ
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe không lớn, dưới 11% và không thuộc các
trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì không coi là
tội phạm.
Bên cạnh đó, tại Phần các tội phạm Giáo trình luật hình sự Việt Nam của
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, TS. Phạm Mạnh Hùng đưa ra khái niệm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là “hành
vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở
lên; dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm
tội 02 lần trở lên; phạm tội đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi,
phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả
năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo
của mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang
bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt
buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc
8
gây tổn hại sức khỏe do được thuê; có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm; đối
với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” [12, tr.146].
Tóm lại, các quan điểm trên đã khái quát nhiều mặt các dấu hiệu đặc trưng
cơ bản để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Tuy nhiên, việc mô tả quá chi tiết các dấu hiệu của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ làm hẹp cách hiểu về tội này.
Mặt khác, đó là các dấu hiệu có tính định lượng nên việc thay đổi sẽ là tất yếu. Vì
vậy, theo tác giả, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu
được định nghĩa như sau:
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
thực hiện một cách có lỗi, xâm hại đến sức khỏe của người khác đến mức bị coi là
là tội phạm trong BLHS.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 góp phần hoàn
thiện hệ thống các chế định về tội danh trong BLHS trên cơ sở kế thừa và phát huy
các BLHS trước đó.
Nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý cơ bản
của tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các phương hướng, cách thức, phương pháp tiến
hành các hoạt động điều tra nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết VAHS liên quan
đến tội phạm này. Cấu thành tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt
động điều tra VAHS. Bởi lẽ, các dấu hiệp pháp lý đặc trưng cơ bản trong cấu thành
tội phạm mang tính chất đặc trưng của một tội danh cụ thể, cho phép người áp dụng
pháp luật phân biệt tội phạm này với tội phạm khác cũng như giúp họ xác định được
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trên cơ sở cấu thành
tội phạm của một tội danh cụ thể, người áp dụng pháp luật xác định chính xác
9
TNHS và định tội danh đối với hành vi phạm tội theo đúng pháp luật cũng như xác
định được các vấn đề: Hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào? Người thực
hiện hành vi phạm tội có phải chịu TNHS hay không?...
Bên cạnh đó, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định tội danh và
quyết định hình phạt, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
tránh bỏ lọt tội phạm. Ngay phần Lời nói đầu của BLHS Việt Nam đã khẳng định
pháp luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm. Đồng thời, luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố
gây cản trở cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Từ quy định của BLHS, có thể thấy, sự cần thiết phải quy định các tội xâm
phạm sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam xuất phát từ các chức năng của
nó, mà luật hình sự có chức năng trước hết và cơ bản là chức năng bảo vệ cho sự
phát triển bình thường của các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam. “Là một trong những bộ phận quan trọng của
hệ thống tư pháp hình sự, luật hình sự được coi là công cụ tự vệ của xã hội chống
lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà nước, cho con người.
Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của LHS là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia
nào, luật hình sự cũng có nhiệm vụ ấy...” [28, tr.90]. Trong các quan hệ xã hội mà
luật hình sự bảo vệ có quan hệ xã hội liên quan đến quyền được bảo vệ về sức khỏe
của con người. Do đó, sự cần thiết quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người
khác trong LHS Việt Nam được thể hiện như sau:
Một là, xuất phát từ vị trí của quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con
người trong hệ thống các quyền con người theo pháp luật quốc tế
Nghiên cứu đặc tính cơ bản của quyền con người, ngoài các đặc tính như tính
phổ biến, tính không thể tước đoạt, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau… thì một đặc
tính quan trọng của quyền con người là tính không thể phân chia [23, tr.31]. Nhưng
điều này không có nghĩa là các quyền cụ thể của con người có vị trí, vai trò như
10
nhau. Có những quyền có mức độ gắn bó thiết thân với sự tồn tại của con người, thể
hiện sự tôn trọng nhân phẩm cá nhân nên phải được xem là quan trọng hơn, cần
được ưu tiên hơn so với các quyền khác. Trong số các quyền đó có quyền được tôn
trọng, bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tự do thân thể của con
người. Nói khác đi, đó chính là “quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” [30, tr.49].
Như vậy, con người cần được bảo đảm về quyền sống, quyền tự do và an
ninh cá nhân. Ngay từ Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của
LHQ, con người đã khẳng định những quyền cơ bản của mình tại Điều 3, Điều 4,
Điều 5 và Điều 9 của văn bản này, cũng như nhiều quyền khác, đó là:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (Điều 3);
Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ
và buôn bán nô lệ đều bị cấm (Điều 4); Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt
một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; Không ai bị bắt, giam giữ
hay lưu đày một cách tùy tiện (Điều 9) [15, tr.49-50].
Tiếp đến, Công ước Quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hóa năm 1966 lại nhấn mạnh hơn: Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng
để làm thí nghiệm y học hay khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người
đó (Điều 7). [15, tr.220]
Như vậy, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,
trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác được Hiến pháp
và LHS Việt Nam quy định là xuất phát từ vị trí của quyền đó trong hệ thống các
quyền con người. Việc trật tự hóa quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người
khác trong BLHS năm 2015 dựa theo các tiêu chí về quyền con người của luật pháp
quốc tế. Nó đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải trên cơ sở những tiêu chí đó mà cụ
thể hóa vào hệ thống pháp luật, cũng như chính sách hình sự của Nhà nước những
quy định thiết thực, khả thi nhất. Điều này đúng như PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí đã
khẳng định: “Với chính sách hình sự hướng tới việc bảo vệ quyền con người thì quá
trình này đòi hỏi, một mặt phải xác định yêu cầu cần thiết phải hình sự hóa, tội
11
phạm hóa những hành vi xâm hại đến quyền con người, mặt khác phải rà soát, loại
bỏ những tội phạm mà cấu thành của nó hạn chế quyền con người…” [5, tr.37].
Tựu trung lại, với vị trí quan trọng như vậy, quyền được bảo vệ về sức khỏe
được coi là khách thể bảo vệ quan trọng của LHS các nước và cũng như của Việt
Nam. Do đó, LHS Việt Nam có nhiệm vụ phải ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền này bằng cách quy định những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của con
người, trong đó có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là tội phạm và đi liền với đó là các hình phạt tương xứng với mức độ,
tính chất của hành vi phạm tội. Hiện nay, thế giới ngày càng coi trọng quyền con
người nói chung và quyền được bảo vệ về sức khỏe nói riêng, thì việc thể chế hóa
luật pháp quốc tế và hình sự hóa các hành vi nguy hiểm xâm hại đến sức khỏe con
người ở Việt Nam cần phải được chú trọng, tập trung hơn nữa.
Hai là, xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và việc bảo vệ
quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam
Nhìn nhận một cách khách quan, sức khỏe gắn liền với tính mạng con người
là thứ vô cùng trân quý. Không có sức khỏe thì sự sống của thực thể dường như
không tồn tại. Một con người mất đi sức khỏe cố nhiên sẽ rơi vào trạng thái thực
vật. Vì lẽ đó, họ không thể tham gia vào các quan hệ xã hội mà mình mong muốn và
bị phụ thuộc vào người khác. Quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe luôn gắn bó
chặt chẽ với quyền sống của con người. Chính vì vậy, ranh giới giữa quyền được
bảo vệ về sức khỏe và quyền sống là vô cùng mong manh.
Với tính cách là một quyền quan trọng trong hệ thống quyền con người,
quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe được Nhà nước ghi nhận, tôn trọng và bảo
đảm. Nói khác đi, “đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm
tội là một trong các chức năng của Nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ
quan tiến hành tố tụng…” [5, tr.37]. Quy định việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm
về sức khỏe trong BLHS Việt Nam xuất phát từ cơ sở nhận thức sâu sắc về tầm quan
trọng của quyền này. Nhưng hơn hết, các quy định đó bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn về
12
đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm đến sức khỏe của người khác.
Mặt khác, giữa quyền bất khả xâm phạm đến sức khỏe của người khác và
quyền sống có mối quan hệ hữu cơ, do đó, muốn bảo vệ quyền sống trước hết phải
bảo đảm được quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Thực tiễn cho thấy, khi người
nào có hành vi dùng bạo lực hoặc các thủ đoạn khác tác động lên thân thể của người
khác thực sự khó kiểm soát mức độ xâm phạm của mình. Có thể, ý định ban đầu chỉ
muốn xâm phạm đến sức khỏe nhưng trong thực tế lại có trường hợp xâm phạm đến
quyền sống của người khác. Vì vậy, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam là cơ sở để xử lý người
phạm tội trong nhiều trường hợp xảy ra trên thực tiễn, đảm bảo được sự công minh
của pháp luật và công bằng xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà trong BLHS Việt Nam cũng như BLHS một số
nước trên thế giới, các nhà lập pháp lại quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm trong cùng một chương hay thường đặt chương này lên
vị trí là chương đầu tiên của BLHS hoặc chương đầu tiên Phần các tội phạm, trong
đó đề cập đến các tội phạm này.
Như vậy, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác (trong đó có tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác) là một trong những
nhóm khách thể quan trọng cần LHS Việt Nam bảo vệ. Bên cạnh đó, qua việc quy
định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trong
BLHS, đã bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thân thể của người khác trái pháp luật.
Ba là, xuất phát từ ý nghĩa của vấn đề bảo vệ sức khỏe của con người đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam [13, tr.62]
Trong tồn tại xã hội, sức khỏe nói chung và sức lao động nói riêng chính là
nền tảng tạo ra vật chất, tinh thần cho sinh hoạt xã hội. Khi có sức khỏe, con người
có thể thực hiện đầy đủ và tối ưu các hoạt động cá nhân cũng như hoạt động xã hội.
Từ đó, sức khỏe giúp cho sự mỗi người tự khẳng định vị trí mình trong xã hội. Tiếp
cận trên phương diện xã hội, có thể thấy rằng sức khỏe của mỗi cá nhân có ảnh
13
hưởng sâu sắc đến đời sống chung của cả cộng đồng. Cá nhân không khỏe thì cộng
đồng mất đi một thành viên tích cực. Mặt khác, nếu cá nhân đó rơi vào trạng thái
ốm đau, bệnh tật, thì Nhà nước, xã hội cũng phải đầu tư nhiều nguồn lực cho việc
chăm sóc y tế, trợ giúp cho cá nhân đó. Lúc này, vấn đề sức khỏe đã vượt ra ngoài
phạm vi của mỗi cá nhân mà nó thực sự trở thành đối tượng phải chăm lo chung của
cả cộng đồng. Cũng vì lẽ đó, Nhà nước ta đề ra Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong
đó xác định rõ: “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là bổn phận của
mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng; là trách nhiệm của các Bộ, ngành, các
cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức
xã hội nghề nghiệp” [32].
Nhìn nhận được tầm quan trọng của vấn đề sức khỏe của nhân dân với ý
nghĩa là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà
nước ta đã xây dựng cơ sở pháp lý để bảo đảm, bảo vệ sức khỏe của con người, mà
trước hết là quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Vì vậy, khi sức khỏe con người
bị tác động bởi hành vi nguy hiểm của xã hội thì với chức năng của mình, LHS phải
tạo ra các quy định, chế tài phù hợp để xử lý tội phạm xâm hại đến sức khỏe người
khác, đảm bảo sự công bằng của xã hội. Từ đó, các quy định này cũng góp phần
phòng ngừa tội phạm, giáo dục và nâng cao ý thức tuân theo pháp luật cho mọi
người, xây dựng ý thức tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của mình cũng như của người
khác cho mọi cá nhân.
1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng
tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
1.2.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1985
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ nước ta bị thực dân Pháp đô hộ.
Vì vậy, đây là thời kì lập pháp nước ta bị gián đoạn. Bằng chính sách chia để trị,
thực dân Pháp đã dùng ba BLHS khác nhau để áp dụng trên ba miền đất nước. Ở
Bắc Kỳ, chúng ban hành Hình luật An Nam, ở Trung Kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt
14
hình luật, ở Nam Kỳ áp dụng Hình luật pháp tu chính. Trong các Bộ luật này đều có
điều khoản quy định liên quan đến tội xâm phạm sức khỏe của người khác.[24, tr.66]
Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam
kiểu mới được hình thành với những thay đổi về áp dụng pháp luật. Do bộ máy
chính quyền mới hình thành kèm theo đó là nhiều những biến động lịch sử nên
nước ta chưa có điều kiện để ban hành luật mới, do đó Nhà nước ta đã cho phép
áp dụng một số văn bản pháp luật của đế quốc - phong kiến, cố nhiên là các quy
định trong đó không trái với nguyên tắc độc lập của đất nước và chính thể dân
chủ cộng hòa của nước ta.
Đến năm 1955, để mở đầu cho những thay đổi mạnh mẽ về pháp luật hình
sự nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích cho người khác nói riêng, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 về việc
trừng trị một số tội phạm. Trong đó, điểm 3 của Thông tư có quy định hành vi
đánh bị thương: phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm; đánh bị thương có tổ chức hay
gây thành cố tật hay chết người có thể phạt đến 20 năm... [26, tr.326].
Không những vậy, Điều 4 của Thông tư 442/TTg còn quy định: “Không
cẩn thận... mà gây tai nạn làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 03 tháng
đến 03 năm. Nếu gây tai nạn làm người chết người thì có thể phạt tù đến 10 năm”
[26, tr.356].
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại, các văn
bản quy phạm pháp luật của thực dân và phong kiến lúc này không còn phù hợp.
Do đó, ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 19/VHH-HS yêu cầu các
Tòa án không áp dụng luật lệ của thực dân - phong kiến nữa. Thông tư này ra đời
đã thay thế Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 và cùng với Chỉ thị số 772/TATC
được TANDTC ban hành ngày 10/7/1959 về vấn đề đình chỉ áp dụng pháp luật cũ
của đế quốc và phong kiến, từng bước ban hành các văn bản pháp luật mới đã tạo
ra bước ngoặc đổi mới cho pháp luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như quy
định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng.
Thời kỳ sau năm 1975, khi miền Nam được giải phóng, đất nước được
15
thống nhất, Nhà nước ban hành Nghị quyết ngày 02/7/1976 giao cho Chính phủ
hướng dẫn việc áp dụng pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước. Trong đó, các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định trong Sắc luật số 03-SL/76
của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam và được áp
dụng trên cả nước. Cụ thể hơn, điểm b Điều 5 Sắc luật quy định rất rõ nếu ai
phạm tội cố ý gây thương tích, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Thậm chí,
trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm.
Bên cạnh đó, TANDTC hướng dẫn việc áp dụng pháp luật cho Tòa án các
cấp, trong đó có Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các
hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Nhờ đó, có sự phân biệt
được một số trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe cho người khác, các Tòa án tránh sự nhầm lẫn trong quá trình áp dụng.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 2015
Quá trình xây dựng đất nước đã tạo điều kiện để nước ta chú trọng hơn về
vấn đề lập pháp hình sự. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua BLHS đầu tiên
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đặt cột mốc vô cùng quan trọng trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển quy phạm pháp luật về hình sự nói chung và
quy định pháp luật về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng, trong
đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
Trong BLHS năm 1985, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được
quy định tại Chương II với các tội phạm cụ thể bao gồm: Tội xâm phạm tính mạng
hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 109); tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 110); tội vô ý gây
thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 111) và tội
hành hạ người khác (Điều 103) [19]. Để các quy định này được thực thi, liên ngành
Trung ương bao gồm TANDTC, VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã ban hành một loạt
các văn bản hướng dẫn thi hành nhóm tội phạm này [13, tr.69]. Trong đó, phải kể
16
đến Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của BLHS đã hướng
dẫn cách thức phân biệt giữa thương tích với thương tích nặng, giữa tổn hại sức
khỏe với tổn hại nặng cho sức khỏe; mô tả một số tình tiết gây thương tích có tính
nguy hiểm cao, có tính côn đồ,... [9, tr.169-170]. Hay Nghị quyết số 01/1989/HĐTP
ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn tình tiết gây
thương tích dẫn đến chết người phải có thương tích nặng là thương tích có tỷ lệ
thương tật từ 31% trở lên, gây tổn thương động mạch, tĩnh mạch, não, cột sống, các
bộ phận nội tạng trong cơ thể nạn nhân. Mặt khác, vẫn coi là cố ý gây thương tích dẫn
đến chết người trường hợp không phải là thương tích nặng, nếu nạn nhân là người quá
già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho họ chết sớm hơn [9, tr.242-243].
Không dừng lại ở đó, BLHS năm 1985 được ban hành đã trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Trong các lần đó, các tội
xâm phạm sức khỏe của người khác được sửa đổi hai lần. Lần thứ nhất, ngày
28/12/1989, quy định bổ sung thêm trường hợp: “gây thương tích cho nhiều người
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người” tại khoản 2 Điều 109. Lần thứ hai,
sửa cụm từ “sử dụng vũ khí” thành “dùng vũ lực”; sửa cụm từ “Phạm tội làm chết
nhiều người...” thành “Phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp
nghiêm trọng khác” tại khoản 1 Điều 103. Các bổ sung này ít nhiều đã góp phần rất
lớn trong việc làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sức khỏe.
Qua đó, tạo tiền đề phân định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác với các tội xâm phạm sức khỏe khác.
Tuy nhiên, sau khi được ban hành, BLHS năm 1985 dù đã trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn mang chưa theo kịp tình hình kinh tế - xã hội trong
nước cũng như tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến
đời sống nhân dân, trật tự an toàn xã hội. Đó là đòi hỏi phải có BLHS mới với các
quy định phù hợp hơn, đáp ứng các yêu cầu của thời đại.
Ngày 21/12/1999, Quốc hội thông qua BLHS có hiệu lực từ ngày 01/7/2000.
Đến năm 2009, Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
17
một số điều của BLHS và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Trong BLHS
này, các nhà làm luật quy định tất cả bảy tội xâm phạm sức khỏe của người khác.
Có thể nói, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã phân hóa rõ ràng hơn các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác bằng việc tách nội dung một số điều luật để
quy định thành những tội danh [11, tr.15], cụ thể như sau:
Một là, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
(Điều 109 BLHS năm 1985) được tách làm ba tội riêng biệt: Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 105) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106) [20];
Hai là, tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 110 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội khác nhau: Tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108); tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109);
Ba là, tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi
hành công vụ (Điều 103 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội gồm: Tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) và tội gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107).
Quá trình áp dụng BLHS năm 1999, để làm rõ thêm nội dung chưa rõ và tháo
gỡ các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn xét xử, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã
ban hành một số Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Trong đó,
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLHS đã giải thích khá cụ thể và rõ ràng về tình tiết “gây cố tật nhẹ cho
nạn nhân” ở điểm b khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Nghị quyết số 02/2003/NQ-
HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS hướng dẫn cụ
thể việc áp dụng các tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm”, “phạm tội nhiều lần đối
với cùng một người hoặc đối với nhiều người”, “đối với thầy giáo, cô giáo của mình”
18
tại các điểm a, c, đ khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Qua đó, tránh các nhận thức
pháp luật khác nhau và thống nhất việc áp dụng, đảm bảo đồng bộ, hiệu quả.[13, tr.83]
1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Quá trình lập pháp của Việt Nam đều có sự tiếp thu có chọn lọc các yếu tố
hợp lý của pháp luật một số nước trên thế giới. Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng,
trong lĩnh vực hình sự, Việt Nam có sự học tập các nội dung, kỹ thuật lập pháp chủ
yếu là của Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Nhật Bản.
Đối với Liên bang Nga (trước đây là Liên Xô), khoa học pháp lý hình sự của
Việt nam từ khi hình thành đến khi BLHS đầu tiên ra đời năm 1985 đã chịu ảnh
hưởng lớn của khoa học pháp lý hình sự của của nước này. Nhiều nhà khoa học
pháp lý hình sự của Việt Nam hiện nay đã từng được đào tạo tại các trường Đại học
hoặc cấp, bậc nghiên cứu khác nhau ở Liên Xô. Do đó, quy định về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS của Việt
Nam cũng khá tương đồng về nội dung và kỹ thuật lập pháp với BLHS của Cộng
hoà Liên bang Nga. Đối với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, từ thời phong kiến thì
pháp luật Trung Hoa đã ảnh hưởng sâu sắc đến BLHS của Việt Nam. Hiện nay,
cùng là nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, giữa Trung Hoa và Việt Nam
luôn có sự giao thoa văn hóa – pháp luật. Vì vậy, quy định về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS của Trung Quốc
cũng có vài nét gần giống với BLHS của nước ta. Còn đối với Nhật Bản, đây là
nước có quy trình, kỹ thuật lập pháp vô cùng chặt chẽ, do đó, những quy định pháp
luật hình sự của họ luôn có những điểm đặc biệt cần học hỏi.
Nghiên cứu BLHS các nước trên là tiền đề để chúng ta tiếp tục hoàn thiện
quy định BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, cũng như góp phần đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này tại Việt
Nam. Việc tìm hiểu các quy định tương tự trong BLHS Liên bang Nga, Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa và Nhật Bản đồng thời so sánh với quy định trong BLHS nước
ta giúp chúng ta tìm thấy và vận dụng các giá trị phù hợp vào điều kiện của Việt Nam.
19
1.3.1. Quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga
Ngày 24/5/1996, BLHS Liên bang Nga được Hạ viện của Quốc hội Liên
bang thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/1997. Sau đó BLHS này được sửa đổi,
bổ sung nhiều lần, mới nhất là lần vào ngày 01/7/2010. Xuất phát từ nguyên nhân
lịch sử, ở BLHS Việt Nam và BLHS Liên bang Nga có thể tìm thấy nhiều điểm
tương đồng nhau. Theo Điều 1 BLHS Liên bang Nga thì: “Pháp luật hình sự Liên
bang Nga bao gồm BLHS này và các luật mới ban hành xem xét TNHS sẽ trở thành
bộ phận của Bộ luật này” [27, tr.12].
Như vậy, từ quy định mang tính chất nguyên tắc nêu trên, có thể khẳng định
nguồn cơ bản của BLHS Liên bang Nga có phần giống Việt Nam. Trong BLHS của
họ, các tội xâm phạm sức khỏe người khác cũng được quy định đầy đủ, trong đó các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định tại Chương 16 với 11 điều
luật (từ Điều 111 đến Điều 119 và Điều 124, Điều 125). Trong đó, tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định ở 3 điều
luật cụ thể:
- Tội cố ý gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 111), thì bị phạt tù từ
02 năm đến 08 năm; khoản 3 là đến 15 năm [27, tr.166];
- Tội cố ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 112), thì bị phạt
tù đến 03 năm; khoản 2 là đến 05 năm [27, tr.168];
- Tội cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe (Điều 115), thì bị phạt
giam giữ đến 04 tháng; khoản 2 là đến 02 năm [27, tr.172];
Qua nghiên cứu các quy định trên trong BLHS Liên bang Nga, đối chiếu với
quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong BLHS Việt Nam, có thể thấy rằng:
Một là, các nhà làm luật Liên bang Nga dành một sự quan tâm đặc biệt đối với
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi quy
định hành vi lên đầu Chương xâm phạm về sức khỏe của BLHS. Điều này cho thấy
sự ưu tiên trong tư tưởng lập pháp của Liên bang Nga đối với vấn đề quyền con
người nói chung và quyền bảo vệ sức khỏe của con người trong BLHS nói riêng.
20
Hai là, khác với BLHS Việt Nam, Liên bang Nga xem hành vi gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác đã bao hàm luôn hành vi cố ý gây thương tích. Vì vậy,
họ không chia ra thành hai hành vi cụ thể giống Việt Nam là cố ý gây thương tích
và hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điều này có lẽ xuất phát từ
việc hành vi cố ý gây thương tích, xét đến cùng, là hành vi gây tổn hại đến sức khỏe
con người, chỉ là khác nhau ở tính chất, mức độ.
Ba là, so với Việt Nam, BLHS của Liên bang Nga đã có sự đã phân hóa hành
vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thành ba dạng
cụ thể, thể hiện các tính chất, mức độ của hành vi và tương ứng với đó là các mức
hình phạt khác nhau. Theo đó, hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
bao gồm: cố ý gây tổn hại ít nghiêm trọng đến sức khỏe; cố ý gây tổn hại nghiêm
trọng đến sức khỏe và cố ý gây tổn hại rất nghiêm trọng đến sức khỏe.
Như vậy, mặc dù có những điểm chung về lập pháp, nhưng quy định tương tự
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
BLHS Liên bang Nga có nhiều điểm khác biệt so với Việt Nam. Khách quan mà nói,
các quy định của họ đơn giản hơn và phân hóa hành vi cũng như TNHS rõ ràng hơn
chúng ta. Vì vậy, thiết nghĩ, Việt Nam chúng ta cần phải có sự chọn lọc, tiếp thu đầy
đủ các nhân tố hợp lý trong lập pháp của Liên bang Nga để góp phần hoàn thiện thêm
quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong BLHS.
1.3.2. Quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) ban hành BLHS vào
ngày 01/7/1979 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1980. Bộ luật này được sửa đổi, bổ
sung nhiều lần, gần đây nhất là sửa đổi vào năm 2007.
Liên quan đến các tội xâm phạm sức khỏe của người khác, BLHS Trung
Quốc quy định cụ thể tại Chương IV với 06 điều luật chính, bao gồm: hành vi cố ý
gây thương tích cho người khác (Điều 234); hành vi vô ý gây thương tích nặng cho
người khác (Điều 235); hành vi giam giữ trái pháp luật người khác hoặc bằng các
thủ đoạn khác tước đoạt phi pháp quyền tự do thân thể của người khác (Điều 238);
21
hành vi của nhân viên tư pháp mà tiến hành bức cung đối với bị can, bị cáo hoặc
dùng vũ lực bức cung nhân chứng (Điều 247); hành vi của nhân viên quản giáo của
nhà tù, trại giam mà có hành vi đánh đập hoặc ngược đãi đối với những người bị
giám quản, nếu có tình tiết nghiêm trọng (Điều 248) và hành vi ngược đãi thành viên
trong gia đình, có tình tiết xấu xa (Điều 260) [6; tr.156-168].
Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được quy định tại
Điều 234 BLHS Trung Quốc. Theo đó, người nào có hành vi cố ý gây thương tích cho
người khác, thì bị phạt tù đến 03 năm, cải tạo lao động hoặc quản chế [6, tr.156];
Trên cở sở nghiên cứu quy định về hành vi cố ý gây thương tích cho người
khác trong BLHS Trung Quốc, so sánh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác của BLHS Việt Nam, có thể đưa ra các nhận xét sau đây:
Thứ nhất, hành vi cố ý gây thương tích cho người khác trong BLHS Trung
Quốc không được nêu thành tội danh mà chỉ mô tả hành vi phạm tội trong nội dung
của điều luật. Còn đối với Việt Nam, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được gọi tên rất cụ thể tại Điều 134 BLHS năm 2015.
Thứ hai, khác với Việt Nam, BLHS Trung Quốc chỉ đề cập đến hành vi cố ý
gây thương tích chứ không thể hiện hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. Điều này khác với cả BLHS Liên bang Nga, nhưng nhìn ở góc độ kỹ thuật lập
pháp, thì dường như ở hai nước này lại có điểm chung là hành vi cố ý gây thương
tích đã bao hàm trong đó nội dung gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và
ngược lại. Có thể thấy, các nhà làm luật của Việt Nam có sự tiếp thu quy định của
hai nước, đồng thời cho rằng, đây là hai loại hành vi cần có sự phân biệt để phân
hóa TNHS, vì vậy, Việt Nam quy định cả hai hành vi này trong cùng một điều luật.
Thứ ba, về hình phạt, BLHS Trung Quốc quy định chế tài đối với hành vi cố
ý gây thương tích cho người khác có sự đa dạng so với Việt Nam. Bên cạnh hình
phạt tù, BLHS còn mở rộng khi quy định các chế tài khác ngoài tù gồm lao động cải
tạo và quản chế. Có lẽ, trong tư duy của nhà làm luật Trung Quốc, đối với loại hành
vi phổ biến như cố ý gây thương tích thì việc quy định các chế tài ngoài tù là phù
hợp với thực tiễn. Bởi lẽ, việc quy định này sẽ giảm được áp lực cho các cơ sở giam
22
giữ, hơn nữa đối với các hành vi cố ý gây thương tích có mức độ ít nghiêm trọng thì
việc quản chế hoặc lao động có lẽ mục đích cải tạo sẽ hữu hiệu hơn.
Như vậy, BLHS Trung Quốc chưa có sự phân hóa trong hành vi cố ý gây
thương tích cho người khác triệt để bằng Việt Nam. Tuy nhiên, quy định về hành vi
cố ý gây thương tích cho người khác lại được tinh gọn. Đặc biệt, chế tài xử lý đối
với hành vi cố ý gây thương tích cho người khác được mở rộng sang các hình phạt
khác như lao động cải tạo, quản chế. Đây là điểm tiến bộ, thiết nghĩ, khi điều kiện
kinh tế - xã hội cho phép, Việt Nam chúng ta nên học hỏi để áp dụng cho phù hợp.
1.3.3. Quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản
Nhật Bản ban hành BLHS vào năm 1908. Sau đó, BLHS này chỉnh lý nhiều
lần, lần gần đây nhất là sửa đổi, bổ sung vào năm 2011. Bộ luật có 40 chương và
264 điều. Các tội xâm phạm sức khỏe của con người được quy định tại chương 27
và 28 bao gồm 10 điều bao gồm: tội gây thương tích (Điều 204); tội gây ra thương
tích dẫn đến chết người (Điều 205); tội vào hùa tại hiện trường (Điều 206); tội đặc
lệ của việc đồng thời gây ra thương tích (Điều 207); tội hành hung (Điều 208); tội
lái xe nguy hiểm gây ra thương tích hoặc chết người (Điều 208-2); tội tập hợp và tụ
tập chuẩn bị hung khí (Điều 208-3); tội sơ ý gây ra thương tích (Điều 209); tội sơ ý
dẫn tới chết người (Điều 210); tội bất cẩn trong khi làm việc gây ra thương tích
hoặc chết người (Điều 211). [10, tr.158-162].
Trong đó, hành vi cố ý gây thương tích được quy định Điều 204 và đứng đầu
chương 27 BLHS Nhật Bản (nhóm tội gây thương tích với lỗi cố ý). Theo đó, người
nào phạm tội gây thương tích, thì bị phạt tù dưới 15 năm hoặc phạt tiền dưới 50 vạn
Yên [10, tr.158].
Qua nghiên cứu quy định nói trên của BLHS Nhật Bản, đối chiếu với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Việt
Nam, có thể đưa đến một số nhận định như sau:
Thứ nhất, BLHS Nhật Bản quy định tội danh về cố ý gây thương tích rất
ngắn gọn, súc tích (Tội gây thương tích). Điều này xuất phát từ việc BLHS của họ
đã chia nhóm tội xâm phạm sức khỏe thành hai chương riêng biệt: Chương 27 là
23
nhóm tội (cố ý) gây thương tích; Chương 28 là nhóm tội sơ ý gây thương tích.
Thứ hai, ngoài hình phạt tù, BLHS Nhật Bản còn cho phép áp dụng hình phạt
tiền đối với hành vi gây thương tích. Đây là điểm khác biệt với Việt Nam, việc áp
dụng hình phạt tiền của chúng ta chỉ mang tính chất là hình phạt bổ sung chứ không
phải là hình phạt chính. Đặc biệt, nhìn ở phương diện tư duy lập pháp, các nhà làm
luật Việt Nam rất coi trọng khách thể là sức khỏe con người nên việc áp dụng hình
phạt tiền là không thể. Điều này bắt nguồn từ cách nhìn nhận tầm quan trọng khách
thể xâm hại có sự khác nhau giữa hai nước. Song, ở tương lai, khi văn hóa - pháp lý
nước ta được nâng cao, có lẽ việc quy định thêm hình phạt tiền cần phải được xem
xét, học hỏi áp dụng.
Thứ ba, BLHS Nhật Bản đã tách tội gây thương tích và tội gây thương tích
dẫn tới chết người thành hai điều luật riêng biệt, còn Việt Nam lại quy định đó là
tình tiết tăng nặng TNHS ngay trong điều luật quy định tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Như vậy, BLHS Nhật Bản cũng có những điểm gần với BLHS Việt Nam
trong việc quy định hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Tuy nhiên, quy định về tội gây thương tích của Nhật Bản súc tích hơn.
Bên cạnh đó, các chế tài áp dụng đối với hành vi gây thương tích cũng đa dạng và
có phần nhẹ hơn. Đây là các điểm khác biệt mà nếu điều kiện cho phép, chúng ta
nên vận dụng vào lập pháp cũng như thực tiễn áp dụng sau này.
24
Tiểu kết chương 1
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là bộ phận quan trọng của quyền con
người được pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng thừa nhận.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là quy định
đã được hình thành, xây dựng, và hoàn thiện qua các thời kỳ của pháp luật hình sự
Việt Nam dưới nhiều tên gọi khác nhau nhưng mang nội hàm giống nhau nhằm bảo
vệ quyền chính đáng của con người. Do đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan
tâm làm rõ, đặc biệt trong sách báo pháp lý hình sự Việt Nam. Trải qua quá trình
hình thành và phát triển, quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác đã được góp ý, sửa đổi để phù hợp với tình hình tội phạm.
Mặt khác, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
không chỉ được xem xét ở góc độ lịch sử lập pháp trong nước mà còn có sự đối
chiếu, so sánh với các quy định trong LHS một số nước trên thế giới. Qua đó,
Chương 1 đã khái quát những đặc điểm cơ bản, đặc điểm riêng của các tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Từ đó tạo cơ sở lý luận
vững chắc để nghiên cứu sâu hơn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, từ đó tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam.
25
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS
năm 2015. Đây là BLHS mới đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập
pháp hình sự với nhiều thay đổi đáng kể. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 và đứng
đầu trong nhóm tội xâm phạm sức khỏe của người khác. Theo đó, tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có các dấu hiệu pháp lý
như sau:
Thứ nhất, về khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ
bị tội phạm xâm phạm bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở một mức
độ nhất định.
Theo đó, khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác xâm phạm đến quyền được tôn trọng, quyền được bảo vệ về
sức khỏe của người khác được pháp luật bảo hộ.
Người khác ở đây được hiểu là một con người cụ thể đang sống và tồn tại
theo quy luật tự nhiên mà không phải là chính bản thân người thực hiện hành vi
phạm tội. Nếu trong trường hợp một người gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của chính bản thân mình để trốn tránh nghĩa vụ phải làm thì tùy trường
hợp cụ thể có thể bị xem xét TNHS theo quy định của pháp luật.
26
Ví dụ như Nguyễn Văn B đã đến tuổi đi nghĩa vụ quân sự nhưng do bản thân
không muốn thực hiện nghĩa vụ quân sự nên B đã có hành vi “tự gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của mình để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự”.
Trong trường hợp này, B có thể bị truy cứu TNHS về “Tội trốn tránh nghĩa vụ quân
sự” theo quy định tại Điều 232 BLHS năm 2015.
Thứ hai, về mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài
thế giới khách quan, bao gồm các yếu tố: hành vi khách quan của tội phạm; hậu quả
của tội phạm; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội
phạm; phương pháp, phương tiện, công cụ, thủ đoạn; thời gian, không gian, nơi xảy
ra hành vi phạm tội....
Trong đó, hành vi khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con
người ra bên ngoài thế giới khách quan qua những hình thức cụ thể nhằm đạt được
những mục đích đã định trước.
Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã
hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm là mối
quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được xem là nguyên nhân (hành
vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (hậu quả của tội phạm).
Như vậy, mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được biểu hiện qua các dấu hiệu sau:
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật sự, thể hiện mong
muốn của người phạm tội.
Người phạm tội phải có hành vi tác động trực tiếp lên thân thể của người
khác như đâm, chém, đấm đá, đầu độc,… bằng cách sử dụng tay, chân hoặc sử dụng
những công cụ, phương tiện, vũ khí đa dạng như gạch, đá, gậy gộc, dao, búa, súng,
mã tấu,… nhằm mục đích làm cho người này bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức
khỏe. Ngoài ra người phạm tội thực hiện hành vi tác động gián tiếp lên cơ thể người
27
khác thông qua hình thức sử dụng súc vật như chó, thú dữ,…
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, nghĩa là người phạm tội
nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng vẫn mong muốn hoặc có ý thức để
mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác thông thường hay để lại những thương tích, dấu tính nhất định
trên cơ thể như: vết rách trên da cho bị dao chém, vết bầm tím do bị đánh bằng gậy,
vết bỏng do bị tạt axit… Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp hành vi phạm tội
không để lại thương tích, dấu vết trên thân thể mà để lại những tổn hại cho sức khỏe
của người khác như: bị đầu độc bằng thuốc độc dẫn đến suy kiệt về sức khỏe trong
thời gian dài,…
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội
phạm có cấu thành vật chất, nghĩa là hành vi phạm tội phải gây ra thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tội phạm mới hoàn thành, hay phải có
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe trên thực tế thì người thực hiện hành vi phạm
tội mới có khả năng bị truy cứu TNHS. Như vậy, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc phải
có của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Theo đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác phải gây ra hậu quả là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác
biểu hiện qua tỷ lệ tổn thương cho cơ thể được đánh giá, xác định một cách kỹ càng
thông qua giám định của hội đồng giám định pháp y trong mọi trường hợp. Tỷ lệ
tổn thương cơ thể vừa là yếu tố định tội, vừa là yếu tố định khung tăng nặng TNHS.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể càng cao thì khung hình phạt quy định cũng như hình phạt
được áp dụng càng cao.
Kế thừa Điều 104 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, BLHS năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác vẫn được cấu tạo theo hướng lấy tỷ lệ thương tật làm
căn cứ xác định TNHS đối với người phạm tội. Đồng thời, do yêu cầu của công
28
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nên nhà làm luật còn quy định thêm một số
trường hợp tuy hành vi cố ý gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật dưới
mức quy định nhưng vẫn có thể bị truy cứu TNHS.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị
truy cứu TNHS về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác khi gây ra hậu quả mà tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% đến 30%
hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng
gây nguy hại cho nhiều người:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ
và công cụ hỗ trợ năm 2017, vũ khí được hiểu là “thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp
những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại
cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí
quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác
dụng tương tự”.
Đồng thời, Khoản 7 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công
cụ hỗ trợ năm 2017 hướng dẫn vật liệu nổ là “sản phẩm dưới tác động của xung
kích thích ban đầu gây ra phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt, sinh khí, phát
sáng, tạo ra tiếng nổ, bao gồm: Thuốc nổ là hóa chất hoặc hỗn hợp chất được sản
xuất, sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của xung kích thích; phụ kiện
nổ là kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng
tạo xung kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc thiết bị chuyên dùng có
chứa thuốc nổ”.
Tại tiểu mục 3.1 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006
của TANDTC hướng dẫn dùng hung khí nguy hiểm là trường hợp dùng vũ khí hoặc
phương tiện nguy hiểm để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Trong đó, vũ khí là gì đã được giải thích còn phương tiện nguy hiểm là
“công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người
(trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm
29
phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội
có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ
gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công. Về công cụ,
dụng cụ, ví dụ như búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn... Về vật mà người
phạm tội chế tạo ra, ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ... Về vật có sẵn trong tự
nhiên, ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, thanh sắt...” (theo Tiểu mục 2.2 Mục 2 Nghị
quyết 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn).
Bên cạnh đó, dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là
trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội bằng cách dùng thủ đoạn
không chỉ nhằm xâm hại một người nào đó mà thủ đoạn này còn có khả năng gây
nguy hại cho nhiều người. Ví dụ đặt khúc gỗ ngang đường giao thông khuất tầm
nhìn trong đêm tối để gây tai nạn chp người đi xe máy, làm nhiều người bị thương
tích,…
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm:
A-xít nguy hiểm được hiểu là hợp chất hóa học có tính sát thương cao, khi
tiếp xúc với da, a-xít phá vỡ các mô liên kết và hút nước của tế bào dẫn đến bỏng và
hoại tử da; nếu không kịp thời sơ cứu, a-xít ăn sâu vào phần cơ và gân gây ra tình
trạng bỏng nặng co rút, nếu sâu hơn sẽ hủy hoại cả xương và khớp dẫn đến tàn phế
suốt đời.
Khoản 4 Điều 4 Luật hóa chất 2007 hướng dẫn, hóa chất nguy hiểm là “hóa
chất có một hoặc một số đặc tính nguy hiểm sau đây theo nguyên tắc phân loại của
Hệ thống hài hòa toàn cầu về phân loại và ghi nhãn hóa chất: Dễ nổ; ôxy hóa
mạnh; ăn mòn mạnh; dễ cháy; độc cấp tính; độc mãn tính; gây kích ứng với con
người; gây ung thư hoặc có nguy cơ gây ung thư; gây biến đổi gen; độc đối với sinh
sản; tích lũy sinh học; ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ; độc hại đến môi trường.”
- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm
đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ:
Đối với người dưới 16 tuổi nghĩa là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
30
gây tổn hại cho sức khỏe của người dưới 16 tuổi, không phụ thuộc vào ý thức chủ
quan của người phạm tội có nhận biết được hay không nhận biết được nạn nhân là
người dưới 16 tuổi hay không.
Đối với phụ nữ mà biết là có thai là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe đối với người phụ nữ đang mang thai và người thực hiện
hành vi phạm tội nhận biết được nạn nhân là phụ nữ đang có thai.
Đối với người già yếu, ốm đau là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe đối với người già, sức khỏe yếu kém, thường xuyên ốm đau.
Đối với người khác không có khả năng tự vệ là trường hợp cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người không có khả năng chống lại tự tấn
công của người phạm tội do hạn chế về thể chất hoặc tâm thần. Ví dụ gây thương
tích đối với người bệnh nằm liệt giường, không thể di chuyển được.
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng,
chữa bệnh cho mình:
Đối với ông, bà, cha, mẹ là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe đối với những người có quan hệ ruột thịt, huyết thống với người phạm tội.
Đối với thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên
chế hoặc theo hợp đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy
nghề được cơ quan chức năng có thẩm quyền cho phép vì lý do thực hiện nhiệm vụ
giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với người phạm tội, không phân biệt nhiệm
vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay
ngắn. (theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.3 Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP)
Đối với người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình là trường hợp cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đã và đang nuôi dưỡng, dạy
dỗ người phạm tội, người đã và đang chữa bệnh cho họ. Ví dụ gây thương tích cho
bác sĩ đang chữa bệnh cho người phạm tội.
31
- Có tổ chức:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác được thực hiện do nhóm người từ 02 người trở lên, có sự bàn bạc, phân
công, câu kết với nhau để cùng thực hiện hành vi phạm tội.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn và họ sử dụng chức
vụ, quyền hại của mình như một phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội.
- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang
chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Đây là trường hợp người phạm tội đang bị cơ quan có thẩm quyền kiểm soát
và đang bị áp dụng các biện pháp có tính chất cưỡng chế nhà nước mà thực hiện
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê:
Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
trường hợp người phạm tội không trực tiếp thực hiện hành vi gây thương tích mà
dùng tiền hoặc lợi ích khác để sai khiến người khác thực hiện hành vi gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê
là hành vi của người phạm tội được một người nào đó thuê gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vì tiền hoặc vì lợi ích vật chất khác.
Trong trường hợp này, hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe của người thuê hoặc người được thuê được coi là nghiêm trọng hơn trường
hợp cố ý gây thương tích bình thường, nên người bị hại chỉ bị thương tích hoặc tổn
hại đến sức khỏe dưới 11% do hành vi của người thuê hoặc người được thuê gây ra
thì người phạm tội đã bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015.
32
- Có tính chất côn đồ:
Tại Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công
tác ngành Tòa án năm 1995, TAND tối cao đã giải thích về tình tiết “có tính chất
côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được hiểu là hành động của những tên coi
thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích
(hay) dùng vũ lực để uy hiếp người khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì
một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết người. Hành động của chúng
thường là xâm phạm sức khoẻ, tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung
người khác một cách vô cớ hoặc vì một duyên cớ nhỏ nhặt...
Như vậy, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe có tính chất côn đồ
là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
người phạm tội thể hiện tính hung hãn cao độ, coi thường sức khỏe của người khác,
sẵn sàng dùng vũ lực gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người khác vì
nguyên cớ nhỏ nhặt.
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân mà thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của chính nạn nhân.
Khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%:
33
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đảm bảo 02 điều kiện:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong
một lần hoặc nhiều lần đối với một người.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần
từ 11% đến 30%.
- Phạm tội 02 lần trở lên:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác từ 02 lần trở lên, có thể đối với một người hoặc đối với nhiều người và
trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu
TNHS và chưa hết thời hiệu xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu TNHS.
- Tái phạm nguy hiểm:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015, tái phạm nguy hiểm là
trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc người
phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do
cố ý.
Trong đó, tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại
thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý theo quy định tại Khoản 1
Điều 53 BLHS năm 2015.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các
trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
34
đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo
của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ,
quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang
chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; thuê gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; có tính chất côn đồ;
đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Khoản 3 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản
4 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên và không thuộc trường hợp gây
thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 02 điều kiện:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong
một lần hoặc nhiều lần đối với một người.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần
từ 31% đến 60%.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
35
các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các
trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo
của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ,
quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt
tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang
chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc,
đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; thuê gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; có tính chất côn đồ;
đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 03 điều kiện:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong
một lần hoặc nhiều lần đối với một người.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần
từ 11% đến 30%.
+ Thuộc một trang các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy
hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy
hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có
thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông,
bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
36
có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm
giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được
thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân.
Khoản 4 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Làm chết người:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác dẫn đến chết người, người phạm tội thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối
với hậu quả chết người xảy ra, nghĩa là người phạm tội thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có
thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó; việc nạn
nhân chết là chẳng may và ngoài ý muốn của người phạm tội. Đồng thời, giữa cái
chết của nạn nhân và thương tích của người phạm tội gây ra cho nạn nhân có mối
quan hệ nhân quả.
- Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên và hậu quả dẫn đến làm biến
dạng vùng mặt của nạn nhân.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
37
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 02 điều kiện:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong
một lần hoặc nhiều lần đối với một người.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần
61% trở lên.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các
điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 02 điều kiện:
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của của nạn nhân từ 61% trở lên.
+ Thuộc một trang các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy
hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy
hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có
thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông,
bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm
giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được
thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 03 điều kiện:
38
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong
một lần hoặc nhiều lần đối với một người.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần
từ 31% đến 60%.
+ Thuộc một trang các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy
hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy
hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có
thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông,
bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm
giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được
thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân.
Khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015, người phạm tội bị truy cứu TNHS về
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Làm chết 02 người trở lên:
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác dẫn đến làm chết từ 02 người trở lên, người phạm tội thực hiện hành vi
có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra, nghĩa là người phạm tội thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả
đó; việc cả 02 nạn nhân đều chết là chẳng may và ngoài ý muốn của người phạm tội.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ
39
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS:
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và đảm bảo 03 điều kiện:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên trong
một lần hoặc nhiều lần đối với một người.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người hoặc của một người trong mỗi lần
từ 61% trở lên.
+ Thuộc một trang các trường hợp: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy
hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; dùng a-xít nguy
hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có
thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông,
bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm
giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa
vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được
thuê; có tính chất côn đồ; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công
vụ của nạn nhân.
Khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015 cũng quy định trường hợp chuẩn bị
phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, theo
đó người phạm tội bị truy cứu trách TNHS về tội phạm này khi người phạm tội
chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy
hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Thứ ba, về chủ thể của tội phạm:
Điều 12 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định tuổi chịu TNHS
như sau:
40
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà BLHS quy định khác.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong số các điều
123, 134, 141, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251,
252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS năm 2015.
Như vậy, người chịu TNHS phải đến độ tuổi nhất định từ đủ 14 tuổi trở lên,
bởi đối với những người dưới 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ, chưa nhận thức
toàn diện về hành vi nguy hiểm cho xã hội, chưa đủ khả năng để đánh giá chính xác
tác hại và hậu quả do hành vi của mình gây ra, thậm chí chưa có nhiều kinh nghiệm
sống, dễ bị lôi kéo, dụ dỗ, kích động phạm tội.
Như vậy, căn cứ vào quy định của phát luật, chủ thể của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là bất kỳ người nào có đủ năng
lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác thì người phạm tội có khả năng nhận thức được tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình gây ra và họ hoàn toàn có đủ
khả năng để điều hiện được hành vi đó của mình.
+ Thứ hai, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì chỉ chịu TNHS về tội
phạm này theo quy định tại Khoản 3, 4, 5 Điều 134 BLHS năm 2015. Còn đối với
người từ đủ 16 tuổi trở lên thì khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác đều phải chịu TNHS về tội phạm này theo quy
định tại tất cả các khoản của Điều 134 BLHS năm 2015.
Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm là một thể thống nhất giữa hai mặt khách quan và mặt chủ quan.
Trong đó, mặt khách quan là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới
khách quan còn mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội.
Với ý nghĩa trên, mặt chủ quan của tội phạm không thể tách rời mà luôn gắn liền
41
với mặt khách quan của tội phạm, nghĩa là hoạt động tâm lý bên trong của người
phạm tội luôn có quan hệ chặt chẽ với những biểu hiện bên ngoài của tội phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm những dấu hiệu: lỗi, động cơ và mục
đích phạm tội. Trong đó:
+ Lỗi được hiểu là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm phản ánh trạng
thái tâm lý bên trong của người phạm tội dưới sự điều khiển của tâm lý, ý chí và
mong muốn đạt được mục đích nhất định, thông qua lỗi người phạm tội lựa chọn
thực hiện hành vi phạm tội cụ thể và biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan.
+ Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy, thôi thúc
người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý.
+ Mục đích phạm tội được hiểu là kết quả mong muốn đạt được trong ý thức
chủ quan của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trong ba dấu hiệu trên của mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt
buộc của bất kỳ cấu thành tội phạm nào, bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý; còn động cơ
và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm nhưng cả hai
dấu hiệu này được quy định là tình tiết định khung trong một số cấu thành tội phạm,
do đó nó có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tội danh để quyết định hình
phạt.
Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, dấu hiệu lỗi của tội phạm này đã được thể hiện ở ngay trên tội danh của nó.
Theo đó, người phạm tội thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác với lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý
gián tiếp. Người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể mong
muốn hậu quả xảy ra hoặc có thể không mong muốn xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc
và chấp nhận hậu quả đó xảy ra. Trong trường hợp, người phạm tội thực hiện hành
vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với lỗi vô ý thì
không phạm tội này.
Mặc dù dấu hiệu động cư và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt
buộc trong mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
42
của người khác nhưng cả hai dấu hiệu đều có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
tội danh, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định hình
phạt, tránh nhầm lẫn với một số tội phạm khác như tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh,…
2.1.2. Hình phạt
Về bản chất, hình phạt là biện pháp tác động mà Nhà nước mong muốn đạt
được khi quy định và áp dụng BLHS đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm
tội. Đi từ BLHS, chúng ta thấy các loại TNHS được quy định rất đa dạng và nhiều
mức độ khác nhau. Trong đó, hình phạt là một hình thức chủ yếu và phổ biến của
BLHS có độ nghiêm khắc cao so với các hình thức TNHS khác. Dù là hình phạt gì
đi nữa thì xét đến cùng, hoặc là tước hoặc là hạn chế các quyền, lợi ích của người bị
kết án ở từng mức độ khác nhau. Các khung hình phạt của tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng được phân cấp thành các mức
độ cụ thể.
Theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, hình
phạt áp dụng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác được chia thành sáu khung hình phạt khác nhau. Cụ thể như sau:
- Khung hình phạt tại Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015:
Người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ
06 tháng đến 03 năm khi thực hiện hành vi cố ý gây thương hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới
11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm k
Khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015.
- Khung hình phạt tại Khoản 2 Điều 134 BLHS năm 2015:
Người phạm tội bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm khi thực hiện hành vi phạm
tội thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm đ Khoản 2
Điều 134 BLHS BLHS năm 2015.
- Khung hình phạt tại Khoản 3 Điều 134 BLHS năm 2015:
43
Người phạm tội bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm khi thực hiện hành vi phạm
tội thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm d Khoản 3
Điều 134 BLHS BLHS năm 2015.
- Khung hình phạt tại Khoản 4 Điều 134 BLHS năm 2015:
Người phạm tội bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm khi thực hiện hành vi phạm
tội thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đến điểm đ Khoản 4
Điều 134 BLHS BLHS năm 2015.
- Khung hình phạt tại Khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015:
Người phạm tội bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân khi thực
hiện hành vi phạm tội thuộc một trong các trường hợp được quy định tại điểm a,
điểm b Khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015.
- Khung hình phạt tại Khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015:
Người phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ
03 tháng đến 02 năm khi có hành vi chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy
hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội
phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với một số tội phạm khác
2.2.1. Phân biệt biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Giữa hai tội này đều có điểm chung là hành vi cố ý gây thương tích hoặc cố
ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác, song chúng phân biệt nhau ở dấu hiệu
“trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.
Hiểu một cách khái quát, tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng không
hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình. Nói cách khác, trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế
ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển
hành vi. Như vậy, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái mà tâm lý bị
ức chế ở mức độ cao dẫn đến nhận thức bị hạn chế làm giảm đáng kể khả năng điều
44
khiển hành vi, nhưng vẫn còn khả năng điều khiển hành vi của mình. .
Có thể lý giải vì sao trong trường hợp bình thường họ không phạm tội mà
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh họ phạm tội thông qua mức độ nhận
thức của họ trong lúc này. Bình thường, họ nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được điều
đó là sai, trái pháp luật, phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý nên họ kiềm chế hành vi
của mình. Tuy nhiên, trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mức độ nhận
thức của họ giảm đi đáng kể. Họ vẫn có thể nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó, nhận thức một cách khái quát về hậu quả
mà họ không quan tâm đến, không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp
luật cũng như không nhận thức được sẽ phải gánh lấy hậu quả pháp lý từ hành vi
của mình. Thực tế đó làm giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi
của mình (chứ không phải mất hẳn) và kết quả là hành vi phạm tội xảy ra.
Với cách hiểu này, xét ở góc độ chủ quan người phạm tội, có thể phân biệt
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh ở mức độ nhận thức của người phạm tội khi thực hiện hành
vi. Khi thực hiện hành vi, nếu người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, có thể gây ra hậu quả cụ thể nào, bất chấp việc hành vi của
mình có trái pháp luật và mình phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không thì có thể
coi đây là trường hợp “trạng thái tinh thần bị kích động. Làm sáng tỏ điểm này phải
căn cứ vào từng đối tượng cụ thể. Có trường hợp đối với đối tượng đó là bị kích
động mạnh nhưng đối với đối tượng khác thì không. Ví dụ, khi phát hiện vợ mình
ngoại tình với người khác tại nhà mình, có người vác dao chém đôi tình nhân này.
Tuy nhiên, có người bình tĩnh yêu cầu họ mặc đồ vào để nói chuyện nghiêm túc.
Ngoài ra, còn có thể dựa vào nguyên nhân dẫn đến trạng thái tinh thần bị
kích động để xác định tinh thần có bị kích động mạnh hay không. Nguyên nhân làm
cho “tinh thần bị kích động mạnh” là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn
nhân hoặc của người khác. Tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp
luật của nạn nhân là một căn cứ để xem tinh thần của người phạm tội có bị kích
45
động mạnh hay không. Khi xem xét tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi
trái pháp luật của người bị nạn, cần đánh giá toàn diện về cả cường độ lẫn số lượng
của hành vi. Có trường hợp hành vi có cường độ mạnh nhưng chỉ xảy ra một lần
cũng đủ dẫn đến kích động mạnh. Hoặc có trường hợp, hành vi dù cường độ thấp
nhưng xảy ra nhiều lần cũng có thể dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh.
2.2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tội giết người chưa đạt
Để phân biệt hai tội danh này cần xuất phát từ sự phân tích mặt chủ quan của
CTTP. Theo đó, để xác định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp thì khi thực hiện
hành vi, họ phải nhận thức được hậu quả chết người /thương tích, tổn hại sức khoẻ
sẽ xảy ra từ hành vi của mình, mong muốn hậu quả đó xảy ra. Vì vậy, đối với tội
giết người chưa đạt và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác, nhất thiết phải làm rõ yếu tố lỗi của người phạm tội.
Bên cạnh đó, hậu quả là yếu tố đi liền để phân biệt hai tội danh này. Ví dụ
như nếu hậu quả xảy ra chỉ là thương tích, mục đích cũng là thương tích thì đó là tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Nên nhớ rằng,
hậu quả chết người đều chứa đựng trong CTTP của cả hai tội. Do đó, hậu quả chết
người (nếu không phù hợp với ý thức chủ quan) của người phạm tội thì không thể
xem là dấu hiệu phân biệt. Vì vậy, chúng ta cần phải xem xét cả lỗi về mặt hậu quả,
tức là người phạm tội có mong muốn đạt được hậu quả chết người hay không. Cụ
thể, nếu hậu quả chết người xảy ra không có mối quan hệ nhân quả với hành vi
phạm tội, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác dẫn đến hậu quả chết người.
Như vậy, việc phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác với tội giết người chưa đạt không những dựa trên việc cân
nhắc, xem xét yếu tố lỗi, mục đích, động cơ phạm tội; còn phải tính đến mối quan
hệ hành vi – hậu quả và hậu quả thực tế xảy ra như thế nào. Từ đó, mới đủ cơ sở kết
luận hành vi nào là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác dẫn đến chết người, hành vi nào là giết người chưa đạt. Trong đó, ưu tiên hàng
đầu chính là xác định ý thức chủ quan của người phạm tội
46
2.3. Thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
2.3.1. Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam
Điện Bàn là thị xã nằm phía bắc của tỉnh Quảng Nam, giáp với thành phố
Đà Nẵng. Thị xã Điện Bàn có diện tích tự nhiên là 214,28 km², dân số là 245.013
người (năm 2019), mật độ dân số đạt 1.143 người/km². Đây là những đặc điểm
tạo tiền đề cho sự phát triển về mọi mặt cho Điện Bàn.[35]
Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có vị trí giáp ranh thành phố Đà Nẵng
và thành phố Hội An, có nhiều khu công nghiệp tập trung thu hút lượng lớn lao
động đến làm việc. Trung tâm Điện Bàn là phường Vĩnh Điện sầm uất, với khu
công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc. Trong những năm gần đây, Điện Bàn đã có
những thay đổi mạnh mẽ về diện mạo, đang dần trở thành một trong những trung
tâm kinh tế - văn hóa lớn ở Bắc Quảng Nam. Bên cạnh những thuận lợi nhất định,
Điện Bàn vẫn còn nhiều khó khăn thách thức, cụ thể như trình độ dân trí chưa
cao, tệ nạn xã hội còn nhiều, diễn biến phức tạp. Đặc biệt, một bộ phận thanh
thiếu niên tại đây bỏ học sớm, sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật là vấn đề
mà chính quyền Điện Bàn đang hết sức quan ngại. Tuy vậy, nhìn chung, Điện
Bàn là địa bàn có tình hình an ninh, chính trị tương đối ổn định.
Các đặc điểm trên là môi trường phát sinh các loại tội phạm, đặc biệt là các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác, trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Điểm đáng chú ý là các vụ án gây
thương tích trên địa bàn có nhiều tình tiết phức tạp, đối tượng thường sử dụng
hung khí nguy hiểm dẫn đến hậu quả khá nặng nề và gây dư luận hoang mang
trong xã hội.
2.3.2. Tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Có thể nói, tình hình cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam diễn biến phức tạp,
được thể hiện qua bảng dưới đây:
47
Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam đã được
Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn 2013-2018
Thời gian Số vụ Số bị cáo Ghi chú
27 35 Năm 2013
28 34 Năm 2014
33 40 Năm 2015
29 45 Năm 2016
36 42 Năm 2017
40 58 Năm 2018
39 60 Năm 2019
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2018 của Tòa án thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam
Qua bảng trên, có thể thấy, số vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại
cho sức khỏe của người khác ở Điện Bàn luôn có sự biến thiên song số người phạm
tội này có xu hướng tăng dần. Đặc biệt, mặc dù năm 2016 có giảm 04 vụ so với năm
2015, năm 2019 giảm 01 vụ so với năm 2018, nhưng số lượng bị cáo không ngừng
tăng cao. Điều này cho thấy, án gây thương tích không những không giảm mà còn
tăng về số người tham gia, có sự tăng dần về mặt tổ chức, quy mô. Có lẽ đây là tín
hiệu đáng báo động với một thị xã như Điện Bàn.
Đáng chú ý hơn, nếu so sánh các số liệu này với số án cố ý gây thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác ở một thành phố sôi động như Tam Kỳ
thì vẫn thấy sự nổi bật của Điện Bàn:
48
Bảng 2.2. Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam đã
được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn 2013-2018
Thời gian Số vụ Số bị cáo Ghi chú
20 25 Năm 2013
18 23 Năm 2014
21 24 Năm 2015
22 25 Năm 2016
18 20 Năm 2017
20 24 Năm 2018
19 23 Năm 2019
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2018 của Tòa án thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam
Qua bảng 2.2, số án mà Tòa án Tam Kỳ thụ lý, giải quyết qua các năm có sự
dao động không lớn. Đặc biệt, số bị cáo qua các năm cũng không vượt con số 25 bị
cáo. Điều này cho thấy tội phạm cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của
người khác ở Tam Kỳ có quy mô, mức độ không lớn hơn thị xã Điện Bàn, trong khi
đó Tam Kỳ là nơi đô thị sầm uất, đông đúc hơn. Như vậy, tội phạm cố ý gây thương
tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Điện Bàn có tính điển hình và phổ
biến. Thời gian gần đây, đặc biệt là năm 2018 và năm 2019, tình hình tội phạm cố ý
gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam xảy ra với tính chất, mức độ ngày càng manh động, liều lĩnh, nguy hiểm, côn
đồ có sử dụng hung khí. Hậu quả làm thiệt hại đến sức khỏe con người, thiệt hại về
vật chất, có những vụ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng và đặt biệt nghiêm trọng.
Càng lúc, tội phạm này trên địa bàn càng gây ra nhiều dư luận, bức xúc trong quần
chúng nhân dân.
Bên cạnh đó, tìm hiểu về loại tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức
khỏe của người khác ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, chúng ta sẽ thấy được
loại tội này đang có sự phân hóa hết sức rõ nét được thể hiện qua bảng sau đây:
49
Bảng 2.3. Nhân thân các bị cáo đã bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét xử về cố ý gây
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác giai đoạn 2013-2018
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
NĂM Trình độ văn Tái phạm, tái Chưa hóa thấp (dưới Nữ phạm nguy thành niên 12) hiểm
25 2 10 3 2013
24 3 10 4 2014
26 3 12 6 2015
24 4 9 8 2016
26 4 11 7 2017
33 5 15 7 2018
158 67 35 21 TỔNG
Nguồn: Thống kê của Viện kiểm sát thị xã Điện Bàn, Quảng Nam
Có thể thấy, các vụ án cố ý gây thương tích ở Điện Bàn có sự phân hóa dựa
trên các đặc điểm nhân thân người phạm tội, cụ thể:
Về giới tính: Đa số người phạm tội là nam giới, do cấu trúc tâm sinh lý của
nữ giới thường thích hợp với những công việc có tính chất nhẹ nhàng, do đó khả
năng thực hiện tội phạm của nữ giới là rất hạn chế; tuy nhiên, hiện nay tội phạm cố
ý gây thương tích có người phạm tội là nữ giới đang có chiều hướng gia tăng, vì vậy
đây là vấn đề cần phải chú ý trong thời gian tới để có biện pháp phòng ngừa phù
hợp; trong các vụ cố ý gây thương tích có phụ nữ tham gia thì hầu hết các mâu
thuẫn phát sinh đều từ mâu thuẫn tình ái, làm ăn,... Đối tượng phạm tội là nam giới
chiếm tỷ lệ cao vì thường có tính khí nóng nãi, không kiềm chế được, thêm vào đó
lại có sức khỏe và hung hãn hơn nên rất dễ phạm tội.
Về độ tuổi: Trên 50% số vụ tội phạm cố ý gây thương tích, người phạm tội
có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi. Tuy nhiên, thành phần chưa thành niên có tỷ lệ phạm
tội không hề nhỏ. Nguyên nhân là do thành phần này chưa có kinh nghiệm sống, dễ
bị tác động từ môi trường xã hội, chưa biết kiềm chế trước các mâu thuẫn,... Cộng
50
thêm, các tác động tiêu cực từ người thành niên, xã hội, các phát triển của công
nghệ thông tin, thực phẩm… đã khiến thể chất, tâm lý, sinh lý của người chưa thành
niên bị mất cân đối, dẫn đến các hành vi lệch chuẩn và có xu hướng bạo lực. Đặc
biệt, tình trạng mê phim bạo lực rồi bắt chước làm theo đang là xu thế của giới trẻ
và gây ra không ít sai lầm đáng tiếc.
Về trình độ văn hóa: Qua theo dõi hầu hết các vụ cố ý gây thương tích thì
người phạm tội có trình độ văn hóa tương đối thấp, chủ yếu là trình độ văn hóa cấp
2. Do trình độ văn hóa thấp nên ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và hành động của
người phạm tội.
Về tiền án, tiền sự: Các đối tượng phạm tội hầu như chưa có tiền án, tiền sự.
Nhưng nếu đã có tiền án hoặc tiền sự thì thường rơi vào các trường hợp tái phạm,
tái phạm nguy hiểm. Điều đó cho thấy sự coi thường pháp luật của các đối tượng
phạm tội.
Về phương tiện, công cụ phạm tội rất đa dạng, chủ yếu là dao, mã tấu, gậy
gộc, các loại súng tự chế,… là những đồ vật gây sát thương cao mà người phạm tội
cố ý gây thương tích thường sử dụng.
Đáng lưu ý là trong thời gian gần đây người chưa thành niên tham gia vào
các vụ việc cố ý gây thương tích có xu hướng gia tăng. Những vụ gây gỗ, đánh nhau
giữa những học sinh cùng trường hay học sinh trường này gây sự với học sinh
trường khác xảy ra tại cổng trường có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt có trường hợp
học sinh đi học mang theo hung khí trong cặp để phòng vệ khi có ẩu đả xảy ra thì
sẵn sàng sử dụng.
Qua nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn Điện Bàn, có thể
đưa ra một số nguyên nhân làm phát sinh tội phạm cố ý gây thương tích như sau:
Một là, sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế
quốc tế bên cạnh những yếu tố tích cực còn phát sinh những vấn đề tiêu cực đã tác
động đáng kể đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là nguồn gốc phát sinh hoặc tạo
điều kiện cho tội phạm phát triển, trong đó có tội phạm cố ý gây thương tích. Đồng
thời làm phát sinh mâu thuẫn giữa con người và con người trong cạnh tranh làm ăn,
trong sinh hoạt đời thường,.. dẫn đến xãy ra xung đột, bạo lực.
51
Hai là, do ảnh hưởng ngày càng nhiều tình trạng phim, ảnh có tính chất bạo
lực xuất hiện trên những phương tiện thông tin đại chúng, nhất là game bạo lực đã
ảnh hưởng trực tiếp đến thanh thiếu niên, từ đó các em dễ sử dụng bạo lực, dao
kiếm để giải quyết mâu thuẫn cá nhân.
Ba là, do tình trạng đạo đức xã hội ngày càng xuống cấp, mặt khác việc lạm
dụng rượu, bia đã đến mức báo động, đối tượng sử dụng rượu bia cũng trẻ hóa,
trong lúc uống rượu bia dễ phát sinh mâu thuẫn; bị rượu, bia kích thích không kiềm
chế được bản thân đã dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn tại chỗ hoặc sau khi
uống rượu bia thì kéo bè phái đánh nhau. Sự du nhập của lối sống ích kỷ, tác động
hình thành bản tính coi thường người khác, nhất là một bộ phận thanh thiếu niên.
Bốn là, sự phối hợp giáo dục giữa Nhà trường và gia đình chưa thật sự chặt
chẽ, Nhà trường chưa trang bị đầy đủ kỹ năng sống, kiến thức pháp luật cho học
sinh, sinh viên. Bên cạnh đó một số gia đình do tập trung làm ăn, phát triển kinh tế
nên thiếu sự quan tâm, giáo dục con cái, buông lỏng sự quản lý, quá nuông chiều,
cung cấp tiền bạc cho con tiêu xài phung phí, không quan tâm đến việc học hành,
sinh hoạt của con, thiếu sự liên hệ với Nhà trường để quản lý con mình khi có biểu
hiện vi phạm, dẫn đến con cái bỏ học, tụ tập, ăn chơi phạm tội.
Năm là, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật của các cơ quan Nhà nước
chưa thật sự hiệu quả, chưa đi sâu vào từng người dân, từng bộ phận Nhân dân, từ
đó chưa nâng cao được ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Sáu là, công tác hòa giải cấp cơ sở chưa thật sự được chú trọng, quan tâm
đúng mức, mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ Nhân dân chưa được phát hiện kịp
thời, giải quyết một cách triệt để, dứt điểm, mâu thuẫn kéo dài dẫn đến các hành vi
cố ý gây thương tích.
2.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản
2.4.1. Một số tồn tại, hạn chế
Qua thực tiễn xét xử cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho
người khác thời gian vừa qua cho thấy hầu hết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được đưa ra xét xử một cách công khai,
kịp thời, bảo đảm được sự công minh của luật pháp và công bằng xã hội. Tuy nhiên,
52
bên cạnh những ưu điểm thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót trong việc
quyết định hình phạt; việc thu thập chứng cứ; việc bảo đảm thủ tục tố tụng nên dẫn
đến sai phạm.
Về hình phạt, có lúc Tòa án áp dụng hình phạt vượt quá mức “dự trữ”, tức là
còn nặng so với mức độ, tính chất hành vi phạm tội. Vụ án sau đây là minh chứng
rõ nét nhất cho điều đó:
Tối ngày 26/01/2014, Bùi Đức D cùng với Nguyễn Trọng N, Lê Xuân Ng,
Nguyễn Bá H, Dương Văn H, Mai Đắc Đ sau khi uống rượu rủ nhau đi uống cà phê.
H và Đ không đi mà về nhà ngủ, những người còn lại vẫn đi uống. Đến 19 giờ cùng
ngày, D, N, Ng và H rủ nhau đến chơi tại đám cưới nhà người quen. Ngồi một lúc
chỉ còn N ngồi chơi thì có một nhóm thanh niên đến đòi đánh N vì giữa N và nhóm
thanh niên trên đã mâu thuẫn với nhau từ trước. Trong lúc đánh nhau, D đã rút dao
bấm mang theo trong người đâm anh Hoàng Tuấn M. Hậu quả anh M bị thủng đại
tràng, tỷ lệ thương tật 36% sức khỏe. Do vậy, TAND thị xã Điện Bàn đã xét xử sơ
thẩm bị cáo D về tội cố ý gây thương theo khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999 là có
căn cứ pháp lý, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, việc Tòa án thị xã Điện Bàn tuyên phạt bị cáo Bùi Đức D 5 năm 3
tháng tù là quá nghiêm khắc. Bởi lẽ, mặc dù bị cáo đã gây thương tích cho người bị
hại với tỷ lệ thương tật là 36% nhưng bị cáo là người có đặc điểm nhân thân tốt, bên
cạnh đó lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 46
BLHS. Ngoài ra, khi phạm tội, bị cáo là người chưa thành niên, do đó bị cáo đã tác
động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại để khắc phục, bị hại đã làm đơn xin bãi
nại, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã xem xét
lại phần hình sự của bản án sơ thẩm và sửa xuống còn 04 năm tù.
Về hoạt động chứng minh, có lẽ thiếu sót, sai lầm trong việc thu thập, đánh
giá chứng cứ là phổ biến nhất, đơn cử như vụ án sau:
Khoảng 13 giờ ngày 06/5/2014, do có mâu thuẫn từ trước nên khi biết vợ
chồng anh S đang trên đường đi từ thành phố Tam Kỳ về thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam thì Nguyễn Văn N rủ thêm Q, H, B, C và M đến khu vực bãi tắm Hà
My để đánh anh S. N dặn chỉ được đánh dọa để răn đe anh Sinh, nhưng không ai
53
nói gì rồi tất cả cùng đi. N gọi điện thoại bảo anh S gặp nói chuyện tại khu vực Hà
My . Anh S chở chị Ng đi gần đến khu vực đã hẹn thấy có nhiều người nên quay xe
chạy về phía Điện Ngọc. Nhóm của N điều khiển xe vượt lên xe anh S, H dùng côn
sắt đánh 01 nhát vào vai trái chị Ng, anh S điều khiển xe vượt lên, Q chở H tiếp tục
đuổi theo, H dùng côn sắt đánh 01 nhát vào thái dương chị Ng, 01 nhát trúng vào
mũ bảo hiểm xe mô tô anh S đang đội trên đầu rồi trượt xuống đạp vào cánh tay trái
chị Ng. Anh S điều khiển xe đi tiếp khoảng 20 mét thì đâm vào cột mốc lộ giới làm
xe mô tô bị đổ, anh S, chị Ng bị ngã xuống đường. Hậu quả: Anh S tử vong tại chỗ,
chị Ng bị thương, tổn hại 40% sức khỏe.
Tại bản án sơ thẩm, Tòa án thị xã Điện Bàn đã áp dụng khoản 3 Điều 104
(thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999), điểm
p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20, Điều 53 (thêm điểm b, khoản 1 Điều 46 đối
với H và C; thêm Điều 69, 74 và Điều 47 đối với B), Xử phạt: Nguyễn Văn N 11
năm tù; Q 10 năm tù; H 9 năm 6 tháng tù; C 5 năm tù; B 36 tháng tù.
Như vậy, hành vi của các bị cáo là gây thương tích dẫn đến chết người. Tuy
vậy, các bị cáo bị xét xử về hành vi cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104
(thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999) là bỏ
lọt hành vi gây thương tích dẫn đến chết người. Mặt khác, tài liệu có trong hồ sơ
còn một số nội dung mâu thuẫn chưa được làm rõ: CQĐT không thu giữ chiếc mũ
bảo hiểm anh S đội trên đầu là vật chứng của vụ án để xác định bị cáo khai nhận có
vụt một đến hai nhát vào mũ bảo hiểm của anh S, sau đó trượt vào vai trái chị Ng có
căn cứ hay không? Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của chị Ng do CQĐT thị
xã Điện Bàn lập không mô tả hết các thương tích trên người chị Ng, vì lẽ các dấu
vết trên thân thể chị Ng không phù hợp với các thương tích có trong biên bản giám
định. Cụ thể, biên bản giám định thể hiện: Vết bầm tím dọc lưng vai trái kích thước
6x3 cm, không rõ hình, dấu vết được tạo nên do tiếp xúc với vật có tiết diện rộng;
Vết trên vai trái có vết bầm tím xước da không rõ hình, chỗ rộng nhất 3,5 cm, chiều
hướng dấu vết mờ dần từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên; Vùng thái dương trái có
vết thương dài 6 cm, bờ vết thương nham nhở. Nhưng Giấy chứng nhận thương tích
ngày 04/10/2014 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam lại thể hiện: Chị Ng bị
54
thương vùng thái dương bên trái dài 07 cm, bờ nham nhở không tổn thương xương
sọ; cổ trái có vết bầm tím (04x03) cm; vết bầm tím dọc lưng vai trái (07x03) cm,
vùng ngực trái ấn đau chói; bụng mềm nắn đau hạ sườn trái, sây sát da bàn chân
trái; X quang gãy xương sườn I, II, III, IV, VI. Biên bản khám nghiệm phương tiện
(xe mô tô) liên quan đến vụ án không mô tả tình trạng, kỹ thuật của xe mô tô anh S
điều khiển; vị trí nào của xe mô tô do anh S điều khiển va quyệt vào cột mốc lộ giới
ven đường dẫn đến ngã xe.
Mặc dù vụ án trên có nhiều vi phạm trong việc điều tra, thu thập chứng cứ,
truy tố và xét xử như đã nêu ở trên, lẽ ra VKSND thị xã Điện Bàn phải kháng nghị
để hủy án, trả hồ sơ điều tra, truy tố, xét xử lại theo khoản 3 Điều 104 BLHS năm
1999 (hành vi gây thương tích dẫn đến chết người). Nhưng xét thấy, mức hình phạt
đối với các bị cáo đã phù hợp và đảm bảo niềm tin của nhân dân vào cơ quan tư
pháp nên VKSND thị xã Điện Bàn không kháng nghị mà trao đổi với các cơ quan
THTT khác để rút kinh nghiệm.
Về thủ tục tố tụng, vẫn còn tồn tại rất nhiều những thiếu sót, sai phạm dẫn
đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có thể lấy vụ án sau làm ví dụ:
Khoảng 17 giờ 25 phút ngày 04/9/2013, Nguyễn Quang V (sinh năm 2003,
con của Nguyễn Quang H) trên đường đi học đạp xe về nhà, khi đến cổng nhà ông
L thì Phan Đình T điều khiển xe mô tô va chạm vào xe đạp của cháu V làm cả
người và xe té ngã xuống đường. Về nhà cháu V có kể cho mẹ là Nguyễn Thị L biết
việc ngã xe. Đến 21 giờ 15 phút cùng ngày chị L qua nhà anh T để hỏi rõ sự việc thì
đã xảy ra cãi nhau và xô xát. Khi chị L đi ra về thì anh T chạy theo ôm chị L lại và
dùng tay, chân đấm đá vào mặt làm chị L ngã xuống đất và kêu cứu. Lúc này,
Nguyễn Quang H (chồng chị L) đi làm về trên tay đang cầm một con dao, nghe thấy
vợ kêu cứu nên liềm cầm dao chạy qua nhà anh T dùng dao chém anh T gây thương
tích làm đứt cổ tay phải, sau đó H bỏ về nhà. Anh T được mọi người đưa đi cấp cứu
và sau đó giám định thương tích tổn hại 41% sức khỏe. Ngày 05/9/2013, chị L đi
điều trị tại Bệnh viện Đà Nẵng và giám địch thương tích bị tổn hại 8% sức khỏe.
Vụ việc xảy ra từ tối ngày 04/9/2013, ngay sau đó H đã trình báo Công an
xã, thì có anh Lê Văn Q là công an viên đã đến làm việc nhưng không có tài liệu gì
55
thể hiện quá trình làm việc của anh Q, không lập biên bản xác định hiện trường.
Ngày 05/9/2012, H đã giao nộp con dao cho Điều tra viên Lê Đức A lập biên bản
tạm giữ con dao H khai dùng chém anh T, nhưng CQĐT thị xã Điện Bàn không tiến
hành khám nghiệm hiện trường để ghi nhận dấu vết máu…và thu giữ các vật chứng.
Bị can, bị hại và những người liên quan biết việc đều có quan hệ thân thuộc, nhưng
chỉ ghi lời khai một chiều, không thể hiện sự đấu tranh những nội dung khai không
hợp lý (như H khai chỉ quơ dao nhưng Thắng bị đứt gần lìa cổ bàn tay phải…) lời
khai còn rất nhiều mâu thuẫn nhưng chưa đối chất đầy đủ, chẳng hạn như lời khai
của H với vợ là chị L: Tại bản khai ngày 13/12/2013 chị L khai qua nhà nói chuyện
thì bị T đánh ngã nên bò vào trong nhà lấy điện thoại gọi cho anh em. Việc anh T và
H đánh nhau như thế nào chị không được chứng kiến. Trong khi đó lời khai của H
ngày 01/10/2013 lại khai là thấy vợ kêu la bên nhà T nên chạy qua thấy T đang ôm
vật vợ của H nằm dưới đất, nên H để dao bên cạnh rồi kéo chân của T ra thì bị T
đấm vào mặt nên mới dùng dao chém T. Việc điều tra cũng chưa mở rộng những
nhân chứng khách quan như: hàng xóm và người biết sự việc khác (nếu có), chưa
ghi lời khai những người biết việc như con của anh T. Do vậy, Kết luận điều tra còn
sơ sài, nêu chung chung, trong khi tài liệu điều tra chưa chứng minh, làm rõ các nội
dung để xác định hành vi đánh chị L của anh Phan Đình T có tính chất côn đồ hay
không? Và để xác định đúng tội danh của bị can Nguyễn Quang H thì chưa làm rõ
một số tình tiết khi bị can H sang nhà anh T, anh T có đang vật đánh chị L không?
H có bị anh T dùng tay đấm vào mặt hay không?...
Chính vì sai phạm, thiếu sót trong quá trình điều tra cũng như kiểm sát điều
tra, mà vụ án đã kết luận điều tra nhưng chưa có đầy đủ các căn cứ chính xác để xác
định tội danh của Nguyễn Quang H và hành vi của Phan Đình T có phạm tội hay
không. Do đó, vụ án đã được Tòa án thị xã Điện Bàn yêu cầu trả hồ sơ để CQĐT
công an thị xã Điện Bàn làm rõ những nội dung trên và khắc phục những vi phạm
đã xảy ra.
Về phần dân sự, TAND thị xã Điện Bàn vẫn còn sai sót trong việc xem xét
đầy đủ các vấn đề như ai là người phải bồi thường thiệt hại, người được nhận bồi
thường, mức bồi thường, hóa đơn hợp pháp, các khoản yêu cầu bồi thường thiệt hại
56
về sức khỏe, tổn thất về tinh thần...
Đơn cử, vụ án Nguyễn Văn S và 3 bị cáo khác bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét
xử về tội cố ý gây thương tích cho anh Hoàng Văn N. Trong quá trình điều tra, các
bên trong vụ án đã thỏa thuận bồi thường 100 triệu đồng nhưng không xác định cụ
thể thỏa thuận bồi thường khoản tiền gì và không thu thập hóa đơn chứng minh thiệt
hại nên khi bị hại kháng cáo thay đổi thỏa thuận và yêu cầu bồi thường thêm 100
triệu đồng thì cấp phúc thẩm không có căn cứ gì giải quyết yêu cầu kháng cáo của
bị hại. Do đó, Tòa án tỉnh Quảng Nam đã hủy phần trách nhiệm dân sự trong bản án
hình sự sơ thẩm.
Như vậy, với đặc thù xét xử cả phần dân sự trong VAHS, Hội đồng xét xử và
đặc biệt là Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa gặp không ít khó khăn trong xử lý các
vấn đề dân sự, đó cũng là yếu tố dẫn đến các sai lầm.
Một tồn tại nữa là tình trạng bị hại trong vụ án từ chối giám định thương tích,
từ đó gây khó khăn cho các cơ quan THTT trong việc xử lý vụ án đúng quy định
pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm.
Vụ án “Cố ý gây thương tích” xảy ra ngày ngày 27/4/2018 tại xã Điện Minh,
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nguyễn Văn T cùng em ruột là Nguyễn Minh V
đến sân bóng chuyền thì gặp Hồ Văn H. Do có mâu thuẫn từ trước nên hai bên cãi
vã rồi xông vào đánh nhau; H bỏ chạy đến nhà bạn là Trương Văn K nói bị anh em
T đuổi đánh nên nhờ K dẫn về. Khi K dẫn Tân đi được khoảng 150m thì gặp anh
em T và Nguyễn Văn Tr. H chỉ tay nói “có giỏi thì đánh tao nữa đi”. Nghe vậy, T
cùng V, Tr chạy đến thì H và K bỏ chạy. K chạy vào một nhà ở gần đó lấy 01 con
dao chạy ra. K cầm dao xông vào chém T trúng mặt và tay trái. Ngày 28/4/2018,
Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam kết luận tỷ lệ thương tích của T là 19% nhưng bị
hại đang trong thời gian còn điều trị, do đó chỉ đánh giá tạm thời. Vì vậy, đề nghị
CQĐT Công an thị xã Điện Bàn trưng cầu giám định bổ sung sau khi đã điều trị ổn
định.
Ngày 01/6/2018 CQĐT đã trưng cầu giám định bổ sung đối với Nguyễn Văn
T. Ngày 11/6/2010, Trung tâm pháp y tỉnh P kết luận tỷ lệ thương tích của Nguyễn
Văn Tịnh là 13%. Trên cơ sở đó, VKSND thị xã Điện Bàn đã truy tố K về tội “Cố ý
57
gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS (dùng hung khí nguy
hiểm). Ngày 13/01/2019, TAND Điện Bàn đưa vụ án ra xét xử. Sau khi nghị án,
HĐXX đã quyết định trưng cầu giám định lại đối với người bị hại. Kết quả giám
định lại, tỷ lệ thương tích của bị hại giảm xuống còn 09%. Tuy nhiên, người bị hại
đã có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo trước ngày mở phiên tòa nên HĐXX đã
ra quyết định đình chỉ vụ án. Vì cho rằng Tòa án trưng cầu giám định không đúng
quy định của BLTTHS (không triệu tập người giám định tham gia tố tụng mà quyết
định trưng cầu giám định lại là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng) nên Viện
kiểm sát đã kháng nghị, hủy quyết định đình chỉ vụ án để điều tra lại. Quá trình điều
tra lại, do người bị hại từ chối giám định lại và sau đó bị hại đã không có mặt ở địa
phương nên việc giám định chưa thể tiến hành được, đã ảnh hưởng đến việc điều
tra, giải quyết vụ án.
2.4.2. Các nguyên nhân cơ bản
Như vậy, từ thực tiễn xét xử nói trên tại địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam, có thể nêu ra một số nguyên nhân cơ bản của những vi phạm, sai lầm và tồn tại
nêu trên như sau:
Một là, nguyên nhân khách quan của thực trạng nêu trên là do:
- Đặc thù của án gây thương tích là dựa trên thương tích trên người của bị hại
để xác định các vấn đề cần chứng minh. Thực tiễn cho thấy, các vụ án cố ý gây
thương tích xảy ra rất phức tạp, có nhiều vụ án số lượng người tham gia rất đông,
xảy ra ở nhiều nơi vắng vẻ, ít người, do đó, không thu giữ được hung khí gây án và
trên thân thể bị hại có nhiều vết thương với cơ chế gây nên thương tích cũng rất
khác nhau. Trong những trường hợp như thế, rất khó xác định ai đã gây nên vết
thương cụ thể nào cho bị hại, cũng như chứng minh về mặt tố tụng, từ đó có thể
việc định tội danh và quyết định hình phạt chưa chính xác;
- Một số quy định của pháp luật liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam và hệ thống văn
bản hướng dẫn còn chưa hợp lý và chưa được hướng dẫn, giải thích cụ thể, rõ ràng
dẫn đến nhận thức chưa thống nhất ngay trong nội bộ các cơ quan THTT và giữa
các cơ quan THTT với người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, từ đó
58
cũng ảnh hưởng đến việc định tội danh và quyết định hình phạt chính xác;
- Việc thực hiện giám định pháp y thương tích ở thời điểm khác nhau cho kết
quả tỷ lệ tổn hại chênh lệch rất lớn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án do chưa
có quy định xác định thời điểm giám định hoặc người bị hại không đi giám định do
bị đe dọa, mua chuộc, khống chế, gây khó khăn cho tổ chức giám định và cơ quan
tố tụng; giám định kỹ thuật số và điện tử trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự chưa thực
sự theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ và phương thức, thủ đoạn hoạt
động của tội phạm.
- Quy định của BLTTHS về việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại
nếu rơi vào trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe tại khoản 1 Điều 134
BLHS gây khó khăn cho quá trình giám định để có kết quả thương tích, do đó
không có cơ sở để giải quyết vụ án.
- Công tác xét xử các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác phụ thuộc nhiều vào kết quả hoạt động giám định thương tật
song trên thực tế việc giám định tỷ lệ thương tật của bị hại không phải lúc nào cũng
thuận lợi, nhất là trong các vụ việc người bị hại bị đa chấn thương hay những vụ bị
hại không được đưa đi giám định kịp thời hoặc bị hại do bị mua chuộc, cưỡng ép nên
không đi giám định...
Hai là, nguyên nhân chủ quan của thực trạng nói trên là do:
- Do nhận thức pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách
nhiệm trong công tác của một số cán bộ tư pháp trong các cơ quan THTT còn hạn
chế, chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
Điều này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các sai sót trong định tội danh, quyết
định hình phạt và các vi phạm, sai lầm đã nêu trên;
- Còn một bộ phận cán bộ, công chức còn thiếu ý thức cầu thị, phấn đấu tự
học tập, rèn luyện tư cách, phẩm chất đạo đức, kỷ luật công vụ nên hiệu quả, chất
lượng công tác còn thấp, từ đó đã làm ảnh hưởng đến công tác xét xử tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
- Bên cạnh đó, các cơ quan tư pháp chưa kịp thời, chủ động đề ra các biện
pháp có hiệu quả để nâng cao chất lượng công tác, khắc phục những thiếu sót,
59
khuyết điểm nhất là trong công tác xét xử... trong đó có tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó làm giảm hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Tiểu kết chương 2
Đánh giá, nghiên cứu các quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên phương diện chủ thể, khách thể, mặt khách
quan, mặt chủ quan là nền tảng cở sở cốt yếu, quan trọng để đưa ra quy định cụ thể
của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đây là
tội phạm thường xuyên xảy ra thể hiện ở nhiều hành vi khách quan đa dạng, phức
tạp trong đời sống xã hội. Do đó, để củng cố cơ sở vững chắc để xây dựng quy định
cụ thể tác giả đã lập luận, dẫn chứng các tình huống thực tế nhằm làm sang tỏ các
vấn đề pháp lý liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được pháp luật hình sự quy định qua các thời kỳ, dưới tên gọi khác nhau đã
dần được hoàn thiện hơn.
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, vẫn còn một số vi phạm, sai lầm liên quan đến
định tội danh, quyết định hình phạt, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác làm ảnh
hưởng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân đòi hỏi phải có kiến nghị, giải pháp phù hợp để khắc phục. Tất cả điều này
do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Mặc dù BLHS Việt
Nam năm 2015 đã khắc phục một số tồn tại, bất cập trong thực tiễn xét xử và về kỹ
thuật lập pháp, tuy nhiên, vẫn còn nhiều nội dung cần sửa đổi, bổ sung hoặc có văn
bản hướng dẫn thi hành.
60
CHƯƠNG 3
TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
3.1. Yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn, ngày 27/11/2015, BLHS năm
2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua với nhiều thay đổi đáng kể, nhưng vì có
quá nhiều sai sót về kỹ thuật lập pháp nên BLHS đã tạm lùi thời gian thi hành [34].
Sau đó, BLHS năm 2015 đã được cập nhật, chỉnh lý theo Luật số 12/2017/QH14
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số
41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật này cùng một số luật có
liên quan. Tuy nhiên, khi BLHS có hiệu lực vào ngày 01/01/2018, các nội dung
được chỉnh lý vẫn cho thấy những bất cập, vướng mắc gây khó khăn cho hoạt động
áp dụng.
Vì vậy, việc đặt ra định hướng để tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS
năm 2015 nói chung cũng như về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác nói riêng là yêu cầu hết sức cần thiết và cấp bách. Qua đó, tạo
ra tiền đề quan trọng để hoàn thiện LHS bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm trước tình hình mới của đất nước.
3.1.1. Về mặt thực tiễn
Hiện nay, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng trở nên phổ biến,
kéo theo đó là hàng loạt các khó khăn, thách thức của các loại tội phạm mới quy
mô lớn và vô cùng nguy hiểm. Để tiếp cận với các nước trên thế giới, Việt Nam đã
tích cực tham gia nhiều hiệp định, hiệp ước, thỏa thuận quốc tế vì mục tiêu hòa
bình, hợp tác và phát triển.
Ở góc độ hội nhập, việc đấu tranh phòng, chống tội phạm không còn là
61
nhiệm vụ của riêng một nước nào trên thế giới. Các quốc gia buộc phải hợp tác
chặt chẽ thông qua việc ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế trong lĩnh
vực này. Một trong số những nội dung quan trọng trong các điều ước đó là sự
cam kết dành cho nhau sự tương trợ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, cố
nhiên là phải trên tinh thần của pháp luật. Hiện nay, các hợp tác quốc tế luôn đòi
hỏi phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm
về sức khỏe của người khác. Về vấn đề này, GS.TSKH. Lê Văn Cảm hoàn toàn
đúng khi nhận định: Việc bảo vệ các quyền con người đã và đang là vấn đề trung
tâm và có ý nghĩa thời đại, vì nó không chỉ là vấn đề mang tính lịch sử từ bao đời
nay, mà còn mang tính thời sự quốc tế, không những là mục tiêu cơ bản trong cuộc
đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, tự do, dân chủ và công lý, mà còn là mối
quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên toàn trái đất [3, tr.15]. Vì thế, rõ
ràng con người, dù trong điều kiện nào, thì con người vẫn có nhu cầu chung về các
quyền cơ bản nhất như: quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, tính
mạng, danh dự, nhân phẩm của con người, quyền sở hữu, quyền tự do... [7, tr.16].
Vì vậy, để tiệm cận hơn với văn hóa- pháp luật các nước và góp phần vào công
cuộc giữ vững hòa bình, an ninh chính trị khu vực cũng như trên thế giới, Việt Nam
cần phải hoàn thiện mình, hoàn thiện pháp luật mà trước hết là các quy định của
BLHS theo hướng bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người,
trong đó có quyền được bảo vệ về sức khỏe.
Theo số liệu thống kê tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác tại Điện
Bàn, Quảng Nam không thể cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh nhất về tình hình chung
của Việt Nam hiện nay, song các con số đó cho thấy tình trạng tính chất và mức độ
nguy hiểm của tội cố ý gây thương tích đang được gia tăng. Đây cũng là thực trạng
báo động về tình hình tội phạm manh động, sử dụng bạo lực để xâm phạm đến sức
khỏe của người khác, dẫn đến gây ảnh hưởng xấu cho tình hình an ninh, trật tự, an
toàn xã hội. Tuy vậy, nhìn chung, loại tội phạm xâm phạm sức khỏe đã được xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội
phạm. Điều này đã góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
62
nói chung và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe nói riêng. Qua đó, đem
lại sự bình yên, ổn định cho an ninh chính trị, góp phần tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật ngày càng rộng rãi trong xã hội.
3.1.2. Về mặt lý luận
Trong và ngoài nước, hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, qua đó hình
thành nên hệ thống lý thuyết về tội phạm, cấu thành tội phạm, TNHS và hình
phạt. Theo đó, các vấn đề chung của LHS và của riêng nhóm các tội xâm phạm
sức khỏe của người khác... đã được tác giả sử dụng làm cơ sở khoa học để triển
khai nghiên cứu vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ở nhiều khía cạnh, bằng nhiều phương pháp khác nhau
lại tạo ra các quan điểm, lập trường có phần khác biệt. Do đó, tính tổng thể và sự
liên kết đồng bộ dưới góc độ khoa học luật hình sự là chưa có. Do đó, việc tiếp
tục nghiên cứu làm rõ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác về mặt lý luận là hết sức cần thiết và có ý nghĩa khoa học quan trọng.
Hơn nữa, nếu đi sâu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chúng ta vẫn tìm thấy
giữa lý luận và thực tiễn về loại tội này dường như vẫn tồn tại một độ “vênh” nhất
định. Theo đó, muốn hoàn thiện các quy định của BLHS năm 2015 để đáp ứng được
sự vận động của thực tiễn thì nhất thiết phải xây dựng một nền tảng lý luận vững
chắc nhưng phải có tính linh hoạt. Nghĩa là, lý luận mang tính nguyên tắc, quy luật
song phải được sử dụng kết hợp hài hòa, không vì chạy theo thực tiễn mà bỏ qua
hoặc đi ngược lại quy luật khách quan. Nhưng cũng không thể vì lý luận mà cứng
nhắc không chịu thay đổi, không chịu vận động.
Tóm lại, việc nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác cũng góp phần làm giàu cho kho lý luận pháp lý hình sự. Mặt
khác, nó tạo ra nền tảng vững chắc để hoàn thiện các quy định liên quan về tội cố ý
63
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS, từ đó,
các quy định này trở nên khả thi và dễ đi vào đời sống xã hội hơn.
3.1.3. Về mặt lập pháp
Qua các thời kỳ, bên cạnh việc tự thân vận động, cộng thêm sự tiếp thu các
kinh nghiệm quốc tế, nền lập pháp hình sự nước ta ngày càng cấp tiến. Đặc biệt, đối
với các tội xâm phạm khách thể là sức khỏe của con người, trong đó có tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS luôn được
sự quan tâm của các nhà làm luật. Điều đó thể hiện qua chiến lược cải cách tư pháp
của Việt Nam, quy trình, kỹ thuật thay đổi các quy định có liên quan đến tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo hướng ngày
càng hoàn thiện hơn.
Có thể nói, cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn vô cùng quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta thể hiện sự quan tâm đối với hoạt động tư pháp nói
chung và tư pháp hình sự nói riêng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 đã
nhấn mạnh mục tiêu của cải cách tư pháp là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Để thực
hiện các mục tiêu lớn nói trên, Nghị quyết đã đề ra các phương hướng: “Hoàn thiện
chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư
pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người”. [2]
Xét về bản chất, pháp luật cuối cùng cũng là vì con người, vì thế, mục tiêu
của cải cách tư pháp không phải nhằm đến cái gì khác là bảo đảm quyền con người,
tất nhiên trong đó bao hàm cả quyền được bảo vệ về sức khỏe. Các cơ quan tư pháp,
lại bằng những quy định, chế tài được xây dựng trong pháp luật làm thành công cụ,
phương tiện hữu hiệu để phòng ngừa, đấu tranh chống lại các hành vi xâm hại sức
64
khỏe của người khác và bảo vệ bị hại. Nhưng để có những quy định cụ thể trong
BLHS, trước hết Nhà nước phải xây dựng những CSHS khoa học, bao quát. Nói
một cách dễ hiểu, CSHS là “chính sách của Nhà nước, là những quan điểm, tư
tưởng chủ đạo của Nhà nước trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm” [7,
tr.51]. CSHS cho phép chúng ta phân biệt giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật
khác; xác định tính chất và mức độ của việc tác động bằng các hình thức TNHS và
gắn với đó là các loại hình phạt, mức độ các chế tài tương ứng. Đặc biệt, CSHS
vạch rõ con đường hình thành ý thức pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho công dân
thông qua việc sử dụng LHS [28, tr.182].
Để bảo vệ quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về sức
khỏe nói riêng trước tội phạm thì các nhà làm luật phải xây dựng các CSHS dựa
trên các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà
nước. Bên cạnh đó, họ cũng không thể bỏ qua việc xem xét đến các điều kiện lịch
sử cũng như thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Từ đó, chúng ta mới có thể
sử dụng đúng và đủ pháp luật hình sự [10, tr.18]. Có như vậy, mục đích cuối cùng
của hình phạt trong BLHS mới phát huy hết công năng của mình. Hình phạt đó, xét
đến cùng, không phải là để trừng trị người phạm tội đã gây ra thương tích hoặc tổn
hại sức khỏe cho người khác. Mà hình phạt là thứ sinh ra để phòng ngừa hành vi
xâm hại diễn ra, bảo đảm và bảo vệ sức khỏe của con người trên phương diện của
công bằng xã hội.
Cùng với quá trình cải cách tư pháp, BLHS của Việt Nam không ngừng được
sửa đổi, bổ sung, thay thế để đáp ứng yêu cầu cải cách, yêu cầu của thời đại. Tuy
nhiên, tiếp nối BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 ra đời mặc dù mang hơi hướng
tiến bộ của kỹ thuật lập pháp như phân hóa cụ thể hơn TNHS, định lượng hậu quả
của tội phạm... nhưng còn nhiều hạn chế, bất cập và phải sửa đổi, bổ sung vào năm
2017.
Từ những phân tích trên, có thể nói rằng một trong những yêu cầu cấp thiết
của lập pháp hiện nay là tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015, trong đó
có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Để làm
65
được như vậy, quá trình lập pháp yêu cầu phải tuân thủ những quan điểm, tư tưởng
của CSHS, bảo đảm hài hòa yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con người, trong đó
có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác đã được Hiến pháp và
LHS Việt Nam bảo vệ.
3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
3.2.1. Nhận xét quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Có thể nói, BLHS năm 2015 ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong
lập pháp hình sự, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của
Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát
triển đúng hướng, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Ngày 27/11/2015, Quốc hội đã chính thức thông qua BLHS năm 2015 nhưng
sau đó vì một số lý do nên tạm hoãn thi hành [18]. BLHS năm 2015 có kết cấu 3
phần với 426 điều luật. Trong đó, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác bao
gồm 7 điều và được quy định tại các Điều 134 đến Điều 140, tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được xếp đầu nhóm tại Điều
134. Điều này cho thấy đối với các hành vi xâm hại về sức khỏe thì đây là hành vi
căn bản và phổ biến nhất.
So với BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009, BLHS năm 2015 đã có nhiều
thay đổi nhằm khắc phục được các tồn tại, hạn chế. Riêng về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134
BLHS năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ nhất, sửa cụm từ “thương tật” thành “tổn thương cơ thể” cho chính xác
(các khoản 1-5); đổi từ “nhiều” thành “hai” cho chính xác. Về mặt khoa học, hành
vi gây thương tích sẽ dẫn đến thương tích hoặc tổn hại (tổn thương) cho cơ thể bị
hại. Vì vậy, việc sửa lại cụm từ “thương tật” thành “tổn thương cơ thể” như trên cho
thống nhất là hoàn toàn phù hợp. Điều này cũng tránh nhận thức cho rằng, hành vi
66
gây thương tích tức là gây ra “tật” trên người nạn nhân, cách hiểu này là chưa đầy
đủ. Còn việc đổi từ “nhiều” thành “hai” cũng để thống nhất nhận thức, định lượng
được chính xác, rõ ràng hơn, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng.
Thứ hai, bổ sung tình tiết “Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy
hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” (điểm b
khoản 1). Thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp người phạm tội sử dụng a-xít
hoặc hóa chất nguy hiểm khác như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ... để gây thương tích
hoặc tổn hại sức khỏe. Vì vậy, việc bổ sung tình tiết này là phù hợp với thực tiễn và
đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm gây thương tích.
Thứ ba, cách khung hình phạt để bảo đảm phân hóa TNHS được triệt để hơn,
từ đó người có thẩm quyền áp dụng cũng tùy tính chất, mức độ của hành vi và các
tình tiết liên quan để áp dụng hình phạt sao tương xứng nhất. Bên cạnh đó, điều luật
cũng bổ sung khoản 6 với 3 trường hợp phạm tội bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm
hoặc tù chung thân. Đặc biệt, bổ sung khoản 7 về chuẩn bị phạm tội, thì người phạm
tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Việc đưa chế định chuẩn bị phạm tội vào từng điều luật cụ thể đã tạo điều kiện
thuận lợi cho việc áp dụng, đồng thời cũng phân hóa trách nhiệm của người chuẩn
bị phạm tội. Qua đó, cho thấy sự công bằng và tính nhân đạo của Nhà nước ta thể
hiện ngay trong điều luật cụ thể.
Như vậy, những điểm mới cụ thể trên của BLHS năm 2015 và sau đó là Luật
sửa đổi năm 2017 đã cơ bản khắc phục được các tồn tại, hạn chế trong kỹ thuật lập
pháp và thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong BLHS năm 1999. Từ đó, đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
việc phòng ngừa, xử lý loại tội phạm này trên thực tế. Tuy vậy, cùng với sự phát
triển không ngừng của kinh tế - xã hội - văn hóa, tội phạm cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trở nên ngày càng phổ biến, phức tạp
và manh động. Vì thế, trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời kỳ
mới, thì việc tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý
nghĩa vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết.
67
3.2.2. Nội dung hoàn thiện cụ thể
Về cơ bản, các tồn tại, vướng mắc về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người đã được BLHS năm 2015 khắc phục. Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 vẫn cho
thấy những hạn chế vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện.
Thứ nhất, khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung theo
hướng:
...
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc từ 3% đến dưới 11% nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây,..
Sửa đổi trên đáp ứng thực tiễn xét xử và cân nhắc TNHS trong một số trường
hợp mà thương tích hoặc tổn hại sức khỏe của nạn nhân nhỏ (dưới 11%) và đi kèm
với các điều kiện đặc biệt khác (hung khí nguy hiểm; phạm tội 2 lần trở lên). Chính
quy định rõ ràng tỷ lệ thương tích từ 3% đến dưới 11% sẽ tránh trường hợp phải
xem xét TNHS khi thương tích không đáng kể và có thể hòa giải được. Việc quy
định chặt chẽ vấn đề này sẽ tạo điều kiện cho các bên ngồi lại để giải quyết mâu
thuẫn, qua đó giảm nhẹ áp lực cho công tác tư pháp.
Thứ hai, bổ sung tình tiết “Gây cố tật cho nạn nhân” vào khoản 1 Điều 134
BLHS năm 2015:
Qua nghiên cứu thực tiễn, thấy rằng khi có hành vi gây thương tích thì rất có
khả năng sẽ để lại “cố tật” cho nạn nhân. Nếu dựa theo sự tồn tại của thương tật về
mặt thời gian, chúng ta có thể chia thương tật thành hai loại cơ bản, đó là thương tật
tạm thời và thương tật vĩnh viễn. Dưới sự tác động của y học, các thương tật có khả
năng phục hồi hoàn toàn khác nhau. Chính vì vậy, có trường hợp tỷ lệ thương tích
không cao nhưng “tật” lại rất khó lành, dai dẳng, có thể đi đến cuối đời của nạn nhân.
Các nhà làm luật Việt Nam nhận thức được vấn đề trên và đưa quy định liên
quan đến tình tiết gây cố tật cho nạn nhận vào trong BLHS năm 1999, sửa đổi năm
1999 và tiếp đó là BLHS năm 2015. Tuy vậy, các nhà lập pháp chỉ dừng lại ở chỗ
68
thừa nhận gây cố tật “nhẹ” mà không đề cập gì đến trường hợp gây cố tật “nặng”.
Chính điều này đã tạo ra các quan điểm nhận thức khác nhau về vấn đề như thế nào
là cố tật “nhẹ” và như thế nào là cố tật “nặng”. Đó là lý do ngày 17/4/2003, Hội
đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP để giải thích
“Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” là để lại trạng thái bất thường, không thể chữa được
cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11% khi thuộc một
trong các trường hợp: làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm mất chức năng
một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt động của một bộ phận
cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân... [17, tr.140].
Mặc dù đã hướng dẫn như vậy, nhưng để xác định thế nào là giảm chức năng hoạt
động cơ thể hay ảnh hưởng đến thẩm mỹ thì có lẽ rất nhiều thương tích được liệt kê
vào tình tiết gây cố tật nhẹ cho nạn nhân. Có lẽ vì vậy mà Luật sửa đổi BLHS năm
2015 đã bỏ đi tình tiết này. Song thực tiễn đòi hỏi phải xử lý các trường hợp gây cố
tật cho nạn nhân. Do đó, thiết nghĩ việc quy định “Gây cố tật cho nạn nhân” trong
khoản 1 Điều 134 BLHS hiện hành là phù hợp và cần thiết.
3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan
3.3.1. Bộ luật tố tụng hình sự
Trong vụ án cố ý gây thương tích, việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người
bị hại chỉ phát sinh khi có căn cứ xác định hành vi của người phạm tội rơi vào
khoản 1 Điều 134 BLHS. Cho nên, khi thủ tục giám định chưa được thực hiện thì
quyền yêu cầu của người bị hại cũng chưa phát sinh. Ngoài ra, nếu sau khi giám
định mà hành vi phạm tội thuộc các khoản tăng nặng của Điều 134 BLHS thì việc
khởi tố vụ án không phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại. Nghĩa vụ của người bị
hại trong trường hợp này giống như tất cả các công dân khác là phải thực hiện nghĩa
vụ tham gia phòng chống tội phạm, nghĩa là họ phải thực hiện các yêu cầu của
CQĐT theo luật định, trong đó phải tạo điều kiện để cơ quan chức năng thực hiện
việc giám định thương tích làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Mặt khác, người bị hại có thể bị truy cứu TNHS khi họ từ chối khai báo mà
không có lý do chính đáng. Việc từ chối khai báo rõ ràng khác với việc từ chối giám
69
định. Tác giả cho rằng, từ chối khai báo không nghiêm trọng bằng từ chối giám định
bởi vì nếu người bị hại từ chối khai báo thì cơ quan, người THTT có thể sử dụng tài
liệu, chứng cứ từ các nguồn chứng cứ khác như lời khai của người tham gia tố tụng
khác, vật chứng…, nhưng việc người bị hại từ chối giám định thì rõ ràng căn cứ để
khởi tố vụ án không được đảm bảo, chưa nói đến việc không xử lý được TNHS của
người phạm tội. Cho nên, bị hại từ chối giám định nếu không có lý do chính đáng
phải được xem là hành vi cản trở hoạt động của TTHS. Vì vậy, đề nghị bổ sung
khoản 13 vào Điều 466 BLTTHS:
“Điều 466. Xử lý người có hành vi cản trở hoạt động tố tụng của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng
...
13. Bị hại từ chối giám định thương tích không có lý do chính đáng trong
trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu bị hại.”
3.3.2. Luật Giám định tư pháp
Đi liền với hoạt động TTHS, giám định tư pháp đóng vai trò quan trọng
trong việc xử lý các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Tuy nhiên, việc thực hiện giám định chậm trễ, cho ra nhiều kết quả,.. đã
gây không ít khó khăn cho việc giải quyết vụ án, xử lý người phạm tội và làm ảnh
hưởng đến lợi ích hợp pháp của bị hại. Do đó, Luật Giám định tư pháp cần phải
được điều chỉnh theo hướng sau:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi hoạt động giám định tư pháp thông qua việc sửa
đổi, mở rộng quyền tự yêu cầu giám định của người tham gia tố tụng để bảo đảm
điều kiện, phương tiện tìm kiếm chứng cứ phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích
của họ khi tham gia tố tụng theo tinh thần mở rộng dân chủ, tăng cường tranh tụng
tại tòa.
Thứ hai, bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về thời hạn giám định, quy
định trách nhiệm của các Bộ, ngành chuyên quản lĩnh vực giám định trong việc ấn
định thời hạn giám định cụ thể đối với từng loại việc giám định trong quy trình
giám định để bảo đảm tính đồng bộ, tương thích với quy định của pháp luật tố tụng,
70
đặc biệt là khắc phục tình trạng chậm trễ trong tiếp nhận, thực hiện giám định trong
thời gian qua, gây ảnh hưởng đến tiến độ xử lý các vụ án, vụ việc.
Thứ ba, bổ sung quy định mang tính phân cấp trong tiếp nhận trưng cầu và
thực hiện giám định ở cấp Trung ương và cấp tỉnh để khắc phục tình trạng đùn đẩy,
né tránh trong tiếp nhận và thực hiện giám định ở nhiều địa phương và Bộ, ngành
chủ quản.
3.4. Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm
2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
3.4.1. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và hướng dẫn thi
hành
Công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật là chiếc cầu nối pháp
luật với đời sống thực tiễn. Nó là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và
có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác này, Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm đến cách thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nhân dân, đặc biệt là các đối tượng đặc thù.
Hơn nữa, sức khỏe là động lực cho quá trình tạo ra các giá trị vật chất, tinh
thần của xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta càng coi trọng việc phổ biến, giáo
dục pháp luật liên quan đến việc bảo đảm, bảo vệ quyền bất khả về sức khỏe, trong
đó, pháp luật hình sự là ưu tiên hàng đầu. Với tính cách là biện pháp đưa BLHS đến
với cuộc sống, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật đem đến cho
mọi người, mọi giai tầng trong xã hội, kể cả phạm nhân đang cải tạo tại các trại
giam hiểu được giá trị của sức khỏe và thái độ, ý thức tôn trọng sức khỏe của chính
mình và của người khác.
Qua thực tiễn giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, có thể thấy nguyên nhân của hầu hết các vụ phạm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là do tình trạng một
bộ phận thanh thiếu niên có ý thức pháp luật kém, nhận thức không rõ về yêu cầu
của pháp luật đối với quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác. Vì
71
vậy, nhiệm vụ của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải sâu
sát đến từng cá nhân trong xã hội, nhất là các đối tượng yếu thế, đối tượng thanh
thiếu niên và các đối tượng khó khăn không có điều kiện tiệm cận với thông tin văn
hóa - pháp luật. Làm được như vậy, pháp luật nói chung và BLHS nói riêng sẽ đến
gần hơn với các cá nhân, giúp họ thấu suốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình và
quyền lợi của mình, từ đó mà ứng xử phù hợp hơn, biết tự kiềm chế bản thân hơn.
Như vậy các trường hợp xô xát gây thương tích, hành hạ người khác, dùng hung khí
nguy hiểm gây thương tích... sẽ giảm dần cả về số lượng cũng như về tính chất,
mức độ.
Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật, thiết
nghĩ cần phải thực hiện các giải pháp sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp trong công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó đặc biệt chú ý đến các quy định của
BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Các cơ quan công quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức khác phải
phối hợp với nhau để thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật một cách
thường xuyên, kịp thời. Trong đó, cần lưu ý phát huy tính chủ động của tổ chức gần
dân nhất - đó là thôn, tổ dân phố. Bởi vì đây là những đơn vị cơ sở nắm chắc nhất
về những thông tin xoay quanh một cá nhân tại khu dân cư họ sinh sống (tính cách,
gia đình, kinh tế, các mối quan hệ, tình hình chấp hành các quy định pháp luật). Từ
đó việc tham mưu cũng như tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật ở từng địa phương sẽ thuận lợi hơn, dễ tạo sự chuyển biến tích
cực về nhận thức, qua đó góp phần hạn chế đến mức thấp nhất tình hình tội phạm
xâm phạm sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn.
Hai là, nâng cao sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác tuyên
truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật. Ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng nam giữa
Tòa án và VKS luôn có sự phối hợp trong công tác thực hiện các phiên tòa rút kinh
nghiệm. Ở đó, không chỉ có Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký... rút ra các kinh
nghiệm, các bài học về nghiệp vụ mà xa hơn, phiên tòa được tổ chức công khai cho
72
toàn thể nhân dân rút kinh nghiệm. Thông qua phiên tòa, người tham gia, tham dự,
những người đọc thông tin trên báo, cổng thông tin điện tử có thể tìm đến các thông
tin pháp luật về gây thương tích, qua đó thu nhận những nhận thức pháp luật, văn
hóa ứng xử cũng như kinh nghiệm để học cách giữ gìn sức khỏe bản thân và tôn
trọng, bảo vệ sức khỏe của những người xung quanh. Qua bản án được tuyên, người
ta sẽ nhìn thấy hình phạt thích đáng dành cho hành vi cố ý gây thương tích hoặc cố
ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ bị xử lý như thế nào, nhưng phiên tòa
rút kinh nghiệm của Điện Bàn muốn cho tất cả mọi người thấy đằng sau những hình
phạt 03 năm tù, 05 năm tù hay 10 năm tù kia là điều gì. Đó không chỉ là giáo dục,
cải tạo bản thân người phạm tội mà đó còn là tinh thần công minh của pháp luật, sự
công bằng của xã hội. Có như vậy, mục đích phòng ngừa các hành vi cố ý gây
thương tích mới thật sự đạt hiệu quả. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật mới
đạt đúng ý nghĩa tồn tại của mình.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật muốn “sống”
được, muốn tối ưu được hiệu quả hoạt động thì nhất thiết, phương pháp và các loại
hình tuyên truyền, phổ biến và giáo dục phải đa dạng, linh hoạt và sinh động. Cán
bộ làm công tác tuyên truyền, giáo dục hơn ai hết phải gần dân, lắng nghe, quan sát
họ. Làm được như thế rồi, các kế hoạch, chương trình tuyên truyền mới sát với điều
kiện cụ thể của đối tượng tiếp nhận. Mặt khác, phương pháp sử dụng cho việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật cũng phù hợp hơn, dễ được tiếp nhận hơn.
Thứ tư, cần nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật. Muốn như vậy, việc tuyển chọn, các chế độ tài chính
cung cấp đối với những người làm công tác này cần phải được chú trọng. Mặt khác,
cần phải thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chương trình, kế
hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; bên cạnh đó, phải kiểm điểm, phê bình, xử lý
nghiêm khắc đối với những cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện đúng nhiệm
vụ được giao.
3.4.2. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ
Hoạt động áp dụng pháp luật muốn đạt chất lượng trên thực tế thì môi trường
73
áp dụng, con người áp dụng, cũng như các điều kiện tác động khác phải được tôn
trọng và bảo đảm. Có pháp luật tốt rồi, muốn pháp luật đi vào thực tiễn, tác động có
hiệu quả đến chủ thể bị áp dụng để đạt mục tiêu như mong muốn thì người áp dụng
đó phải tốt, điều kiện xung quanh người áp dụng đó cũng phải tốt. Cũng như vậy, để
hoạt động áp dụng BLHS nói chung và áp dụng quy định về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đạt hiệu quả, các điều kiện
nghiệp vụ liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật nhất thiết phải được bảo đảm
một cách đầy đủ.
Thứ nhất, cần phải kiện toàn về tổ chức, tăng cường hơn nữa công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh; có lộ trình từng
bước nâng cao về số lượng, đảm bảo phẩm chất đạo đức, chính trị, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán. Đặc biệt, cần chú ý xây dựng phương án
tạo nguồn cán bộ, Thẩm phán cho các tình miền núi, vùng sâu, vùng xa. Muốn
như vậy, ngay từ bây giờ cần phải làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử để
tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán.
Vấn đề kinh nghiệm xét xử quyết định rất lớn đến hiệu quả áp dụng pháp
luật của Thẩm phán. Đặc biệt, đặc thù của chúng ta là Thẩm phán xét xử các vụ
án hình sự về tội cố ý gây thương tích còn phải xử lý các vấn đề liên quan đến bồi
thường thiệt hại, các yêu cầu dân sự khác... Do đó, Thẩm phán phải là người dày
dặn các kinh nghiệm nghiệp vụ, xã hội. Để giúp cho Thẩm phán tích lũy các kỹ
năng, kinh nghiệm ở nhiều lĩnh vực, vị trí việc luân chuyển, điều động cán bộ
trong nghành Tòa án cần phải được quan tâm đúng mức, hài hòa.
Bên cạnh đó, cần phải thường xuyên tăng cường việc đào tạo, đào tạo lại
hoặc bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho Thư ký, Thẩm phán và Hội thẩm.
Các đơn vị chức năng của TANDTC phối hợp với TAND cấp tỉnh tổ chức thực
hiện việc bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ, Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân thuộc quyền quản lý, tạo điều kiện thuận lợi và động viên,
khuyến khích cán bộ, công chức tự học tập nâng cao năng lực trình độ. Hiện nay,
khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển, các Hội nghị trực tuyến được tổ
74
chức ngày càng nhiều và là cơ hội học tập, trao đổi lẫn nhau giữa các Tòa án,
VKS trên địa bàn cả nước. Tuy nhiên, qua thực tiễn một số Hội nghị trực tuyến,
có thể thấy hoạt động này còn nhiều hạn chế như: các điểm cầu địa phương ít
được phát biểu để nói lên khó khăn, vướng mắc; cách đặt vấn đề còn chưa sát
thực tiễn địa phương, chưa có trọng tâm, trọng điểm... Vì vậy, khi tổ chức Hội
nghị trực tuyến cần phải có kế hoạch và hướng dẫn triển khai thực hiện cụ thể để
cho các thành phần tham gia có sự chuẩn bị chu đáo, các vấn đề trao đổi cũng nhờ
thế mà chất lượng hơn, đỡ tốn kém thời gian, kinh phí hơn. Đặc biệt, việc tổ chức
Hội nghị trực tuyến thường là trong nội bộ ngành kiểm sát hoặc ngành tòa án, do
đó, chưa có sự tương tác, thống nhất một số vấn đề còn vướng mắc, bất cập. Vì
thế, tác giả thiết nghĩ nên chăng tổ chức các Hội nghị trực tuyến liên ngành để
các cơ quan THTT có điều kiện ngồi lại với nhau tháo gỡ vướng mắc, bổ sung
cho nhau để thực hiện công tác tư pháp ngày càng chất lượng, góp phần hạn chế
tối đa việc oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Ngoài ra, cần phải mở rộng quan hệ quốc tế để cử cán bộ, Thẩm phán đi
học tập, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới cũng như hội nhập quốc tế ngày nay.
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của người THTT, đặc
biệt là Thẩm phán. Trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp là các vấn đề đang được xã
hội rất quan tâm, một hành vi lệch chuẩn của người THTT cũng khiến cho dư luận
chú ý và dậy sóng. Sự kiện “dâm ô với trẻ em” của Nguyễn Hữu Linh là minh
chứng cụ thể cho điều đó.[33] Để đánh giá tinh thần trách nhiệm , đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ tư pháp, thiết nghĩ cần phải xây dựng các yêu cầu chung để tăng
cường trách nhiệm nghề nghiệp của họ trong công tác chuyên môn. Để đạt được
điều đó, việc soạn thảo và ban hành quy định các tiêu chí chung về phẩm chất đạo
đức, quy tắc ứng xử đối với cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực đấu tranh phòng
chống tội phạm của các cơ quan pháp luật là điều hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó, cũng phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm và sự quan tâm
của Nhà nước đối với những người làm công tác đấu tranh chống tội phạm và các
75
vi phạm pháp luật khác. Theo đó, cần có văn bản luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe
của những người THTT mà do việc thực hiện chức năng nghề nghiệp nên họ có
thể bị đe dọa xâm hại đến an toàn cá nhân. Qua đó, tạo ra hành lang pháp lý bảo
đảm cần thiết để người THTT yên tâm công tác, thực hiện đúng chức trách,
nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, cần phải làm tốt hơn nữa công tác tổng kết thực tiễn xét xử và
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật để kịp thời tháo gỡ các vướng mắc trong
công tác chuyên môn nghiệp vụ. Những quy định của pháp luật hoặc của nghành,
của đơn vị không phù hợp với các thực tiễn công tác giải quyết xét xử án, giải
quyết yêu cầu giám đốc thẩm, tái thẩm, giải quyết khiếu nại tố cáo về quyết định,
hành vi tố tụng, những trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng khi phát hiện có sai lầm.
Hiện nay, các cổng thông tin điện tử, các trang báo mạng luôn có những
chuyên mục để các nhà làm luật, các nhà thực tiễn cùng trao đổi các vấn đề liên
quan đến hoạt động tư pháp và áp dụng pháp luật hình sự. Tuy nhiên, quy trình để
đăng tải các thông tin trao đổi còn phức tạp, rườm rà. Do đó, có một số bài viết
cũng vì thế mà bị loại khỏi danh sách đăng bởi nhà chọn lọc. Tuy nhiên, cần phải
nhớ rằng, khoa học là điểm đến của nghiên cứu, có sai mới có khoa học được.
Theo tác giả, chỉ những bài viết mang quan điểm cực đoan, chống phá Nhà nước
ta thì nhất quyết bị loại bỏ, còn các bài viết dù lớn dù nhỏ đưa ra được vấn đề
nghiên cứu cần sự trao đổi thì nên đăng tải để mọi người cùng tham gia góp ý.
Qua đó, tìm ra được chân lý và thống nhất nhận thức chung. Đó là điều kiện tiên
quyết để hoạt động áp dụng pháp luật được thống nhất, đảm bảo được yếu tố khoa
học lý luận gắn với thực tiễn áp dụng.
3.4.3. Giải pháp về bảo đảm công tác xét xử, tăng cường kiểm tra, giám
sát, kiểm sát việc áp dụng
Áp dụng pháp luật là hoạt động đặc thù của cơ quan, cá nhân được Nhà nước
trao quyền thực hiện đưa các quy định pháp luật áp dụng vào các đối tượng, hoàn
cảnh cụ thể. Do đó, không loại trừ trường hợp lạm quyền trong áp dụng pháp luật.
Đặc biệt, trong lĩnh vực hình sự, việc áp dụng pháp luật liên quan đến quyền con
76
người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Vì vậy, cần phải có cơ
chế kiểm tra, giám sát, kiểm sát hoạt động áp dụng pháp luật này.
Thứ nhất, tự thân các cơ quan THTT, người THTT phải tự giác thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc, có trách nhiệm chức năng nhiệm vụ được giao. Trước khi cần đến
công tác kiểm tra, giám sát, kiểm sát thì trước hết, trong nội bộ cơ quan, đơn vị phải
tự nâng cao tính tự kiểm tra, giám sát lẫn nhau để hỗ trợ nhau hoàn thành nhiệm vụ
chung. Làm được như vậy, hoạt động áp dụng áp dụng pháp luật hình sự sẽ đạt ở
mức phù hợp. Đối với hành vi cố gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác thì việc áp dụng đó sẽ tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm
tội, không quá nhẹ hoặc quá nặng, bảo đảm sự nghiêm minh cũng như khoan hồng
của pháp luật.
Thứ hai, cần phải tăng cường chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKS. Theo đó, VKS là cơ quan có quyền kiểm tra, kiểm sát các hoạt động tố tụng
mục đích không phải đơn thuần chỉ là tìm ra các sai phạm của CQĐT hay Tòa án để
kiến nghị, kháng nghị khắc phục, mà quan trọng nhất việc kiểm sát đó phải đảm bảo
hoạt động bình thường của cơ quan THTT cũng như người THTT. Thông qua đó,
hạn chế đến mức tối đa các vi phạm, sai lầm của các chủ thể áp dụng pháp luật. Có
như vậy, bên cạnh các quyền chưa bị hạn chế hoặc tước bỏ, thì các quyền con người
khác, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của những người yếu thế
trong tố tụng mới được đảm bảo. Đặc biệt, nhất là khi họ bị áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, bị tiến hành hỏi cung,... thì các quyền con người càng dễ bị xâm hại. Với
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, VKS phải kịp thời phát hiện ra các sai phạm
trong thu thập, đánh giá chứng cứ và tiến hành các thủ tục tố tụng để yêu cầu CQĐT
khắc phục kịp thời. Không những vậy, sự kiểm sát của Kiểm sát viên đã phần nào
làm cho Tòa án trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như xét xử công khai phải
đánh giá một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ chứng cứ trong hồ sơ vụ án, tạo
điều kiện để các bên tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ ba, cần phải tăng cường sự giám sát của nhân dân, của các cơ quan đại
diện cho nhân dân. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, do đó,
người dân có quyền giám sát đối với các hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan
77
công quyền. Sự giám sát này có thể thực hiện một cách trực tiếp hoặc thông qua đại
diện của mình là Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc đối với hoạt động của các cơ quan THTT. Liên quan đến tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - loại tội phạm rất được dư luận
xã hội quan tâm thì sự giám sát của cơ quan dân cử càng chặt chẽ và sâu sát hơn. Ít
nhiều sự giám sát này làm cho chất lượng áp dụng pháp luật của cơ quan và người
THTT thêm phần cẩn trọng, trách nhiệm, từ đó mà chất lượng áp dụng pháp luật
cũng được nâng cao.
Thứ tư, phải có cơ chế, chế tài thiết thực để phòng ngừa, xử lý các trường
hợp vi phạm, sai lầm trong tư pháp hình sự. Cố nhiên, các chế tài này cũng cần cân
nhắc xây dựng trên tinh thần tương xứng với vi phạm, sai lầm và chỉ áp dụng khi
hành vi gây thiệt hại nặng nề cho uy tín, tài sản của Nhà nước và kèm theo yếu tố
lỗi. Thực tế cho thấy, không có sai lầm, vi phạm làm sao có kinh nghiệm, làm sao
có sự đúng đắn được. Do đó, vấn đề trách nhiệm chỉ nên đặt ở mức cần thiết, tránh
vì sợ trách nhiệm mà không dám làm, không dám thay đổi. Trong khi đó, bản thân
áp dụng pháp luật là hoạt động sáng tạo pháp luật.
Thứ năm, cần tăng cường các chế độ đãi ngộ, khen thưởng đối với cán bộ
ngành tư pháp. Để tạo điều kiện cho cán bộ tư pháp an tâm tư tưởng, phát huy trách
nhiệm với công việc, thiết nghĩ họ cần được đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của cuộc
sống là chế độ lương, phụ cấp. Cùng với đó, các cá nhân, tập thể có việc làm đúng
đắn, sáng tạo cũng cần phải có sự động viên, khuyến khích kịp thời để họ có động
lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, những cá nhân, tập thể khác cũng nhìn vào
đó mà học tập, cố gắng.
Thứ sáu, cần phải đầu tư củng cố, tăng cường các cơ sở vật chất, phương tiện
kỹ thuật đảm bảo hoạt động tốt nhất cho áp dụng pháp luật hình sự. Các điều kiện
vật chất nếu được đảm bảo sẽ là yếu tố góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp
luật. Chẳng hạn, tại một hội trường xử án uy nghi, thì hoạt động xét xử của Tòa án
sẽ có sự tác động mạnh mẽ hơn đối với bị cáo và những người tham gia phiên tòa hơn.
78
KẾT LUẬN
Trên cơ sở văn kiện quốc tế, trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật Việt
Nam, các quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm có vị trí đặc biệt quan trọng. Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013
của nước ta quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm...”. Do đó, cùng với quyền sống, danh dự, nhân
phẩm, thì quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người là một trong những
khách thể quan trọng cần bảo vệ bằng luật hình sự Việt Nam, là cơ sở pháp lý để
các cơ quan tiến hành tố tụng và các lực lượng chức năng khác phòng ngừa, đấu
tranh có hiệu quả với các hành vi cố ý hoặc vô ý xâm phạm một cách trái pháp luật
đến sức khỏe của người khác.
Trong quá trình pháp điển hóa LHS, quy định trong các BLHS Việt Nam
cho thấy đã có sự kế thừa cơ bản những thành tựu của công tác xây dựng pháp luật
trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta. Các quy định của BLHS năm 1999, sửa đổi
năm 2009 và đến BLHS năm 2015, sau đó sửa đổi năm 2017 về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã tương đối đầy đủ và ngày
càng hoàn thiện hơn, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của đất nước vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn
thiện mà chương 3 đã đề cập.
Luận văn đã phân tích làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng quy định của BLHS
trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như những tồn tại, vướng
mắc trong quá trình áp dụng quy định của BLHS về các tội phạm này trên địa bàn
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 06 năm (2013 - 2018). Trên cơ sở này,
đánh giá cho thấy quy định của BLHS đã được áp dụng đúng, đáp ứng được yêu
cầu đấu tranh phòng, chống với các tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác
79
xảy ra trên địa bàn Điện Bàn, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội và đúng pháp
luật, đem lại hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ
quyền con người. Tuy nhiên, vẫn còn một số sai lầm, thiếu sót liên quan đến định
tội danh, quyết định hình phạt, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án
xâm phạm sức khỏe của người khác làm ảnh hưởng công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đòi hỏi phải có kiến
nghị, giải pháp phù hợp để khắc phục.
Mặt khác, luận văn cũng chỉ ra những khó khăn, tồn tại, vướng mắc và các
nguyên nhân cơ bản, từ đó đặt ra yêu cầu, đề ra kiến nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung
quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi năm 2017, cũng như đưa ra những giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, qua đó, phòng ngừa và đấu tranh chống có hiệu
quả loại tội phạm này. Cụ thể là, giải pháp về tăng cường và nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật hình sự; nâng cao hiệu quả
hoạt động thu thập chứng cứ, tăng cường trách nhiệm của những người tiến hành tố
tụng trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm sức khỏe người khác; tăng
cường công tác quản lý Nhà nước về vũ khí, quan tâm giải quyết các mâu thuẫn
phát sinh trong cộng đồng dân cư ngay từ cơ sở trên địa bàn, qua đó, bảo đảm ổn
định tình hình an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn cả nước. Những giải pháp này cần
được tiến hành đồng bộ, kịp thời, liên tục.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương (2011), Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011
của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân.
2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005.
3. Lê Cảm (2006), “Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người
bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”, Tòa án nhân dân, 11(6).
4. Lê Cảm (chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2015), Quyền con người trong lĩnh vực Tư
pháp hình sự, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
6. Đinh Bích Hà (2007), BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
7. Phạm Hồng Hải (2002), “Tiếp tục hoàn thiện chính sách hình sự phục vụ
quá trình đổi mới và xu thế hội nhập ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, (6).
8. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành (1998), Văn bản pháp luật
về hình sự và tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành (1998), Văn bản pháp luật
về hình sự và tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Trần Thị Hiển (2011), BLHS Nhật Bản, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Hòa (2001), “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người - So sánh giữa BLHS năm 1999 và BLHS
năm 1985”, Tạp chí Luật học, (1).
12. Phạm Mạnh Hùng (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Hà Nội.
13. Nguyễn Duy Hữu (2017), Các tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo
luật hình sự Việt Nam, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
14. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc
tế về quyền con người, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.
15. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
16. Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự
và nhân phẩm của con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội
phạm, tập 1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
18. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016.
19. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1986), Bộ luật hình sự năm
1985, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2014), Bộ luật hình sự năm
1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2014), Hiến pháp Việt Nam
(2013 - 1992 - 1980 - 1959 - 1946), Nxb Lao động, Hà Nội.
22. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2016), Bộ luật hình sự năm
2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Phạm Hồng Thái (chủ biên) (2016), Tư tưởng Việt Nam về quyền con
người, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
24. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
25. Lê Đình Tĩnh (2014), Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam, Khoa luật, Đại học
quốc gia Hà Nội.
26. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập I
(1954-1974), Hà Nội.
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Liên bang Nga, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
28. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề
chung), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm
Từ điển học.
30. Trịnh Tiến Việt (chủ biên) (2015), Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng
pháp luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
31. Trịnh Tiến Việt, Tội phạm và TNHS, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Website
32. Http://www.chinhphu.vn/chienluocbaovechamsocsuckhoe.
33. Https://baovephapluat.vn/cong-to-kiem-sat-tu-phap/theo-dong/ket-luan-
giam-dinh-bo-sung-lien-quan-toi-vu-an-nguyen-huu-linh-73233.html.
34. Https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phapluat/thoisu/14081/ de-
xuat-sua-119-dieu-trong-bo-luat-hinh-su-2015.
35. Https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_B%C3%An.