. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ BÁ DƯƠNG

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI,

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ BÁ DƯƠNG

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI,

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số: 8380105

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là những kiến

thức của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, tham khảo, nghiên cứu tài liệu và

thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Trần Hữu Tráng. Nội dung của các

tác giả khác đã được trích dẫn, ghi chú theo đúng quy định. Các số liệu, kết quả nêu

trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ........................................................................................... 7

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản .................................................................................................................... 7

1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội trộm cắp tài sản ..................... 14

1.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản ......................................................................................................................... 22

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .... 33

2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................................................... 33

2.2. Đặc diểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................. 35

2.3. Thực trạng các yếu tố tác động hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................................................... 42

CHƯƠNG 3: DỰ BÁO VÀ CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA

TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH DƯỚI GÓC ĐỘ NHÂN THÂN ............................................. 56

3.1. Dự báo các yếu tố sẽ tác động đến đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới ................................................................................................................................ 56

3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản từ khía cạnh nhân thân .......................................................................................................... 60

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TAND: Tòa án nhân dân

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

BLHS: Bộ luật hình sự

UBND: Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Thống kê án hình sự đã xét xử và án trộm cắp tài sản.

Bảng 2.2. Thống kê án hình sự đã xét xử về tội trộm cắp tài sản so với nhóm tội xâm

phạm sở hữu.

Bảng 2.3. Kết quả điều tra phá án các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi.

Bảng 2.4. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo độ tuổi người phạm tội.

Bảng 2.5. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo giới tính người phạm tội.

Bảng 2.6. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội.

Bảng 2.7. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo nghề nghiệp của phạm tội.

Bảng 2.8. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo đặc điểm pháp lý của người phạm tội.

Bảng 2.9. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo đặc điểm thói quen, sở thích của người phạm tội.

Bảng 2.10. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo hoàn cảnh gia đình của người phạm tội.

Bảng 2.11. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi từ

năm 2015 đến năm 2019 xét theo động cơ, mục đích của người phạm tội.

Bảng 2.12. Thống kê đối tượng của các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi.

Bảng 2.13. Thống kê thời gian gây án của các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện

Củ Chi.

Bảng 2.14. Thống kê chế tài đã áp dụng đối với các bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn huyện Củ Chi

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Củ Chi là huyện nằm ở phía Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, với diện tích

tự nhiên 43.496ha, phía Đông - Đông Bắc giáp huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương, phía

Bắc giáp huyện Trảng Bàng - tỉnh Tây Ninh, phía Nam giáp huyện Hóc Môn, Thành

phố Hồ Chí Minh, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Đức Hòa - tỉnh Long An. Huyện

Củ Chi bao gồm thị trấn và 20 xã trực thuộc. Cách trung tâm thành phố hơn 30 km.

Năm 1997, Củ Chi là một trong những quận, huyện được UBND Thành phố Hồ Chí

Minh phê duyệt chủ trương đô thị hóa các quận, huyện vùng ven Thành phố.Từ đó đến

nay, cùng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng và thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế với nhiều

khu công nghiệp lớn đã mọc lên trên địa bàn, Củ Chi đã vươn lên từ một huyện nghèo

trở thành địa phương có mức tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng, trên 14%/năm; đời

sống vật chất, tinh thần của nhân dân trên địa bàn ngày càng được nâng cao [19].

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì mặt trái nền kinh tế thị

trường cũng phản ánh các yếu tố tiêu cực của đời sống xã hội. Từ một vùng nông thôn

nghèo đột ngột thay đổi thành một đô thị mới đã làm cho hàng loạt loại tội phạm mới

phát sinh, sự phân hóa giàu, nghèo diễn ra rõ rệt, tệ nạn xã hội, lối sống tiêu cực ngày

càng phổ biến. Sự đổ về ồ ạt của các nhà đầu tư, các đại công trình thi nhau mọc lên đã

kéo một bộ phận lao động không nhỏ với đủ thành phần từ các tỉnh, miền quê khác

nhau về cư trú và làm việc gây khó khăn trong công tác quản lý con người và quản lý

xã hội …tất cả đã làm cho tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Củ Chi diễn

biến hết sức phức tạp các tội giết người, cướp giật, trộm cắp tài sản…xảy ra ngày càng

nhiều.

Theo số liệu thống kê tại Bảng 2.1 và Bảng 2.2 từ năm 2015 đến năm 2019 trên

địa bàn Huyện Củ Chi cho thấy tổng số vụ phạm tội trên địa bàn huyện trong những

năm gần có đây tuy có sự tăng giảm theo từng năm nhưng tính chất, mức độ ngày càng

manh động, liều lĩnh, nguy hiểm, côn đồ, sử dụng hung khí nguy hiểm. Hậu quả làm

1

thiệt hại đến tài sản, đến cả tính mạng, sức khỏe con người. Trung bình hàng năm có

201,6 vụ phạm pháp hình sự xảy ra. Trong đó, tội trộm cắp tài sản chiếm tỉ lệ cao nhất:

chiếm 62,10% trong nhóm tội sâm phạm sở hữu và chiếm 24,01% so với tổng số vụ tội

phạm chung. Trong thời gian qua có rất nhiều vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn

huyện Củ Chi đã tác động lớn đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, gây hoang

mang cho nhân dân chẳng hạn như vụ án trộm cắp tài sản liên hoàn do băng nhóm của

Phan Thanh Tùng và 04 đối tượng khác thực hiện bao gồm Nguyễn Thành Lộc, Hồ

Phát Đạt, Dương Tấn Đạt, Nguyễn Văn Tuấn. Chỉ trong một thời gian ngắn từ

16/6/2018 đến ngày 02/8/2018 băng nhóm của Tùng đã thực hiện 09 vụ trộm cắp tài

sản từ trộm cắp xe máy để ngoài đường đến đột nhập gia cư, tổng thiệt hại tài sản mà

Tùng và đồng bọn trộm cắp được qua 09 vụ trên lên đến hơn 60.000.000 đồng (Trích

bản án số 49/2019/HS-ST ngày 03/4/2019 của TAND huyện Củ Chi). Thực trạng an

ninh trật tự trên địa bàn còn bất ổn nguyên nhân là do những tác động từ các yếu tố tiêu

cực thuộc môi trường sống cũng như những thói hư tật xấu của một bộ phận người dân

trên địa bàn huyện Củ Chi.

Nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là quá trình tìm hiểu các yếu tố tác

động, thúc đẩy hành vi phạm tội của tội phạm hay nói cách khác là tìm cơ chế thúc đẩy

một con người bình thường trở thành một người phạm tội. Từ đó làm cơ sở cho hoạt

động đấu tranh phòng, chống tội phạm và ngăn ngừa tội phạm trộm cắp tài sản phát

sinh trong thời gian tới của các cấp chính quyền tại đại bàn huyện Củ Chi nên tác giả

chọn đề tài “Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi,

Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu những vấn đề liên quan đến

đề tài, góp phần hoàn thiện lý luận về tội phạm học đồng thời đấu tranh phòng, chống

tội phạm trong xã hội hiện nay. Có thể kể đến các công trình: Luận án Tiến sĩ luật học

của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy (năm 2005) về “Nhân thân người phạm tội trong

2

luật hình sự Việt Nam” tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của

tác giả Lưu Thị Hằng (năm 2017) về “Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình

sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” tại Học viện Khoa học

xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thanh Tịnh (năm 2018) về “Nhân

thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” tại Học viện Khoa

học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Phương Ngọc (năm

2018) về “Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh” tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Tuấn

Tài (năm 2018) về “Nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định”

tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Bá Ngọc

(năm 2018) về “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật

học của tác giả Phạm Thị Phương Thảo (năm 2017) về “Nhân thân người phạm tội

cướp giật tài sản trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” tại Học viện

Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Xuân Bá (năm 2017)

về “Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” tại Học viện Khoa học xã hội.

Đánh giá chung:

Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ một số vấn đề lý luận về

nhân thân người phạm tội như: khái niệm, đặc điểm, phân loại nhân thân người phạm

tội cũng như đã làm rõ nội dung và ý nghĩa của việc nghiên cứu… Đây là những nền

tảng lí luận quan trọng cho việc nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm các

nhóm tội, loại tội. Các công trình cũng đã đánh giá được tình hình tội phạm đã nghiên

cứu thực tiễn nhân thân người phạm một loại tội hoặc nhóm tội ở một số địa phương

nhất định, như các tội về ma túy, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác, nhóm tội xâm phạm sở hữu, nhóm tội xâm phạm tình dục … tại

Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Phước, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Nam Định… đã đưa

3

ra một số giải pháp phòng ngừa tội phạm. Thậm chí một số công trình đã nghiên cứu

sâu về tình hình nhân thân người phạm tội trên một địa bàn đơn vị hành chính cấp xã

như quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu về thực tiễn

nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ

Chí Minh trong giai đoạn 2015 – 2019 cũng như chưa đưa ra các giải pháp phòng ngừa

loại tội phạm ấy tại địa phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Thông qua vệc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về nhân thân

người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

giai đoạn 2015 – 2019 làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn huyện Củ Chi qua đó đề ra các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân

thân người phạm tội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên luận văn phải làm rõ 3 nhiệm vụ sau đây:

- Một là phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội

trộm cắp tài sản, như khái niệm, đặc điểm, phân loại…

- Hai là phân tích làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản và

các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm

tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở hồ

sơ các vụ án đã xét xử bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật từ năm 2015 đến năm

2019 của TAND huyện Củ Chi và số liệu thống kê thường xuyên của các cơ quan tư

pháp; Các báo cáo tổng kết năm của cơ quan Công an, VKSND và TAND huyện Củ

Chi.

- Ba là đề xuất một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trộm

4

cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ góc độ nhân thân

người phạm tội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận về nhân thân người

phạm tội trộm cắp tài sản và thực tiễn nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Để có đủ chất liệu nghiên cứu, tác giả

dựa trên số liệu thống kê của TAND, VKSND huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

và tổng hợp các đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản từ 100 bản án của

TAND huyện Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 - 2019 được sưu tầm

một cách ngẫu nhiên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu về nhân thân của những người phạm tội

trộm cắp tài sản, quy định tại Điều 138 BLHS 1999 (Nay là Điều 173 BLHS năm 2015,

sửa đổi năm 2017).

- Về phạm vi không gian: tội trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn huyện Củ Chi,

Thành phố Hồ Chí Minh.

- Về thời gian, đề tài được nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến

năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -

Lênin về tội phạm. Các đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về

nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng

trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sử dụng để nghiên cứu các công trình khoa

5

học có liên quan, các văn bản pháp lý, các báo cáo sơ kết, tổng kết.

- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu sâu vào một trường hợp cụ thể

nổi bật trong từng nhóm, lĩnh vực từ đó khái quát chung cho nhóm, lĩnh vực đó.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu tổng kết đánh giá những kết

quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua.

- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu: Sử dụng để điều tra, khảo

sát thực tế và thống kê, đánh giá thực trạng tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019.

6. Ý nghĩa luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về

nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan

chức năng trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch, tổ

chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa hiệu quả tội trộm cắp tài sản trong thời gian

tới. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo, nghiên cứu học tập về kiến thức nhân

thân người phạm tội.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu thảm khảo thì luận văn

được bố cục thành 3 phần:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản

Chương 2: Thực trạng nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3: Các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản trên

địa bàn Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ nhân thân.

6

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội

trộm cắp tài sản

1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản

Để hiểu rõ về nhân thân người phạm tội chúng ta cần làm rõ khái niệm về nhân

thân và khái niệm người phạm tội.

Theo Từ điển tiếng Việt, nhân thân con người được định nghĩa là: “Tổng hợp

các đặc điểm về nhân thế, tính cách và cuộc sống của cá nhân một con người về mặt thi

hành pháp luật” [40, tr. 45].

Từ định nghĩa trên ta thấy, nhân thân đề cập ở đây chỉ được giới hạn về mặt thi

hành pháp luật điều đó là chưa đủ, vì còn nhiều đặc điểm về sở thích, thói quen, tình

cảm, cũng là các đặc điểm về nhân thân của một con người cụ thể. Như vậy định nghĩa

trên là chưa đầy đủ.

Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin xét bản chất con người bao gồm phần con và phần

người. Phần con là một thực thể tự nhiên (cơ thể sinh học do cha mẹ sinh ra), phần

người thể hiện đặc tính xã hội của con người, muốn tồn tại thì con người ấy phải tham

gia vào các hoạt động lao động, hoạt động xã hội để phục vụ cho cuộc sống bản thân

(như ăn mặc, nghỉ ngơi, giao tiếp...). Đặc tính sinh học tự nhiên quyết định đến sự hình

thành các đặc điểm tâm, sinh lý của con người. Trong bất kỳ xã hội nào, con người

không thể sống riêng biệt, tách rời với xã hội mà ngược lại mỗi cá nhân phải luôn đặt

mình trong mối quan hệ với nhau trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong các

mối quan hệ xã hội khác. Đúng như C. Mác đã khẳng định: “...bản chất con người

không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực

của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [6, tr.19]. Đời sống sinh

hoạt, kinh nghiệm sống của cá nhân được quy định bởi nội dung của các quan hệ xã hội

cụ thể hình thành trong gia đình, môi trường bạn bè, trong tập thể lao động hay học

7

tập... Tất cả những yếu tố đó đều ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân thân con

người. Vì vậy, quá trình đánh giá về nhân thân con người cần phải chú ý đến cả các đặc

điểm về sinh học, tâm lý và xã hội [39, tr.147].

Cũng theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, khi tìm hiểu về nhân thân của một con người

cụ thể thì không thể khép kín, tách rời con người ấy với hiện thực xã hội và các điều

kiện cụ thể, đặc trưng của thời kỳ xã hội đó mà bản chất xã hội của một con người cụ

thể chỉ được bộc lộ ra bên ngoài thông qua vị trí của người đó khi đặt trong các mối

quan hệ xã hội nhất định. Như vậy nhân thân của con người là sản phẩm của một thời

đại nhất định, được quy định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội.

Mỗi thời đại khác nhau sẽ sản sinh ra những mẫu người không giống nhau, song dù ở

thời đại nào thì bản chất của con người luôn phản ánh các quan hệ xã hội của thời đại

đó. Nhân thân là một phạm trù mang tính xã hội - lịch sử. [5, tr.150]. Tuy bản chất của

con người được hình thành thông qua các mối quan hệ xã hội, song không phải quá

trình hình thành của cá nhân nào cũng giống nhau mà do khả năng nhận thức, cách

thức tiếp cận, sự thảo mãn nhu cầu của mỗi cá nhân trong xã hội là khác nhau từ đó tạo

nên những bản chất riêng khác nhau giữa các cá nhân ấy trong xã hội. Tất cả những

đặc điểm tâm sinh lý, các bản chất riêng ấy hợp thành nhân thân của một con người.

Như vậy, từ phân tích trên ta có thể hiểu: “Nhân thân con người là tổng hợp các

đặc điểm, dấu hiệu riêng biệt của con người, mà trong những điều kiện, hoàn cảnh

nhất định thể hiện bản chất xã hội của con người đó” [21, tr.26]. Các đặc điểm ấy bao

gồm đặc điểm về sinh học, nhân khẩu, về địa lý, tâm lý, đạo đức, xã hội, pháp lý

Nhân thân người phạm tội là một phạm trù thuộc về con người được đề cập

trong các ngành khoa học Tội phạm học, khoa học Luật hình sự, khoa học Điều tra tội

phạm, Tâm lý học tư pháp… Trong khoa học Luật hình sự nhân thân người phạm tội

được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với

việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ [41, Tr. 97]. Những đặc

điểm đó là tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, hoàn cảnh gia đình, thái độ chính trị, ý

8

thức pháp luật, tiền án, tiền sự... của một con người cụ thể, đã thực hiện một tội phạm

cụ thể. Luật hình sự nghiên cứu nhân thân người phạm tội làm căn cứ để định khung

hình phạt, quyết định hình phạt, làm căn cứ để xác định các tình tiết tăng nặng hay

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng tội phạm cụ thể [41, Tr.98].

Trong Tội phạm học “Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người

phạm tội chứ không phải là con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [16, tr. 149]. Tội

phạm là kết quả của sự tác động qua lại rất phức tạp của nhiều yếu tố khách quan và

chủ quan khác nhau, trong đó các đặc điểm về nhân thân người phạm tội đóng vai trò

rất quan trọng. Các đặc điểm về nhân thân này là kết quả của những điều kiện sống

nhất định, của sự giáo dục, của những mối quan hệ và sự ảnh hưởng qua lại giữa môi

trường xã hội và người phạm tội [16, tr.182-185]. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của tội

phạm học là nhân thân của người phạm tội. Người phạm tội trước hết cũng là một con

người trong một xã hội, do đó nhân thân của người phạm tội trước hết cũng bao gồm

các đặc điểm nhân thân của con người nói chung và các đặc điểm về chủ thể của tội

phạm được quy định trong luật hình sự như: độ tuổi, giới tính, năng lực trách nhiệm

hình sự. Ngoài ra, cũng như nhân thân con người thì nhân thân người phạm tội còn có

dấu hiệu, đặc điểm liên quan đến sự việc phạm tội như tâm lí, tính cách, thói quen, sở

thích, quan điểm, thái độ đối với xã hội, ý thức pháp luật các yếu tố đó phần nhiều phụ

thuộc vào sự giáo dục, điều kiện sống và các mối quan hệ xã hội tạo nên.[16, tr.151]

Như vậy ta thấy giữa nhân thân người phạm tội dưới góc độ Luật hình sự và

nhân thân người phạm tội trong Tội phạm học có những điểm chung nhất định, đó là

những đặc điểm có tính đặc trưng ở người phạm tội. Tuy nhiên, trong khi Luật hình sự

nghiên cứu nhân thân người phạm tội nhằm phục vụ mục đích giải quyết đúng đắn các

vụ án hình sự, trong khi tội phạm học nghiên cứu đặc điểm đặc trưng của nhân thân

người phạm tội để làm rõ nguyên nhân của tình hình tội phạm, từ đó đề ra các giải

pháp phòng ngừa tội phạm. Hay nói cách khác mục đích nghiên cứu nhân thân người

9

phạm tội trong Luật hình sự việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội là để giải quyết

vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đó. Trong khi đó Tội phạm học

nghiên cứu nhân thân người phạm tội là để tìm ra nguyên nhân, điều kiện của tình hình

tội phạm, qua đó có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu tình hình tội phạm.

Như vậy, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể

hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều

kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến con người đó thực hiện hành vi phạm tội. [36,

tr.151]

Để định nghĩa được nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản, chúng ta cần

làm rõ khái niệm tội trộm cắp tài sản được quy định trong BLHS Việt Nam, cụ thể theo

quy định tại Điều 138 BLHS 1999, nay là Điều 173 BLHS năm 2015, sửa đổi năm

2017. Dựa vào khái niệm tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999

(Nay là khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, sửa đổi 2017) có thể hiểu, tội trộm cắp tài

sản là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 138 BLHS 1999

(Nay là Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi 2017), do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình

sự thực hiện một cách cố ý, bằng hành vi lén lút nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của

người khác.

Từ các phân tích trên, chúng ta có thể định nghĩa: nhân thân người phạm tội

trộm cắp tài sản là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của

con người và các đặc điểm, dấu hiệu này trong sự kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh

nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản được quy

định tại Điều 138 BLHS năm 1999 (Nay là Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi 2017).

1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài

sản

Nhân thân người phạm tội là đối tượng được nhiều ngành khoa học nghiên cứu.

Tuy nhiên với những mục đích khác nhau và bằng những phương pháp nghiên cứu

khác nhau nên góc độ tiếp cận đối với vấn đề nhân thân người phạm tội của mỗi ngành

10

khoa học cũng không giống nhau. Tội phạm học với tư cách là một khoa học chuyên

nghiên cứu về tội phạm và người phạm tội cùng những nguyên nhân và điều kiện của

nó để đề ra các biện pháp phòng ngừa, nên khi nghiên cứu một cách toàn diện các vấn

đề nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản

nói riêng sẽ mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.

Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản có ý

nghĩa rất lớn trong định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính xác.

Thông qua kết quả có được từ quá trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội

trộm cắp tài sản là cơ sở để nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí của người phạm tội trong

cơ chế hành vi phạm tội, nguyên nhân thúc đẩy một người thực hiện hành vi phạm tội

trộm cắp tài sản từ đó định tội danh, định khung và quyết định hình phạt một cách

chính xác. Theo khoa học luật hình sự: “nhân thân người phạm tội được hiểu là tổng

thể tất cả các đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội của người thực hiện tội phạm được cân

nhắc để giải quyết những vấn đề của trách nhiệm hình sự (cá thể hóa hình phạt, miễn

trách nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt)” [38, tr.194]. Ví dụ như dấu hiệu “Đã bị

xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm” là dấu hiệu

để định tội danh cho trường hợp trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng. Hay dấu

hiệu “Có tính chất chuyên nghiệp”, “Tái phạm nguy hiểm” là căn cứ để định khung

tăng nặng (Điều 173 - BLHS 2015, sửa đổi năm 2017). Như vậy, khi định tội danh

trong bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát và

bản án của Tòa án nhân dân, các đặc điểm nhân thân người phạm tội phải được các cơ

quan tiến hành tố tụng thu thập đầy đủ làm căn cứ định tội danh đúng đối với người

phạm tội và phải được ghi nhận đầy đủ trong hồ sơ vụ án.

Thứ hai, nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản là cơ sở cho việc

xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản

Để có cơ sở chính xác cho việc xác định các nguyên nhân và điều kiện của tình

hình tội trộm cắp tài sản thì không thể không nghiên cứu các đặc điểm, dấu hiệu về

11

nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản. GS. TS Võ Khánh Vinh đã khẳng định:

“Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra rằng không

thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc

nhân thân người phạm tội” [37, tr. 127].

Qua nghiên cứu về đặc điểm nhân thân của người phạm tội trộm cắp tài sản, cho

thấy những đặc điểm nhân thân nổi trội là lười lao động nhưng thích hưởng thụ, thích

đua đòi cùng bạn bè, hay xa đà vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, uống rượu, bia,

cờ bạc... và để thỏa mãn nhu cầu lệch chuẩn ấy cộng với sự bất cẩn về quản lý tài sản

của nạn nhân là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm trộm cắp tài sản. Như vậy nguyên

nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản là mối quan hệ tương tác giữa các

yếu tố chủ quan của người phạm tội (đặc điểm nhân thân thuộc nhu cầu lệch chuẩn) với

các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài (yếu tố nạn nhân) làm phát sinh tội phạm. Mặt

khác, sự tương tác với nhau giữa các nguyên nhân và điều kiện trong quá trình hình

thành đặc điểm, tâm lý (đặc điểm nhân thân) của người phạm tội trộm cắp tài sản sẽ

quyết định động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm của người phạm tội. Ví dụ cùng

trong một hoàn cảnh một chiếc xe máy dựng ngoài đường không có người trông coi

nhưng không phải ai đi qua cũng nảy sinh ý định trộm cắp tài sản mà chỉ những đối

tượng có các đặc điểm nhân thân xấu nổi trội lại đang trong lúc cần tiền để hút ma túy

thì khi đó đối tượng này rất dễ phát sinh ý định phạm tội và dẫn đến thực hiện hành vi

trộm cắp xe máy. Như vậy ở đây ta thấy chính sự kết hợp giữa đặc điểm nhân thân xấu

nổi trội của đối tượng (mục đích cần tiền để hút ma túy) kết với với hoàn cảnh thuận

lợi (xe máy dựng ngoài đường không có người trông coi) đã làm phát sinh hành vi

phạm tội trong hoàn cảnh này. Hay nói cách khác xuất phát từ việc nghiên cứu, khai

thác làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội mà cụ thể ở đây là động cơ, mục

đích phạm tội đã chỉ cho ta thấy nguyên nhân của các vụ trộm cắp xe máy. Việc nghiên

cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản giúp chúng ta làm rõ

nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản.

12

Thứ ba, nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản, giúp cơ quan

chức năng đề ra các biện pháp phòng ngừa đối với tội này.

Việc nghiên cứu, phân tích và rõ các đặc điểm về nhân thân người phạm tội

trộm cắp tài sản cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành các đặc điểm nhân

thân qua đó giúp chúng ta xác định các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm

tội cũng như sự tác động từ các yếu tố môi trường tiêu cực đến quá trình hình thành và

thúc đẩy thực hiện hành vi phạm tội. Qua đó, giúp cho các cơ quan chức năng đưa ra

các giải pháp phòng ngừa tội trộm cắp tài sản một cách hiệu quả bằng cách đưa ra các

biện pháp tác động nhằm hạn chế và tiến tới loại trừ các tác động tiêu cực từ môi

trường sống, đồng thời hạn chế hoặc loại trừ các đặc điểm nhân thân tiêu cực của con

người, góp phần xây dựng con người mới với những đặc điểm nhân thân tích cực nổi

trội. Chẳng hạn qua ví dụ trộm xe máy ở trên ta thấy chính từ việc nghiên cứu làm rõ

các đặc điểm nhân thân của người thực hiện hành vi trộm cắp xe máy đã chỉ cho ta thấy

nguyên nhân hầu hết của các vụ trộm cắp xe máy là do sự chủ quan, mất cảnh giác của

người có tài sản đã thúc đẩy đối tượng có đặc điểm nhân thân xấu nổi trổi nảy sinh ý

định và dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy qua việc nghiên cứu này là cơ sở

để cơ quan chức năng có các biện pháp tuyên truyền người dân nêu cao ý thức bảo bệ

tài sản của mình, cũng như đề ra các biện pháp phòng ngừa chuyên biệt với nhóm đối

tượng nghiện hút ma túy. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm tài sản chính là

nghiên cứu về những nguyên nhân hình thành đặc điểm tiêu cực và quá trình làm phát

sinh hành vi trộm cắp tài sản từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế, tiến

tới đẩy lùi tình trạng trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống.

Thứ tư, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản giúp cho cơ quan

chức năng xây dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội một cách hiệu quả.

Để giáo dục và cải tạo người phạm tội trong thời gian người phạm tội chấp hành

án thì các đặc điểm, dấu hiệu trong nhân thân người phạm tội là căn cứ xác định chế độ

giam giữ, cải tạo giáo dục người phạm tội. Chúng ta biết rằng: “Hình phạt không chỉ

13

nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân

theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục

người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh

chống tội phạm”[23, Đ.31] . Để đạt được mục đích này, các cơ quan chức năng phải

dựa trên kết quả việc nghiên cứu các đặc điểm nhân thân của các đối tượng quản lý để

từ đó phân nhóm quản lý, đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp nhằm tiến tới loại bỏ

các đặc điểm nhân thân xấu, hình thành các đặc điểm nhân thân tốt ở họ. Chẳng hạn

như thông qua hoạt động điều tra cơ quan chức năng làm đã làm rõ các đặc điểm nhân

thân của người phạm tội như người phạm tội dưới 18 tuổi hay người phạm tội là nữ

giới thì sẽ có phương pháp giáo dục cũng như khu giam giữ, cải tạo riêng. Người phạm

tội là người không biết chữ, không có nghề nghiệp thì sẽ được dạy học, cũng như dạy

nghề trong quá trình chấp hành án. Hay những người bị tác động từ các yếu tố thuộc về

môi trường gia đình (bố mẹ quá hà khắc, hay đánh đập, chửi bới con, coi thường

con…) đã làm xuất hiện tâm lý tiêu cực dẫn đến thúc đẩy thực hiện hành vi phạm tội

thì đó là cơ sở để cơ quan chức năng phối hợp cùng gia đình trong quá trình giáo dục,

cải tạo người phạm tội … Tóm lại, chính việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các đặc

điểm nhân thân của người phạm tội là cơ sở tốt nhất để cơ quan chức năng xây dựng

các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội một cách có hiệu quả nhất.

1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội trộm cắp tài sản

Nhân thân người phạm tội nói chung bao gồm các đặc điểm, dấu hiệu có mối

quan hệ qua lại, gắn bó với nhau dù hình thức biểu hiện, vai trò có khác nhau. Khi tìm

hiểu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản ta sẽ thấy những điểm đặc trưng riêng

nhằm giúp phân biệt với người không phạm tội và những người phạm các tội khác

trong BLHS. Trong Tội phạm học, các đặc điểm nhân thân người phạm tội thường

được chia thành ba nhóm: Nhóm dấu hiệu xã hội - nhân khẩu; Nhóm dấu hiệu đạo đức

- tâm lý xã hội và Nhóm dấu hiệu pháp lý - hình sự [15, tr. 194].

1.2.1. Nhóm dấu hiệu xã hội - nhân khẩu

14

Các đặc điểm xã hội - nhân khẩu học của nhân thân người phạm tội trộm cắp tài

sản cũng giống như trong nhân thân của con người nói chung bao gồm: Giới tính, lứa

tuổi, nơi cư trú, dân tộc, địa vị xã hội, nghề nghiệp, quốc tịch, hoàn cảnh gia đình, trình

độ học vấn…[36, tr.144]. Nếu xét một cách đơn lẻ các đặc điểm này không có ý nghĩa

về mặt hình sự, bởi chúng luôn tồn tại trong nhân thân bất kỳ người nào. Tuy nhiên, tập

hợp những thông tin về dấu hiệu xã hội - nhân khẩu của nhân thân người trộm cắp tài

sản thu được qua thống kê hình sự sẽ cho chúng ta những cơ sở để rút ra kết luận quan

trọng khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản cũng như có ý nghĩa

quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các biện pháp quản lý, giáo dục, phòng ngừa

tội phạm.

1.2.1.1. Đặc điểm về độ tuổi

Trong đời sống mỗi người chúng ta đều phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển

về mặt sinh lý: ấu thơ, nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên, cao tuổi. Mỗi lứa

tuổi có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, cùng với những kinh nghiệm sống mà

cá nhân tích lũy được trong quá trình giao tiếp xã hội, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hành

vi của con người. Vì vậy, nghiên cứu thông tin về độ tuổi của người phạm tội trộm cắp

tài sản cho chúng ta thấy tính chất, mức độ, đặc điểm tội phạm của từng lứa tuổi cũng

như ảnh hưởng của lứa tuổi đến việc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản do ở mỗi lứa

tuổi khác nhau sẽ có những đặc điểm riêng về sự phát triển thể chất, tinh thần, tâm,

sinh lý, hiểu biết xã hội… Xét về mặt hành vi thực hiện, trong nhóm các tội xâm phạm

sở hữu tội trộm cắp tài sản có hành vi thể hiện lén lút chiếm đoạt tài sản của người

khác với lỗi cố ý thực hiện. Hành vi này không đòi hỏi chủ thể thực hiện phải có những

thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, không đòi hỏi phải sử dụng sức mạnh cơ thể, vừa có thể

thực hiện theo nhóm hoặc cũng có thể thực hiện một cách đơn lẻ nên đây là loại hành

vi mà bất cứ lứa tuổi nào cũng có thể thực hiện được. Tuy nhiên căn cứ theo BLHS

Việt Nam thì “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội

phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi,

15

nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về… tội phạm rất nghiêm

trong, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 12 - BLHS 2015, sửa đổi 2017). Tại

Điều 138 BLHS 1999, sửa đổi 2009 quy định Khoản 3 là tội phạm rất nghiêm trọng và

khoản 4 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tại Điều 173 BLHS 2015, sửa đổi năm

2017cũng quy định Khoản 3 là tội phạm rất nghiêm trọng và khoản 4 là tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng. Như vậy người từ đủ 14 tuổi, nhưng chưa đủ 16 tuổi sẽ phải chịu

trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản do họ thực hiện nếu hành vi của họ thuộc

các khoản vừa kể trên. Do đó trong phạm vi của luận văn tác giả sẽ nghiên cứu chủ thể

thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thuộc nhóm tuổi từ 14 tuổi trở lên. Cũng theo khoản

1 Điều 20 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “người thành niên là người từ đủ

mười tám tuổi trở lên” và cũng tại khoản 1 Điều 21 của Bộ luật này quy định “người

chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”. Như vậy, căn cứ theo quy định của

pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, căn cứ theo độ tuổi thành niên và đặc điểm

tâm lý của từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau, tác giả có thể chia độ tuổi của người

phạm tội trộm cắp tài sản thành 04 nhóm: Dưới 18 tuổi, từ 18 đến 30 tuổi, từ 30 đến 45

tuổi, từ trên 45 tuổi.

1.2.1.2. Đặc điểm về giới tính

Dấu hiệu về giới tính cho phép xác định người phạm tội trộm cắp tài sản là nam

giới họặc nữ giới. Phân tích tỷ lệ giữa nam giới và nữ giới trong việc phạm tội giúp

chúng ta xác định sự ảnh hưởng của giới tính đến việc thực hiện hành vi phạm tội.

Qua nghiên cứu về giới thì tỷ lệ nam giới phạm tội bao giờ cũng nhiều hơn nữ

giới và mang tính chất ốn định hơn. Sự chênh lệch về giới tính dựa vào đặc điểm tâm,

sinh lý chúng ta có thể giải thích rằng nam giới có khả năng kiềm chế kém, dễ bị kích

động, dễ bị tiêm nhiễm các thói quen xấu như lười lao động, thích hưởng thụ, thích thể

hiện, sĩ diện, thường sử dụng các chất kích thích, hay cờ bạc…. do đó nhằm thỏa mãn

những nhu cầu sai lệch thì nam giới dễ thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản. Ngược

lại nữ giới thường kiên nhẫn, chăm chỉ, chịu khó, ít bị lôi cuốn vào các thói xấu như

16

nam giới do đó khả năng thực hiện tội phạm trộm cắp tài sản của nữ giới ít hơn nam

giới. Tuy nhiên, như phần mở đầu đã phân tích trong những năm gần đây do sự dịch

chuyển cơ học về dân số giữa các vùng miền (từ nông thôn lên thành thị) đã kéo theo

một bộ phận không nhỏ dân cư sống tại thành phố không có việc làm ổn định, trong đó

có cả nữ giới. Từ đó kéo theo cơ cấu người phạm tội xét theo giới tính đang có sự thay

đổi. Số lượng người phạm tội là nữ giới đang có xu hướng tăng lên và các loại tội

phạm do họ thực hiện ngày càng đa dạng. Đặc biệt, loại tội trộm cắp tài sản không cần

dùng đến sức mạnh nên khá phù hợp với đặc điểm hành vi của nữ giới do đó tỉ lệ nữ

giới thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản ngày càng tăng.

1.2.1.3. Đặc điểm về trình độ học vấn và nghề nghiệp.

Trình độ học vấn và nghề nghiệp là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ

nhận thức thế giới xung quanh và sự phát triển trí tuệ con người. Nó ảnh hưởng rất lớn

đến hành vi ứng xử của con người trong các mối quan hệ xã hội nói chung và hành vi

phạm tội nói riêng.

Hai loại đặc điểm này có mối liên quan chặt chẽ với nhau và cũng là những đặc

điểm nổi bật của chủ thể thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Xét về mối liên hệ giữa hai

đặc điểm trên ta thấy trình độ học vấn quyết định đến nghề nghiệp của mỗi cá nhân

Trình độ học vấn cao thì cơ hội tìm được công việc sẽ cao hơn. Đồng thời, khi đó nghề

nghiệp ổn định, thu nhập cao sẽ có cơ hội nhiều hơn để cá nhân nâng cao trình độ học

vấn của bản thân. Đây cũng là lý do tại sao đặc điểm này là đặc điểm nổi bật của về

nhân thân của chủ thể thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Xét đến cùng động cơ thực

hiện hành vi trộm cắp tài sản xuất phát từ việc không có tài sản để thỏa mãn các nhu

cầu lệch chuẩn của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Người có trình độ học vấn cao,

nghề nghiệp ổn định tức là thu nhập sẽ ổn định và cao hơn nhưng người có trình độ học

vấn thấp và nghề nghiệp không ổn định khi đó động cơ thúc đẩy thực hiện hành vi trộm

cắp tài sản gần như là không có. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là tất cả những

17

người có trình độ học vấn cao, nghề nghiệp ổn định thì không có động cơ thúc đẩy thực

hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Từ những phân tích trên ta có thể phân loại như sau:

Về đặc điểm trình độ học vấn chia thành 04 nhóm: nhóm không biết chữ, nhóm

có học vấn từ tiểu học và trung học cơ sở, nhóm có trình độ học vấn trung học phổ

thông, nhóm có trình độ Cao đẳng và Đại học trở lên.

Về đặc điểm nghề nghệp cũng có thể chia thành 03 nhóm: nhóm không có nghề

nghiệp, nhóm nghề nghiệp không ổn định, nhóm nghề nghiệp ổn định.

1.2.1.4. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình.

Hoàn cảnh gia đình và sự thay đổi của nó có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình

thành nhân cách của con người, ở một mức nhất định chúng cũng tác động đến tính

định hướng và sự kiên định thực hiện tội phạm [36, tr.146]. Cùng với các môi trường

giáo dục khác , gia đình là nơi định hướng cho các hành vi ứng xử của mỗi thành viên.

Nghiên cứu đặc điểm hoàn cảnh gia đình trong nhân thân người phạm tội trộm cắp tài

sản là nghiên cứu ở các khía cạnh: Quan hệ gia đình, thành phần gia đình và hoàn cảnh

kinh tế gia đình với những tác động của nó tới người phạm tội.

Đặc điểm về quan hệ gia đình là những thông tin phản ánh về tình trạng hôn

nhân, cơ cấu gia đình của người phạm tội. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở cùng một

nhóm lứa tuổi những người đã kết hôn thường ít phạm tội hơn những người chưa kết

hôn vì những người đã kết hôn họ sẽ phải cố gắng kiếm những công việc ổn định để

nuôi sống gia đình họ, tương tự những người sống trong gia đình có cơ cấu gia đình

hoàn thiện, gia đình hòa thuận, hạnh phúc thường ít phạm tội hơn những người sống

trong gia đình có cơ cấu không hoàn thiện hoặc không hạnh phúc.

Hoàn cảnh kinh tế gia đình là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến

việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội trộm cắp tài sản. Như đã phân tích, mục

đích của chủ thể tội trộm cắp tài sản đó là chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm thỏa

mãn những nhu cầu lệch chuẩn của họ. Do đó, không khó để nhận ra rằng hoàn cảnh

18

kinh tế gia đình khó khăn là một trong những kiểu gia đình tác động đến quá trình hình

thành đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội như tâm lý dao động, quẫn bách,

chán nản, bế tắc về kinh tế khi đó dễ phát sinh hành vi trộm cắp tài sản.

Ngoài ra kiểu gia đình có người thân vi phạm pháp luật, gia đình bố mẹ quá

nuông chiều con cái, gia đình bố mẹ quá hà khắc với con cái … cũng là một trong

những đặc điểm về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội trộm cắp tài sản.

1.2.2. Nhóm dấu hiệu đạo đức - tâm lý xã hội

1.2.2.1. Quan điểm, thái độ đối với các giá trị đạo đức xã hội, pháp luật

Xuất phát từ mục đích thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đó là chiếm đoạt tài

sản nhằm thỏa mãn nhu cầu lệch chuẩn của chủ thể thực hiện hành vi, họ thường có

thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật; tâm lý hám lợi,

đua đòi, sống nhanh, sống gấp, lười làm việc, thích hưởng thụ đã thúc đẩy họ kiếm tiền

bằng mọi giá. Đối với họ lợi ích cá nhân là trên hết, không quan tâm đến lợi ích của xã

hội, của người khác. Vì vậy, họ chỉ lựa chọn những biện pháp có thể đem lại lợi ích

cho bản thân, nhất là các lợi ích vật chất, kể cả điều đó có thể xâm phạm đến lợi ích

hợp pháp của người khác. [16, tr.156].

1.2.2.2. Nhu cầu, sở thích, thói quen

Các đặc điểm trên luôn tồn tại ở bất cứ một con người cụ thể nào, nhưng khác

với phần còn lại của xã hội những người phạm tội nói chung và chủ thể của tội trộm

cắp tài sản nói riêng thường có nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực, không lành mạnh

họ sẵn sàng thực hiện mọi biện pháp kể cả vi phạm pháp luật để thỏa mãn nhu cầu sở

thích đó. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản luôn có nhu cầu về vật chất để thỏa mãn sở

thích, thói quen, thú vui tiêu xài hoang phí, thú vui cờ bạc, thích hưởng thụ, thích giàu

lên nhanh chóng bằng mọi cách. Khi đó nhu cầu, sở thích, thói quen tiêu cực đó sẽ tác

động trực tiếp đến việc hình thành mục đích, động cơ phạm tội và sự kiên định thực

hiện tội phạm đến cùng của người phạm tội.

1.2.3. Nhóm dấu hiệu pháp lý - hình sự

19

Các đặc điểm về pháp lý - hình sự của nhân thân người phạm tội trộm cắp tài

sản là những dấu hiệu quan trọng để khẳng định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đã

có lỗi và có ý nghĩa trong việc định tội, định khung, quyết định hình phạt. Các đặc

điểm pháp lý - hình sự bao gồm: Động cơ, mục đích phạm tội, phạm tội lần đầu hay tái

phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, đã bị xử phạt về hành vi vi

phạm hành chính (có tiền sự)…

1.2.3.1. Động cơ, mục đích phạm tội

Động cơ là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Mục

đích là kết quả trong ý thức chủ quan mà chủ thể phạm tội mong muốn đạt được khi

thực hiện tội phạm [18, tr.155].

Nắm rõ được động cơ, mục đích thực hiện tội phạm giúp chúng ta tìm ra được

nguyên nhân phạm tội, đồng thời đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi phạm tội, nếu động cơ, mục đích phạm tội càng rõ ràng thì tính chất

của tội phạm càng nguy hiểm và hậu quả của tội phạm càng nghiêm trọng. Bên cạnh đó

xác định được động cơ, mục đích của tội phạm giúp cơ quan chức năng tìm ra những

biện pháp tác động tích cực nhằm loại trừ động cơ phạm tội, ngăn cản mục đích tội

phạm, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả mà người phạm tội trộm cắp tài sản có thể

gây ra cho xã hội.

1.2.3.2. Phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm

Phạm tội lần đầu là trường hợp người phạm tội trước đó: chưa phạm tội lần nào;

đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; đã thực hiện

hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo

dưỡng; đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích [27].

Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện

hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm

trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý (Khoản 1, Điều 53 - BLHS năm 2015,

20

sửa đổi năm 2017). Trong tội trộm cắp tài sản tái phạm được là tình tiết tăng nặng trách

nhiệm hình sự.

Tái phạm nguy hiểm là trường phạm tội trước đó đã bị kết án về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại

thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm

tội do cố ý (Khoản 2, Điều 53 - BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017). Trong tội trộm

cắp tài sản tái phạm nguy hiểm là dấu hiệu pháp lý để định khung hình phạt được quy

định tại Điểm g, khoản 2, điều 173 - BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017.

Từ khái niệm trên ta thấy đa số trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm

thường có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn nhiều so với người mới phạm tội lần

đầu, ở họ đã có kinh nghiệm trong việc thực hiện tội phạm cũng như đối phó với hoạt

động điều tra, xử lý của các cơ quan bảo vệ pháp luật, có khả năng thực hiện tội phạm

nghiêm trọng hơn. Vì vậy, phòng ngừa tái phạm là một trong những mục tiêu cấp bách

trước mắt của hoạt động phòng ngừa tội phạm, nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà

tỷ lệ tái phạm còn tương đối cao.

1.2.3.3. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp

Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao phạm tội có tính chuyên nghiệp là

trường hợp người phạm tội cố ý phạm tội từ 5 lần trở lên về cùng một tội phạm không

phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự,

nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích và

người phạm tội đếu lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả phạm tội

làm nguồn sống chính. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp trong tội trộm cắp là đặc

điểm pháp lý hình sự được quy định tại Điểm b Khoản 2 - Điều 173 của BLHS 2015

sửa đổi 2017. Tuy nhiên, việc xác định người phạm tội trộm cắp có tính chuyên nghiệp

là rất khó khăn vì chứng minh được bị cáo 05 lần phạm tội thì không khó nhưng chứng

21

minh người phạm tội lấy việc phạm tội trộm cắp làm nghề sinh sống và dùng tài sản

trộm cắp được làm nguồn sống chính thì rất khó.

Tóm lại, nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản bao gồm 3 nhóm đặc điểm

cơ bản, mỗi nhóm đặc điểm thể hiện những khía cạnh khác nhau của nhân thân người

phạm tội trộm cắp tài sản. Trong đó có những đặc điểm chung của nhân thân người

phạm tội và cũng có những điểm riêng của nhân thân người phạm tội trộm cắp tài

sản. Trong thực tiễn tất cả các đặc điểm này sẽ gắn liền với từng cá nhân con người,

chúng thường có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một nhân cách xấu

của cá nhân người phạm tội, nhân cách này khi được đặt trong một điều kiện hoàn cảnh

thuận lợi sẽ dẫn đến việc thực hiện tội trộm cắp tài sản. Nhằm xác định đối tượng nào

có khả năng cao thực hiện các tội trộm cắp tài sản thì phải nghiên cứu nhân thân người

phạm tội từ đó đề ra các biện pháp phòng ngừa cụ thể hướng tới các đối tượng này.

1.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội trộm

cắp tài sản

Đặc điểm nhân thân của mỗi người có từ khi con người được sinh ra, đó là

nhóm đặc điểm về sinh học như giới tính, độ tuổi,… Khi nói đến các đặc điểm sinh học

thì cũng có quan điểm cho rằng đặc điểm “tướng mạo” cũng ảnh hưởng đến quá trình

hình thành nhân thân người phạm tội như người xưa có câu “những người ti hý mắt

lươn, trai thì trộm cắp, gái buôn chồng người” hay “nhìn tướng biết tâm” có thể ở một

góc độ nào trong lĩnh vực nghiên cứu về tướng số học sẽ có phần đúng. Tuy nhiên theo

tác giả cùng với thời gian con người lớn lên bên cạnh những đặc điểm sinh học vốn có

từ khi mới sinh ra thì các đặc điểm nhân thân khác cũng dần hình thành và phát triển.

Sự hình thành đặc điểm nhân thân của mỗi người là khác nhau, đó là quá trình tương

tác lâu dài giữa các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống với các yếu tố chủ quan

của con người trong quá trình nhận thức. Do vậy trong phạm vi nghiên cứu của luận

văn tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu vào quá trình tác động giữa các yếu tố khác quan

thuộc môi trường sống với các yếu tố chủ quan của con người. Quá trình tác động của

22

môi trường luôn tồn tài hai xu hướng: tích cực và tiêu cực. Môi trường tốt cộng với thái

độ nhận thức tích cực sẽ giúp hình thành các đặc điểm nhân thân tốt. Ngược lại, môi

trường tiêu cực cùng với thái độ nhận thức thiếu tích cực sẽ làm hình thành các đặc

điểm nhân thân xấu. Chính những đặc điểm nhân thân xấu khi gặp môi trường tiêu cực

thì dễ làm phát sinh hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, trong tội phạm học đã chỉ ra rằng người có đặc điểm nhân thân tốt

không có nghĩa là không có các đặc điểm nhân thân xấu, và ngược lại người có các đặc

điểm nhân thân xấu không có nghĩa là không có các đặc điểm nhân thân tốt. Khái niệm

đặc điểm nhân thân tốt để chỉ những người có các đặc điểm nhân thân tốt nổi trội hơn

so với các đặc điểm nhân thân xấu, người có đặc điểm nhân thân xấu cũng có nghĩa là

người có các đặc điểm nhân thân xấu lấn át các đặc điểm nhân thân tốt. Mặt khác

chúng ta cũng không thể đánh đồng rằng tất cả những người những người có nhiều đặc

điểm nhân thân xấu nổi trội thì sẽ phạm tội, những người có các đặc điểm nhân thân tốt

nổi trội sẽ không phạm tội. Như vậy bất kỳ ai cũng đều có thể trở thành chủ thể của

một hành vi phạm tội nào đó. Nhưng ngược lại chúng ta có thể khẳng định, trong cùng

một điều kiện, hoàn cảnh thì những người có các đặc điểm nhân thân xấu nổi trội dễ

thực hiện hành vi phạm tội hơn so với những người có các đặc điểm nhân thân tốt nổi

trội. Đây chính là một trong những cơ sở lý luận để chúng ta đưa ra các biện pháp

phòng ngừa tội phạm từ phía xây dựng các đặc điểm nhân thân tốt ngày càng nhiều hơn

cho mỗi cá nhân trong xã hội.

1.3.1. Nhóm các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống

1.3.1.1. Môi trường gia đình

Gia đình là tế bào của xã hội, cái nôi nuôi dưỡng và là môi trường đầu tiên và vô

cùng quan trọng hình thành các đặc điểm nhân thân của con người. Khác với các nhóm

môi trường khác chỉ ảnh hưởng đến việc hình thành nhân thân ở một giai đoạn, thời

điểm nhất định, một một số đặc điểm nhất định thì gia đình ảnh hưởng đến sự hình

thành nhân thân cá nhân ngay từ khi sinh ra, mọi sự thay đổi, mọi biến cố của gia đình

23

luôn ảnh hưởng trực tiếp đến các thành viên trong gia đình. Môi trường gia đình tốt ở

đó các thành viên gia đình hòa thuận, yêu thương, gắn bó, quan tâm chăm sóc lẫn nhau,

có lối sống lành mạnh, văn hóa… thì sẽ tác động tích cực lên các thành viên khác trong

gia đình hình thành ở họ các đặc điểm nhân thân tốt. Ngược lại, môi trường gia đình

xấu thì dễ tác động lên các thành viên và hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực.

Các kiểu gia đình tiêu cực dễ tác động, hình thành những đặc điểm nhân thân xấu của

các thành viên trong gia đình như:

Thứ nhất, kiểu gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế.

Trong mỗi gia đình kinh tế là yếu tố quyết định đến hầu hết các vấn đề khác. Gia

đình kinh tế khá giả, ổn định thì bố mẹ sẽ có thời gian, điều kiện để quan tâm chăm sóc

con tốt hơn. Ngược lại gia đình kinh tế khó khăn thì bố mẹ phải tập trung lo kiếm tiền

để nuôi sống gia đình, khi đó không có điều kiệm chăm sóc con cái và tất nhiên những

đòi hỏi của con cái về vật chất giống như bạn bè thường không được bố mẹ đáp ứng.

Kiểu gia đình này dễ hình thành ở trẻ các đặc điểm nhân thân như: dễ làm phát sinh

tâm lý mặc cảm, buồn chán, tự ti, thất vọng, thiếu niềm tin vào cuộc sống; luôn mong

muốn, khao khát về cuộc sống vật chất, mong muốn đổi đời thậm chí là muốn đổi gia

đình mình đang sống… Các đặc điểm trên thường dễ dẫn đến chủ thể dễ thực hiện các

tội về xâm phạm về sở hữu trong đó có tội trộm cắp tài sản với mục đích mong muốn

có tiền, kiếm tiền bằng mọi giá để đáp ứng các nhu cầu lệch chuẩn của bản thân.

Thứ hai, gia đình có người thân vi phạm pháp luật.

Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, con người chịu sự ảnh

hưởng rất lớn từ hoàn cảnh gia đình cũng như tác động từ phía những người thân trong

gia đình. Trong đó cha mẹ là người có sự ảnh hưởng trực tiếp, định hướng xuyên suốt

quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân. Vì vậy, nếu sống trong

môi trường gia đình mà cha mẹ, người thân có nhiều thói hư, tật xấu, thường xuyên có

hành vi không đúng chuẩn mực đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật. Thì các thành viên

khác trong gia đình, nhất là trẻ em sẽ bị tác động, học theo và dần hình thành những

24

đặc điểm nhân thân xấu như: tâm lý tham lam, ích kỷ, coi thường các giá trị đạo đức,

coi thường pháp luật… dẫn đến dễ thực hiện hành vi phạm tội khi gặp hoàn cảnh xã

hội tiêu cực, trong đó có tội trộm cắp tài sản.

Thứ ba, gia đình khuyết thiếu.

Đây là kiểu gia đình không có cha, không có mẹ hoặc không có cả cha và mẹ.

Sống trong gia đình khuyết thiếu, trẻ sẽ thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha mẹ, do

đó dễ hình thành ở trẻ những đặc điểm xấu như: cảm thấy tự ti, chán nản, bất công do

hay bị bạn bè chế giễu nhất là những đứa trẻ không có cha hay bị bàn bè gọi là “con

hoang”, đây cũng là một vấn đề đáng lên án hiện nay vì thực tế nếu trẻ em với nhau

chúng không biết thế nào là “con hoang” nhưng chính người lớn đã tiêm nhiễm từ này

vào chúng để chế giễu bạn bè của mình, trong một xã hội nam nữ bình đẳng, phụ nữ có

quyền có con dù không có chồng - “mẹ đơn thân” thì tư tưởng trên cần phải loại bỏ

khỏi xã hội. Mặt khác, gia đình khuyết thiếu thường dễ rơi vào hoàn cảnh kinh tế khó

khăn, khi đó hình thành tâm lý khao khát, mong muốn về vật chất ở trẻ. Do đó nếu

không được chăm sóc, giáo dục đúng đắn, không có người nuôi dưỡng đối với những

trẻ mồ côi cả cha vè mẹ thì trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng, khống chế thực hiện

những hành vi phạm tội về xâm phạm sức khỏe, các tội về xâm phạm sở hữu trong đó

có tội trộm cắp tài sản.

Thứ tư, gia đình không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra xung đột giữa các thành

viên trong đình.

Gia đình không hạnh phúc do các thành viên trong gia đình thường xuyên xung

đột như bố mẹ đánh con, vợ chồng đánh nhau. Bố mẹ thường viện cớ dạy con bằng vũ

lực, mắng chửi và coi đó là quyền năng hiển nhiên của cha mẹ. Đây cũng là một một

vấn đề đáng báo động ở nước ta hiện nay - vấn đề xâm phạm nhân quyền của trẻ em.

Thời gian vừa qua báo chí, các trang mạng xã hội đã đưa rất nhiều vụ việc cha mẹ dùng

vũ lực, nhục hình với con cái. Sống trong môi trường gia đình này, đứa trẻ thường bị

ám ảnh về mặt tinh thần, suy nghĩ mọi việc đều có thể được giải quyết bằng con đường

25

bạo lực. Điều đó dần hình thành ở trẻ những đặc điểm tâm lý tiêu cực như: trẻ cảm thấy

căm ghé, căm thù người thân, muốn xa lánh họ; dễ dùng bạo lực để giải quyết các mâu

thuẫn trong các quan hệ của trẻ. Đặc biệt sống trong môi trường gia đình như vậy trẻ dễ

bỏ nhà đi lang thang. Khi đó sau này dễ dẫn đến thực hiện các tội về xâm phạm sở hữu

nhất là phạm tội trộm cắp tài sản.

Ngoài các kiểu gia đình đã đề cập trên thì cũng còn một số kiểu gia đình như:

gia đình bố mẹ quá nuông chiều con cái, gia đình bố mẹ quá hà khắc với con, gia đình

đông con, gia đình một con … cũng dễ ảnh hưởng và hình thành các đặc điểm tâm lý

tiêu cực ở trẻ.

1.3.1.2. Môi trường giáo dục (giáo dục phổ thông ở nhà trường)

Nhà trường là nơi thầy cô giáo truyền đạt kiến thức chuyên môn, giáo dục hình

thành nhân cách, phẩm chất đạo đức, định hướng giá trị bản thân của người học. Quá

trình học tập và rèn luyện ở giai đoạn phổ thông rất quan trọng, là giai đoạn chuẩn bị

những phẩm chất và năng lực cần thiết để họ thích ứng với cuộc sống lao động sau này.

“Tiên học lễ, hậu học văn” do đó nhà trường không chỉ là nơi truyền thụ kiến thức cho

học sinh mà còn có vai trò quan trọng để rèn luyện đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống và

giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có hoài bão, có lý tưởng tốt đẹp…

Ngược lại, ở môi giáo dục có những nhược điểm nhất định, phương pháp giáo dục

không tốt sẽ tác động tiêu cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người học,

tác động tiêu cực đến việc lựa chọn hành vi của cá nhân trong đó có hành vi phạm tội

nói chung và hành vi trộm cắp tài sản nói riêng. Một số yếu tố tiêu cực thuộc môi

trường giáo dục có thể kể đến như sau:

Thứ nhất, những hạn chế trong phương pháp dạy học “truyền thống” đó là

phương pháp dạy theo chỉ tiêu, chạy theo thành tích như: tỉ lệ học sinh giỏi, tỉ lệ lên

lớp, tỉ lệ đậu tốt nghiệp… ở đó phương pháp dạy học thường là thầy đọc trò chép, thầy

làm mẫu (văn mẫu) các em học thuộc và làm theo, mục tiêu học tập chỉ để thi cử, học

để lên lớp, học để lấy bằng. Thành tích học tập của các em thường có sự can thiệp quá

26

xâu từ tác động chủ quan của thầy cô giáo mà chưa phản ảnh đúng năng lực học của

các em. Đó là phương pháp dạy học chú trọng lý thuyết, mang nặng tính hình thức

chưa chú trọng đúng mức đến việc giáo dục rèn luyện đạo đức, phổ biến pháp luật, dạy

kỹ năng sống, kiến thức xã hội cho học sinh, sinh viên. Những hạn chế từ các phương

pháp dạy học trên đã hình thành nên nhiều đặc điểm nhân thân xấu cho học sinh ngay

từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường như: tư tưởng gian dối, coi thường đạo đức, pháp

luật, nhiều em không có trình độ học vấn thật so với bằng cấp có được cộng với kỹ

năng sống, vốn kiến thức xã hội không có… khi gặp những khó khăn, trở ngại, những

vấp ngã trong cuộc sống thay vì tìm cách nỗ lực vươn lên con người dễ lựa chọn cách

thức xử sự trái đạo đức, vi phạm pháp luật.

Thứ hai, sự thiếu liên lạc giữa nhà trường và gia đình. Ở đây ta dễ nhận ra hiện

tượng là gia đình thường ỷ lại, giao phó việc quản lý, giáo dục con mình cho nhà

trường, còn nhà trường lại chỉ chú trọng vào việc dạy kiến thức, kết thúc ngày học học

sinh ra khỏi cổng trường là việc quản lý của gia đình, nhà trường và gia đình thiếu sự

liên lạc, phối hợp với nhau. Khi đó dẫn đến nhiều trường hợp học sinh có những biểu

hiện tiêu cực như thường xuyên trốn học, học hành sa sút, đánh nhau, đua đòi, uống

rượu, cờ bạc, chơi games, thậm chí sử dụng ma túy... nhưng nhà trường và gia đình

không biết, không phát hiện để kịp thời phát hiện và uốn nắn, dẫn đến trẻ dần chán học,

bỏ học, rơi vào các tệ nạn xã hội và nghe theo sự lôi kéo của bạn bè xấu tham gia vào

các băng nhóm phạm tội, trong đó có phạm tội trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài, thỏa

mãn nhu cầu của bản thân.

1.3.1.3. Môi trường bạn bè (Trong nhóm này ta đặc biệt chú ý đến nhóm bạn bè

cùng trang lứa)

Có thể nói cùng với môi trường gia đình, nhà trường thì đây cũng là môi trường

dễ ảnh hưởng đến tính cách, lối sống của mỗi cá nhân trong xã hội, đặc biệt là nhóm trẻ

em mồ côi, trẻ em thiếu sự quan tâm của gia đình thì sự ảnh hưởng từ môi trường bạn

bè càng lớn hơn. Ngạn ngữ Anh có câu “hãy cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ cho

27

anh biết, anh là người thế nào”. Trong cuộc sống hằng ngày ông bà, cha mẹ cũng

thường khuyên bảo con cháu hãy “chọn bạn mà chơi”. Bạn bè, đó là những người gần

gũi, thường xuyên tâm sự, có những đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi giống nhau, vì vậy

bạn bè có ảnh hưởng vô cùng lớn đến các quan điểm, quan niệm, nhận thức lối sống,

thậm chí đến thói quen, cách cư xử của trẻ. Khi đó nếu kết bạn, chơi với bạn bè tốt, lễ

phép, chăm ngoan, học giỏi trẻ sẽ dễ hình thành các đặc điểm nhân thân tốt như chăm

chỉ học tập, biết quan tâm, lo lắng, chia sẻ với người khác, lễ phép, có nhiều kỹ năng

sống. Ngược lại khi chơi với những người bạn xấu, hay trốn học trẻ rất dễ nhiễm

những thói hư, tật xấu của bạn bè như lười học, uống rượu, hút thuốc lá, đua đòi, chơi

bời, hưởng thụ, hay trốn chơi games. Những đặc điểm nhân thân xấu đó sau này dễ đưa

họ đến con đường phạm các tội xâm phạm sở hữu đặc biệt là tội trộm cắp tài sản.

1.3.1.5. Môi trường kinh tế - xã hội

Qua hơn 40 năm (từ năm 1986 đến nay) thực hiện công cuộc đổi mới đất nước

ta không ngừng phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đã đạt được những thành

tựu có ý nghĩa rất quan trọng về mặt kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cùng sự phát triển

kinh tế - xã hội là một loạt các vấn đề mới phát sinh như: Sự hạn chế, yếu kém trong

việc quản lý kinh tế dẫn đến lạm phát, giá cả tăng cao, khoảng cách giàu nghèo ngày

càng tăng, nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp mở ra đã tạo công ăn việc làm cho người

dân nhưng hiện nay tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao; các chủ trương, chính sách và pháp

luật còn nhiều hạn chế; vấn đề đảm bảo phúc lợi xã hội (giáo dục, y tế, bảo hiểm…)

đặc biệt là các chính sách bảo vệ nhóm yếu thế (trẻ em, phụ nữ, người già, người tàn

tật,…) chưa đáp ứng đầy đủ. Thói quen làm ăn chộp giật, không coi trọng chữ tín, năng

suất lao động của người dân còn thấp dẫn đến không thu hút được tối đa sự đầu tư của

các doanh nghiệp nước ngoài. Tất cả các yếu tố tiêu cực ấy đang dần tác động lên sự

hình thành đặc điểm tâm lý tiêu cực của các thành viên trong xã hội như sự bất mãn,

buồn chán, thất vọng, lòng tham, sự quá đề cao giá trị đồng tiền thậm chí là thái độ tiêu

28

cực, chống đối, thù hằn. Tình trạng thất nghiệp, giá cả leo thang, sự phân hóa giàu

nghèo là một trong những nguyên nhân làm cho tội phạm trộm cắp tài sản tăng cao.

1.3.1.6. Môi trường văn hóa

Trong thời đại công nghệ 4.0, thời đại của hội nhập và giao lưu văn hóa. Các

nền văn hóa khác nhau trên thế giới đã du nhập vào nước ta và đem lại cho nhân dân ta

đời sống văn hóa phong phú, các lễ hội lớn trên thế giới đã được ta đón nhận. Nhiều

giá trị truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới

được hình thành. Tuy nhiên, đi cùng với nó là những loại hình văn hóa không lành

mạnh, chưa phù hợp với chuẩn mực đời sống cũng theo vào đã làm xuất hiện tình trạng

coi thường giá trị văn hóa truyền thống, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống trong xã hội. “Văn hóa bạo lực”, “văn hóa tình dục” đã và đang tác động rất lớn

đến sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ Việt Nam.

Bên cạnh đó môi trường giáo dục xã hội còn chưa được coi trọng, ngoài học tập

kiến thức chuyên môn tại nhà trường thì xã hội là môi trường để mỗi thành viên trong

xã hội học tập, hoàn thiện bản thân mình nhiều nhất. Trên thực tế cũng như tâm lý của

các nhà quản lý xã hội thường tập trung vào các chương trình dạy làm giàu, dạy kinh

doanh, dạy làm đẹp… nhưng hiếm có chương trình dạy làm người tốt, dạy đạo đức.

Ngày nay trong khi còn có một bộ phận không nhỏ trẻ em vô gia cư, trẻ mồ côi sống

lang thang thì các trung tâm giáo dục cộng đồng có xây dựng nhưng hoạt động không

đúng mục đích, hoạt động thiếu hiệu quả, không hoạt động thường xuyên, nhiều trung

tâm còn cho người khác thuê kinh doanh…tất cả đã phản ánh hiệu quả của công tác

giáo dục đạo đức, lối sống ở cơ sở, trong cộng đồng dân cư chưa cao, chưa thực chất

cũng đã và đang làm cho giá trị văn hóa, giá trị đạo đức của một bộ phận dân cư trong

xã hội, nhất là thế hệ thanh thiếu niên đang đi xuống, khi bị vấp ngã họ thường không

có động lực để phấn đấu tiếp mà dễ dẫn đến chọn hướng đi vào con đường phạm tội,

đặc biệt là tội trộm cắp tài sản.

1.3.2. Nhóm các yếu tố chủ quan thuộc về chủ thể trộm cắp tài sản

29

“Môi trường bên ngoài tác động đến các cá nhân nhưng các cá nhân với tư

cách là chủ thể của xã hội luôn nhận thức các hiện tượng, quá trình xã hội phù hợp với

đặc điểm tâm sinh lí của mình để hình thành những quan niệm, quan điểm, tính cách

hay lối sống riêng của mình. Điều đó lí giải cho việc trong những môi trường sống tiêu

cực tương tự nhau nhưng không phải ai cũng hình thành các đặc điểm nhân thân xấu.

Đó là vì các đặc điểm nhân thân được hình thành thông qua một quá trình lâu dài và

phức tạp, hơn nữa lại phụ thuộc vào nhận thức, hiểu biết của từng cá nhân cụ thể” [30,

tr.49].

Từ luận điểm trên ta thấy đặc điểm nhân thân tiêu cực được hình thành là do sự

tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố

tiêu cực thuộc cá nhân con người. Vì vậy, để có thể hình thành ở mỗi chủ thể nhiều đặc

điểm nhân thân tốt nổi trội ngoài việc hạn chế hay loại trừ các yếu tố tiêu cực thuộc

môi trường sống thì việc giáo dục, hình thành đặc điểm nhân thân tốt, hạn chế những

yếu tố tiêu cực trong nhân cách của mỗi chủ thể là một nội dung rất quan trọng. Đây là

biện pháp phòng ngừa tội phạm từ gốc, có tác dụng loại bỏ những nguyên nhân hình

thành tội phạm.

Các yếu tố chủ quan thuộc về chủ thể tội trộm cắp tài sản bao gồm: trí tuệ và sự

thông minh, thói quen và sở thích, ý thức pháp luật, các đăc điểm sinh học của chủ thể.

1.3.2.1. Trí tuệ và sự thông minh của mỗi người

Đây là yếu tố có tầm quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành các

yếu tố chủ quan khác của chủ thể. Trí tuệ và sự thông minh của mỗi người càng cao thì

con người càng có khả năng nhận biết, sàng lọc tiếp nhận các yếu tố tích cực, yếu tố có

lợi cho bản thân cũng như ngăn ngừa các yếu tố tiêu cực, không có lợi từ môi trường

bên ngoài. Từ đó ở họ ngày càng hình thành nhiều đặc điểm nhân thân tốt. Ngược lại

với quá trình trên là những người nhân thức hạn chế, kém thông minh thì dễ bị ảnh

hưởng bởi các yếu tố tiêu cực từ môi trường, dễ hình thành đặc điểm nhân thân xấu. Ví

dụ như trong cùng một gia đình có nhiều con thì mỗi người lại có những tính cách, đặc

30

điểm tâm sinh lý khác nhau, điều đó chính là phụ vào nghị lực, khả năng sàng lọc các

yếu tố tác động từ môi trường sống của mỗi người.

Đối với tội trộm cắp tài sản thì trí tuệ và sự thông minh của mỗi người cũng là

một yếu tố quan trọng trong việc hình thành lên những đặc điểm nhân thân tốt hay xấu.

Cũng như có vai trò quyết định đến việc có hay không có quá trình thúc đẩy chủ thể

thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản. Như đã phân tích tại phần đặc điểm về

nghề nghiệp, những người có nghề nghiệp, thu nhập ổn định thì tỉ lệ phạm tội trộm cắp

tài sản thấp. Ở đây trí tuệ và sự thông minh là yếu tố quyết định đến nghề nghiệp và thu

nhập của mỗi người. Trong cùng môi trường giáo dục trí tuệ và sự thông minh cao thì

trình độ học vấn sẽ cao hơn, con người nhanh nhẹn, hoạt bát, năng động, sáng tạo hơn

khi đó dễ kiếm công việc tốt, thu thập cao hơn những người khác. Ngược lại những

người có trí tuệ thấp, kém thông minh thì việc tiếp thu kiến thức sẽ châm hơn, khó

khăn hơn. Nhiều người trong số này thường trọn giải pháp bỏ học từ sớm, nhất là

những người thiếu sự kiên nhẫn, thiếu sự cố gắng. Khi đó ra ngoài xã hội họ khó kiếm

được công việc tốt, thu nhập không ổn định. Khi đó nếu rơi vào hoàn cảnh túng quẩn,

cuộc sống khó khăn, vật chất thiếu thốn … họ dễ đi vào con đường phạm tội trộm cắp

tài sản để giải quyết các nhu cầu vật chất của bản thân.

1.3.2.3. Các thói quen và sở thích

Sở thích hay đó là thú vui, thú tiêu khiển là những hoạt động thường xuyên hoặc

theo thói quen để đem lại cho con người niềm vui, sự phấn khởi trong cuộc sống hàng

ngày. Đây là một trong những tếu tố hình thành nên nhiều đặc điểm nhân thân của con

người. Nếu cá nhân có những sở thích tốt như đọc sách báo, chơi thể thao hay tham gia

các hoạt động lành mạnh, luôn chọn cách xử lý các mối quan hệ xã hội theo đúng

chuẩn mực đạo đức và đúng pháp luật thì sẽ hình thành ở con người đó những đặc

điểm nhân thân tốt. Ngược lại những sở thích lệch lạc, không lành mạnh, thói quen

không tốt như sống buông thả, thích tụ tập bạn bè ăn nhậu, đi các quán bar, vũ trường,

thường xuyên sử dụng rượu bia, chất kích thích, sử dụng ma túy, bị cuốn vào vòng bài

31

bạc, cá độ... tất cả các sở thích, thói quen lệch lạc ấy sẽ hình thành nên các đặc điểm

nhân thân tiêu cực. Và những đối tượng này thường là những người không nghề

nghiệp, thu nhập không ổn định, sống dựa vào chu cấp của bố mẹ, khi đó đến một lúc

họ bị sa ngã, bố mẹ không thể bảo bọc cho họ, để thỏa mãn những thói quen nhu cầu

lệch lạc ấy họ rất dễ thực hiện các tội về xâm phạm sở hữu đặc biệt là tội trộm cắp tài.

1.3.2.4. Ý thức pháp luật của chủ thể (ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật)

Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm,

tình cảm của con người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công

bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ

và pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong cách xử sự của

con người, trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội [17,

tr.421].

Người có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức pháp luật tốt sẽ hình thành ở họ

những ứng xử có văn hóa, đúng pháp luật cũng và từ đó dễ hình thành ở họ những đặc

điểm nhân thân tốt. Ngược lại những người ý thức pháp luật thấp, thiếu hiểu biết về

pháp luật, hiểu biết chưa đầy đủ, đúng đắn thì tất yếu sẽ bị méo mó về quan điểm, quan

niệm, tình cảm pháp lý và dễ mắc sai lầm khi quyết định hành động, dễ dẫn đến thực

hiện hành vi phạm tội nói chung và hành vi trộm cắp tài sản nói riêng.

Kết luận chương 1

Tóm lại, trong phạm vi chương 1 của luận văn, tác giả đã khái quát những vấn

đề lý luận về nhân thân người phạm tội trộm tài sản. Từ những nghiên cứu về nhân

thân người phạm tội trộm cắp tài sản đã rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân

người phạm tội trộm tài sản đó là tạo ra cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều

kiện của tội phạm trộm cắp tài sản, giúp cho việc định tội, định khung và quyết định

hình phạt chính xác tạo cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp giáo dục, cải tạo người

phạm tội và quan trọng hơn cả là ý nghĩa quan trọng trong dự báo và phòng ngừa tội

phạm trộm tài sản.

32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi,

Thành phố Hồ Chí Minh

Huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những huyện ngoại thành

có vị trí vô cùng quan trọng, là cửa ngõ phía Tây Bắc của Thành phố. Củ Chi với diện

tích tự nhiên 43.496 ha, phía Bắc giáp huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, phía Đông -

Đông Bắc giáp huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, phía Tây và Tây Nam giáp huyện

Đức Hòa, tỉnh Long An, phía Nam giáp huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

Cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30km Củ Chi là đầu mối giao thông

quan trọng tại cửa ngõ Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh. Với vị thế đó, UBND

Thành phố Hồ Chí Minh đang tập trung xây dựng huyện Củ Chi trở thành thành phố vệ

tinh. Trong những năm gần đây kinh tế của huyện Củ Chi thực sự đang trên đà phát

triển về mọi mặt hệ thống cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư đồng bộ, tiềm năng của

huyện đang thực sự có sức hút đối với giới đầu tư trong và ngoài nước. Củ Chi hiện đã

và đang xây dựng 9 cụm, khu công nghiệp phân bố đều khắp trên địa bàn, là trung tâm

phát triển nông nghiệp chất lượng cao của Thành phố với định hướng sản xuất theo tiêu

chuẩn VietGAP. Tổng giá trị sản xuất toàn ngành các năm (2015 - 2019) khoảng

88.506,468 tỷ đồng [34].

Tuy nhiên, theo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần

thứ XI (nhiệm kỳ 2015 - 2020) cho thấy: Bên cạnh những kết quả nổi bật đã đạt được

trên các mặt về kinh tế, văn hóa, giáo dục, các mặt của đời sống xã hội…, thì huyện Củ

Chi cũng đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, đó là: “…khủng hoảng

kinh tế thế giới và suy giảm kinh tế trong nước; tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị

trường; quá trình đô thị hóa nhanh; hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu

phát triển của huyện; nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn còn thấp; tội phạm và tệ

nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp” [19]. Mặt khác trong những năm gần đây

33

hiện tượng dân cư tăng đột biến mà chủ yếu là những người tạm trú, làm ăn thời vụ từ

các vùng khác về sinh sống làm cho nhu cầu về nhà ở tăng cao. Trước tình hình đó

chính quyền địa phương đã có các chính sách về xây dựng, hỗ trợ cho người dân có thể

mua, thuê được nơi ở hợp lý. Song thực tế hiện nay dân cư nơi khác đến do tính chất

công việc mang tính thời vụ nên chủ yếu họ thuê ở trong khu nhà trọ, theo những xóm

nhỏ tự phát. Thực trạng trên làm cho công tác quản lý cư trú trên địa bàn gặp nhiều khó

khăn và phức tạp, khiến chính quyền không quản lý hết làm cho công tác quản lý xã

hội vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn. Đó là điều kiện để tội phạm nói chung và

đặc biệt là tội trộm cắp tài sản dễ dàng thực hiện hơn, đối tượng dễ lẩn trốn sau khi

thực hiện tội phạm, đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc tỉ lệ điều tra án

tội trộm cắp tài sản thấp hơn các loại tội phạm khác.

Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh từ

năm 2015 đến năm 2019 trên địa bàn Huyện Củ Chi đã xảy ra 1008 vụ án hình sự với

1491 bị cáo (Bảng 2.1). Trong đó tội trộm cắp tài sản chiếm tỉ lệ cao nhất trong, cụ thể

trong 5 năm có 242 vụ chiếm 24,01% với 326 bị cáo chiếm 21,86% (Bảng 2.1). Trong

nhóm tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp tài sản chiếm tỉ lệ 63,68% (242/380 vụ) với

326/525 bị cáo chiếm tỉ lệ 62,10% (Bảng 2.2). Cũng qua nghiên cứu bảng số liệu –

Bảng 2.1 về mặt số học cho ta thấy qua các năm số lượng vụ án trộm cắp tài sản có

giảm nhẹ. Tuy nhiên, nếu tính theo Điều 173 của BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017

ta thấy số lượng vụ án trộm cắp tài sản đã tăng từ 23 vụ năm 2018 lên 36 vụ năm 2019.

Số lượng vụ án tuy tăng giảm theo từng năm nhưng tính chất, mức độ ngày càng manh

động, liều lĩnh, các vụ án có đồng phạm đã nhiều hơn. Bên cạnh đó hậu quả làm thiệt

hại đến tài sản cho xã hội ngày càng lớn hơn, có nhiều vụ gây hoang mang trong dư

luận.

Tóm lại, qua phân tích các bảng số liệu về thực trạng và diễn biến của tội phạm

trộm cắp tài sản ở Huyện Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh cho ta thấy số vụ án trộm tài

sản chiếm tỷ lệ rất cao so với tổng số các vụ vi phạm pháp luật hình sự và chiếm hơn

34

một nửa số các vụ án trong nhóm tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên tỷ lệ điều tra khám

phá các vụ án trộm cắp tài sản trong thời gian qua chưa cao chỉ đạt 31,11% (Bảng 2.15)

cho thấy phương thức, thủ đoạn của loại tội phạm này rất tinh vi và diễn biến phức tạp

gây không ít khó khăn cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

2.2. Đặc diểm nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

2.2.1. Nhóm đặc điểm nhân thân về xã hội - nhân khẩu

2.2.1.1. Đặc điểm về độ tuổi

Theo thống kê tại bảng số liệu 2.4 về đặc điểm nhân thân người phạm tội trộm

cắp tài sản xét theo độ tuổi trên địa bàn Huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong

05 năm (từ năm 2015 đến năm 2019) cho thấy bị cáo trong độ tuổi từ 18 tuổi đến 30

tuổi chiếm đa số với 175 bị cáo chiếm tỉ lệ 53,68%. Tiếp theo đến nhóm độ tuổi từ 30

tuổi đến 45 tuổi chiếm 33,13% với 108 bị cáo. Nhóm bị cáo dưới 18 tuổi chiếm

11,35% với 37 bị cáo. Cuối cùng nhóm độ tuổi trên 45 tuổi là ít nhất chỉ có 6/326 bị

cáo chiếm tỉ lệ 1,84%.

Qua phân tích số liệu trên ta nhận thấy nhóm độ tuổi từ 18 tuổi đến 30 tuổi là

đặc điểm nhân thân nổi bật nhất của những người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn huyện Củ Chi. Điều này có thể lý giải bởi: thứ nhất, những người đang ở vào độ

tuổi này là độ tuổi phát triển toàn diện nhất về thể chất, tinh thần, hành vi, hành động

nhanh nhạy, khéo léo và phản xạ tốt. Thứ hai, những người ở vào độ tuổi này phải lo

kiếm tiền để phục vụ cho cuộc sống của bản thân và những người khác trong gia đình.

Tuy nhiên một số người có ý thức sai lệch, muốn có tiền để thỏa mãn nhu cầu của mình

(kể cả những nhu cầu chính đáng hoặc những nhu cầu không chính đáng như nhu cầu

sử dụng trái phép chất ma túy, mua dâm...) nhưng lại lười lao động, muốn kiếm tiền

bằng con đường bất hợp pháp [29, tr. 107]. Đặc điểm độ tuổi dưới 18 tuổi (từ 14 tuổi

đến dưới 18 tuổi) là đặc điểm nhân thân phổ biến thứ hai của những người phạm tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi. Đây cũng là một đặc điểm nhân thân nổi

35

bật ở tội trộm cắp tài sản vì như đã phân tích ở phần lý luận hành vi trộm cắp tài sản

không đòi hỏi chủ thể thực hiện phải có những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, không đòi

hỏi phải sử dụng sức mạnh cơ thể, vừa có thể thực hiện theo nhóm hoặc cũng có thể

thực hiện một cách đơn lẻ. Khi đó các em trong độ tuổi này không đi học, không có sự

chăm sóc của gia đình nhưng vì để thỏa mãn các nhu cầu không chính đáng của mình

mà các em dễ đi vào con đường phạm tội và tội trộm cắp tài sản là tội mà các em dễ

mắc phải nhất. Như vụ án trộm cắp tài sản (xe máy) xảy ra vào ngày 05/12/2017 tại xã

Phú Hòa, huyện Củ Chi do 02 đối trượng Nguyễn Văn Hậu - sinh ngày 16/02/2000 và

Nguyễn Thành Đạt - sinh ngày 05/12/2000 cả 02 đối tượng trên hiện đều có trình độ

học vấn thấp (Hậu - không biết chữ, Đạt mới học hết lớp 7), không có nghề nhiệp, đều

thuộc diện gia đình khó khăn nhưng vì để có tiền tiêu xài, các đội tượng trên đã rủ nhau

đi trộm cắp tài sản. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội 02 đối tượng trên chưa đủ

18 tuổi (Trích bản án số: 44/2018/HSST, ngày 20/03/2018 của TAND huyện Củ Chi)

2.2.1.2. Đặc điểm về giới tính

Qua phân tích bảng số liệu 2.5 cho thấy, trong tổng số 326 bị cáo phạm tội trộm

cắp tài sản đã bị xét xử sơ thẩm trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

thì có 315 bị cáo là nam giới chiếm tỷ lệ 96,63%; số bị cáo là nữ giới chỉ có 11 bị cáo

chiếm tỷ lệ 3,37% tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản. Từ đó cho thấy đặc điểm nam

giới là đặc điểm nhân thân nổi trội của những người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn huyện Củ Chi chiếm tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với những người phạm tội trộm cắp

tài sản có đặc điểm nhân thân là nữ giới. Những phân tích trên hoàn toàn phù hợp với

đặc điểm tâm sinh lý của con người. Đó là những người có đặc điểm nhân thân là nam

giới dễ bị lôi kéo, dễ nhiễm các thói hư, tật xấu, các tệ nạn xã hội nên rất dễ trở thành

các đối tượng phạm tội, để có tiền thỏa mãn các nhu cầu lệch chuẩn của bản thân thì

hành vi trộm cắp tài sản là hành vi phạm tội mà đa số các đối tượng có đặc điểm nhân

thân là nam giới dễ mắc phải nhất. Ngược lại những người có đặc điểm nhân thân là nữ

giới lại có đặc điểm tâm sinh lý ôn hòa, nhu mì hơn, họ dễ chấp nhận với những gì

36

mình đang có, ít bị kích động, lôi kéo theo các hành vi lệch chuẩn của xã hội. Đặc biệt

với phẩm chất “công, dung, ngôn, hạnh” vốn có của người phụ nữ Việt Nam - những

người có đặc điểm nhân thân là nữ giới họ ít có động cơ để thúc đẩy họ đi đến thực

hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên phân tích trên không có nghĩa là

những người có đặc điểm nhân thân là nam giới thì sẽ phạm tội trộm cắp tài sản hay

những người có đặc điểm nhân thân là nữ giới thì sẽ không thực hiện hành vi trộm cắp

tài sản. Mà những số liệu và phân tích trên đã chứng minh rằng trong những hoàn cảnh

sống (hoàn cảnh khó khăn) như nhau thì những người có đặc điểm nhân thân là nam

giới dễ bị kích thích, lôi kéo đến việc thực hiện hành vi phạm tội hơn so với những

người có đặc điểm nhân thân là nữ giới.

2.2.1.3. Đặc điểm về trình độ học vấn

Phân tích số liệu thống kê trình độ học vấn các bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2019 tại

bảng 2.6 cho thấy số bị cáo không biết chữ chiếm 13,77%; số bị cáo có trình độ tiểu

học, trung học cơ sở chiếm 66,47%; số bị cáo có trình độ trung học phổ thông chiếm

17,96%; số bị cáo có trình độ cao đẳng, đại học rất ít, chiếm 1,80%. Như vậy, đặc điểm

trình độ học vấn tiểu học và trung học cơ sở là đặc điểm nhân thân phổ biến nhất của

những người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi. Đặc điểm trình độ

học vấn trung học phổ thông là đặc điểm nhân thân của những người phạm tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi có tỉ lệ phổ biến thứ hai. Phổ biến thứ ba là nhóm

những người phạm tội trộm cắp tài sản có đặc điểm nhân thân về trình độ học vấn là

không biết chữ. Cũng qua bảng số liệu ta thấy số bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản có

đặc điểm nhân thân về trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở xuống chiếm tới 61,68%

( 13,77% + 66,47% = 80,24%) nói cách khác, bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản trên địa

bàn huyện Củ Chi đa số là những người có đặc điểm nhân thân về trình độ học vấn ở

mức độ thấp.

2.2.1.4. Đặc điểm về nghề nghiệp

37

Theo số liệu thống kê ở Bảng 2.7 cho thấy đa số bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản

là người không có nghề nghiệp với 94/167 chiếm 56,29%, bị báo có nghề nghiệp

không ổn định có 43/167 chiếm 25,75%, bị cáo có nghề nghiệp ổn định có 30/167

chiếm 17,96%. Như vậy khi xét về đặc điểm nghề nghiệp thì không có nghề nghiệp là

đặc điểm nhân thân phổ biến nhất (hơn một nửa) của những người phạm tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi. Đặc điểm nghề nghiệp không ổn định cũng là đặc

điểm nhân thân phổ biến thứ hai của những người phạm tội trộm cắp trên địa bàn

huyện. Đặc biệt qua những con số cho ta thấy có tới 82,04% (56,29% + 25,75%) bị cáo

có đặc điểm nhân thân nghề nghiệp ở nhóm không nghề nghiệp và nghề nghiệp không

ổn định. Điều này có thể lý giải nếu chúng ta kết hợp với đặc điểm nhân thân về trình

độ học vấn. Theo bảng số liệu 2.6 ta thấy bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản có đặc điểm

nhân thân về trình độ học vấn ở mức Cao đẳng, và Đại học trở lên chỉ chiếm có 1,80%.

Trình độ học vấn thấp đồng nghĩa với việc có cơ hội tìm được việc làm ổn định cũng

rất thấp chứ chưa nói đến tìm được việc làm có thu nhập cao. Cơ cấu kinh tế - xã hội

huyện Củ Chi trong những năm gần đây đang dịch chuyển dần từ nền nông nghiệp giản

đơn sang nền sản xuất nông nghiệp sạch theo tiêu chuẩn VietGAP, công nghiệp, dịch

vụ và du lịch đang ngày càng tập trung đầu từ và phát triển mạnh… khi đó càng đòi hỏi

một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao ngày càng nhiều hơn, như vậy những

người có trình độ học vấn thấp ngày càng ít có cơ hội tìm được việc làm tốt, việc làm

ổn định hơn.

2.2.1.5. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình

Như đã phân tích tại phần lý luận, trong các yếu tố tác động đến sự hình thành

đặc điểm nhân thân thì hoàn cảnh gia đình và sự thay đổi của hoàn cảnh gia đình có tác

động rất lớn đến sự hình thành, phát triển nhân cách của con người. Nếu sống trong gia

đình khuyết thiếu, gia đình không hạnh phúc, có khó khăn về kinh tế, cha mẹ không

gương mẫu, gia đình có người thân vi phạm pháp luật thì con cái rất dễ ảnh hưởng, tác

động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực khi đó gặp những biến cố của

38

cuộc sống, gặp những hiện tượng xã hội tiêu cực họ dễ bị tác động, lôi kéo, thúc đẩy, đi

đến thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có phạm tội trộm cắp tài sản. Cụ thể ở đây

qua nghiên cứu đặc điểm nhân thân về hoàn cảnh gia đình của 167 bị cáo trong 100 vụ

án trộm cắp tài sản tại huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh tại bảng số liệu 2.10 cho

thấy đặc điểm hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế là đặc điểm nhân thân phổ biến

nhất của những người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi (chiếm

53,89%). Điều này có thể giải thích từ mục đích của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội

trộm cắp tài sản là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác và cũng như đã phân tích ở

trên đa số bị cáo là những người có đặc điểm nhân thân về trình độ học vấn thấp,

không có nghề nghiệp điều đó kéo theo thu nhập của bản thân và kinh tế gia đình

không ổn định. Vì vậy khi hỏi lý do dẫn đến việc thực hiện hành phạm tội thì hầu hết

các bị cáo đều đổ lỗi do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Đặc điểm gia đình có

người thân vi phạm pháp luật là đặc điểm nhân thân của những người phạm tội trộm

cắp tài sản trên đại bàn huyện chiếm lượng phổ biến thứ hai (chiếm 14,97%). Tiếp đến

là đặc điểm gia đình khuyết thiếu, gia đình không hạnh phúc bố mẹ thường xuyên xung

đột cũng là những đặc điểm nhân thân của những người phạm tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn huyện. Tuy nhiên sự thống kê này cũng chỉ mang tính chất tương đối vì một bị

cáo có thể có nhiều đặc điểm nhân thân về hoàn cảnh gia đình, trong đó đặc điểm gia

đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế là đặc điểm nhân thân nổi trội và chiếm hầu hết

của những bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi.

2.2.2. Đặc điểm nhân thân về đạo đức - tâm lý xã hội

Đặc điểm nhân thân về đạo đức - tâm lý xã hội đó là sở thích, thói quen, quan

điểm, thái độ sống của mỗi người. Trong thực tiễn những người có sở thích, thói quen

lành mạnh, thái độ, quan điểm sống tích cực thường ít khi phạm tội. Ngược lại những

người có sở thích, thói quen lệch lạc như: đua đòi ăn chơi, cờ bạc, nghiện ma túy,

nghiện games… hay có thái độ, quan điểm sống tiêu cực tâm lý bi quan, chán nản,

không biết khắc phục khó khăn khi rơi vào hoàn cảnh sống không như mong muốn

39

như: thất nghiệp, thu nhập không ổn định, kinh tế gia đình gặp khó khăn … dễ đi vào

con đường phạm tội trộm cắp tài sản. Theo thống kê về đặc điểm sở thích, thói quen

của 167 bị cáo trong 100 vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi ở bảng 2.9

ta thấy đặc điểm thích hưởng thụ, lười lao động là đặc điểm nhân thân về thói quen, sở

thích nổi trội nhất của người trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi chiếm 64,07%.

Điều này có thể lý giải bởi hầu hết những người phạm tội trộm cắp tài sản là những

người thất nghiệp hoặc không có công ăn việc làm ổn định. Trong khi những người có

có đặc điểm nhân thân tốt họ có thể cố gắng tìm những cách chính đáng khác nhau để

kiếm sống, cố gắng tìm công việc mới phù hợp, còn đối với những người có sẵn tính

lười lao động nhưng lại thích hưởng thụ thì lại dễ thúc đẩy họ đi vào con đường trộm

cắp tài sản. Đặc điểm thói quen nghiện cờ bạc cũng là đặc điểm nhân thân nổi trội thứ

hai của những người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi chiếm

56,29%. Tiếp theo các đặc điểm thói quen nghiện ma túy, đặc điểm thích tụ tập chơi

bời, ăn nhậu là các đặc điểm nhân thân nổi trội thứ ba và thứ tư của người phạm tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, các đặc điểm nhân thân này lần lượt chiếm

tỉ lệ 35,33% và 32,34%. Cuối cùng, còn lại 25,75% bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản

trên địa bạn huyện Củ Chi có đặc điểm nhân thân tiêu cực là thói quen nghiện games.

Tuy nhiên, qua thống kê cho ta thấy bên cạnh những bị cáo chỉ có một thói quen, sở

thích thì đa số bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản đều có nhiều thói quen sở thích khác

nhau như những bị cáo nghiện games, nghiện ma túy thường là các bị cáo lười lao

động, thích hưởng thụ. Nhàn cư vi bất thiện, các bị cáo lười lao động thì dễ xa vào cờ

bạc, đàn đúm ăn nhậu … do đó sự thống kê chỉ dừng ở mức tương đối.

2.2.3. Đặc điểm về mặt pháp lý hình sự

2.2.3.1. Đặc điểm về động cơ, mục đích của người phạm tội

Động cơ, mục đích thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đó là nhằm chiếm đoạt tài

sản của người khác để thỏa mãn các nhu cầu lệch chuẩn của bản thân mà cụ thể ở đây

đó là thảo mãn nhu cầu tiêu xài của bản thân, nhu cầu vượt xa giá trị lao động thực tế

40

của bản thân. Như đã phân tích khi được hỏi về lý do phạm tội thì hầu hết các đối

tượng đều đổ lỗi do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, cần tiền tiêu xài mà họ đi vào

con đường phạm tội. Qua thống kê tại bảng 2.11 ta thấy, đặc điểm động cơ, mục đích

vụ lợi, vì lợi ích kinh tế là đặc điểm nhân thân phổ biến nhất của những người phạm tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện (chiếm 64,07%) đây cũng là nhóm các đối tượng

trộm cắp tài sản có đặc điểm nhân thân không có nghề nghiệp, nghề nghiệp không ổn

định nên đi trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu lệch chuẩn của bản

thân. Đặc điểm động cơ, mục đích để thỏa mãn nhu cầu ăn chơi của cá nhân như cần

tiền để ăn chơi, mua sắm đua đòi với bạn bè, cần tiền để cờ bạc, chơi game, hút chích

ma túy… là đặc điểm nhân thân phổ biến thứ hai trong những người trộm cắp tài sản

trên địa bàn huyện (chiếm 32,34%). Còn lại số ít bị cáo có đặc điểm nhân thân về động

cơ mục đích khác như thói quen xấu nhìn thấy đồ của người khác sơ hở là muốn lấy dù

có thể không dùng tới, vì cay cú trả thù cá nhân...

2.2.3.2. Đặc điểm về tiền án, tiền sự

Theo bảng số liệu 2.8, bị cáo có tiền án chiếm 25,75%, bị cáo có tiền sự chiếm

10,78%. Như vậy có tiền án, tiền sự là đặc điểm nhân thân chiếm tỉ lệ tương đối cao

(chiếm 36,53%) của những người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi.

Điều này cho thấy các bị cáo đã bị nhắc nhở, răn đe, cảnh cáo bằng một quyết định xử

phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng khi hoàn cảnh thuận lợi

nhất định họ vẫn quyết định thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Cũng như các bị cáo

sau khi chấp hành xong án phạt tù thì khả năng tái phạm vẫn tương đối cao. Điển hình

như vụ án trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi do đối

tượng Phạm Minh Huy sinh năm 1988 thực hiện. Cụ thể theo bản cáo trạng trước khi bị

bắt về hành vi thực hiện liên tiếp 5 vụ trộm cắp tài sản xảy ra vào các ngày 20, 23, 25/9

và 04, 06/10/2018 thì bị cáo Huy đã từng 01 lần bị TAND Thành phố Hồ Chí Minh xử

phạt 5 năm tù về tội cướp tài sản, 01 lần bị TAND huyện Củ Chi tuyên phạt 06 tháng

tù về tội trộm cắp tài sản, 01 lần bị TAND huyện Củ Chi tuyên phạt 05 năm về tội

41

cướp giật tài sản (Trích bản án số 114/2019/HSST ngày 31/7/2019 của TAND huyện

Củ Chi)

2.3. Thực trạng các yếu tố tác động hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu

cực của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố

Hồ Chí Minh

2.3.1. Nguyên nhân từ phía gia đình

2.3.1.1. Gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế

Theo số liệu thống kê tại bảng 2.9 ta thấy bị cáo trong các gia đình có hoàn cảnh

khó khăn về kinh tế chiếm đến 53,89%. Vậy hoàn cảnh kinh tế gia đình của những

người phạm tội trộm cắp tài sản khó khăn vì đâu? Qua khảo sát trên 100 vụ án cho thấy

bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản là người không có nghề nghiệp chiếm 56,29%, nghề

nhiệp không ổn định chiếm 25,75%, chỉ có số ít là người có nghề nghiệp ổn định chiếm

17,96% (Bảng 2.7). Như vậy, thất nghiệp hay nghề nghiệp không ổn định đồng nghĩa

với nguồn thu nhập không ổn định, kéo theo kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn, cuộc

sống bấp bênh. Để nuôi sống chính bản thân và gia đình nhiều đối tượng đã tìm đến

con đường phạm tội và cụ thể ở đây là phạm tội trộm cắp tài sản. Có thể nhận định,

nguyên nhân từ kinh tế là nguyên nhân đầu tiên thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi

trộm cắp tài sản. Điển hình như vụ án trộm cắp tài sản ở tiệm vàng “Ánh Hằng” do đối

tượng Tạ Mộc Thuận thực hiện. Vào khoảng 11h30 phút ngày 13/8/2017 Tạ Mộc

Thuận đi đến tiệm vàng “Ánh Hằng” ở xã Trung An, huyện Củ Chi do bà Phan Thị

Hằng làm chủ. Lợi dụng sơ hở của chủ tiệm vàng Thuận đã lén lúc mở quầy tủ lấy đi

một rổ đựng nhiều vàng. Theo kết luận định giá tài sản, giá trị tài sản thiệt hại lên đến

275.872.945 đồng. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án ta thấy được bản thân Thuận vốn

không có nghề nghiệp nhưng hiện đã có gia đình với 02 con nhỏ, vợ thuận làm công

nhân hoàn cảnh kinh tế gia đình rất khó khăn. Vì mục đích cần có tiền tiêu xài nên

Thuận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản kể trên. (Trích bản án số 51/2019/HS-ST,

ngày 08/4/2019 của TAND huyện Củ Chi) Qua vụ án trên ta thấy chính từ nghèo đói,

42

kinh tế gia đình khó khăn đã dần hình thành ở Thuận các đặc điểm nhân thân tiêu cực

đó là sự ham muốn tiền bạc, thích tiêu xài nhưng lại lười lao động. Khi đó, gặp hoàn

cảnh thuận lợi (sự sơ hở của bà Hằng trong việc quản lý tài sản) thì đặc điểm nhân thân

xấu này đã thúc đẩy Thuận thực hiện hành vi phạm tội.

2.3.1.2. Gia đình có người thân vi phạm pháp luật

Ông cha ta đã đúc kết “Gần mực thì đen” khi sinh ra và lớn lên trong một gia

đình có người thân vi phạm pháp luật thì hành vi của các cá nhân sống trong môi

trường gia đình ấy rất dễ bị tác động, bị ảnh hưởng từ hành vi vi phạm pháp luật của

những người này. Vì vậy, có thể giải thích vì sao trong một gia đình mà cả vợ chồng,

con cái đều phạm tội trộm cắp tài sản. Theo số liệu thống kê tại bảng 2.9 ta thấy bị cáo

sống trong các gia đình có người thân vi phạm pháp luật chiếm đến 14,97%. Có thể

dẫn chứng như vụ án trộm cắp tài sản (hoa lan) do hai bị cáo Lê Thị Ngọc Bích và

Phạm Minh Huy thực hiện. Cụ thể chỉ trong vòng 17 ngày (từ ngày 20/9/2018 đến

06/10/2018) Bích đã cùng với Huy đã thực hiện liên tiếp 05 vụ trộm cắp tài sản (hoa

lan) của vườn hoa lan “Anh Tuấn” tại xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi. Qua nghiên cứu

hồ sơ ta thấy Lê Thị Bích Ngọc trước khi phạm tội là người có nhân thân tốt nhưng do

sống cùng chồng là Phạm Minh Huy – đối tượng đã có 3 tiền án về tội trộm cắp tài sản

và cướp tài sản, là đối tượng hay thực hiện hành vi trộm cắp vặt mà Ngọc đã thực hiện

hành vi phạm tội trộm cắp tài sản kể trên kể trên (Trích bản án số 114/2019/HSST ngày

31/7/2019 của TAND huyện Củ Chi). Như vậy, ta thấy chính trong quá trình sống

chung với Huy – người hay vi phạm pháp luật, chính những hành vi vi phạm pháp luật

của Huy đã tác động đến nhận thức của Ngọc, kết hợp với trình độ học vấn thấp (4/12)

đã làm cho Ngọc dễ dàng tiếp nhận và hình thành lên những đặc điểm nhân tiêu cực đó

là cần tiền để tiêu xài, để nuôi sống bản thân, đó là ý thức coi thường pháp luật, coi

thường giá trị nhân phẩm của người phụ nữ, vai trò của người vợ. Chính các đặc điểm

nhân thân xấu này đã thúc đẩy Ngọc dễ dàng thực hiện liên tiếp 05 vụ trộm cắp tài sản

43

trong một khoảng thời gian ngắn cùng với Huy mặc dù có thể hành vi phạm tội này còn

chưa từng xuất hiện trong ý nghĩ của Ngọc trước khi lấy chồng.

2.3.1.3. Gia đình khuyết thiếu

Qua nghiên cứu từ 100 bản án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019 trên

địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy có 8,98% bị cáo sống trong

gia đình khuyết thiếu do bố mẹ ly hôn hoặc vì một lý do nào đó mà thiếu cha, thiếu mẹ

hoặc thiếu cả cha lẫn mẹ. Là những người không còn chỗ dựa về mặt tinh thần, mất đi

sự yêu thương, sự đùm bọc, chăm sóc và giáo dục của người thân các em luôn sống

trong trạng thái buồn tủi, dễ mặc cảm, đặc biệt các em phải tự mình kiếm tiền, mưu

sinh từ sớm. Khi đó, các em dễ bị lôi kéo, dụ dỗ và sa ngã vào con đường phạm tội nói

chung và phạm tội trộm cắp tài sản nói riêng. Điển hình như vụ án trộm cắp tài sản do

bị cáo Đặng Thị Ngọc Huyền sinh năm 1998 thực hiện. Cụ thể, khoảng 20h40 phút

ngày 07/05/2018 Huyền đi bộ đến đường Võ Văn Điều thuộc ấp Mây Đắng, xã Phước

Thạnh, huyện Củ Chi phát hiện 01 xe máy biển số 55Y6-4926 để trước cửa nhà, không

thấy ai trông coi nên Huyền đã vào lấy xe ra ngoài thì bị phát hiện và bắt giữ. Qua

nghiên cứu hồ sơ được biết Huyền chỉ có mẹ không có bố. Sống trong gia đình khuyết

thiếu Huyền luôn cảm thấy tự ti với bạn bè, xa lánh mọi người nên đã bỏ học từ sớm

(lớp 8). Thiếu sự giáo dục của bố, của nhà trường nên nhận thức xã hội, nhận thức pháp

luật của Huyền còn hạn chế. Mặt khác do trình độ học vấn thấp, bản thân không có

nghề nghiệp, để có tiền tiêu xài Huyền đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như nói

trên, hệ quả Huyền đã bị TAND huyện Củ Chi tuyên phạt 09 tháng tù giam về hành vi

trộm cắp tài sản. Như vậy ta thấy, do sống trong gia đình khuyết thiếu (thiếu sự chăm

sóc, giáo dục của bố) đã tác động và hình thành lên một loạt những đặc điểm nhân thân

tiêu cực ở Huyền: tâm lý mặc cảm, tự ti về gia đình, bỏ học sớm – trình độ học vấn

thấp, không có nghề nghiệp, thiếu kiến thức về xã hội và thiếu hiểu biết pháp luật. Khi

đó trước nhu cầu lệch chuẩn của bản thân là cần tiền tiêu xài thì các đặc điểm nhân

44

thân tiêu cực ấy đã thúc đẩy Huyền đi đến việc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

(Trích bản án số: 198/2018/HS-ST, ngày 19/11/2018 của TAND Huyện Củ Chi)

2.3.1.4. Gia đình không hạnh phúc, thường xuyên đánh chửi nhau

Đặc điểm của gia đình không hạnh phúc, thường xuyên đánh chửi nhau đó lã

những gia đình bố mẹ đánh chửi con cái, vợ chồng xung đột, anh em gia đình bất hòa,

người lớn thiếu quan tâm chăm sóc con cháu, các thành viên không quan tâm đến nhau.

Khi đó các thành viên trong kiểu gia đình này thường chán nản, bi quan, xa lánh gia

đình thích tụ tập bạn bè ăn nhâu, chơi game, đánh bài bạc rồi dẫn đến vi phạm pháp

luật. Theo số liệu thống kê tại bảng 2.10 sống trong môi trường gia đình không hạnh

phúc, thường xuyên đánh chửi nhau cũng là một trong những nguyên nhân tác động,

hình thành nên những đặc điểm nhân thân tiêu cực của những người phạm tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, nguyên nhân này chiếm 8,39%.

Còn lại các kiểu gia đình bố mẹ quá nuông chiều con cái, gia đình bố mẹ quá hà

khắc với con, gia đình đông con, gia đình một con… cũng là một trong những nguyên

nhân hình thành những đặc chiếm nhân thân tiêu cực của người phạm tội trộm cắp tài

sản, chiếm 13,77%.

2.3.2. Nguyên nhân từ môi trường giáo dục

2.3.2.1. Hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống

Như ở phần lý luận đã phân tích, hạn chế của phương pháp dạy học “truyền

thống” đó là phương pháp dạy theo chỉ tiêu, chạy theo thành tích. Đó là phương pháp

dạy học chú trọng lý thuyết, mang nặng tính hình thức, chưa chú trọng đúng mức đến

việc giáo dục rèn luyện đạo đức, phổ biến pháp luật, dạy kỹ năng sống cho học sinh,

sinh viên. Hạn chế từ phương pháp dạy học truyền thống đã hình thành những đặc

điểm nhân thân tiêu cực ở người học như: yếu về kiến thức chuyên môn, thiếu kiến

thức xã hội, kiến thức pháp luật, kỹ năng sống, tâm lý gian dối, coi thường giá trị đạo

đức … Khi đó, gặp những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống chính những đặc điểm

nhân thân xấu này thúc đẩy con người đi đến thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Điển

45

hình như vụ án trộm cắp tài sản do bị cáo Phạm Anh Tuấn sinh năm 1967 thực hiện.

Cụ thể, vào khoảng 09h00 ngày 02/5/2018 Tuấn điều kiển xe máy đến khu phố 3, thị

trấn Củ Chi, huyện Củ Chi. Thấy cửa hàng sơn Thu Hằng còn mở cửa, Tuấn nảy sinh ý

định trộm cắp tài sản nên đã vào vờ hỏi mua hàng, lợi dụng sơ hở của chị Hằng - chủ

tiệm, Tuấn đã lấy đi 01 điện thoại di động Samsung J5 (trị giá đã qua sử dụng là:

2.500.000đ) rồi đi mất. Khi phát hiện bị mất tài sản chị Hằng đã truy hô và cùng người

dân xung quanh đuổi bắt. TAND huyện Củ Chi đã tuyên phạt Tuấn 1 năm 6 tháng tù

giam về tội “Trộm cắp tài sản” (Trích bản án số 156/2018/HS-ST, ngày 25/9/2018 của

TAND huyện Củ Chi). Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, ta thấy Tuấn chính là một sản

phẩm lỗi của nền giáo dục cũ. Mặc dù đã tốt nghiệp tiểu học nhưng Tuấn lại thuộc diện

chưa đọc thông viết thạo, không rành tính toán. Lượng kiến thức mà Tuấn tích luỹ

được ở cấp tiểu học không đủ cho Tuấn theo học tiếp ở bậc học tiếp theo. Và cụ thể là

Tuấn đã phải bỏ học khi đang học lớp 6 (trình độ học vấn 6/12). Theo bản cáo trạng

cũng cho thấy Tuấn là người không nghề nghiệp, không có thu nhập bản thân lại

nghiện ma túy (năm 1998 đã bị TAND Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 10 năm tù về

tội mua bán trái phép chất ma túy), nên để có tiền hút ma túy Tuấn đã thực hiện hành

vi trộm cắp tài sản kể trên. Như vậy, chính việc chạy theo thành tích của nền giáo dục

cũ: học hết năm thì cho lên lớp, vì bệnh thành tích mà nhà trường đã cho những học

sinh như Tuấn đậu tốt nghiệp tiểu học. Khi đó học cấp cao hơn, áp lực học tập lớn hơn

đã khiến Tuấn phải nghỉ học từ sớm (lớp 6). Không có trình độ, không có công việc ổn

định, thiếu sự giáo dục của gia đình, nhà trường lại là đối tượng nghiện hút ma túy, con

đường dẫn Tuấn đến việc thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản dường như đã

được rút ngắn hơn. Tóm lại, chính những hạn chế từ phương pháp giảng dạy của nền

giáo dục cũ là nguyên nhân sâu xa hình thành nên đặc điểm nhân thân tiêu cực ở Tuấn.

Khi đó, để thỏa mãn như cầu lệch chuẩn (nghiện ma túy) thì chính những đặc điểm

nhân thân xấu này đã thúc đẩy Tuấn thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản.

2.3.2.2. Sự thiếu “liên lạc” giữa nhà trường và gia đình.

46

Nếu nguyên nhân hạn chế phương pháp dạy học “truyền thống” xuất phát từ

phía nhà trường, nhà giáo dục, thì nguyên nhân do thiếu sự liên lạc giữa gia đình và

nhà trường phần nhiều xuất phát từ phía gia đình. Biểu hiện của nguyên nhân này đó là

cha mẹ quá mải mê, quá tập trung vào công việc kinh doanh kiếm tiền mà không quan

tâm đến quá trình học tập của con, tất cả mọi hoạt động của con đều phó mặc cho nhà

trường từ học tập, ăn mặc, vui chơi, ngoại khóa, thậm chí ngày cuối tuần cũng cho con

đến trường để học thêm. Thời gian tại nhà cha mẹ cũng không dành để chia sẻ, phát

hiện những thay đổi tâm - sinh lý của con, không kiểm tra việc học tập, sinh hoạt của

con nên không phát hiện những thay đổi trong tâm tư, tình cảm, đặc biệt là những thay

đổi lệch chuẩn trong nhận thức để kịp thời uốn nắn, giáo dục. Hiện tượng này nó không

chỉ đang tồn tại ở huyện Củ Chi nói riêng mà nó đang là một thực trạng của cả Thành

phố Hồ Chí Minh cũng như các thành phố lớn khác. Có thể kể đến như vụ án trộm cắp

tài sản do đối tượng Phạm Trung Dũng thực hiện. Khoảng 14h30 phút ngày

29/11/2018 Phạm Trung Dũng đi xe máy đến tiệm bán trái cây của bà Phan Thị Lâm

tại ấp Bàu Tre 2, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi để mua trái cây. Khi vào quán thấy bà

đang ngủ, điện thoại di động hiệu Samsung J3 đang cắm sạc pin. Dũng liền nảy sinh ý

định trộm cắp tài sản và đã đi vào trộm chiếc điện thoại kể trên. Khi vừa ra xe để tẩu

thoát thì bà Lâm thức dậy phát hiện liên truy hô người xung quanh đến bắt. Tại bản án

số 53/2019/HS-ST ngày 15/03/2019 của TAND huyện Củ Chi đã tuyên phạt Phạm

Trung Dũng 2 năm tù giam về tội trên. Qua nghiên cứu hồ sơ ta thấy mẹ Dũng mất

sớm, một mình ông Bảo (bố Dũng) lo kiếm tiền nuôi Dũng và các em nên không có

thời gian quan tâm chăm sóc con cái, việc học hành của Dũng gia đình phó mặc hết

cho nhà trường. Bản thân Dũng cũng đã cố gắng học hết lớp 12. Nhưng chính sự thiếu

quan tâm, thiếu sự liên lạc của bố Dũng và nhà trường mà việc Dũng hay bỏ học đi

chơi cùng bạn bè gia đình không hay biết, đặc biệt Dũng hay trộm đồ gia đình bán lấy

tiền chơi game đã không được gia đình giáo dục, uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời. Tội

trộm cắp tài sản và mức án 2 năm tù giam mà Dũng phải nhận ngày hôm nay có lỗi

47

một phần từ sự thiếu quan tâm giáo dục từ gia đình. Như vậy, ta thấy chính do sự thờ ơ,

thiếu quan tâm, sự thiếu liên lạc giữa ông Bảo và nhà trường nên không nắm được tình

hình học tập của con, không biết được con nghỉ học hay không, đồng thời chính nhà

trường cũng không biết được Dũng nghỉ học ở nhà hay đi đâu, nghỉ học vì lý do gì?

Đây chính là nguyên nhân đã tác động và dần hình thành ở Dũng những đặc điểm nhân

thân tiêu cực như: tâm lý chán học, học cho qua lớp, thích đua đòi ăn chơi cùng bạn bè,

hay bỏ học chơi game … Bản thân Dũng tuy đã học xong lớp 12 nhưng vẫn không thể

kiếm được việc làm. Khi đó để thỏa mãn nhu cầu lệch chuẩn cần tiền để tiêu xài, chơi

game, ăn chơi cùng bạn bè thì chính những đặc điểm nhân thân tiêu cực trên đã thúc

đẩy Dũng đi đến thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Tóm lại, phương pháp dạy học chưa tốt, sự thiếu quan tâm giữa gia đình và nhà

trường là những nguyên nhân làm hình thành nên ở người học những đặc điểm nhân

thân tiêu cực, quá trình giáo dục ở nhà trường đã tạo ra một “sản phẩm” chưa hoàn

thiện cho xã hội. Khi ra đời, gặp những hoàn cảnh tiêu cực từ môi trường xã hội thì

chính những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người học đã thúc đẩy họ đi đến con

đường phạm tội, trong đó có tội trộm cắp tài sản.

2.3.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh tế - xã hội, văn hóa vĩ môi.

2.3.3.1. Các yếu tố tiêu cực từ môi trường kinh tế - xã hội.

Như đã đề cập ở trên, hiện nay trên địa bàn huyện Củ Chi có rất nhiều các cụm

khu công nghiệp, các tuyến đường, các công trình trọng điểm, các khu đô thị mới …

đang được đầu tư xây dựng đã thu hút một lượng lớn lao động từ các nơi đổ về đây lập

nghiệp. Bên cạnh việc đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật

chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Thì sự gia tăng đột biến số

lượng công dân nhập cư đã dẫn đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn diễn biến

phức tạp. Mặt khác kinh tế - xã hội phát triển nhanh đã làm cho công tác quản lý nhà

nước về mặt kinh tế - xã hội nhiều cho còn hạn chế, lỏng lẻo … từ đó đã tạo điều kiện

cho sự phát triển của nhiều loại tội phạm cũng như sự xuất hiện nhiều băng nhóm tội

48

phạm… tất cả đã gây ảnh hưởng và tác động xấu đến công tác đảm bảo an ninh, trật tự

tại địa phương. Mặt khác, các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước còn

rất nhiều bất cập khi áp dụng vào địa phương, các chính sách an sinh xã hội, chính sách

giải quyết việc làm, chính sách cho vay vốn, chính sách phát triển nông thôn... của

Thành phố Hồ Chí Minh, của UBND huyện Củ Chi còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ,

thiếu hiệu quả cũng phần nào làm gia tăng hộ nghèo, tái nghèo [34]. Tình trạng thất

nghiệp, thiếu việc làm, kinh tế gia đình khó khăn kết hợp lối sống thực dụng, ăn chơi

đua đòi ... nên họ dễ đi vào con đường phạm tội. Nghiên cứu cho thấy các yếu tố tiêu

cực của môi trường kinh tế - xã hội vĩ mô đã tác động, hình thành các đặc điểm nhân

thân tiêu cực của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, đó là:

- Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm.

Như đã nói, người dân Củ Chi vốn xuất thân từ làm nông, làm vườn, cuộc sống

gắn liền với mảnh đất. Nhưng hiện nay nhiều người không còn đất để làm ăn do đất đã

bán, đã bị quy hoạch. Trong khi tiền có được đã tiêu xài hết mà công việc mới chưa có,

một bộ phận không nhỏ thì không đủ trình độ để vào làm trong các công ty, nhà máy,

xí nghiệp, muốn quay lại làm vườn nhưng đất không còn như vậy nhiều người đã tự

đẩy mình vào con đường thất nghiệp. Mặt khác tuy lượng người di cư đến để làm ăn rất

nhiều nhưng đa số trình độ học vấn thấp, đa số xuất phát từ làm ruộng ở các vùng quê

nên vẫn còn nhiều người chưa tìm được việc làm. Thất nghiệp cũng đồng nghĩa với

không có nguồn thu nhập chính, khi đó để nuôi sống bản thân, thỏa mãn các nhu cầu

tiêu xài thì nhiều người trong số họ đã đi đến thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Qua

nghiên cứu 167 bị cáo cho thấy, có tới 66,67 % người phạm tội trộm cắp trên địa bàn là

người không có nghề nghiệp và có tới 14, 29% người có nghề nghiệp không ổn định

(Bảng 2.7). Nguyên nhân do tình trạng thất nghiệp dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội

trộm cắp tài sản có thể kể đến vụ án trộm cắp tài sản do bị cáo Dương Dũ Hương Tràm

sinh năm 1986 thực hiện tại địa bàn ấp Bầu Tre 1, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi. Cụ

thể, vào khoảng 13h ngày 15/12/2017 lợi dụng lúc ông Nguyễn Văn Đơn là hàng xóm

49

của Tràm đang ngủ trưa. Tràm lén lút vào nhà lấy chìa khóa xe máy để trên bàn rồi đẩy

xe máy biển số 54Y5 - 3003 mang đi bán được 7.000.000đ. Số tiền bán được Tràm

mang đi trả nợ hết. (Trích bản án số 205/1018/HS-ST, ngày 22/11/2018 của TAND

huyện Củ Chi). Qua nghiên cứu hồ sơ ta thấy, bản thân Tràm là một người có đặc điểm

nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Trước kia Tràm cũng có công việc (phụ việc quét

dọn, vệ sinh trong quán cafe) nhưng đầu năm 2017 quán café sang quán chủ mới. Tràm

rơi vào tình trạng thất nghiệp, để có tiền tiêu xài, chi trả chi phí sinh hoạt cá nhân Tràm

đã vay nợ của nhiều người. Không có việc làm, không có thu nhập Tràm lâm vào cảnh

nợ nần ngày càng nhiều hơn. Khi đó, để có tiền trả nợ Tràm đã thực hiệm hành vi trộm

cắp tài sản của cả người hàng xóm (ông Đơn) kể trên. Qua vụ án trên ta thấy, chính

nguyên nhân thất nghiệp, không có thu nhập đã tác động đến sự hình thành đặc điểm

nhân thân tiêu cực ở Tràm đó là động cơ, mục đích vụ lợi, vì lợi ích kinh tế, đặc điểm

nhân thân xấu này đã đẩy Tràm đi đến thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như trên.

- Hạn chế trong công tác tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người đã chấp

hành xong án phạt tù.

Vấn đề giải quyết việc làm thì việc tạo công ăn việc làm cho những người đã

chấp hành xong án phạt tù vẫn còn nhiều thiếu sót, chưa được chú trọng. Công tác quản

lý những đối tượng này vẫn mang nặng tính quản lý nghiệp vụ của ngành công an. Tái

hòa nhập cộng đồng nhưng vẫn không có công ăn việc làm, không có thu nhập để nuôi

sống bản thân thì những đối tượng thường dễ “ngựa quen đường cũ” mà phạm tội trở

lại. Qua số liệu thống kê trên 167 bị cáo từ 100 vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn

huyện Củ Chi thì có tới 43 bị cáo có tiền án chiếm tỉ lệ 25,75% (Bảng 2.8)

- Hạn chế trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy và công

tác cai nghiện cho người nghiện ma túy.

Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý, công tác quản lý xã hội còn

còn nhiều thiếu sót, tội phạm về ma tuý diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng,

công tác tổ chức cai nghiện và quản lý người sau cai nghiện còn nhiều hạn chế, tỷ lệ tái

50

nghiện sau khi đã cai nghiện rất cao (78%). Hậu quả của nghiện hút ma tuý không chỉ

ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của người nghiện, mà còn ảnh hưởng đến gia đình, xã

hội. Bản thân người nghiện rất dễ thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản để có

tiền thoả mãn cơn nghiện [29, tr. 104]. Trong đó có thể kể đến vụ án trộm cắp tài sản

do Trần Văn Thảo sinh năm 1995 và 2 đối tượng Danh Trọng Nghĩa, sinh năm 2003,

Nguyễn Hoàng Bảo thực hiện. Theo đó, Thảo, Nghĩa, Bảo thường xuyên tụ tập chơi

game, và sử dụng ma túy. Khoảng 01h00 ngày 08/10/2017 sau khi chơi game Thảo đã

bàn bạc với Nghĩa và Bảo đi trộm cắp tài sản để có tiền sử dụng ma túy. Khi đi đến

quán “Biển Ngọc” tại số 62A Nguyễn Văn Ni thị trấn Củ Chi thấy đèn còn mở, lúc này

Thảo và Nghĩa đứng ngoài cảnh giới để Bảo trèo cổng vào lấy tài sản gồm 01 laptop

hiệu Asus, 01 điện thoại Iphone 5S, 02 điện thoại Samsung. Sau khi trộm tài sản cả 3

cùng đi đến tiệm điện thoại di động “Huỳnh Lâm Bổn” bán được 3.500.000đ chia nhau

tiêu xài. Tại bản án số 58/2018/HS-ST ngày 11/4/2018 TAND huyện Củ Chi xử phạt

Trần Văn Thảo 01 năm tù có thời hạn, Danh Trọng Nghĩa chưa đủ tuổi chịu trách

nhiệm hình sự nên VKSND không truy tố, Nguyễn Hoàng Bảo đã bỏ trốn cơ quan

công an đang truy tìm. Qua nghiên cứu vụ án, Trần Văn Thảo mới học hết lớp 4, không

nghề nghiệp. Bản thân không có thu nhập nhưng lại hay tụ tập chơi game, đặc biệt là

nghiện hút ma túy. Cũng qua nghiên cứu hồ sơ ta thấy, Thảo là người nghiện ma túy

nhưng chưa được gia đình, xã hội đưa đi cai nghiện lần nào. Như vậy, chính do sự hạn

chế trong quản lý xã hội về quản lý việc mua bán, sử dụng chất ma túy đã tác động,

hình thành nên đặc điểm nhân thân tiêu cực ở Thảo đó là thói quen nghiện hút ma túy.

Khi đó chính thói quen nghiện hút ma túy đã thúc đẩy Thảo thực hiện hành vi trộm cắp

tài sản nêu trên để có tiền thỏa mãn cơn nghiện ma túy của Thảo.

2.3.3.2. Hạn chế, bất cập trong quản lý nhà nước về văn hóa

Theo quan điểm của Đảng ta văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục

tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với

kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

51

dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc

trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

Xét trên bình diện cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh nói chung, huyện Củ Chi

nói riêng là một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước, luôn đi đầu trong việc

phát triển các loại hình văn hóa xã hội. Tuy nhiên, việc phát triển văn hóa hiện nay vẫn

chưa đồng bộ với phát triển kinh tế dẫn đến nhiều hệ lụy về phát triển xã hội, đồng thời

làm cho phát triển kinh tế thiếu bễn vững. Các hệ lụy đó là tình trạng suy thoái về tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống thực dụng coi trọng đồng tiền. Sự du nhập và đan xen

giữa các nền văn hóa, đã kéo theo theo các loại hình ăn chơi, giải trí xa hoa, không hợp

thuần phong mỹ tục người Việt đang len lỏi, xâm nhập vào một bộ phận quần chúng

nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên đã dẫn đến những hành vi suy đồi đạo

đức, vi phạm pháp luật và phạm tội xảy ra nhiều hơn. Nguyên nhân chính của vấn đề

đó là sự chưa nhận thức đúng về phát triển văn hóa trong hoạt động thực tiễn, nhất là

trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa.

Từ phân tích trên ta thấy chính hạn chế trong quản lý nhà nước về văn hóa đã

tác động và dần hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực của một bộ phận nhân

dân trên địa bàn Củ Chi như: lối sống thực dụng coi trọng đồng tiền, đua đòi ăn chơi

theo các trào lưu văn hóa không lành mạnh, lười lao động thích hưởng thụ, nghiện

game, nghiện ma túy, coi thường giá trị đạo đức, giá trị pháp luật … khi đó trộm cắp

tài sản chính là cách mà các đối tượng này nghĩ đến khi cần có tiền bạc để thỏa mãn

các nhu cầu lệch chuẩn của bản thân. Ví dụ như 02 vụ án Trộm cắp tài sản do Nguyễn

Thanh Phúc sinh năm 1997 và Phan Chí Công sinh năm 1994 thực hiện. Cụ thể vụ án

thứ nhất, khoảng 18h30 ngày 25/5/2018 trên đường đi chơi ngang qua số nhà 08 đường

40, ấp Tân Thành, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi thấy xe gắn máy 63S4 - 3877 của

anh Nguyễn Thanh Hùng không có người trông coi, Công đã rủ Phúc trộm xe máy trên

bán lấy tiền tiêu xài. Vụ án thứ 2, vào khoảng 22h ngày 5/7/2018 Phúc đã điều kiển xe

máy đến nhà bị cáo Công, rủ Công đi trộm cắp tài sản để lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng

52

03h45’ ngày 6/7/2018 khi đi ngang qua nhà số 44 đường Nhữ Tiến Hiền, khu phố 6, thị

trấn Củ Chi, huyện Củ Chi. Thấy xe máy Honda Click biển số 55Y4 - 4776 của ông

Nguyễn Đăng Tiến, để bên trong nhà gần cửa cổng đã bị khóa. Cả 2 đã dùng mỏ lếch

bẻ khoen cửa cổng và trộm xe máy đi. (Trích bản án số 190/2018/HS-ST, ngày

12/11/2018 của TAND huyện Củ Chi). Qua nghiên cứu hồ sơ ta thấy Phúc là người có

đặc điểm nhân thân tốt, hoàn cảnh gia đình bình thường. Chỉ vì bản thân thích đua đòi

ăn chơi theo bạn bè, thích tụ tập ăn nhậu tại các quán bar, thích đi tới các quán karaoke,

quán massage không lành mạnh … bản thân không có nghề nghệp, để có tiền phục vụ

các nhu cầu lêch chuẩn ấy Phúc đã nghe theo Công, người đã có một tiền án về tội

trộm cắp tài sản (ngày 8/9/2017 TAND huyện Củ Chi tuyên phạt Công 7 tháng tù giam

về tội Trộm cắp tài sản) đi trộm xe máy để lấy tiền tiêu xài tại vụ án thứ nhất. Đến vụ

án thứ 2 thì Phúc lại là người đến nhà và rủ Công đi trộm cắp tài sản cũng vì mục đích

lấy tiền tiêu xài. Như vậy, qua vụ án của Phúc ta thấy chính do sự thiếu sót trong hoạt

động quản lý văn hóa của cơ quan nhà nước đã để các loại hình văn hóa không lành

mạnh (quán bar, quán karaoke, massage trá hình) vẫn hoạt động len lỏi trong cộng

đồng dân cư. Các loại hình văn hóa không chuẩn mực ấy đã tác động, hình thành ở

Phúc những đặc điểm nhân thân tiêu cực như: thích ăn chơi không lành mạnh, tâm lý

coi thường giá trị đạo đức, coi thường pháp luật…từ đó thúc đẩy Phúc thực hiện hành

vi trộm cắp tài sản khi cần thỏa mãn các nhu cầu lệch chuẩn của bản thân.

2.3.4. Nguyên nhân từ phía chủ thể

Bên cạnh những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình, môi trường nhà

trường và môi trường kinh tế - xã hội, văn hóa vĩ mô như đã phân tích ở trên. Các yếu

tố thuộc về chính chủ thể: khả năng kiềm chế, kiểm soát bản thân kém, sự nhu nhược,

buông xuôi trước những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống ... chính là nguyên nhân

tác động, hình thành nên các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội đó như:

nghiện rượu, ma túy, cờ bạc ... từ đó dẫn đến thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Ví dụ

như vụ án Trộm cắp tài sản do đối tượng Lê Văn Chánh sinh năm 1977 và Lê Văn Sơn

53

sinh năm 1995 (Lê Văn Chánh là cậu ruột của Lê Văn Sơn) thực hiện . Cụ thể: khoảng

01h ngày 8/9/2017, khi bị bắt về hành vi trộm cắp tài sản (xe máy) tại số nhà 159 Phú

Nhuận, Phú Lợi, Phú Mỹ Hưng, Củ Chi trong quá trình điều tra các đối tượng đã khai

ra trước đó trong tháng 8/2017 các đối tượng đã thực hiện 03 vụ trộm cắp xe máy khác

cũng trên địa bàn huyện Củ Chi, đồng thời đối tượng Chánh cũng khai nhận đã cùng

đối tượng Phạm Văn Nhanh thực hiện 03 vụ trộm xe máy khác. Qua hồ sơ cũng cho ta

thấy đối tượng Lê Văn Chánh trong các năm 2007, 2013, 2014 đã bị TAND huyện

Trảng Bàng, Tây Ninh, TAND huyện Dầu Tiếng, Bình Dương và TAND huyện Dương

Minh Châu, Tây Ninh xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản. Lê Văn Sơn cũng đã bị

TAND huyện Dầu Tiếng, Bình Dương xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản vào ngày

23/01/2014. (Trích bản án số 03/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 của TAND huyện Củ

Chi). Qua nghiên cứu hồ sơ về Chánh cho thấy, Chánh có trình độ học vấn 2/12, bản

không có nghề nghiệp, kinh tế gia đình phụ thuộc vào vợ (làm công nhân). Là người

trụ cột của gia đình nhưng lại sống phụ thuộc vào vợ, khả năng kiềm chế, kiểm soát

bản thân kém, dễ bị kích động, lôi kéo vào tệ nạn cờ bạc. Sau khi thua cờ bạc, tức giận

về nhà đánh đập vợ con, chán nản bỏ đi ăn nhậu dường như đã trở thành “thói quen”

thường nhật của Chánh. Cuộc sống ngày càng khó khăn, với bản tính nhu nhược,

Chánh dễ buông xuôi trước những khó khăn của cuộc sống, lại không chịu bỏ sức lao

động kiếm tiền chính đáng. Khi đó muốn có tiền thỏa mãn sở thích cờ bạc, thói quen ăn

nhậu đã thúc đẩy Chánh đi đến thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản. Ba lần ra

trại, bốn lần vào tù về hành vi trộm cắp tài sản cũng chính là minh chứng rõ nhất về

bản tính nhu nhược, dễ buông xuôi trước khó khăn của cuộc sống, khả năng kiềm chế

bản thân kém (ham muốn ăn nhậu, cờ bạc) của Chánh. Đây cũng chính là nguyên nhân

tác động, hình thành nên các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở Chánh đó là nghiện rượu,

cờ bạc ... từ đó dẫn đến việc Chánh nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Còn

về phần Sơn (cháu của Chánh) là minh chứng rõ nhất về sự ảnh hưởng của người thân

đến các quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội. Đồng

54

thời qua vụ án ta thấy Sơn cũng chính là người thiếu kiềm chế được ham muốn của bản

thân, dễ bị kích động lôi kéo vào con đường phạm tội trộm cắp tài sản giống cậu. 03

tiền án về tội trộm cắp tài sản là sự phản ánh rõ nhất về bản chất của con người Sơn.

Tóm lại, khi nghiên cứu trạng nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua cho thấy những yếu

tố tác động lên sự hình thành các đặc điêm nhân thân người phạm tội trên địa bàn

huyện bao gồm các yếu tố thuộc môi trường khách quan và các yếu tố thuộc về chủ thể

người phạm tội. Do vậy để giảm thiểu tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn trong thời

gian tới cần cần phải hướng đến việc hạn chế, loại trừ các yếu tố tiêu cực thuộc môi

trường sống, cũng như các yếu tố tiêu cực thuộc về cá nhân có vai trò tác động đến

việc hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội.

Kết luận chương 2

Trong nội dung của chương 2 Luận văn, học viên đã tập trung nghiên cứu đặc

điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ

Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019. Đồng thời kết quả của quá trình

nghiên cứu đã chỉ ra đặc điểm nhân thân cũng như các yếu tố tác động đến sự hình

thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi,

Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của Chương 2 cũng đã làm

rõ được sự tác động qua lại giữa các yếu tố: môi trường gia đình, nhà trường, môi

trường sống, làm việc, môi trường kinh tế - xã hội vĩ mô và các yếu tố tâm, sinh lý, ý

thức tiêu cực xuất phát từ chính cá nhân người phạm tội. Như vậy, nhân thân người

phạm tội là kết quả của sự tác động qua lại giữa các yếu tố thuộc môi trường khách

quan với các yếu tố chủ thuộc về chủ thể phạm tội. Đây chính là cơ sở cho việc đưa ra

dự báo cũng như giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi

trong thời gian tới từ góc độ nhân thân người phạm tội.

55

CHƯƠNG 3: DỰ BÁO VÀ CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA

TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH DƯỚI GÓC ĐỘ NHÂN THÂN

3.1. Dự báo các yếu tố sẽ tác động đến đặc điểm nhân thân người phạm tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời

gian tới

3.1.1. Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội.

Theo kết quả báo cáo hằng năm cũng như báo có tổng kết 5 năm về tình hình

kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng từ năm 2015 – 2019 cho ta thấy bên cạnh những

thành tựu đã đạt được như: về kinh tế tổng giá trị sản xuất toàn ngành năm 2015 đạt

42.399,286 tỷ đồng đến năm 2019 đã tăng lên 110.960,470 tỷ đồng, trung bình tổng giá

trị sản xuất toàn ngành 5 năm đạt 88.506,468 tỷ đồng. Về văn hóa – xã hội có nhiều

tiến bộ, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống người dân từng bước được cải thiện.

Chất lượng hoạt động của các ấp, khu phố văn hóa được nâng lên, toàn huyện có

168/178 ấp, khu phố đạt danh hiệu văn hóa, 126/170 ấp đạt chuẩn ấp kiểu mẫu văn hóa

nông thôn mới vượt 24,12% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội địa biểu Đảng bộ huyện

Củ Chi lần thứ XI nhiệm kỳ 2015 – 2020 đề ra.

Tuy nhiên, trong thời gian tới Củ Chi cũng đối diện với nhiều thách thức như:

Tình trạng thất nghiệp vẫn đang ở mức cao, chất lượng nguồn lao động còn thấp nguồn

lao động chất lượng cao còn thiếu. Sản xuất nông nghiệp còn mang tính nhỏ lẻ, sức

cạnh tranh yếu, thiếu sự liên kết giữa người dân và doanh nghiệp. Đầu tư sản xuất nông

nghiệp áp dụng công nghệ cao đang được khuyến khích, định hướng phát triển nhưng

vốn đầu tư quá lớn đối với nông dân. Nguồn vốn hỗ trợ vốn vay cho hộ nghèo còn

nhiều khó khăn làm cho số hộ nghèo tuy đã được kéo giảm nhưng khả năng thoát

nghèo bền vững chưa cao, tỉ lệ tái nghèo vẫn còn nhiều. Nhiều mặt của công tác quản

lý văn hóa, quản lý xã hội công chưa đạt hiệu quả cao. Nhiều nhà văn hóa, nhà thiếu

nhi, trung tâm giáo dục cộng đồng được xây dựng nhưng khai thác chưa hiệu quả, các

56

thiết chế văn hóa chưa đáp ứng nhu cầu cảu người dân. Các tệ nạn xã hội: nghiện hút,

cờ bạc, ăn chơi sa đọa … vẫn còn tác động mạnh đến một bộ phận người dân.

Như vậy, dự báo trong thời gian tới các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường kinh

tế, văn hóa, xã hội nêu trên sẽ tiếp tục tác động và ảnh hưởng đến sự hình thành các

đặc điểm nhân thân xấu của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi

đó là: không nghề nghiệp, thu nhập thấp, nhàn rỗi sinh ra tụ tập ăn chơi, đua đòi, cờ

bạc, nghiện ma túy … để thỏa mãn các nhu cầu lệch chuẩn họ dễ đi vào con dường

phạm tội. Trong thời gian tới tình hình tội phạm sẽ còn diễn biến phức tạp, trong đó tội

phạm trộm cắp tài sản cũng không tránh khỏi sự tác động của yếu tố trên.

3.1.2. Các yếu tố thuộc môi trường gia đình

Dự báo đây là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc hình thành

đặc đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội trộm cắp tài sản, bởi các lý do:

- Thứ nhất, huyện Củ Chi vốn là vùng nông thôn nghèo ở ngoại thành Thành

phố Hồ Chí Minh, dân cư chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp: làm vườn, chăn nuôi

(nuôi bò, lợn), kinh doanh nhỏ lẻ … các thành viên trong các gia đình có thời gian

quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Do tình hình kinh tế - xã hội thay đổi, nhiều người đã bỏ

công việc trước kia đi làm công nhân, theo vòng quay của công việc trong thời đại

công nghiệp và sự leo thang của giá cả thị trường đã làm nhiều người phải tăng ca làm

thêm cả ngày lẫn đêm… khi đó thời gian chăm sóc, gần gũi con cái ít đi, thậm chí bỏ

mặc việc chăm sóc con cái cho người thân (ông bà) cho nhà trường.

- Thứ hai, do giá đất tăng cao, nhiều diện tích đất nông nghiệp được quy hoạch

làm khu công nghiệp, khu đô thị làm cho nhiều gia đình nhiều đất giàu lên nhanh

chóng, con em của họ cũng trở thành con nhà giàu, được bố mẹ chu cấp, mua sắm cho

những vật chất mà trước giờ chưa từng có. Lối sống, thói quen cũng thay đổi con cái

của họ và ngay cả họ cũng cuốn theo lối sống hưởng thụ mới: nhà lầu, xe hơi, ăn chơi,

tụ họp … đến một giai đoạn dễ bị cuốn theo vào các tê nạn xã hội khác. Các giá trị

thuần phong mỹ tục của gia đình nông thôn bị phá vỡ như các vấn đề: tiêu cực trong

57

hôn nhân, bạo lực gia đình, ly hôn, bất bình đẳng giới trong gia đình, con cái đàn đúm,

học đòi theo bạn bè hơn là nghe lời người thân.

- Thứ ba, những năm gần đây huyện Củ Chi cũng bị ảnh hưởng không nhỏ từ

làn sóng nhập cư từ các tỉnh lân cận đến làm công nhân. Khi đó họ sẽ mang cả gia đình

lên thành phố, một người đi làm kéo theo nhiều người không có việc đến sinh sống.

Phổ biến hơn là những người trẻ lên thành phố lập nghiệp họ kết hôn xây dựng gia đình

trong khi gia đình hai bên thường ở xa nên con cái của họ ngay từ nhỏ đã phải gửi nhà

trẻ, từ nhỏ đã thiếu đi sự chăm sóc của gia đình.

Tóm lại, trong thời gian tới các yếu tố tiêu cực từ môi trường gia đình vẫn là yếu

tố trực tiếp tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân xấu ở trẻ như: bỏ

học, bỏ nhà đi bụi, giao du với những bạn bè xấu, sa vào rượu, bia, ma túy, game

online, đua đòi theo bạn bè, ăn chơi xa hoa, mất kiểm soát hành vi…. Khi gặp hoàn

cảnh tiêu cực từ môi trường sống con em họ dễ đi vào con đường phạm tội, trộm cắp

tài sản.

3.1.3. Môi trường giáo dục

Theo báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an

ninh – quốc phòng giai đoạn 2015 – 2020 của UBND huyện Củ Chi cho thấy bên cạnh

những thành tích đã đạt được như: Chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên,

hiệu suất đào tạo bậc tiểu học đạt 99%, bậc trung học cơ sở đạt 92%, bậc trung học phổ

thông đạt 80%. Tiếp tục giữ vững chuẩn quốc gia về chống mù chữ và phổ cập giáo

dục bậc tiểu học, trung học cơ sở và phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi. Cơ sở hạ tầng,

toàn huyện có 102 trường công lập từ mầm non đến trung học phổ thông, 01 trường

nuôi dạy trẻ khuyết tật, 01 trường Bồi dưỡng và giáo dục thường xuyên, 19 trường

mầm non tư thực, 93 cơ sơ giữ trẻ. Trong đó có 14 trường đạt 5 tiêu chuẩn của Bộ Giáo

dục và Đào tạo, 39 trường đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất. [34]

Tuy nhiên, cũng theo báo cáo này hiện nay công tác giáo dục vẫn còn nhiều tồn

tại: Phổ cập trung học cơ sở còn gặp nhiều khó khăn, chưa vận động tất cả học sinh bỏ

58

học đi học lại, nhiều em bỏ học khi chưa học hết bậc học trung học cơ sở. Chưa có

trường trung học phổ thông đạt đủ chỉ tiêu đạt chuẩn quốc gia. Còn thiếu một chương

trình giáo dục kỹ năng sống cho giới trẻ, giáo dục tại nhà trường mới chỉ dùng lại ở

việc truyền đạt kiến thức giáo dục phổ thông mà thiếu đi những chương trình dạy kỹ

năng sống cho lứa tuổi thanh, thiếu niên. Trong khi thời đại ngày nay là thời đại của

công nghệ 4.0, thời đại của thông tin mạng xã hội, thời đại các trò chơi trực tuyến nở

rộ. Các thông tin trên internet lại tràn ngập nhưng chưa có nhiều chương trình kiểm

soát hoặc định hướng cho thanh, thiếu niên lựa chọn thông tin khi vào internet, trẻ em

có thể ngồi hàng nhiều tiếng thậm chí vài ngày để chơi game. Chính vì ngay trong nhà

trường học sinh đã không được trang bị kỹ năng sống, khi đứng trước “rừng” thông tin

tốt, xấu các loại thì thanh, thiếu niên bối rối, dễ lựa chọn sai những thông tin mà mình

cần tìm hiểu. Chương trình giáo dục tại nhà trường vẫn nặng thành tích, chưa chú trọng

đến việc tăng cường giáo dục đạo đức, kiến thức pháp luật, kỹ năng sống mà chỉ tập

trung vào các chỉ tiêu mà ngành giáo dục và UBND Thành phố Hồ Chí Minh giao.

Như vậy, các hạn chế, các vấn đề còn tồn tại trong môi trường giáo dục sẽ còn

tiếp tục tác động và ảnh hưởng tới sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của

người học như: trình độ học vấn thấp, kiến thức pháp luật hạn chế, kỹ năng sống yếu

dễ bị tác động, ảnh hưởng từ các yếu tố tiêu cực khác … Dự báo trong thời tình hình

tội trộm cắp tài sản ngày càng trẻ hóa và diễn biến phức tạp.

3.1.4. Môi trường bạn bè

Thời đại ngày nay là thời đại công nghệ thông tin bùng nổ, việc kết bạn trên các

trang mạng xã hội facebook, zalo… vô cùng dễ dàng và nhanh chóng. Ngày nay ngoài

nhóm bạn ngoài đời sống gần nhau, thì còn hiện tượng bạn “ảo” – bạn trên mạng dù có

thể chưa từng gặp nhau như bạn zalo, facebook, bang hội game ... Chính nhóm bạn

“mạng” này đã tác động không nhỏ đến tính cánh, lối sống của giới trẻ hiện nay. Vì

học theo thần tượng, hay đua “cày game” mà có người đã bỏ ra rất nhiều tiền bạc để

mua đồ giống thần tượng, thậm chí có món đồ ảo trong game có giá tới hàng chục triệu

59

đồng nhưng nhiều người vẫn tìm mua bằng được. Dù không có tiền nhiều người sẵn

sàng làm nhiều việc kể cả vi phạm pháp luật như trộm cắp tài sản để thỏa mãn nhu cầu

không chính đáng của bản thân. Mặt khác như đã đề cập ở môi trường gia đình và nhà

trường, thì hiện nay ở Củ Chi gia đình và nhà trường chưa kiểm soát được hết mối

quan hệ bạn bè của con cái. Khi gia đình quan tâm đến kinh tế gia đình nhiều hơn, gia

đình chưa dành thời gian quan tâm, giáo dục để giúp các em biết “chọn bạn” nên các

em rất dễ giao du với bạn bè xấu, tiêm nhiễm thói hư, tật xấu của bạn, rủ rê, lôi kéo

thực hiện tội phạm. Như vậy, các yếu tố tiêu cực từ môi trường bạn bè vẫn tiếp tục tác

động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của các em, đó là việc các em

tiếp nhận những đặc điểm xấu từ chính bạn bè của mình.

3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản từ

khía cạnh nhân thân

Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản từ góc độ nhân thân được hiểu là thực

hiện các giải pháp nhằm cải thiện môi trường sống, giúp loại bỏ những đặc điểm nhân

thân xấu, hình thành ngày càng nhiều đặc điểm nhân thân tốt ở mỗi người, kể cả những

người đã chấp hành xong hình phạt, tái hòa nhập cộng đồng.

Từ định nghĩa trên cũng như dựa trên cơ sở dự báo những yếu tố tiêu cực tác

động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của con người. Tác giả đề xuất các

giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội trộm cắp tài sản nói

riêng trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Đó là các

giải pháp nhằm loại trừ các yếu tố tiêu cực từ môi trường sống có thể tác động hình

thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người dân Củ Chi. Hay nói cách khác, đó

chính là các giải pháp để xây dựng môi trường sống tốt hơn. Khi đó, môi trường sống

tốt sẽ tác động và hình thành nhiều đặc đặc nhân thân tốt, hạn chế hình thành các đặc

điểm nhân thân xấu ở mỗi người. Cá nhân có các đặc điểm nhân thân tốt nổi trội nhiều

hơn thì khả năng thực hiện tội phạm sẽ ít hơn, như vậy trong một xã hội có nhiều thành

60

viên có các đặc điểm nhân thân tốt nổi trội thì xã hội đó sẽ có ít tội phạm xảy ra hơn,

tình hình an ninh trật tự tốt hơn.

3.2.1. Hạn chế những tác động tiêu cực từ môi trường sống

3.2.1.1. Hạn chế những tác động tiêu cực trong môi trường gia đình

Gia đình là cái nôi đầu tiên và có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng, hình thành

và phát triển nhân cách của con người, đồng thời đóng vai trò là hạt nhân nuôi dưỡng,

hoàn thiện nhân cách. Do đó, để hình thành được một thế hệ công dân mới của huyện

Củ Chi có nhân cách trong sáng, có phẩm chất đạo đức tốt, hạn chế những trường hợp

bị lệch chuẩn về phẩm chất đạo đức dẫn đến phạm tội nói chung, phạm tội trộm cắp tài

sản nói riêng chúng ta cần hạn chế, xóa bỏ các yếu tố tiêu cực từ môi trường gia đình,

bao gồm:

Thứ nhất, bên cạnh vòng xoáy của công việc, áp lực kiếm tiền duy trì cuộc sống

gia đình thì cha mẹ dành thời gian quan tâm, chăm sóc đến con cái nhiều hơn. Chính sự

quan tâm, chăm sóc, động viên, chia sẻ về mặt tinh thần của cha mẹ đối với con cái

cũng như giữa các thành viên trong gia đình là môi trường tốt nhất để hình thành

những phẩm chất tốt đẹp của các thành viên, là cơ sở để xây dựng và gìn giữ các giá trị

truyền thống tốt đẹp.

Thứ hai: giữa cha mẹ phải đồng thuận, thống nhất và có phương pháp giáo dục

phù hợp với đặc điểm tâm lý, khí chất, trí tuệ, năng khiếu… của con. Hạn chế thói

quen quá bảo bọc, lo lắng cũng như sẵn sàng chu cấp mọi thứ khi con cần. Phương

pháp nuôi dạy, chăm sóc tốt, phù hợp chính là môi trường tích cực hình thành những

đặc điểm nhân thân tốt ở con. Va vấp với xã hội, đối diện với những khó khăn, thách

thức trong cuộc sống chính là bài học tốt nhất để con ngày càng hoàn thiện bản thân

mình hơn.

Thứ ba, các tổ chức đảng, chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý chuyên

môn, tổ chức xã hội cần thực hiện các giải pháp, khắc phục, hạn chế tiến tới loại trừ

61

các yếu tố tiêu cực từ gia đình tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân xấu

như sau:

- Đối với các gia đình kinh tế khó khăn.

Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết 15-NQ-TW Hội nghị lần thứ 5 của

Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020; Nghị

định 76/2014/QH13, kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII về đẩy mạnh mục tiêu giảm

nghèo bền vững đến năm 2020; Thực hiện tốt các chỉ tiêu về giảm tỷ lệ hộ nghèo theo

chuẩn chương trình “Giảm nghèo bền vững” giai đoạn 2016 - 2020 bình quân 1%/năm

theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X. Đặc biệt thực

hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần

thứ XI về mục tiêu giảm từ 2% đến 3% tỉ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới (Tiêu chí mới:

căn cứ theo quyết định số 33/2015/QĐ-TTg về chính sách hộ trợ nhà ở đối với hộ

nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015).

UBND huyện Củ Chi cần phải xây dựng các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế,

chương trình hỗ trợ giảm nghèo, tạo cơ hội việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người

dân, giải quyết tốt các chính sách an sinh xã hội cho người dân để họ ổn định cuộc

sống. Tiếp tục có các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình như chuyển

dịch cơ cấu ngành nghề từ cơ cấu lao động nông thôn, đưa tiến bộ khoa học, công nghệ

vào sản xuất nông nghiệp, tăng cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng lao động cho gia

đình và xã hội. Để làm được các vấn đề trên thì UBND huyện Củ Chi cần triển khai

đồng bộ các giải pháp thực hiện chính sách tín dụng cho người nghèo, mở rộng đối

tượng vay vốn; tăng cường nguồn vốn, thời gian sử dụng vốn cho các hộ gia đình

nghèo, cận nghèo vay và các đối tượng chính sách, góp phần thực hiện hiệu quả mục

tiêu giảm nghèo bền vững giúp cho họ vươn lên phát triển kinh tế.

- Đối với các gia đình không hòa thuận, các thành viên trong gia đình thường

xuyên có mâu thuẫn xung đột thì chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội phải kịp

thời thực hiện chức năng hòa giải trong vấn đề bạo lực gia đình, ly hôn. Quan tâm chú

62

ý đến những gia đình mà cha mẹ hay cãi vã, đánh chửi nhau, các thành viên trong gia

đình thường xuyên xung đột, gia đình có thành viên vi phạm pháp luật để tuyên truyền,

thuyết phục, vận động họ phải sống yêu thương, có trách nhiệm đùm bọc lẫn nhau; cha

mẹ làm gương cho con cái.

Tóm lại, càng xây dựng môi trường gia đình lành mạnh, xây dựng được nhiều

kiểu gia đình tốt trên địa bàn huyện Củ Chi thì ngày càng tác động và hình thành nhiều

đặc điểm nhân thân tốt nổi trội ở mỗi người dân trên địa bàn. Điều đó cũng có nghĩa

ngày càng hạn chế đi những nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở

mỗi thành viên. Nói cách khác, muốn xóa bỏ sự hình thành các đặc điểm nhân thân xấu

của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi thì phải loại bỏ các yếu

tố tiêu cực từ môi trường gia đình, đồng thời nuôi dưỡng phát triển các yếu tố lành

mạnh, tích cực hình thành các gia đình kiểu mẫu.

3.2.1.2. Hạn chế những tác động tiêu cực từ môi trường giáo dục

Thứ nhất, thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu về giáo dục – đào tạo theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ XI đó là: Tiếp tục đổi mới

nâng cao chất lượng dạy và học, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng học sinh nghỉ

học, bỏ học. Nâng cao chất lượng công tác phổ cập giáo dục các bậc học, thực hiện

hiệu quả các mô hình xây dựng xã hội học tập. Tiếp tục huy động 100% trẻ 5 tuổi ra

lớp mẫu giáo, 6 tuổi vào lớp 1, hoàn thành chương trình Tiểu học vào lớp 6 và huy

động 95% học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở vào lớp 10 và các hệ tương đương.

Phấn đấu đến năm 2020, xây dựng thêm 15 trường đạt chuẩn quốc gia theo 5 tiêu

chuẩn của Bộ giáo dục và Đào tạo. Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục, sử dụng

hiệu quả cơ sở vật chất được đầu tư, hỗ trợ. Tiếp tục thực hiện đề án xây dựng trường

tiên tiến, hiện đại hội nhập khu vực và quốc tế.

Thứ hai, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội

trong việc quản lý học sinh. Chính sự thiếu liên lạc, thiếu phối hợp giữa gia đình và

nhà trường là nguyên nhân mà cả hai bên không kịp thời nắm bắt tình trạng học sinh bỏ

63

học đi chơi, học sinh có biểu hiện lạ, có hành vi tiêu cực, hành vi vi phạm pháp luật …

vì vậy gia đình và Nhà trường cần tăng cường sự kết nối, phối hợp với nhau để nắm

bắt, trao đổi thông tin một cách đầy đủ, kịp thời về tình hình học tập, tu dưỡng đạo đức

của các em. Kịp thời phát hiện và có những biện pháp tác động phù hợp đối với những

em có biểu hiện trốn học, nghiện thuốc lá, nghiện ma túy, chơi game, tụ tập nhóm

không lành mạnh. Để khắc phục nguyên nhân trên cần thực hiện các gải pháp cụ thể

như:

- Tiếp tục duy trì hình thức họp phụ huynh định kỳ theo học kỳ, năm học vì đây

là biện pháp liên lạc chính thống giữa nhà trường và phụ huynh. Qua các buổi họp phụ

huynh vừa biết được kết quả học tập của con em mình cũng như kết quả học tập của

các bạn cùng lớp khi đó sẽ có cơ sở để động viên, quan tâm tới việc học tập của con em

mình nhiều hơn.

- Áp dụng công nghệ thông tin trong công tác liên lạc giữa nhà trường và gia

đình: Hiện nay nhiều trường có các trang web riêng của mình, tuy nhiên việc ứng dụng

trong công tác liên lạc giữa nhà trường và gia đình còn hạn chế. Chỉ có số ít trường

đang phấn đấu xây dựng mô hình trường tiên tiến ngang tầm khu vực như Trường Tiểu

học An Phú, Trường Trung học cơ sở Tân Thông Hội, Trường Trung học cơ sở Thị

trấn 2 … đã xây dựng được hệ thống quản lý học sinh bằng mã học sinh, công khai kết

quả học tập, rèn luyện, kế hoạch học tập trên website của nhà trường. Do đó, trong thời

gian tới cần nâng hơn nữa hiệu quả công nghệ vào công tác liên lạc giữa nhà trường và

gia đình.

Thứ ba, Nhà trường cần hạn chế đến mức thấp nhất có thể việc áp dụng biện

pháp xử lý đình chỉ học, đuổi học đối với các em vi phạm nội quy nhà trường, vì hành

động ấy trên thực tế chỉ răn đe được một số ít học sinh, còn lại hầu hết mang tâm lý bất

cần, chán nản, bi quan, xa lánh bạn bè sau khi bị đuổi học.

Thứ tư, Nhà trường cần chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống

cho học sinh.

64

Bên cạnh giáo dục kiến thức thì giáo dục đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống chính

là hành trang thiết thực và cần thiết nhất cho mỗi học sinh sau này. “Tiên học lễ, hậu

học văn” đòi hỏi nhà trường trước hết cần giáo dục cho các em hình thành những phẩm

chất đạo đức, nhân cách tốt của một công dân trong xã hội.

Đưa nội dung giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật cho học sinh ngay từ

các cấp học cở sở, với nội dung phù hợp với từng cấp học, từng lứa tuổi. Giáo dục cho

các em ý thức tôn trọng và chấp hành nghiêm pháp luật tạo ra nề nếp kỷ luật nghiêm

minh ngay từ trong nhà trường. Làm tốt công tác này giúp cho các em sau này ra đời

không bỡ ngỡ với các quy định của địa phương, chính sách pháp luật của nhà nước,

định hình cho các em ý thức sống và làm việc theo pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa sẽ

hạn chế những cá nhân coi thường, vi phạm pháp luật.

Qua nghiên cứu ta cũng thấy nhiều đối tượng khi vấp phải những khó khăn

trong cuộc sống đã không tự mình đứng dạy tiếp tục phấn đấu mà thường buông xuôi,

bỏ mặc cho số phận mà bị lôi kéo đi vào con đường phạm pháp. Như vậy giáo dục kỹ

năng sống là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường hiện nay. Bên cạnh

nhà trường thì các đoàn thể như đoàn thanh niên, các câu lạc bộ, hội phụ huynh …

chính là nơi dạy bảo các em các kỹ năng sống tốt nhất.

Thứ năm, trong thời đại công nghệ 4.0 thì nhà trường cũng ứng công nghệ thông

tin vào giảng dạy, các em học sinh cũng tiếp xúc với internet, mạng xã hội ngay từ

sớm. Các em dễ ảnh hưởng, dễ bị lôi kéo bởi các hiện tượng trên mạng xã hội. Do vậy

Bộ giáo dục và đào tạo nên phối hợp với các cơ quan truyền thông, cơ quan an ninh

mạng để kịp thời ngăn chăn các hiện tượng xã hội trên mạng có thể ảnh ảnh trực tiếp

đến các em như clip đánh bạn, chửi thầy đánh cô, các clip làm ảnh hưởng đến uy tín

của thầy cô giáo ... Nhưng cần nhìn nhận, thời đại công nghệ 4.0 cũng là cơ hội lớn để

phát triển nền giáo dục, phát triển công nghệ hiện đại. Vì vậy, bên cạnh việc ngăn chặn

thì trước hết trên lớp học thầy cô giáo hãy hướng dẫn cho các em cách thức tiếp cận,

thu nhận và xử lý các thông tin trên mạng một cách tốt nhất.

65

Như vậy, việc xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, nâng cao chất

lượng về mọi mặt của Nhà trường trên địa bàn huyện Củ Chi chính là cở sở để nâng

cao việc nuôi dưỡng, đào tạo ra nhiều công dân tốt cho xã hội nói chung cho địa bàn

Củ Chi nói riêng. Đào tạo ra nhiều công dân tốt cũng có nghĩa là đang làm giảm số

lượng cá nhân có đặc điểm nhân thân xấu nổi trội.

3.2.1.3. Hạn chế những tác động tiêu cực trong môi trường bạn bè

Có thể nói, sau môi trường gia đình, môi trường bạn bè có ảnh hưởng nhất đến

sự hình thành các đặc điểm nhân thân ở mỗi các nhân, nhất là những người sống trong

hoàn cảnh gia đình khuyết thiếu, trẻ em lang thang. Bất cứ ai, bất cứ lứa tuổi nào đều

có một số lượng mối quan hệ bạn bè nhất định (dù ít hay nhiều), do đó muốn hạn chế

những tác động tiêu cực từ môi trường bạn bè đến sự hình thành các đặc điểm nhân

thân tiêu cực cho con cái thì cha mẹ cần:

- Dành thời gian quan tâm, tìm hiểu nhiều hơn nữa xem con chơi với bạn nào,

tính cách, gia đình của bạn đó ra sao? Đó là cơ sở để cha mẹ có thể kiểm soát, uốn nắn,

nhắc nhở con kịp thời. Trong đó sự phối hợp, liên lạc giữa nhà trường là kênh thông tin

tốt nhất để cha mẹ biết học hành ra sao, chơi với bạn nào? Bạn tốt hay xấu?

- Luôn ủng hộ, cổ vũ, động viên con em mình tham gia những phong trào, hoạt

động ngoại khóa của nhà trường, cũng như các phong trào chung của cộng đồng như

mô hình các câu lạc bộ, đội, nhóm, các hoạt động tình nguyện … để các em giao lưu,

học hỏi, chơi với nhóm bạn bè tích cực trong các hoạt động đó.

- Bên cạnh vai trò là người chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy bảo thì cha mẹ hãy là

“người bạn” tốt nhất cùng quan tâm, chia sẻ, thấu hiểu tâm tư của các em đặc biệt là

các thay đổi về tâm lý lứa tuổi, tâm lý giới tính bởi vì cha mẹ chính là người mà con

cái tin tưởng, cảm thấy an toàn khi nói về các vấn đề đó.

Như vậy, thực hiện tốt các giải pháp trên chính là việc cha mẹ đã tạo ra xung

quanh con em mình nhiều môi trường bạn bè tốt, dần loại bỏ đi các kiểu bạn bè xấu.

Xây dựng môi trường bạn bè tốt sẽ tác động, hình thành ở con em mình nhiều đặc điểm

66

nhân thân tốt nổi trội, đồng thời cũng sẽ loại bỏ sự tiêm nhiễm, ảnh hưởng có thể hình

thành các đặc điểm nhân thân xấu.

3.2.1.4. Hạn chế những tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế - xã hội

Tiếp tục triển khai, thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 05/8/2014

của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm

2016 - 2020; Quyết định số 1956/QĐ-TTg về Đào tạo nghề cho lao động nông thôn

đến năm 2020 giai đoạn 2016 - 2020. Kết luận số 27-KL/TW ngày 02/8/2012 của BCT

(khóa IX) về đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh

vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020. Quyết định

số 6994/QĐ-UB-QLĐT ngày 22/4/1998 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về việc

điều chỉnh quy hoạch huyện Củ Chi đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030. Đặc biệt là

thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội

đại biểu Đảng bộ huyện Củ Chi lần thứ XI đó là:

- Tăng cường thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các cụm, khu công nghiệp.

Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành nghề chế biến thực

phẩm, thủ công mỹ nghệ hướng vào thị trường xuất khẩu, sử dụng lao động và nguồn

nguyên liệu tại đại phương. Đưa các sản phẩm truyền thống ra thị trường thế giới như

bánh tráng, nông sản sấy… Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Người Việt

Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

- Tiếp tục phát triển nông nghiệp theo hướng nông ngiệp đô thị, bền vững, sản

xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Khuyến khích sử dụng các biện pháp sản xuất ứng dụng

công nghệ cao, công nghệ sinh học trên địa bàn huyện.

- Thực hiện tốt các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, chính sách giảm

nghèo, chính sách đối với người có công, chính sách an sinh xã hội. Chú trọng công tác

đào tạo nghề gắn với giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Phấn đấu đến

năm 2020 gải quyết việc làm cho 40.000 lao động trong đó giải quyết việc làm mới cho

67

20.000 lao động. Thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới vì sự

tiến bộ của phụ nữ.

Bên cạnh những giải pháp mang tính chiến lược, vĩ mô trên, thì UBND huyện

Củ Chi cần thực hiện song song các giải pháp cụ thể sau:

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nội dung được quán triệt tại Quyết định số

385/QĐ-UBND ngày 28/01/2019 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về phê duyệt đề

án Chương trình mỗi xã một sản phẩm (gọi tắt Chương trình OCOP) trên địa bàn vùng

nông thôn thành phố đến năm 2020. Chương trình OCOP tập trung vào phát triển các

sản phẩm nông nghiệp chủ lực đã được Thành phố xác định và lựa chọn tại Quyết định

4545/QĐ-UBND của UBND Thành phố ngày 15/10/2018, bao gồm: Rau, hoa cây

kiểng, bò sữa, heo, tôm nước lợ và cá cảnh. Sáu sản phẩm thuộc 6 làng nghề truyền

thống tại Quyết định số 3891/QĐ-UBND của UBND Thành phố ngày 17/7/2013.

Trong đó huyện Củ Chi, tập trung đầu tư phát triển làng nghề đan lát Thái Mỹ, làng

nghề bánh tráng Phú Hòa Đông, làng nghề mành trúc Tân Thông Hội.

- Kết hợp giữa du lịch và tổ chức các gian hàng giới thiệu sản truyền thống của

bà con địa phương (làng nghề đan lát Thái Mỹ, làng nghề bánh tráng Phú Hòa Đồng,

làng nghề mành trúc Tân Thông Hội) bằng việc xây dựng các địa dừng chân cho du

khách nghỉ ngơi, thăm quan và mua sắm như vậy sẽ góp phần quảng bá và tiêu thụ sản

phẩm của bà con. Ngược lại chính việc quan tâm, đầu tư, phát triển các làng nghề

truyền thống sẽ làm phong phú các hình thức du lịch, từ đó thúc đẩy nền du lịch địa

phương phát triển hơn.

- Ngoài 3 làng nghề chủ lực kể trên, trên địa bàn huyện vần còn nhiều ngành

nghề truyền thống nhưng chưa được quan tâm, đầu tư. Nhiều xã vẫn còn ở mức nghèo

so với mặt bằng chung của huyện như các xã An Phú, Phú Mỹ Hưng, Trung Lộc

Thượng hay Phạm Văn Cội. Do đó cần tiếp tục hỗ trợ về vốn, đầu ra sản phẩm, cũng

như đưa khoa học kỹ thuật, tổ chức các mô hình sản xuất mới nhằm phát triển các sản

phẩm truyền thống của địa phương cụ thể như xã Trung Lộc Thượng chuyển từ

68

phương thức trồng rau truyền thống sang mô trồng rau sạch, ứng dụng công nghệ cao

(trồng rau trong nhà kính). Chuyển từ việc chăn nuôi trâu, bò nhỏ lẻ sang hình thức

chăn nuôi trang trại. Xã Nhuận Đức tập trung nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ mới vào

chăn nuôi bò sữa. Hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm (sữa bò), hỗ trợ bà con vốn, khuyến

khích bà con xây dựng các mô hình hợp tác xã chăn nuôi bò sữa, tránh tình trạng nuôi

nhỏ lẻ như hiện nay vừa không đảm bảo năng suất cũng như chất lượng của sản phẩm.

Xã Phạm Văn Cội tiếp tục đầu tư, tìm nguồn ra ổn định cho cây cao su, cũng như có

các chính sách hỗ trợ bà con khi giá mủ cao su bất ổn. Kết hợp với lợi thế địa bàn rộng

(Phạm Văn Cội là một trong những xã có diện tích lớn nhất trong huyện Củ Chi) xây

dựng các mô hình trồng rau sạch như xã Trung Lộc Thượng. Xã Trung An là xã có

nhiều vườn cây ăn trái nhất trong huyện, hiện nay một số gia đình đã tự đứng ra kinh

doanh du lịch nhà vườn (tự bán vé cho khách du lịch thăm quan và thưởng thức trái cây

trong vườn) tuy nhiên lợi nhuận chưa cao, chưa thu hút khách du lịch. Do đó, xây dựng

sự liên kết giữa các nhà vườn với nhau trong việc tổ chức các chuỗi du lịch nhà vườn

(theo mô hình du lịch nhà vườn tại Đà Lạt, Cần Thơ) sẽ tạo nguồn thu nhập lớn, ổn

định cho bà con. Đồng thời kích thích nền du lịch địa phương ngày càng phát triển.

Tiếp tục quy hoạch, xây dựng, quảng bá có chiến lược phát triển có hiệu quả hơn nữa

mô hình khu du lịch Nông Trang Xanh (Green noen) tại xã An Nhơn Tây. Đây là mô

hình du lịch kết hợp với trải nghiệm làm những công việc nông nghiệp đặc trực của bà

con trên địa bàn huyện như: đánh bắt cá, hái nấm, trồng rau, vắt sữa bò, làm bánh tráng

… Từ đó xây dựng và phát triển mô hình này ở các khác trên địa bàn huyện.

- Mở rộng các trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường cập nhật các thông tin

về lao động thất nghiệp, cần tìm việc, các doanh nghiệp cần tuyển lao động… để giúp

họ gặp gỡ trao đổi với nhau, từ đó nắm bắt thông tin, nhu cầu về lao động, việc làm.

Bên cạnh đó cần có những chính sách ưu tiên như hỗ trợ vay vốn, miễn, giảm thuế…

nhằm khuyến khích doanh nghiệp mở rộng cơ hội việc làm cho người lao động, tiếp

69

nhận và đào tạo lao động nghèo, đặc biệt lao động thuộc diện chính sách, người chấp

hành xong hình phạt tù.

- Quản lý chặt chẽ số người đăng ký tạm trú, khách vãng lai, tuyên truyền vận

động các chủ nhà trọ đăng ký tạm trú cho người thuê theo đúng quy định của Nhà nước

để đảm bảo công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu của cơ quan chức năng. Tiếp tục xây

dựng, nhân rộng và đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng các

mô hình khu dân cư, thôn ấp, khu nhà trọ không có tội phạm ẩn náu.

Như vậy, việc thực một cách đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp về phát triển

kinh tế - xã hội trên sẽ giải quyết được các mặt hạn chế của tình hình kinh tế - xã hội vĩ

mô đã được nêu lên trong luận văn: tình trạng đói nghèo, thất nghiệp, thiếu việc làm,

các tệ nạn xã hội, các vấn đề về an sinh xã hội, an ninh trật tự … Giải quyết các hạn

chế trên cũng có nghĩa trên địa bàn huyện Củ Chi nhiều người dân có công ăn việc

làm, nguồn thu nhập ổn định, kinh tế gia đình khá giả hơn, vấn đề an sinh xã hội thực

hiện tốt hơn, chất lượng cuộc sống được cải thiện …. Khi đó, các đặc điểm nhân nhân

thân tiêu cực của người trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi sẽ dần được loại bỏ,

tình hình tội phạm trộm cắp tài sản cũng sẽ giảm đi.

3.2.2. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục để khắc phục, hạn chế những đặc

điểm nhân thân tiêu cực thuộc về con người trên địa bàn huyện Củ Chi

3.2.2.1. Thực hiện tốt công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người mới chấp

hành xong hình phạt tù.

Theo kết quả khảo sát về đặc điểm nhân thân của 167 bị cáo phạm tội trộm cắp

tài sản thì có tới 43 bị cáo có tiền án chiếm 25,75% (Bảng 2.8). Con số này cho thấy tỉ

lệ người phạm tội trở lại sau khi chấp hành xong hình phạt tù là rất lớn. Do vậy chính

quyền địa phương, tổ chức đoàn thể cần có các biện pháp, chính sách hỗ trợ để họ tái

hòa nhập công đồng nhanh nhất, cụ thể:

Với mục tiêu nhằm tạo ra môi trường tốt nhất, điều kiện thuận lợi nhất để những

người đã chấp hành xong án phạt tù có thể tái hòa nhập cộng đồng một cách nhanh

70

nhất. Ở đó điều kiện, hoàn cảnh tích cực của môi trường mới (sự quan tâm về mọi mặt

của chính quyền địa phương, sự đùm bọc, sẻ chia của gia đình, cộng đồng dân cư, sự

hỗ trợ của tác tổ chức xã hội, các doanh nghiệp …) sẽ tác động đến quá trình tự loại bỏ

những đặc điểm nhân thân tiêu cực, hình thành ngày càng nhiều hơn những đặc điểm

nhân thân tốt trong những con người vừa mới chấp hành xong án phạt tù. Để xây dựng

được môi trường ấy thì vai trò, tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm của chính quyền địa

phương, các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và gia đình chính là yếu tố quyết định.

Do đó, để làm được mục tiêu trên cần:

- Tiếp tục triển khai, thực hiện tốt Nghi định số 80/2011/NĐ-CP, ngày

16/09/2011 của Chính phủ Quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng

đối với người chấp hành xong án phạt tù. Chỉ thị số 33/CT-TTg, ngày 5/12/2018 của

Thủ tướng Chính phủ Về tăng cường các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng

đối với người chấp hành xong án phạt tù.

- Cơ quan quản lý lập danh sách theo dõi, quản lý những người mới chấp hành

xong hình phạt tù. Có những chính sách hỗ trợ ban đầu về kinh tế, tạo công ăn việc làm

để họ có thể tự nuôi sống bản thân và gia đình họ. Đồng thời qua công tác quản lý kịp

thời phát hiện ra các trường hợp có dấu hiệu phạm tội trở lại để ngăn chặn kịp thời.

- Cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội phải tuyên truyền cho nhân dân hiểu,

đùm bọc tạo mọi điều kiện tốt nhất để người từng lầm lỡ có thể tái hòa nhập cộng đồng

nhanh nhất, tránh tư tưởng định kiến, kỳ thị họ vì như vậy sẽ càng đẩy họ rời xa cộng

đồng hơn, càng đẩy họ gần với con đường phạm tội.

- Các doanh nghiệp địa phương, đặc biệt các doanh nghiệp có vốn nhà nước, các

công ty của các tổ chức xã hội cần tạo mọi điều kiện, có chính sách ưu tiên hơn nữa

trong việc tiếp nhận, bố trí việc làm cho những người này. Đồng thời chính quyền địa

phương cũng phải có các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đang làm tốt nhiệm

vụ này. Đặc biệt, khi cho phép các công ty, doanh nghiệp được hoạt động trên địa bàn

thì UBND huyện Củ Chi phải yêu cầu họ có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động xã hội

71

trong đó có chỉ tiêu tiếp nhận người sau khi chấp hành xong án phạt tù vào làm ở công

ty, doanh nghiệp của họ như một tiêu chí bắt buộc.

- Tuy nhiên, muốn công tác tái hòa nhập cộng đồng của những người sau khi

chấp hành án phạt tù được tốt, thì làm tốt công tác giáo dục, cải tạo người đang chấp

hành án phạt tù đặc biệt là tốt công tác giáo dục văn hóa, xóa mù chữ, dạy nghề có một

vai trò vô cùng quan trọng. Vì qua khảo sát ta thấy có tới 13,77% bị cáo là người

không biết chữ, 66,47% bị cáo có trình độ văn hóa thấp (Theo số liệu bảng 2.6) và có

tới 82,04% bị cáo là người không có nghề nghiệp hoặc nghề nghiệp không ổn định

(Theo số liệu bảng 2.7). Do đó, căn cứ theo Điều 28 của Luật thi hành án hình sự 2010,

tinh thần cốt lõi của Nghi định số 80/2011/NĐ-CP, ngày 16/09/2011 của Chính phủ

Quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong

án phạt tù. Thì làm tốt công tác trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người sau khi

chấp hành xong án phạt tù có thể tái hòa nhập công đồng một cách tốt nhất.

Như vậy, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp địa

phương, cộng đồng dân cư và gia đình có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp đỡ

người sau khi chấp hành xong án phạt tù có thể tái hòa nhập cộng đồng. Tái hòa nhập

cộng đồng tốt đó chính là quá trình dần xóa bỏ đi các đặc điểm nhân thân xấu, hình

thành nhiều hơn các đặc điểm nhân thân tốt nổi trội ở những người đã từng lầm lỡ

phạm tội. Làm tốt công tác tái hòa nhập cộng đồng cũng chính là đang hạn chế đến

mức thấp nhất những người chấp hành xong án phạt tù có thể phạm tội trở lại.

3.2.2.2. Tổ chức các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa chung

Khác với các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ, thường gắn với một cơ quan

chức năng nhất định và thường đề cao vai trò của các cơ quan ấy trong công tác phòng

ngừa tội phạm. Các biện pháp phòng ngừa chung gắn với việc giải quyết các nhiệm vụ

chung của xã hội. Các biện pháp phòng ngừa chung hướng tới phòng ngừa tội phạm từ

gốc, chính trong quá trình xây dựng và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội đã làm

hạn chế, tiến tới xóa bỏ các nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm. Các biện

72

pháp phòng ngừa chung luôn gắn liền với từng nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động của các

cơ quan nhà nước như: phát triển kinh tế, quản lý xã hội, quản lý văn hóa, hoạt động

giáo dục, ...

Muốn thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa chung cần khai thác triệt để các

đặc điểm nhân thân tiêu cực nổi trội của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã phân tích tại chương 2 để xây dựng nội

dung, lựa chọn các biện pháp phòng ngừa một các có hiệu quả như:

- Đặc điểm nhân thân về giới tính, hầu hết người phạm tội trộm cắp tài sản là

nam giới từ đó chính quyền và các cơ quan chức năng cần tăng cường các biện pháp

phòng ngừa chung như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục kiến thức pháp luật cho người

dân về đặc điểm tâm sinh lý của nam giới có ảnh hưởng như thế nào đối với cơ chế

hình thành hành vi phạm tội. Từ đó mỗi gia đình có có phương pháp quản lý giáo dục

con em mình cho phù hợp nhất là nam giới.

- Đặc điểm nhân thân về trình độ học vấn, đa số người phạm tội có trình độ học

vấn thấp. Trong đó người mù chữ còn chiếm tỉ lệ cao so với các địa phương khác do đó

cần làm tốt biện pháp quản lý giáo dục, không chỉ tập chung xóa mù chữ cho trẻ em mà

còn xóa mù chữ cho các đối tượng thuộc các lứa tuổi lớn hơn. Muốn làm được việc này

thì hệ thống giáo dục phổ thông là không đủ cần mở ra nhiều trung tâm giáo dục

thường xuyên để bổ túc văn hóa cho những đã qua tuổi học tập phổ thông. Bên cạnh đó

cần mở nhiều lớp học bổ túc văn hóa cho các đối tượng đang chấp hành án phạt tù

trong các trại giam, với mục tiêu sau khi ra ngoài xã hội họ tự tin với trình độ học vấn

của mình, tự tin hòa nhập lại với xã hội. Mặt khác chính hạn chế về trình độ học vấn

nên sự hiểu biết pháp luật của họ cũng hạn chế do đó bên cạnh dạy chữ cần kết hợp

tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho họ hiểu những việc nào họ làm có thể vi phạm

pháp luật từ đó giúp họ tránh xa.

- Đặc điểm nhân thân về nghề nghiệp cho thấy những người phạm tội trộm cắp

tài sản đa phần là người không có công ăn việc làm hay việc làm không ổn định, thu

73

nhập thấp. Từ đặc điểm đó chính quyền địa phương có các chính sách về phát triển

kinh tế - xã hội hợp lý, tạo công ăn việc làm ngày càng nhiều cho xã hội. Có các yêu

cầu bắt buộc cho các công ty khi đến địa phương đầu tư phải có các chính sách ưu tiên

tuyển dụng cho người địa phương. Phát huy kinh tế vùng miền dựa vào thế mạnh của

từng vùng, nhằm tạo ra nhiều công ăn việc làm tại chỗ cho nhân dân. Mặt khác cũng

như đề cập ở trên nhằm hạn chế tỉ lệ tái phạm do không có nghề nghiệp thì phát huy

vai trò dạy nghề, hướng nghiệp cho các đối trượng đang chấp hành án phạt tù trong các

trại giam là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Đồng thời tuyên truyền cho người dân

hiểu việc học tập nâng cao trình độ cũng như việc học một cái nghề cho mỗi người

quan trọng như thế nào đến tương lai của chính họ.

- Đặc điểm nhân thân về độ tuổi, ta thấy rằng mỗi độ tuổi khác nhau có các đặc

điểm tâm sinh lý khác nhau. Do đó, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần phải

dựa vào độ tuổi để có phương pháp tuyên truyền cho cụ thể: trẻ em trong nhà trường

thì hoạt động tuyên truyền gắn với các trò chơi, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật

thì các em mới dễ tiếp thu và nhiệt tình tham gia. Với người thành niên, người lớn tuổi,

phụ huynh khi tuyên truyền pháp luật cần nhấn mạnh vai trò của gia đình, của người

lớn tác động đến nhận thức và hành động của con em họ như thế nào, từ đó kêu gọi họ

hãy chấp hành pháp luật tốt để làm gương cho con em họ học tập.

- Đặc điểm nhân thân về hoàn cảnh gia đình, kết quả thống kê cho thấy đa số

người phạm tội trộm cắp tài sản đều thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế.

Do đó chính quyền địa phương cần có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ vay vốn cho các hộ

gia đình nghèo, gia đình khó khăn nhằm giúp họ phát triển kinh tế.

Như vậy, thông qua các đặc điểm nổi bật về đặc điểm nhân thân của những

người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi mà chính quyền địa

phương, các cơ quan chức năng có thể có xây dựng các nội dung tuyên truyền, giáo

dục pháp luật, phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả nhất.

3.2.2.3. Tổ chức, triển khai các biện pháp phòng ngừa riêng

74

Các biện pháp phòng ngừa riêng (còn gọi là các biện pháp phòng ngừa nghiệp

vụ) là những biện pháp mang tính đặc trưng chuyên môn gắn liền với chức năng,

nhiệm vụ của từng ngành cụ thể như công an, viện kiển sát, tòa án.

- Đối với ngành công an các biện pháp quản lý nghiệp vụ hướng đến từng con

người cụ thể có nguy cơ thực hiện tội phạm (những người có đặc điểm nhân thân xấu

nổi trội: có tiền án, tiền sự, nghiện hút ma túy, cờ bạc…) nhằm ngăn chặn hoạt động

phạm tội của họ. Thông qua công tác điều tra cơ bản, quản lý nghiệp vụ cơ quan công

an nắm bắt được các đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật, các đối tượng nghiện

hút, các đối tượng lang thang, thất nghiệp hay tụ tập băng nhóm ăn chơi … có dấu hiệu

có thể thực hiện các tội về xâm phạm sở hữu và đặc biệt là trộm cắp tài sản để từ đó cơ

quan công an có các biện pháp gặp gỡ, giáo dục trực tiếp nhằm ngăn chặn ngay việc họ

có thể thực hiện hành vi phạm tội. Làm tốt công tác điều tra, xử lý đúng người đúng tội

cũng là một biện pháp mang tính răn đe, phòng ngừa những đối tượng khác có ý định

phạm tội nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Thông qua công tác quản lý

nghiệp vụ của mình, lực lượng công an nắm bắt được các phương thức, thủ đoạn hoạt

động của các đối tượng phạm tội cũng như các sơ hở, thiếu sót trong quá trình quản lý

tài tản của người dân. Đó chính là nguồn tài liệu thực tế, cụ thể để tuyên truyền đến

nhân dân trong việc bảo vệ tài sản của mình. Nhân dân bảo vệ tài sản tốt cũng có nghĩa

cơ hội để các đối tượng có ý định trộm cắp tài sản ít có khả năng thực hiện hơn. Bên

cạnh đó có một thực tế số lượng vụ trộm cắp tài sản xảy trên địa bàn xảy ra nhiều

nhưng số lượng người dân đến trình báo với cơ quan chức năng còn ít. Do đó làm tốt

công tác xử lý tin báo (nhanh chóng, kịp thời), điều tra khám phá tội phạm đến cùng sẽ

góp phần phòng ngừa tội phạm kịp thời, quan trọng hơn là tạo niềm tin tốt để người

dân chủ động hơn trong việc cung cấp nhiều thông tin liên quan đến tình hình an ninh

trật tự chung trên địa bàn.

- Đối với Viện kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm

sát hoạt động điều tra, xét xử đảm bảo tỷ lệ giải quyết vụ án trộm cắp tài sản trên 80%

75

sẽ góp phần nâng cao tính răn đe, phòng ngừa các đối tượng khác có ý định thực hiện

hành vi trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan

chức năng trong công tác tuyên truyền pháp luật cho nhân dân.

- Đối với Tòa án đảm bảo hoạt động xét xử cần xem xét đến các đặc điểm nhân

thân của bị cáo để đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội tránh oan sai, góp phần

giáo dục, phòng ngừa tội phạm mới xảy ra. Khôi phục lại hình thức xét xử lưu động,

cũng như đưa tin trên các kênh thông tin đại chúng các vụ án điển hình, vụ án được dư

luận quan tâm để công tác phòng ngừa tội phạm được kịp thời, mang tính răn đe cao.

Tóm lại, biện pháp phòng ngừa riêng là việc các cơ quan chức năng có thẩm

quyền có thể khai thác các tài liệu quản lý nhân thân của công dân, từ đó phát hiện ra

các đối tượng có các đặc điểm nhân thân tiêu cực nổi trội, các đối tượng có các biểu

hiện có khả năng vi phạm pháp luật cao. Qua đó có các biện pháp ngăn chặn họ thực

hiện tội phạm cũng như tuyên truyền, giáo dục họ thấy được hậu quả họ có thể phải

nhận nếu họ thực hiện hành vi phạm tội mà từ bỏ ý định phạm tội.

Kết luận chương 3

Tóm lại, trong chương 3 tác giả đã đưa ra những dự báo, cũng như phân tích về

các yếu tố tiêu cực tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của người

phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng

thời qua đó tác giả đã đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực

từ môi trường gia đình, môi trường giáo dục, những tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị

trường, môi trường văn hóa, xã hội, các biện pháp hạn chế, khắc phục những thiếu sót

từ đặc điểm nhân thân người phạm tội ... nhằm loại bỏ các nguyên nhân hình thành các

đặc điểm nhân thân xấu, hình thành và phát triển các đặc điểm nhân thân tốt. Bên cạnh

đó tác giả đã nêu lên một số đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần tăng cường phòng ngừa

tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian tới.

76

KẾT LUẬN

Xác định công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm là một nhiệm vụ vô cùng

khó khăn, phức tạp là hoạt động thường xuyên liên tục có tính lâu dài, là trách nhiệm

chung của toàn xã hội. Do đó với mong muốn tìm ra giải pháp phù hợp nhằm loại bỏ

và triệt tiêu nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ

Chi trong thời gian tới, trong nội dung luận văn tác giả đã nghiên cứu một cách toàn

diện về nhân thân nhân người phạm tội trên địa bàn huyện trong giai đoạn từ năm 2015

đến năm 2019.

Về mặt lý luận, tác giả đã phân tích và thống nhất được một số vấn đề lý luận về

nhân thân người phạm tội như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc nghiên cứu về

nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản. Đồng thời tác giả đã chỉ ra được các đặc

điểm về nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản cũng như đã nêu ra được các yếu tố

khách quan, chủ quan tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của

người phạm tội.

Về mặt thực tiễn, nội dung luận văn đã làm rõ các đặc điểm nhân thân của người

phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi và các yếu tố tác động lên sự hình

thành nhân thân ấy của người phạm tội trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, qua

đó xác định được mối liên hệ chặt chẽ giữa nhân thân người phạm tội với các yếu tố

thuộc về môi trường khách quan và các yêu tố thuộc về chủ thể của người phạm tội.

Đồng thời luận văn cũng đã đưa ra dự báo về biến động của các yếu tố thuộc về môi

trường và sự tác động của những thay đổi đó đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân

người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian tới. Từ cơ sở đó tác giả đã

đưa ra các giải pháp, đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu của công tác quả phòng

ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian tới.

Có thể nói rằng, với kết quả nghiên cứu nêu trên, luận văn đã đạt được mục tiêu

nghiên cứu đề ra ban đầu và hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ góp một phần nhỏ vào cơ

77

sở lý luận, cũng như thực tiễn về những nội dung liên quan đến nhân thân người phạm

tội trộm căp tài sản nói riêng và tội phạm nói chung.

Luận văn đã được tác giả nghiên cứu một cách nghiêm túc trên cơ sở lý luận của

kiến thức học tập tại Học viện và kinh nghiệm thực tiễn từ quá trình công tác. Đặc biệt

là sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng của huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh,

lãnh đạo, giảng viên Học viện khoa học xã hội, và thầy hướng dẫn khoa học. Tuy nhiên

với khả năng và kinh nghiệm nghiên cứu của học viên còn hạn chế nên trong quá trình

nghiên cứu và hoàn thiện luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế nhất

định, tác giả rất mong được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, thầy cô giáo,

đồng nghiệp, bạn bè và những người quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn.

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49/NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2010) Chỉ thị số 48-CT/TW quy định về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ban hành ngày

22/10/2010, Hà Nội;

3. Bộ Chính trị (2012) Kết luận số 27-KL/TW của BCT (khóa IX) về đẩy mạnh

phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ và vùng

kinh tế trọng điểm phía nam đến năm 2020, ban hành ngày 02/8/2012, Hà Nội;

4. Bộ Chính trị (2012) Nghị quyết 15-NQ-TW Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp

hành Trung ương khóa XI về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, ban hành ngày

10/6/2012, Hà Nội;

5. Nguyễn Văn Cảnh (chủ biên) (2016) Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội;

6. C. Mác – Ph.Anghen, Toàn tập (1995), tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật;

7. Chính phủ (2014) Chỉ thị số 22/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc xây

dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020, ban hành ngày 05/8/2014,

Hà Nội;

8. Chính phủ (2009) Quyết định 1956/QĐ-TTg về “Đào tạo nghề cho lao động

nông thôn đến năm 2020” giai đoạn 2016-2020, ban hành ngày 27/11/2009, Hà Nội;

9. Chính phủ (2014) Quyết định số 2324/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về

việc phê duyệt Đề án tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận phương pháp đo

lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020”, ban hành

ngày 19/12/2014, Hà Nội;

10. Chính phủ (2016) Nghị quyết số 19 -2016/NQ - CP của Chính phủ về những

nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh

tranh quốc gia năm 2016 - 2017, định hướng đến năm 2020, ban hành ngày 28/4/2016,

Hà Nội;

11. Chính phủ (2016)Nghị quyết số 35/NQ - CP của Chính phủ về hỗ trợ và

phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, ban hành ngày 16/5/2016, Hà Nội;

12. Ban thường vụ thành ủy TP. Hồ Chí Minh (2007) Chỉ thị số 05- CT/TU về

tăng cường lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn TP. Hồ

Chí Minh, ban hành ngày 12/7/2007, TP.HCM;

13. Công an huyện Củ Chi (2015 – 2019), Báo cáo tổng kết năm, ban hành vào

các năm từ 2015 – 2019, Củ Chi;

14. Đại học Cảnh sát nhân dân (2010), Đề cương bài giảng Tội phạm tội, Bộ

môn Nghiệp vụ cơ sở, TP.HCM;

15. Đại học Luật Hà Nội (2004) Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội;

16. Đại học Luật Hà Nội (2015) Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội;

17. Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp

luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

18. Đại học Luật TP. HCM (2019), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần

chung, Nxb Hồng Đức, TP. HCM;

19. Huyện ủy Củ Chi (2015), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ

huyện Củ Chi lần thứ XI (nhiệm kỳ 2015 -2020), ban hành năm 2015;

20. Hội đồng nhân dân huyện Củ Chi (2015 – 2019), Nghị quyết về nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, Huyện Củ Chi;

21. Nguyễn Vinh Huy (2019), Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm,

danh dự của con người từ thực tiễn các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Luận án tiến sĩ luật

học, Học viên Khoa học xã hội, Hà Nội;

22. Quốc hội (2009) Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự nước cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, ban hành ngày 19/6/2009, Hà Nội;

23. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2015, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội;

24. Quốc hội (2017) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự nước

cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, ban hành ngày 20/6/2017, Hà Nội;

25. Quốc hội (2015) Bộ luật dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2015, ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội;

26. Quốc hội (2014 )Nghị định 76/2014/QH13, kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa

XIII, ngày 24/6/2014, Hà Nội;

27. TAND Tối cao (2018) Nghị quyết 01/2018/NQ-HĐTP, Hướng dẫn áp dụng

Điều 66 và 106 Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện, ngày 24/4/2018,

Hà Nội;

28. TAND huyện Củ Chi (2015 -2018 ) Báo cáo tổng kết các năm 2015, 2016,

2017, 2018, 2019, TP.HCM;

29. Nguyễn Đức Thảo (2016), Đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản trên địa

bàn TPHCM, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội;

30. Trần Hữu Tráng (2010), Bàn về nguyên nhân tội phạm học, Tạp chí Luật

học, (số 11), tr. 43-51;

31. Trần Hữu Tráng (2011) Nạn nhân của tội phạm, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội;

32. UBND Thành phố Hồ Chí Minh (1998) Quết định 6994/QĐ-UB-QLĐT về

việc điều chỉnh quy hoạch huyện Củ Chi đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, ban

hành ngày 24/12/1998, TP. HCM;

33. UBND huyện Củ Chi (2015 – 2019), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội,

quốc phòng – an ninh các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, Huyện Củ Chi.

34. UBND huyện Củ Chi (2020), Báo cáo Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh gai đoạn 2015 - 2020, Huyện Củ Chi;

35. Viện kiểm sát nhân dân Thống kê tội phạm hình sự năm 2015, 2016, 2017,

2018, 2019, TP. HCM;

36. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế;

37. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội;

38. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội;

39. Trịnh Tiến Việt (2003), Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc

khi quyết định hình phạt, Tạp chí kiểm sát, số 1/2003;

40. Nguyễn Như Ý (1999) Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội;

41. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội;

PHỤ LỤC Bảng 2.1. Thống kê án hình sự đã xét xử và án trộm cắp tài sản.

Tội phạm chung

Tội trộm cắp tài sản

Tỉ lệ (%)

Năm

Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo

2015

212

310

30,19

26,77

83

64

2016

201

301

25,37

20,27

61

51

2017

187

279

24,60

21,15

59

46

19*

31*

2018

214

309

19,63

21,36

35

23

4*

3*

2019

194

292

20,10

19,52

53

36

Tổng

1008

1491

242

326

24,01

21,86

(*)Xét xử sơ thẩm theo điều 138 – BLHS năm 1999

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh (Từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.2. Thống kê án hình sự đã xét xử về tội trộm cắp tài sản so với nhóm tội xâm phạm sở hữu (XPSH).

Nhóm tội XPSH

Tội trộm cắp tài sản

Tỉ lệ (%)

Năm

Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo

99

123

64,65

67,48

83

64

2015

78

105

65,38

58,10

61

51

2016

68

102

67,65

57,84

59

46

2017

74

107

56,76

61,68

66

42

2018

61

88

63,93

64,77

57

39

2019

380

525

63,68

62,10

242

326

Tổng

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh (Từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.3. Kết quả điều tra phá án các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi.

Khởi tố điều tra

Xét xử sơ thẩm

Năm

Tỉ lệ Điều tra phá án (%)

Số vụ

Bị can

Số vụ

Bị cáo

2015

179

96

64

83

35,15

2016

122

68

51

61

41,80

2017

136

48

46

59

33,82

2018

192

75

42

66

21,88

2019

149

57

39

57

26,17

Tổng

778

31,11

344

242

326

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh (Từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.4. Cơ cấu tinh hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo độ tuổi của người phạm tội.

Độ tuổi của bị cáo

Năm

Dưới 18 tuổi

Trên 45 tuổi

Số bị cáo đã xét xử sơ thẩm

Từ 18 đến dưới 30 tuổi

Từ 30 đến dưới 45 tuổi

2015

83

9

47

27

0

2016

61

11

33

17

0

2017

59

7

41

10

1

8

29

26

3

2018

66

2

25

28

2

2019

57

6

37

175

108

Tổng

326

11,35

53,68

33,13

1,84

Tỉ lệ (%)

100

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh (Từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.5. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo giới tính của người phạm tội

Giới tính

Tỉ lệ (%)

Năm

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Số bị cáo đã xét xử sơ thẩm

83

2015

83

0

100

0

61

2016

61

0

100

0

59

2017

55

4

93,22

6,78

66

2018

63

3

95,45

4,55

57

2019

53

4

92,98

7,02

Tổng

96,63

3,37

326

315

11

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh (Từ năm 2015 đến năm 2019)

Bảng 2.6. Cơ cấu tình hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo trình độ học vấn của người phạm tội

Trình độ học vấn của bị cáo

Năm

Số vụ án

Số bị cáo

Không biết chữ

Tiểu học, trung học cơ sở

Trung học phổ thông

Cao đẳng, đại học trở

2015

25

32

4

23

5

0

2016

25

30

3

21

4

2

2017

25

32

5

21

6

0

2018

25

39

7

22

9

1

2019

25

34

4

24

6

0

3

Tổng

100

167

23

111

30

Tỉ lệ(%)

100

13,77

66,47

17,96

1,80

Nguồn: Tổng hợp từ 100 vụ án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.7. Cơ cấu tinh hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo nghề nghiệp của người phạm tội

Nghề nghiệp

Năm

Số vụ án

Số bị cáo

Không nghề nhiệp

Không ổn định

Ổn định

2015

25

32

10

3

19

2016

25

30

7

7

16

2017

25

32

8

9

15

2018

25

39

9

7

23

2019

25

34

9

4

21

Tổng

100

167

43

30

94

100

25,75

17,96

Tỉ lệ(%)

56,29

Nguồn: Tổng hợp từ 100 vụ án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.8. Cơ cấu tinh hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo đặc điểm pháp lý hình sự (PLHS) của người phạm tội

Tổng số bị cáo

Đặc điểm PLHS

Số lượng

Tỉ lệ (%)

Có tiền sự

18

10,78

167

Có tiền án

43

25,75

Phạm tội lần đầu

106

63,47

Tổng

167

100

Nguồn: Tổng hợp từ 100 vụ án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.9. Cơ cấu tinh hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo thói quen, sở thích của người phạm tội

Tổng số bị cáo

Thói quen, sở thích *

Số bị cáo

Tỉ lệ (%)

Thích hưởng thụ, lười lao động

107

64,07

Cờ bạc

94

56,29

167

Nghiện ma túy

59

35,33

Nghiện games

43

25,75

54

32,34

Thích tụ tập chơi bời, ăn nhậu

(*) Một bị cáo có thể có một hoặc nhiều thói quen sở thích khác nhau. Nguồn: Tổng hợp từ 100 vụ án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.10. Cơ cấu tinh hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo hoàn cảnh gia đình của người phạm tội

Hoàn cảnh gia đình

Tổng số bị cáo

Số bị cáo

Tỉ lệ (%)

Gia đình khuyết thiếu

15

8,98

Gia đình có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế

90

53,89

Gia đình có người thân vi phạm pháp luật hình sự

25

14,97

167

14

8,39

Gia đình không hạnh phúc, thường xuyên đánh chửi nhau (Vợ chồng đánh nhau, bố mẹ đánh con)

Loại gia đình khác (*)

23

13,77

Tổng

167

100

(*) Đây là những gia đình mà bố mẹ thiếu hoặc ít quan tâm con cái có thể vì quá tập chung vào kinh tế, bố mẹ quá nghiêm khắc, thiếu kỹ năng nuôi dạy con … Nguồn: Tổng hợp từ 100 vụ án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.11. Cơ cấu tinh hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2015 đến năm 2019 xét theo động cơ, mục đích của người phạm tội

Động cơ, mục đích

Số bị cáo

Tổng số bị cáo

Tỉ lệ (%)

Thỏa mãn nhu cầu ăn chơi của cá nhân

54

32,34

167

Vụ lợi, vì lợi ích kinh tế

107

64,07

Động cơ khác (thói quen xấu, trả thù …)

06

3,59

Tổng

167

100

Nguồn: Tổng hợp từ 100 vụ án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.12. Thống kê đối tượng của các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Củ Chi

Đối tượng

Số vụ

Tỉ lệ (%)

Xe máy

57

57

Xe máy và tài sản khác

24

24

Tài sản khác

19

19

Tổng

100

100

Nguồn: Tổng hợp từ 100 vụ án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.13. Thống kê thời gian gây án của các vụ trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn Huyện Củ Chi.

Thời gian gây án

Số vụ

Tỉ lệ (%)

Từ 1-6

56

56

Từ 7-12

6

6

Từ 13-18

10

10

Từ 19-24

28

28

Tổng

100

100

Nguồn: Tổng hợp từ 100 vụ án trộm cắp tài sản từ năm 2015 đến năm 2019

Bảng 2.14. Thống kê chế tài đã áp dụng đối với các bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Huyện Củ Chi.

Chế tài áp dụng

Số bị cáo

Tỉ lệ (%)

Phạt cảnh cáo, phạt tiền

0

0

Án treo, cải tạo không giam giữ

24

7,36

Dưới 03 năm tù

59

18,10

Từ 03 năm đến dưới 07 năm tù

214

65,64

Từ 07 năm đến dưới 15 năm tù

29

8,9

Trên 15 năm tù

0

0

Tổng

326

100

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của Viện kiểm sát nhân dân TP.HCM (Từ năm 2015 đến năm 2019)