ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THANH PHƢỢNG
NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA NGƢỜI CHUYỂN GIỚI
VỀ QUYỀN CHUYỂN GIỚI TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Xã hội học
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THANH PHƢỢNG
NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA NGƢỜI CHUYỂN GIỚI
VỀ QUYỀN CHUYỂN GIỚI TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa
Hà Nội - 2016 2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài ……………………………………………. 6 1.
Tổng quan vấn đề nghiên cứu ……………………………….. 7 2.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………. 17 3.
Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu …………………. 17 4.
Câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu ……………………………… 18 5.
Phƣơng pháp nghiên cứu ……………………………………. 19 6.
Hạn chế của nghiên cứu ……………………………………… 20 7.
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn ………………………… 21 8.
Khung phân tích ………………………………………………. 22 9
NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 23
1.1 Khái niệm công cụ của đề tài………………………………… 23
1.1.1. Nhận thức……………………………………………… 23
1.1.2. Thái độ………………………………………………… 24
1.1.3. Ngƣời chuyển giới…………………………………….. 25
1.1.4. Một số khái niệm liên quan…………………………… 27
1.2 Cơ sở lý thuyết……………………………………………….. 29
1.2.1. Lý thuyết xã hội hóa vai trò giới……………………… 29
1.2.2. Lý thuyết tƣơng tác biểu trƣng của H.Mead và Blumer 31
1.2.3. Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý………………………….. 32
1.3 Cơ sở thực tiễn của đề tài …………………………………….. 33
1.3.1. Sơ lƣợc về cộng đồng chuyển giới tại Việt Nam…………… 33
1.3.2. Một số văn bản pháp luật liên quan đến ngƣời chuyển giới 36 tại Việt Nam …………………………………………………….
1.3.3. Một số kinh nghiệm quốc tế liên quan tới ngƣời chuyển giới 39
3
CHƢƠNG2: NHẬN THỨC CỦA NGƢỜI CHUYỂN GIỚI VỀ QUYỀN 43
CHUYỂN GIỚI TẠI VIỆT NAM
Nhận thức về quyền của ngƣời chuyển giới tại Việt Nam khi Luật 43 2.1 Dân sự sửa đổi chƣa đƣợc thi hành
2.1.1. Quá trình nhận thức về bản dạng giới ……………………… 43
2.1.2. Thay đổi tên gọi, giới tính và giấy tờ tùy thân ……………. 45
2.1.3. Công nhận hôn nhân và các quyền lợi nhân thân khác …… 49
Nhận thức về quyền của ngƣời chuyển giới tại Việt Nam sau khi 52 2.2 Luật Dân sự đƣợc thực hiện từ 01/01/2017
2.2.1. Thay đổi tên gọi, giới tính và giấy tờ tùy thân …………… 52
2.2.2. Công nhận hôn nhân và các quyền lợi nhân thân khác ….. 55
Các kênh thông tin ảnh hƣởng tới nhận thức của ngƣời chuyển giới 56 2.3 về quyền chuyển giới
2.3.1. Không gian mạng cho ngƣời chuyển giới ………………….. 56
2.3.2. Các Câu lạc bộ, tổ chức và nhóm tự lực dành cho ngƣời 59 đồng tính và chuyển giới ………………………………………….
2.3.3. Các phƣơng tiện truyền thông đại chúng ………………….. 61
CHƢƠNG 3: THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI CỦA NGƢỜI CHUYỂN GIỚI 65 ĐỐI VỚI QUYỀN CHUYỂN GIỚI TẠI VIỆT NAM
Thái độ và hành vi của ngƣời chuyển giới trƣớc khi quyền chuyển 3.1. 65 giới đƣợc Luật công nhận tại Việt Nam ………………………….
3.1.1. Sống và thể hiện đúng là mình theo khuôn mẫu giới …….. 65
3.1.2. Đƣơng đầu với những thách thức của ngƣời chuyển giới…. 67
3.1.2.1. Kỳ thị và phân biệt đối xử ………………………………. 68
3.1.2.2. Khó khăn trong cơ hội việc làm ………………………… 74
3.1.2.3. Những vấp váp trong tình yêu …………………………… 76
3.1.2.4. Rủi ro về sức khỏe ……………………………………….. 77
3.1.3. Quyết định phẫu thuật ……………………………………… 80
4
Thái độ và hành vi của ngƣời chuyển giới sau khi Luật Dân sự sửa 83 3.2. đổi đƣợc thi hành (01/01/2017)
3.2.1. Quyết định công khai bản dạng giới ……………………….. 84
3.2.2. Quyết định phẫu thuật chuyển đổi giới tính ……………….. 86
Mức độ ảnh hƣởng của việc công nhận quyền chuyển giới tại Việt 90 3.3. Nam tới các nhóm chuyển giới
KẾT LUẬN 94
KHUYẾN NGHỊ 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Trung tâm sáng kiên Sức khỏe và Dân số CCIHP
Câu lạc bộ CLB
Bộc lộ bản dạng giới/xu hƣớng tình dục Come out
Trung tâm ứng dụng khoa học về Giới – Gia đình – Phụ nữ CSAGA
và Vị thành niên
Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trƣờng ISEE
Nhóm kết nối và chia sẻ thông tin ICS
(Tổ chức kết nối và thúc đẩy quyền LGBT tại Việt Nam)
Ngƣời đồng tính, song tính và chuyển giới LGBT
Nam quan hệ đồng giới MSM
Ngƣời chuyển giới từ nam sang nữ MTF
Ngƣời chuyển giới từ nữ sang nam FTM
TG (transgender) Ngƣời chuyển giới
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
Trans Ngƣời chuyển giới
6
DANH SÁCH HỘP THÔNG TIN VÀ BẢNG, BIỂU
Hộp 1 Phân biệt bản dạng giới và giới tính sinh học 33
Hộp 2 Phân biệt Transgender và Transsexual 34
Hộp 3 Phân biệt Ngƣời chuyển giới và Ngƣời đồng tính 35
Hộp 4 Một số thuật ngữ sử dụng trong cộng đồng MTF 36
Bảng 2.1 Nhận diện giới và khuynh hƣớng tình dục (%) 42
Bảng 2.2 Nhận thức của ngƣời chuyển giới về Luật Dân sự sửa đổi (%) 54
Bảng 3.1 Mức độ lộ diện công khai của ngƣời chuyển giới tại các 65
không gian (%)
Biểu 2.1 Tƣơng quan nơi sinh và nơi ở hiện nay của ngƣời tham gia 41
khảo sát
Biểu 3.1 Mức độ ngƣời khác nhận ra bạn là ngƣời chuyển giới trƣớc 84
và sau khi Luật Dân sự sửa đổi đƣợc thi hành
Biểu 3.2 Mức độ công khai bản dạng giới với các nhóm đối tƣợng 85
trƣớc và sau khi luật Dân sự sửa đổi đƣợc thi hành
Biểu 3.3 Ý định thực hiện chuyển giới khi Luật Dân sự sửa đổi đƣợc 88
thi hành
Biểu 3.4 Cảm nhận về cuộc sống của ngƣời chuyển giới sau khi Luật 90
Dân sự sửa đổi có hiệu lực
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dựa theo những nghiên cứu và những bằng chứng khoa học sắc đáng, có thể
nói, chuyển giới là một hiện tƣợng đã có từ lâu đời và diễn ra trên toàn thế giới,
trong đó có Việt Nam. Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng tỷ lệ ngƣời
chuyển giới là từ 0.1% đến 0.5%. Điều tra giám sát hành vi có nguy cơ ở
Massachusetts cho thấy có khoảng 0.5% ngƣời trong độ tuổi 18-64 tự nhận mình là
ngƣời chuyển giới. Gần đây, các cuộc điều tra dân số tại Mỹ và trên thế giới đã có
câu hỏi nhằm xác định bản dạng giới và xu hƣớng tình dục. Số liệu ƣớc tính mới
nhất cho thấy có khoảng 0.3% dân số Mỹ là ngƣời chuyển giới [39, tr 3-4].
Thực tế cho thấy, việc thu thập số liệu về tỷ lệ ngƣời chuyển giới gặp nhiều
khó khăn do sự kỳ thị xã hội khiến ngƣời chuyển giới không thể hiện hoặc công
khai giới tính mong muốn của mình. Cũng có trƣờng hợp ngƣời chuyển giới tự nhận
là ngƣời đồng tính. Thông tin số lƣợng ngƣời chuyển giới tìm đến các phòng khám
ở Anh tăng gấp đôi cứ 5-6 năm. Số liệu tại nhiều nƣớc châu Âu ghi nhận, tỷ lệ
ngƣời chuyển giới từ nam sang nữ cao gấp từ 2,5 đến 6 lần tỷ lệ ngƣời chuyển giới
từ nữ sang nam. Điều này không có nghĩa rằng có nhiều ngƣời chuyển giới từ nam
sang nữ hơn, mà do ngƣời chuyển giới từ nữ sang nam ít tìm đến các cơ sở phẫu
thuật chuyển đổi giới tính hơn. Các yếu tố văn hóa, xã hội, quan niệm về vai trò giới
và tình dục đồng giới cũng nhƣ chi phí tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính
khiến những số liệu tại cơ sở y tế đã không phản ánh đúng thực tế [20, tr 14-15]
Để biết đƣợc chính xác số lƣợng ngƣời chuyển giới ở Việt Nam có lẽ là một
điều rất khó, đặc biệt khi khái niệm chuyển giới không chỉ khuôn gọn vào những
ngƣời đã phẫu thuật, mà bao gồm cả những ngƣời có cảm nhận rõ ràng về giới tính
thực của mình khác với giới tính sinh học, và có xu hƣớng/mong muốn đƣợc
chuyển đổi, mặc dù trên thực tế điều đó có thể chƣa hoặc không bao giờ xảy ra.
Cũng giống nhƣ nhiều nhóm LGB (đồng tính nam, đồng tính nữ và song
tính) khác, ngƣời chuyển giới ở Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những sự kỳ
8
thị của xã hội, gia đình và bạn bè. Tuy nhiên, nghiêm trọng hơn cả các nhóm LGB,
ngƣời chuyển giới còn là đối tƣợng của những thông tin sai lạc, sự đối xử bất bình
đẳng, nạn bạo hành, phân biệt đối xử và đói nghèo [19, tr 78-79].
Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các phong trào, sự kiện nhằm
nâng cao nhận thức đúng đắn của cộng đồng về các nhóm LGBT ngày một phát
triển. Những nỗ lực không ngừng nghỉ này dƣờng nhƣ đƣợc đền đáp khi ngày
24/11/2015, Quốc Hội đã chính thức hợp pháp hóa việc chuyển đổi giới tính tại Bộ
luật Dân sự sửa đổi. Với dấu mốc đặc biệt quan trọng này, ngƣời chuyển giới đã có
những quyền và nghĩa vụ theo giới tính mới. Đây đƣợc xem là một bƣớc tiến rất
quan trọng trong việc công nhận, bảo vệ quyền lợi cho những ngƣời trong cộng
đồng LGBT - nhóm vốn đƣợc xem là yếu thế và phải chịu nhiều tổn thƣơng- đồng
thời thúc đẩy việc thực hiện tự do, bình đẳng và công bằng trong xã hội.
Tuy nhiên, việc công nhận quyền chuyển giới trong Bộ luật Dân sự sửa đổi
mới là những động thái đầu tiên nhằm đảm bảo những quyền và nghĩa vụ cơ bản với
ngƣời chuyển giới. Song quyền hạn và trách nhiệm ấy đi đến đâu và làm thế nào để
luật thực sự đƣợc vận hành trơn tru trong thực tiễn còn là cả một quá trình với
không ít những khó khăn, liên quan đến nhiều vấn đề không phải ai cũng nắm rõ,
ngày cả những ngƣời chuyển giới - đối tƣợng đƣợc thụ hƣởng và chịu tác động
nhiều nhất từ việc công nhận quyền chuyển giới tại Việt Nam. Xuất phát từ những
lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Nhận thức, thái độ của ngƣời
chuyển giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam”. Nghiên cứu mong muốn sẽ góp
một phần nhỏ trong việc chung tay đƣa quyền chuyển giới đƣợc hiện thực hóa trong
đời sống chứ không chỉ là một luật đƣợc “treo” trên giấy tờ.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Từ những khảo cứu và những chứng cứ khoa học, có thể khẳng định, ngƣời
chuyển giới tồn tại xuyên suốt lịch sử và từng đƣợc đối xử nhiều kiểu, có thể là coi
trọng hoặc miệt thị. Và các thay đổi giới tính đƣợc coi nhƣ là dấu hiệu ƣu ái hoặc
trừng phạt của Chúa. Ngƣợc trở lại thời Sumeria/Akkadia cổ xƣa (khoảng 6,000
TCN đến 2100 TCN) ngƣời ta đã tìm thấy các bằng chứng về ngƣời chuyển giới.
9
Thƣờng các thầy cúng của ngƣời Inanna/Ishtar tự thiến, hoặc ăn vận nhƣ đàn bà để
cúng tế và thể hiện các bổn phận của họ. Khá nhiều thần thánh của các tôn giáo cổ
xƣa mang cả đặc tính nam và nữ, hoặc đƣợc biết đến nhƣ là chuyển từ giới này sang
giới kia, nhƣ thần Dionysus. Đôi khi sự thay đổi giới tính là có ý trừng phạt nhƣ
trƣờng hợp của Tiresias, ngƣời rốt cục lại thích cái lốt nữ mới và bị biến lại thành
nam giới nhằm trừng phạt. Khá nhiều ngƣời đƣợc cho là có năng lực ma thuật hoặc
tâm linh nhƣ là kết quả của giới tính lẫn lộn họ có, trong khi những ngƣời khác
đƣợc xem nhƣ đặc biệt thích hợp để chữa bệnh hoặc nuôi dạy trẻ [20, tr11].
Có thể nói trên thế giới và tại Việt Nam đã có khá nhiều nghiên cứu về nhóm
LGBT, song những nghiên cứu riêng biệt về ngƣời chuyển giới thì không có nhiều.
Đa phần ngƣời chuyển giới đƣợc nghiên cứu chung trong các nghiên cứu về đồng
tính luyến ái. Tựu chung lại, có thể nhóm các nghiên cứu về ngƣời chuyển giới
thành ba hƣớng chính: Nghiên cứu về căn nguyên hình thành và xu hƣớng tính dục
của ngƣời chuyển giới; Nghiên cứu về nhận dạng và hiện trạng cộng đồng chuyển
giới; Nghiên cứu về những khó khăn, thách thức và nguy cơ đối với nhóm ngƣời
chuyển giới.
2.1 Nghiên cứu về căn nguyên hình thành và xu hướng tính dục của
người chuyển giới
Cho đến nay, nhiều nhà khoa học vẫn đang tìm kiếm căn nguyên hình thành
và phát triển xu hƣớng tính dục ở mỗi cá nhân. Các giả thuyết đƣa ra các cách lý
giải khác nhau về nguồn gốc, xu hƣớng tính dục hoặc từ các yếu tố về gien hay
hoóc - môn, hoặc từ những trải nghiệm thời thơ ấu. Các hƣớng tiếp cận về tính dục
đồng giới nhìn chung có thể quy về nội dung tranh cãi giữa bản thể luận và kiến tạo
xã hội. Theo quan điểm bản thể luận, tính dục là một xu hƣớng tƣơng đối cố định
của một bộ phận dân dố,có tính liên tục xuyên lịch sử và văn hóa, xuất phát điểm từ
yếu tố sinh học hoặc ở giai đoạn rất sớm của sự phát triển cá nhân.. Trái lại, các
quan điểm kiến tạo xã hội nhấn mạnh nhiều đến khía cạnh xã hội hóa. Họ cho rằng
các thể loại tính dục, giống nhƣ giới và những phân loại xã hội quan trọng khác, đã
đƣợc kiến tạo nhƣ một phần của các chu trình của quyền lực xã hội, vốn thƣờng có
10
tính đa chuẩn mực. Ngoài ra các nhà tâm lý học còn tìm kiếm nguyên nhân ở tâm lý
thời trẻ thơ hay tác động của một số tập tục xã hội [19. Tr11].
Đối với những ngƣời nhấn mạnh yếu tố thiên bẩm, không chỉ nói đến sự đa
dạng nhiễm sắc thể nhƣ là XXY hay đơn thể Y hay các yếu tố khác mà còn xem cả
sự ảnh hƣởng của hóc-môn và các nhân tố khác đến bào thai. Nghiên cứu của
Bullough thực hiện năm 2000 mang tên Transgenderlism and the Concept of
Gender đã chỉ ra điều đó. Đối với những ngƣời nhấn mạnh yếu tố kiến tạo, nhân tố
xã hội đƣợc coi là chủ chốt. John Money trong nghiên cứu Gender role, gender
identity, core gender identity: Usage and definition of term năm1973 khai triển khái
niệm bản dạng/căn tính giới (gender identity), theo đó ông muốn hàm chỉ toàn bộ
quan niệm của cá nhân về giới tính của chính ngƣời đó, bao gồm một căn tính cá
nhân cơ bản nhƣ là nam hoặc nữ, trai hoặc gái. Ông cũng cho rằng thuật ngữ có thể
sử dụng để đƣa ra các đánh giá bản thân về mức độ cá nhân hợp với các chuẩn xã
hội về tính nam và tính nữ. Xem xét tất cả các yếu tố sẵn có và ki ến tạo, năm 1993,
Bonnie Bullough đã phát triển một lý thuyết về sự định hình bản dạng giới và ƣa
chuộng tình dục. Trong nghiên cứu của mình mang tên Cross dressing, sex and
gender , bà cho rằng có rất nhiều nhân tố dẫn đến hiện tƣợng chuyển giới liên quan
từ gen di truyền đến sự xã hội hóa cá nhân.
Bên cạnh đó, một số phân tích khác - chủ yếu do các nhà nhân học khai triển
- nhằm tìm ra căn nguyên của hiện tƣợng chuyển giới lại tập trung vào các quan
niệm văn hóa đặc thù về hiện tƣợng chuyển giới ở một số nơi trên thế giới và xem
xét những yếu tố này trong sự tƣơng tác với các giao lƣu văn hóa trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
Những vấn đề ý thức và sự phản kháng nghịch lý trong hiện tƣợng chuyển
giới tập chung chính vào các luận bàn về nhập hồn tâm linh. Rất nhiều công trình
gần đây cố gắng tìm hi ểu sự nhập hồn tâm linh nhƣ là các cách thức ăn vận khác
giới, mà trang phục cũng nhƣ các cử chỉ cơ thể có tác động đến sự chuyển đổi từ
trạng thái giới này sang giới khác. Điều này giống với hiện tƣợng lên đồng ở Việt
Nam. Nghiên cứu của Phạm Quỳnh Phƣơng năm 2007 mang tên “Empowerment
11
and Innovation among Saint Tran’s female mediums” chỉ ra trong trƣờng hợp lên
đồng Đạo Mẫu và Trần Hƣng Đạo, sự nhập hồn tâm linh dƣờng nhƣ cho phép phụ
nữ khoác lên những trang phục và điệu bộ cũng nhƣ những quyền lực khác mà họ
không thể có trong đời sống thƣờng ngày. Nhìn bề ngoài, điều này dƣờng nhƣ đi
liền với sự chuyển đổi từ nữ thành nam và thƣờng từ ngƣời nữ vị thế thấp thành
ngƣời nam địa vị cao.
Với sự lớn mạnh của phân tâm học nửa đầu thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu về
hiện tƣợng chuyển giới chủ yếu là các nhà liệu pháp tâm lý và đều mong muốn tìm
cách chữa trị cho ai bị loạn giới tính (gender dysphoria). Có lẽ ngƣời tầm cỡ nhất
trong số các nhà phân tâm nghiên cứu phát triển một lý thuyết về chuyển giới là
Wilhelm Stekel. Ông đƣa ra thuật ngữ “paraphilia” (loạn dục) để miêu tả điều mà
những ngƣời khác chỉ đơn thuần coi nhƣ lệch lạc. Một phần trong cuốn sách của
ông bàn về ăn vận cải giới luận đã phân biệt hiện tƣợng này và thuyết bái vật
(fetishism).
Gần với các lý giải phân tâm học, một số nhà nghiên cứu trong các nghiên
cứu của mình (Transgenderism and Dissociative Identity Disorder - A Case Study
của Saks năm 1998) đã quan sát và khai triển hiện tƣợng chuyển giới và sự rối loạn
bản sắc phân ly (Dissociative Identity Disorder). Theo đó nếu một ngƣời có tiền sử
bị lạm dụng tình dục, và nếu việc lạm dụng diễn ra nghiêm trọng lúc nhỏ tuổi, sự
phân ly có thể đƣợc sử dụng nhƣ là một cơ chế phòng vệ để đối phó với sự xâm hại
cảm xúc quá mức đó. Thế nhƣng, hầu nhƣ các khái niệm chuẩn theo trƣờng phái
Freud chiếm lĩnh khắp tài liệu nghiên cứu trong một thời gian dài. Thậm chí sau khi
đồng tính đƣợc loại khỏi danh sách rối loạn tâm thần trong Diagnostic and
Statistical Manual, hiện tƣợng ăn vận cải giới vẫn tiếp tục bị ghép vào, phần vì các
nhóm chuyển giới hiếm khi đƣợc nghiên cứu và phần vì họ thiếu ảnh hƣởng chính
trị nhƣ nhóm cộng đồng đồng tính nam (gay) và đồng tính nữ (lesbian).
Nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ lịch sử, Nguyễn Thu Hƣơng trong nghiên
cứu Tổng thuật tài liệu về chuyển giới, 2012 tiếp bƣớc và chỉ ra hết sức cụ thể rằng
hiện tƣợng chuyển giới tồn tại rất lâu ở Việt Nam, với trƣờng hợp đầu tiên đƣợc ghi
12
chép trong biên niên sử từ năm 1351 (Đại Việt Sử Ký Toàn Thƣ; cf. Đại Việt Thông
Sử 1759). Thí dụ nhƣ ghi chép của các sử quan về trƣờng hợp ngƣời “con gái Nghệ
An biến thành con trai” vào năm 1351, cũng nhƣ sau hơn một chút là về thói quen
của một thành viên hoàng gia, An Vƣơng Tuân, con trƣởng của Hiến Tông hoàng
đế, “là ngƣời thông minh học rộng, sức lực hơn ngƣời, nhƣng tính ngang bƣớng,
thích mặc áo phụ nữ”. Tìm kiếm trong cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên Đại Nam
Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, xuất bản năm 1896, tác giả cho thấy
các thuật ngữ địa phƣơng và truyền thống dùng chỉ ngƣời chuyển giới nhƣ lại cái,
bóng, đồng hoàn toàn khác biệt về từ nguyên với từ Hán Việt đồng, theo nghĩa
đồng tính, xuất hiện trong Từ điển Hán-Việt (Đào Duy Anh 1931). Kết quả tầm
nguyên này chỉ ra rằng thuật ngữ đồng và/hoặc bóng theo nghĩa dân gian để chỉ
những cá nhân liên giới tính cũng nhƣ nam giới ẻo lả và mặc khác giới. Với nghĩa
này, từ đồng và bóng có nghĩa hoàn toàn khác với từ đồng âm đồng trong „đồng
tính.‟ Tiếc rằng trên báo giới cũng nhƣ trong các ngôn ngữ học thuật hiện nay vẫn
tiếp tục nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ đồng âm khác nghĩa này, khiến càng tăng thêm
thành kiến trƣớc hiện tƣợng chuyển giới.
2.2. Nghiên cứu về nhận dạng và hiện trạng cộng đồng chuyển giới
Nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ ngƣời chuyển giới là từ 0.1% đến
0.5%. Điều tra giám sát hành vi có nguy cơ ở Massachusetts cho thấy có khoảng
0.5% ngƣời trong độ tuổi 18-64 tự nhận mình là ngƣời chuyển giới. Gần đây, các
cuộc điều tra dân số tại Mỹ và trên thế giới đã có câu hỏi nhằm xác định bản dạng
giới và xu hƣớng tình dục. Số liệu ƣớc tính mới nhất cho thấy có khoảng 0.3% dân
số Mỹ là ngƣời chuyển giới [39, tr3-4]. Việc thu thập số liệu về tỷ lệ ngƣời chuyển
giới gặp nhiều khó khăn do sự kỳ thị xã hội khiến ngƣời chuyển giới không thể hiện
hoặc công khai giới tính mong muốn của mình. Cũng có trƣờng hợp ngƣời chuyển
giới tự nhận là ngƣời đồng tính. Thông tin số lƣợng ngƣời chuyển giới tìm đến các
phòng khám ở Anh tăng gấp đôi cứ 5-6 năm. Số liệu tại nhiều nƣớc châu Âu ghi
nhận tỷ lệ ngƣời chuyển giới từ nam sang nữ cao gấp từ 6 đến 2.5 lần tỷ lệ ngƣời
chuyển giới từ nữ sang nam. Điều này không có nghĩa rằng có nhiều ngƣời chuyển
13
giới từ nam sang nữ hơn, mà do ngƣời chuyển giới từ nữ sang nam ít tìm đến các cơ
sở phẫu thuật chuyển đổi giới tính hơn. Các yếu tố văn hóa, xã hội, quan niệm về
vai trò giới và tình dục đồng giới cũng nhƣ chi phí tiến hành phẫu thuật chuyển đổi
giới tính khiến những số liệu tại cơ sở y tế không phản ánh đúng thực tế [20, tr14-
15]. Chƣa có cuộc điều tra nào đƣa ra con số chính xác về số ngƣời chuyển giới ở
Việt Nam, song nếu lấy tỉ lệ thấp nhất là 0,1% thì số ngƣời chuyển giới ở Việt Nam
ƣớc chừng khoảng gần 100.000 ngƣời.
Hiện tƣợng chuyển giới ở Việt Nam đƣợc đề cập lần đầu tiên trong nghiên
cứu do Elliot Heiman và Cao Văn Lê đồng tác giả xuất bản năm 1975. Trong bài
viết này, hai tác giả dựa trên quan sát và trải nghiệm thăm khám thực tế trƣờng hợp
một ngƣời nam sinh trƣởng tại vùng nông thôn Nam bộ có những biểu hiện chuyển
đổi giới tính thảo luận khía cạnh xã hội của hiện tƣợng chuyển đổi giới tính và cách
thức xã hội, nhất là ngƣời Việt xử trí hành vi chuyển đổi giới tính. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra ngƣời chuyển đổi giới tính tại Việt Nam tiếp tục ẩn trong văn hóa chung
và chỉ có thể phát hiện một cách ngẫu nhiên.
Tiếp đến là nghiên cứu của Frank Proschan (“Syphilis, Opiomania, and
Pederasty”: Colonial Constructions of Vietnamese (and French) Social Diseases,
2002) xem xét cách thức các quan sát gia thực dân Pháp kiến tạo nam giới ngƣời
Việt nhƣ là ẻo lả, ái nam ái nữ, lọm khọm và đồng dâm, ngƣợc lại với phụ nữ Việt
hừng hực và sung mãn. Dựa trên nguồn tƣ liệu thứ cấp, chủ yếu qua các ghi chép,
nhật ký cá nhân, báo cáo của các viên chức, nhà truyền giáo và lữ khách ngƣời Pháp
cũng nhƣ một số thƣ tịch tiếng Việt, tác giả muốn đƣa ra ngụ ý của các kiến tạo
thực dân về giới, tình dục của ngƣời bản xứ nhƣ thể đối nghịch với những hình
dung nam tính về cƣớp biển hùng dũng, ngƣời nông dân phớt lạnh, kẻ phiếm loạn
dữ tợn và ngƣời mông muội miền núi lại là hình ảnh chiếm lĩnh của ngƣời đàn ông
nữ tính. Proschan xem xét bốn trƣờng hợp đặc thù trong đó hình ảnh này thể hiện
hết sức chi tiết: vai ái nam ái nữ vƣợt giới trong các phƣờng hát; hay viên quan hoạn
hầu hạ hoàng gia An Nam trong những ngày cuối cùng; thằng nhỏ, kẻ hầu, một
phần bắt bu ộc trong tất cả hộ gia đình thực dân; và quân lính ẻo lả soldats
14
mamzelles. Qua việc phác họa ngƣời Việt nhƣ là biến thái giới - nam thì ẻo lả, nữ
thì sung mãn - các quan chức Pháp có thể biện hộ sự xâm lƣợc, nô dịch và sứ mệnh
khai hóa văn minh của họ cho đối tƣợng dân bản xứ.
Nghiên cứu khác của Marie-Eve Blanc (Social Construction of Male
Homosexuality in Vietnam. Some keys to Understanding and implications for HIV
Prevention Strategy, 2005) cũng tiếp cận từ góc độ văn hóa, lịch sử-xã hội về hiện
tƣợng đồng tính nam, trong đó tác giả đề cập các thực hành chuyển giới tại Việt
Nam. Tác giả phân tích quan niệm xã hội về đồng tính nam cũng nhƣ các khía cạnh
khác biệt và đặc thù của đồng tính nam ra sao trong thực tiễn văn hóa Việt Nam từ
quá khứ đến hiện tại. Với cách biện luận rằng đồng tính ở Việt Nam không hề biểu
hiện theo mẫu hình phƣơng Tây mà có tính địa phƣơng, bài viết của Blanc đi theo
hƣớng của các tranh luận đƣơng đại về tính hiện đại và những đặc thù văn hóa địa
phƣơng, cân nhắc m ối liên kết giữa một truyền thống ảnh hƣởng bởi thực dân và
đƣợc tái sinh nhờ hiệu ứng của toàn cầu hóa. Nhìn từ khía cạnh này, bài viết có
chung thông điệp về một truyền thống “đa giới luận” từng tồn tại ở một số quốc gia
Đông Nam Á. Tuy nhiên do những hạn chế nhất định về ngôn ngữ địa phƣơng (thể
hiện qua việc chú dịch không chính xác các thuật ngữ tiếng Việt) hoặc có thể là do
nguồn dữ liệu mà Blanc phát triển lập luận đã có sẵn nh ững hạn chế nên dẫn đến
những sai lầm rất đáng tiếc trong bài viết. Trƣớc hết bài viết có xu hƣớng „đánh
đồng‟ các cá nhân chuyển giới vào thể loại đồng tính, rơi vào vết xe đổ của các diễn
ngôn sai lạc phổ biến trên công luận hiện nay. Sự nhập lẫn này không chỉ ra đƣợc
các bối cảnh văn hóa tiêu biểu và các niềm tin tâm linh vốn đem lại ý nghĩa cho
hiện tƣợng chuyển giới. Thêm nữa, việc khẳng định rằng trong văn hóa Việt Nam
“không có chỗ cho giới thứ ba” gây mâu thuẫn với chính nỗ lực dày công trích dẫn
của tác giả về các thuật ngữ địa phƣơng liên quan đến ngƣời chuyển giới.
Trong những năm vừa qua, tại Việt Nam cũng có khá nhiều nghiên cứu đƣợc
thực hiện, các kết quả này cho phép bƣớc đầu nhận diện về cộng đồng LGBT nói
chung và cộng đồng ngƣời chuyển giới nói riêng ở Việt Nam. Các nghiên cứu tiêu
biểu có thể kể ra nhƣ Nghiên cứu trực tuyến đặc điểm nhân khẩu, xã hội của nam
15
giới có quan hệ đồng giới ở Việt Nam của Nguyễn Cƣờng Quốc thực hiện năm
2009; Tình dục trong xã hội Việt Nam đương đại của Khuất Thu Hồng, Lê Bạch
Dƣơng, Nguyễn Ngọc Hƣởng năm 2009; Sống trong một xã hội dị tính: Câu chuyện
từ 40 người nữ yêu nữ do Nguyễn Quỳnh Trang, Nguyễn Thu Thủy, Nguyễn Thu
Nam, Lê Quang Bình thực hiện năm 2010; Thực trạng trẻ em đường phố LGBT của
Nguyễn Thu Hƣơng, Nguyễn Thị Thu Nam, ICS và Tổ chức cứu trợ Trẻ em Quốc
tế thực hiện năm 2012, Gender crossing in Viet Nam: Yesterday and today của
Nguyễn Thu Hƣơng năm 2012... Những nghiên cứu đã phác họa nên bức tranh tổng
quát về cộng đồng ngƣời chuyển giới tại Việt Nam về cơ cấu độ tuổi, trình độ học
vấn, nghề nghiệp cũng nhƣ quá trình nhận thức xu hƣớng tính dục; những nhu cầu
cơ bản trong cuộc sống, tình yêu, tình dục... Kết quả nghiên cứu đã đóng góp một
phần không nhỏ trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng, xóa bỏ những định
kiến và kỳ thị đối với nhóm ngƣời yếu thế, dễ tổn thƣơng này.
2.3. Nghiên cứu về những khó khăn, thách thức và nguy cơ đối với nhóm
người chuyển giới
Hƣớng nghiên cứu nổi trội thứ ba đó là nghiên cứu về những khó khăn, thách
thức và nguy cơ đối với nhóm ngƣời chuyển giới. Các nghiên cứu đã chỉ ra những
khó khăn mà nhóm LGBT nói chung và ngƣời chuyển giới nói riêng đang phải đối
mặt nhiều nhất đó là những định kiến sai lệch của xã hội đƣợc in hằn trong tiềm
thức của những ngƣời dị tính từ những tài liệu chính thống, học thuật đến những
phƣơng tiện truyền thông đại chúng hiện đại. Từ cách hiểu chƣa đúng dẫn đến việc
mô tả lệch lạc chân dung ngƣời chuyển giới; khắc họa phiến diện cộng đồng ngƣời
này khiến những ngƣời dị tính có thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử , thậm chí ghê sợ,
coi chuyển giới nhƣ một “căn bệnh xã hội” làm băng hoại những giá trị đạo đức,
nhân văn. Có thể kể đến những công trình nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới nhƣ
Notes on the Management of Spoiled Identity của Erving Gofman, Stigma năm
1963; Mental health concerns of Gay anh Bisexual man seeking mental health
services do Berg, Mimiaga và Safren thực hiện năm 2008; The health of people
classified as Lessbian, Gay anh Bisexual attending family practitioners in London:
16
a controlled study của King và Nazareth năm 2006; hay những nghiên cứu tại Việt
Nam nhƣ: Tổng quan về kỳ thị với người LGBT của Vũ Hồng Phong năm 2010;
Khảo sát hình ảnh LGBT trên báo chí do tổ chức iSEE hợp tác với Học viện báo chí
thực hiện năm 2011; Kỳ thị và phân biệt đối xử của nhân viên y tế qua cung cấp
dịch vụ y tế cho nam quan hệ tình dục đồng giới của nhóm tác giả Trần Thành Nam
năm 2011; Khảo sát thái độ xã hội đối với người đồng tính của nhóm tác giả
Nguyễn Thị Thu Nam năm 2012...
Có thể nói, cộng đồng LGBT nói chung đang đứng trƣớc rất nhiều khó khăn
và thách thức. Từ thách thức lớn nhất là thái độ định kiến và phân biệt đối xử từ
trong gia đình, trƣờng học, các cơ sở y tế và thậm chí trên truyền thông đại chúng
khiến ngƣời chuyển giới phải đối mặt với nhiều rủi ro nhƣ bị bạo hành cả thể chất
lẫn tinh thần, đối mặt với những khó khăn trong việc làm và các vấn đề pháp lý liên
quan... Các nghiên cứu Bạo lực với những người đồng tính nam và chuyển giới do
CCIHP và UNAIDS thực hiện năm 2011; Bạo lực và phân biệt đối xử với LGBT
trong trƣờng học của CCIHP năm 2012; Khát vọng được là chính mình: Những vấn
đề thực tiễn và pháp lý với người chuyển giới của nhóm tác giả Phạm Quỳnh
Phƣơng thực hiện năm 2012... đã chỉ ra những hình thức bạo lực dựa trên xu hƣớng
tính dục và bản dạng giới, phổ biến nhất là bạo lực thể xác, bạo lực tâm lý, bạo lực
tình dục và các hình thức ép ngƣời chuyển giới đi chữa bệnh tâm thần.
Những rủi ro về sức khỏe của nhóm ngƣời chuyển giới chủ yếu đƣợc đề cập
đến trong những nghiên cứu của tổ chức phi chính phủ. Nếu nhƣ vấn đề sức khỏe
của ngƣời đồng tính thƣờng gắn với vấn đề phòng chống các bệnh lây nhiễm qua
đƣờng tình dục và HIV của nhóm SMS thì đối với ngƣời chuyển giới, sức khỏe là
vấn đề thật sự nghiêm trọng, liên quan tới nhu cầu phẫu thuật, chuyển đổi cơ thể
sinh học. Mặc dù hiện nay đã có nhiều cơ sở, trung tâm y tế cho nhóm đồng tính
nam về HIV và sức khỏe tình dục nhƣng với ngƣời chuyển giới, hiện nay vẫn chƣa
có cơ sở y tế nào quan tâm trực tiếp tới vấn đề này.
Nhiều khía cạnh và đối tƣợng là ngƣời chuyển giới vẫn bị lẫn vào trong các
nghiên cứu can thiệp dành cho MSM. Ngay bản thân những ngƣời làm về các
17
chƣơng trình phòng chống HIV cho MSM cũng không phân biệt rõ ràng về xu
hƣớng tình dục và bản dạng giới, giữa mại dâm nam, đồng tính nam và chuyển giới
mà gộp họ vào một nhóm MSM. Trong một chừng mực nào đó, từ MSM đã trở
thành một “bản dạng” trong khi nó chỉ nói về hành vi. Điểm đáng chú ý là hầu hết
các sản phẩm nghiên cứu này chỉ nằm trong khuôn khổ các dự án, chƣơng trình can
thiệp phòng chống bạo lực, sức khỏe cộng đồng, chủ yếu là chiến dịch nâng cao
nhận thức và phòng ngừa bệnh lây nhiễm qua đƣờng tình dục và HIV/AIDS của
nhóm MSM. Các nghiên cứu trƣớc đây coi MSM nhƣ nhóm co nguy cơ lây nhiễm
HIV cao do có nhiều bạn tình, ít sử dụng bao cao su và do nhận thức thấp về nguy
cơ lây nhiễm. Nhiều tổ chức coi đây là nhóm đối tƣợng chính trong truyền thông
phòng chống HIV. Các nghiên cứu tiêu biểu có thể kể tới nhƣ HIV knowledge ans
risk factors among men who have sex with man in Ho Chi Minh city của Colby năm
2003; Social contruction of male homosexual in Viet Nam – Some keys to
understand anh implications for HIV do Blanc thực hiện năm 2005; Men who have
sex with men in Hanoi: Social profile and sexual health isues của Khuất Thu Hồng
năm 2005; Đối mặt với sự thật: Tình dục đồng giới nam và HIV/AIDS của Vũ Ngọc
Bảo năm 2005 của Trƣơng Tấn Minh, Tôn Thất Toàn và Colby năm 2006...
Những trải nghiệm kỳ thị, định kiến đối với cộng đồng vƣợt giới cũng nhƣ
tính chủ thế của họ đƣợc thể hiện rất rõ qua nghiên cứu đánh giá gần đây của SC và
iSEE về nhóm trẻ đƣờng phố thiểu số tình dục (Nguyễn Thu Hƣơng và Nguyễn Thu
Nam, Thực trạng trẻ em đường phố LGBT, 2012). Nhiều cá nhân đƣợc phỏng vấn
trong nghiên cứu này có biểu hiện vƣợt khỏi các chuẩn mực tình dục cũng nhƣ
chuẩn mực hành vi giới nhƣng lại không biết thuật ngữ “chuyển giới”; thay vào đó,
các bạn trẻ tự nhận mình thuộc giới thứ ba. Báo cáo này cũng chỉ ra mối liên hệ
giữa hoàn cảnh đi bụi với bản dạng giới và xu hƣớng tình dục của trẻ em thiểu số
tình dục nói chung và chuyển giới nói riêng.
Có thể nói, cho đến nay, hiện tƣợng chuyển giới ở Việt Nam vẫn chƣa đƣợc
nghiên cứu một cách độc lập và đầy đủ. Đặc biệt khi quyền và nghĩa vụ của ngƣời
chuyển giới chính thức đƣợc Quốc Hội Việt Nam thông qua vào tháng 11 năm 2015
18
đã đánh dấu một bƣớc ngoặt quan trọng đối với việc bảo vệ quyền lợi, thực hiện
công bằng và bình đẳng xã hội đối với nhóm ngƣời từ trƣớc đến nay vốn đƣợc coi là
“ngƣời vô hình”. Vì thế, cần có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề pháp lý cho
ngƣời chuyển giới nhằm cung cấp thêm tính thực tiễn cho lộ trình giúp việc công
nhận quyền chuyển giới đƣợc suôn sẻ trong quá trình hiện thực hóa luật. Nghiên
cứu về “Nhận thức, thái độ của người chuyển giới về quyền chuyển giới tại Việt
Nam” của tác giả hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong những nỗ lực lớn lao này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với mục đích tìm hiểu nhận thức, thái độ của ngƣời chuyển
giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam, từ đó đề xuất những khuyến nghị, những
kênh thông tin hiệu quả nhằm tuyên truyền Luật về quyền chuyển giới tại Việt Nam
cho đối tƣợng ngƣời chuyển giới nói riêng và cộng đồng nói chung.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu nhận thức, thái độ của ngƣời chuyển giới về quyền chuyển giới tại
Việt Nam qua việc hiểu về các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, cách thức thể hiện hay
thực thi các quyền của mình trƣớc và sau khi quyền chuyển giới đƣợc công nhận;
thái độ đồng tình hay phản đối khi quyền chuyển giới đƣợc thông qua, mong muốn
của ngƣời chuyển giới khi quyền chuyển giới đƣợc hiện thực hóa.
- Phân tích các kênh thông tin tác động đến nhận thức, thái độ của ngƣời
chuyển giới về quyền chuyển giới.
- Ảnh hƣởng của quyền chuyển giới tới các nhóm chuyển giới.
4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức, thái độ, hành vi của ngƣời chuyển
giới đối với quyền chuyển giới tại Việt Nam
4.2. Khách thể nghiên cứu: Ngƣời chuyển giới trong cộng đồng, những
thành viên của các Câu lạc bộ, các diễn đàn trên internet dành cho ngƣời đồng tính,
song tính và chuyển giới
19
- Đối tƣợng khảo sát: Ngƣời chuyển giới trong cộng đồng, thành viên của
Câu lạc bộ Hải Đăng, nhóm Ruby, I-Girl, các diễn đàn, trang mạng xã hội trên
internet dành cho ngƣời đồng tính, song tính và chuyển giới nhƣ:
+ Nhà Trọ Gay Hà Nội https://www.facebook.com/groups/1408239566086526/ ;
+ Gà Vàng https://www.facebook.com/groups/gavang69/ ;
+ Love Boy Hà Nội https://www.facebook.com/groups/394652447326380/ ;
+ VN MSM TG https://www.facebook.com/VNMSMTG?fref=ts .
4.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 2/2016 - 9/2016.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Liệu có phải tất cả ngƣời chuyển giới - đối tƣợng đƣợc thụ hƣởng quyền lợi
từ việc công nhận quyền chuyển giới tại Việt Nam - đều có nhận thức đúng về
quyền chuyển giới đƣợc quy định trong Luật?
- Phải chăng tất cả ngƣời chuyển giới đều đồng tình với việc Luật pháp công
nhận quyền chuyển giới tại Việt Nam?
- Ảnh hƣởng của việc công nhận quyền chuyển giới tới các nhóm chuyển
giới liệu có giống nhau không?
- Những kênh thông tin nào giúp tuyên truyền luật về quyền chuyển giới tới
các nhóm chuyển giới?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Đa phần ngƣời chuyển giới đều có nhận thức đúng về quyền, nghĩa vụ của
mình khi quyền chuyển giới đƣợc Luật công nhận tại Việt Nam.
- Phần lớn ngƣời chuyển giới đều đồng tình với việc Luật pháp công nhận
quyền chuyển giới tại Việt Nam.
- Việc Luật công nhận quyền chuyển giới tại Việt Nam có tác động nhiều tới
nhóm chuyển giới nữ hơn nhóm chuyển giới nam; nhóm mong muốn phẫu thuật
chuyển đổi giới tính hơn nhóm không có nhu cầu phẫu thuật.
20
- Các diễn đàn trên mạng, câu lạc bộ dành cho ngƣời đồng tính, song tính và
chuyển giới là những kênh thông tin chính ảnh hƣởng tới nhận thức, thái độ của
ngƣời chuyển giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nghiên cứu có tham khảo và sử dụng một số tài liệu liên quan đến cộng đồng
ngƣời chuyển giới nhằm thu thập những thông tin có tính khách quan, khoa học để
nhận diện một cách tổng quan về cộng đồng ngƣời chuyển giới trên thế giới và ở
Việt Nam, từ đó thiết kế những câu hỏi nghiên cứu phù hợp với đối tƣợng và mục
đích nghiên cứu.
6.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến
- Là phƣơng pháp định lƣợng, sử dụng bảng hỏi để thu thập thông tin. Thông
tin đƣợc thu thập bằng cả phƣơng thức trực tiếp và gián tiếp:
+ Gặp gỡ ngƣời chuyển giới và thu thập thông tin trực tiếp qua các diễn đàn,
hội thảo, các sự kiện dành cho LGBT.
+ Đăng trên các diễn đàn, các nhóm kín của cộng đồng LGBT hoặc thông
qua facebook gửi bảng hỏi đến các đối tƣợng khảo sát.
Phiếu thu về đƣợc làm sạch và xử lý bằng chƣơng trình SPSS 16.0.
- Số lƣợng mẫu: 62 phiếu.
- Phƣơng pháp chọn mẫu: mẫu đƣợc chọn ngẫu nhiên thuận tiện qua các sự
kiện, diễn đàn, hội thảo và các trang mạng xã hội của ngƣời đồng tính, song tính và
chuyển giới. Đây là cách chọn mẫu phù hợp với dạng nghiên cứu trƣờng hợp, thuận
tiện cho ngƣời nghiên cứu về mặt thời gian, chi phí và công tác thu thập thông tin
cũng đƣợc diễn ra dễ dàng hơn nhƣng vẫn đảm bảo đƣợc tính đại diện của mẫu.
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
- Số lƣợng mẫu: 12 ngƣời trong đó có 9 ngƣời hiện đang sinh sống, học tập
và làm việc tại Hà Nội, 01 ngƣời tại Hòa Bình, 01 ngƣời tại Lào Cai và 01 ngƣời tại
Thành phố Hồ Chí Minh. 12 ngƣời đƣợc phỏng vấn trong độ tuổi từ 19 đến 62,
trong đó 04 ngƣời chuyển giới từ nam sang nữ, 04 ngƣời chuyển giới từ nữ sang
21
nam, 01 ngƣời yêu của ngƣời chuyển giới nam, 01 ngƣời yêu của ngƣời chuyển giới
nữ, 01 bố của ngƣời chuyển giới nữ và 01 mẹ của ngƣời chuyển giới nam. Trong số
04 ngƣời chuyển giới từ nam sang nữ có 01 ngƣời đã phẫu thuật ngực, 01 ngƣời đã
phẫu thuật bộ phận sinh dục, 01 ngƣời đã dùng hooc-môn và 01 ngƣời chƣa có can
thiệp bằng phƣơng pháp y tế mà mới chỉ thay đổi ngoại hình cho phù hợp với giới
tính mong muốn. Với 04 ngƣời trong nhóm chuyển giới từ nữ sang nam thì mới chỉ
có 1 ngƣời đã sử dụng hooc-môn, còn chƣa ai phẫu thuật.
- Những ngƣời đƣợc chọn phỏng vấn chủ yếu theo phƣơng pháp trái bóng lăn
(snow-ball sampling), từ một ngƣời sẽ giới thiệu thêm những ngƣời khác. Việc lựa
chọn ngƣời phỏng vấn trên nguyên tắc t ối đa hóa sự đa dạng về mạng lƣới, lứa tuổi,
cả phẫu thuật và chƣa phẫu thuật, cũng nhƣ sự sẵn lòng tham gia nghiên cứu.
- Cách thức phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp: 10 ngƣời và gián tiếp bằng cách
trò chuyện (chat) qua các ứng dụng nhƣ facebook, zalo: 02 ngƣời. Trong trƣờng hợp
phỏng vấn trực tiếp, địa điểm phỏng vấn đƣợc chọn tùy theo yêu cầu của ngƣời
đƣợc phỏng vấn, bất cứ nơi nào họ cảm thấy thoải mái và không bị áp lực nhất,
đƣợc ghi âm với sự cho phép của ngƣời đƣợc phỏng vấn. Với những trƣờng hợp
ngƣời phỏng vấn không muốn đƣợc ghi âm, tác giả sẽ ghi chép lại các thông tin hồi
cứ ngay sau buổi phỏng vấn.
6.4. Phương pháp quan sát
Tác giả sử dụng phƣơng pháp quan sát khi tham dự 04 sự kiện, hội thảo, tọa
đàm và các chƣơng trình liên quan đến ngƣời đồng tính và chuyển giới:
+ Hội thảo Quốc gia LGBT Q+ Việt Nam 2016 do iSEE tổ chức từ ngày 25-
27/3/2016
+ Hội thảo “Chia sẻ thông tin liên quan đến vấn đề chuyển đổi giới tính phục
vụ cho việc xây dựng Luật chuyển đổi giới tính” do iSEE tổ chức ngày 24/5/2016
+ Chƣơng trình Viet Pride 2016 do iSEE tổ chức ngày 21/8/2016
+ Tọa đàm “Rào cản tiếp cận với quyền của cộng đồng LGBT tại Việt Nam”
do DNXH Hải Đăng tổ chức ngày 16/9/2016
22
Qua các chƣơng trình trê, tác giả có thêm thông tin và cách nhìn nhận sâu sắc hơn
về nhận thức cũng nhƣ nhƣ thái độ, nhu cầu, mong muốn của ngƣời chuyển giới khi
quyền chuyển giới đƣợc công nhận trong Luật Việt Nam.
7. Hạn chế của nghiên cứu
7.1. Về thời gian: Quá trình thu thập thông tin, xử lý số liệu và viết báo cáo
đƣợc tiến hành trong 8 tháng (không dài), vì vậy đây cũng chỉ là một nghiên cứu
khám phá bƣớc đầu về cộng đồng ngƣời chuyển giới vốn ít đƣợc biết đến trƣớc đây.
7.2. Về đối tượng phỏng vấn: Mặc dù đã cố gắng t ối đa hóa sự đa dạng
trong việc chọn mẫu, ngƣời nghiên cứu cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận với
các đối tƣợng phù hợp với yêu cầu của đề tài. Những ngƣời chuyển giới ở lứa tuổi
trẻ (18-30) sẵn lòng chia s ẻ và cởi mở hơn so với những ngƣời chuyển giới ở lứa
tuổi trung niên; khó tiếp cận những ngƣời chuyển giới từ nữ sang nam hơn là từ
nam sang nữ, khó tiếp cận với ngƣời đã chuyển đổi giới tính hoàn toàn…Vì vậy,
trong cơ cấu mẫu phỏng vấn sâu cũng chỉ mới có 1 ngƣời đã chuyển đổi giới tính
hoàn toàn. Đa số những ngƣời tham gia khảo sát định lƣợng và phỏng vấn sâu đều
nằm trong độ tuổi trẻ từ 18-30, không có ngƣời ở lứa tuổi trên 40; nên có thể những
kết quả nghiên cứu chỉ mới khái quát đƣợc những vấn đề chung nổi cộm mà chƣa
thể phản ánh một cách bao quát mọi khía cạnh trong nhận thức và thái độ của ngƣời
chuyển giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam.
8. Ý nghĩa nghiên cứu
8.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu này đƣợc tiến hành thông qua việc vận dụng một số khái niệm,
lý thuyết nhƣ lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết xã hội hóa vai trò giới, lý thuyết
sự lựa chọn hợp lý, khái niệm chuyển giới, quyền chuyển giới … để tìm hiểu sâu
hơn nhận thức, thái độ cùng những mong muốn của những ngƣời chuyển giới -
nhóm ngƣời thiểu số vốn chƣa đƣợc xã hội công nhận và lƣu tâm - với việc bƣớc
đầu thực hiện quyền và nghĩa vụ dành cho họ.
23
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu đƣợc thực hiện nhằm góp phần làm rõ hơn nhận thức, thái độ,
mong muốn của ngƣời chuyển giới - đối tƣợng đƣợc thụ hƣởng và chịu ảnh hƣởng
lớn nhất trong việc hợp pháp hóa quyền chuyển giới ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng
hy vọng sẽ góp một phần nhỏ trong việc phác họa đúng đắn chân dung về cộng
đồng ngƣời chuyển giới nói riêng và cộng đồng LGBT nói chung trong những nỗ
lực giảm thiểu yếu thế và tổn thƣơng mà cộng đồng này hiện đang gặp phải. Những
kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo cho các cá
nhân, tổ chức quan tâm khi nghiên cứu về ngƣời chuyển giới nói riêng và nhóm
LGBT nói chung.
9. Khung phân tích
Chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
Môi trƣờng kinh tế - xã hội
Nhận thức về
Đặc điểm cá nhân
quyền của ngƣời chuyển giới tại Việt Nam
Thái độ trong việc thể hiện và sống đúng với bản dạng giới mong muốn
Đặc điểm gia đình
Trƣớc khi đƣợc Luật công nhận Sau khi đƣợc Luật công nhận Sau khi đƣợc Luật công nhận Trƣớc khi đƣợc Luật công nhận
Kênh truyền thông
24
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm công cụ
1.1.1. Nhận thức
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức đƣợc định nghĩa là quá trình
phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con ngƣời, có tính
tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn. [4, tr 56]
Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình biện chứng của
sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con ngƣời, nhờ đó con ngƣời tƣ duy
và không ngừng tiến đến gần khách thể. [15, tr 198].
Theo quan điểm của phép tƣ duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con
ngƣời đi từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng, và từ tƣ duy trừu
tƣợng đến thực tiễn. Con đƣờng nhận thức đó đƣợc thực hiện qua các giai đoạn từ
đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tƣợng, từ hình thức bên
ngoài đến bản chất bên trong, nhƣ sau:
+ Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu
tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con ngƣời sử dụng các giác quan để
tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức
là cảm giác, tri giác và biểu tƣợng.
+ Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh
gián tiếp trừu tƣợng, khái quát sự vật, đƣợc thể hiện qua các hình thức nhƣ khái
niệm, phán đoán, suy luận.
Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính.
Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức đƣợc bản chất thật sự của sự vật.
+ Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức đƣợc kiểm nghiệm là đúng hay
sai. Nói cách khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức đƣợc. Do
đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức.
Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế
giới. [4, tr 58-60].
25
Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài, Nhận thức đƣợc hiểu là những tri thức,
hiểu biết của cá nhân về một vấn đề, đƣợc hình thành một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp qua các hoạt động sống của con ngƣời.
1.1.2. Thái độ
Trong từ điển Bách khoa Việt Nam, Thái độ đƣợc định nghĩa là: “Cách nhìn
nhận, hành động của cá nhân về một hƣớng nào đó trƣớc một vấn đề, một tình
huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình
cảm của cá nhân đối với con ngƣời hay một sự việc nào đó”. [15, tr 302].
Từ điển xã hội học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên năm 1994 cũng nhấn
mạnh: “tâm thế-thái độ-xã hội đã đƣợc củng cố, có cấu trúc phức tạp, bao gồm các
thành phần nhận thức, xúc cảm, hành vi”. [23, tr 287].
Còn trong từ điển các thuật ngữ Tâm lý và Phân tâm học xuất bản tại New
York năm 1996 thì lại cho rằng: "Thái độ là một trạng thái ổn định bền vững, do
tiếp thu đƣợc từ bên ngoài, hƣớng vào sự ứng xử một cách nhất quán đối với một
nhóm đối tƣợng nhất định, không phải nhƣ bản thân chúng ra sao mà chúng đƣợc
nhận thức ra sao. Một thái độ đƣợc nhận biết ở sự nhất quán của những phản ứng
đối với một nhóm đối tƣợng. Trạng thái sẵn sàng có ảnh hƣởng trực tiếp lên cảm
xúc và hành động có liên quan đến đối tƣợng”. [47, tr36].
Nhƣ vậy, các từ điển khi định nghĩa về thái độ đều cho rằng đó là “cách ứng
xử của cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã hội”. Nó đƣợc cấu thành
rất phức tạp, với nhiều bộ phận hợp thành, cho dù cách sử dụng từ ngữ khi định
nghĩa về thái độ là khác nhau.
Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, Thái độ đƣợc xem nhƣ là một bộ phận
hợp thành, một thuộc tính trọn vẹn của ý thức, quy định tính sẵn sàng hành động
của con ngƣời đối với đối tƣợng theo một hƣớng nhất định, đƣợc bộc lộ ra bên
ngoài thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt và lời nói của ngƣời đó trong những tình
huống, điều kiện cụ thể.
26
1.1.3. Người chuyển giới
Đầu thế kỷ 20, nhà tình dục học nổi tiếng ngƣời Đức, Magnus Hirschfeld
(1868-1935), khởi xƣớng hai thuật ngữ transvestites (ăn vận cải giới) và
transsexuals (chuyển đổi giới tính) Nhà tiên phong khác về chủ đề chuyển giới là
Havelock Ellis, ngƣời sử dụng thuật ngữ “sexo-aesthetic inversion” (tạm dịch: sự
đồng dâm thẩm mỹ) trong bài viết xuất bản năm 1913, thay vì từ „transvestism‟ của
Hirschfeld. Sau đó Ellis kết luận rằng từ „đồng dâm‟ (inversion) không chuẩn xác vì
gợi nghĩa đồng tính, trong khi các trƣờng hợp ông nghiên cứu thƣờng là dị tính hay
không hoàn toàn quan tâm đến giới nào. Thế nên ông quyết định rằng thuật ngữ
đúng nhất phải là “eonism”, dùng tên một ngƣời ăn vận cải giới sống ở thế kỷ 18,
Chevalier d‟Eon. Ellis biện luận rằng thuật ngữ này tránh đƣợc vấn đề cố hữu trong
các từ nhƣ “mặc khác giới” (Cross dressing). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu sau
này lại chuộng từ “transvestism” và không mấy khi sử dụng khái niệm của Ellis.[29,
tr21].
Gần đây các nhà nghiên cứu giới phát triển bắt đ ầu chuộng thuật ngữ
“transgender” nhƣ là một thể loại rộng hơn nhiều so với “mặc khác giới” (cross
dressing) đơn thuần và cho phép gộp nhiều hành vi đa dạng. “Trans” đƣợc hiểu là
vƣợt quá và qua các biên định về̀ giới (gender) đƣợc xem là để làm bật một dạng
căn tính hoặc định dạng xã hội đặc biệt. Theo nghĩa rộng này vƣợt giới dƣờng nhƣ
thích hợp khi bàn đến những ngƣời đƣợc xem là các trung gian linh thiêng giữa vô
vàn các sinh thể.Một hƣớng phân tích khác lại cho rằng chính tiền tố “trans” theo
nghĩa nhƣ động từ “transgress” (xâm vƣợt) còn hàm chỉ một sự sai lệch (vƣợt khỏi
những biên định cố hữu) xã hội và đạo đức của hiện tƣợng vƣợt giới. Theo đó thuật
ngữ này giúp giải thích phần nào các trải nghiệm bị xã hội kỳ thị và phân biệt đối
xử của ngƣời vƣợt giới.
“Transgender” là một thuật ngữ đƣợc khởi đầu từ nƣớc Mỹ, đƣợc sử dụng
để chỉ chung những ngƣời có lối sống dƣờng nhƣ khác với những chuẩn mực về
giới trong xã hội. Nó đƣợc dùng để chỉ những ngƣời vƣợt ra khỏi biên giới bình
thƣờng về giới, trong cách ăn mặc, trong cách thể hiện bản thân, và cả những ngƣời
27
đã trải qua nhiều cuộc phẫu thuật để có đƣợc cơ thể nhƣ giới tính họ mong muốn.
“Transgender” bao gồm nội hàm rất rộng: cả những ai sẵn sàng tr ải qua phẫu thuật,
hoặc không muốn phẫu thuật nhƣng đơn thuần muốn thể hiện bản thân và sống cuộc
đời họ nhƣ một giới tính khác
Những ngƣời chuyển giới vẫn thƣờng đƣợc đồng nhất một cách sai lầm với
ngƣời đồng tính và chuyển giới tính. Tuy nhiên, “transgender” có thể tự xác
định/hoặc đƣợc xác định là ngƣời dị tính, đồng tính, hay lƣỡng tính. Thuật ngữ này
bao hàm từ cả những ngƣời ăn vận theo đúng giới tính sinh học của họ, cho tới
những ngƣời thể hiện phá cách nhƣ là các drag queen (nữ hoàng giả trang) và các
đồng tính nữ (lesbian) nam tính.
Cũng thuộc phạm trù “transgender” có cả những ngƣời dị tính - những ngƣời
đạt đƣợc cảm giác về một giới tính mới mẻ thông qua y phục (bao gồm trang sức,
hình xăm và các phục sức khác thƣờng gắn với giới tính đối lập) có thể một cách bí
mật hoặc công khai, có thể hoàn toàn hoặc chỉ phần nào. Có ba thuật ngữ thƣờng
đƣợc dùng để mô tả những ngƣời nhƣ vậy (trong tiếng Anh thƣờng đƣợc nhắc đ ến
là “trans people”): ngƣời ăn vận cải giới (transvestite), ngƣời chuyển giới
(transgender), và ngƣời chuyển giới tính (transsexual), tuy nhiên trên thực tế, ngƣời
có giới tính khác biệt với cơ thể sinh học có thể có những bản dạng giới rất phức
tạp, và họ có thể chuyển từ loại hình này sang loại hình khác trong suốt cuộc đời
[20, tr 12-13].
Ở Việt Nam, “transgender” là một thuật ngữ mới xuất hiện và gây khó khăn
trong khi sử dụng. Hiện nay có nhiều cách gọi ám chỉ thuật ngữ này, đó là “ngƣời
chuyển giới”, “ngƣời xuyên giới”, “ngƣời vƣợt giới”, trong khi khái niệm
“transexual” khá đƣợc thống nhất về cách hiểu - đó là “ngƣời chuyển đổi giới tính”
(mong muốn thay đổi cơ thể hoặc đã qua phẫu thuật). Cách gọi phổ thông thƣờng
đƣợc nhiều ngƣời nói đến đó là “ngƣời chuyển giới”, mặc dù nội hàm của thuật ngữ
này gây lúng túng khi phân tích từ nguyên nghĩa gốc cũng nhƣ trên thực tế. Bởi rất
nhiều ngƣời “chuyển giới” hoàn toàn không “chuyển” sang giới tính ngƣợc lại với
giới tính sinh học của họ, mà thƣờng có cảm giác về một bản dạng giới mơ hồ về
28
giới tính, hoặc chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, giới tính này sang giới
tính khác, tùy vào thời gian và bối cảnh. Họ thƣờng đƣợc phân làm hai nhóm: một
là nhóm từ nam qua nữ (MTF: Male to Female Transgender) và nhóm từ nữ qua
nam (FTM: Female to Male Transgender) [19, tr29].
Tuy nhiên, để dễ dàng hơn trong cách hiểu và sử dụng, cũng nhƣ giới hạn đối
tƣợng nghiên cứu, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tạm gọi những ngƣời có
những cảm nhận rõ ràng về giới tính thật của mình khác với giới tính sinh học, dù
phẫu thuật hay chƣa, là “ngƣời chuyển giới”.
1.1.4. Một số khái niệm liên quan
- Giới (Gender - Gọi đầy đủ là Giới tính xã hội): Giới của một ngƣời hình
thành trong quá trình trƣởng thành của ngƣời đó.Về cơ bản Giới cấu thành từ 3 góc
nhìn: Giới tính sinh học, Mong đợi xã hội (nhƣ văn hóa, truyền thống...), Bản dạng
giới (cảm nhận của mỗi cá nhân về giới tính của mình). [55, tr 1].Theo cách tiếp cận
về quyền con ngƣời, tác giả nhấn mạnh khía cạnh bản dạng giới khi xét đến Giới
tính xã hội của một ngƣời. Từ đây, chúng ta có ngƣời Nam hoặc Nữ - không chuyển
giới (Cisgender man/woman), ngƣời Nam hoặc Nữ - chuyển giới (Transgender
man/woman) và ngƣời Xuyên giới (có thể gọi chung bằng từ Transgender).
- Giới tính (Sex - Gọi đầy đủ là giới tính sinh học): dùng để nói về mặt cấu
tạo sinh học của một con ngƣời là chính. Bao gồm cả bộ phận sinh dục ngoài
(dƣơng vật, âm vật...) và bộ phận hay đặc điểm sinh dục bên trong (nhiễm sắc thể,
hoóc-môn, buồng trứng, tử cung...) Từ đây, chúng ta có ngƣời có giới tính Nam
(Male), giới tính Nữ (Female) hay ngƣời Liên giới tính (Intersex) - ngƣời cấu tạo
sinh học không điển hình là nam hay nữ. [55, tr 1]
- Bản dạng giới (gender identity): cảm nhận hoặc trải nghiệm mang tính chủ
quan của một cá nhân, cảm thấy mình thuộc về giới nam hay nữ. Nói cách khác, bản
dạng giới là do cá nhân tự xác định. Những cảm nhận này liên quan đến sự thể hiện
giới (gender expession) hay vai trò giới (gender role). Một ngƣời do đó có thể cảm
nhận vai trò giới của họ đi ngƣợc với cấu trúc sinh học. Thể hiện giới của một cá
29
nhân bao gồm nhiều yếu tố và có thể đƣợc thể hiện qua quần áo, hành vi, lựa chọn
công việc, quan hệ cá nhân và các yếu tố khác. [56, tr 1]
- Người chuyển đối giới tính (Transsexual): Là ngƣời mong muốn, hoặc đã
trải qua phẫu thuật để đạt đến sự trùng khớp giữa cơ quan sinh dục và bản dạng giới
thực sự trong não của họ. [56, tr 1]
- Tình dục: là khái niệm phản ánh quan hệ tính giao giữa hai cá thể. [55. Tr1]
- Tính dục là một khái niệm có nội hàm rộng hơn, vừa phản ánh quan hệ tính
giao giữa 2 cá thể vừa chứa đựng những yếu tố tạo nên phần hữu hình và cả phần vô
hình của một con ngƣời. Năm 1970, Ủy ban giáo dục và thông tin về tình dục ở Mỹ
đã đƣa ra định nghĩa hiện đại về tính dục nhƣ sau: Tính dục là tổng thể con người,
bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của con trai hoặc con gái, đàn ông hoặc đàn bà
và biến động suốt đời. Tính dục phản ánh tính cách con người, không phải chỉ là
bản chất sinh dục. Vì là một biểu đạt tổng thể của nhân cách, tính dục liên quan tới
yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tinh thần và văn hóa của đời sống. Những yếu tố này
ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách và mối quan hệ giữa người với người và do
đó tác động trở lại xã hội. Nhƣ vậy, tính dục ngƣời là toàn bộ con ngƣời đó nhƣ là
ngƣời nam hay ngƣời nữ và những yếu tố tạo nên tính dục cũng là những thành
phần làm nên nhân cách - tổng thể những phẩm chất tâm lý đặc trƣng ở một con
ngƣời, thể hiện ra bằng hành vi ứng xử. [55, tr1]
- Xu hướng tính dục: là một trong 4 yếu tố tạo nên tính dục của con ngƣời, là
sự hấp dẫn về mặt tình cảm và thể chất với một đối tƣợng thuộc giới nào đó. Những
yếu tố còn lại là giới sinh học (cấu trúc gene, ngoại hình, nội tiêt), bản dạng
giới (cảm nhận mình thuộc giới nam hay nữ) và vai trò xã hội của giới (có hành vi
cƣ xử theo kiểu nam hay nữ-giới tính nam hay giới tính nữ về mặt tâm lý xã hội).
[55, tr1]
- Thiên hướng tình dục (còn đƣợc gọi là “xu hƣớng tình dục" hay "khuynh
hƣớng tình dục): chỉ sự bị hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc về mặt tình dục bởi ngƣời
khác giới tính hoặc ngƣời cùng giới tính với mình hoặc cả hai một cách lâu dài.
30
Theo Hiệp hội Tâm lí Hoa Kỳ, thiên hƣớng tình dục cũng chỉ sự ý thức cá
nhân và sự công nhận của xã hội về những hấp dẫn đó cũng nhƣ chỉ một cộng đồng
cùng có chung sự hấp dẫn.
Thiên hƣớng tình dục thƣờng đƣợc phân loại dựa trên giới tính của những
ngƣời hấp dẫn mình do đó thƣờng đƣợc nêu lên dƣới dạng ba loại: dị tính luyến
ái, đồng tính luyến ái và song tính luyến ái. Tuy nhiên một vài ngƣời có thể thuộc
một loại khác với ba loại trên hoặc không thuộc một loại nào cả. Những dạng thiên
hƣớng tình dục thông thƣờng nhất nằm trên một thang đo từ hoàn toàn dị tính luyến
ái (chỉ bị hấp dẫn bởi ngƣời khác phái) cho đến hoàn toàn đồng tính luyến ái (chỉ bị
hấp dẫn bởi ngƣời cùng phái) và bao gồm vài dạng song tính luyến ái khác (bị hấp
dẫn bởi cả hai phái). [55, tr 1]
- Quyền: Khả năng thực hiện ý chí của cá nhân mà không ai có thể ngăn cản,
bởi hành động đó đƣợc pháp luật công nhận và bảo hộ. [26, tr5]
- Quyền chuyển giới: Khả năng thực hiện những hành vi phù hợp với bản
dạng giới của mỗi cá nhân mà không bị pháp luật ngăn cấm và đƣợc xã hội công
nhận. [26, tr 5].
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1 Lý thuyết xã hội hóa vai trò giới
Xã hội hóa là quá trình mà qua đó cá nhân nội hóa những quy tắc, chuẩn
mực, giá trị của một xã hội. Sau đó, cá nhân sẽ ngoại hóa những gì tiếp thu và học
đƣợc qua hành động xã hội của mình. Xã hội hóa trƣớc hết đƣợc hiểu nhƣ là một
quá trình theo đó đứa trẻ lớn lên trong xã hội. Nhƣng theo một nghĩa rộng hơn, xã
hội hóa chính là khả năng của một cá nhân hội nhập với cộng đồng xã hội.
Lý thuyết xã hội hóa đƣợc dung làm cơ sở để nhìn nhận và lý giải vấn đề. Có
nhiều cách hiểu khác nhau về xã hội hóa. Căn cứ vào tính chủ động của cá nhân
trong quá trình xã hội hóa, chúng ta có thể chia thành hai loại:
+ Loại 1: Ít đề cập đến tính chủ động của cá nhân trong quá trình thu nhận
kinh nghiệm xã hội. Các cá nhân bị khuôn sẵn vào các chuẩn mực.
31
Một đại diện cho cách hiểu này là Neil Smelser. Ông cho rằng “xã hội hóa là
quá trình mà trong đó cá nhân học cách thức hành động tƣơng ứng với vai trò của
mình”, nghĩa là vai trò của cá nhân chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh
nghiệm, giá trị, chuẩn mực.
+ Loại 2: Khẳng định tích cực, sáng tạo của cá nhân trong quá trình thu nhận
kinh nghiệm xã hội. Cá nhân không chỉ tiếp thu những kinh nghiệm xã hội mà còn
tham gia vào quá trình tạo ra những kinh nghiệm xã hội.
Nhà xã hội học Mỹ J. H. Fichter đã chú ý hơn tính tính cực của cá nhân khi
ông cho rằng “xã hội hóa là một quá trình tƣơng tác giữa ngƣời này với ngƣời khác,
kết quả là sự chấp nhận khuôn mẫu hành động đó”. G. Andreeva đã nêu ra đƣợc cả
hai mặt của quá trình xã hội hóa. Bà cho rằng “xã hội hóa là quá trình hai mặt. Một
mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trƣờng xã
hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ
động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội”.
Nhƣ vậy, cá nhân trong quá trình xã hội hóa không đơn thuần thu nhận kinh
nghiệm xã hội mà còn chuyển hóa nó thành những giá trị, xu hƣớng của cá nhân để
tham gia tái tạo, “tái sản xuất” chúng trong xã hội. Mặt thứ nhất của quá trình xã hội
hóa thu nhận kinh nghiệm xã hội thu nhận kinh nghiệm xã hội thể hiện sự tác động
của con ngƣời tới môi trƣờng. Mặt thứ hai của quá trình thể hiện sự tác động của
con ngƣời trở lại môi trƣờng thông qua hoạt động của mình.
R. Stark đƣa ra luận điểm " Xã hội hoá là quá trình cá nhân học đóng vai trò
xã hội của mình". Do vậy xã hội hoá vai trò giới có thể hiểu là quá trình nam và nữ
học hỏi cách đóng vai trò xã hội phù hợp với giới của mình: phụ nữ hay nam giới.
Theo lý thuyết xã hội hoá vai trò giới, vai giới, tƣơng quan giới là kết quả của quá
trình xã hội hoá cá nhân. Các cấu trúc hành vi, tình cảm và thái độ đặc thù cho mỗi
giới đã có sẵn trong xã hội trƣớc khi đứa trẻ chào đời. Và từ khi lọt lòng cho đến lúc
mất đi con ngƣời không ngừng tiếp thu và làm theo các cấu trúc giới đang tồn tại
một cách khách quan tuỳ theo giới tính của mình. Các giai đoạn của quá trình xã hội
hoá vai trò giới cũng giống quá trình xã hội hóa cá nhân: gia đình, nhà trƣờng,
32
trƣởng thành. Những ngƣời theo lý thuyết nhấn mạnh đến giai đoạn gia đình vì bản
sắc giới tính định hình từ giai đoạn này. Sức ép giáo dục rất mạnh đối với đứa trẻ
trong việc nhận diện giới tính nhƣ lựa chọn đồ chơi, quần áo, cử chỉ hành vi phù
hợp với một bé trai hay bé gái. Đây cũng là giai đoạn xã hội hoá cá nhân cơ bản
theo quan điểm của T. Parson và Andrieva.
Theo quan điểm của lý thuyết này, việc nhận dạng và quyết định bản dạng
giới của mỗi cá nhân cũng là một quá trình xã hội hóa, theo đó, các cá nhân học hỏi,
tiếp thu những giá trị về giới, thực hiện vai trò giới theo đúng khuôn mẫu đã đƣợc
học hỏi. Hoặc ngƣợc lại, việc những ngƣời chuyển giới công khai và sống thật với
bản dạng giới không giống với định kiến và khuôn mẫu xƣa cũ cũng là quá trình tác
động ngƣợc lại của cá nhân với quá trình xã hội hóa.
1.2.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng của H.Mead và Blumer
Đây là một lý thuyết rất quan trọng trong hệ lý thuyết về tƣơng tác xã hội.
Theo hai tác giả này thì hành vi của con ngƣời là những phản ứng đáp lại hành vi
của ngƣời khác. Thực chất con ngƣời tồn tại trong một thế giới mà đối tƣợng và ý
nghĩa của nó chỉ xuất hiện trong tƣơng tác giữa các cá nhân. Cá nhân tạo ra các
nhóm xã hội nhờ vào sự liên kết giữa họ về các biểu trƣng. Và sở dĩ con ngƣời giao
tiếp đƣợc với nhau trong một tƣơng tác xã hội nào đó là vì họ có cùng chung một hệ
thống biểu trƣng nào đó. Biểu trƣng có thể tồn tại ở dạng ngôn ngữ viết, nói hoặc cả
những ngôn ngữ không thành lời.
Khi một cá nhân đƣa ra một thao tác, họ đã có sự cân nhắc về ý nghĩa của
thao tác, đƣợc gắn vào mục tiêu dƣới dạng hình tƣợng trong ý thức của chủ thể. Nếu
trong tƣơng tác, ý nghĩa của thao tác không đƣợc đối tác chấp nhận hoặc đánh giá
không tƣơng ứng về ý nghĩa mà chủ thể đã đặt ra thì lập tức nó sẽ đƣợc điều chỉnh
phù hợp từ bên trong. Và quá trình đó sẽ lặp đi lặp lại cho đến khi chủ thể nhận thức
cho rằng đã phù hợp với biểu trƣng của một chủ thể hành động khác thì nó mới
đƣợc lặp lại. Khi đƣợc lặp lại, nó đƣợc nâng cao lên một bƣớc về ý thức và đƣợc đối
tức tiếp nhận theo một cách nào đó. Và kết quả là chủ thể lại điều chỉnh nó lần thứ
hai. Cứ nhƣ vậy, giữa các chủ thể sẽ hình thành nên một biểu trƣng chung, có ý
33
nghĩa chung tƣơng đối bền vững. Rõ ràng tồn tại một sự chi phối giữa những biểu
trƣng chung của nhóm với các biểu trƣng cá nhân. Cá nhân có thể có những cách
đánh giá, cách ứng xử riêng nhƣng dƣờng nhƣ vẫn phải có sự đồng điệu giữa chúng
với biểu trƣng của nhóm. Bởi đó chính là cơ sở cho sự hoà nhập của cá nhân với
nhóm, nhờ đó cá nhân đƣợc chấp nhận nhƣ một thành viên và nhóm mới phát triển.
[6, tr354-360].
Từ lý thuyết này có thể giải thích những nguyên do vì sao những ngƣời
chuyển giới nói riêng và cộng đồng LGBT hay phải hứng chịu những định kiến và
kỳ thị của xã hội, bởi họ sống và hành động khác với những “biểu trƣng” mà xã hội
vốn cho là đúng đắn.
1.2.3 Lý thuyết Sự lựa chọn hợp lý
Thuyết lựa chọn hợp lý trong xã hội học có nguồn gốc từ triết học, kinh tế
học và nhân học vào thế kỷ VIII,XIX. Một số nhà triết học đã cho rằng bản chất con
ngƣời là vị kỷ, luôn tìm đến sự hài lòng, sự thoả mãn và lảng tránh nỗi khổ đau.
Thuyết này gắn với tên tuổi của rất nhiều nhà xã hội học tiêu biểu nhƣ:
George Homans, PeterBlau, JamesColeman…Thuyết lựa chọn hợp lý dựa vào tiền
đề cho rằng con ngƣời luôn hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa
chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt đƣợc kết quả tối đa với
chi phí tối thiểu. Thuật ngữ “lựa chọn” đƣợc dùng để nhấn mạnh việc phải cân
nhắc, tính toán để quyết định sử dụng loại phƣơng tiện hay cách thức tối ƣu trong số
những điều kiện hay cách thức hiện có để đạt đƣợc mục tiêu trong điều kiện khan
hiếm các nguồn lực. Phạm vi của mục đích đây không chỉ có yếu tố vật chất (lãi, lợi
nhuận, thu nhập) mà còn có cả yếu tố lợi ích xã hội và tinh thần. “Sự lựa chọn chỉ
hợp lý trên cơ sở đánh giá các yếu tố, các điều kiện khách quan của hành động từ
phía bản thân chủ thể, từ góc độ chủ quan của ngƣời ra quyết định chứ khó có thể
dựa vào những tính toán chính xác”. [6, tr366-367].
Nhƣ vậy, với lý thuyết này, sự lựa chọn công khai bản dạng giới hay quyết
định phẫu thuật thay đổi cơ thể cho phù hợp với giới tính mong muốn của ngƣời
chuyển giới có thể đƣợc lý giải một cách minh bạch.
34
1.3 Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.3.1 Sơ lược về cộng đồng chuyển giới tại Việt Nam
Thật khó để biết đƣợc số lƣợng ngƣời chuyển giới ở Việt Nam, đặc biệt khi
khái niệm chuyển giới không chỉ khuôn gọn vào những ngƣời đã phẫu thuật, mà cả
những ngƣời có cảm nhận rõ ràng về giới tính thực của mình khác với giới tính sinh
học, và có xu hƣớng/mong muốn đƣợc chuyển đổi, mặc dù trên thực tế điều đó có
thể chƣa và không bao giờ xảy ra. Ở Việt Nam chƣa có điều tra nào về số ngƣời
chuyển giới, nhƣng các điều tra trên thế giới cho kết quả khác nhau từ 0,1 đến 0,5%
dân số là ngƣời chuyển giới. Số liệu ƣớc tính mới nhất cho thấy có khoảng 0,3%
dân số Mỹ là ngƣời chuyển giới [19. tr30]. Ngƣời chuyển giới đƣợc qui thành 2
nhóm: từ nam sang nữ (còn đƣợc gọi là Trans Girl/Women, hay Male To Female -
MTF) và từ nữ sang nam (còn đƣợc gọi là Trans Guy, hay Female To Male - FTM).
Ngƣời chuyển giới từ nam sang nữ ở TP. Hồ Chí Minh thƣờng gọi nhau và tự gọi
mình là “bóng”, “bóng lộ”, còn ở Hà Nội thƣờng gọi nhau là “Tigi” (TG -
transgender). Ngƣời chuyển giới từ nữ sang nam thƣờng gọi nhau và tự gọi mình là
“trans” và “trans guy”.
Hộp 1: Phân biệt “bản dạng giới” và “giới tính sinh học”
Bản dạng giới (gender identity): cảm nhận hoặc trải nghiệm mang tính chủ
quan của một cá nhân, cảm thấy mình thuộc về giới nam hay nữ. Nói cách khác, bản
dạng giới là do cá nhân tự xác định. Những cảm nhận này liên quan đến sự thể hiện
giới (gender expession) hay vai trò giới (gender role). Một ngƣời do đó có thể cảm
nhận vai trò giới của họ đi ngƣợc với cấu trúc sinh học. Thể hiện giới của một cá
nhân bao gồm nhiều yếu tố và có thể đƣợc thể hiện qua quần áo, hành vi, lựa chọn
công việc, quan hệ cá nhân và các yếu tố khác.
Giới tính sinh học ( biological sex): giới tính của một ngƣời dựa trên cơ quan
sinh dục ngoài
Cộng đồng MTF (trans women) thƣờng là những ngƣời có cơ thể nam giới
nhƣng có xu hƣớng nữ tính, có suy nghĩ, hành vi giống phụ nữ và mong muốn đƣợc
trở thành phụ nữ. Cộng đồng FTM là những ngƣời có cơ thể sinh học của nữ giới, 35
nhƣng có xu hƣớng nam tính và muốn trở thành nam giới. Có thể nói đối với ngƣời
chuyển giới, quá trình tự nhận thức về bản dạng giới là một quá trình khó khăn và
lâu dài từ khi còn nhỏ đến lúc trƣởng thành. Đặc biệt, việc nhận thức ra bản dạng
giới của họ thƣờng đi kèm với quyết định liên quan đến thể hiện giới và đón nhận
những thách thức trong cuộc sống.
Hộp 2: Phân biệt Transgender và Transsexual
Ngƣời chuyển giới (Transgender) là một ngƣời đƣợc sinh ra với cơ thể sinh
học là nam hay nữ, nhƣng có một khát vọng mạnh mẽ và nhất quán, có giới tính
khác với giới tính sinh học của họ lúc sinh. Họ có thể trải qua hoặc không trải qua
việc điều trị y tế để chuyển đối sang bản dạng giới họ chọn.
Ngƣời chuyển đối giới tính (Transsexual) Là ngƣời mong muốn, hoặc đã
trải qua phẫu thuật để đạt đến sự trùng khớp giữa cơ quan sinh dục và bản dạng giới
thực sự trong não của họ.
Ở Việt Nam, nhiều tổ chức đã có những nghiên cứu đa chiều về các nhóm
đồng tính và song tính, tuy nhiên, trừ một nghiên cứu nhỏ bạo lực với ngƣời chuyển
giới của CCIHP, nhóm chuyển giới chỉ mới đƣợc đề cập trong một số nghiên cứu
chung về MSM hay LGBT. Cùng với việc phải hứng chịu thái độ kỳ thị, phân biệt
đối xử, ngƣời chuyển giới ở Việt Nam, có quá ít thông tin và tƣ liệu về cộng đồng
ngƣời chuyển giới cũng nhƣ những vấn đề cá nhân và xã hội mà họ đang phải đối
mặt. Ngoài một vài diễn đàn mạng của cộng đồng, hầu nhƣ không có nguồn thông
tin chính thống nào về ngƣời chuyển giới ở Việt Nam. Những thông điệp còn mang
nặng định kiến, thiếu thực tế trên báo chí và một số kênh truyền thông đã tạo nên và
củng cố thêm những hiểu biết sai lệch và thái độ kỳ thị xã hội đối với ngƣời chuyển
giới. Ngƣời chuyển giới đƣợc mô tả nhƣ những ngƣời “đồng tính”, “kệch cỡm”
hoặc “bệnh hoạn” [25, tr 15]. Thêm vào đó, do bị chọc ghẹo tại trƣờng học và thiếu
sự hỗ trợ từ gia đình, nhiều ngƣời chuyển giới đã phải bỏ học, bỏ nhà đi bụi và đối
mặt với sự mất an toàn của bản thân (bạo lực, hãm hiếp, cƣớp giật), sự nghèo đói và
khó khăn về kế sinh nhai. Điều này càng trở nên nghiêm trọng hơn do thiếu sự hợp
36
tác của các cơ quan an ninh bảo vệ họ cũng nhƣ thiếu ngƣời tuyển dụng sẵn sàng
chấp nhận họ.
Hộp 3: Phân biệt ngƣời chuyển giới và ngƣời đồng tính
Ngƣời chuyển giới có cảm nhận và giới tính mong muốn của mình không
trùng với giới tính sinh học đang có. Ví dụ, một ngƣời có cơ thể sinh học từ khi sinh
ra là nam và nghĩ mình là nữ và ngƣợc lại. Cộng đồng ngƣời chuyển giới gồm hai
nhóm: chuyển giới từ nam sang nữ và chuyển giới từ nữ sang nam.
Ngƣời chuyển giới liên quan đến việc ngƣời đó nhận mình là nam hay nữ,
trong khi ngƣời đồng tính, song tính hay chuyển giới liên quan tới việc ngƣời đó bị
hấp dẫn bởi ngƣời cùng giới hay khác giới.
Ngƣời đồng tính là ngƣời có sự hấp dẫn về tình cảm và/hoặc tình dục với
ngƣời cùng giới.
Ngƣời dị tính là ngƣời có sự hấp dẫn về tình cảm và/hoặc tình dục với ngƣời
khác giới.
Ngƣời song tính là ngƣời có sự hấp dẫn về tình cảm và/hoặc tình dục với cả
nam và nữ.
Chuyển giới là một khái niệm liên quan đến bản dạng giới, trong khi đồng
tính, song tính hay dị tính là những khái niệm liên quan đến xu hƣớng tình dục.
Rõ ràng, nhóm chuyển giới là một trong những nhóm dễ bị tổn thƣơng và bị
kỳ thị nhất trong xã hội. Mặt khác, ngƣời chuyển giới còn phải đối mặt với những
định kiến của cộng đồng đồng tính nam và đồng tính nữ do bị cho là nguyên nhân
gây ra những kỳ thị trong xã hội với cộng đồng LGBT nói chung. Nhiều ngƣời đồng
tính cho rằng, những ngƣời chuyển giới ăn mặc khác với giới tính sinh học của
mình (ví dụ nhƣ nam mặc giả gái) làm cho xã hội nghĩ ngƣời đồng tính nam là
thích giả gái và thích phẫu thuật chuyển giới. Thêm nữa, báo chí truyền thông
thƣờng nhầm lẫn về khái niệm cho rằng chuyển giới và đồng tính là giống nhau,
khiến cộng đồng ngƣời đồng tính muốn xa lánh cộng đồng chuyển giới. Những
ngƣời chuyển giới sinh hoạt lẫn trong cộng đồng ngƣời đồng tính thƣờng bị tẩy
chay hoặc xóa bỏ nick nếu họ thể hiện mình rõ ràng. Thực trạng này cần đƣợc thay 37
đổi, và đó là lý do tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm góp phần giúp cộng đồng, các
nhà làm luật và bản thân cộng đồng LGBT hiểu hơn về ngƣời chuyển giới cũng nhƣ
có giải pháp tốt nhất về luật pháp và thực tiễn đảm bảo cho quyền của ngƣời chuyển
giới tại Việt Nam.
Hộp 4: Một số thuật ngữ đƣợc sử dụng trong cộng đồng MTF
Lady boy: nam giới nhƣng ăn mặc chải chuốt, thoa phấn, sơn móng tay
…giống nữ
Bóng kín: đồng tính (gay) nhƣng bề ngoài vẫn giữ vẻ nam tính
Bóng lộ: ăn mặc vẫn nhƣ nam giới nhƣng ẻo lả, điệu đà giống nữ; hoặc là đã
ăn mặc và phẫu thuật giống nữ
Bóng liễu: ăn mặc nam giới nhƣng phong thái cũng điệu đà, thể hiện đôi khi
giống nữ
Bánh bèo: nữ dị tính (straight women)
Cộng: nam dị tính (straight men), hay nam “thẳng”, nam “xịn”
“Top thuần chủng” : gay nhƣng nam tính hoàn toàn, luôn đóng vai “chồng”
“Bot thuần chủng”: gay nhƣng nữ tính, luôn đóng vai “vợ”
1.3.2. Một số văn bản pháp luật liên quan đến người chuyển giới tại Việt
Nam
Trƣớc khi Bộ Luật Dân sự sửa đổi đƣợc thông qua vào cuối năm 2015, việc
chuyển đổi giới tính và các quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của ngƣời chuyển giới
không đƣợc Luật pháp Việt Nam công nhận và bảo hộ. Việc xác định lại giới tính
cũng đƣợc quy định nghiêm ngặt trong Luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 36
Nghị đinh số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản
lý hộ tịch thì một trong những phạm vi thay đổi, cải chính hộ tịch là “Thay đổi họ,
tên, chữ đệm đã được đăng ký đúng trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính giấy
khai sinh, những cá nhân có yêu cầu thay đổi khi có lý do chính đáng theo quy định
của Bộ luật Dân sự” [63]. Lý do chính đáng đƣợc nêu trong điều 27, 37 và 38 của
Nghị định trên bao gồm trùng tên, dễ gây nhầm lẫn, xác định lại huyết thống hoặc
xác định lại giới tính.
38
Tuy vậy, việc xác định lại giới tính đƣợc quy định tại Điều 36 Luật Dân sự
(chƣa sửa đổi) và Nghị định số 88/2008/NĐ-CP về Xác định lại giới tính lại chủ yếu
liên quan đến “những bất thường về bộ phận sinh dục”[64]. Bộ Luật Dân sự năm
2005 đã có những quy định đầu tiên về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân,
trong đó ghi rõ: “Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong
trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính
xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính. Việc xác định
lại giới tính được thực hiện theo quy định của pháp luật”[58]
Nghị định số 88/2008/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 05/08/2008 đã
có những quy định cụ thể hơn về việc xác định lại giới tính. Bên cạnh việc giới hạn
đối tƣợng đƣợc phép thực hiện những can thiệp y tế để chuyển đổi giới tính (Điều 5
và Điều 6) nhƣ đã nêu trong Bộ luật Dân sự, Nghị định còn nêu rõ những thủ tục,
giấy tờ cần thiết để các cá nhân phù hợp có thể thực hiện đƣợc mong muốn xác định
lại giới tính của mình. Đặc biệt, Nghị định còn nghiêm cấm những hành vi tiết lộ
thông tin, phân biệt đối xử đối với những cá nhân đã xác định lại giới tính (Điều 4).
Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi năm 2000 đã có quy định rõ ràng - chỉ
công nhận mối quan hệ hôn nhân giữa một ngƣời nam và một ngƣời nữ. Đồng thời,
Luật bổ sung thêm quy định cấm kết hôn giữa ngƣời đồng giới tại khoản 5, Điều 10:
Những trường hợp cấm kết hôn “giữa những người cùng giới tính” [60]. Luật Hôn
nhân và gia đình 2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015, thay thế Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có nhiều quy định
mới và có những sửa đổi, trong đó có 1 điểm đƣợc cộng đồng LGBT quan tâm đó là
Không cấm kết hôn đồng giới. Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 quy định cấm kết
hôn đồng giới và vì cấm nên đi kèm sẽ có các chế tài xử phạt nếu vi phạm. Nay,
Luật Hôn nhân gia đình 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng
giới tính” nhƣng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người
cùng giới” (Khoản 2 - điều 8)[61]. Theo đó, những ngƣời cùng giới sẽ vẫn có thể
kết hôn, tuy nhiên sẽ không đƣợc pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra.
39
Năm 2006, Luật bình đẳng giới đƣợc Quốc hội ban hành và đƣợc xem là một
bƣớc tiến lớn trong việc đạt đƣợc bình đẳng giới ở Việt Nam, tuy nhiên chỉ xem xét
bình đẳng giới giữa nam và nữ trong các vấn đề của đời sống xã hội. Nhƣ vậy, trong
cả hai bộ Luật quan trọng này, quyền lợi của ngƣời phi dị tính đều không đƣợc bảo
vệ. Trong khi Luật Hôn nhân và Gia đình cấm ngƣời cùng giới kết hôn với nhau,
Luật bình đẳng giới không đề cập gì tới quyền bình đẳng của họ mà chỉ nói tới
“nam” và “nữ”. Những ngƣời không đƣợc xã hội xem là “nam” và “nữ” sẽ không
đƣợc bảo hộ bởi luật này.
Mong muốn có con cũng là một nhu cầu, mong muốn chính đáng của những
ngƣời chuyển giới. Tuy nhiên, ở nƣớc ta, hiện chỉ quy định hỗ trợ sinh sản cho các
cặp vợ chồng hiếm muộn, nếu những ngƣời chuyển giới muốn có con đẻ, họ phải sử
dụng phƣơng pháp thụ tinh nhân tạo hoặc mang thai hộ. Trong trƣờng hợp đó, sau
khi đứa trẻ ra đời, ngƣời chuyển giới sẽ không đƣợc công nhận là bố/ mẹ đẻ, cũng
không thể đƣợc công nhận là bố/mẹ nuôi vì pháp luật quy định khi mối quan hệ con
nuôi đã đƣợc xác định thì bố mẹ đẻ không có quyền và nghĩa vụ với ngƣời con này
nữa - Khoản 4, Điều 24, Luật nuôi con nuôi, 2010: “ Trừ trường hợp giữa cha mẹ
đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ
không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp
luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm
con nuôi [62].
Ngày 24/11/2015, Quốc Hội đã chính thức hợp pháp hóa việc chuyển đổi
giới tính tại Bộ luật Dân sự sửa đổi, trong đó điều 37 có quy định Quyền chuyển đổi
giới tính, trong đó quy định “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy
định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi
hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân thân phù hợp với giới
tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên
quan.”[59].
Tóm lại, trƣớc khi Luật Dân sự sửa đổi đƣợc thông qua (cuối năm 2015) thì
việc chuyển đổi giới tính không đƣợc Luật pháp Việt Nam công nhận, theo đó,
40
những quyền lợi và nghĩa vụ của ngƣời chuyển giới cũng không đƣợc bảo hộ và gây
nhiều trở ngại đối với ngƣời chuyển giới tại Việt Nam.
1.3.3. Một số kinh nghiệm quốc tế liên quan tới người chuyển giới
Tính đến tháng 9 năm 2015, có 61 quốc gia trên thế giới hợp pháp hóa việc
thay đổi giới tính trên giấy tờ. Phần lớn các nƣớc Châu Âu, Châu Mỹ và nhiều nƣớc
Châu Á thừa nhận quyền thay đổi nhân thân sau phẫu thuật. Các nƣớc đang thay đổi
theo xu hƣớng thừa nhận quyền thay đổi giới tính trên giấy tờ ngay cả khi không
cần phẫu thuật. Ngoài ra, quyền đƣợc thay đổi tên không phụ thuộc vào việc đã
phẫu thuật hay chƣa cũng đƣợc thừa nhận rộng rãi.
Năm 1985, Hà Lan là một trong những nƣớc Châu Âu đầu tiên thừa nhận
quyền của ngƣời chuyển giới - đƣợc phép thay đổi giới tính trên giấy tờ nhân thân
mặc dù với hàng loạt quy định chặt chẽ. Một quy định tƣởng chừng nhƣ rất đƣơng
nhiên là là ngƣời chuyển giới có quyền thay đổi giới tính trên giấy tờ nếu họ đã trải
qua điều trị hooc-môn và phẫu thuật chuyển giới nhƣng lại trở thành một vấn đề
nghiêm trọng sau này. Những điều kiện quy định tại điều 1:28 của Bộ Luật Dân sự
Hà Lan đƣợc cho là đã vi phạm quyền tự chủ cơ thể, quyền tự quyết về bản dạng
giới của con ngƣời, gây ra những tác động xấu lên đời sống thƣờng ngày của ngƣời
chuyển giới. Những nhà vận động, khoa học đòi hỏi rằng cần phải tách bạch câu
chuyện y tế và pháp lý của ngƣời chuyển giới. Việc thừa nhận pháp lý của một
ngƣời không nên phụ thuộc vào nhiều tình trạng can thiệp y tế của họ. Bởi không
phải ngƣời chuyển giới nào cũng có điều kiện kinh tế, sức khỏe, thời gian để phẫu
thuật chuyển giới. Những ngƣời này cho rằng họ không “mắc kẹt trong một cơ thể
sai” mà họ chỉ “mắc kẹt trong một quy định pháp luật” mà thôi. Đến tháng 12/2013,
Quốc hội Hà Lan sửa đổi Bộ Luật Dân sự, chỉnh sửa lại một số quy định từ năm
1985, bãi bỏ những điều kiện về trị liệu hooc-môn và phẫu thuật chuyển giới. Từ
nay, ngƣời chuyển giới chỉ còn cần một giấy chứng nhận từ chuyên gia tâm lý rằng
ngƣời này có bản dạng giới thuộc giới tính kia, sẽ có thể thay đổi giới tính trên
thông tin hộ tịch của mình. Đó là sự thay đổi rất có ý nghĩa. Nó chặt chẽ vừa đủ và
trao thêm tự do cho cả ngƣời dân và cơ quan nhà nƣớc. Giới tính của một ngƣời
41
không thể do ngƣời khác quyết định. Thừa nhận việc tôi nghĩ mình là ai, là yếu tố
cơ bản của việc thừa nhận cá thể đó trong xã hội bởi Nhà nƣớc không trao cho họ
giới tính mà chỉ có thể thừa nhận.
Nhiều nƣớc Châu Á thừa nhận giới tính mới sau khi phẫu thuật nhƣ Nhật
Bản, Trung Quốc, Singapore, Phillipines… và một số nƣớc không yêu cầu phải
phẫu thuật để thay đổi giấy tờ nhƣa Hàn Quốc, Đài Loan, Israel…[26, tr 15].