BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Minh Tuyến

Chuyên ngành : Lý luận văn học Mã số

: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ

Nguyễn Hoài Thanh, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và

hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giảng dạy của các thầy cô giáo cũng

như sự giúp đỡ, tạo điều kiện của phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học,

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh để tôi có thể hoàn thành khóa

học, hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tôi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới những người thân trong

gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi vượt mọi khó khăn hoàn thành khóa học

và luận văn.

Tác giả luận văn Phạm Thị Minh Tuyến

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Năm 1990, khi trả lời những câu hỏi xung quanh vấn đề về Tự lực văn đoàn, nhà thơ Lưu Trọng

Lư đã khẳng định: “Điều tôi muốn lưu ý là phải tìm ở họ cái gì của Việt Nam”.

Tự lực văn đoàn là tên gọi của một nhóm các nhà văn, nhà thơ xuất hiện trên văn đàn Việt Nam

từ năm 1932. Tính đến nay đã được trên bảy thập niên, vậy mà cái tên Tự lực văn đoàn với những sáng

tác văn chương của họ vẫn luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của rất nhiều người. Số lượng công trình

nghiên cứu, bài tham luận về Tự lực văn đoàn có thể nói là vô cùng phong phú. Cụ thể hơn, nhóm văn

đoàn này đã được nghiên cứu, tìm hiểu dưới nhiều góc độ như: chính trị - xã hội, tôn giáo, phương

pháp sáng tác, thi pháp học, dân tộc học, văn hóa học … Nội dung phong tục trong tiểu thuyết Tự lực

văn đoàn cũng đã được ít nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên, cho đến nay nội dung này vẫn

chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, chưa được lý giải và phân tích cặn kẽ, và đặc biệt là ít được

tiếp cận dưới góc độ văn hóa học. Hơn nữa, trong những năm gần đây, vấn đề giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hóa dân tộc, hướng đến mục tiêu “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản

sắc dân tộc” cũng là lý do thúc đẩy chúng tôi thực hiện luận văn: “Đề tài phong tục Việt Nam trong

tiểu thuyết Tự lực văn đoàn”. Với đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ có điều kiện đi sâu tìm hiểu

những vấn đề phong tục trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn để có thể hiểu thêm về con người, xã hội

Việt Nam vào những năm 1930 – 1945, thời kì bắt đầu của quá trình mở rộng giao lưu với phương

Tây, để nhận ra đâu là những truyền thống tốt đẹp của cha ông mà hôm nay chúng ta cần giữ gìn và

phát huy, đâu là những hủ tục lạc hậu cần phải xóa bỏ. Thực hiện đề tài này, chúng tôi rất muốn được

góp thêm ít sức mình vào công cuộc “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” qua việc kiếm tìm

“cái gì của Việt Nam” trong thành tựu tiểu thuyết của các nhà văn Tự lực văn đoàn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Về lịch sử quá trình nghiên cứu tiểu thuyết Tự lực văn đoàn dưới góc độ văn hóa, xã hội và

phong tục, ta có thể phân chia thành ba thời kì:

Thời kì trước 1945:

Năm 1939, trong cuốn Dưới mắt tôi của Trương Chính, các tác phẩm Đoạn tuyệt, Lạnh lùng,

Tối tăm của Nhất Linh; Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia đình của Khái Hưng …

đều đã được tác giả công trình nghiên cứu xem xét dưới quan điểm đạo đức xã hội. Cụ thể, sau khi

phân tích nội dung tác phẩm Đoạn tuyệt, Trương Chính kết luận: “Ngoài những hạt bụi ấy, Đoạn tuyệt

là một kiệt tác trong văn học Việt Nam hiện đại. Vì Đoạn tuyệt không chỉ có một giá trị xã hội. Nó còn

có một giá trị tâm lý không ai chối cãi được” 26, tr. 302. Hay mở đầu bài nghiên cứu tiểu thuyết

Lạnh lùng, ông viết: “Lạnh lùng là mũi tên độc thứ hai ông Nhất Linh bắn vào đích ông nhắm: Khổng

giáo” 26, tr. 303. Về các sáng tác của Khái Hưng, nhà nghiên cứu Trương Chính cũng đã ghi nhận sự

đóng góp của nó về mặt chống lại chế độ đại gia đình: “Nửa chừng xuân là cuốn truyện ghi sự phấn

đấu giữa cá nhân và chế độ ấy. Tác giả biện luận cho quan điểm nhân sinh mới và công bố sự bất hợp

thời của những tập quán do nền luân lý cổ truyền tạo ra” 26, tr. 313.

Đến năm 1941, trong công trình nghiên cứu Ba mươi năm văn học, Mộc Khuê bàn về tiểu

thuyết quốc ngữ Việt Nam. Nhà nghiên cứu này đã chia tiểu thuyết thành chín loại. Sau đó, ông lần

lượt đi vào từng loại và giới thiệu những nhà văn cùng với một vài tác phẩm tiêu biểu. Đến loại tiểu

thuyết phong tục, ông cho rằng: “Phong tục tiểu thuyết về miền thượng du Bắc Kỳ của Lan Khai

(Tiếng gọi của rừng thẳm, Suối đàn, Truyện lạ đường rừng), về miền sơn cước Trung Kỳ của Lưu

Trọng Lư (Khói lam chiều, Chiếc cáng xanh) của Trần Tiêu (Con trâu, Chồng con) và nhứt là quyển

Lều chõng cự đại của Ngô Tất Tố” 57, tr. 51. Như vậy, ngay từ năm 1941, nhà nghiên cứu Mộc Khuê

đã công nhận có sự tồn tại của thể tài tiểu thuyết phong tục. Và trong số những tiểu thuyết thuộc nhóm

Tự lực văn đoàn, ông xếp Con trâu và Chồng con của Trần Tiêu vào loại tiểu thuyết phong tục viết về

một vùng miền của đất nước.

Trong cùng năm này, cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm ra đời cũng đã

công nhận: “công việc của Tự lực văn đoàn đã có ảnh hưởng về đường xã hội và đường văn học” 34,

tr. 21. Theo Dương Quảng Hàm, phong tục tập quán thời xưa vừa có mặt hay, mặt không hay. Tác

phẩm của các nhà văn Tự lực văn đoàn có quan tâm phản ánh phong tục tập quán nhưng chưa thật xác

đáng. Như tục đàn bà góa phải thủ tiết thờ chồng trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh chẳng hạn.

Nhà văn chỉ chủ yếu tập trung làm rõ những ràng buộc khắt khe đối với người phụ nữ mà chưa đề cập

đến ý nghĩa cao đẹp của tục lệ. Dù vậy nhưng nhà nghiên cứu văn học Dương Quảng Hàm vẫn dành

nhiều lời khen tặng cho nhóm văn Tự lực văn đoàn và đánh giá rất cao chủ trương cải cách xã hội của

họ.

Năm 1942, Vũ Ngọc Phan cho ra mắt công trình Nhà văn hiện đại. Nhà nghiên cứu công trình

này cho rằng tiểu thuyết Việt Nam có mười loại tất cả. Riêng trong nhóm Tự lực văn đoàn, theo Vũ

Ngọc Phan, có đến bốn nhà tiểu thuyết. Hai nhà văn Khái Hưng và Trần Tiêu được ông xếp vào những

nhà tiểu thuyết phong tục; Nhất Linh là nhà tiểu thuyết luận đề, còn Thạch Lam là nhà tiểu thuyết tình

cảm. Đặc biệt, khi đi vào giới thiệu từng nhà văn, Vũ Ngọc Phan đã chọn lọc được những tác phẩm

tiêu biểu và đưa ra nhiều đánh giá rất cụ thể. Về tác phẩm Thừa tự của Khái Hưng, ông kết luận rằng:

“Rút cuộc ta thấy gì? Sự thiết lập ấy trong gia đình và xã hội Việt Nam, nếu xét đến nguồn gốc, cũng

đã là vô lý lắm rồi, không đợi đến khi nó biến tính như ngày nay. Ngày nay người lợi dụng nó coi nó

như một miếng mồi. Một miếng mồi đáng đem ra để nhử, một miếng mồi đáng thèm thuồng, mà người

ta tưởng như không có sự xấu xa và nhục nhã. Chả có trong xã hội Việt Nam lại có những cuộc tranh

luận, những cuộc âm mưu về thừa tự. Thật khốn nạn! Tất cả cái khốn nạn ấy, ta đã thấy trong những

hành động của mấy nhân vật của Khái Hưng một tiểu thuyết gia tả phong tục rất là sâu sắc” 83, tr.

764 -765. Đến sáng tác của Trần Tiêu, Vũ Ngọc Phan khẳng định: “Tuy là tả dân tình, phong tục làng

Cầm, nhưng Con Trâu thật là một cuốn tả sự sống và tính tình phong tục của người dân quê miền

Bắc” 83, tr. 784.

Từ 1945 đến 1986:

Năm 1948, trong bản báo cáo tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai đồng chí Trường Chinh

đã đề cập đến vấn đề phản ánh phong tục của các nhà văn Tự lực văn đoàn: “Sau cơn khủng bố trắng

1930 – 1931, một sự buồn rầu, u uất tràn ngập tâm hồn nhân dân Việt Nam. Văn chương lãng mạn của

Tự lực văn đoàn đã ra đời. Giai cấp tư sản dân tộc không dám đấu tranh bằng chính trị và quân sự

chống đế quốc nữa, bèn chuyển ra đấu tranh bằng văn hóa chống phong kiến quan liêu (các báo

Phong hóa, Ngày nay, tủ sách Tự lực văn đoàn). Dù sao hoạt động của nhóm Tự lực cũng đã góp phần

đẩy phong trào văn nghệ nước ta tiến lên một bước” 32, tr. 54-55]. Tiếp theo đó, đến năm 1957, tại

Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 bàn về công tác phê bình văn học, Trường Chinh một lần nữa đã

nhấn mạnh: “Đối với trào lưu văn nghệ lãng mạn, chúng ta không nên mạt sát, vơ đũa cả nắm, mà cần

đi vào phân tích những dòng tiến bộ trong những thời kì khác nhau (…) chúng ta cần hết sức cố gắng

tìm hiểu mọi nhân tố yêu nước và tiến bộ trong những tác phẩm lãng mạn trước đây”. Bởi “Việc uốn

nắn lại những thái độ hẹp hòi, máy móc đối với những giá trị văn nghệ cũ không những có tác dụng

sửa chữa những bất công đối với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường sáng tác cho

văn nghệ hiện thời” [32, tr. 241-241].

Đến năm 1958, Nguyễn Văn Xung với Bình giảng về Tự lực văn đoàn do Tân Việt xuất bản

cũng ghi nhận sự đóng góp của Tự lực văn đoàn trên cả hai phương diện. Ông khẳng định các nhà văn

Tự lực văn đoàn chính “là những người đầu tiên biết sử dụng một lối văn sáng sủa, thích hợp để diễn

đạt những tư tưởng và tình cảm của thời đại, Tự lực văn đoàn đã được sự đón tiếp nồng nhiệt của

thanh niên nam nữ đương thời. Về hình thức họ là những nhà văn giá trị vào bậc nhất hành văn trong

sáng, bình dị, đanh thép hay bóng bẩy. Về nội dung, họ biết mô tả những hoài bão, nguyện vọng,

những thắc mắc lo âu, những nỗi niềm vui sướng hay sầu thảm của cả một thế hệ; thanh niên, học

sinh, tiểu tư sản, trí thức là những độc giả trung thành của họ” [117, tr. 11]. Các nhà văn Tự lực văn

đoàn một mặt đả phá những cái lỗi thời, phản tiến bộ, nhất là chế độ đại gia đình; một mặt họ kêu gọi

dân chúng sống một đời sống mới, tự do tự lập. Theo nhận định của nhà nghiên cứu này thì nhóm Tự

lực văn đoàn với “Những tư tưởng mà họ truyền bá được hoan nghênh như một làn gió mới và gây

nhiều ảnh hưởng” [117, tr. 11].

Năm 1961, cuốn Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932 – 1945 của Thanh Lãng chia tiểu thuyết Việt

Nam những năm 1932 ra làm tám ý hướng: đấu tranh, tình cảm, thi vị, truyền kỳ, hồi ký, hài hước,

phong tục, tả thực. Theo đó, Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo là ba nhà văn có tác phẩm thuộc ý

hướng đấu tranh. Cụ thể, đó là các tác phẩm như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng: “Nhưng

trọng tâm của cuộc đấu tranh tư tưởng trong giai đoạn thứ nhất này là đánh vào chế độ đại gia đình.

Hai chiến sĩ chỉ huy tác chiến là Nhất Linh và Khái Hưng” [59, tr. 97]. Mặc dù thừa nhận Nhất Linh,

Khái Hưng và Hoàng Đạo cũng có viết những tác phẩm thuộc ý hướng tình cảm như Nắng thu, Đôi

bạn, Bướm trắng, Gia đình, … “Với Nắng thu, Nhất Linh tả mối tình hồn nhiên, lãng mạn, trong sạch,

đau đớn của một sinh viên trí thức đối với một thiếu nữ câm nhưng thông minh và nhan sắc” [59, tr.

112] nhưng Thanh Lãng cho rằng ở những nhà văn này chủ trương chống Nho giáo rõ ràng hơn, quyết

liệt hơn: “Tất cả cái khác, cái mới quyết liệt, cái mới phũ phàng của Tự lực văn đoàn là ở chỗ ấy” [60,

tr. 29].

Năm 1972, trong Lịch sử văn học Việt Nam giản ước tân biên do nhà xuất bản Phạm Thế ấn

hành, Phạm Thế Ngũ sau khi điểm qua nội dung các tác phẩm của Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam

… cũng đã đánh giá rất cao về phương diện tư tưởng, văn học của cả nhóm Tự lực văn đoàn: “Về

đường tư tưởng, chủ trương duy tân và cấp tiến họ đưa ra tác động như một cơn lốc thổi vào cái xã hội

trì trệ trước 1932”, “Tuy nhiên về đường văn học, đứng trên lập trường văn học sử, không ai có thể

chối cãi vai tuồng xây dựng, những tiến bộ quan trọng mà họ đã thực hiện cho văn quốc ngữ” [77, tr.

440], [77, tr. 442].

Trở lên là tình hình nghiên cứu đánh giá về những đóng góp của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn về

mặt phản ánh văn hóa phong tục ở cả hai miền Nam Bắc từ 1945 đến 1986. Nhìn chung, vị trí, vai trò

của những tiểu thuyết có nội dung phong tục của nhóm văn này đều được các nhà nghiên cứu công

nhận. Chỉ có điều do tình hình văn hóa xã hội lúc này nên trong giới nghiên cứu chưa có người đi sâu

khai thác những đóng góp ấy một cách cụ thể. Họ còn chú ý nhiều và đánh giá cao về khả năng sáng

tạo nghệ thuật của nhóm văn này như: Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Văn Xung, Thế Phong, Dương Nghiễm

Mậu, …; về nhân cách nhà văn như: Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hạnh, Trương Bảo Sơn, Tường Hùng,

Trần Khánh Triệu, Nguyễn Văn Trung …; phương pháp sáng tác và các khía cạnh khác nữa …

Từ năm 1986 đến nay:

Năm 1986, sự định hướng mới của Đảng đối với hoạt động tư tưởng văn hóa văn nghệ nước nhà

đã đem đến một sự thay đổi lớn trong giới lý luận phê bình văn học nghệ thuật. Tinh thần “nhìn nhận

lại” dấy lên thành một phong trào. Các nhà văn Tự lực văn đoàn và văn chương của họ có thể nói là

một trong số những hiện tượng được nhiều nhà nghiên cứu “nhìn nhận lại” nhất:

Ngày 27 – 5 – 1989, tại Hà Nội, cuộc Hội thảo quy mô lớn do khoa Ngữ văn trường Đại học

Tổng hợp phối hợp với nhà xuất bản Đại học tổ chức để bàn về văn chương Tự lực văn đoàn đã thu hút

được đông đảo nhiều thế hệ nhà nghiên cứu lý luận phê bình, các nhà thơ nhà văn tài năng và tâm

huyết. Nhiều bài tham luận được đưa ra với tinh thần khách quan, khoa học cao. Trong Hội nghị, nhà

văn hóa Hoàng Xuân Hãn cho rằng: “nhóm Tự lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là

nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [26, tr. 380]. Nhà văn

Huy Cận lại nhấn mạnh tính dân tộc của lời văn trong các sáng tác của Tự lực văn đoàn: “Một đóng

góp quan trọng của Tự lực văn đoàn là ở tiếng nói và câu văn dân tộc” [26, tr. 420]…

Đến năm 1990, Phan Cự Đệ, trong chuyên luận Tự lực văn đoàn – con người và văn chương,

cho rằng: “Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã có công lớn trong việc đổi mới nền văn học vào những năm

30 của thế kỷ, đổi mới từ quan niệm xã hội cho đến việc đẩy nhanh các thể loại văn học trên con

đường hiện đại hóa, làm cho ngôn ngữ trở nên trong sáng và giàu có hơn” [21, tr. 37].

Đặc biệt, năm 1995, Trần Đình Hượu với bài viết Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ tính liên tục

của lịch sử, qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông in trong cuốn Nho giáo

và văn học Việt Nam trung cận đại khẳng định: “Tự lực văn đoàn đô thị hóa, Âu hóa có mới mẻ, xa lạ

nhưng không phải không dân tộc. Cái đẹp trong văn chương Tự lực văn đoàn là Việt Nam chứ không

phải Tàu, không phải Tây”, và “Tự lực văn đoàn là một hiện tượng phải nhìn – hay phải nhìn thêm –

theo cách khác như vậy. Nhìn thêm từ một góc độ khác chắc chắn ta sẽ hiểu hiện tượng rõ hơn” [26, tr.

578], [26, tr. 579].

Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945 của Nguyễn Đăng Mạnh tái bản năm 1999,

trong phần viết về Tự lực văn đoàn, có đoạn đã nhận xét thêm: “nói chung đề tài là chuyện tình yêu,

chủ đề là ca ngợi tư tưởng, văn hóa, văn minh phương Tây, đấu tranh cho chủ nghĩa cá nhân, cho tình

yêu và hôn nhân tự do, chống lễ giáo phong kiến, đề cao lối sinh hoạt của phương Tây hiện đại, cổ vũ

phong trào Âu hóa từ tư tưởng, văn chương nghệ thuật, (…) Họ cũng có tinh thần dân tộc, dân chủ,

cũng tỏ ra biết thương xót người nghèo khổ” [71, tr. 52-53].

Đến Tự lực văn đoàn trào lưu – tác giả của Hà Minh Đức vừa mới được nhà xuất bản Giáo dục

giới thiệu tháng 5/2007 – một công trình nghiên cứu mới nhất về Tự lực văn đoàn – ngoài phần Khảo

luận chung về Tự lực văn đoàn, phần phân tích một số tác phẩm tiêu biểu, tác giả cuốn sách đã tập hợp

được một cách có chọn lọc những bài nghiên cứu Tự lực văn đoàn về nhiều khía cạnh khác nhau từ

trước đến nay. Liên quan đến nội dung phong tục có bài của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Phạm Thế

Ngũ, Bạch Năng Thi, Nguyễn Hoành Khung, Vũ Đức Phúc, Lê Thị Đức Hạnh, …..

Ngoài những cây bút lý luận phê bình cũ, từ thập niên 90 đến nay, nghiên cứu về Tự lực văn

đoàn ta còn phải kể đến khá nhiều gương mặt mới như Nguyễn Hữu Hiếu, Lê Thị Dục Tú, Phạm

Thanh Hùng, Trịnh Hồ Khoa, Phạm Thị Thu Hương, Đặng Ngọc Hùng, Cao Thị Ngọc Hà, Huỳnh Thị

Hoa, …. Tất cả đã tạo được một không khí sôi nổi, khách quan, và khoa học nhằm đưa đến những nhận

định công bằng, thấu đáo khi đánh giá về vai trò, vị trí của nhóm văn này trong nền văn học dân tộc.

Tóm lại, qua quá trình tìm hiểu lịch sử nghiên cứu văn chương Tự lực văn đoàn dưới góc độ văn

hóa xã hội và phong tục, chúng tôi nhận thấy rằng: từ trước cho đến nay, Tự lực văn đoàn là nhóm văn

duy nhất có sáng tác gây được nhiều sự chú ý trong công chúng. Và mặc dù các nhà nghiên cứu văn

học nước ta đã tiếp cận sáng tác của họ từ rất nhiều hướng khác nhau: quan điểm lịch sử (Phong Lê,

Trần Đình Hượu), phương pháp sáng tác (Hà Minh Đức, Lê Đình Kỵ), chức năng (Trương Chính, Lại

Nguyên Ân), thể loại (Phong Lê, Vu Gia), thi pháp (Đỗ Đức Hiểu, Lê Thị Dục Tú, Trịnh Hồ Khoa), …

và Tự lực văn đoàn với những đóng góp cho nền văn hóa, phong tục nước nhà cũng là một vấn đề đã

được các nhà nghiên cứu ghi nhận. Tuy nhiên, sự phân tích và lí giải vấn đề vẫn chưa thật thỏa đáng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Phong tục không phải là đề tài xuyên suốt trong tất cả các tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Nội

dung này chỉ tập trung ở một số sáng tác của ba nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng và đặc biệt là Trần

Tiêu. Do đó, đối tượng khảo sát của luận văn không phải là toàn bộ tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn.

Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những tác phẩm mà trong đó tác giả có ít nhiều đề cập đến các vấn

đề về phong tục Việt Nam. Trên cơ sở phân tích những tác phẩm này, luận văn đi đến một cái nhìn cụ

thể và hệ thống về các vấn đề phong tục trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên, cũng phải nói

rằng xung quanh vấn đề Tự lực văn đoàn, từ trước đến nay, ý kiến của các nhà nghiên cứu vẫn chưa có

sự thống nhất. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có tiếp thu một cách chọn lọc thành quả trong các

công trình nghiên cứu của lớp người đi trước để có thể đi sâu vào những nội dung mà nhiệm vụ của đề

tài luận văn đặt ra.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã vận dụng kết hợp một số phương pháp:

- Phương pháp phân loại và hệ thống: Hoạt động của Tự lực văn đoàn trên văn đàn kéo dài trong

khoảng mười năm nhưng số lượng tác phẩm mà họ để lại có thể nói là khá lớn. Riêng mảng tiểu thuyết,

Tự lực văn đoàn đã cho ra đời hơn hai mươi tác phẩm. Vì vậy, phương pháp phân loại là phương pháp

được chúng tôi sử dụng đầu tiên. Phương pháp này giúp chúng tôi phân loại được tiểu thuyết phong tục

với các tiểu thuyết khác. Đồng thời, cũng nhờ nó, chúng tôi xác định được đặc điểm chung và riêng về

nội dung và hình thức của những tác phẩm thuộc thể tài này. Do đó, có thể khẳng định rằng, phân loại

và hệ thống là hai phương pháp nghiên cứu được chúng tôi sử dụng xuyên suốt.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Khi đi vào từng sáng tác, chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp

phân tích để tìm hiểu tác phẩm được cụ thể trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Và sau đó,

phương pháp tổng hợp sẽ được dùng để khái quát lại vấn đề.

- Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp không thể thiếu được trong bất kì một công trình nghiên

cứu khoa học nào. Ở đây, so sánh giúp chúng tôi nhận ra điểm tương đồng và khác biệt giữa các nhà

văn trong nhóm Tự lực văn đoàn, giữa các sáng tác phong tục của Tự lực văn đoàn với các sáng tác

phong tục của các tác giả khác.

- Phương pháp tiếp cận văn học dưới góc độ văn hóa học, dân tộc học: “văn hóa là không gian,

bầu không khí để trên đó cây văn học nảy nở”, trong quá trình nghiên cứu tiểu thuyết của Tự lực văn

đoàn, chúng tôi nhận thấy việc sử dụng xuyên suốt phương pháp tiếp cận văn hóa học, dân tộc đã giúp

chúng tôi tìm hiểu rõ về vai vai trò sáng tạo những mô hình văn hóa, cũng như những phê phán có tính

văn hóa trong những tiểu thuyết của các nhà văn Tự lực văn đoàn. Đồng thời, phương pháp tiếp cận

này cũng đã giúp ích rất nhiều trong việc xác định những điểm mới của văn hóa được phản ánh trong

văn học ở từng thời kì.

5. Đóng góp của luận văn

Đề tài phong tục Việt Nam trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn được chúng tôi thực hiện nhằm

khảo sát bức tranh phong tục trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Trên cơ sở đó luận văn sẽ cho thấy

rõ những thành tựu của văn đoàn này trong việc phản ánh hiện thực đời sống xã hội, những đóng góp

qua cái nhìn tiến bộ đậm chất nhân văn và cả những quan điểm còn lệch lạc về vấn đề phong tục qua

cái nhìn nghệ thuật của các tác giả. Ngoài ra, người làm luận văn còn có mong muốn tìm ra những nét

đặc sắc riêng của các tác giả trong nghệ thuật miêu tả phong tục Việt Nam để thấy rõ những giá trị

thẩm mĩ của phong tục Việt Nam được khắc họa, lưu giữ bằng nghệ thuật ngôn từ. Luận văn vì vậy có

thể sẽ góp phần để hiểu thêm về những tinh hoa đẹp đẽ của bản sắc dân tộc. Điều này cũng đồng nghĩa

với việc giúp cho quá trình giảng dạy về những đóng góp của văn chương Tự lực văn đoàn đối với việc

giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong nhà trường phổ thông đi vào chiều sâu.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu (12 trang), kết luận (3 trang) và thư mục tài liệu tham khảo (7 trang), luận

văn có ba chương chính:

- Chương 1: Khái quát về tiểu thuyết phong tục trong văn học Việt Nam những năm 1930 –

1945

- Chương 2: Bức tranh phong tục trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn

- Chương 3: Nghệ thuật miêu tả phong tục trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT PHONG TỤC

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945

1.1. Khái niệm Phong tục và Tiểu thuyết phong tục

1.1.1. Khái niệm Phong tục

Khi nói đến nền văn hóa của một quốc gia, một dân tộc, người ta thường hay nói đến phong tục

tập quán. Phong tục tập quán là một phạm trù dùng để chỉ tổng thể những thói quen trong cuộc sống

hàng ngày mang những nét đặc trưng riêng của một địa phương, một dân tộc hoặc một đất nước. Đây

là những thói quen được hình thành do tính đặc thù của điều kiện địa lý, kinh tế, lịch sử, văn hóa, …

Trong cuộc sống hàng ngày, phong tục gần gũi với tất cả mọi người. Phong tục chi phối hầu khắp các

lĩnh vực hoạt động như lao động, sinh hoạt, tín ngưỡng. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê biên

soạn, ở mục từ “phong tục”, tác giả định nghĩa: đây là “thói quen, tục lệ đã ăn sâu vào đời sống xã hội

được mọi người công nhận và làm theo” [84, tr. 783].

Có thể chưa biết đến luật pháp nhưng con người đã biết đến phong tục. Nhờ được hình thành có

hệ thống nên từ gia đình đến làng xã, từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi dường

như đâu đâu con người cũng chủ yếu hành xử dựa trên phong tục. Tuy nhiên, phong tục không phải là

những điều bất biến. Khi vừa mới hình thành, trong phong tục chưa có sự phân định tốt xấu. Nhưng

qua thời gian, các điều kiện sống cũng như tâm lý tính cách con người có sự thay đổi, và cùng với quá

trình giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới, con người đã nhận ra những gì là hủ tục, những gì là

thuần phong mỹ tục. Phong tục vì vậy luôn được con người bổ sung thêm những điều mới, và xóa bỏ

những điều cũ, lỗi thời. Hay nói khác hơn, phong tục vừa có tính ổn định bền vững vừa có khả năng

biến đổi. Phong tục sinh ra do nhu cầu cuộc sống, phát triển và định hình theo sự định hình của xã hội.

Có phong tục thuộc về một đất nước. Có phong tục thuộc về một dân tộc. Và cũng có phong tục thuộc

về một vùng, miền.

1.1.2. Khái niệm Tiểu thuyết phong tục

“Tiểu thuyết phong tục” không phải là một cụm từ mới đối với những nhà lý luận văn học trên

thế giới cũng như ở Việt Nam. Có rất nhiều bài viết lớn hoặc nhỏ đã nhắc đến cụm từ này, xem nó là

một thuật ngữ dùng để gọi tên một thể tài văn học. Tuy nhiên, cho đến nay bản thân cụm từ “Tiểu

thuyết phong tục” vẫn chưa được hiểu thật thống nhất. Mỗi nhà nghiên cứu với quan điểm và cách đặt

vấn đề riêng đã có những kiến giải khác nhau xung quanh khái niệm này. Thật khó để tập trung đầy đủ

nhưng chúng tôi sẽ cố gắng chọn lựa một số ý kiến tiêu biểu bàn về cụm từ này trên thế giới và ở Việt

Nam rồi trên cơ sở đó xác định những đặc điểm cơ bản của thể tài tiểu thuyết này.

Từ khoảng thế kỷ thứ XVIII, cụm từ “Tiểu thuyết phong tục” (novel of manners, roman de

moeurs) đã được các nhà nghiên cứu văn học thế giới đề cập đến với tư cách là một thể tài văn học.

Người quan tâm đề tài, người quan tâm hình thức, người quan tâm cả nội dung lẫn hình thức nhưng về

cơ bản tất cả họ đều đã đưa ra cách hiểu của mình về thế nào là một tiểu thuyết phong tục.

M. H. Abrams trong Từ điển thuật ngữ Văn học, định nghĩa tiểu thuyết phong tục là tiểu thuyết

nghiên cứu, tìm hiểu về phong tục và những thói quen, tập tục của một cộng đồng văn hóa nào đó.

Còn R. Harris, ông chú thích, trong tiểu thuyết Tu viện Northanger của Jane Austen, tiểu thuyết

phong tục khảo sát tỉ mỉ thái độ cư xử, tư cách đạo đức xã hội có chuẩn mực hoặc không chuẩn mực.

Tiếp tục sau đó, khi phân loại tiểu thuyết, nhà nghiên cứu văn học này đã đưa ra cách hiểu cặn kẽ hơn:

Đây là loại tiểu thuyết tập trung mô tả một cách chi tiết những phong tục tập quán của một nhóm xã

hội đặc biệt. Những phong tục này thường thực hiện chức năng kiểm soát và điều khiển hành vi ứng xử của các nhân vật.

Trang web http://www.britannica.com/eb/article_51001 cũng đã đề cập đến nhiệm vụ của nhà

viết tiểu thuyết phong tục. Đó là những người có khả năng truyền đạt lại cho hậu thế những cách thức

ứng xử xã hội thời anh ta sống.

Hai nhà nghiên cứu văn học Dorothy Brewster và John Burrell trong tiểu luận Tiểu thuyết hiện

đại trình bày rõ ràng quan điểm của mình về thế nào là một tiểu thuyết phong tục: “Tiểu thuyết phong

tục là truyện của những cá nhân được coi như là những giá trị tinh thần, mô tả trong sự tiếp xúc với

nhau và với xã hội. Sự mô tả này đôi khi châm biếm, đôi khi hài hước, nhưng luôn luôn đạo đức” [25,

tr. 11].

Hay trong Sổ tay Văn học, Harmon William và Hugh Holman nhấn mạnh đây là một loại tiểu

thuyết mà ở đó phong tục, tập quán, tục lệ và thói quen của một tầng lớp xã hội nhất định có vai trò

quyết định. Trong một tiểu thuyết phong tục đích thực, tập tục của một nhóm người đặc biệt được mô

tả một cách chi tiết, với sự chính xác cao. Phong tục ấy trở nên có quyền lực điều khiển nhân vật. Tuy

không bắt buộc nhưng tiểu thuyết phong tục thường có tính chất trào phúng.

Tóm lại, khi bàn đến thể tài tiểu thuyết phong tục, các nhà nghiên cứu văn học trên thế giới,

người thì quan tâm về đề tài, người quan tâm về nội dung và hình thức, hay tác dụng nghệ thuật của thể

tài, … nhưng nhìn chung, xung quanh những ý kiến của họ ta có thể nhận ra rằng họ đã xem đây là

thuật ngữ dùng để gọi tên một thể tài văn học. Thể tài văn học này chủ yếu lấy những vấn đề liên quan

đến phong tục tập quán trong xã hội làm nội dung phản ánh. Đó có thể là tập tục của một nhóm người,

hay một dân tộc tồn tại trong một thời đại nhất định. Về phương pháp sáng tác, những người viết tiểu

thuyết phong tục thường sáng tác theo phương pháp hiện thực chủ nghĩa. Những sáng tác này do đó có

thể tái hiện đầy đủ về cách thức sinh hoạt của con người trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Người đọc

tiểu thuyết phong tục vì vậy dễ dàng rút ra được nhiều bài học ứng xử quý báu cho cuộc sống của

mình.

Từ những năm 20 của thế kỷ XX, tiểu thuyết phong tục đã có mặt trên văn đàn văn học Việt

Nam. Vì vậy, trong một số sách lý luận văn học, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã nhắc đến cụm

từ “tiểu thuyết phong tục” và xem đây là một thể tài. Tuy nhiên, cách hiểu về thể tài văn học này đến

nay vẫn chưa được thống nhất.

Khảo về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh do Nam phong tùng thư xuất bản năm 1929 chia tiểu

thuyết ra ba loại: tiểu thuyết ngôn tình, tiểu thuyết tả thực và tiểu thuyết truyền kì. Sau đó, ông đồng

nhất tiểu thuyết tả thực với tiểu thuyết phong tục: “Tiểu thuyết tả thực – Loại này tiếng Tây gọi là tiểu

thuyết về phong tục (romans de moeurs), nghĩa là cốt tả cái tình trạng trong xã hội theo như thói ăn

cách ở của người đời, thứ nhất là người đương thời; cho nên cũng có thể gọi là tiểu thuyết tả thực

được, vì cứ theo như cái cảnh thực ở trước mắt mà diễn tả ấy thường thường bao giờ cũng có ý bao

biếm, ý khuyên răn ở đó, dẫu nhà làm sách không rặp tâm khen chê răn dạy gì ai, mà cái ý khuyên răn

bao biếm bao giờ cũng có ngụ ở trong” [89, tr. 152]. Cách hiểu này của Phạm Quỳnh đã vô tình quy

các thể tài tiểu thuyết có khuynh hướng tả thực như tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tâm lý, … đều là

tiểu thuyết phong tục. Chúng tôi nghĩ rằng không hoàn toàn như vậy. Nội dung của tiểu thuyết phong

tục yêu cầu phải có tính hiện thực nhưng không phải vì vậy mà chúng ta có thể xem mọi tác

phẩm có khuynh hướng tả thực cũng đều là tiểu thuyết phong tục.

Năm 1941, trong công trình nghiên cứu Ba mươi năm văn học, Mộc Khuê khi bàn về tiểu thuyết

quốc ngữ Việt Nam lại chia tiểu thuyết thành chín loại. Lần lượt đi vào từng loại với những nhà văn và

tác phẩm tiêu biểu, đến loại tiểu thuyết phong tục, ông viết: “Phong tục tiểu thuyết về miền thượng du

Bắc Kỳ của Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm, Suối đàn, Truyện lạ đường rừng), về miền sơn cước

Trung Kỳ của Lưu Trọng Lư (Khói lam chiều, Chiếc cáng xanh) của Trần Tiêu (Con trâu, Chồng con)

và nhứt là quyển Lều chõng cự đại của Ngô Tất Tố” [57, tr. 51]. Như vậy, theo cách phân chia của

Mộc Khuê, Trần Tiêu với tác phẩm Con trâu và Chồng con đã được xếp vào loại tiểu thuyết phong tục

của một vùng miền.

Đến năm 1942, Nhà văn hiện đại – quyển bốn của Vũ Ngọc Phan lại chia tiểu thuyết ra mười

loại: phong tục, luận đề, luân lý, truyền kỳ, phóng sự, hoạt kê, tả chân, xã hội, tình cảm và trinh thám.

Ở mỗi loại, Vũ Ngọc Phan cũng chọn dẫn ra vài tác giả, tác phẩm tiêu biểu để phân tích. Và các sáng

tác của Khái Hưng, Trần Tiêu, Mạnh Phú Tư, Bùi Hiển và Thiết Can đã được nhà nghiên cứu chọn lựa

làm dẫn chứng minh họa cho thể tài tiểu thuyết phong tục: “Nếu đọc những tác phẩm của ông (Khái

Hưng – PTMT) từ Hồn bướm mơ tiên cho đến những tập gần đây nhất của ông, như Hạnh, người ta

thấy ông mới đầu chú trọng vào lý tưởng, rồi dần dần ông lưu tâm đến thực tế và viết rặt những tiểu

thuyết tả thực về phong tục, lấy sự chân xác làm điều cốt yếu (…) Những tiểu thuyết ấy đều là những

bài học rất hay cho những người bảo thủ thái quá” [83, tr. 780], hay “Ông (Trần Tiêu – PTMT) là một

nhà tiểu thuyết chuyên viết về dân quê. Người ta tưởng ông viết riêng về cách sinh hoạt, về sự sống của

người Việt Nam ở nơi đồng ruộng, nhưng đọc kỹ những tiểu thuyết của ông, người ta mới thấy ông

chuyên chú vào phong tục của người dân quê nhiều hơn là cuộc sống nghèo nàn và không tổ chức của

họ. Tiểu thuyết của ông thuộc vào loại tiểu thuyết phong tục thôn quê nhiều hơn là thuộc vào loại tiểu

thuyết xã hội” [83, tr. 782].

Qua nội dung của những nhận định trên, ta có thể nói rằng tuy tác giả công trình Ba mươi năm

văn học cũng như Nhà văn hiện đại không trực tiếp xác lập lý thuyết bàn về tiểu thuyết phong tục

nhưng việc phân loại cùng những ý kiến đánh giá của hai ông dành cho từng tác phẩm đã ít nhiều giúp

chúng ta xác định về mặt nội dung của thể tài tiểu thuyết phong tục. Tiểu thuyết phong tục đó là

những tiểu thuyết viết về nếp sống đặc trưng của một loại người, một vùng miền.

Sau Vũ Ngọc Phan là Bạch Năng Thi. Trong bài Khái Hưng, Bạch Năng Thi viết: “Phong trào

bình dân, cái thị hiếu của độc giả có thay đổi, sự tấn công của văn phái hiện thực chủ nghĩa và của

những người tiến bộ ủng hộ chủ nghĩa hiện thực và đả kích chủ nghĩa lãng mạn, làm cho Khái Hưng ít

nhiều phải thay đổi đề tài và cách sáng tác (…) và nhất là đi sâu hơn nữa vào loại tiểu thuyết phong

tục là loại tiểu thuyết đòi hỏi phải miêu tả con người và sự việc có thực trong đời sống (Gia đình, Thừa

tự, Thoát ly, Băn khoăn). Khi sáng tác tiểu thuyết phong tục, nhà văn không thể rời bỏ xu hướng lãng

mạn cố hữu của mình, nhưng yếu tố hiện thực có tăng lên trong tác phẩm”. Không dừng ở đó, đến bài

Khái Hưng – từ tiểu thuyết lý tưởng, phong tục đến tiểu thuyết tâm lý, ông khẳng định: “Thừa tự cũng

như Gia đình là tiêu biểu cho loại tiểu thuyết phong tục. Loại tiểu thuyết này chưa có nhiều ở nước ta

vì người viết phải am hiểu tường tận phong tục trong nước, phải chú ý tới các phong tục ấy để quan

sát; một chuyện về phong tục lại dễ khô khan, tẻ nhạt, không hấp dẫn đối với một số lớn độc giả. Tuy

nhiên, ta thấy Khái Hưng vẫn giữ vững giá trị của mình trong loại tiểu thuyết này” [40, tr. 32-33], [40,

tr. 51].

Đến năm 1962, Thanh Lãng có bài viết Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932 – 1945 in trên tạp chí

Đại học số 2,3 một lần nữa trở lại công việc phân loại tiểu thuyết. Tiểu thuyết thế hệ 32 được Thanh

Lãng chia làm tám ý hướng. Phong tục được xem là một trong số tám ý hướng đó. Ông viết: “Đã hẳn

việc mô tả phong tục có liên hệ đến tâm lý vì nó cũng nhằm khảo xét những trạng thái tâm hồn, những

tình cảm, những mối đam mê, những kỳ chứng (manies). Cái khác nhau chỉ là ở đây khảo xét các trạng

thái tâm hồn công cộng, giống nhau của cả một đoàn thể đông đúc. Theo nguyên tắc, việc khảo xét tâm

lý sở dĩ gây được hứng thú là khi tâm lý đó càng có bản sắc đặc biệt, khác những tâm lý khác. Ngược

lại, việc mô tả phong tục cốt ý làm cho người ta nhận được những nét tâm lý mô tả cái gì là của chung

nhiều người, của một đoàn thể” [59, tr. 73 – 74]. Sau đó, dựa vào hai quan niệm – quan niệm cổ điển

và quan niệm tâm lý tập thể về ý hướng phong tục trong sáng tác văn học, tác giả khẳng định: “Như

vậy, Việt Nam chúng ta, cho đến 1945, chưa có tiểu thuyết phong tục theo quan niệm mới mà chỉ có

tiểu thuyết phong tục theo quan niệm cổ điển mà thôi. Khuynh hướng phong tục cổ điển này thường

được gọi là khuynh hướng xã hội” [59, tr. 75].

Tiếp tục phát triển quan điểm này, năm 1965, Nguyễn Văn Trung, dựa vào quan niệm của nhà

văn muốn thể hiện trong tác phẩm đã chia tiểu thuyết thành ba nhóm quan niệm: nhóm quan niệm tiểu

thuyết là một quang cảnh, nhóm quan niệm tiểu thuyết là một ý thức và nhóm quan niệm tiểu thuyết là

một phản tiểu thuyết. Cách chia này của ông đã xếp những tác phẩm mô tả phong tục vào nhóm quan

niệm tiểu thuyết là một phong cảnh: “Tiểu thuyết của nhóm trong quan niệm I (nhóm quan niệm tiểu

thuyết là một quang cảnh – P.T.M.T) phân chia ở trên để nhằm mô tả tâm lý, phong tục, xã hội; nói

cách khác, nhằm trình bày một tính tình, một mẫu người hay một tình cảnh” [95, tr. 206].

Tóm lại, đến nay trong các từ điển tiếng Việt, từ điển Văn học và từ điển thuật ngữ Văn học của

ta vẫn chưa có mục từ “tiểu thuyết phong tục”. Tiểu thuyết phong tục trước nay chỉ đơn thuần được

các nhà nghiên cứu văn học hiểu là những tác phẩm có nội dung phản ánh chân thật phong tục

của địa phương, đất nước. Giá trị của nó chủ yếu là cung cấp cho người đọc những vấn đề về

phong tục tập quán.

So với các thể loại văn học như sử thi, thơ, trường ca, … tiểu thuyết là một thể loại xuất hiện

muộn hơn rất nhiều và là một thể loại có nhiều sự thay đổi nhất từ trước đến nay. Trên thế giới cũng

như ở Việt Nam, tiểu thuyết gây được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu văn học. Riêng về cách

phân loại tiểu thuyết cũng có vô số ý kiến khác nhau. Người phân loại theo trào lưu sáng tác, người

theo thi pháp thể loại, người lại dựa vào sự kết hợp giữa thể loại tiểu thuyết với các loại hình văn học

khác, … Thể tài tiểu thuyết phong tục là một trong số những thể tài tiểu thuyết được xác định dựa trên

cách phân chia chủ yếu theo hệ đề tài. Ở đây chúng tôi không tham vọng xác lập một định nghĩa “tiểu

thuyết phong tục”. Tuy vậy, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của lớp người đi trước cùng với quá trình nghiên

cứu những tiểu thuyết phong tục, chúng tôi có thể nêu khái quát một số đặc điểm của tiểu thuyết phong

tục ở Việt Nam.

Trước tiên, tiểu thuyết phong tục là loại tiểu thuyết có nội dung phản ánh xoay quanh những vấn

đề đã trở thành lề thói. Những lề thói này là những lề thói tiêu biểu của một nhóm người trong một địa

phương, một dân tộc hoặc cả một đất nước. Đó có thể là thói quen xấu hoặc tốt, tiến bộ hoặc phản tiến

bộ, … Điều quan trọng ở đây là để sáng tác được một tiểu thuyết phong tục, nhà văn phải am hiểu

tường tận phong tục tập quán của dân tộc mình và có khả năng “tái hiện” hiện thực sao cho trung thực,

phong phú sinh động nhưng vẫn đảm bảo tác phẩm được ra đời không phải là bản sao từ cuộc sống. Vì

mục đích của nhà viết tiểu thuyết phong tục là giúp người đọc nhận ra những gì là thuần phong mỹ tục

cần giữ gìn và những gì là hủ tục lạc hậu phải xóa bỏ. Nhân vật trong tiểu thuyết phong tục thường

được nhà văn chú ý khai thác trong mối quan hệ ứng xử giữa cũ và mới, đại diện cho một lớp người,

do đó sẽ mang một quan điểm xã hội nhất định. Đọc tiểu thuyết phong tục vì vậy chúng tôi nhận thấy

rằng tác phẩm dù có hay không có những đoạn bình luận trữ tình thì thái độ của nhà văn vẫn hiện rất

rõ.

Tóm lại, đối với người viết tiểu thuyết, tiểu thuyết phong tục là một thể tài vừa dễ vừa khó. Dễ

vì nguồn đề tài phong phú, gần gũi. Khó vì phong tục là những vấn đề phổ biến hàng ngày trong xã hội

đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều người. Nhà văn muốn viết một tiểu thuyết phong tục hay cần phải tìm

được cách thể hiện vấn đề sao cho mới mẻ để người xem không nhàm chán mà vẫn đảm bảo phản ánh

được nếp nghĩ nếp sống của thời đại. Còn xét về những đóng góp đối với nước nhà, tiểu thuyết phong

tục chính là một trong những thể tài văn học góp phần rất lớn cho công cuộc đấu tranh chống cái xấu

phát huy cái tốt, giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc. Ở nước ta, giai đoạn 1930 – 1945 được xem là

giai đoạn phát triển nhất của thể tài này.

1.2. Tiểu thuyết phong tục trong văn học Việt Nam 1930 - 1945

Sau mười thế kỷ ròng rã chịu sự ràng buộc của thi pháp văn học trung đại, đến đầu thế kỷ XX,

các nhà văn Việt Nam đã chuyển mình bước sang sáng tác theo hệ thống thi pháp mới – thi pháp văn

học hiện đại. Bước chuyển này dù ban đầu có gây nhiều bở ngỡ, tranh cãi, xung đột nhưng nhờ đó mà

bộ mặt văn học Việt Nam được thay đổi toàn diện từ lý luận nghiên cứu, phê bình đến phương pháp

sáng tác, tiếp nhận văn học, ... Nhất là vào những năm 1930, nhiều cây bút trẻ mới xuất hiện đã khẳng

định được phong cách. Thể loại sáng tác đa dạng. Số lượng lẫn chất lượng tác phẩm tăng vượt bậc.

Năm 1942, Vũ Ngọc Phan khi nhìn lại giai đoạn văn học này đã phải thảng thốt: “Ở nước ta, một năm

đã có thể kể như 30 năm của người”.

Mặc dù không thể lý giải tất cả bằng hoàn cảnh lịch sử nhưng những hiểu biết sơ bộ về xã hội

Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 là cần thiết cho việc tìm hiểu văn học Việt Nam 1930 – 1945 nói

chung và tiểu thuyết phong tục nói riêng.

1.2.1. Hoàn cảnh ra đời

Như trên đã nói, ở Việt Nam tiểu thuyết phong tục bắt đầu xuất hiện trên văn đàn từ những năm

hai mươi của thế kỷ XX. Tuy nhiên chỉ đến những năm ba mươi của thế kỉ này thì thể tài tiểu thuyết

phong tục mới thật sự phát triển. Hoàn cảnh lịch sử tuy không phải là nhân tố duy nhất tác động đến

việc sáng tạo nghệ thuật của nhà văn – một tác phẩm văn học ra đời luôn là kết quả của sự kết hợp giữa

điều kiện khách quan xã hội và chủ quan người nghệ sĩ – nhưng so với các thể tài văn học khác thì thể

tài tiểu thuyết phong tục là một trong những thể tài chịu sự chi phối từ những điều kiện lịch sử - xã hội

nhiều nhất.

Đầu thế kỷ XX, do hai cuộc khủng hoảng kinh tế lớn (1929 – 1933), (1935 – 1937) cùng với

khả năng bùng nổ chiến tranh thế giới lần hai, chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với các nước

thuộc địa Đông Dương thật sự trở nên khốc liệt. Chúng ra sức vơ vét, bốc lột về sức người, sức của

nhằm bù đắp những tổn thất của chính quốc. Ở Việt Nam, chúng cố tình duy trì nền tảng phong kiến

vốn đã lỗi thời để thuận lợi cho việc thực thi chế độ cai trị. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam lúc này có sự

pha tạp nhiều luồng tư tưởng: phương Đông cổ và phương Tây hiện đại. Sự phân tầng xã hội cũng

đang diễn ra mạnh mẽ. Nho giáo không còn chiếm vị trí thượng phong như trước kia mà bên cạnh nó

còn có tư tưởng tự do, dân chủ phương Tây. Tầng lớp tiểu tư sản trí thức chính là tầng lớp thích nghi

nhanh chóng nhất, và là tầng lớp chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất trước những sự thay đổi này. Không

những thế họ còn nhận ra sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây, giữa phong

tục Việt Nam và lối sống Pháp.

Lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của người Việt như những mạch ngầm, bền bỉ chảy

suốt từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong những năm 1930 này, thực dân Pháp dùng nhiều chiêu bài

văn hóa hòng mị dân nhưng chúng không ngờ rằng việc làm của chúng lại giúp cho thanh niên Việt

Nam, nhất là những người yêu nước, nhận thức tốt hơn về dân tộc mình, và càng dấy lên trong họ tình

cảm yêu mến đối với quê hương. Họ càng thương hơn đất nước nhỏ bé với những con người có tính

cách hiền hòa. Bằng cách này cách khác, những con người Việt Nam yêu nước đã thể hiện quyết tâm

phục hưng văn hóa dân tộc, bảo tồn “quốc hồn quốc túy” của dân tộc. Những lời kêu gọi “khai dân trí,

chấn dân khí, hậu dân sinh” vang lên và nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt ở khắp nơi. Có thể nói,

chính những phong trào này đã tạo nhiều thuận lợi cho cả một thế hệ nhà văn yêu nước trở về với cội

nguồn bằng việc bắt tay vào sáng tác những tiểu thuyết viết về phong tục tập quán của nước nhà.

Nhưng tất cả những điều nói trên mới chỉ là tiền đề ban đầu. Tiền đề có ý nghĩa quyết định về

mặt chính trị - xã hội đối với sự ra đời của tiểu thuyết phong tục trong những năm 1930 – 1945 theo

chúng tôi đó là cuộc sống của những người dân Việt Nam lúc này. Được sự bảo hộ của Pháp, ai giàu

càng giàu, và càng được ăn trên ngồi trốc. Trong khi ấy, người nghèo, người cùng đinh lại càng nghèo

và cùng đinh hơn. Ở chốn thành thị, tiền bạc, địa vị được người ta đặt lên hàng đầu. Người người đua

chen nhau để có thể tồn tại. Vì vậy, kẻ khôn lanh thì được phong lưu, kẻ khờ dại phải chịu lao đao.

Không chỉ diễn ra ở thành thị, ít lâu sau, lối sống ấy còn tràn về những vùng nông thôn làm đảo lộn

cuộc sống chân chất bấy lâu của những con người sống sau lũy tre rặng dừa. Bên cạnh đó, lệ làng trước

đây không quá khe khắt thì nay lại trở thành nỗi ám ảnh đối với người dân nghèo. Các cuộc mua danh

bán tước diễn ra một cách thường xuyên, công khai. Người ta tranh nhau một chỗ đứng, chỗ ngồi giữa

chốn đình trung. Những buổi cúng tế của làng của xã cũng đã mất dần vẻ trang nghiêm và ý nghĩa

thiêng liêng. Nó diễn ra một cách qua quýt chỉ cốt để người làng này phô trương sự giàu có của làng

mình với người làng khác …Tóm lại, cuộc sống người dân Việt Nam vào những năm 1930 – 1945 có

thể nói là bi thảm hơn lúc nào hết.

Như vậy, ý thức xã hội, phong trào dân tộc, hiện thực đời sống người dân, tất cả cùng một lúc tác

động mạnh đến sự ra đời của tiểu tuyết phong tục. Không có chúng có lẽ không có sự ra đời của tiểu

thuyết phong tục. Tuy vậy, song song những yếu tố ấy, sự góp mặt của các yếu tố ngôn ngữ, thể loại,

quan niệm về mục đích sáng tác hay còn gọi là những tiền đề văn học cũng có một ý nghĩa không nhỏ.

Chữ quốc ngữ mặc dù đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XIX nhưng có thể nói mãi đến những năm ba

mươi của thế kỉ XX loại chữ viết này mới được phổ biến rộng rãi trong đại bộ phận người dân. Bên

cạnh đó, thì việc ngành in ấn và xuất bản ra đời trong thời kì này đã góp phần tạo nên nhiều thuận lợi

để nhiều tác phẩm văn học hay của phương Tây đến được với đông đảo người Việt. Thay vì trước kia

chỉ đọc thơ của Lí Bạch, Đỗ Phủ, tiểu thuyết chương hồi của La Quán Trung, Tào Tuyết Cần thì nay

người ta bắt đầu đọc thơ của Musset, Vigny, Lamáctin, đọc tiểu thuyết của Huygô, Balzắc và phát hiện

ra sự gần gũi giữa những tác phẩm văn học này với những thứ trong đời sống thường ngày. Nhiều nhà

văn nước ta đã tập thể hiện theo câu văn của các nhà văn Pháp, Nga nhưng ban đầu gần như chỉ là sự

dịch lại bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, dần dần câu văn xuôi tiếng Việt cũng đã trở nên gần gũi với ngôn

ngữ đời sống hàng ngày của người Việt hơn, mềm mại và uyển chuyển hơn.

Trong những năm 1930, bên cạnh sự phát triển của câu văn xuôi tiếng Việt thì việc xác lập quan

niệm về thể loại tiểu thuyết theo quan niệm phương Tây trong giới nghiên cứu, sáng tác văn học Việt

Nam cũng là một trong những tiền đề cho sự hình thành tiểu thuyết phong tục. Trong Phê bình và cảo

luận, Thiếu Sơn đã khẳng định: “cái tiểu thuyết nó được ta đọc tới cũng phải tả sự thật, cho sự thật

phá ra cái tư tưởng cao thâm mà nảy ra những cảm giác về nhân sinh, nhân loại (…) Tả đủ sự thực,

tức là cách vật trí tri. Ta có thể coi đấy mà biết rõ được nhân tình thế thái, gần ra thì ở cái xã hội của

ta, xa ra thì ở cái phong tục của xứ người, mà cốt nhất là biết rõ được cái bản sắc của nhân loại” [80,

tr. 62-63], hay trên báo Ngày nay số ra ngày 23/9/1939, Khái Hưng cũng cho rằng: “Tiểu thuyết phải

gần đời, phải là đời với những lúc sướng lúc khổ, phải có những cái nhỏ nhen, tầm thường, cao thượng

của đời, phải có những cái đáng thương, những cái buồn cười, những cái bực tức” [80, tr. 76], nhà thơ

Lưu Trọng Lư lại muốn tiểu thuyết là “một cuộc đời với tất cả những điều vụn vặt, những sự phiền

toái, với tất cả những sự lộn xộn của nó” [80, tr. 95-99] … Tất cả đã có ý nghĩa định hướng cho những

người cầm bút lúc này. Đa số các nhà văn đều xác định mục đích viết tiểu thuyết là để “chỉ rõ những

sự nào mà đoàn thể ta nên bắt chước, những đoạn nào mà đồng bào ta nên xa chừa”, là “muốn tập rèn

cái nết tốt cho đoàn thể quốc dân, cho đoàn thể quốc dân mình biết cái luân lí Việt Nam là tốt đẹp, cái

phong hóa ở nước mình là hoàn hảo, kẻo để bấy lâu nay, hạng nam giới nữ giới nước ta, hễ có mùi

Tây học thì đem lòng chê bai khinh rẻ nền luân lý và phong hóa nước mình” (Dẫn theo Nguyễn Kim

Anh (chủ biên), Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nhà xuất bản Đại học quốc gia thành

phố Hồ Chí Minh, tr. 73-74). Do đó, có thể nói ở Việt Nam những tiểu thuyết ra đời vào thời kì đầu thế

kỉ XX tuy còn mang tính chất giáo huấn luân lí nhưng xét ở một góc độ nào đấy những tiểu thuyết này

vẫn được xem như là sự chuẩn bị về đề tài cho sự ra đời của những tiểu thuyết phong tục giai đoạn

1930 – 1945.

Mặc dù vậy, điều kiện gần gũi hơn đối với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết phong tục

Việt Nam phải kể đến sự có mặt của tiểu thuyết Pháp lúc bấy giờ. Đặc biệt là sáng tác của hai nhà văn

Huygô và Balzắc – hai nhà văn có nhiều sáng tác viết về phong tục. Ngoài ra, cuộc thi viết tiểu thuyết

do tờ báo Nông cổ mín đàm phát động: “Trong cuộc đời phải đem hết các việc quan hôn, tang chế,

thầy thuốc, thầy chùa, thầy pháp vân vân. Tốt khen, xấu chê. Phải có cang thường, luân lý, nhơn

duyên, thiện ác” [80, tr. 24] cũng đã tác động nhiều đến cách nghĩ, cách viết của nhà văn. Tóm lại,

trong lịch sử văn học Việt Nam tuy đây không phải là lần đầu tiên vấn đề về phong tục tập quán, văn

hóa nước nhà được các nhà văn quan tâm nhưng dường như đây chính là lần đầu tiên nó được nhiều

người quan tâm hơn hết.

Trở lên chúng ta có thể thấy rằng sự có mặt và phát triển của thể tài tiểu thuyết phong tục ở Việt

Nam những năm 1930 – 1945 là một điều tất yếu và đã được chuẩn bị kĩ càng từ trước. Đến đây, chúng

tôi sẽ chuyển sang trình bày một cái nhìn toàn cảnh, khái quát làm tiền đề đi vào tìm hiểu đề tài phong

tục Việt Nam trong sáng tác của các nhà văn Tự lực văn đoàn.

1.2.2. Diện mạo của tiểu thuyết phong tục 1930 – 1945

Đầu thế kỷ XX một số tiểu thuyết viết về đề tài phong tục bắt đầu xuất hiện trên văn đàn văn

học Việt Nam. Tuy nhiên, ban đầu những tác phẩm mới chỉ là cho thấy niềm trăn trở của nhà văn về sự

đổi thay của phong tục, văn hóa xã hội nước nhà như: Ai làm được (1912), Tiền bạc bạc tiền của Hồ

Biểu Chánh, Hiếu nghĩa vẹn hai (1923) của Phạm Minh Kiên, Tài mạng tương đố (1927) của Nguyễn

Chánh Sắt, … Lúc này trước sức cám dỗ mạnh mẽ của tiền tài danh vọng, lối sống đạo đức tốt đẹp bấy

lâu có nguy cơ bị con người đánh mất. Người viết tiểu thuyết thông qua tác phẩm đã lên tiếng cảnh báo

về tình trạng băng hoại của xã hội. Nhưng đến những năm 1930 – 1945, thì nội dung của tiểu thuyết

phong tục không chỉ dừng ở các vấn đề phong hóa. Đề tài phong tục đã được mở rộng từ gia đình ra

ngoài thôn xã, từ một cá nhân ra đến toàn thể cộng đồng, từ trẻ nhỏ đến người già, từ thành thị đến

nông thôn, từ người giàu đến người nghèo … Tình yêu nam nữ, tình chồng vợ, vợ cả vợ lẽ, con dâu -

gia đình chồng, cân đai áo mão, lệ khao vọng, mua nhiêu mua xã, đầu óc mê tín dị đoan, … là những

vấn đề được đa số nhà văn quan tâm. Và số lượng tiểu thuyết viết về phong tục ra đời nhiều trong giai

đoạn này cũng đã góp phần tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về văn hóa xã hội Việt Nam những năm

1930 – 1945.

Về đội ngũ sáng tác, bên cạnh những cây bút trẻ mới xuất hiện thì nhiều cây bút trước đây

chuyên viết về luân lý, ái tình, … nay cũng chuyển sang khai thác mảnh đất phong tục. Các nhà văn dù

sở trường thiên về hiện thực (Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Mạnh Phú Tư …), hay lãng mạn (Nhất

Linh, Khái Hưng, …), trong giai đoạn 1930 – 1945 đều có tác phẩm viết về phong tục. Số lượng tác

giả, tác phẩm thuộc thể tài tiểu thuyết phong tục ra đời tăng một cách đáng kể: Gia đình (1936), Thừa

tự (1938) của Khái Hưng, Con trâu (1938), Chồng con (1941) của Trần Tiêu, Cái thủ lợn (1939), Nợ

nần (1940) của Nguyễn Công Hoan, Dã tràng (1939) của Thiết Can, Lều chõng (1939), Tắt đèn (1939)

của Ngô Tất Tố, Làm lẽ (1939), Gây dựng (1941), Sống nhờ (1942), Nhạt tình (1942) của Mạnh Phú

Tư, Đứa con (1941) của Đỗ Đức Thu, Thằng cu So (1941) của Nguyễn Đức Quỳnh, Quê người (1941)

của Tô Hoài, Dưới đồng sâu (1942) của Phi Vân, Một chuỗi cười (1940), Khao (1945) của Đồ Phồn,

Bút nghiên (1942), Nhà nho (1943) của Chu Thiên …

Cụ thể hơn, năm 1933, Khái Hưng mới xuất hiện trong làng văn nhưng ông lại là nhà văn được

Vũ Ngọc Phan nhắc đến trước tiên trong danh mục các nhà tiểu thuyết phong tục. Số lượng tác phẩm

viết về đề tài phong tục của nhà văn này tuy không nhiều nhưng theo Vũ Ngọc Phan đây “là loại ông

có nhiều đặc sắc nhất” [85, tr. 756]. Nửa chừng xuân (1934), Gia đình (1936), Thoát ly (1937) được

xem là những tác phẩm tiêu biểu cho thái độ chiêm nghiệm của nhà văn về các vấn đề phong tục.

Trong tác phẩm của mình, Khái Hưng tập trung phản ánh một cách cụ thể các quan niệm về hôn nhân

gia đình, tư tưởng năm thê bảy thiếp, trọng nam khinh nữ, … đang tồn tại trong xã hội Việt Nam

những năm 1930. Tiểu thuyết phong tục của ông do đó có thể nói là đã phản ánh được hàng loạt mâu

thuẫn đang xảy ra giữa hai thế hệ cũ – mới cùng sự chi phối của phong tục trong cuộc sống hàng ngày

của con người.

Cùng chung hệ đề tài với Khái Hưng, năm 1940 - 1942 các tiểu thuyết Làm lẽ, Nhạt tình được

Mạnh Phú Tư cho ra đời đã miêu tả kiếp chồng chung của những người phụ nữ Việt Nam. Hai trường

hợp làm lẽ của người phụ nữ được Mạnh Phú Tư miêu tả trong Làm lẽ và Nhạt tình tuy có khác nhau,

một bên người vợ lẽ bị đối xử như tôi tớ, một bên lại được yêu thương chìu chuộng, nhưng qua tác

phẩm của ông chúng ta nhận thấy rằng tình yêu không chấp nhận bất cứ sự sẻ chia nào. Cả hai tiểu

thuyết của Mạnh Phú Tư đều đã có chung một kết cục là cảnh gia đình tan nát, hạnh phúc vợ chồng

không trọn vẹn. Tuy cách miêu tả của nhà văn còn đôi chỗ dễ dãi nhưng điều đáng quý là ông đã giúp

người đọc thấy được điều tệ hại của tục đa thê đang gây ra đối với mỗi gia đình người Việt.

Ở một tiểu thuyết khác – tiểu thuyết Gây dựng, Mạnh Phú Tư lại viết về bà Cang. Người mẹ này

rất yêu những đứa con của mình. Bà luôn muốn gây dựng cho con một mái ấm gia đình. Dù đã hết sức

cân nhắc khi lựa chọn người để dựng vợ gả chồng cho con nhưng chọn người này xong bà lại so sánh

hơn kém với người khác để rồi lại không vừa ý. Con bà lại là những đứa chỉ biết sống theo ý mẹ nên bà

Cang mặc sức bảo chúng cư xử theo những điều bà sắp đặt sẵn. Bà Cang không phải không biết việc

làm của bà đã gây đau khổ cho bao người xung quanh. Lương tâm bà cũng có lúc dằn xé nhưng lòng

ích kỉ của một người mẹ lại lớn hơn. Với giọng văn khi hài hước, khi đau đớn, chua cay, lúc lại đầy

thương cảm, ngòi bút của Mạnh Phú Tư đã ghi lại chân thật hình ảnh của một người mẹ suốt đời chỉ

biết đến hạnh phúc của con mình để rồi thành ra người độc đoán, tàn nhẫn. Vậy là nhà nghiên cứu Vũ

Ngọc Phan đã dựa trên nội dung phản ánh của tiểu thuyết Mạnh Phú Tư, để có thể đi đến nhận định

rằng: “Điều rõ rệt nhất là hết thảy tiểu thuyết của ông (Mạnh Phú Tư – P.T.M.T) đều là tiểu thuyết

phong tục và có tính chất Việt Nam đặc biệt” [83, tr. 805].

Còn Nguyễn Công Hoan, nhà văn này bước vào nghề văn từ những năm hai mươi của thế kỉ

trước. Ban đầu ông thử bút với thể truyện ngắn như Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ,

Tinh thần thể dục, Đồng hào có ma, Kép Tư Bền, Cụ Chánh bá mất giày, … Bước sang giai đoạn 1930

– 1945, nhà văn này lại lấn sang cả thể tiểu thuyết viết về mảng đề tài phong tục. Nguyễn Công Hoan

đã cho ra đời đều đặn các tác phẩm như: Cô giáo Minh (1935), Lá ngọc cành vàng (1935), Cái thủ lợn

(1939), Nợ nần (1940). Tuy nhiên, do là cây bút sở trường về truyện ngắn nên lúc vừa đến với mảnh

đất mới này, Nguyễn Công Hoan có phần chưa thành thạo. Tìm hiểu Cô giáo Minh, người đọc cảm

thấy mỏi mệt với lối sống theo kiểu đối phó của nhân vật trung tâm. Sang Lá ngọc cành vàng nhà văn

lại mang đến cho người đọc cảm giác nặng nề với những lời giáo huấn về đạo lý của ông Phủ, cách

hành xử yếu ớt trước tính cách gia trưởng của ông Than, và đặc biệt là không khí buồn bã tẻ nhạt bao

quanh cuộc đời cô Nga. Thế nhưng, đến Cái thủ lợn, Nguyễn Công Hoan đã dẫn người đọc tham dự

vào những buổi tiệc khao vọng náo nhiệt, những cuộc đấu lý gay cấn, căng thẳng ở đình làng. Nhà văn

không còn ép mình giúp nhân vật tìm cách giải quyết những vấn đề do nhân vật tự tạo ra.

Trong khi ấy thì Ngô Tất Tố viết Tắt đèn (1939) và Việc làng (1940) cố gắng ghi lại hình ảnh

của cả một thời đại. Trong Tắt đèn, nhà văn điểm mặt từ anh mõ, tên lính lệ, đến bác xã, bác lý, quan

huyện; từ dân đen mê muội đến bọn giàu có keo kiệt, tàn ác … Nói chung, tác phẩm là hình ảnh về cả

một xã hội nông thôn Việt Nam. Một xã hội đang chìm trong đêm tối. Đến Lều chõng, ông lại tái hiện

được một sự thật nhố nhăng về chế độ khoa cử. Còn Chu Thiên với tiểu thuyết Nhà Nho đã khắc họa

được chân thật hình ảnh của cả thế hệ nhà nho. Đó là những con người coi tình bằng hữu nặng như tình

anh em, đạo thầy trò sâu thẳm như đạo cha con …

Như vậy, có thể nói, sự góp mặt đông đủ của các cây bút hiện thực và lãng mạn là một trong

những điều kiện giúp cho tiểu thuyết phong tục Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có được nội dung

phong phú và sâu sắc. Các nhà văn lúc này đã nhìn nhận về phong tục trong nhiều mối quan hệ hơn so

với giai đoạn mới xuất hiện: quan hệ giữa thuần phong mỹ tục và nét đẹp trong đời sống sinh hoạt

(Con trâu, Nhà Nho), mỹ tục với vấn đề đạo đức con người (Nửa chừng xuân, Chồng con), hủ tục với

hạnh phúc cá nhân (Lạnh lùng, Làm lẽ), hủ tục và sự tha hóa con người (Khao, Cái thủ lợn), hủ tục và

sự nhân danh của con người (Thừa tự), … Không những thế, trong lịch trình tiến triển từ 1930 đến

1945, các nhà văn của chúng ta đã đi từ tác phong của một nhà luân lý, nhà đạo đức, nhà chính trị, nhà

xã hội sang một nhà tiểu thuyết phong tục thuần túy. Thái độ sáng tác cũng chuyển từ chủ quan sang

khách quan nghiêm khắc, vô tư. Nghệ thuật thể hiện trong những tiểu thuyết thuộc thể tài này vì vậy

cũng trở nên đa dạng hơn. Có nhà văn đặt thẳng vấn đề ngay từ tên tác phẩm như Khao, Thừa tự, Làm

lẽ. Có nhà văn lại dùng hình tượng như Cái thủ lợn, Con trâu. Có tác phẩm kết thúc vấn đề theo chủ

quan như Đoạn tuyệt, Gia đình. Và cũng có tác phẩm lại tuân thủ theo logích đời sống như Nhạt tình,

Lều chõng. Cảm hứng phong tục, tóm lại, là cảm hứng chung của cả hai trào lưu văn học lãng mạn và

hiện thực.

Như vậy, ở Việt Nam những tác phẩm chính thức được gọi là tiểu thuyết phong tục chỉ đến giai

đoạn 1930 – 1945 mới thật sự ra đời. Trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là một giai đoạn văn học có

hàng loạt nhà văn từ thế hệ cũ cho đến thế hệ mới, từ lãng mạn cho đến hiện thực đều dành sự quan

tâm đến vấn đề phong tục tập quán, văn hóa nước nhà. Thể tài tiểu thuyết phong tục do đó có thể nói

đã đạt thành tựu trên cả hai phương diện số lượng lẫn chất lượng tác phẩm. Nội dung phong tục không

còn gói gọn trong chuyện về tình yêu nam nữ như Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách), hay Nho phong (Nhất

Linh). Từ những vấn đề trong gia đình – Gia đình (Khái Hưng) đến vấn đề ở thôn xã – Con trâu,

Chồng con (Trần Tiêu), từ người nghèo – Cái thủ lợn (Nguyễn Công Hoan) đến người giàu – Lá ngọc

cành vàng (Nguyễn Công Hoan), nào quan hệ cha con – Nửa chừng xuân (Khái Hưng), quan hệ vợ

chồng – Lạnh lùng, Đoạn tuyệt (Nhất Linh), vợ cả vợ lẽ - Thoát ly (Khái Hưng), Làm lẽ (Mạnh Phú

Tư), nạn khoa trường – Lều chõng (Ngô Tất Tố), … đều được các nhà văn phản ánh với cảm hứng phê

phán mạnh mẽ. Bằng nhiều kiểu cười, Nguyễn Công Hoan, Đồ Phồn đã phơi bày ra giữa thanh thiên

bạch nhật tính chất giết người không dao của lệ khao vọng ở vùng nông thôn Bắc bộ Việt Nam, bộ mặt

thật của chức tiên chỉ làng, Phi Vân lại chỉ ra sự mê muội trước những phép thuật của những người dân

quê, … Dường như các nhà sáng tác tiểu thuyết phong tục trong giai đoạn 1930 – 1945 đang làm một

cuộc thanh lọc những sinh hoạt đời thường của con người. Có tác phẩm ngợi ca đức hạnh cao quý của

người phụ nữ Việt Nam – bà lý Bổng (Chồng con), nét đẹp văn hóa làng xã trong ngày tết cổ truyền

của dân tộc – làng Cầm (Con trâu), … Có một số tác phẩm lại đấu tranh nhằm loại trừ những biểu hiện

lỗi thời lạc hậu như lối sống gia trưởng độc đoán – ông Phủ (Lá ngọc cành vàng), ích kỷ - bà Cang

(Gây dựng), nhẫn nhục – bà Sinh (Nhạt tình), … Chỉ riêng khi đứng trước những biểu hiện thuộc về

đời sống tinh thần, thái độ nhà văn có phần dè dặt hơn. Đa số các tác phẩm khi đề cập đến những vấn

đề này thường dừng ở cảm hứng “tái hiện” như ở tiểu thuyết Con trâu, Chồng con chẳng hạn.

Ở một khía cạnh khác, người nghiên cứu tiểu thuyết phong tục giai đoạn 1930 -1945 cũng đã

thừa nhận rằng nhân vật trong những tiểu thuyết phong tục giai đoạn này chủ yếu được tập trung miêu

tả kỹ lưỡng về lời nói và hành động trong mối quan hệ với hiện thực xung quanh. Từ đầu đến cuối tiểu

thuyết Con trâu, Trần Tiêu không để bác xã Chính có một không gian suy nghĩ riêng. Chưa có chức,

bác đầu tắt mặt tối ngoài ruộng kiếm miếng cơm manh áo. Đến khi mua được chức xã, bác xã Chính lại

bận bịu hơn. Lo xong việc đồng án, bác phải lo đến việc thôn việc làng. Nhà văn cũng không khai thác

những diễn biến phức tạp trong đời sống nội tâm của nhân vật mà chỉ thông qua việc miêu tả những

cuộc tiếp xúc giữa các kiểu nhân vật mới – cũ để trình bày hiện thực dưới nhiều góc độ, trong nhiều

mối quan hệ mà thôi.

Tóm lại, tiểu thuyết phong tục ở Việt Nam ra đời không phải là hiện tượng tự phát mà được

chuẩn bị từ khá lâu. Buổi đầu của nó là những tác phẩm phản ánh tâm lý xã hội. Sau đó, hoàn cảnh

nhiều biến động của xã hội đầu thế kỷ XX, nội dung của cuộc thi tiểu thuyết do báo Nông cổ mín đàm

phát động ngày 23/06/1906 đã tạo thuận lợi cho sự hình thành thể tài tiểu thuyết viết về phong tục. Rồi

cùng với thời gian, với những đổi thay của cuộc sống thể tài tiểu thuyết phong tục dần dần được định

hình. Và cho đến những năm 1930 -1945, nó đã là một trong những thể tài phát triển của văn học Việt

Nam. Những tác phẩm thuộc thể tài này góp phần làm nên một bức tranh phong tục Việt trong một thời

kì lịch sử thật đầy đủ và sinh động. Đồng thời, những thành tựu về nghệ thuật thể hiện của nó cũng đã

khẳng định thêm một bước tiến cho nền văn học hiện đại Việt Nam.

Tuy nhiên, trong những năm 1930 -1945, tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết phong tục nói

riêng vẫn còn là một thể văn rất mới. Việc có ít nhiều hạn chế trong khi xây dựng cốt truyện, nhân vật,

… cũng là điều dễ chấp nhận. Nhà tiểu thuyết phong tục vì tập trung tái hiện hiện thực đã lơ là trong

việc kiến thiết các yếu tố. Tác phẩm thường có cốt truyện lỏng lẻo, rời rạc. Nhân vật kém đa dạng và

thiếu cá tính do đó dễ trở nên mờ nhạt. Điều đáng quý ở đây là khi mới xuất hiện tiểu thuyết phong tục

Việt Nam chỉ đề cập đến các vấn đề phong tục trong phạm vi gia đình nhưng sau đó thể tài này đã mở

rộng đề tài khảo sát sang cả phong tục xã hội, phong tục tôn giáo. Không gian phong tục do đó cũng

được mở rộng từ gia đình ra làng xã, từ nông thôn đến thành thị. Các vấn đề phong tục được nhà văn

đặt ra cũng ngày càng có chiều sâu. Tác phẩm không chỉ viết về đời sống bên ngoài xã hội mà còn đi

vào thể hiện những vấn đề thuộc về đời sống tâm linh.

1.3. Vị trí tiểu thuyết phong tục của các nhà văn Tự lực văn đoàn

Ở Việt Nam, giai đoạn 1930 – 1945 là một giai đoạn lịch sử có nhiều sự kiện, nhiều biến động

xã hội lớn tác động trực tiếp đến lập trường tư tưởng, khuynh hướng sáng tác của các nhà văn. Tự lực

văn đoàn đã bắt kịp khuynh hướng lãng mạn của thời đại, tâm lý nam nữ thanh niên thành thị và yêu

cầu đổi mới của văn học để khẳng định sự có mặt của mình trên văn đàn vào năm 1932.

1.3.1. Sự xuất hiện của Tự lực văn đoàn

Tự lực văn đoàn là nhóm văn do Nhất Linh, tên thật Nguyễn Tường Tam, đứng đầu, có tôn chỉ,

mục đích hoạt động cụ thể rõ ràng (xem Phong hóa số 87). Cơ quan ngôn luận ban đầu của nhóm là tờ

báo Phong hóa – số 14 (22/09/1932) sau chuyển sang Ngày nay. Đa số các thành viên nhóm Tự lực

văn đoàn là những trí thức Tây học, trẻ tuổi. Họ chịu ảnh hưởng của văn chương tiến bộ Pháp, chủ

trương làm một cuộc cải tổ xã hội, cải tổ văn chương:

“Một cuộc hoán cải lớn lao trong báo Phong hóa

“Một sự lạ trong làng báo”!

Một cái mới!

Đến ngày thứ năm 22 Sept. 1932

Báo Phong hóa sẽ ra số mới

8 thay 12 trang (khổ nhật trình) mỗi số 0p07

Bàn một cách vui vẻ các vấn đề cần thiết:

xã hội, chính trị, kinh tế.

Nói rõ về hiện tượng trong nước

Có 15 tranh vẽ, nhiều chuyện vui, v.v…

Cần thiết …

Hoạt động …

Vui vẻ …

mãi … mãi …”

[60, tr. 11].

Phong hóa từ khi ra đời bắt đầu cuộc tuyên chiến với Đông Dương tạp chí và Nam phong tạp

chí, hai tờ báo đang thịnh hành lúc bấy giờ, bằng hàng loạt bài viết, tranh ảnh. Họ chống đến cùng tư

tưởng nệ cổ của các nhà Nho như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Tăng Bí, Huỳnh Thúc

Kháng, Nguyễn Trọng Thuật, … Và cũng trên tờ báo này, các nhà văn Tự lực văn đoàn cho trình diện

làng văn những tác phẩm mới mẻ từ nội dung, tư tưởng cho đến cốt truyện, cách hành văn: Hồn bướm

mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Đôi bạn, … Tất cả đã làm cho nhà nghiên cứu văn học Thanh

Lãng khi nói về Tự lực văn đoàn và về sự xuất hiện của nhóm văn này phải thốt lên rằng: “Thực vậy,

tuần báo Phong hóa là luồng gió mới, làm xáo trộn tất cả trật tự xã hội, thổi tung những lớp bụi bặm

phủ đầy trên lâu đài văn hóa cũ một lần nữa bay mù trời” [60, tr. 13]. Nói khác hơn, trên diễn đàn văn

học Việt Nam, Tự lực văn đoàn ra đời vào năm 1932 và họ thật sự là một nhóm nòng cốt của trào lưu

văn học lãng mạn trong những năm 1930 – 1945.

Năm 1789, cách mạng tư sản Pháp thắng lợi. Chế độ phong kiến sụp đổ, một hình thái kinh tế -

xã hội mới được hình thành. Trước những thay đổi này, có người luyến tiếc cái quá khứ, có người chờ

đợi cái mới nhưng hiện thực tư sản không như mong đợi lại khiến họ thêm chán chường tuyệt vọng.

Những thay đổi về mặt tâm lý xã hội này chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của

chủ nghĩa lãng mạn với khuynh hướng thoát ly khỏi thực tại khách quan, chìm sâu vào thế giới của

“cái tôi nội cảm”, trọng tự do cá nhân “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất” (Xuân Diệu). Với những nhà

văn theo khuynh hướng lãng mạn, thiên nhiên và tình yêu là hai đề tài dễ gợi cảm hứng nhất. Đau

buồn, sầu não được xem là những tình cảm đẹp của con người. Nhà văn thường thích những cảnh vắng

vẻ, những buổi chiều tà, những đêm trăng lạnh, … vì ở đó họ được đối diện với chính mình, được tự do

tự tại. Tuy nhiên, trên thực tế chủ nghĩa lãng mạn không tồn tại với tư cách là một khuynh hướng sáng

tác thuần nhất mà phân hóa ra hai nhánh: lãng mạn tiêu cực (đại diện là tầng lớp quý tộc, tiểu tư sản và

tiểu nông bị phá sản trong xã hội mới) và lãng mạn tích cực (đại diện là tầng lớp dân chủ tư sản tiến bộ

bất mãn với thành quả cách mạng).

Sau đó, đến những năm năm mười của thế kỷ XIX, tại Pháp xuất hiện một khuynh hướng sáng

tác mới như là sự phản ứng trực tiếp lại đối với khuynh hướng lãng mạn. Khuynh hướng này được

Săngfơlơry gọi là “Realist” – tức chủ nghĩa hiện thực. Chủ trương của những nhà văn theo khuynh

hướng này là gắn liền văn học với cuộc sống. Nhà văn đa số thiên về nguyên tắc khách quan, chú trọng

tìm hiểu và phản ánh những quan hệ thực tế, và xây dựng những hình tượng điển hình. Theo họ, tác

phẩm văn học phải miêu tả một cách thật chính xác, tỉ mỉ về con người và xã hội để qua đó giúp người

đọc rút ra bản chất và quy luật khách quan của đời sống.

Trở lên là hai khuynh hướng sáng tác chủ đạo của thế kỷ XX ở Việt Nam. Khi đọc bốn điều

trong tuyên ngôn thành lập và mười điều tôn chỉ của Tự lực văn đoàn, chúng tôi nhận thấy họ không

chủ trương đưa ra một khuynh hướng sáng tác nào chung cho cả nhóm. Điều mà các thành viên trong

Tự lực văn đoàn quan tâm không phải là hiện thực hay lãng mạn – tác phẩm hiện thực, tác phẩm lãng

mạn cùng đoạt giải thưởng Tự lực văn đoàn là một minh chứng. Tuy nhiên, xét về cơ bản Tự lực văn

đoàn là một nhóm văn có khuynh hướng sáng tác nghiêng về lãng mạn. Chủ nghĩa cá nhân, nguyên tắc

chủ quan khi miêu tả, tính chất mơ mộng, … của chủ nghĩa lãng mạn thể hiện đầy ắp trong những tác

phẩm như: Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Gánh hàng hoa, … Các nhà

văn Tự lực văn đoàn chủ yếu lại tìm nguồn cảm hứng sáng tác từ tình yêu nam nữ. Nhân vật của họ lại

là những con người giàu cảm xúc, mơ mộng, hay đang đeo đuổi một lý tưởng lớn lao. Những lời Ngọc

tỏ bày cùng Lan:“Nếu Lan đi thì Ngọc phải chết khô, chết héo mất. Ngọc chẳng dám mơ màng chi, chỉ

ao ước thỉnh thoảng lên chùa nhìn thấy mặt Lan là đủ rồi. Vậy xin Lan cứ ở lại đây tu hành, rồi ngày

Ngọc được nghỉ, cho phép Ngọc phóng xe đạp lên chùa thăm Lan” [48, tr. 106], và lời Lộc tỏ bày cùng

Mai: “Nhưng em ạ, sao anh không nghĩ tới xã hội, đem hết nghị lực, tài trí ra làm việc cho đời. Rồi

thỉnh thoảng hưởng một vài giờ thư nhàn mà tưởng nhớ tới em, mà yêu dấu cái hình ảnh dịu dàng của

em, cái linh hồn cao thượng của em. Trời ơi! Anh sung sướng quá, anh trông thấy rõ rệt con đường

tươi sáng của anh rồi. Đời anh từ nay thế nào cũng đổi khác hẳn. Anh sẽ vì người khác, anh sẽ bỏ cái

đời an nhàn phú quý mà dấn thân vào cuộc đời gió bụi. Anh đã trông thấy hiện ra trước mắt những sự

cay cực lầm than đang đợi anh. Nhưng anh không ngại vì có em …” [51, tr. 355]… thật mơ mộng, và

nó chỉ có thể là lời của những người có một tâm hồn lãng mạn.

Không những thế cách giải quyết vấn đề ở một số tác phẩm như Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng

xuân, Con đường sáng, Gia đình, … cũng ít nhiều mang dấu ấn chủ quan của nhà văn. Nhất Linh, Khái

Hưng cũng như Hoàng Đạo mặc dù nhận ra đâu là nguyên nhân làm cho cuộc sống của người lao động

phải cơ cực nhưng cách giải quyết của họ lại không dứt khoát và đầy ảo tưởng. Viết thản nhiên nhận

những món “tiền phải tiền không” từ người dân nghèo thì An lại lấy điều đó làm xấu hổ, dằn vặt lương

tâm (Gia đình). Khi thì phản ánh những tay tư sản khét tiếng ăn chơi và làm giàu bằng mọi cách –

Thiện, Cảnh (Băn khoăn), nhưng có lúc họ vẫn tin rằng còn những kiểu tư sản như Hạc – Bảo (Gia

đình), Duy – Thơ (Con đường sáng) biết quan tâm chăm lo đến cuộc sống của người lao động nghèo

Tóm lại, điều đáng nói ở đây là dù được viết bằng cảm hứng lãng mạn nhưng tác phẩm của Tự

lực văn đoàn không làm người đọc chìm đắm trong thế giới tình cảm, trong niềm bi lụy để rồi thoát ly

khỏi thực tại cuộc sống. Tác phẩm của họ chủ yếu đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, đòi tự do hôn

nhân đồng thời tố cáo phê phán thái độ duy trì chế độ đại gia đình phong kiến với những lễ giáo khắt

khe ràng buộc con người …. Văn chương Tự lực văn đoàn do đó nhanh chóng trở thành món ăn tinh

thần rất hợp khẩu vị của thanh niên trí thức tư sản và tiểu tư sản ở Việt Nam những năm 1930 – 1945.

Những việc họ làm đúng như lời Trương Chính nhận định: “biện luận cho một nhân sinh quan mới,

bênh vực lớp người trẻ, bài bác những tập quán do nền luân lý phong kiến để lại (…) ít nhiều phấn đấu

chống lại luân lý cũ, giải phóng cho tình cảm của cá nhân (…) Nói chung, họ đứng về lớp người mới

chống lại lớp người cũ, họ đứng về phe cá nhân chống chế độ đại gia đình” [26, tr. 376]. Sách báo của

nhóm Tự lực lại in đẹp nên bán rất chạy. Có thể nói từ 1932 đến 1940, Tự lực văn đoàn là nhóm văn

học lãng mạn duy nhất chiếm được vị trí ưu thế trên văn đàn công khai. Đa số mọi người đều đánh giá

cao sự đổi mới về ngôn ngữ thơ ca hay nghệ thuật tiểu thuyết của những nhà văn này. Nhưng chúng tôi

cho rằng, xét ở khía cạnh văn hóa, họ còn có nhiều đóng góp hơn nữa. Đó chính là khả năng phản ánh

chân thật những sinh hoạt văn hóa của dân tộc.

1.3.2. Tự lực văn đoàn và tiểu thuyết viết về phong tục

Thế kỷ XX cũng là thế kỉ làn sóng văn hóa phương Tây ồ ạt tràn vào Việt Nam. Những tên tuổi

như Satôbriăng, Lamáctin, Huygô, Bairơn, … lúc này không còn xa lạ với đông đảo trí thức Việt Nam

– nhất là tầng lớp Tây học trẻ tuổi. Chỉ tính riêng ở Hà thành đã có hơn chục nhóm sáng tác theo

khuynh hướng lãng mạn: nhóm cộng tác viên của Hà Nội báo như Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Thái

Can, Nguyễn Nhược Pháp; nhóm cộng tác báo Tiểu thuyết thứ bảy như Thâm Tâm, Trần Huyền Trân,

Ngọc Giao, Lê Văn Trương, Tchya, Thanh Châu; nhóm Xuân thu nhã tập như Đoàn Phú Tứ, Nguyễn

Lương Ngọc, Nguyễn Xuân Sanh; nhóm Tự lực văn đoàn, … Dĩ nhiên trong số đó có cả hoa thơm có

cả cỏ dại. Nhưng lúc này những tư tưởng cứng nhắc ở Việt Nam đã khiến cho có một thời hễ nghe

nhắc đến hai chữ “lãng mạn” nhiều người đã nghĩ ngay đến vô số điều nào là ích kỷ, suy đồi, phản

cách mạng … Bất cứ tác phẩm nào của các nhà văn lãng mạn cũng đều bị họ cho là có ảnh hưởng tiêu

cực đến quốc dân đồng bào và không nên tìm hiểu: “Văn học lãng mạn tiểu tư sản của giai đoạn 1930

– 1945 chủ yếu là tiêu cực và có hại” (Dẫn theo Lê Dục Tú, “Vấn đề đánh giá văn học lãng mạn Việt

Nam và sự đổi mới tư duy nghiên cứu văn học”, Tuyển tập 40 năm tạp chí Văn học, tr. 392). Và đáng

nói hơn là với quan niệm sai lầm này nhiều người đã đánh giá không đúng thành quả lao động nghệ

thuật, hoặc thậm chí phủ nhận luôn vai trò của các nhà văn lãng mạn. Đối với nhóm Tự lực văn đoàn –

đặc biệt là Nhất Linh và Khái Hưng – thái độ phê phán dành cho họ thật gay gắt.

Sau hai lần khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam phải cõng trên vai gánh nặng tài chính của

Pháp. Đói kém xảy ra liên miên. Về chính trị, Pháp lại tăng cường chính sách khủng bố hòng dập tắt

phong trào cách mạng Việt Nam. Ở nông thôn, để thuận lợi cho việc cai trị, thực dân Pháp vẫn duy trì

bộ máy quan lại phong kiến cũ. Do đó, các điều luật mới tuy được ban hành từng ngày nhưng cách

hành xử trong xã hội lại chủ yếu dựa theo lệ nhiều hơn luật “Phép vua thua lệ làng”. Số phận con

người đã bé nhỏ lại càng trở nên mong manh hơn. Chết chóc vì đói khát, vì bị đánh đập, vì hủ tục …

diễn ra khắp hang cùng ngõ hẻm. Bên cạnh đó các giềng mối đạo đức xã hội lại đang có nguy cơ rạn

nứt trước sự tấn công của văn hóa phương Tây và thế lực của đồng tiền. Tự lực văn đoàn là tập hợp

những con người trẻ được hưởng một nền giáo dục mới. Họ ý thức rõ về những thay đổi này. Họ tìm

đến những vấn đề thuộc về văn hóa phong tục nước nhà. Tuy nhiên, nổi bật nhất trong những sáng tác

của Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu, … là tinh thần chống lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu

đương và hạnh phúc cá nhân.

Nếu ở Nho phong, xuất bản 1929, cái nhìn của Nhất Linh “hãy còn là anh học trò ngoan ngoãn

của trường cổ điển lấy đạo đức nho giáo làm căn bản cho tư tưởng” [61, tr. 573] thì khi thành lập Tự

lực văn đoàn, năm 1932, nhà văn này đã đề ra chủ trương: “Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nước

mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân; Làm cho người

ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa” [59, tr. 25]. Có thể nói tôn chỉ này của Tự lực văn đoàn

đã thực sự làm dấy lên phong trào sáng tác vì văn hóa phong tục. Không chỉ có các thành viên trong

nhóm, hầu hết các nhà văn khác, từ hiện thực cho đến lãng mạn, từ chuyên về tiểu thuyết hay truyện

ngắn đều cho trình làng ít nhất một tác phẩm viết về đề tài phong tục: Nguyễn Công Hoan, Hồ Biểu

Chánh, Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Thiết Can, Nguyễn Đức Quỳnh, Chu Thiên, Đỗ

Đức Thu, … Từ Nam chí Bắc lúc này đều có tiểu thuyết phong tục.

Trong thời kỳ phong kiến, con người cá nhân không có quyền sống riêng mà phải tuân thủ theo

những nguyên tắc nghiệt ngã, những quy phạm bất di bất dịch. Cùng với việc lật đổ ách thống trị của

chế độ phong kiến, việc xem xét lại hệ tư tưởng cũ do đó cũng là một điều tất yếu cần phải làm. Thế kỷ

XX ở Việt Nam, vì vậy, đã diễn ra nhiều cuộc cải cách lớn về tư tưởng, văn hóa xã hội. Những lời kêu

gọi “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” được hưởng ứng nhiệt liệt trên cả nước. Khắp nơi,

người ta quan tâm đến việc mở mang trường học, chống lề thói phong kiến, cải cách xã hội. Những búi

tóc củ hành của những nhà Nho xưa được thay bằng đầu tóc ngắn, những bộ âu phục thay cho bộ áo

cánh, hàm răng đen thay bằng hàm răng trắng, … Người ta rủ nhau học chữ quốc ngữ thay vì học chữ

Hán. Những tục lệ cổ hủ dần dần bị lên án và loại bỏ. Ý thức về văn hóa, về cội nguồn dân tộc giờ đây

trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong hoàn cảnh này, Tự lực văn đoàn và những tác phẩm đấu tranh

chống hủ tục, bảo vệ mỹ tục của họ đã xuất hiện như một điều tất yếu. Nhóm có bốn cây bút chuyên về

văn xuôi thì đã ba nhà văn – Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu có những sáng tác xoay quanh những

vấn đề phong tục. Tác phẩm của họ lại chứa cả hai yếu tố lãng mạn và hiện thực.

* *

*

Nói về vấn đề lãng mạn và hiện thực trong văn học, nhà lý luận người Nga, N.A. Gulaiep, trong

công trình Lý luận văn học, đã khẳng định: “Hầu như không thể gặp chúng dưới dạng thuần khiết tuyệt

đối, bời vì việc phân chia chúng một cách cưỡng bức sẽ dẫn tới việc phá hủy hình tượng nghệ thuật

(những hình thức khác nhau của chủ nghĩa hiện đại là một ví dụ). Ngay một nhà văn hiện thực khách

quan nhất cũng không thể phản ánh thực tại một cách thờ ơ lạnh lùng như một tấm gương, cũng như

vậy, nhà văn lãng mạn chủ quan nhất cũng không thể trốn chạy hiện thực khách quan: nó xâm nhập

vào tác phẩm của anh ta ở mức độ này hay khác” [33, tr. 336 – 337]. Thật vậy, các tiểu thuyết Nửa

chừng xuân, Đoạn tuyệt, Gia đình, Thừa tự, Thoát ly, Con trâu hay Chồng con … mặc dù có yếu tố

lãng mạn nhưng đều là những tiểu thuyết miêu tả thành công cảnh mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con

chồng, vợ cả vợ lẽ, … Trong những tác phẩm này, nhà văn đã đặt vấn đề tự do cá nhân, hạnh phúc của

người phụ nữ lên trên hết. Viết về những mối tình thi vị, đẹp đẽ; những tâm tư khát vọng của một thế

hệ thanh niên nhưng tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn đã mang đến cho người đọc một cảm giác thật dễ

chịu vì tất cả đều được dựa trên một nhân sinh quan tích cực, tiến bộ. Thông qua việc vạch ra những

mặt trái, sự phân hóa suy tàn trong lối sinh hoạt của đại gia đình phong kiến, các ông tiến tới việc cần

phải xóa bỏ những hủ tục lạc hậu. Cách kể chuyện nhẹ nhàng, nho nhã của Nhất Linh trong Nho

Phong, Khái Hưng trong Hồn bướm mơ tiên trước kia nay cũng đã nhường chỗ cho những đoạn phân

tích sâu sắc về nội tâm, những đoạn đối thoại có tính đời thường… Tất cả đã chứng minh được một

điều rằng trong lĩnh vực nghệ thuật không nên có sự phân định rạch ròi nào. Một nhà văn có thể sáng

tác cả truyện và thơ. Anh ta có thể lãng mạn vào thời điểm này nhưng cũng có thể hiện thực vào thời

điểm khác. Tiểu thuyết phong tục của các nhà văn Tự lực văn đoàn là vậy, vừa có yếu tố tự sự vừa có

yếu tố trữ tình, lãng mạn nhưng cũng không kém phần hiện thực.

Chương 2

BỨC TRANH PHONG TỤC

TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Thể tài tiểu thuyết phong tục được phân biệt với các thể tài tiểu thuyết khác trước hết là ở nội

dung phản ánh. Cảm hứng phong tục thôi thúc nhà văn tìm về các vấn đề liên quan đến phong tục tập

quán của nước nhà. Chúng tôi đã tìm hiểu tác phẩm của ba nhà tiểu thuyết tiêu biểu trong nhóm Tự lực

văn đoàn – Nhất Linh, Khái Hưng, Trần Tiêu – và nhận thấy rằng tuy mức độ phản ánh phong tục

trong từng tác phẩm ít nhiều có khác nhau nhưng nhìn chung cảm hứng sáng tác của họ đều được bắt

nguồn từ những vấn đề phong tục: phong tục trong đời sống xã hội và phong tục trong đời sống tâm

linh người Việt.

2.1. Bức tranh phong tục về đời sống xã hội

Đất nước con người Việt Nam sau ngàn năm chịu sự kìm tỏa của phong kiến phương Đông, đến

đầu thế kỷ XX lại bị ách thống trị của tư bản phương Tây. Sự thay đổi lớn lao về mặt chính trị này dĩ

nhiên kéo theo hàng loạt những xáo trộn về kinh tế, văn hóa, tư tưởng xã hội. Trong đời sống hàng

ngày, những biểu hiện về đạo đức, phong tục cũng bị đảo lộn. Xấu – tốt rất khó phân định. Đây chính

là thời điểm thuận lợi cho sự hoành hành của hủ tục. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều người ra

sức phát huy mỹ tục. Họ tin rằng với việc làm này họ sẽ góp phần giữ gìn và phát huy được bản sắc

văn hóa dân tộc. Các nhà văn Tự lực văn đoàn cũng là một trong số những người đó. Tôn chỉ sáng tác

của nhóm đã có một điều mục nói về việc phải bảo tồn thuần phong mỹ tục của nước nhà: “Ca tụng

những nét hay vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu

nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả và quý phái”. Do đó, trước hết, bức tranh

phong tục về đời sống xã hội trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn sẽ dành một góc để tái hiện lại những

nét vẽ về thuần phong mỹ tục trong sáng tác của ba nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, và Trần Tiêu.

2.1.1. Thuần phong mỹ tục

Gia đình là cái gốc của xã hội. Chính ở nơi ấy con người được sinh ra và lớn lên. Từ xưa đến

nay các thành viên trong gia đình người Việt vẫn luôn cư xử với nhau rất có nghĩa có tình. Tất cả người

Việt ai ai cũng đều quan niệm anh em cùng cha mẹ đẻ ra gọi là anh em đồng bào, anh em cùng cha

khác mẹ gọi là anh em dị bào, nhưng đều là anh em ruột. Anh em cốt lấy tình thân ái, đùm bọc, bênh

vực, giúp đỡ nhau. Người xưa vẫn thường cho rằng gia đình nào anh em ăn ở chung với nhau, hòa

thuận với nhau là có phúc. Trách nhiệm của các thành viên trong gia đình cũng được quy định hẳn hoi.

Người anh cả là người có quyền. Cha mất, anh cả sẽ thay mặt cho cha. Chị em cũng có tình thân ái như

anh em. Trong cách ăn cách ở cũng phải yêu mến nhau, nhường nhịn, lấy lời khôn lẽ phải mà khuyên

bảo nhau. Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã nhận thấy được truyền thống tốt đẹp này, quyết ra sức giữ

gìn và phát huy.

Mai, nhân vật chính trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân (Khái Hưng), là một người chị đáng

được nể trọng. Cha mẹ nàng lần lượt qua đời khi nàng chỉ mới mười chín. Huy, em Mai, rất thương

chị, không muốn chị vì mình phải lo lắng cực khổ. Sau khi cha mật, chàng đã xin phép chị được thôi

học để đi làm. Tình cảm yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa hai chị em họ khiến ai đọc cũng phải cảm

động:

Huy vội gạt:

- Không được chị ạ. Chị cứ để em thôi học ra xin việc làm ở các nhà buôn còn hơn. Em không

muốn vì em mà chị phải ngược xuôi vất vả.

Mai cười:

- Thế thì em nhầm: chị chỉ muốn vì em đem hết nghị lực ra làm việc như lời thầy dạy đấy thôi

[51, tr. 18].

Từ lúc cha mất đi, dường như tất cả tâm trí của mình Mai đều dành để lo lắng cho Huy. Mai

chăm sóc Huy từng li từng tí. Cuộc sống dẫu khó khăn nhưng đời nào nàng có thể để Huy thôi học. Dù

chưa nghĩ ra sẽ xoay sở thế nào để có tiền đóng tiền học cho em nhưng sợ em bận tâm, học hành sa sút,

nàng nói ra vẻ nàng đã quả quyết mọi việc đâu ra đó từ lâu lắm rồi:

Không được. Nhất định chị không để em bỏ học. Chị đã suy tính đâu ra đấy cả rồi. Chị về bán

nhà và bán đất ở, thế nào cũng được ít ra là bốn năm trăm (…) Em đi học, còn chị, chị tìm cách buôn

bán, hoặc bán rau, bán đậu, hoặc bán hoa quả. Như thế không những đủ chi dụng mà lại có tiền để

dành nữa kia [51, tr. 29].

Có lẽ phần vì tâm nguyện cuối cùng của cha, phần yêu thương em nên Mai không ngại một

mình đương đầu với mọi khó khăn. Chưa phút nào ta thấy Mai kịp nghĩ đến bản thân: “Còn Mai, nào

Mai có kịp tưởng đến Mai (…) Mai chỉ có cảm giác lờ mờ rằng suốt đời Mai ở bên cạnh em, săn sóc

chăm nom em như một người vú già …” [51, tr. 28]. Mai dành hết thời gian và sức lực của nàng để

chăm sóc và lo lắng cho em Huy. Nàng không lo thân mình, chỉ lo cho em phải dở dang việc học. Nàng

nghĩ, nếu cùng đường, nàng có thể chấp nhận lời đề nghị làm vợ bé của lão Hàn Thanh. Đọc đến đây

tôi trộm nghĩ nếu cần hi sinh cả tính mạng vì em có lẽ người chị này cũng không chút ngại ngần

chăng?!

Ngoài đức hi sinh cao cả của Mai ra, Nửa chừng xuân còn có bóng dáng của một người chị cũng

yêu thương em mình không kém, đó là chị Diên. Chị em Diên – Trọng cũng nghèo khổ giống chị em

Mai – Huy. Hai người sớm mồ côi. Vì muốn kiếm miếng cơm manh áo hàng ngày, vừa lo cho em

Trọng ăn học Diên đã bước vào con đường làm gái giang hồ. Diên không nghĩ đến nỗi khổ và nỗi nhục

của bản thân nàng. Điều nàng lo nhất là làm sao giữ gìn thể diện cho Trọng. Vì vậy, dù rất thương và

nhớ em nhưng chị không dám đàng hoàng vào trường thăm em như bao người khác: “Người chị tốt

lắm, thương Trọng, yêu quý Trọng như một người mẹ âu yếm con. Thứ năm, chủ nhật nào cũng mang

quà bánh vào thăm em. Mà thương hại thay! Lần nào vào thăm em cũng lẩn lút như kẻ cắp, không dám

để ai biết” [51, tr. 24].

Đáp lại tình thương, lòng hy sinh cao cả của hai người chị ấy, cũng trong Nửa chừng xuân, Huy

và Trọng là những đứa em ngoan ngoãn và luôn một lòng kính yêu chị. Nếu như Huy luôn chăm chỉ

học hành, không dám làm việc gì khiến Mai phải phiền lòng, thì Trọng cũng đã không ngần ngại kể về

cuộc sống tủi nhục mà xưa kia chị Diên đã phải trải qua để nuôi chàng ăn học nên người, dù biết rõ

việc này có thể “ngăn trở con đường tương lai hạnh phúc” đang đến với chàng. Do đó, nếu như ở trên

nhà văn khiến chúng ta nể trọng Mai, Diên thì đến đây hai nhân vật Huy và Trọng lại tạo thêm trong

chúng ta ấn tượng tốt đẹp về tình nghĩa của một người em đối với chị. Ấn tượng về một thái độ kính

yêu và đền đáp.

Xiết bao điều tốt đẹp trong đạo lý anh em từ xa xưa của người Việt Nam đã và đang tồn tại

trong mỗi gia đình. Khái Hưng, cây bút xuất sắc của Tự lực văn đoàn, đã phát hiện ra và đưa vào một

số tác phẩm của ông. Những ai đã từng cảm phục trước hai người chị bản lĩnh, yêu thương em hết mực

như Mai và Diên trong Nửa chừng xuân chắc có lẽ đều khó nén được cảm xúc bồi hồi trước tình cảnh

hai anh em Lương và Thiện trong Thoát ly.

Lương và Thiện sớm mồ côi mẹ. Người cha sau khi lấy thêm vợ kế đã không còn quan tâm

chăm sóc đến hai anh em. Anh em Lương và Thiện vì vậy chỉ còn cách nương tựa vào nhau để sống:

“Cha chết đi, Lương và Thiện sống trong sự cô độc mênh mang, tuy thời còn cha hai người cũng đã

cảm thấy cô độc rồi. Vì thế chúng quyến luyến săn sóc đến nhau, thân yêu nhau hơn là trong tình anh

em. Thiện coi Lương như một người mẹ, và Lương chăm nom bảo ban Thiện như một người chị gái đối

với em” [102, tr. 721]. Tình cảm gắn bó giữa hai anh em cứ vậy ngày này qua ngày khác. Lâu dần,

Thiện đã yêu thương Lương đến độ chàng sinh tính ích kỷ. Chàng không muốn anh mình dành tình

cảm cho bất kì ai khác ngoài chàng. Chàng buồn bã và sinh lòng ghen ghét ngay với những người bạn

của anh vì chàng sợ sẽ phải xa anh. Về phần Lương, Thiện là người em duy nhất của chàng. Chàng lo

cho em từ miếng ăn, giấc ngủ cho đến việc học hành. Do đó, ngay khi biết Thiện buồn vì ghen với tình

yêu chàng dành cho Hồng, chàng không cam lòng. Chàng cảm thấy thương Thiện nhiều hơn. Và dù rất

buồn nhưng người anh ấy đã hứa với em là sẽ chấm dứt mọi mối quan hệ xung quanh chàng. Chàng

dặn lòng sẽ không dành tình cảm cho ai khác ngoài em mình.

Trong số các nhà văn Tự lực văn đoàn, Khái Hưng là người quan tâm về những biểu hiện của

tình cảm thiêng liêng thuộc phạm vi đời sống gia đình nhiều hơn cả. Đọc tác phẩm của ông ta có thể kể

ra nhiều loại tình cảm như: tình cha con, tình vợ chồng, tình chị em, … Cách viết của nhà văn lại

không thuyết lý dài dòng hay ồn ào, lớn tiếng. Ông hết sức nhẹ nhàng và tinh tế, tạo được sức mạnh lay

động từ bên trong. Với người đọc hôm nay, những nhân vật Mai – Huy, Diên – Trọng, Lương – Thiện

của Khái Hưng mãi mãi vẫn là những hình ảnh hết sức chân thật, dung dị nhưng vô cùng đẹp đẽ cho

tình nghĩa anh em trong mỗi gia đình người Việt Nam.

Một điều nữa về thuần phong mỹ tục mà chúng tôi nhận thấy được sau khi đọc tiểu thuyết Tự

lực văn đoàn là dường như tất cả nhân vật nữ chính của họ không ít thì nhiều đều mang trong người

những nét đẹp cổ truyền: từ bà lý Bổng, bác xã Chính, Mai, Nhung, Hồng cho đến Tuyết – một cô gái

giang hồ. Những người phụ nữ này đều là những người mẹ, người vợ cần cù, đảm đang, chịu thương

chịu khó. Không những thế, tấm lòng họ còn rất mực thủy chung, hiền lành nhân hậu. Trước tiên, tôi

muốn nói đến trường hợp Mai trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng.

Cha qua đời sớm. Mai là chị, nàng thay cha tiếp tục lo lắng cho em ăn học. Một thời gian sau,

nàng đã yêu và lấy Lộc – một người quen cũ và cũng là người giúp đỡ chị em nàng trong cơn khốn

khó. Cuộc hôn nhân vừa đem lại hạnh phúc vừa gây đau khổ cho nàng. Hạnh phúc vì nàng được sống

và chăm lo cho một gia đình nhỏ với những người nàng yêu thương. Đau khổ vì dù bằng lòng làm vợ

Lộc nhưng nàng biết hôn nhân giữa nàng và Lộc không được sự cho phép của bà Án mẹ Lộc. Yêu Lộc,

lòng nàng luôn nơm nớp lo sợ một ngày nào đó sẽ phải rời xa chồng. Về phía bà Án, bà đã kén vợ cho

con trai là một nơi môn đăng hộ đối nên khi biết con lén lút cưới người con gái khác, bà tìm mọi cách

để li gián hai người. Lộc nghi ngờ Mai, tình cảm của chàng đối với vợ trước kia nồng nàn biết nhường

nào thì nay lại đổi ra lạnh nhạt đến khó ngờ. Điều này khiến Mai vì lòng tự trọng, và đặc biệt là vì con

đường tương lai của Lộc – lời bà Án nói – đã quyết định rời xa Lộc. Mai ra đi giữa lúc bụng mang dạ

chửa, em Huy lại đang bị bệnh. Nếu không có ý chí, nếu tính tình không chịu thương chịu khó có lẽ

Mai và Huy đã không thể vượt qua hoàn cảnh ngặt nghèo này. Tác phẩm Nửa chừng xuân của Khái

Hưng đã khẳng định Mai là một cô gái đầy bản lĩnh. Sự giúp đỡ của những người bạn tốt bụng cùng

nghị lực bản thân đã giúp Mai không những không bị khuất phục trước thử thách nghiệt ngã của số

phận mà còn vươn lên sống tốt hơn. Sau những cơn bão táp của cuộc đời, Huy trở thành nhà giáo, Mai

sống lặng lẽ chăm sóc em và con.

Ai cũng biết lòng chung thủy, tình yêu sắt son chính là một nét đẹp truyền thống của những

người phụ nữ Việt Nam. Mai của Khái Hưng là người đã kế thừa được đức tính này. Dù biết rõ rằng

Lộc đã vâng lời mẹ cưới vợ khác, Mai vẫn giữ trọn bổn phận của mình – bổn phận của một người con

gái đã có chồng: “Còn con thì trinh tiết, tính mệnh (…) cả một đời con, con đã gửi vào anh con (…)

con không thể lấy được ai nữa. Không phải con sợ mất, sợ thiệt một sự gì cho con, nhưng xa anh Lộc

thì con không thể sống được (…) thà con chết còn hơn đi lấy lẽ. Lương tâm con không cho làm những

điều vô nhân đạo như thế” [51, tr. 169 -170]. Trong mọi lời nói và hành động, Mai luôn tỏ ra là một

người phụ nữ đứng đắn và biết giữ gìn. Tuy mang ơn Minh đã chữa khỏi bệnh cho em Huy, nhưng

không vì thế Mai chấp nhận những cử chỉ có phần cợt nhã của Minh. Nàng đã rất giận dữ và phản

kháng vô cùng mạnh mẽ: “Mai đứng phắt dậy mặt tái mét, cất tiếng cự tuyệt: - Ông không được hỗn.

Tôi là gái đã có chồng”. Cho đến sau này, với họa sĩ Bạch Hải, phản ứng của Mai cũng thế. Cách xây

dựng nhân vật như thế của Khái Hưng đã cho thấy tác giả muốn khẳng định với bạn đọc rằng đức hạnh

và lòng chung thủy của người phụ nữ với chồng mình bao giờ cũng là điều đáng quý nhất: “Nhưng

chiều hôm ấy tôi gặp … chồng tôi ở cổng nhà ông thì tôi vụt nhớ tới bổn phận của tôi. Vẫn biết bao giờ

tôi cũng nghĩ tới bổn phận nhưng tôi không muốn để ai ngờ được lòng đoan chính của tôi” [51, tr.

266].

Tóm lại, trên những nét lớn, tiểu thuyết Nửa chừng xuân của Khái Hưng đã dựng lên được một

bức chân dung chân thật và đẹp đẽ về người phụ nữ Việt Nam. Nhân vật nữ chính duy nhất của truyện

là cô gái có nhiều tư tưởng mới mẻ, táo bạo. Nhưng cô gái ấy không hề đánh mất những đức tính đẹp

đẽ ngàn đời. Nói khác hơn, với các nhà văn Tự lực văn đoàn, lòng hiếu thảo của một người con đối với

cha mẹ, tình yêu thương đùm bọc của người chị đối với em, lòng thủy chung son sắt của người vợ đối

với chồng rất đáng trân trọng, đáng được gìn giữ. Vì vậy, nó luôn tồn tại trong mỗi nhân vật nữ của các

ông.

Bà lý Bổng trong tiểu thuyết Con trâu của Trần Tiêu cũng là nhân vật phẩm hạnh như Mai của

Khái Hưng.

Mười chín tuổi nàng về làm dâu nhà bà khán Tịn. Đây là lời nhận xét của người mẹ chồng về

nàng: “Nàng dâu bà đảm đang quá. Thôi thì dệt vải, may vá, đi chợ đi búa, làm cơm, làm nước, buôn

ngược bán xuôi, tần tảo, làm lợi cho nhà bà khá nhiều mà không bao giờ phàn nàn về nỗi vất vả. Mười

chín tuổi đầu mà biết đủ mọi việc như thế thì thật là hiếm có, một nàng dâu hiếm có” [102, tr. 747].

Chồng nàng ban đầu cũng là người chăm làm, không rượu chè, cờ bạc, chỉ duy nhất có thú chơi diều.

Trong đời sống vợ chồng, “Nàng lúc nào cũng xuân tình nồng nàn. Nàng sớm dậy thì. Từ năm nàng

mười lăm mười sáu đứng trước trai tơ nàng đã thấy nóng bừng cả mặt, vì thế mà nàng có vẻ thẹn

thùng e lệ (…) vài năm nay tình dục của nàng càng thêm bồng bột. Nàng đĩ người nhưng không đĩ nết.

Nhờ có nết mà nàng không đến nỗi ngoại tình và còn giữ được trinh khi về nhà chồng” [102, tr. 871].

Nhưng về phía chồng nàng: “Nàng thấy chồng nàng có tính lãnh đạm, thờ ơ ít khi nồng nàn như

nàng”. Có lẽ vì thế mà hai vợ chồng ở với nhau đã tám chín năm vẫn chưa có con chăng? Mẹ chồng

nàng ngày đêm mong ngóng có được đứa cháu để ẵm bồng. Còn nàng, nàng lo lắng và buồn bã không

kém. Rồi nàng cũng sinh được con. Nhưng hai đứa con gái ra đời liên tiếp là cái cớ để chồng nàng vin

vào đấy suốt ngày chơi bời lêu lỏng bỏ mặc nàng chăm lo mọi việc trong ngoài. Từ chăm mẹ già đau

ốm, đến dệt cửi, trông coi công việc ruộng vườn, nuôi con, một mình nàng cáng đán. Sau này, tuy nàng

có sinh thêm được đứa con trai, nhưng xã Bổng chồng nàng đã quen thói ăn chơi nên vẫn chứng nào tật

ấy. Hết rượu chè, cờ bạc ông lại chuyển sang mê cô đầu. Ngay bà khán còn phải thất vọng với đứa con

chính bà đã mang nặng đẻ đau, vậy mà người vợ ấy vẫn không một lời than vãn. Bà dốc hết lòng lo cho

chồng và gia đình chồng. Tay bà trước kia chăm nom mẹ chồng và chồng thì nay lại đến chăm nom

con cháu. Suốt cuộc đời, bà không lúc nào ngơi nghỉ, không lúc nào lo đến bản thân. Bà chỉ biết mỗi

một việc là làm lụng và thu vén trong ngoài để chồng con bà được sung sướng. Bao nhiêu công việc,

bao nhiêu lo toan đều đổ cả lên đôi vai của người phụ nữ này. Nhưng tất cả, bà đều có thể chu tất. Bà

lo được chức lý thôn cho chồng, lo trả món tiền cưới lại cho ông Nghị, lo chức lý cho thằng Quy, lo tổ

chức tiệc lên lão sáu mươi của ông lý, …

Đọc xong Chồng con, có thể nói nhận xét: “Bà Lý của Trần Tiêu thật là người đàn bà tiêu biểu

cho rất nhiều người phụ nữ thôn quê Bắc Kỳ, họ là những người “hết khổ về chồng lại khổ về con” mà

suốt đời yên lặng làm ăn không hề ta thán” [83, tr. 788] của Vũ Ngọc Phan trong công trình Nhà văn

hiện đại là một nhận xét vô cùng xác đáng. Nhân vật bà lý Bổng của Trần Tiêu cả một đời tận tụy vì

chồng vì con. Niềm vui sướng và hạnh phúc nhất của người đàn bà thôn quê này là thấy chồng con

mình được nên danh nên giá, được trở thành ông nọ ông kia “Vì chàng thiếp phải bắt cua, những như

thân thiếp thiếp mua ba đồng”. Có lẽ nhà văn Trần Tiêu của chúng ta đã từng được chứng kiến. Đời bà

lý Bổng quả là hình ảnh về một đời buồn phiền và lo lắng, một đời đảm đang làm dâu, làm vợ rồi làm

mẹ làm bà của người phụ nữ ở thôn quê Bắc bộ. Chồng con của ông ghi lại hình ảnh người phụ nữ này

với một thái độ sẻ chia lẫn niềm cảm phục sâu sắc.

Trừ một vài nhân vật được xây dựng theo kiểu người phụ nữ truyền thống như Mai và Liên,

trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn còn hàng loạt nhân vật nữ thuộc tuýp người mới. Những nhân vật

này đấu tranh, phản đối quyết liệt với cái cũ. Nhưng tác giả khẳng định sự chống đối của họ không

phải nhằm xóa bỏ tất cả. Đối với những gì tốt đẹp, họ vẫn gìn giữ. Loan trong Đoạn tuyệt dù ban đầu

không có cảm tình với người chồng do cha mẹ chọn nhưng khi đã về làm vợ, nàng vẫn cố yêu lấy

chồng và gia đình chồng; Nhung trong Lạnh lùng lấy ông Tú theo sự sắp đặt của hai bên gia đình

nhưng lúc chồng mất, “nàng vẫn sống theo khuôn đời cũ. Nàng vẫn ao ước được yên ổn mãi mãi với

nhà chồng, được luôn luôn sống gần gũi với bố mẹ đẻ và nuôi con cho thành người” [65, tr. 22]; cho

đến Tuyết, một cô gái sống đời giang hồ nhưng có lúc nàng tỉ mỉ ngồi vá lại những tấm áo rách cho

Chương: “Tuyết vừa nói vừa mạng. Chương lấy làm kinh ngạc. Chàng không ngờ một cô gái giang hồ

phóng đãng, chỉ biết sống ngày nay mà không nghĩ tới ngày mai, lại có những tư tưởng bình thường và

tính ngăn nắp được như thế (…) Một cô gái ăn chơi mà lại biết thích làm việc! Nhưng bức tranh một

người đẹp ngồi khâu xóa bỏ ngay được những sự hèn mọn của tư tưởng, những sự nghi hoặc của tâm

tình: Chương chỉ thấy có một sự đẹp, đẹp dịu dàng, âu yếm, thân thiết” [103, tr. 86] hay xuống bếp tự

tay nấu những món ăn Chương thích. Tuy vậy nhưng dường như một số người khi đọc tiểu thuyết Tự

lực văn đoàn đã cố tình quên đi những điều này. Do đó, có một thời văn chương Tự lực văn đoàn bị

cho là loại văn chương suy đồi. Những người này cho rằng Nhất Linh, Khái Hưng, Xuân Diệu là

những thanh niên Tây học. Tác phẩm của họ chính là sự cổ vũ cho lối sống phương Tây: “Trong các

tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng, cuộc sống tư sản ấy đã được thi vị hóa. Các nhân vật phần

nhiều đều xuất thân ở các thành phần thượng lưu của xã hội thuộc địa, phi ông án, bà huyện thì cũng

cậu cử, cậu tú, những người có địa vị, có tiền bạc (…) Nếp sống của họ là nếp sống của tư sản và tiểu

tư sản lớp trên” [13, tr. 773]. Ở đây, chúng tôi không hoàn toàn phủ nhận, có lúc do cách viết, một vài

tác phẩm của Tự lực văn đoàn làm người đọc có cảm giác như tác giả đang thi vị hóa cho lối sống trụy

lạc: Đời mưa gió, Bướm trắng. Nhưng chỉ dựa vào đó để khẳng định tất cả những tác phẩm của Tự lực

văn đoàn nếu có nhân vật chính là nhân vật trí thức đều là tác phẩm minh họa cho “nếp sống của tư sản

và tiểu tư sản” và cần bị loại trừ thì quả là cực đoan máy móc. Trên thực tế, một số tác phẩm của các

nhà văn Tự lực văn đoàn đã “hiện thực hóa” được điều thứ sáu trong tôn chỉ hoạt động của họ - tức tác

phẩm của họ đã góp phần tôn vinh những giá trị văn hóa đẹp đẽ trong sinh hoạt truyền thống của gia

đình người Việt. Nội dung của những tiểu thuyết phong tục Tự lực văn đoàn không viết về những điều

xa lạ, mới mẻ. Tất cả đều vô cùng gần gũi, quen thuộc trong đời sống hàng ngày của mỗi con người.

Đó là tình anh em rách lành đùm bọc lẫn nhau; lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ; tính cần cù

chịu thương chịu khó, lòng chung thủy, lòng yêu chồng thương con của người phụ nữ.

Bây giờ cuộc sống xô bồ, có thể chúng ta không còn thấy những tục lệ, thói quen từng ăn sâu

vào đời sống xã hội ngày xưa và được ông cha ta làm theo. Tiểu thuyết phong tục của các nhà văn Tự

lực văn đoàn với khả năng tái hiện một cách chân xác những sinh hoạt phong tục cũng cần được xem là

một việc làm có đóng góp rất lớn. Họ giúp người đọc tạo dựng lại được một bức tranh đậm nét văn hóa

của người Việt - Bức tranh tả cảnh sinh hoạt trong những ngày Tết trên vùng đất giàu truyền thống văn

hóa.

Người dân Việt, nhất là những người ở nông thôn ngày xưa rất tha thiết với Tết. Quanh năm làm

lụng vất vả, Tết chính là dịp để nghỉ ngơi, vui chơi. Bao nhiêu lo nghĩ người ta đều gác sang cả một

bên để tận hưởng không khí mấy ngày xuân. Người ta đón Tết một cách nồng nàn, đợi Tết một cách

trịnh trọng, và vui Tết một cách náo nhiệt hân hoan. Vì vậy, Tết Nguyên Đán tuy bắt đầu từ ngày mồng

một tháng Giêng, nhưng người người ai cũng sửa soạn Tết ngay từ đầu tháng Chạp. Nhà nhà lo mua

gạo nếp, đậu xanh để đến ngày gần Tết gói bánh chưng. Ngoài ra, người ta còn chuẩn bị vại dưa hành

và sắm sửa những vật phẩm như vàng hương, bánh mứt hoa quả để dùng trong những ngày Tết. Họ

mua sẵn gà qué thả trong vườn. Những nhà nghèo rủ nhau mổ chung con heo rồi tới mùa trả lúa hoặc

làm thuê trả dần ...

Làng Cầm năm ấy được mùa lúa chiêm. Không khí đón Tết so với mọi năm càng trở nên rộn

ràng hơn. Những trang viết về Tết của Trần Tiêu trong tiểu thuyết Con trâu mang tất cả không khí

chuẩn bị đón xuân đầy nhộn nhịp của nơi đây đến với người đọc: “Từ đầu làng đến cuối làng, chỗ nào

cũng nhao lên về tết, tuy mới vào khoảng hai mươi, hăm mốt tháng chạp. Các bà đi chợ về, bà chánh,

bà lý, bà khán, bà xã, bà nào cũng đội cái thúng trong để một “ông mũ” lấp lánh những mặt gương và

trang kim, vài trăm vàng, một bó hương đen và một nải chuối còn xanh ngắt” [103, tr. 612].

Người xưa cho rằng đói cũng ba ngày Tết, hết cũng ba ngày mùa nên trong những ngày thường

cả nhà bác xã Chính lo tích góp bao nhiêu thì khi Tết đến, bác gái lại “phí phạm chẳng kém gì bác

trai”. Nhà văn Trần Tiêu đã dẫn người đọc cùng theo bác xã gái mua sắm Tết:

Bởi thế phiên chợ Hạ Am vừa rồi bác đã sắm được bốn bức tranh tố nữ và tám bức tranh con

gái Tầu về treo hai bên bức vách. Phiên chợ giáp tết, bác lại mua được một quả phật thủ, hai quả bòng

với một chục cam sành về bày ngũ quả và đôi cành hoa giấy về cắm ống sơn (…) Bác sắm nào hài, nào

mũ, nào vàng hàng muôn để đi lễ các đền, chùa. Bác mua hẳn một thúng hành về nén, mua cá về kho,

mua thịt, gạo nếp về gói bánh. Bác còn sắm cho Mít một cái váy lụa, cạp xanh, một chiếc dây lưng

thiên lý, một chiếc áo tứ thân vải màu nâu non và một chiếc yếm trúc bâu trắng nõn. Thằng Chốc,

thằng cu Nhớn, thằng cu Con, mỗi đứa được một chiếc áo chùng nâu xẫm và một chiếc quần vải thô.

Còn về phần bác, bác chỉ may mỗi một cái váy bằng vải ruộm vỏ xó, ngả bùn dày cộp như mo nang

[103, tr. 612].

Với quan niệm sang năm mới mọi thứ đều phải mới, nên ngoài mua sắm, người Việt còn trang

hoàng lại trong nhà ngoài cửa để đón Tết. Ngay từ giữa tháng Chạp, người ta đã lo sửa soạn bàn thờ.

Chân đèn, bát hương được đem ra lau chùi, đánh bóng cẩn thận: “Trên bàn thờ đèn nến sáng trưng,

khói trầm ở trong đỉnh đồng tỏa ra như một làn mây là là bay lùa vào trong cành đào đầy hoa” [65, tr.

105]. Xưa cũng như nay, mỗi người Việt đều tin rằng vào dịp Tết ông bà “sẽ về” chung vui cùng con

cháu. Trong những ngày này, tùy hoàn cảnh, mỗi nhà có thể mua sắm lễ nghĩa dâng cúng tổ tiên ít

nhiều khác nhau. Nhưng trên bàn thờ của người Việt luôn có đầy đủ lễ vật như vàng, hương, trầm,

mâm ngũ quả, và cả đồ ăn thức uống. Đèn nhang được thắp suốt đêm ngày. Trong công trình Việt Nam

văn hóa sử cương, nhà nghiên cứu Đào Duy Anh chẳng phải đã từng nói về truyền thống tốt đẹp này:

“Người Việt lấy tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên làm gốc, nên bàn thờ gia tiên được chú ý trước hết” [4,

tr. 382]?! Vậy là một xen tả cảnh trong tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh cũng mang đậm phong tục

tết nhứt.

Với những người đi làm ăn xa, hoặc những người đã ra ở riêng sau một năm trời ròng rã, ai

cũng đều mong ngóng được đoàn viên bên cha mẹ, ông bà. Tết là dịp để họ trở về quê nhà, trước thăm

mồ mả ông bà, thắp nén hương, sau chúc Tết cha mẹ, họ hàng làng xóm, bạn bè. Khái Hưng đã nhắc

người ta nhớ đến nét đẹp văn hóa này trong hai tiểu thuyết Thoát ly và Gia đình: “Người ta bảo trong

mấy ngày tết, cha mẹ, anh em, chị em sum họp vui vẻ” [102, tr. 680], “Nhưng tôi, tôi còn có cha mẹ,

còn có anh trai tôi, em trai tôi, chị gái tôi, em gái tôi, tôi còn phải nhớ ngày giỗ, ngày tết” [50, tr. 42].

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, đời sống gia đình bị lôi cuốn theo các trào lưu hiện thực vật

chất. Đời sống tinh thần tưởng chừng như không còn giữ được vị trí quan trọng hàng đầu trong nếp

sinh hoạt của con người như trước kia. Nhưng tục anh chị em, cháu chắt cùng nhau sum họp vào các

ngày lễ Tết là một trong những tục thể hiện nét đẹp tinh thần trong đời sống gia đình của người Việt

nên đến nay tục lệ này vẫn được lưu giữ. Tuy nhiên, có những gia đình mà cha mẹ anh chị em không

thương yêu nhau, việc lễ Tết trở về sum họp liệu có ý nghĩa gì không? Ở đây, chúng tôi muốn nói đến

trường hợp của Hồng. Ngoài người dì ghẻ độc ác xảo quyệt và bầy con của bà, ông phán Trinh đối xử

với Hồng cũng lạnh lùng không chút tình cảm. Ngày thường Hồng đã một mình cô độc ngay giữa ngôi

nhà cô được sinh ra. Vậy sao buộc cô phải trở về vào dịp Tết? Đúng là một sự vô lý vì chỉ cần nghĩ đến

điều này thôi, nó đã khiến cô cảm thấy đau khổ. Phong tục tập quán hóa ra cũng phải có những ngoại

lệ. Trong trường hợp này là tốt đẹp nhưng ở vào trường hợp khác nó có thể là nguyên nhân gây phiền

toái cho con người.

Một cảnh sắc đặc biệt ở nông thôn nước ta xưa kia vào mỗi dịp Tết đến xuân về là trong sân mỗi

nhà và trên sân đình, sân chùa làng người ta đều trồng một cây tre để cả ngọn, gọi là cây nêu. Theo tích

xưa, cây nêu được trồng để chỉ ranh giới đất đai giữa người và quỷ. Trên ngọn cây nêu, người ta treo

áo cà sa của Phật. Và tùy theo gia cảnh, người ta còn có thể trang trí bằng túm lá dứa, túm lông gà, lá

thiên tuế, những chiếc lồng đèn, xếp tiền mã …. Ở mặt đất, cạnh cây nêu, người ta rắc vôi bột hình

cung tên, mũi tên hướng ra cổng để xua đuổi ma quỷ. Những vật treo ấy đều tượng trưng hướng về sự

bảo vệ con người và cầu mong hạnh phúc. Việc trồng nêu theo người Việt là để khẳng định đất đó là

của người, ma quỷ không được nhòm ngó. Khu đất bóng áo tỏa trùm đến, quỷ không dám xâm phạm

hay quấy phá. Cây nêu là biểu tượng cây vũ trụ, nối liền trời và đất. Ngoài ra, một số nơi còn quan

niệm trồng cây nêu vào dịp đầu năm mới để ngọn nêu vươn lên đón mùa xuân, đón ánh mặt trời.

Thường nêu được trồng vào ngày ba mươi tháng Chạp và hạ vào ngày mùng bảy tháng Giêng. Miền

Bắc, người ta dựng nêu vào buổi trưa, miền Trung dựng buổi chiều còn miền Nam thì dựng vào lúc

chạng vạng. Tóm lại, trong những ngày Tết, trồng nêu là một tục lệ. Tục trồng nêu vì vậy không thể

thiếu trong dịp Tết này tại làng Cầm: “Ừ, mà tết nhất cũng nên bày cho vui. Có nêu cao, phải có pháo

nổ, bánh chưng xanh chứ lị” [103, tr. 613].

Khác với mọi năm, chỉ một con sào, trên buộc cành xương rồng, dưới treo “ông mũ ngô”,

năm nay bác trai dựng ngay trước nhà một cây lồng đèn cao ngất, có những túm lông mã gà trên ngọn,

có cờ vải tây điều bay phấp phới, có bầu rượu bện bằng rơm, có con rồng uốn khúc làm bằng mấy

cành vạn tuế, có con cá nằm ngang để xỏ dây treo đèn [103, tr. 613].

Trong tác phẩm, mọi chi tiết lớn nhỏ đều chứa đựng một ý đồ nghệ thuật. Trần Tiêu cũng có

dụng ý riêng của ông khi miêu tả cây nêu nhà bác Chính chi tiết đến thế. Tết này gia đình bác Chính đã

trang trải hết công nợ. Bác trai lại được lên chức xã. Bác Chính trai và bác Chính gái cho phép mình

tiêu pha nhiều hơn. Cây nêu nhà bác xã do vậy so với mọi năm phải có “vẻ Tết” hơn. Nhưng hai bác

cũng như những người dân quê khác đều không bao giờ dám phí phạm quá thể. Đời sống vất vả khó

khăn nên tất cả mọi khoản chi tiêu họ đều tính toán rất cẩn thận, từng tí một. Về cây nêu cao của nhà

mình năm nay, bác Chính thật thà nói với cụ Cán: “Thưa cụ, nhân tiện cháu mua cây bương về làm

máng, cháu đem dựng trong mấy ngày Tết. Thật không định mà được một công đôi việc. Hì” [103, tr.

613]. Bác Chính phân trần với cụ Cán hay nhà văn Trần Tiêu đã miêu tả tục trồng nêu trong sự gắn kết

với nếp sống, cách sinh hoạt của người dân quê? Theo tôi, có lẽ là cả hai. Tục lệ buộc con người phải

theo nhưng mỗi người mỗi cảnh nên việc họ thực hiện tục lệ thế nào cũng rất đáng để nhà văn quan

tâm. Chính sự quan tâm này giúp cho tiểu thuyết của Trần Tiêu tuy cũng viết về phong tục nhưng phân

biệt rất rõ với các sách khảo cứu về phong tục.

Lệ cũ là vậy nhưng từ lâu lắm người dân quê đã không còn giữ thói quen trồng nêu. Tục trồng

nêu ngày Tết giờ chỉ còn trong những sách khảo cứu về lịch sử, về văn hóa phong tục. Ngày nay, thậm

chí có người đã không còn nhớ đến. Trần Tiêu với những trang viết về tục trồng nêu trong tiểu thuyết

Con trâu do đó càng trở nên có giá trị. Nó nhắc nhở thế hệ sau nhớ về một tập tục từng được thế hệ cha

ông ta cho là không thể thiếu được trong những ngày Tết cổ truyền của dân tộc.

Ai đã từng sống ở nông thôn ngày xưa, được chứng kiến cảnh tượng “tối đen như mực” của đêm

ba mươi có lẽ đều không thể nào quên giờ khắc quan trọng này trong năm. Trần Tiêu sinh ra và lớn lên

ở nông thôn, những điều mắt thấy tai nghe đã giúp ông miêu tả lại cảnh này rất khéo:

Đêm ba mươi có khác. Trời, đất một màu đen sẫm đến nỗi hai người đi sát cạnh mà không nhìn

thấy nhau.

Trên các đường làng, trong các ngõ xóm, những ngọn đèn đỏ nhấp nháy như ma trơi. Ấy là đèn

chai của những chủ và khách nợ đi lại đòi, khất.

Trong yên lặng, thỉnh thoảng vang lên những tiếng nguyền rủa, những tiếng cãi cọ lẫn những

tiếng chó sủa. Từng hồi tù và inh ỏi tiếp sau những tiếng trống cầm canh. Thực là khác thường, một

đêm can hệ nhất trong tháng củ mật, một đem khốn khổ cho những nhà có nợ, một đêm lo sợ cho

những nhà có máu mặt [103, tr. 616 - 617].

Vì cho rằng, nếu không đòi được tiền trước giao thừa, ngày hôm sau, món nợ đã ra nợ cũ nên

cuối năm các chủ nợ có lệ giằng thúc các con nợ, cố đòi cho được số tiền đã cho vay, dù rằng đòi được

tiền về để đấy. Tối ba mươi do đó quả thật là một buổi tối khốn khổ cho những ai đang mang công mắc

nợ. Những người có của ăn của để nô nức đón Tết bao nhiêu thì những người nghèo không có tiền trả

nợ lại lo lắng khổ sở bấy nhiêu. Họ chạy vạy xin chủ cho khất nợ. Nếu không được họ đành phải trốn

khỏi nhà cho đến lúc giao thừa mới dám trở về.

Tuy nhiên, đêm ba mươi tối đen ấy rồi cũng qua nhường chỗ cho năm mới đến. Bao nhiêu

những điều đen đủi không may của năm cũ cũng theo năm cũ qua đi. Trong năm mới, tất cả mọi cảnh

vật đều mới mẻ và những sự may mắn mới cũng đến. Không khí, cảnh vật khi tiết trời vào xuân thật

ấm áp, yên lành cũng mang đến cho con người niềm tươi vui, lòng hy vọng, tin tưởng ở một năm mới.

Người Việt xưa luôn bắt đầu đón năm mới với một trạng thái thật lạc quan, vui vẻ: “từ mùng một trở

đi, hai vợ chồng cũng giữ được nét mặt tươi tỉnh, cười nói chúc mừng bà con như không hề có việc gì

xảy ra” [103, tr. 606].

Năm mới bắt đầu từ lúc giao thừa. Nhà nhà đều có sự chuẩn bị rất chu đáo cho giờ khắc này.

Thông thường, người Việt, theo cổ lệ đều làm lễ trừ tịch – còn gọi là lễ giao thừa. Lễ giao thừa được cử

hành tại tư gia cho tới các đình, chùa vào lúc nửa đêm. Lễ mang ý nghĩa “tống cựu nghinh tân” nên rất

trang nghiêm. Bắt đầu lễ cúng giao thừa chính là lúc năm cũ kết thúc, bước sang năm mới. Sau lễ cúng

giao thừa, người xưa có tục chúc Tết tại đình. Theo tục này, các vị chức sắc, bô lão trong làng khăn áo

chỉnh tề tập trung ra đình, khi tiếng trống đón năm mới nổi lên. Tại đây, ông tiên chỉ sẽ lễ Đức thành

hoàng trước tiên rồi lần lượt sẽ là các chức sắc. Lễ xong, họ chúc Tết ông tiên chỉ, cùng thưởng chén

rượu đầu xuân. Trần Tiêu đã tả lại cảnh chân thật này trong tiểu thuyết Con trâu của ông: “Đêm khuya,

các tiếng thưa dần rồi im bặt … Một hồi trống tế giao thừa vừa rung lên, vang động cả khu xóm. Bác

xã Chính vội vàng ra lễ đình lễ thánh rồi ăn cỗ” [103, tr. 617].

Sau lễ giao thừa, ở một số nơi, người ta còn rủ nhau đi hái lộc đầu năm. Trước cửa đình, cửa

chùa người Việt thường có trồng nhiều cây to cành lá sum sê. Khách đi lễ mỗi người có thể bẻ một

nhánh, gọi là cành lộc ngụ ý là “lấy lộc” của Trời, Đất, Phật, Thần. Với niềm tin lộc hái trong đêm giao

thừa sẽ đem lại may mắn trong năm nên người dân Việt trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái

lộc. Cành lộc tượng trưng cho sự tốt lành may mắn. Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ

cho đến khi tàn khô. Lạnh lùng của Nhất Linh ghi lại cảnh mọi người cùng nhau đi hái lộc thật vui, thật

rộn ràng không khí mừng xuân:

Hai bên đường, ánh đèn cúng ở các nhà lấp lánh sau giậu cây. Thỉnh thoảng một ít khói pháo

thơm còn rớt lại đưa thoáng qua. Cứ đi được một quãng đường lại gặp một bọn người ra hái lộc ở

chùa về; tiếng cười nói trong bóng tối mỗi lúc một to dần. Tay người nào cũng cầm một bó hương để

soi đường; khi đi ngang qua tiếng chúc mừng nhau ồn ào nổi lên một loạt lẫn với mùi nhang thơm

thoang thoảng [65, tr. 111].

Ai ai cũng cười đùa vui vẻ. Không khí mùa xuân ấm áp cũng theo về bao trùm khắp nơi nơi.

Tục hái lộc đầu xuân có thể nói là một tục tốt đẹp. Chỉ tiếc thay, ngày nay, nhiều người đi lễ đền chùa

không còn như xưa. Họ thường vác cả dao búa để đẵn cây. Còn các đền chùa, có lẽ do không còn lộc

tự nhiên chăng? Không ít đền chùa đã biến tục hái lộc ngày xưa thành tục bán lộc. Những việc làm này

đã vô tình hủ tục hóa mỹ tục, đáng bị cả cộng đồng lên án.

Tết đến, bên cạnh tục hái lộc người Việt còn có tục xông nhà. Thường cúng giao thừa xong,

người chủ nhà đi lễ đền chùa. Trong những gia đình có nhiều người, thường người ta sẽ kén ra một

người “dễ vía”. Người này đi khỏi nhà từ lúc chưa đúng giờ “trừ tịch”. Đến lễ “trừ tịch”, họ dự lễ tại

đình chùa hoặc ở thôn, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc mang về. Lúc này năm mới đã sang,

như vậy người này chính là người đầu tiên bước vào nhà, tự “xông nhà” cho gia đình mình. Ngày xưa,

ai cũng tin làm như vậy sẽ mang sự tốt quanh năm về cho gia đình. Đối với những gia đình nào không

có người “dễ vía” để tự “xông nhà” thường người ta sẽ nhờ một người thân bằng cố hữu. Sáng mùng

một Tết, trước khi có khách tới chúc tết, người này sẽ đến “xông nhà” đem lại sự dễ dãi may mắn cho

gia đình.

Tại làng Cầm, vợ chồng bác xã Chính sống thuận hòa, đông con. Năm nay, hai bác lại được

mùa lúa. Vậy là bác Chính trai được cụ Cán nhờ đến xông nhà cụ đầu năm. Thủ tục xông nhà thế nào,

Trần Tiêu đã tả lại rất cụ thể trong Con trâu:

Bên kia cụ cán cũng vừa ở đình về và cũng say mềm chẳng kém bác xã. Cụ đương ngồi rung

đùi ngâm thơ. Thấy xã Chính sang, cụ vồn vã:

- Ấy kìa, bác xã sang xông nhà cho lão đấy phỏng?

- Vâng ạ, cháu sang xông nhà cho cụ đây ạ. Cháu mà xông nhà thì hẳn cụ làm ăn may mắn,

con cái, cháu chắt đầy đàn.

- Thế thì tốt lắm. Năm mới lão cũng chúc bác làm ăn phát tài bằng năm bằng mười năm

ngoái [103, tr. 618].

Tục “xông nhà” là một trong những tục lệ phổ biến ở nông thôn Việt Nam vào những ngày đầu

năm. Ai cũng biết tục “xông nhà” gắn liền với tín ngưỡng. Tuy nhiên, “xông nhà” vẫn có thể được cho

là một mỹ tục. Khách đến “xông nhà”, chủ nhà hoan hỉ đón chào và cảm ơn, đồng thời cũng chúc lại

mọi điều hay. Mối quan hệ làng xóm láng giềng nhờ vậy được thắt chặt thêm.

Người Việt cũng là người rất trọng lễ. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên của mình, họ còn tôn trọng cả

tổ tiên của người khác. Lễ Tết chính là dịp thể hiện thái độ tôn trọng ấy. Năm mới đến, người ta đến

nhà nhau trước là để lễ Tết, sau đó họ chúc tụng lẫn nhau. Đối với các cụ, từ lâu việc lễ Tết đã là một

tục lệ vô cùng hệ trọng. Tết đến, các cụ khăn đóng áo dài chỉnh tề đi lễ hết các nhà họ xa họ gần trong

làng, và cả các nhà lân bang hàng xóm. Theo tục lễ Tết, mỗi khi đến nhà nào, khách phải lễ trước bàn

thờ, bốn lễ, ba vái, phải lên gối, xuống gối, cúi đầu. Nếu nhà có ông bà mới mất, thờ riêng một bàn thờ,

lễ Tết phải lễ cả ở bàn thờ này. Sau khi lễ xong đâu đó, khách sẽ chúc Tết gia đình, nói chuyện, ăn trầu

uống nước. Nếu nhà nào ép mời cả bánh chưng, chè lam bánh nóng hay mứt kẹo dù không muốn thì

khách cũng không được từ chối. Có người mặc dù rất mệt nhưng vẫn không dám xao nhãng việc lễ Tết

trong ba ngày đầu của năm vì đó là một bổn phận đối với họ hàng bè bạn:

Bác xã cắm đầu đi. Gặp ai, bác cũng chỉ chúc qua loa mấy câu, rồi bác rảo bước tiếp luôn:

“xin phép ông, tôi chưa đi lễ đâu cả”. May cho bác, đến nhà nào họ cũng đi vắng, chỉ có bà chủ ra

tiếp. Bác vội vàng lễ bốn lễ, có khi ba cũng nên, đoạn, bác vừa cầm lấy miếng trầu trong cái đĩa của

bà chủ bưng ra mời, vừa nói: “xin lỗi bà, tôi còn phải lễ nhiều nơi lắm”. Bác lại tất tả sang nhà khác.

Mãi tối mịt bác mới về. Tính ra bác còn phải đi lễ dăm sáu chục nhà nữa. Đành để hôm mùng hai vậy.

Chỉ để được đến mồng hai thôi, vì mồng ba đã là ngày cúng cơm, hóa vàng. Cũng như hôm ba mươi,

ngày ấy dành riêng cho những họ đương gần gũi [103, tr. 619].

Người ta đến lễ tổ tiên mình, mình phải có nhiệm vụ đáp lễ. Cứ như vậy, trong dịp Tết người

người đến nhà nhau: “Ngoài đường kẻ đi người lại nhộn nhịp. Người nào cũng quần chùng áo dài mới

mẻ, sạch sẽ. Họ chào nhau, chúc nhau”. Ba ngày xuân đúng là dịp để mọi người thắt chặt thêm tình

thân ái.

Năm mới đến mọi người ai cũng thêm một tuổi. Đây được xem là một điều đáng mừng. Đối với

người già, họ tăng thêm tuổi thọ. Với em bé, chúng được thêm tuổi để thêm lớn. Trong lúc chúc Tết,

người Việt ta còn có thêm lễ mừng tuổi. Tiền mừng tuổi này được bọc trong những giấy hồng và bao

giờ cũng có tiền lẻ. Các cô chú, dì dượng … mừng tuổi cho các cháu. Hay khi ta tới nhà một người bạn

chúc Tết, nếu có các em nhỏ, mừng tuổi cho các em. Ngoài ra, có thể khi bạn tới nhà chúc Tết, có trẻ

nhỏ đi theo, chủ nhà sẽ mừng tuổi cho em nhỏ. Người xưa quan niệm mừng tuổi như vậy là để các em

hay ăn chóng lớn, học hành thông minh, ngoan ngoãn. Ngày nay, con cháu cũng có thể mừng tuổi ông

bà, cha mẹ với mong muốn các bậc này vui vẻ, khỏe mạnh và sống lâu. Món tiền mừng tuổi này trừ

trường hợp bất đắc dĩ, người ta rất ít khi tiêu đến. Họ thường cất giữ để lấy may mắn (xem Chồng con).

Tết trồng nêu trước nhà, tết sắm sửa quần áo mới, tết cúng ông công ông táo, tết chúc tụng lẫn

nhau, tết có cỗ mừng thôn của ông thủ chỉ, có xóc đĩa, tổ tôm, … tất cả những nét sinh hoạt thuộc về

phong tục này rõ ràng đã không nằm ngoài tầm quan sát của Trần Tiêu. Với giọng văn nhẹ nhàng, linh

hoạt, nhà văn say sưa ghi lại thật chính xác và đầy đủ. Người đọc tiểu thuyết của ông vì vậy như được

mục kích lại toàn bộ bức tranh quê xinh đẹp khi xưa. Và một điều dĩ nhiên là từ bức tranh ấy họ hiểu

hơn về văn hóa phong tục nước nhà – phong tục tết nhứt của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ. Một

vùng quê nhỏ bé, bình dị nhưng có những nét đẹp văn hóa sâu lắng và nhân bản vô cùng!

Dẫu biết rằng trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, ông cha ta đã cố gắng chắt lọc những tinh túy

của nền văn hóa Trung Hoa để tạo dựng một nền văn hóa Việt đậm đà tính bản địa. Nhưng điều đó

không có nghĩa rằng tất cả đều đã trở nên hoàn mỹ. Vả lại, qua thời gian, bậc thang về giá trị cũng sẽ ít

nhiều thay đổi. Có những điều trước đây được xem là mỹ tục nay lại chuyển dần sang hủ tục, cản trở

bước tiến của xã hội. Văn chương Tự lực văn đoàn cũng đã cho chúng ta thấy có rất nhiều những

phong tục cần được thay đổi trong cuộc sống hiện tại này.

2.1.2. Hủ tục lạc hậu

Đọc tôn chỉ thành lập Tự lực văn đoàn chúng ta thấy ngoài nhiệm vụ phát hiện và ngợi ca những

tính cách đẹp của con người, những giá trị văn hóa Việt Nam, nhóm văn này còn muốn chỉ cho “người

ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa”. Ở nước ta, gia đình lại chính là nơi đạo Khổng được thực

hành nghiêm và lưu giữ lâu bền nhất. Viết về hủ tục, các nhà văn Tự lực văn đoàn do vậy đã tập trung

ngòi bút phản ánh sinh hoạt trong mỗi gia đình. Cụ thể đó là những thói quen trong lĩnh vực tình yêu

và hôn nhân.

Những ai đã từng sống ở Việt Nam từ thế kỷ XIX trở về trước sẽ không khó để nhận ra rằng với

phong kiến Nho giáo, con người là bề tôi, là con, là vợ (nếu là phụ nữ) phải sống theo tam cương ngũ

thường chứ không bao giờ được là “một sinh thể có tính người”, tức không thể tồn tại cho bản thân nó.

Nhưng kể từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, tư tưởng văn hóa phương Tây cũng theo vào, xã hội Việt

Nam bắt đầu có nhiều sự thay đổi. Trong số những nhà văn lúc này, Nhất Linh có thể xem là một trong

những người có phản ứng mạnh mẽ trước sự đổi thay của xã hội.

Dũng (trong Đoạn tuyệt) là con trai một của ông bà tuần vừa giàu có vừa danh giá. Ba mẹ Dũng

muốn Dũng cũng phải sống theo khuôn phép của họ là “một anh trưởng giả”. Nhưng chàng thanh niên

này chỉ muốn đời mình là một đời tự do tự tại. Chàng không thể chấp nhận bất cứ một sự gò bó nào –

dù người gò bó chàng chính là người đã có công sinh thành và dưỡng dục chàng. Chàng đi đây đi đó.

Làm việc và kết bạn không theo ý muốn của ông bà tuần. Dũng đã khiến ông bà tuần từ bỏ chàng. Với

mọi người khác, việc một đứa con bị cha mẹ từ bỏ là một việc hệ trọng biết chừng nào: “một người bị

cha mẹ từ là một người bỏ đi, một người khốn nạn, đủ hết các tính xấu” [101, tr. 28]. Nhưng với người

đã được trang bị một nền học vấn mới như Dũng, chàng đã xem đây là việc hết sức vô lý: “Tôi đã mấy

lần nói với chị giáo rằng khi thầy mẹ tôi từ tôi, tôi coi như là không có việc gì xảy ra cả; cha mẹ từ con

là một sự rất không có nghĩa, cũng như con từ cha mẹ” [101, tr. 27]. Tri thức mới đã giúp Dũng biết rõ

một điều rằng “Thầy mẹ tôi dẫu đăng báo hay nói khắp nước Nam rằng không nhận tôi là con, tôi

cũng vẫn là con, vì đã đẻ tức là con rồi, không nhận cũng vô lý như khi mới đẻ lại bảo rằng không đẻ”

[101, tr. 28] nên dẫu phải đối mặt với một đoạn đường đầy chông gai, chàng vẫn kiên quyết thoát ly

khỏi cha mẹ. Dũng xem thường mọi khó khăn thiếu thốn. Đối với chàng thanh niên này, sống ở đời

được làm những việc mình cho là đúng là trên hết: “Đến ngay như tôi vất vả nay đây mai đó mà tôi

cũng cho thân tôi là sung sướng nhất. Tôi đã quen sống cái đời mới của tôi, tôi lấy công việc hiện thời

của tôi làm vui, mà cái vui ấy giúp tôi quên hẳn nỗi đau khổ riêng” [101, tr. 46]

Có lẽ ai cũng nhận thấy hiếu để với cha mẹ là một truyền thống tốt đẹp của dân ta từ xưa đến

nay. Chữ hiếu luôn ở vị trí hàng đầu trong nền luân lý của người Việt “Hiếu giả bách hạnh chi tiên”.

Con cái phải biết kính trọng thương mến cha mẹ, biết vâng lời cha mẹ, biết phụng dưỡng cha mẹ. Các

nhà văn Tự lực văn đoàn không phủ nhận truyền thống này. Viết về thái độ phản kháng của Dũng đối

với ông bà Tuần, họ chỉ muốn cho mọi người đều thấy rằng chế độ đại gia đình đã xác định quyền lực

tuyệt đối của người làm cha làm mẹ, cho họ là bậc có toàn quyền “Chú thím thì có oai quyền đâu bằng

cha mẹ” [50, tr. 65] và “dễ mấy lúc mà con kiện được cha mẹ”. Và hậu quả của cách nghĩ này là không

ít người làm cha làm mẹ quên mất con mình đã trưởng thành. Từng lời ăn, tiếng nói, từng cử chỉ hành

động của con, họ đều cho rằng họ có quyền định tất cả. Họ buộc con họ không được làm bạn với người

này, quan hệ với người kia. Lâu ngày, hậu quả của cách hành xử này là con cái họ tuy lớn nhưng chưa

khôn. Có đầu óc nhưng không tự quyết được bất cứ việc lớn việc nhỏ nào. Thân trong Đoạn tuyệt là

một nhân vật có thể minh chứng rõ nhất cho hiện trạng xã hội trên.

Cũng trạc tuổi với Dũng nhưng Thân lại hấp thụ rất tốt những lề thói phong kiến. Lối sống của

Thân hoàn toàn khác Dũng. Đọc Đoạn tuyệt, ta thấy từ đầu đến cuối cuộc đời của nhân vật này đều do

một tay sắp đặt của người mẹ. Từ việc cưới vợ, đặt tên con cho đến thói quen sinh hoạt hàng ngày,

chàng đều theo ý bà phán Lợi. Thân không tự mình quyết định được một điều gì. Bởi bất cứ việc gì trái

ý mẹ, dù lớn dù nhỏ, chàng đều cho là trái với luân thường đạo lý:

Thân cau mày đáp:

- Tôi đã bảo mợ đừng nhắc đến nữa, thầy me không cho phép. Không những thế me còn giận

mợ nữa đấy, me giận lắm.

- Giận về cớ gì cậu?

- Cớ mợ tự tiện …

[101, tr. 56]

Đồng ý rằng cha mẹ là những người đi trước. Cuộc sống lâu năm giúp họ tích lũy được nhiều

kinh nghiệm, nhiều điều hay để dạy bảo lại thế hệ sau. Hơn nữa, hầu như mọi đấng sinh thành đều

muốn tốt cho con cái mình. Trong dân gian, ta cũng thường nghe nói: “Cá không ăn muối cá ương, con

cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Nhưng ở đây bà phán Lợi đã can thiệp quá sâu vào đời sống riêng tư

của con cái. Còn Thân, đã là một thanh niên có vợ nhưng ta thấy chàng nghe lời mẹ răm rắp chẳng

khác gì một đứa trẻ lên ba:

Bà phán nói:

- Nó hỗn với mẹ anh mà anh không tát cho nó được một cái hay sao? Anh tát nó cho tôi một cái

xem nó có còn nỏ mồm nữa hay không?

Loan vùng vằng toan giật tay ra, thì đã bị cái tát của Thân làm cho nàng tối tăm mày mặt [101,

tr. 84].

Không làm chủ được mình, lại thêm kém hiểu biết nên sau khi nghe những lời khích bác của

mẹ, Thân có hành động “mọi rợ” đối với vợ mình là một điều khó tránh khỏi. Chỉ thương cho Loan,

nàng đã phải lấy người chồng trẻ nhưng đầu óc chứa đầy những tư tưởng cổ hủ. Chàng thanh niên ấy

chỉ cần tưởng đến hai chữ “lập thân” đã sợ vậy thử hỏi con người này còn có thể làm nên được việc gì

cho gia đình và cho xã hội?

Ngày nay đa số những người con đã được pháp luật và xã hội công nhận quyền và bổn phận nên

có lẽ sẽ không thể nào hiểu hết những oan trái trong thời phong kiến mà phận làm con ai cũng phải

chịu. Thường gặp nhất là sự ép chế hôn nhân. Nam nữ thời này không được tự ý đặt quan hệ yêu

đương. Việc dựng vợ gả chồng tất cả đều phải tùy thuộc vào sự quyết định của cha mẹ hai bên. Cha mẹ

lại thường không để ý đến tình cảm của con. Họ chỉ cần kén chọn được những nơi sao cho “môn đăng

hộ đối”, “công, dung, ngôn hạnh” … rồi cứ theo lệ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” tiến hành tổ chức

hôn nhân cho đôi trẻ. Riêng đối với những gia đình thuộc tầng lớp trên, nề nếp, gia giáo có khi cha mẹ

còn “cấm cung” con gái của mình. Cô dâu chú rể vì vậy nhiều khi đến lúc làm lễ hợp cẩn mới biết mặt

nhau. Có không bằng lòng thì lúc này mọi việc đã rồi. Ai muốn thay đổi cũng không còn kịp. Bao đau

thương và nước mắt của những đôi thanh niên nam nữ yêu nhau không lấy được nhau đã không ngừng

rơi từ suốt ngàn năm nhưng có bậc sinh thành nào kể đến. Tất cả đã trở thành tục. Việc họ làm chỉ là

“làm theo cổ nhân”. Nhưng nhóm Tự lực văn đoàn, các nhà văn trẻ tuổi này thì không thể làm ngơ

trước hiện thực ấy. Sáng tác của họ đã dành nhiều cảm thông với các cuộc tình duyên ngang trái: cuộc

tình Lộc – Mai trong Nửa chừng xuân; Loan – Thân trong Đoạn tuyệt, Tuyết trong Đời mưa gió, Lan

trong Hồn bướm mơ tiên, ….

Lộc yêu Mai nhưng không được sự cho phép của bà Án – mẹ Lộc. Để được sống cùng Mai,

chàng đành giấu mẹ tự cưới Mai. Nhưng đời nào bà Án, một người mà “lễ nghi đạo đức của Nho giáo

(…) ăn sâu vào tâm não đã hòa lẫn vào mạch máu, đã thành cái di sản thiêng liêng về tinh thần bất

vong bất diệt” [51, tr. 130], công nhận Mai là dâu. Mọi người xưa nay ai cũng quan niệm “chỉ người

vợ mà cha mẹ hỏi cho, có cheo có cưới mới quý” nên người mẹ này vẫn không từ bỏ ý định hỏi cưới

con gái quan tuần cho con trai bà. Để tiến hành cuộc hôn nhân theo ý mình, bà đánh vào lòng hy sinh

của Mai và đạo làm con của Lộc. Mai theo lời bà Án đã rời xa Lộc. Còn Lộc, “Lộc thấy mẹ giận dữ

quát tháo, liền cúi đầu tạ lỗi và xin cam đoan vâng lời mẹ dạy”. Bà Án đã được toại nguyện. Chỉ tội

cho Mai, cho Lộc và cho cả người vợ chính thức của chàng. Do không được xuất phát từ tình yêu, từ

lòng tự nguyện nên dù người vợ do mẹ cưới cho đã cố gắng chìu chuộng Lộc hết mực, chàng vẫn

không thể yêu vợ: “Mà Lộc vẫn yêu vợ, yêu vì bổn phận. Song ái tình của con người ta chỉ một lần có

(…) Ái tình thứ nhất, Mai đã đem đi, nó đã bị chôn sâu trong tim, trong linh hồn kẻ mà chàng không

thể yêu được nữa, mà khốn thay! Chàng vẫn không thể yêu được” [51, tr. 252]. Lộc phải sống và đối

xử tử tế với con gái quan tuần chỉ vì chàng nghĩ đến nghĩa vụ.

Hôn nhân của Nhung và ông Tú trong tiểu thuyết Lạnh lùng (Nhất Linh) cũng không khác gì so

với hôn nhân giữa Lộc và con gái quan tuần. Năm Nhung mười tám tuổi, nàng lấy chồng theo sự sắp

xếp của hai bên gia đình: “Nàng lấy ông Tú vì hai nhà quen thân với nhau, vì đó là một sự tất nhiên,

phải thế. Nàng không hề nghĩ ngợi gì và không bao giờ tưởng đến ý nghĩa của ái tình” [65, tr. 22].

Nhung chưa biết đến cái mọi người gọi là tình yêu vợ chồng. Vì vậy, khi ông Tú qua đời, đôi lúc ngồi

nghĩ lại chuỗi ngày vừa qua, lòng Nhung vẫn dửng dưng không một chút xúc động: “Ngày ấy đối với

nàng đã xa lắc; chồng nàng – người chồng mà nàng chỉ kính chứ không yêu” [65, tr. 8]. Thậm chí, có

lúc nàng nhìn lên bức ảnh thờ của chồng, cố tìm một sự chở che, an ủi về tâm hồn nhưng bức ảnh đối

với nàng vẫn rất xa lạ và vô nghĩa: “nhìn bức ảnh chồng, nàng vẫn thấy dửng dưng như không, chồng

nàng đã mất đi là mất hẳn, không còn một chút liên lạc gì đến đời nàng nữa” [65, tr. 11]. Tác giả Lạnh

lùng không hề nói nhiều về cuộc sống trước kia của Nhung với chồng nàng. Nhưng bấy nhiêu câu miêu

tả về tâm trạng ấy cũng đủ để cho hay cuộc hôn nhân không xây bằng tình yêu giữa Nhung và ông Tú

không có mấy mặn nồng.

Một biểu hiện tiếp theo cho thấy sự ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống gia đình người Việt

là thái độ nam tôn nữ ti: “Theo ông L. Finot khi thì nước Văn Lang bị người Tàu chinh phục ở thế kỷ

thứ III và thứ II trước kỷ nguyên thì tổ tiên ta đương còn ở trong tình trạng thái gia đình mẫu hệ,

(matriarcat) và còn có tục đàn bà góa phải tái giá với anh em chồng (lévitar). Song từ thời Bắc thuộc

trạng thái xã hội dời đổi lần lần và phong tục lần lần đồng hóa theo tàu, cho nên gia tộc mẫu hệ biến

thành gia tộc phụ quyền” [4, tr. 116 - 117]. Trong gia đình, người đàn bà không có được bất cứ một

quyền gì. Cuộc sống của họ hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn ông. Tất cả mọi việc từ lớn tới nhỏ,

trong gia đình cho đến ngoài xã hội, lúc này, đều do người đàn ông quyết định: “Theo lễ nghi, vợ phải

phục tùng, chồng bảo sao nghe vậy. Dẫu bị áp chế cũng không dám hé môi” [51, tr. 138]. Người phụ

nữ khi còn nhỏ phải nghe lời cha “tại gia tòng phụ”, lớn lên lấy chồng phải theo chồng “xuất giá tòng

phu” và khi chồng mất họ lại theo con “phu tử tòng tử”. Là nhóm nhà văn chủ trương tuyên chiến với

đạo Khổng, đấu tranh giải phóng cái Tôi cá nhân, ngòi bút của các nhà văn Tự lực văn đoàn đã thẳng

thắn lên án hàng loạt vấn đề đã và đang là nguyên nhân gây đau khổ cho người phụ nữ. Vì không muốn

lấy người chồng do cha mẹ chọn nên Lan trở thành chú tiểu nương tựa phần đời còn lại nơi cửa chùa

(Hồn bướm mơ tiên), và Tuyết sống kiếp giang hồ trôi nổi nay đây mai đó (Đời mưa gió); vì không

được môn đăng hộ đối với Lộc nên Mai phải lam lũ cực khổ một mình nuôi con (Nửa chừng xuân); vì

nghĩa vụ phải thủ tiết thờ chồng, một cô gái trẻ trung đầy sức sống như Nhung phải sống đời lạnh lùng

(Lạnh lùng); vì Loan không sinh được con nữa nên đành chấp nhận việc Thân cưới vợ bé (Đoạn tuyệt);

vì “cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy

thì đời mình bỏ đi” [101, tr. 21] nên suốt đời bà lý Bổng không kể đến thân mình, chỉ lo sao gây dựng

cho chồng cho con (Chồng con) …. Xã hội phong kiến lúc này lại không thiếu những ông chồng gia

trưởng, độc đoán. Phương châm sống của loại đàn ông này là “dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở

ban sơ mới về”: “Thầy tính, làm thằng đàn ông thì phải dạy vợ chứ. Nó làm rầy thì cho nó một trận là

đâu vào đó ngay lập tức” [50, tr. 147]. Cuộc đời người phụ nữ, do đó, có thể nói ngọt bùi thì ít đắng

cay thì nhiều. Đa số họ đều bị đày đọa cả về tinh thần lẫn thể xác.

Năm 1930 – 1945 là thời kỳ lịch sử có nhiều biến động. Nhiều sự kiện văn hóa, chính trị dồn

dập diễn ra đã ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân. Xã hội Việt Nam từ hình thái phong kiến

phương Đông chuyển mình sang hình thái xã hội thực dân nữa phong kiến nên bên cạnh hệ thống tư

tưởng phong kiến đã tồn tại từ bao đời, sự du nhập của văn hóa phương Tây đã tạo ra một làn sóng tư

tưởng mới trong giới trí thức Tây học. Hệ giá trị gia đạo từ trên xuống theo trật tự bất biến tồn tại bao

đời trong xã hội cũ đến nay bị các nhà văn tiến bộ Tự lực văn đoàn đả kích phê phán là một điều tất

nhiên vì nó phủ định cái Tôi. Tác phẩm của họ tỏ thái độ gay gắt đối với chế độ đại gia đình, với hàng

mớ đạo lý Khổng giáo “phụ mẫu chi mệnh”, “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu”, “nhất nam viết hữu,

thập nữ viết vô” – “nam tôn nữ ti”, … tồn tại hàng ngàn năm qua ở Việt Nam. Các nhà văn này đã chỉ

rõ để mọi người cùng thấy đây là một thứ giáo lý không để ý gì đến quyền tự do tối thiểu của con

người, đã đặt luân thường lên trên nhân đạo. Hậu quả do nó gây ra nếu nhẹ thì tình yêu và hôn nhân

mất hết phần lớn ý nghĩa đích thực, nếu nặng thì gia đình bất hòa, đổ vỡ. Song song đó, các vấn đề như

môn đăng hộ đối, lấy vợ bé cho chồng để có con nối dõi, con dâu phải bước qua hỏa lò, phải phục dịch

mẹ chồng, phải chẻ tóc ngôi giữa, phải nhuộm răng đen, không giao du chơi bời khi đã có chồng,

không được nói nếu mẹ chồng chưa cho phép,… bấy lâu nay cũng đã được Khái Hưng, Nhất Linh đem

ra để mọi người có dịp cùng thẩm định lại. Rồi cũng ở những tác phẩm của họ, tất cả bạn đọc đều đã

thấy rõ họ bênh vực cho Loan, thương cảm cho Mai, và xót xa cho Tuyết, …

Trở lại vấn đề hôn nhân trong gia đình người Việt. Trước đây, do tục lệ “cha mẹ đặt đâu con

ngồi đấy”, việc dựng vợ gả chồng cho con cái đều là do hai bên cha mẹ quyết định. Thông thường

những bậc thân sinh không quan tâm đến tình cảm con mình. Họ chỉ chú ý kén chọn cho được nơi

“môn đăng hộ đối” - tức gia đình hai bên phải ngang hàng nhau về mọi mặt. Con quan không thể cưới

con thường dân, con nhà giàu không thể lấy nhà nghèo …. lúc này thành ra rất phổ biến: “Các cụ cũng

có kén chọn nhưng chỉ chọn những chỗ ngang hàng mà thôi. Thí dụ: con quan thì phải lấy con quan

…” [51, tr. 138]. Khi văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam, sự phân biệt đẳng cấp sang hèn trong

hôn nhân đã trở nên không phù hợp. Việc dựng vợ gả chồng lúc bấy giờ cốt phải dựa trên tình yêu của

đôi trẻ. Tất nhiên tư tưởng này đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của tầng lớp thanh niên trí thức

mới. Nhưng để phá vỡ một quan niệm đã ăn sâu bao đời không phải là việc một sớm một chiều. Trong

Nửa chừng xuân, Lộc yêu và muốn cưới Mai. Lộc nhiều lần ra sức thuyết phục mẹ nhưng bà án vẫn

không chấp nhận. Đối với bà, việc Lộc xin lấy một người không ngang bằng về đẳng cấp xã hội như

Mai là một điều sỉ nhục cho gia đình, ảnh hưởng xấu đến gia phong: “À mày giở văn minh ra nói với

tao à? Tự do kết hôn à? Mày không bằng lòng nhưng tao bằng lòng. Mày phải biết lấy vợ gả chồng

phải tìm chỗ môn đăng hộ đối, chứ mày định bắt tao thông gia với bọn nhà quê à? Với bọn cùng đinh

à? Mày làm mất thể diện tao, mất danh giá tổ tiên, mày là một thằng con bất hiếu” [51, tr. 102]. Còn

Mai, nàng vừa là nạn nhân nhưng cũng vừa là nhân vật tiêu biểu cho lớp người mới trong một xã hội

cũ được nhà văn xây dựng để bày tỏ thái độ chống đối với sự khắt khe, tàn nhẫn của lễ giáo phong

kiến. Hai lần nàng đối diện với bà Án là hai lần nàng làm cho bà phải bẽ mặt với mớ suy nghĩ hủ lậu

của bà. Chỉ có điều xung quanh nhân vật bà Án, Khái Hưng vẫn không tỏ thái độ gì. Bà vẫn là một

người mẹ có tấm lòng thương yêu, lo lắng cho con. Bà luôn muốn Lộc có một cuộc sống sung sướng

hạnh phúc. Từ đầu đến cuối tác phẩm, điều khiến người đọc căm ghét chỉ là những tư tưởng phong

kiến mà bà đã “thừa kế” được từ dòng dõi nhà quan. Lòng bà cũng xúc động khi bắt Mai trong lúc

bụng dạ chửa mà phải rời xa Lộc nhưng “môn đăng hộ đối” đã lấn át; chỉ nghĩ đến những gì mình đã

đối xử với Mai, bà đã xấu hổ nhưng việc “nối dõi tông đường” lại bắt bà tìm đến tận Phú Thọ xin nhận

cháu. Nửa chừng xuân đã kết thúc nhưng mối quan hệ giữa hai nhân vật chính vẫn chưa kết thúc. Làm

sao kết thúc? Lộc – Mai có thể xem nhau như những người bạn thân thiết được không trong khi hai

người đều còn quá trẻ? Trái tim họ khi gần nhau chưa hết những cơn thổn thức? Như vậy, xem ra cái

hủ tục “môn đăng hộ đối” kia làm khổ không chỉ Lộc, Mai. Cả người vợ của Lộc, cả bà Án đều khổ.

Viết Nửa chừng xuân Khái Hưng tuy chưa xác định được cần phải phê phán nhân vật bà Án nhưng

việc nhà văn giúp người đọc nhận ra hiện trạng “môn đăng hộ đối” và những hậu quả của nó cũng là

một điều vô cùng đáng quý. Qua Nửa chừng xuân, người đọc đã hiểu và trân trọng hơn cuộc sống hôm

nay.

Thật vậy, hôn nhân ngày nay nếu là nhịp cầu nối liền hạnh phúc cho đôi trẻ thì trước đây nó lại

là một trong những nguyên nhân khiến không ít người – đặc biệt là người phụ nữ suốt đời khóc thầm

lặng lẽ. Ngoài việc kén vợ gả chồng cốt sao cho “môn đăng hộ đối”, ngày xưa nhiều bậc cha mẹ còn

chọn những nơi giàu sang để gả con cái. Có cha mẹ ép gả con vào chốn giàu sang để con được sung

sướng nhưng cũng không hiếm người cha người mẹ chỉ vì lợi lộc bản thân. Tất cả điều này ngày nay

tuy không còn diễn ra trong cuộc sống nhưng ta có thể thấy trong tiểu thuyết của các nhà văn Tự lực

văn đoàn. Mỗi nhân vật mỗi tình cảnh nhưng chung quy lại qua cuộc đời họ những nhà văn này đã

khẳng định với độc giả rằng mọi cuộc hôn nhân nếu không được xây trên lòng tự nguyện đều không

thể có hạnh phúc.

Loan trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh là một nhân vật đại diện cho mẫu người mới. Nàng là một

nữ sinh đã đỗ bằng Thành chung. Ông bà Hai dù yêu con nhưng trước sau ông bà vẫn thuộc lớp người

cũ trong khi Loan đã chịu ảnh hưởng những tư tưởng dân chủ tự do. Vì vậy, mặc cho Loan đã hết sức

cố gắng “phân bày phải trái” và ông bà Hai cũng đã phần nào nhận ra sự bảo thủ của mình đối với con

“Ông Hai, bà Hai tuy thấy con nói có lý, nhưng không khỏi kinh ngạc, lo sợ (…) Ông Hai, bà Hai

thuộc về hạng trung lưu, vốn sinh nhai về nghề buôn chiếu, chỉ biết sống theo những tục lệ cũ của ông

cha để lại, không hề để ý đến rằng ở trong xã hội hiện có một sự thay đổi to tát” [101, tr. 34] nhưng

trên thực tế, không dễ để thay đổi quyết định của một con người. Hơn nữa, đây lại là người cha người

mẹ và quyết định của họ là quyết định dựa trên nền tảng tư tưởng đã có từ ngàn năm trước: “Nàng bị

cha mẹ ép phải lấy Thân (…) Việc này nàng thấy cha mẹ nói đến từ hồi nàng mới để tóc (…) Tuy định

bụng không chịu lấy Thân, nhưng nàng cũng hằng lo lắng, vì nàng biết cha mẹ nàng đã quả quyết về

việc đó. Nếu nàng cưỡng tất có sự rắc rối trong gia đình” [101, tr. 22].

Loan buộc lòng phải lấy Thân. Tuy nhiên, việc nàng lấy Thân nếu đem lại cho ông bà Hai niềm

vui và sự hài lòng thì với nàng lại bắt đầu một chuỗi ngày dài với toàn nỗi khổ và niềm đau. Mối tình

đẹp đẽ vừa chớm nở giữa nàng và Dũng từ đây xem như kết thúc. Yêu Dũng mà phải lấy Thân, đêm

tân hôn đối với Loan chỉ là một đêm “của sự hiến thân”: “Nàng mĩm cười đau đớn ví thân phận nàng

với thân phận một gái giang hồ: nếu gái giang hồ hiến thân cho thiên hạ để mưu sống, thì nàng cũng

đành nhắm mắt hiến mình cho Thân, một người mà nàng không yêu để mưu lấy sự vui lòng cha mẹ”

[101, tr. 51]. Làm vợ Thân, Loan bắt đầu sống cuộc sống khổ nhục của kiếp làm dâu. Ông bà Hai trong

lúc ép gả Loan cho Thân có biết đâu rằng ông bà đã làm một cuộc mua bán: “Trước kia, cha mẹ giao

ước cho nàng làm vợ Thân là đã làm một việc bán linh hồn của con đi, nay cha mẹ bắt nàng làm vợ

Thân là đã bán xác thịt của nàng, bán nàng vì một số tiền ba nghìn bạc” [101, tr. 59]. Loan là đứa con

dâu trừ nợ, nàng tránh sao khỏi bị bà phán Lợi bắt làm trăm công nghìn việc trong nhà: “Rồi Loan nhớ

lại bao nỗi vất vả trong mấy tháng về làm dâu. Bao nhiêu việc khó nhọc là về phần nàng cả. Mấy hôm

đầu, chính Thân cũng ngỏ ý rằng chàng cưới Loan về để hầu hạ mẹ. Phải, người ta cưới nàng về để

hầu chứ không phải làm một người vợ. Việc này là việc phụ. Vì vậy, đầu tiên, người ta dạy bảo Loan

như người ta dạy bảo một con ở (…) Nhà chồng nàng giầu có, lắm việc đầy tớ có thể làm được, nhưng

mẹ chồng nàng muốn cho nàng phải đảm đang một là để dạy nàng cho quen, hai là xưa kia bà về làm

dâu bà đã chịu khổ sở, nên bà không muốn con dâu bà hơn bà” [101, tr. 55]. Nhưng dường như vẫn

chưa vừa lòng, gia đình bà phán Lợi còn muốn Loan ý thức rõ phận nàng là phận của đứa con dâu gạt

nợ: “cũng luôn luôn nhắc để cho em (Loan, P.T.M.T) khỏi quên rằng người ta mất bao nhiêu tiền mới

mua được em về” [101, tr. 64].

Có thể nói quan niệm “áo mặc sao qua khỏi đầu” tồn tại trong suốt một thời kì dài ở Việt Nam

đã không cho phép con cái có bất cứ một quyền gì. Mọi việc trong gia đình từ nhỏ đến lớn phải đều do

cha mẹ quyết định. Loan tuy là lớp người trẻ, có nhiều hành động táo bạo: “Đáng lẽ bước qua cái hỏa

lò để ở cửa, nàng đứng dừng lại cúi nhìn cẩn thận rồi vờ như vô ý lấy chân hắt đổ cái hỏa lò, mấy viên

than hồng lăn lộn cả ra mặt đất. Nàng còn nhớ vẻ mặt ngơ ngác của bà phán Lợi vừa cười gượng vừa

sai người nhà quét thu mấy viên than hồng vào góc cửa. Lại còn khi lễ tơ hồng, người ta đặt nàng ngồi

sau lưng Thân, nàng sắp lễ, thản nhiên đứng lên ngồi ngang hàng với Thân” [101, tr. 51] vậy song

nàng cũng không dám vượt qua quyền của cha mẹ. Để an ủi cho sự tan nát của cõi lòng mình, nàng

phải xem việc lấy chồng của nàng như một sự hy sinh hòng mang lại niềm vui cho cha mẹ. Loan chấp

nhận lấy Thân, Loan mong thay đổi được chồng, cùng chồng xây dựng một gia đình hạnh phúc. Nhưng

tất cả mãi mãi chỉ là mong muốn! Cuộc hôn nhân gượng ép không bao giờ mang lại kết quả tốt đẹp.

Đau khổ, tủi nhục phải chịu đựng hàng ngày trong gia đình chồng không những khiến Loan nhận ra:

“Cái cớ hy sinh để được vừa lòng mẹ trước kia bây giờ không đủ sức mạnh để dìu dắt nàng nữa. Nàng

chỉ nhận thấy bấy lâu nàng đã hèn nhát sống theo tục lệ, không có cái can đảm phá tan những tục lệ

mà cái học của nàng đã cho nàng biết được rằng đáng bỏ, đáng phá” [101, tr. 98] mà còn tiếp cho cái

ý định chống đối lại cổ tục trước kia trong nàng càng thêm quả quyết hơn.

Thật ra bà phán Lợi không ghét bỏ con dâu và Thân cũng thương vợ. Nhưng cách sống cổ hủ

của họ là nguyên nhân gây ra những rạn nứt, đổ vỡ trong gia đình. Nào bổn phận của một người con

dâu đối với mẹ chồng, rồi những người trong gia đình chồng, và chồng làm cho Loan cảm thấy cuộc

sống trong gia đình này sao quá ngột ngạt: “Mấy tháng, nàng luôn luôn phải sống trong một gia đình

mà người nào cũng muốn làm cho nàng khổ, mà không lúc nào nàng không nghĩ đến bổn phận, cái bổn

phận cay nghiệt của nàng đối với mọi người trong nhà. Bổn phận đó, trong thâm tâm nàng, nàng

không cho là bổn phận, chỉ là sự bó buộc gây nên bởi tập quán nó làm cho mọi người quanh quẩn

quấy rầy nhau mà không có kết quả gì tốt” [101, tr. 53]. Tư tưởng mới mẻ tiến bộ Loan vừa tiếp thu

được ở nhà trường với những suy nghĩ cổ hủ của bà phán Lợi đã không thể dung hòa lẫn nhau. Nhất

Linh qua tiểu thuyết Đoạn tuyệt đã cho hay trong buổi giao thời của xã hội, khi cái cũ chưa chịu cáo

chung, cái mới thì chưa đủ sức để khẳng định mình thì bi kịch giữa con dâu, mẹ chồng và những người

trong gia đình chồng không thể không xảy ra. Loan thật đáng thương, một cô gái trẻ tuổi, xinh đẹp, có

học thức nhưng chính là người phải hứng chịu nhiều hủ tục nhất. Nàng vừa là nạn nhân của tục ép

duyên vừa là nạn nhân của lối sống cổ hủ gia trưởng trong gia đình chồng.

Cuộc đời Loan trong Đoạn tuyệt đã đáng thương như thế, sang đọc Chồng con của Trần Tiêu,

lòng ta càng xót xa hơn gấp bội phần: “Hĩm đầu tóc rối bù, quần áo lốc thốc, nằm lăn lộn trên giường,

gào thét như một con điên: “Con cắn cỏ con lạy thầy bu, thầy bu đừng ép con. Con không bằng lòng

lấy người ta đâu” [103, tr. 817]. “Hĩm trẻ, Hĩm đẹp, Hĩm là một cô gái có tình yêu tha thiết như mẹ

Hĩm ngày còn xuân, như hết thảy các cô gái mới dậy thì” vậy mà cha Hĩm ép gả Hĩm cho một ông lão

đáng tuổi cha tuổi chú. Hĩm chỉ biết khóc lóc van xin chứ không thể cãi lại quyết định của ông bác và

cha. Phong tục đã cho cha mẹ cái quyền định đoạt chuyện nhân duyên cho con cái: “Việc dựng vợ gã

chồng là quyền ở bố mẹ chứ việc gì phải hỏi đến nó” [103, tr. 814]. Việt Nam văn hóa sử cương của

Đào Duy Anh cũng có đoạn viết: “Về việc hôn nhân của con cái thì cha mẹ có quyền độc đoán. Nếu

con cái không bằng lòng người vợ hay chồng của cha mẹ lấy cho mình thì chỉ có một cách đối phó là

bỏ nhà mà đi. Song người con bất hiếu như thế thì gia đình từ bỏ” [4, tr. 125]. Tất cả đều đã rõ ràng,

hôn nhân Hĩm đã được cụ lý định cả rồi. Hĩm không làm sao có thể thay đổi được. Hĩm nghĩ đến cảnh

“Ngày xưa con gái thứ hai cụ chê chồng, bị cụ bắt trói bỏ võng khênh đến nhà giai” [103, tr. 818],

Hĩm sợ, Hĩm đành phải chấp nhận. Người ta chờ đợi ngày cưới bao nhiêu Hĩm sợ cái ngày ấy bấy

nhiêu. Trong Chồng con, Trần Tiêu viết: đó là “một ngày đầy nước mắt, một ngày ủ dột, lạnh lẽo như

một ngày tang”, “Nhiều người chạy lại đứng vây ngoài cửa buồng. Một vài người rơm rớm nước mắt

nhìn cảnh tượng đau đớn. Hai thím cầm hai tay Hĩm co kéo. Hĩm, nước mắt chứa chan cố sức kéo giựt

lại, như con bò non biết trước người ta đem đi đâu, cố cưỡng lại chốc lát” [103, tr. 820].

Không biết đây có đúng là đoạn tả cảnh ngày cô gái về nhà chồng? Sao đau thương và tang tóc

vô cùng. Trong khi Hĩm như con bò non đang trên đường đi đến cõi chết thì ông lý, cha cô “sung

sướng tưởng đến anh con rể mà ông cho là một kho tàng để ông bòn rút” [103, tr. 817]. Ông dửng

dưng nhìn con gái ông vừa kêu gào vừa khóc lóc van xin ngất lên ngất xuống: “Ông Lý chạy ra nhận

lễ. Ông sung sướng nhìn xuống gói giấy đỏ đề ngoài hai chữ “nhất bạch” đặt trên cái đĩa. Ông cho thế

là đủ rồi còn ông rể nghị có mặt hay không có mặt cũng chẳng quan hệ” [103, tr. 818]. Người đọc cảm

thấy đau đớn, tàn nhẫn và phũ phàng hơn cho Hĩm khi nhà văn vạch trần suy nghĩ sẽ được nhờ vả con

rể của cha Hĩm: “sau này nhỡ có thua thì ông đến mượn thẳng ông con rể dăm bẩy chục” [103, tr.

817]. Thật không thể tưởng tượng, ngày xưa ai đã đặt nên cái tục ép duyên vô lí thế kia? Chỉ biết rằng

cha mẹ sinh ra con rồi được quyền gả bán con là chuyện diễn ra thường ngày. Người con gái trong nhà

lúc này được xem “như con lợn nuôi, đã định trước ngày bán”. Tục ép duyên như thế đã làm cho

không ít người con chỉ biết ngậm đắng nuốt cay chấp nhận cuộc hôn nhân do cha mẹ định đoạt. “Phụ

mẫu chi mệnh”, khi cha mẹ đã quyết, dù không bằng lòng, dù đúng dù sai phận làm con là không được

cãi:

Tuy chuyện xảy ra từ hồi Loan mới mười ba tuổi mà nàng còn nhớ rõ: cô cả năm mười sáu

tuổi bị cha mẹ ép gả cho con một ông chánh tổng giầu có ở quê nhà. Chồng cô ta là một người không

ra hồn người nhưng cha mẹ cô cần gì sự đó, miễn nhà giầu là được còn cô ta thì thơ ngây chưa hiểu ra

sao. Khi về nhà chồng, mấy lần bị mẹ chồng đánh chửi thậm tệ, mấy lần bỏ trốn về nhà bố mẹ đẻ.

Nhưng lần nào bố mẹ cô cũng đuổi cô về nhà chồng. Nhưng bây giờ thì cô cả Đạm đã thuần thục vào

khuôn vào phép được tiếng là dâu thảo, nhưng nhẫn nhục đau khổ ngấm ngầm, chịu phí cả bao năm

thanh xuân quý nhất trong đời [101, tr. 39].

Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn viết nhiều về phong tục gia đình. Có phong tục được phản ánh cụ

thể, có phong tục thấp thoáng đâu đó. Nhưng trong những tiểu thuyết của họ, tất cả đều có một sức

mạnh đủ để trói buộc con người. Điển hình nhất là tiểu thuyết Lạnh lùng. Ngay những trang mở đầu

Lạnh lùng, Nhất Linh đã giới thiệu để người đọc làm quen với ngôi nhà bà án. Gian buồng khách nhà

bà án có treo bức hoành phi “Tiết hạnh khả phong”. Trong tác phẩm, hàng chữ này lại hai lần nữa xuất

hiện – lần ở giữa (trang 85) và lần ở cuối (trang 204). Toàn bộ phần còn lại của tiểu thuyết, Nhất Linh

đi vào miêu tả về cuộc sống, về tâm trạng của Nhung và những người xung quanh nàng. Thế nhưng

bốn chữ Tiết hạnh khả phong thì không lúc nào không là một nỗi ám ảnh với nhân vật, với người đọc.

Nhung về làm dâu nhà bà án khi nàng vừa mười tám. Được hai năm thì ông Tú chồng nàng qua

đời. Lúc Nhung lấy ông Tú, nàng đã không hề tưởng đến ý nghĩa của ái tình nên lúc ông Tú mất đi,

“nàng vẫn sống theo khuôn đời cũ. Nàng vẫn ao ước được yên ổn mãi mãi với nhà chồng, được luôn

luôn sống gần gũi bố mẹ đẻ và nuôi con cho thành người” [65, tr. 22]. Ba năm. Mọi người xung quanh

chỉ nghĩ đến tiếng thơm. Họ đâu kể đến cảm giác quạnh hiu, lạnh lẽo mà một cô gái vừa độ hai mươi

phải chịu đựng trong những đêm dài: “Mẹ thương con góa bụa, nhưng nghĩ rằng bấy lâu con biết

đường ăn ở, trong họ ngoài làng ai ai đều kính nể, nên mẹ cũng được chút thơm lây và vui vẻ lúc tuổi

già” [65, tr. 34]. Vì thế, dù đã hết thời hạn để tang chồng nhưng đối với cả hai bên gia đình nàng và gia

đình chồng, với mọi người xung quanh, nàng vẫn phải sống như một phụ nữ đang chịu tang chồng:

“nàng không được tự do trong các việc hành động cỏn con của mình; việc nàng mặc chiếc áo màu

không phải là một việc nhỏ, chỉ có liên cang đến một mình nàng mà thôi” [65, tr. 81]. Chỉ cần Nhung

trang điểm, ăn mặc khác ngày thường thôi, bà án đã lên tiếng nhắc nàng nhớ đến bổn phận thờ chồng:

“Mợ phải biết mợ khác mà các chị em bạn của mợ khác. Mợ phải nghĩ đến thân mình, một người đàn

bà góa không thể đua đòi chị em, đi chơi nay chỗ này, mai chỗ khác như họ được” [65, tr. 171].

Còn nhà văn Nhất Linh, ông cho rằng Nhung còn quá trẻ để sống đời góa bụa nuôi con. Tình

yêu đến với nàng là một lẽ tự nhiên. Chỉ có điều đáng nói là nàng đang sống giữa những người nặng tư

tưởng phong kiến: “Mọi người đã muốn cho nàng là một người đàn bà góa ở vậy thờ chồng, thì nàng

phải ở vậy thờ chồng. Nàng thoáng thấy hiện ra trước mắt bức hoành phi treo ở buồng khách nhà

nàng và mấy chữ “tiết hạnh khả phong” cái phần thưởng cuối cùng của những người biết ăn ở phải

đạo như nàng” [65, tr. 85]. Nhưng nhà văn giải thoát cho nhân vật nữ của mình bằng cách nào? Ông

đã để Nhung gặp gỡ Nghĩa, để nàng yêu Nghĩa và sau đó tạo ra một cuộc dằn co dữ dội. Một bên là sự

câu nệ của tục lệ thờ chồng, một bên là khát vọng yêu đương của bản thân. Nhung hối hận khi sống trái

ý cha mẹ nhưng cũng đau đớn không kém khi phải từ bỏ tình yêu nhiệt thành giữa nàng và Nghĩa:

“Nàng thấy nàng là một người hư hỏng và đời nàng là một đời bỏ đi, tan tác, rã rời như những cây ướt

mưa bị gió đập hai bên đường. Nàng không ngờ đâu có ngày nàng lại sa xuống thấp đến như thế này

được. Nàng rưng rưng muốn khóc. Nhưng cùng với hai giọt lệ ứa ra ở khóe mắt. Nhung thấy một nỗi

sung sướng man mác nảy ra ở trong lòng, với những điều ước vọng mơ màng về một cuộc đời mới mẻ,

đáng sống và tốt đẹp hơn cái đời nhơ nhuốc của nàng hiện giờ” [65, tr. 155]. Bao lần Nhung buộc

mình phải dứt khoát chọn một trong hai con đường. Tuy nhiên, việc này không dễ: “Nhưng anh nghĩ

xem, dẫu yêu anh đến bực nào em cũng không thể bỏ cha mẹ, anh em, làng nước một cách thản nhiên.

Me em đã đau lòng nhiều lắm về em Phương rồi. Nếu lại em nữa, thì me em buồn đến chết mất, chết vì

không thể chịu được hai lần hai cô con gái làm nhơ nhuốc đến thanh danh cả nhà, cả họ” [65, tr. 99].

Một bên là tập tục dù đã lỗi thời nhưng lại ăn sâu vào máu thịt và trở thành giáo lý sống, một bên là

những đòi hỏi chính đáng của một Con người. Nhân vật Nhung của Nhất Linh không thể giải quyết

được. Kết thúc tác phẩm, Nhung phải sống một cuộc đời đầy giả dối để rồi có lúc nàng xót xa tự dằn

vặt bản thân vì đã không đủ can đảm đối diện với sự thật.

Rõ ràng nếu trước kia việc người vợ thủ tiết thờ chồng được xem là đạo lý thì khi đọc Lạnh lùng

có lẽ ai trong chúng ta rồi cũng sẽ nhìn nhận lại. Nhung còn quá trẻ, tại sao vì bốn chữ “tiết hạnh khả

phong” mà bắt nàng phải sống đời còn lại một mình đơn độc? Nếu sống như vậy, phần thưởng cuối

đời nàng sẽ nhận được là gì? Dĩ nhiên sẽ là bức hoành phi“TIẾT HẠNH KHẢ PHONG - Cùng với hai

hàm răng long, mái tóc bạc”. Tiểu thuyết Lạnh lùng theo chúng tôi không nhằm “chủ trương tự do

phát triển xác thịt” như suy nghĩ của nhiều người. Vấn đề nổi lên từ đầu đến cuối tác phẩm là vấn đề

con người trong mối quan hệ với tục lệ truyền thống. Nhất Linh đã phân tích khá kỹ những đau khổ

dằn vặt mà nhân vật nữ của ông phải trải qua cùng những ước muốn thầm kín nhưng hết sức chính

đáng của một người con gái trẻ. Tất cả việc làm này của nhà văn theo chúng tôi chẳng qua chỉ nhằm

hướng đến một thông điệp duy nhất. Đó là phản ánh lại thật chi tiết một hiện trạng tâm lí xã hội qua đó

giúp mọi người nhận ra có những tục lệ tuy rất tốt đẹp nhưng không phải lúc nào và trong trường hợp

nào cũng có thể buộc con người phải tuân thủ. Một người phụ nữ góa chồng trẻ như Nhung sao có thể

vì truyền thống “thủ tiết thờ chồng” để buộc nàng sống một mình một bóng suốt quãng đời còn lại.

Những bồi hồi thổn thức rồi giật mình tỉnh giấc trong đêm là điều dĩ nhiên không thể tránh. Không thể

lên án mối tình giữa Nhung và Nghĩa đã đành mà hơn thế nữa đọc Lạnh lùng ta vô cùng hồi hộp, và có

cả một chút lo lắng nữa. Ta mong Nhung đủ can đảm vượt qua hủ tục để đàng hoàng hưởng hạnh phúc

cùng Nghĩa trong quãng đời còn lại của hai người!

Trong cuộc sống vợ chồng, đứa con là gạch nối hạnh phúc. Tuy nhiên, thời phong kiến, do chịu

ảnh hưởng của Nho giáo, có người đã quan trọng hóa vấn đề này. Nhà nào dù nghèo nhưng có con đàn

cháu đống vẫn được xem là có phúc lớn. Với tâm lí này thì người đàn ông nếu lấy vợ mà không có con

trai để nối dõi là xem như đã mang tội bất hiếu với dòng họ. Ngược lại, người phụ nữ nào không sinh

được con sẽ bị hàng xóm chê cười. Suy nghĩ này phổ biến đến độ nó khiến cho bất cứ cha mẹ nào hễ

cưới vợ cho con xong cũng đều mong mau có cháu để được ẵm bồng. Nửa chừng xuân (Khái Hưng),

Đoạn tuyệt (Nhất Linh), Chồng con (Trần Tiêu) … đã phê phán mạnh mẽ lối suy nghĩ cổ hủ này.

Bà khán Tịn (Chồng con) chỉ có mỗi một đứa con trai. Bà cưới vợ cho con đến nay đã bảy tám

năm. Phần muốn có cháu ẵm bồng, phần phải nghe lời bàn ra tán vào của những người xung quanh, bà

đâm ra lo lắng. Đôi lúc dù không muốn nhưng cái tục kia nó cứ ám ảnh. Nó khiến bà trở nên gắt gỏng

với con dâu: “Mẹ hắn có ý bực bội vì nỗi ngoài năm mươi tuổi đầu vẫn chưa có cháu nội (…) Cháu

ngoại tuy cũng là cháu, nhưng không thể so sánh với cháu nội được” [103, tr. 746]. Trong tác phẩm,

thật nực cười cho cảnh bà khán chỉ an lòng ra đi khi bà được tận mắt nhìn đứa cháu trai: “Bà cụ nghe

thấy tiếng “cháu giai” ngồi nhổm ngay dậy, cặp mắt gần tỉnh táo hẳn như mắt người thường. Cụ nói

rất khẽ nhưng rõ ràng: “Cháu tôi đâu? Bế vào đây cho xem nào!” (…) Cụ nhìn chòng chọc vào đứa bé

mồm lẩm bẩm: “Nam – vô – a – di – đà – phật!” [103, tr. 801].

Cái tục “nối dõi tông đường” không chỉ làm lòng bà khán nôn nóng không thôi. Tai hại nó mang

lại lớn hơn thế rất nhiều. Vì nó nên bà phán Lợi trong Đoạn tuyệt dù không yêu Loan nhưng yêu được

con của nàng: “Ghét mẹ mà yêu quý được con, chỉ vì coi người mẹ là người ngoài không kể đến, mà

đứa con kia mới là máu mủ, là dòng dõi nhà mình. Từ xưa đến giờ, đời tất cả các nàng dâu khác, cũng

như đời Loan chỉ là những đời người ta đem hy sinh đi để gây dòng dõi cho các gia tộc. Bọn này

không bao giờ có quyền sống một đời riêng, bao giờ cũng chỉ là một phần tử nhỏ mọn, yếu hèn, đáng

thương của những gia đình khác” [103, tr. 74]. Tệ hại hơn thế, đến khi đứa cháu ấy mất đi, để có đứa

cháu khác, bà sẵn sàng đối xử tệ bạc ngay với con dâu: “Nàng nhận ra rằng sở dĩ có việc này là vì

nàng không sinh đẻ nữa, mà Thân thì không bao giờ chịu suốt đời không có con, còn bà phán sở dĩ

bằng lòng ngay chỉ vì Tuất nay mai sẽ cho bà một đứa cháu, - biết đâu là cháu trai – để nối dõi” [103,

tr. 88].

Điều đáng nói hơn nữa là chỗ nhân vật bà Hai – mẹ đẻ của Loan. Bà phán Lợi là mẹ chồng. Bà

không thương con dâu. Bà tạo cảnh chồng một vợ hai để có cháu đã đành. Đằng này, bà Hai sao không

thương con gái? Bà lại cũng đồng tình với việc làm trên của bà phán Lợi: “Bà Hai không những không

có lời an ủi nàng, lại còn cho việc làm của Thân là đúng lý. Bà khuyên Loan không nên ngăn cản, vì

nàng đã không sinh đẻ được nữa, thì nên để chồng lấy vợ lẽ kiếm đứa con nuôi nối dõi” [101, tr. 90].

Phải chăng sức ép của phong tục đã quá lớn. Con người chỉ biết tuân theo phong tục. Nếu thật như vậy,

lâu dần, con người sẽ sống như một cái máy, cạn nghĩa cạn tình. Chính điều này làm cho một nhà văn

đã không thể không lên tiếng cảnh báo: “Tình yêu là thứ xa lạ. Hôn nhân là sự phải có của kiếp làm

người để sinh con đẻ cái nối dõi giòng giống tổ tông mà thôi” [78, tr. 44].

“Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Vào thời phong kiến, đúng là chẳng may cho những ai sinh ra làm thân con gái. Lúc nhỏ, cha mẹ

chẳng coi ra gì “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Khi đủ tuổi lấy chồng, họ “xuất gia tòng phu”. Ai

tốt số lắm được vào những gia đình tử tế tấm thân có thể đỡ vất vả đôi chút. Bằng không họ chỉ được

xem “là những người bị người ta mua về, hì hục lạy người ta để nhận làm cái máy đẻ, làm con sen hầu

hạ không công” [101, tr. 89]. Thậm chí, nhiều gia đình ở nông thôn, người phụ nữ còn phải sống cảnh

chồng chung. Trong những gia đình người Việt lúc này vì vậy rất thường nảy sinh ra thảm họa vợ lớn –

vợ bé, thảm họa dì ghẻ - con chồng.

Vợ lão nghị (trong Con trâu) đã lớn tuổi nhưng chỉ có mỗi hai cô con gái. Nghe theo lời thầy

bói, bà đi cưới vợ lẽ cho chồng. Tai họa vậy là ập đến với Hĩm. Một cô gái mười sáu tuổi trẻ đẹp được

bà cưới về làm lẽ một ông già xấp xỉ tuổi cha tuổi chú. Quãng thời gian về làm vợ lẽ nhà ông Nghị,

Hĩm sống thật không khác gì đời nô lệ. Lòng ghen tuông ích kỷ của bà cả và hai đứa con gái bà đã

không cho Hĩm có được một giây phút yên thân. Họ thẳng tay đánh đập, hành hạ nàng đủ kiểu: “Nàng

hầu đấy chứ có phải vợ lẽ đâu (…) Bà không biết chứ con mẹ nghị ấy ăn thịt người không biết tanh

đấy. Nó hành hạ chị ta đến khổ. Thật tôi tớ còn sướng hơn (…) Lại hai cô con gái nhà bà ta mới gớm

chứ. Thật hai con nặc nô. Chúng nó xúm vào hành hạ (…) có lần nó túm tóc chị ta xuống rồi cứ đũa cả

đánh túi bụi cả vào đầu óc” [103, tr. 827]. Nếu như đọc Nửa chừng xuân ta thấy người vợ ba của ông

Hàn “được ông Hàn yêu thương là chỉ vì sinh hạ người nối dõi tông đường cho ông đó mà thôi” [51,

tr. 68] thì ở tác phẩm này việc Hĩm sinh được một đứa con trai lại trở thành nguyên nhân để Hĩm phải

hứng chịu thêm nhiều trận đòn roi: “vì đứa con giai ấy, con lại bị bà ta và hai cô hành hạ thêm. Hình

như họ muốn tống con đi để cướp lấy thằng bé” [103, tr. 834]. Đời làm lẽ của Hĩm chẳng khác gì đời

sống của một con vật. Ngày sang ngày Hĩm chỉ biết cắn răng nghe những lời chửi mắng và chịu những

trận đòn roi oan nghiệt. Mang tiếng là vợ một ông nghị giàu có vào bậc nhất nhì huyện nhưng ngày

Hĩm trốn được trở về nhà mẹ đẻ, bà lý Bổng không còn nhận được ra đứa con gái của bà ngày nào:

“Hĩm trông gầy lắm. Hai má hóp, đôi mắt to và sáng trong vành mắt thâm quầng. Và tiều tụy. Chiếc

khăn sa tanh đã đổi ra chiếc khăn nâu bã, áo vá nhiều mảnh, hai khuỷu tay rách để lộ hai miếng tròn

trắng bằng đồng bạc ở chiếc áo cánh mặc trong. Chiếc quần thâm, có lẽ vẫn chiếc mẹ may cho ngày

cưới, rầu rầu tơi ra từng chỗ vá có những lỗ như gián nhấm” [103, tr. 833].

Cùng phản ánh tình trạng vợ lớn – vợ bé như trên nhưng Thoát ly của Khái Hưng đi vào cảnh

đời ngược lại. Lúc ông phán Trinh lấy vợ lẽ là lúc gia đình ông bắt đầu một tấn bi kịch. Người vợ cả vì

vừa bị chồng tình phụ vừa bị vợ lẽ của chồng lấn át đã sinh ra ốm đau rồi chết: “Ông ấy lấy cô ta về

được ít lâu thì ông coi rẻ hẳn bà. Bà buồn quá sinh bệnh ốm đau rồi chết, buồn một phần vì bị ông tình

phụ, một phần vì bị cô kia lấn át. Nhất là từ khi cô ta sinh con trai đầu lòng, thì cô ta lại lăng loàn lắm,

đến nỗi một lần cô ta dám thụi vào ngực bà” [102, tr. 678]. Hai đứa con của bà - Hảo và Hồng - cũng

không chịu nỗi sự thâm độc của người mẹ kế. Gia đình ông phán vậy là từ ngày có thêm bà vợ hai

không lúc nào được êm ấm. Bà phán Trinh cưng chìu những đứa con mình bao nhiêu bà lại ghét hai

đứa con chồng bấy nhiêu. Đến khi Hảo lớn theo chồng, tất cả sự cay nghiệt bà trút cả xuống đầu Hồng.

Bà không muốn tốn tiền và quan trọng hơn là không muốn Hồng ăn học thành tài nên đã lấy cớ phải

“dạy làm ăn cho Hồng” để bắt nàng bỏ học năm cuối ở trường sư phạm. Không những thế, trước mặt

ông phán và mọi người xung quanh bà lộ ra vẻ yêu thương, bảo ban Hồng như con đẻ. Nhưng khi chỉ

có bà với Hồng, bà không tiếc lời đay nghiến, hành hạ. Cha ruột đối xử lạnh nhạt, dì ghẻ ác độc, giả

dối khiến Hồng phải chọn cách như chị Hảo. Hồng lấy chồng để thoát ly gia đình. Nhưng cả hai lần,

hôn nhân của Hồng đều không thành – một lần do người chồng sắp cưới bệnh rồi qua đời, một lần do

âm mưu chia rẽ của bà phán. Đau đớn, tủi nhục ê chề, Hồng nghĩ đến cái chết. Hồng dứt khoát ra đi.

Tuy vậy, khi ở giữa ranh giới của sự sống – cái chết, nàng đã không đủ can đảm. Nàng trở về, chuỗi

ngày còn lại của nàng vì thế càng phải chịu thêm nhiều đớn đau, tủi nhục. Người đọc thật khó tưởng

tượng được người nào tàn nhẫn hơn bà phán Trinh. Mặc cho Hồng bệnh từ ngày này qua ngày khác, bà

cũng không một lần quan tâm, thuốc thang. Cuối cùng, cái chết đã đến như một sự giải thoát cho kiếp

sống thừa của đứa con ghẻ trong chính gia đình mình. Nếu như ở các sáng tác Gia đình, Thừa tự, Nửa

chừng xuân, … vấn nạn dì ghẻ con chồng chỉ được nhắc qua thì khi viết Thoát ly, bao nhiêu tâm huyết

Khái Hưng đều dồn cả vào đây. Tác phẩm như một bản cáo trạng. Thoát ly đã tập trung được tất cả nỗi

khổ đau về thể xác lẫn tinh thần của những đứa con chỉ một cha nhưng lại có nhiều mẹ.

Đến đây có thể nói tục đa thê là một biểu hiện cho lối sống thiếu văn minh, tiến bộ. Thực tế

cuộc sống từ xưa đến nay đều cho thấy tình trạng hôn nhân chồng một vợ hai nếu không gây đau khổ

cho người này thì cũng gây khổ đau cho người kia: “Các bà vợ lẽ bao giờ cũng chỉ có hai đường: Một

là họ bị áp chế. Lúc đó, họ như bọn nô lệ hèn hạ. Hai là họ bị áp chế, lấn át cả quyền vợ cả, lúc đó thì

họ trở nên hạng Đắc Kỷ, Bao Tự” [102, tr. 302]. Những gia đình theo chế độ hôn nhân đa thê hiếm có

mấy nhà được hạnh phúc sum vầy: “Một năm vài lần Hạc vâng lời mẹ đến thăm cha. Mấy ngày ở

trong cái gia đình mà chàng vẫn cố yêu mến, chàng chỉ nhận thấy sự giả dối, sự ngấm ngầm ghen ghét

lẫn nhau, sự ganh tị, chia rẽ kéo bè kéo cánh. Trong tình anh em thì em gái cùng mẹ với Hạc về một

bên, ba đứa con trai của người vợ lẽ về một bên, luôn luôn cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau. Cố

nhiên người vợ lẽ bênh vực con. Còn người cha thì hết sức che chở đứa con vắng mẹ. Vì thế gia đình

mất hẳn hòa hợp và trật tự” [102, tr. 190 -191]. Dù vậy nhưng vào những năm 1930 – 1945 việc “trai

năm thê bảy thiếp” vẫn được nhiều người – đặc biệt là người nhà quê, công nhận. Và tục lệ này tồn tại

mãi cho đến khi đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, thế kỉ XXI, tục đa thê mới hoàn toàn bị xem là một

hủ tục cần phải xóa bỏ. Như vậy thật vô cùng đáng quý khi cách đây hơn nữa thế kỷ Khái Hưng đã để

một nhân vật nữ của ông kịch liệt phản đối tục đa thê: “Nhà con không có mả đi lấy lẽ” [51, tr. 169].

Bởi điều đó chứng tỏ được rằng nhà văn này sớm đã có một quan niệm nhân sinh mới mẻ, đậm tính

nhân văn.

Không chỉ phản ánh tục ép duyên, tục đa thê, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn còn phản ánh được cả

một tục lệ có phần thuộc về thế giới tâm tưởng – tục thừa tự. Người Việt tin rằng có sự tồn tại của hai

thế giới. Việc cúng giỗ những người đã khuất trong gia đình là phải có và do người đồng khí huyết với

người đã khuất khấn vái vì như vậy hương hồn người khuất mới có thể phối hưởng được. Thông

thường, người con trai trưởng sẽ gánh trọng trách này. Đối với những gia đình chỉ sinh toàn con gái,

người ta xem như là một sự không may cho cha mẹ: “Tôi chỉ thương hại anh chị tôi không người thừa

tự. Để tôi đem bát hương về thờ vậy” [101, tr. 119] và phải lập thừa tự. Việc lập thừa tự này ở nước ta

được dựa theo thứ tự “chiêu mục”, nghĩa là người dưới được thừa tự cho người trên. Cháu được thừa tự

cho chú bác, em thừa tự cho anh. Người được lập thừa tự được xem như là con nuôi người lập nên phải

ăn ở với cha mẹ nuôi như với cha mẹ đẻ, phải chịu mọi bổn phận của người con đẻ, không được tự ý

bỏ cha mẹ nuôi để về nhà mình. Người con nuôi lập tự này phải đồng khí huyết với cha mẹ nuôi. Tuy

nhiên, tục lệ cũng cho phép dù đã lập được người thừa tự rồi nhưng nếu người ấy tính hạnh xấu xa thì

người cho lập thừa tự vẫn có thể bỏ đi để lập lại. Vậy cứ theo đúng những quy định trên, bản thân tục

lập thừa tự sẽ không bị xếp vào mục những hủ tục gia đình. Nguyên nhân nào chúng tôi xếp thừa tự

vào mục những hủ tục?

Bà ba là vợ lẽ của ông án Nguyễn. Một người vợ lẽ rất mưu mô độc ác. Từ ngày lấy ông án, bà

tích góp về cho mình được bao nhiêu là tiền bạc của cải. Lúc ông án mất cũng là lúc bà đã có được một

tài sản kếch xù. Chục căn nhà cho thuê ở Hà Nội. Ruộng vườn vô số kể … Nhưng bà chỉ có một đứa

con gái là Cúc. Theo tục xưa, bà phải chọn một trong ba đứa con trước của chồng là Bỉnh, Trình và

Khoa làm người thừa tự. Vốn tính keo kiệt, đời nào bà ba chịu hở ra một đồng. Đến con gái ruột của

mình bà còn tìm cách gả chồng sao cho không mất của hồi môn thì cớ gì bà chịu đem tài sản tích góp

trong bao lâu cho những đứa con chồng. Do đó, việc lập thừa đã vô tình trở thành miếng mồi để bà

đem ra dử bọn con chồng. Bà biết cuộc sống của Bỉnh đã khá đầy đủ nên chàng sẽ không để ý đến món

thừa tự. Vậy là bà bắt đầu thực hiện âm mưu chia rẽ tình cảm anh em bấy lâu đang tốt lành giữa Trình

và Khoa. Bà viết thư cho Bỉnh báo rằng sẽ lập một trong hai em chàng là Trình và Khoa làm người

thừa tự để chăm lo hương hỏa tông tộc. Tin tức này với Trình và Khoa có sức hấp dẫn rất lớn. Nhưng

họ vì lòng thù hằn xưa kia nên không ai lên tiếng nhận món thừa tự của bà. Dù vậy, cả hai đều thấy

tiêng tiếc và lo rằng mình không nhận liệu người kia có nhận không. Hai anh em Trình – Khoa đã sinh

ra dè chừng nhau. Bà ba là người khôn ranh, bà thừa biết điều này. Bà hết thì thầm vào tai vợ Trình rồi

lại đích thân sang nhà gọi Khoa để nhờ việc này việc kia vừa hòng gây bất hòa giữa hai gia đình vừa

che mắt thiên hạ. Đối với bà, “Việc thừa tự, bà cho là một việc có lợi cho bà, mà lại có hại đến danh

dự bọn con chồng. Bà thừa hiểu rằng ở ngoài người ta chỉ trích bà nhiều lắm, người ta cho bà là một

con yêu quái đến phá hại gia đình ông án Nguyễn. Vậy thì việc lập thừa tự này đủ trả lời lại hết thảy

những câu gièm pha vô căn cứ. Người ta sẽ bảo nhau: Đấy! Bà ta tốt thế đấy! Mà quân tử không! Bọn

con chồng đối đãi với bà ta có ra gì đâu, thế mà bà ta để ráo của cải cho. Nào xem còn ai dám ngờ vực

nữa không!” [102, tr. 1008]. Tiểu thuyết Thừa tự Khái Hưng đã phản ánh được vấn đề nóng bỏng của

thời đại. Đó chính là việc có những tập tục tốt đẹp nhưng ngày nay chúng đang bị con người lợi dụng

để thỏa mãn mục đích xấu xa của riêng mình. Tục lập thừa tự là một trong những tập tục bị lợi dụng

như vậy. Trong tiểu thuyết Thừa tự nó không còn ý nghĩa của việc chọn người chăm lo hương khói cho

tổ tiên ông bà. Ngược lại, nó đã trở thành một phương tiện để những người như bà ba có thể vin vào

đấy để thực hiện mục đích xấu xa.

* * *

Thực ra chống lễ giáo phong kiến, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người, đặc biệt là

người phụ nữ tại thời điểm Tự lực văn đoàn ra đời không còn là một vấn đề mới mẻ. Từ thế kỷ XVIII,

thơ Hồ Xuân Hương, truyện thơ Nôm rồi sau này là Truyện Kiều của Nguyễn Du, … ở các mức độ

khác nhau đều đã lên tiếng tố cáo các thứ lễ giáo phong kiến chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc

của con người. Hay gần đây hơn người đọc còn có thể kể đến cái chết của Tố Tâm trong tiểu thuyết

cùng tên của Hoàng Ngọc Phách cũng đã cho thấy rất rõ tính chất phi nhân đạo của thứ lễ giáo này.

Tuy nhiên, có thể khẳng định chỉ đến khi tiểu thuyết của các nhà văn Tự lực văn đoàn ra đời cuộc đấu

tranh nói trên mới được mở rộng về nội dung và mới thật sự trở nên gay cấn, quyết liệt. Nói là họ đảo

lộn hệ giá trị của chế độ đại gia đình phong kiến thì quả thật có hơi quá. Nhưng rõ ràng một số tiểu

thuyết của họ đã đấu tranh không khoan nhượng trước những biểu hiện của Khổng giáo. Nửa chừng

xuân gắn liền với vấn đề môn đăng hộ đối, vợ lớn vợ bé. Đoạn tuyệt là mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu.

Lạnh lùng xoáy sâu tâm trạng người phụ nữ phải chịu cảnh góa chồng. Thoát ly lại lên án gay gắt vấn

đề dì ghẻ đối xử tệ bạc với con chồng … Các nhà văn Khái Hưng, Nhất Linh, Trần Tiêu mỗi người đều

đã tìm được cho mình một hướng đi riêng. Tuy nhiên, trong quá trình phản ánh họ cùng gặp nhau tại

một điểm đó là khi tất cả tác phẩm của họ đều bênh vực cái mới, phê phán đả kích cái cũ, cái phản tiến

bộ. Mai dù không được bà án chấp nhận cho làm vợ Lộc nhưng rồi nàng vẫn có được một cuộc sống

rất tốt bên cạnh em và con. Và cuối cùng bà án lại phải nhún nhường lên tận Phú Thọ mong nàng bỏ

qua chuyện cũ. Nhung tuy không thể cùng Nghĩa đàng hoàng nên vợ nên chồng nhưng nàng cũng đã

được bà án thông cảm và “mở một lối đi”. Hĩm trốn thoát gia đình ông Nghị lên Cẩm Phả với người

nàng yêu. Loan được tòa tha trắng án và cùng Dũng xây dựng cuộc sống mới. Tất cả những cách kết

thúc này khiến cho chế độ đại gia đình Việt Nam bấy lâu đang lung lay giờ sụp đổ hoàn toàn.

Ngày xưa, ở nông thôn Việt Nam, làng không phải là một vùng địa lý, hành chính để ai cũng có

thể đến cư trú. Mỗi làng đều có sổ đinh, có công quỹ riêng, có sự phân biệt rạch ròi giữa dân ngụ cư và

dân bản quán, và có cả thủ tục vào làng. Ngoài ra, mỗi làng còn có thành hoàng, có đình miếu, ruộng

tế, … làm thành một đơn vị vừa có tính tôn giáo vừa có tính kinh tế riêng. Nhà nước ta khi xưa còn cho

phép bộ máy kỳ hào ở làng được tổ chức thành một thứ pháp đình riêng. Vì vậy, có thể nói, ở đồng

bằng Bắc bộ Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, đằng sau lũy tre xanh là cả một thế giới biệt lập

tách rời hoàn toàn với bên ngoài.

Trong số các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Trần Tiêu là cây bút duy nhất chuyên chú với

mảng đời sống người dân quê. Hai tiểu thuyết Con trâu và Chồng con của ông đã góp phần vén lên bức

màn che kín đáo, phơi bày ra một bức tranh toàn cảnh về những hủ tục ở vùng nông thôn Bắc bộ trước

cách mạng tháng Tám.

Bối cảnh sáng tác chung cho hai tác phẩm được Trần Tiêu chọn là làng Cầm. Nhân vật chính

trong Con trâu là vợ chồng bác xã Chính, và trong Chồng con là gia đình chị xã Bổng. Nhưng xoay

quanh họ là tất cả người dân của làng Cầm. Từ lớn đến nhỏ, từ giàu đến nghèo, từ ông lý ông khóa cho

đến hạng cùng đinh đều được nhà văn quan tâm khắc họa. Dù có phần hơi kham như lời nhận xét của

Nhân Nghĩa ở bài “Chồng con”: “Tôi đã nhận thấy cái chỗ tham lam của tác giả đem ba cuốn tiểu

thuyết hợp làm một: một cuốn nói về ái tình quê mùa, một cuốn tả gia đình dân quê với bao sự nghèo

đói túng thiếu và một cuốn tả phong tục xóm làng Việt Nam với những hội hè đình đám, với những

cảnh chè chén, khao vọng, mua nhiêu, bán xã” [75, tr. 525] nhưng đó mới là bản lĩnh của Trần Tiêu –

một “nhà văn độc đáo của Tự lực văn đoàn”. Con trâu và Chồng con, cả hai đều rất xứng đáng được

xem là hai tiểu thuyết phóng sự phong tục về hai vấn đề hiện đang rất nóng bỏng ở nông thôn: vấn đề

ngôi thứ, vấn đề đình đám, khao vọng.

Trước đây, ở Việt Nam, làng là một đoàn thể tự trị trong phạm vi quốc gia. Khác với làng của

những dân tộc thiểu số sống ở Tây nguyên, làng ở đồng bằng Bắc bộ có một bộ máy quản lý được tổ

chức theo tôn ti trật tự rất chặt chẽ. Người nông dân Việt Nam xưa không trực tiếp quan hệ với quan

lại. Tất cả công việc đều thông qua bộ máy lý trưởng, hào dịch. Người nhà quê sống ở làng, chết cũng

ở làng. Do đó, không phải ngẫu nhiên nạn mua quan bán tước thường xảy ra ở nông thôn. Người ta

tranh nhau mua nhiêu mua ấm để được ăn trên ngồi trước. Tiền ít, họ mua nhiêu, nhiều hơn, họ mua

hương mua xã để lớn tuổi được lên kỳ mục. Những người nghèo không có tiền để mua ngôi thứ thì

phải suốt đời làm thằng cu bố đĩ và bị lếp vế đủ đường, như bác Chính trong Con trâu chẳng hạn:

Sao bác trai chịu bỏ hẳn ra hăm lăm đồng bầu xã mà lại không để tiền tậu ngay con trâu cái,

con trâu cái mà bác hằng mơ tưởng, bấy lâu?Đó cũng chính là sự vạn bất đắc dĩ. Bác năm nay hơn

bốn mươi tuổi đầu mà động có rước là bác phải cầm tán hay khiêng kiệu với bọn mục đồng: động có

quan về là bác đã phải thân ra dọn đường, rẫy cỏ dưới con mắt hỗn xược của mộ tanh quản xã chỉ lớn

bằng chạc con bác [103, tr. 612].

Ngoài ra, để dân làng thấy rõ hơn tầm quan trọng của người có chức có quyền trong thôn ổ, bọn

quan viên còn bày vẽ rất nhiều trò. Chúng sắp đặt thứ tự đâu ra đấy hẳn hoi: “Chính tuy đã nhiều tuổi

nhưng vì vừa mới bầu xã nhưng được hơn tháng, nên đi sau cùng lẫn với đám xã tí nhau” [103, tr.

621], “Xã Chính ngồi chiếu cuối cùng. Xã Bửng, xã Bật ngồi chiếu thứ ba vì hai anh bầu xã trước”

[103, tr. 647]. Sự sắp đặt này đã khiến không ít người nhà quê chẳng tiếc tiền. Họ chỉ mong có thể mua

được cái chức: “Trong làng cốt có danh vọng là đủ, sau này nhờ trời con cái ông nối được nghiệp bố

thì bốn đời hào dịch rồi đấy. Tiền của nào bằng” [103, tr. 606]. Thậm chí, nhiều nhà giàu có còn mua

chức cho con khi đứa trẻ ấy đang nằm trong bụng dù chẳng biết nó là trai hay gái - “Này, lý Mẫn thôn

Trung chứ ai? Cũng bầu “non” đấy, bầu ngay khi hắn còn trong bụng mẹ” [103, tr. 702].

Cứ càng nhiều người chịu mua chức dịch, quan viên càng kiếm được nhiều tiền, được nhiều bữa

rượu thịt. Tuy vậy, bọn này rất khôn ranh. Ngoài miệng chúng luôn nói tránh. Nghe chúng nói như thể

trong cuộc mua bán này, người được lợi không phải là chúng: “Các anh ra làm việc vào khóa này thì

may lắm đấy. Mỗi anh chỉ bỏ có ba trăm trong ba năm, tức mỗi năm có một trăm để bù vào việc thuế

má, chứ từ xưa đến nay làm được cái lý thôn phải hàng nghìn là ít” [103, tr. 906].

Với người có của ăn của để, việc bị các cụ dỗ dành hay tự ý mình bỏ tiền ra mua lấy cái chức để

được mở mày mở mặt với làng với xóm có lẽ không khó mấy. Nhưng với những người cơm chỉ đủ no,

áo chỉ đủ lành, có được ít tiền phòng thân quả thật sẽ vô cùng khốn đốn. Không nghe sẽ không xong

với các cụ vì từ trước đến nay luôn luôn vẫn là “phép vua thua lệ làng” nên chẳng ai dám cãi lời các

cụ: “Bu nó ạ, không khéo họ lại buộc vào mình, bắt ép bầu xã nhưng cho thằng Chốc”. Vậy là cái lệ

ấy, đời này sang đời khác, do có điều kiện nên vẫn cứ bám chặt lấy người dân quê, làm cho họ có

muốn ngóc đầu lên cũng không nổi.

Hủ tục được hình thành từ trong đời sống con người và tác động lại chính con người. Từ trước

đến nay, có mấy ai thoát ra khỏi sự tác động trở lại của hủ tục. Tiểu thuyết viết về phong tục của các

nhà văn Tự lực văn đoàn do đó đã không chỉ phản ánh hủ tục. Tác phẩm của họ còn chỉ ra những ảnh

hưởng hủ tục đối với con người. Ở đây chúng tôi muốn nói đến sức cám dỗ của chức tước, của danh

vọng trong tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng.

Vì ở làng, “Giàu có đấy, người ta cũng mặc. Mình không có chức tước, ngôi thứ gì là họ khinh

như khinh mẻ ngay” [50, tr. 93], Nga lại là con một quan lớn nên nàng không thể chịu thua ai. Nàng

khuyên chồng (An) tiếp tục việc học để khi An thi đậu tri huyện, nàng sẽ được lên chức bà huyện. Khi

ấy nàng tha hồ mở mày mở mặt với hàng xóm láng giềng, và đặc biệt là được ngang hàng với chị

Phụng của nàng. Hai tiếng “bà huyện” có một mãnh lực ghê gớm. Nga không những chẳng kể đến dự

định sống của An, mà nàng còn “quyết hy sinh hết mọi sự, cả ái tình chuyên nhất của chồng, cả hạnh

phúc gia đình” [50, tr. 162] chỉ để đổi lấy cái danh được là vợ quan. Nga có biết đâu vì cố theo đuổi

cái danh ấy nàng đã tự đánh mất chính nàng và làm khổ người chồng. Cuộc sống nhàn hạ, hạnh phúc

của hai vợ chồng khi xưa không còn nữa. Thay vào đó, nàng phải một mình bươn chải kiếm tiền chu

cấp cho việc học của An. Lúc An ra làm quan cũng là lúc Nga không còn giữ được nhân cách chính

mình. Nàng phải nhẫn nhục cầu cạnh các bà vợ quan lớn để con đường hoạn lộ của chồng mau tiến.

Trước kia, khi khuyên An học làm quan, nàng chỉ nghĩ đến danh tiếng. Nay đồng lương ít ỏi không đủ

chi tiêu khiến nàng tự nhiên nhận những món tiền lễ quan. Về phía An, từ lúc nghe lời vợ và chú đi học

làm quan là lúc chàng rơi xuống ngõ thẳm cuộc đời. Ước mơ trở thành một người chủ trang trại bị

chôn vùi. An không có thú làm quan do đó chàng trốn chạy hiện thực bằng cách vùi đầu đọc sách. Đời

An như thế có khác gì đời bỏ đi? Chàng sống và làm việc như một cái máy, không tình không cảm.

Tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng đã đặt ra vấn đề khiến người đọc không thể không suy nghĩ.

Trong cuộc sống nếu ai cũng chạy theo cái danh cái tiếng thì xã hội này sẽ có không biết bao nhiêu con

người rồi đây tha hóa như Nga và sống mòn như An? Chúng ta có thể có được cuộc sống vui vẻ thoải

mái không khi suốt ngày chỉ quanh quẩn nghĩ về ngôi cao chức trọng? Người có thì hả hê kêu ngạo

trong chiến thắng, kẻ không sẽ khổ sở vì bị khinh khi dè bĩu. Bao mâu thuẫn gia đình, làng xóm cũng

từ đấy mà ra: “Anh còn trẻ tuổi không biết gì đến việc hương đảng, chứ tức lắm kia. Họ Hoàng từ xưa

có khoa mục khoa miếc gì đâu, thế mà nay nó chễm chệ ngồi ăn tiên chỉ. Còn họ nhà ta thì ngày xưa

thời nào chẳng có ít ra là một ông cử, thế mà nay anh lại khoa bảng xuất thân (…) Để thế nào ngôi

tiên chỉ vào tay người khác được (…) Nếu anh không kiện, thì tôi kiện, danh dự là danh dự cả họ, tôi

có quyền kiện” [50, tr. 216].

“Vô vọng bất thành quan” nên đừng tưởng cứ bỏ đủ tiền mua nhiêu, mua xã là được trở thành

nhiêu thành xã ngay. Ngày xưa, mua xong chức nhiêu chức xã người mua phải có cỗ bàn mời bọn quan

viên. Chức nhỏ họ mời thôn, chức lớn họ mời làng. Mọi việc dường như đều đã được quy định thành

phép thành tắc nên ai ai cũng rõ: “Trong khi ấy, vợ chồng nhà xã Chính, bây giờ là lý Chính, đương

dọn dẹp, sửa soạn để sáng hôm sau làm rượu mời thôn. Mời thôn thôi, vì từ lý trưởng trở lên mới

được phép mời làng” [103, tr. 909]. Không làm đúng quy định sẽ không xong với các cụ nên người ta

dặn dò nhau rất kĩ: “Sáng mai, lúc quan vơn hàng thôn đến, chú phải ra đến tận cổng, vái từng ông

một, chú nhớ cả đến ông xã mình cũng phải vái tuy mình hơn người ta. Tuần giầu nước chú phải đứng

ra mời từng bàn. Cần nhất là lúc ăn uống chú phải mời mọc săn sóc đến chỗ các cụ luôn (…) Dạo nọ,

anh quản Hội chỉ vì thiếu mấy cổ tổ tôm mà người ta nói cho đáo để” [103, tr. 910]. Con lợn phải béo,

mâm cỗ không được để thiếu món này thừa món kia, phải có cua luộc với khúc cá rán trông mới nổi,

… Tóm lại, chủ nhà tuyệt đối không được để sơ suất bất cứ một điều nhỏ điều lớn nào: “Tôi không soát

lại mà chả chết à!” [103, tr. 911]. Chỉ riêng các cụ và những ông cán ông lý là tha hồ sướng. Rượu thịt

ê hề, tổ tôm thuốc phiện thâu đêm. Hết chuyện trò rôm rả, các cụ lại chuyển sang ngâm ngợi:

Ăn uống no say, các ông cán xã ngất ngưởng ra về, chỉ còn các ông cựu ở lại với ông phó hội.

Họ chia thành hai phái: phái tổ tôm với phái thuốc phiện (…) Tuy rằng hai phái mà phái nọ kiêm lẫn

phái kia, ông trong phái tổ tôm thỉnh thoảng chạy sang phái thuốc phiện làm vài khói, ông trong phái

thuốc phiện thỉnh thoảng chạy sang phái tổ tôm ngồi chầu rìa hoặc cầm bài hộ.

Rượu làm cho người ta điên rồ, tàn bạo thì thuốc phiện trái lại, làm cho người ta trở nên thâm

trầm, hòa nhã. Vì thế ban nãy các cụ nói nhiều thì bây giờ các cụ nói ít và nói toàn những câu triết lý,

mà triết lý của các cụ chẳng qua khỏi “dĩ nhàn vi quý” [103, tr. 912 -913].

Bữa tiệc ngày xưa ở thôn quê đa số đều linh đình như thế cả. Nhà nào nếu có kết thúc sớm cũng

phải hết một ngày “Mãi xế chiều các ông mới đứng dậy, trở ra về. Ông nào cũng tươi cười vui vẻ”

[103, tr. 914]. Mà người nhà quê thì đâu chỉ có khao nhiêu khao xã. Người khao thi đỗ, người khao

nhậm chức, người khao đi làm quan, người khao lão. Giỗ chạp, một năm mỗi nhà lại hơn chục cái

“Loan tính ra trong một họ Thân mỗi năm gần ba mươi cái giỗ” [101, tr. 95]. Ma chay cưới hỏi nữa.

Ôi thôi! không sao kể xiết. Ai cũng như ai, nhà nào cũng như nhà nấy. Thử hỏi có tiền của nào làm ra

đủ để chi dùng cho đám tiệc mà họ không phải bán ruộng bán vườn?

Hãy nói bảy ông lão sáu mươi trong thôn Tiền của ông thôi. Theo đúng lệ, mỗi ông phải

“sắng” một tiệc rượu mời làng, một tiệc rượu mời thôn, một tiệc mời tư văn, một tiệc mời tư vũ, một

tiệc mời khu xóm, một tiệc mời họ. Sáu tiệc ấy, chóng ra mỗi ông cũng phải làm trong ba hôm. Và

muốn được tươm tất, mỗi ông phải tốn ít ra mười lăm mười sáu con lợn, ngót hai trăm thúng gạo, vừa

nếp vừa tẻ, hơn hai trăm chai rượu, một cót chè tươi, hàng mớ cau, hàng thúng trầu không. Ông nào

muốn sang lại còn thêm vài chục bao thuốc lá, vài chục gói chè tàu [103, tr. 640].

Khốn khổ hơn nữa là tâm lý người dân quê. Dù không nói ra nhưng ai cũng không muốn vì nhà

mình nghèo sinh ra thất lễ. Trong nhà, con cái họ có thể thiếu cơm ăn nước uống nhưng với khách

khứa họ đối đãi đâu ra đó, để bị người này người nọ chê là không được. Đám tiệc nhà quê do vậy luôn

luôn được chuẩn bị thật công phu và chu đáo:

Mùng sáu tháng giêng sang năm là ngày ông lý nhà bà lên lão sáu mươi, một ngày can hệ, to

tát, long trọng nhất của một đời người chức dịch trong thôn ổ. Nói là ngày mùng sáu tháng giêng, chứ

thực thì ngày ấy kéo dài thành ba bốn ngày; có khi năm sáu ngày tùy theo cái lão to hay nhỏ của nhà

chủ. Vậy bà không thể dửng dưng với ngày ấy được. Bà phải sắp sửa từ bây giờ để được sẵn sàng, đầy

đủ. Bà phải nuôi sẵn sáu con lợn, vụ cám cho béo quay. Bà phải tậu vài ba con trâu (…) Bà phải đong

hàng cót thóc trữ sẵn [103, tr. 862].

Ai cũng tưởng bà lý yêu quý chồng hay ông lý là một người đàng hoàng tử tế nên bà phải chịu

mất nhiều công sức, tiền bạc để lo cho cái ngày ông lên lão sáu mươi. Nhưng tất cả đều không đúng.

Sở dĩ bà lý hoang phí như thế vì bà không muốn bị người ta xem thường bà, không muốn nhà bà kém

những nhà khác:

Ôi chà! Cứ kể bà còn phải sắm sửa “này khác, các thứ” nhiều lắm, mất có hàng bảy tám trăm

một nghìn. Bà không thể tùng tiện được, dẫu bà không ưa gì cái tính liều lĩnh, bạt mạng, thờ ơ, ích kỷ,

lường lật của ông lý nhà bà. Ghét thì ghét, bà không khi nào chịu để mang tiếng là vợ một ông cựu có

vai vế trong thôn mà lại kém người đủ mọi vẻ. Không, hết vốn này, bà gây vốn khác, chứ kém người,

thì bà nhất định không chịu kém. Bao giờ lo xong cái việc to tát ấy, bà sẽ thảnh thơi và ông lý nhà bà

sẽ được tôn trọng lên bậc cụ, dù tư cách, tính hạnh ông không đáng bậc cụ chút nào, dù ông chẳng làm

được trò trống gì cho làng nước [103, tr. 862].

Ngàn đời nay lối sống của người dân quê ta cứ thế đấy. Họ so sánh bữa tiệc nhà này với nhà kia.

Họ ngợi ca, nể trọng nhà nào có đám tiệc được tổ chức sang trọng linh đình. Những nhà nào vì nghèo

khổ thiếu thốn để lễ nghĩa kém rình rang luôn bị mang tiếng từ đời này sang đời khác. Nhà này muốn

bằng nhà kia, người này muốn hơn người nọ … Do đó, đám tiệc ở thôn quê cứ được tổ chức ngày một

linh đình hơn, bài bạc thuốc phiện diễn ra thâu đêm suốt sáng, từ ngày nọ sang ngày kia. Hậu quả sau

nhiều lần tiệc tùng rình rang dĩ nhiên là cuộc sống người dân quê vốn đã nghèo càng nghèo thêm.

Thậm chí, nhiều người nhà quê vì đám tiệc đã phải bán cả ruộng (xã Chính – Con trâu), dỡ cả nhà (ông

Phúc – Cỗ oản tuần sóc), bỏ cả làng đi làm vú già (bà Lũy – Góc chiếu giữa đình) …

Ăn uống đình đám từ lâu đã trở thành một thông lệ của người nhà quê “Ở thôn quê, ăn uống là

sự đầu tiên. Muốn gì thì gì, hễ không có ăn thì việc không thành”. Phạm lệ làng – họ ăn vạ, mua nhiêu

mua xã – họ ăn khao, vào ngôi – họ ăn đám vào ngôi, cưới xin và cả đến tang ma – họ cũng ăn …

“Chàng không thể hiểu được tâm tính cha giữa mấy hôm tang me mẹ, lấy làm kinh ngạc khi thấy cha

bình tĩnh, lạnh lùng, thản nhiên bàn đến các công việc mời làng, mời xóm, khi thấy cha cười đùa, nói

chuyện với bác, chú và gào thét, quát mắng đầy tớ ầm ĩ” [50, tr. 11]. Từ người giàu đến người nghèo,

từ trong thôn đến ngoài làng không nhà nào là không từng tổ chức một bữa tiệc: “Bàn ghế ấy, ông Án

đã cho đi mượn ở khắp các nhà trong làng, và người ta sắm ra hình như mục đích cũng chỉ để cho

mượn lẫn nhau, mỗi khi có cần đến. Mà họ cần đến luôn: Hết ăn khao ăn mừng, đến ăn đám, ăn giỗ,

quanh năm chẳng mấy ngày trong làng không có việc ăn” [50, tr. 66]! Khó có thể tin nhưng tất cả điều

đó là sự thật. Tuy vậy, những trang văn viết về hủ tục của Khái Hưng và Trần Tiêu không làm chúng ta

trách cứ người xưa. Phong tục tập quán buộc con người ta như vậy. Chúng ta đọc là để hiểu và thương

ông cha ta hơn, thương những người dân đen đói cơm lạt mắm cùng những lề thói lỗi thời trói buộc

cuộc đời họ.

Song song với việc phản ánh những vấn đề phong tục tập quán thuộc về lĩnh vực của đời sống

xã hội, các nhà văn Tự lực văn đoàn còn đi sâu khai thác sự ảnh hưởng của phong tục đối với đời sống

tinh thần của người Việt. Do đó, công việc tiếp theo của chúng tôi là tập trung tìm hiểu những biểu

hiện phong tục trong phạm vi đời sống tâm linh.

2.2. Phong tục trong đời sống tâm linh

Tùy vào cách hiểu của mỗi người, hai chữ tâm linh đã được định nghĩa theo nhiều cách khác

nhau. Ở đây, chúng tôi hiểu tâm linh theo kiểu chiết tự từ hai chữ tâm niệm và linh thiêng. Tức tâm

linh chính là niềm tin của con người vào sự linh thiêng.

Nếu ta tạm thời chia đời sống con người ra làm hai nửa: nửa vật chất và nửa tinh thần thì khi ấy

tâm linh sẽ thuộc về nửa đời sống tinh thần. Trong cuộc sống hàng ngày, đời sống tâm linh của con

người có các hình thức biểu hiện ra bên ngoài như hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian và tín ngưỡng

tôn giáo. Tuy nhiên, trong hai hình thức biểu hiện này, hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian là hình

thức có tính dân tộc rõ nét nhất.

2.2.1. Tái hiện sinh động những hình thức tổ chức nghi lễ truyền thống

Nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới, thời tiết diễn biến thất thường. Người Việt ta lại chủ yếu

sống bằng nghề trồng lúa nước. Trình độ hiểu biết về khoa học còn thấp nên cuộc sống của con người

lúc bấy giờ lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Tâm lý phụ thuộc, ý thức tôn sùng và thái độ hòa hợp với

thiên nhiên vì vậy trở nên rất phổ biến.

Cư dân Việt xưa đã không chỉ phụ thuộc vào một hai hiện tượng riêng lẻ mà cùng lúc họ phụ

thuộc vào tất cả: trời, đất, nắng, mưa … Đối với họ, đây là những lực lượng siêu nhiên chứa một sức

mạnh huyền bí, có khả năng chi phối đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người. Tục thờ cúng, lễ tế

trời đất, thần thánh chính là đã được xuất phát từ niềm tin tưởng này nhưng chúng tôi chỉ muốn nói đến

hai trong những hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Việt xưa đã đi vào tác

phẩm văn học nói chung và tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn nói riêng, nghi thức buổi lễ cầu đảo và

nghi thức đón ông thủ chỉ làng.

Lễ cầu đảo là một trong những hình thức sinh hoạt qua đó giúp con người được tiếp giáp với

thần linh. Sơ khởi của lễ cầu đảo là cầu đảo để mong âm phù. Tuy nhiên, lâu dần, cứ mỗi khi gặp vấn

nạn gì, người Việt xưa lại tổ chức lễ cầu đảo. Có lễ cầu đảo xin thần giúp sức đánh giặc. Có lễ cầu đảo

xin mưa thuận gió hòa, cầu phúc cho dân chúng và cũng có lễ cầu đảo được lập ra để giải oan, chiêu

hồn người đã khuất … Tất cả những buổi lễ cầu đảo này đều đã được đi vào văn học như: Nhất Dạ

Trạch truyện, Kim Quy truyện, Bảng nhãn họ Hà, Miếu Phạm Nhan, Nam Xương nữ tử truyện, Đoàn

phu nhân liệt truyện ….

Năm ấy, ở làng Cầm “Từ rằm tháng hai sang đầu tháng ba, lại suốt từ tháng ba sang tháng tư,

không một giọt mưa”. Theo tục xưa, làng được quan trên cho phép tiến hành lễ cầu đảo xin trời làm

mưa. Tác giả Con trâu đã dành hẳn bốn trang giấy khổ 16 x 24 để miêu tả lại một cách khá kỹ lưỡng,

từ lúc bắt đầu cho đến khi buổi lễ cầu đảo kết thúc.

Bắt đầu nhà văn tả nghi thức tế rượu: “Trước khi xin âm dương, ông tế một tuần rượu (…) Cứ

nhìn dáng điệu ông lom khom, đi đứng khép nép trong lúc tế, đức ông ngài cũng rủ lòng thương rồi”

[103, tr. 607]. Sau nghi thức tế rượu, viên đại bái gieo đồng trinh xin rước thần: “Tế xong, ông cúi rạp,

hai tay giơ ra cầm lấy cái đĩa đựng hai đồng trinh Khải Định để trên nhang án. Ông quỳ và kính cẩn

nâng cái đĩa lên ngang trán rồi ông lẩm nhẩm khấn một thôi dài. Đoạn ông hạ thấp đĩa xuống trước

ngực, cầm hai đồng trinh gieo” [103, tr. 667]. Nếu thần “đồng ý”, nghi thức lễ rước kiệu sẽ được tiến

hành: “Được lệnh các cụ, bác giơ trống ra trước mặt đánh ba hồi chín tiếng. Tức thì, cờ quạt, tàn lọng

giải ra đỏ rực cả lối đi từ cổng chùa đến tận đường cái. Ông Hiểu vẫn mũ áo chỉnh tề, hai tay kính cẩn

nâng cái hòm sắc của ngài đặt lên kiệu bát cống. Xã Chính đánh một hồi ba tiếng. Dứt tiếng thứ ba,

tám anh ghé vai, nhấc bổng kiệu lên rất đều đặn, ngay ngắn vì các anh kiêng kiệu đã nhiều lần nên đã

thạo lắm. Trống cà rùng, trống cái, trống con, bát âm nổi dịp. Rồi tiếng loa giục, tiếng tù và inh ỏi.

Theo tôn ti trật tự, đức ông là bực thượng đẳng đi đầu tiên. Đi sau cùng là kiệu đức thánh thôn Trung,

vì ngài là đức thánh bà, lại mới được phong trung đẳng. Kiệu ngài lúc nào cũng đi bước một. Ngài

không bay cao, không xoay, không lùi, nhưng ai dám bảo ngài không thiêng. Ngài cũng thiêng lắm

chứ. Chỉ vì ngài thương hại tám cô chân kiệu của ngài, tám cô gái quê nhu mì, ăn vận lối tân thời:

quần trắng, áo hồng, khăn vành giây màu lam thẫm. Ngài thương hại cả đến những các cô theo hầu

ngài: bốn cô đội hòm khăn chầu áo ngự, hai cô cầm lẵng hoa, một cô đội hòm lồng kính trong đựng

những đôi hài xinh xinh thêu chỉ vàng chỉ bạc” [103, tr. 668 - 669].

Kiệu đi được một đoạn, tác giả quan sát từ xa:

Đám rước đi dài hàng cây số. Đứng xa, trên một nơi cao nhìn xuống, trông như thể một con

tràng xà thêu bằng chỉ sặc sỡ trên nền nhung xanh. Những chiếc lọng nhô lên như hàng nấm. Thỉnh

thoảng một tràng pháo nổ ran, làm lấp cả tiếng trống rước. Khói pháo bay tỏa ra như mây mờ [103, tr.

669]…

Tóm lại, Trần Tiêu đã ghi lại thật tỉ mỉ, chính xác mọi hoạt động đã diễn ra trong buổi lễ cầu

đảo của làng Cầm. Đọc tiểu thuyết Con trâu, chúng ta thấy nào cờ, nào lộng, nào trang phục buổi lễ,

nào âm thanh kèn, trống …. như đang hiển hiện trước mắt từ gần cho đến xa, từ trên xuống dưới. Tuy

không tận mắt chứng kiến nhưng qua bốn trang viết của Trần Tiêu, người đọc vẫn có thể hình dung

được về một trong những hình thức sinh hoạt nghi lễ dân gian khi xưa của làng quê Bắc bộ - một vùng

đồng bằng giàu truyền thống về thờ cúng các lực lượng tự nhiên.

Theo thống kê, hàng năm trên cả nước ta ít nhất cũng diễn ra hàng trăm ngàn lễ hội lớn nhỏ.

Đặc biệt vào dịp xuân, lễ hội hầu như được tổ chức khắp mọi nơi. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa

xã hội của một tập thể, một địa phương hay có khi của nhân dân trong cả nước. Như những thước phim

tài liệu quay chậm, Con trâu của Trần Tiêu đã tái hiện lại không khí ba kỳ lễ hội vào những ngày đầu

xuân tại làng Cầm. Mồng hai tết là lễ đón ông thủ chỉ làng “Từ xưa đến giờ, hôm mồng hai tết vẫn là

hôm dành riêng cho ông thủ chỉ thôn làm cỗ mừng thôn” [103, tr. 619]. Đến mùng sáu, làng có ngày

hội quan lão “Mồng sáu tháng giêng, ngày hội “quan lão”, là một ngày vui vẻ, sầm uất, náo nhiệt nhất

làng Cầm” [103, tr. 625]. “Rồi đến ngày mồng chín, một ngày tấp nập nhất trong thôn Tiền; lúc này

ông đại mới thật là ông đại” [103, tr. 641]. Mỗi lễ hội đều thể hiện những nét văn hóa độc đáo riêng và

nhà văn Trần Tiêu của chúng ta đã say sưa ghi hình lại tất cả.

“Kính lão đắc thọ” từ lâu đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của người Việt. Thông thường mỗi

khi làng mở hội, các bô lão sẽ tụ hội ở chùa hay một nhà đương nào đó để làng đem cờ quạt và phường

bát âm đến rước ra đình. Làng Cầm không như vậy. Làng mở riêng ngày Hội quan lão vào ngày mùng

sáu tháng giêng hàng năm để vừa tôn vinh các cụ vừa để cả làng được dịp vui chơi. Ai ai cũng nô nức

và chờ đợi. Văn miếu thờ đức Khổng ngày thường vắng vẻ yên lặng, đến ngày hội quan lão “bỗng

thành một nơi tụ họp cả bốn thôn: Thượng, Trung, Tiền, Hạ, chỗ hẹn hò của đủ hạng người: già, trẻ,

trai, gái, trên từ hàng lý, phó, dưới tới hàng cán, xã cho chí bạch đinh. Trong các ngõ xóm, trên các

đường hẻm, đường cái từng lũ nối đuôi nhau đi cả về một phía như các dòng sông chảy ra biển. Trong

văn chỉ, ngoài sân văn chỉ, chung quanh văn chỉ người đi lại đông như kiến” [103, tr. 625].

Hội quan lão được bắt đầu với nghi thức đón rước ông thủ chỉ của làng: “Một lát sau (…) hiện

ra lá cờ đầu bằng vóc đỏ cạp các thứ vóc xanh, vàng, tím và mép viền trắng. Trên nền vóc đỏ thêu bốn

chữ kim tuyến: “Lão thần trí sĩ”. Đám rước được tổ chức thật trọng thể. Theo lệ, lão một trăm tuổi đi

võng điều che bốn lọng xanh, lão chín mươi tuổi đi võng điều che hai lọng xanh. Lão tám mươi đi

võng xanh đòn cong một lọng. Lão bảy mươi đi võng xanh đòn ống một lọng. Trai tráng cầm cờ

khiêng võng đều nón dấu áo nẹp: “Tiếp đến mười lá cờ nỉ của làng hầu hết đã cũ. Trên nền nhiều lá

những lỗ dán nhấm lấp lánh như sao, mỗi khi cờ phất phới bay trước gió. Những người cầm cờ mặc

toàn áo nâu đỏ và quấn xà cạp đỏ (…) Rồi đến bốn anh phường trống cà rùng đứng đôi một đối diện

nhau. Chúng đều mặc áo lụa đỏ, thắt lưng xanh lụa ra ngoài. Mỗi anh đeo một cái trống ngay giữa

bụng và ưỡn người, khuỳnh tay ra đánh. Tiếp đến tám anh phường bát âm, một anh cầm trống khẩu,

một anh cầm bát bửu, hai anh cầm kiếm. Họ mặc một loạt áo lương đen, thắt lưng điều (…) Một ông

quan, râu bạc phơ, mặc triều phục, đội mũ cánh chuồn, cầm hốt ngà, ngồi xếp bằng tròn trên chiếc

võng điều. Hai anh nông phu lực lưỡng mặc áo nâu đỏ đặt trên vai chiếc đòn đầu rồng đuôi tôm sơn

son thiếp vàng, giữa cong lên như cánh cung. Hai bên, bốn chiếc lọng xanh chúc đầu vào nhau để che,

tuy trời râm mát. Theo sau, mấy ông đội mũ tế, mặc áo thụng xanh có bối tử. Chừng đó đều là những

ông cử, ông tú, ông hàn. Kế đến một lũ “tiểu mũ” đội hòm mũ áo và đi đoạn hậu một tràng dài người

[103, tr. 628].

Buổi lễ quả đã được miêu tả lại khá sắc nét. Chúng ta thấy nhà văn Trần Tiêu như đang mục

kích đâu đó tại trung tâm văn hóa làng Cầm. Xuyên suốt buổi lễ, các chi tiết từ nhỏ cho đến lớn, nhà

văn không để sót chi tiết nào. Tất cả đều được ông ghi hình thật kỹ lưỡng. Không chỉ có nghi thức rước

ông thủ chỉ long trọng, người đọc còn thấy cả cảnh dân làng tụ tập đông đúc xô đẩy nhau; không chỉ có

tiếng trống, tiếng tù và inh ỏi mà còn có cả âm thanh của “tiếng reo, tiếng chửi, tiếng khóc loạn xạ”.

Không khí ngày hội dường như đã bao trùm khắp nơi nơi. Dân làng Cầm, người lớn tuổi, có chức có

quyền họ tập trung tại cửa Khổng sân đình; lớp thanh niên trai trẻ chúng rủ nhau từng đám tổ tôm, hát

hò to nhỏ … Một không khí lễ hội thật đông vui, náo nhiệt. Náo nhiệt đến mức người trực tiếp chứng

kiến nó là nhà văn Trần Tiêu khi viết về cuộc sống người dân làng Cầm đã không thể bỏ qua. Và chúng

ta hôm nay – những người đã từng đọc Con trâu nhớ lại nhớ về làng Cầm với ngày Hội quan lão được

tổ chức vào mùng sáu tháng giêng hàng năm.

2.2.2. Mê tín dị đoan

Trong đời sống tâm linh của con người thật khó để phân biệt ranh giới rạch ròi giữa niềm tin

thiêng liêng và óc mê tín dị đoan. Sự phân chia của chúng tôi ở đây chủ yếu được dựa trên cách hiểu

niềm tin thiêng liêng là những gì mang đến sự phong phú cho đời sống tinh thần. Ngược lại, mê tín dị

đoan là thái độ tin một cách mù quáng, mê muội bất cứ một điều gì, tin vào những việc dị kỳ không thể

có được. Người mê tín dị đoan có thể gây phương hại vừa cho bản thân vừa cho xã hội. Do đó, ai cũng

muốn loại trừ mê tín dị đoan ra khỏi đời sống xã hội. Nhưng chạm đến nó là chạm đến một vấn đề đặc

biệt nhạy cảm, và cần phải hết sức khéo léo. Dù vậy, các nhà văn Tự lực văn đoàn không ngần ngại.

Tác phẩm của họ đã lên tiếng cảnh báo hậu quả tai hại của đầu óc mê tín đang rất phổ biến trong một

bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam.

“Tiên tích đức hậu tầm long”, người Việt tin rằng mọi sông núi gò bãi đều do tác động của các

vì sao. Có sao tốt sao xấu nên cũng có nơi thế đất tốt nơi thế đất xấu. Ở được nơi thế đất tốt con cháu

có phúc đức, phát đạt và ngược lại, thế đất xấu, vị trí của tổ tiên không được đắc địa hay đặt ở vị trí

khuyết hãm, sự nghiệp sẽ bị hủy hoại: “Bác để ý trông, văn chỉ thờ đức Khổng ta làm ngay trên đầu

rồng, cái ao làng với cái giếng đằng trước văn chỉ là hai mắt rồng. Chỗ phình ra, ngay chỗ gốc cây đa

là hòn ngọc. Nhờ hòn ngọc ấy mà làng ta lắm khoa bảng, lắm quan to đấy nhé!” [103, tr. 723]. Đồng

thời, người xưa cũng tin rằng sẽ có một người nào đó có tài năng phi thường, ngẫu nhiên được trời đất

phú bẩm cho, hay người ấy tự tạo ra điều kiện để tiếp nhận năng lượng vũ trụ. Người này sẽ có khả

năng thấy được “long mạch” tốt xấu. Việc thay đổi hậu vận của bất kỳ ai trong xã hội do đó được cho

là nhờ vào những ông thầy địa lý này: “Rồi năm kia, trong khoảng tháng ba, cụ án bỗng tự nhiên đau

mắt, mỗi ngày một nặng. Rồi ông cả, ông hai, ông ba, cả nhà cùng đau mắt. Nếu cùng ở một nhà thì

còn có thể bảo rằng lây. Đằng này mỗi ông một nơi xa nhau hàng dặm. Xem bói, thì ông thầy bảo

động mộ tam đại (…) Thế rồi lão thấy Tầu cho bốc mộ tam đại nhà cụ án đi nơi khác. Chưa đầy một

năm, cụ án thụ bệnh, quy tiên. Vài tháng sau cụ bà nối gót cụ ông lên chầu trời. Năm sau đến lượt ông

cả. Ông hai tự nhiên bỏ hiệu đi đâu mất. Còn ông ba đâm ra chơi bời. Bao nhiêu ruộng nương bán

sạch. Đến nay túng quá đến nỗi ông phải nậy cả gạch sân đem đi bán” [103, tr. 720].

Thường thì mỗi khi trong gia đình gặp chuyện không may hoặc có người thân đau ốm liên miên,

người ta rất hay đi xem bói. Nếu thầy bói phán là động mồ, động mả thì phải đi thăm mộ bố mẹ, ông

bà, cụ kị … xem có việc gì khác thường như rễ cây mọc đâm xuyên, hướng đất xấu …. để làm lễ tạ.

Sau đó, họ nhờ thầy địa lý tìm chỗ để di dời đi nơi khác với lòng tin làm vậy mọi chuyện không may sẽ

qua đi (Bác Chính – Con trâu).

“Bói ra ma quét nhà ra rác”, đã đi đến thầy bói thì ông nào cũng như ông nấy: “ Sau mấy lời

nói dựa và một vài câu bác cho là đúng, ông thầy xoay sang hậu vận, nịnh nọt, gãi vào chỗ ngứa cho

bác sướng. Rồi kết cục, ông ta bảo phải cất lại ngôi mộ thân sinh ra chồng bác và động mộ ông tam

đại, phải lễ ông thổ thần cai quản khu đất ấy” [103, tr. 686]. Như thế nhưng ai cũng tin. Họ cho lời

thầy là lời thánh, và tin vô điều kiện: “Miệng hố lấp đi rồi, trông chẳng khác một ngôi mộ mới. Hai bác

mừng rỡ, vui sướng như đứng trước cảnh giàu sang mới phát của ông cha nơi chín suối. Xã Chính

tưởng nhìn thấy những đoạn xương sáng dần. Và những bối tơ hồng đương nảy nở để rồi sau này kết

cả bộ xương rời rạc thành một vật kì dị. Và suốt từ dọc đường về nhà, bác yên lặng đi, mắt mơ mộng

một cảnh giầu sang” [103, tr. 729].

Một biểu hiện nữa của lòng tin vào thầy bà là việc chữa bệnh bằng bùa, phép. Trong suy nghĩ

của người xưa, khi trẻ ốm, bố mẹ nếu chạy chữa thuốc men không khỏi thì họ liền cho là đứa trẻ đã bị

thần thánh quở phạt, tà ma ám ảnh. Gia đình phải đi cầu cúng, xem bói để biết đứa trẻ đã bị thần thánh

nào quở phạt hay ma quỷ nào theo ám. Khi quẻ bói đã cho biết tại sao đứa trẻ đau ốm, bố mẹ phải đi

cúng các đền để tạ tội cho nó, hoặc xin bùa phép để trừ tà ma. Cúng bái xong, người ta lấy tàn hương

hòa với nước thải cúng cho đứa trẻ uống và cũng xin bùa dấu tại các đền điện mang về cho đứa trẻ đeo.

Người ta quan niệm trẻ có bùa đeo, tà ma trông thấy sẽ phải lánh xa: “Loan nhớ lại, hồi con mới ốm,

bà phán Lợi nghe lời thầy bói giao nó cho một thầy bùa (…) Sau thấy đứa bé một ngày một xanh xao,

Loan sinh nghi, đi hỏi dò chị em, mới biết phép chữa bệnh của bọn thầy bùa là cho uống tàn hương

nước thải và có khi lại dùng roi dâu để đánh đuổi tà ma ám ảnh, nghĩa là đánh người ốm” [101, tr.

81].

Tiếp nữa là việc cầu tự. Cầu tự là một tập tục có lịch sử lâu đời ở Châu Á. Đây là một tập tục

thuộc về đời sống tâm linh được lưu truyền trong dân gian nhằm hy vọng về tương lai con cái. Theo

quan niệm xưa, có con trai là điều rất quan trọng. Ngoài việc có sức lao động, còn là sự kế thừa dòng

dõi, gia tộc. Những gia đình không sinh được con hoặc chỉ có một dòng con thường tìm cách cầu tự.

Theo nguyên nghĩa, cầu tự là cầu thần, Phật xin cho đẻ được con. Đã có nhiều truyền thuyết về các

nhân vật lịch sử có thật từ thời Ngô, Đinh, đến thời Lê được sinh ra do bố mẹ đi cầu tự ở chùa, quán.

Ngày nay cũng vậy, chùa quán ở nước ta trong các dịp lễ hội cũng là một nơi mà các vợ chồng thường

hay đến để cầu tự. Tại nơi cầu tự, sau khi lễ bái, ai muốn sinh con trai thì xoa đầu hòn núi cậu, ai muốn

sinh con gái thì xoa đầu hòn núi cô. Những cặp vợ chồng có lòng cầu cúng lễ bái thành khẩn thần, Phật

sẽ động lòng thương mà cho các Cô, các Cậu về làm con. Vợ chồng nào “Muốn có con mà không chịu

đến cửa thành thì đừng có hòng” [103, tr. 757].

Chị Bổng trong Chồng con lấy chồng đã lâu mà vẫn chưa sinh được con. Khao khát được làm

mẹ đã xui chị nghĩ đến việc cầu tự. Ban đầu chị gửi lễ nhờ người cầu hộ: “Nàng đã sang tận bên Họ,

tìm đến ông lang chuyên chữa về đường tử túc. Nàng đã nhờ ông khóa Vịnh vừa là họ ngoại, vừa là

thầy cúng, lần mò vào tận Hương Tích kêu cầu, xin dấu. Chẳng hội đền nào là nàng không ngầm gửi

tiền ông ta đi lễ hộ. Nàng mua cả thuốc Mường, thuốc Mán … Nàng đã xin sư cụ chùa Tiên nổi tiếng

về môn phù thủy một đạo bùa cầu tự buộc vào cổ yếm mà nàng có ý luồn trong áo để mọi người không

biết, sợ họ cười. Nàng đã đi xem bói và thầy bói đã bảo cho nàng biết rằng số nàng muộn màng, đến

năm hăm tám thì có con giai và sẽ con đàn cháu đống. Nàng vẫn bán tín bán nghi” [103, tr. 747].

Nhưng mẹ chồng chị vẫn chưa bằng lòng: “tao muốn mày phải thân chinh đi đến nơi đến chốn mà cầu

tự thì mới hiệu nghiệm. Hoặc chùa Hương hay đền Sòng, đền Kiếp hay là đền … đền gì gần Nam Định

ấy nhỉ?” [103, tr. 749]. Năm lần bảy lượt chị cũng định sẽ tự đi lấy nhưng rồi lại rụt rè, e ngại. Hội Phủ

Giầy mùng hai tháng ba năm ấy, tuy vẫn chưa hết ngần ngại nhưng bị “mẹ chồng, mẹ đẻ và chú bác, cô

dì giục giã, hết nói ngọt đến nói sẵng” nên cuối cùng chị cắp thúng theo mọi người đi cầu tự. Khó

khăn lắm chị mới đi được. Nhưng một điều lạ là “khi vào đền đức Thánh Mẫu thì tín ngưỡng của nàng

chú trọng cả vào đấy. Nàng đứng cạnh ông khóa, cúi rạp người xuống, chắp tay cầu khấn. Nàng cầu

khấn tha thiết, nồng nàn đến nỗi chị em khấn xong cả rồi, vẫn còn thấy nàng xuýt xoa mãi” [103, tr.

762].

Trong suy nghĩ người Việt, sinh đẻ là vấn đề vô cùng hệ trọng. Người phụ nữ từ lúc bắt đầu

mang thai đã phải kiêng kị nhiều thứ, vừa kiêng cho bản thân mình nhưng cũng vừa kiêng cho người

khác.Với quan niệm “sinh dữ, tử lành”, người xưa rất kị có người khác đến đẻ trong nhà mình vì coi đó

là điều không may. Phụ nữ sắp đến kỳ sinh nở, theo dân gian xưa thì “Con so về nhà mạ, con rạ về nhà

chồng”. Trường hợp nếu nhà có người trong họ hàng ở xa đến chơi, đến kỳ sinh nở mà về không kịp,

thì chủ nhà sẽ phải dựng tạm một cái lều ở ngoài vườn để sản phụ ra đó mà sinh, sau ba tháng mười

ngày người đó sẽ được đưa thẳng về nơi cư trú. Ở Nghệ Tĩnh, phong tục còn khắc nghiệt hơn vì ngoài

con dâu không ai được quyền sinh trong nhà. Do đó, con gái về nhà mẹ, nếu trở dạ, cũng phải ra túp

lều ngoài vườn hoặc vào chuồng trâu mà đẻ. Ngày nay, trình độ dân trí phát triển, xã hội không còn

những cách nghĩ này. Nhưng ở những vùng nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám thì đây là

điều có thật.

Sồi chuẩn bị sinh con đầu. Nghe có người dọa vào nhà thương thường bị mổ xẻ nên cô đòi

chồng đưa mình về nhà anh chị ở quê để được nhờ vả, nâng đỡ. Đến nơi, Mẫn vừa mở lời đã bị anh chị

từ chối thẳng thắn: “Ấy chết! Chú để thím đẻ ở đâu chứ chớ đẻ ở nhà tôi”. Anh chị họ cũng như những

người ở quê đều cho đây là điều đặc biệt kiêng kị: “Từ thượng cổ không có cái gì xúi quẩy, lụn bại

bằng trong nhà chứa một người đàn bà ở đâu đến đẻ. Táo bạo, liều lĩnh đến bực nào cũng không dám

để một việc xảy ra như thế” [103, tr. 866]. Van xin lạy lục chẳng ăn thua gì, lại bị đẩy ra đường, hai vợ

chồng đành dắt nhau định về nhà mẹ. Nhưng họ vừa đến quán Đất thì Sồi đẻ …

* * *

Mục tiêu chính được các nhà văn trong nhóm Tự lực nhắm tới để tấn công là đạo Khổng. Mê tín

dị đoan do đó, nếu được đề cập đến thì trong ba nhà văn phong tục Nhất Linh, Khái Hưng và Trần Tiêu

thì Trần Tiêu sẽ là người đề cập nhiều nhất. Trước hết, Trần Tiêu phụ trách mảng đời sống nông thôn.

Ngoài ra, nhà văn này còn không có lối viết gọn, rạch ròi như Nhất Linh, hay nhẹ nhàng chậm rãi như

Khái Hưng: “Lời văn của Khái Hưng có vẻ nhẹ nhàng ủy mị của một nhà thơ, thì trái lại, bút pháp của

Nhất Linh bao giờ cũng sắc sảo, gãy gọn và đanh thép” [117, tr. 49]. Lối viết truyện của Trần Tiêu tỉ

mỉ, pha chút hài hước. Đây là hai yếu tố để nhà văn có thể phê phán thành công đầu óc mê tín dị đoan

của người dân quê. Lễ cầu đảo được tổ chức thế nào, vì sao bác xã Chính nghèo đói chạy ăn từng bữa

lại dám bỏ ra cả khoản tiền bán ruộng để cất lại ngôi mộ cho cụ thân sinh, ông lý Khóa nói những gì

với bác Chính trai hay lý do nào Sồi chết, cách chữa bệnh của các ông lang, cách làm mẹo để người

phụ nữ sinh nhanh, …. người đọc đều có thể tường tận khi đọc hai tác phẩm Con trâu và Chồng con.

Tuy nhiên, chỉ những ai tinh ý mới nhận ra đây không phải là những ghi chép thông thường. Xen lẫn

giữa lớp từ ngữ, câu văn dùng để kể, để tả là không ít từ không ít câu được nhà văn dùng kèm theo với

một thái độ hài hước, mỉa mai. Tác phẩm của ông do đó có phê phán nhưng không hề gây cảm giác

khó chịu cho người trong cuộc. Hay nói khác hơn là tác phẩm của Trần Tiêu, một nhà giáo viết về

nông dân mà như chính người nông dân viết về cuộc đời mình. Tất cả sự việc đều được kể từ đầu cho

đến hồi kết thúc. Tốt hay xấu, hay hay dở, nhà văn để vấn đề tự nó sáng tỏ - Bác Chính đến lúc chết

vẫn mang theo ước mơ con trâu cái vì sau lễ cầu đảo “Những cây lúa gần chết khô giơ những bông

khẳng khiu. Hạt lúa thưa thắt không sức nặng để rủ xuống mặt đất. Đứng trên cao nhìn như một bức

thảm vàng lâu ngày đã mất tuyết phai màu” [103, tr. 671], hay “Từ ngày nàng đi cầu tự ở Phủ Giầy

đến tháng ba này vừa đúng hai năm mà vẫn chưa thai nghén” [103, tr. 762], …

* *

*

Những năm 1930 – 1945, viết về phong tục không phải chỉ có mỗi tiểu thuyết của nhóm các nhà

văn Tự lực văn đoàn. Nhưng nếu nói bao quát được nhiều vấn đề nhất, chúng tôi nghĩ rằng chỉ có sáng

tác của nhóm văn gia này. Nhất Linh, Khái Hưng chuyên về tầng lớp tư sản, tiểu tư sản với cuộc sống

nơi thị thành; Trần Tiêu có duyên với người nhà quê. Tác phẩm của họ lại có cả những sinh hoạt trong

đời sống xã hội, cả đời sống tâm linh. Phản ánh ca ngợi mỹ tục lẫn phê phán hủ tục. Hay nói cách khác

đi là những vấn đề liên quan đến phong tục tập quán đều được nhóm văn này miêu tả đầy đủ và gắn với

một thái độ cụ thể. Tiểu thuyết phong tục Tự lực văn đoàn, vì vậy, có thể nói là vừa đáp ứng được

mong muốn tìm hiểu về phong tục trong cuộc sống của nhiều tầng lớp xã hội vừa giúp người đọc nhận

định được trong những thói quen ấy, những thói quen nào vẫn còn mang giá trị văn hóa tốt đẹp, thói

quen nào đã trở nên lỗi thời cần phải loại trừ ra khỏi đời sống. Tóm lại, trong buổi giao thời của xã hội,

các nhà văn Tự lực văn đoàn với việc sáng tác những tiểu thuyết viết về phong tục tập quán đã “gây

nên” được “một nền luân lý”.

Chương 3

NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ PHONG TỤC

TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Phong tục tập quán là những điều rất đỗi quen thuộc trong cuộc sống thường ngày của con người.

Viết về phong tục sao cho hay cho hấp dẫn do đó không phải bất cứ ai cũng có thể làm được. Mỗi nhà

văn luôn cố gắng tìm đến những cách thể hiện khác nhau nhưng tất cả đều mong muốn tác phẩm của

mình đạt được hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Trong khi đọc những tiểu thuyết phong tục của các nhà

văn Tự lực văn đoàn, chúng tôi thấy ở họ có được một điểm nhìn, một cách phác họa nhân vật, cách

lựa chọn không gian – thời gian và một lối hành văn thật linh hoạt, sáng tạo.

3.1. Thế giới nhân vật phong phú, sinh động

Nếu khi sáng tác thơ trữ tình, nhà thơ chú ý nhiều đến việc thể hiện cảm xúc bao nhiêu thì ở thể

tiểu thuyết, nhà văn cũng dụng công bấy nhiêu để xây dựng nhân vật. Có thể có tên hoặc không tên, có

thể là một và cũng có thể là số đông, … nhưng nói chung trong tác phẩm tự sự không thể không có

nhân vật. Hay nói khác hơn, nhân vật chính là một trong những hình thức cơ bản nhất giúp nhà văn

phản ánh cuộc sống một cách hình tượng. Thông qua nhân vật, nhà tiểu thuyết luôn muốn thể hiện cho

được những cá nhân tiêu biểu trong xã hội cùng những quan niệm của mọi người xung quanh về cá

nhân đó. Từ hình dáng, lời nói, hành động, đến suy nghĩ trong đời sống hàng ngày của con người đều

được nhà văn thể hiện qua những nhân vật văn học. Mặc dù vậy, nhân vật trong tác phẩm nghệ thuật

vẫn không phải là bản sao từ cuộc sống. Tùy vào mục đích nghệ thuật, sở trường của người nghệ sĩ, họ

sẽ lựa chọn và xây dựng nhân vật theo những cách rất riêng. Tự lực văn đoàn cũng đã có một cách

chọn lựa và thể hiện nhân vật mang phong cách riêng của họ.

Một nhà văn lâu năm kinh nghiệm đã từng chia sẻ rằng: “Người viết tiểu thuyết thường phải

nuôi một nhân vật rất lâu trong trí óc, tình cảm của mình, cũng có thể ví như người đàn bà có thai, bao

nhiêu thức ăn của người mẹ, rút lại đều bồi đắp cho đứa con trong bụng. Cứ mỗi ngày một ít, người

viết văn dù làm gì, nhìn thấy gì, đọc được gì, cũng bồi đắp cho nhân vật của mình, đời sống nay gợi

lên đều này, mai gợi lên thêm một điều khác, dần dần nhân vật ấy mới hình thành, cho đến lúc nó được

sống trong trí tưởng tượng của mình. Ngay việc đặt một cái tên cho nhân vật cũng không phải tùy tiện

mà xong ngay” [95, tr. 296].

Đối với người cầm bút, chọn nhân vật quả thật là cả một vấn đề. Nhân vật chỉ được đánh giá là

thích hợp khi trong tác phẩm nó hoàn thành tốt vai trò dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời

sống, vào một thời kỳ lịch sử nhất định của xã hội. Theo dõi những tiểu thuyết phong tục của ba nhà

văn Nhất Linh, Khái Hưng và Trần Tiêu, chúng ta có thể kể lại lần lượt các nhân vật: Mai, Huy, Diên,

Trọng, Lộc, bà án (Nửa chừng xuân); An, Nga, ông bà án Báo, Phụng, Viết, Hạc, Bảo (Gia đình);

Hồng, Hảo, Nga, bà phán Trinh (Thoát ly); hay ông bà Hai, bà phán Lợi, Thân, Loan, Dũng (Đoạn

tuyệt); Nhung, Nghĩa, bà án, bà nghè (Lạnh lùng); bác Chính trai, bác Chính gái, ông lý Khóa, ông cán

Bích, ông lý Vũ, lý Cúc (Con trâu); vợ chồng xã Bổng, vợ chồng Vót, Sồi, Mít (Chồng con) … Bao

nhiêu nhân vật của họ có bấy nhiêu nét riêng. Nhưng một điều thú vị là tất cả các nhân vật kể trên đều

là những con người của đời thường. Nói khác hơn, toàn bộ nhân vật của Nhất Linh, Khái Hưng và Trần

Tiêu đều là những con người có thật, bước ra từ trang sách cuộc đời:

* Trở vào trong nhà Mai buồn rầu bảo em:

- Thế là ngày mai, chị em ta phải xa cách nhau.

Huy nhìn chị, khuyên giải:

- Chị đừng buồn, chị ạ. Còn sáu tháng nữa đã đến kỳ thi, em thi đậu làm giáo học nhà nước,

thời chị em ta sẽ được sum hợp mãi mãi (…) Nay em cần phải làm tạm kiếm tiền để chị đỡ vất vả. Số

tiền mười hai đồng, chị trả bà Cán bốn đồng tiền ăn, còn thừa thì trả dần nợ cũ. Còn như tiền thuốc,

chị hãy khất ông đốc đến khi em làm giáo học [51, tr. 219].

* Đã bao lâu chỉ toàn ăn cơm với muối, nay được bữa cá lạ miệng, bữa cơm trông ngon lành

lắm. Thằng cu Nhớn cắn dè dặt từng miếng cá. Nó nhai với cơm kỹ lưỡng quá. Hình như cả tai, mắt,

mũi nó cũng thấy ngon. Trước khi và, nó giấu miếng cá xuống đáy bát để ủ lấy chất nóng cho miếng cá

ngon thêm. Nó làm như cả đời chưa được nếm vị cá khô bao giờ.

Cái Mít từ nãy vẫn ăn nhạt. Sau thầy nó gắt lên nó mới chịu gỡ lấy một cái đầu.

Bác gái thương chồng ra mặt. Bác chọn lấy khúc cá ngon, nhiều nạc, gắp bỏ vào bát chồng như

chủ tiếp khách. Đến lượt sau, chồng biết ý, gạt bát ra và nói:

- Bu nó ăn đi chứ! Tôi chỉ thích ăn đầu cá [103, tr. 685].

Hàng ngày chúng ta đối mặt với những tính toán lo toan, vất vả nhọc nhằn. Hai chị em Mai

trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng cũng vậy. Họ phải an ủi động viên lẫn nhau để vượt qua cơn

khốn khó. Chúng ta gặp ở đâu đó cảnh nhường cơm sẻ áo của vợ - chồng, cha mẹ - con cái. Đó cũng là

một cảnh mà gia đình bác Chính của Trần Tiêu phải trải qua.

Tóm lại, không có nhân vật nào trong tiểu thuyết phong tục là nhân vật siêu nhân. Nhân vật của

các nhà văn Tự lực văn đoàn cũng vậy. Tất cả những con người đều được họ đặt vào trong một môi

trường sống. Mỗi nhân vật luôn gắn liền với một chức danh, một bổn phận. Mai là người chị của Huy,

người vợ của Lộc. Loan là con dâu bà phán Lợi. Bác Chính là dân làng Cầm. Rồi các ông lý, ông cán

cũng là những nhân vật có vị trí ở thôn xóm cả. Vì vậy, nếu như làm một cuộc hành trình xuyên suốt

các nhân vật tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, chúng ta sẽ gặp đầy đủ mọi thành phần trong xã hội. Tầng

lớp quan lại có các ông án, ông phán, ông tuần, ông huyện. Tầng lớp thị dân có Loan, Mai, Lộc, Dũng.

Tầng lớp nông dân có bác Chính, chị Vót, bà lý. Lớn tuổi có, thanh niên có, trẻ nhỏ cũng có. Nhân vật

phụ đặt cạnh nhân vật chính, tạo bối cảnh cho nhân vật chính hoạt động. Các nhà văn Tự lực văn đoàn

nói chung không chủ trương xây dựng những nhân vật anh hùng kiệt xuất, hay mô tả những sự kiện vĩ

đại diễn ra trong bối cảnh không gian và thời gian rộng lớn, hay những xung đột mãnh liệt, có tính

cách sử thi. Họ chỉ phản ánh những hiện tượng bình thường diễn ra trong cuộc sống, những hiện tượng

quá quen thuộc tưởng chừng như nhỏ nhặt đến nỗi không phải ai cũng để tâm đến với một cái nhìn sâu

sắc, điềm đạm. Người đọc do vậy có thể tìm thấy trong những nhân vật tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái

Hưng và Trần Tiêu bất kì một con người nào đấy trong cuộc sống, hoặc một mối tương quan nào đó

giữa con người với xã hội xung quanh.

So với các kiểu nhân vật khác, nhân vật loại hình là kiểu nhân vật giúp nhà văn có điều kiện thể

hiện tập trung nhất các phẩm chất xã hội, đạo đức của một loại người nào đó trong xã hội. Nhân vật

loại hình mặc dù cũng đòi hỏi có một cá tính nhất định, và được thể hiện qua những chi tiết chân thực,

sinh động nhưng hạt nhân của cách xây dựng nhân vật này là nhà văn phải đưa ra được một số phẩm

chất xã hội sao cho người đọc có thể phân biệt được rõ ràng loại nhân vật này với loại nhân vật khác.

Các nhân vật kiểu như bà án, bà phán Lợi, Mai, Loan, ông lý, ông cán của Nhất Linh, Khái Hưng và

Trần Tiêu đều có thể xếp vào kiểu nhân vật loại hình.

Bà án, bà tuần, bà phủ, … cũng như Mai, Loan, Hồng đều là những nhân vật được khai thác

trong phạm vi gia đình. Có điều, khi đem so với những nhân vật Mai, Loan, Hồng thì nhân vật bà án,

bà tuần, bà phủ có tần số xuất hiện trong tác phẩm rất thấp. Nhân vật không đa đạng cũng như không

có bề dày. Nói cách khác, sự có mặt của họ trong tác phẩm chỉ là để thực hiện một chức năng phong

tục nào đấy.

Trong Nửa chừng xuân, ba lần bà án xuất hiện là cả ba lần Khái Hưng chỉ đặc tả thái độ, giọng

nói và hành vi của bà: nổi cơn thịnh nộ, đập bàn quát mắng, đứng phắt dậy trỏ tay vào mặt con mắng,

càng tức giận, quát tháo, vỗ sập, gầm thét, cười gằn, cười khinh bỉ, giận uất lên, cười ngặt nghẽo, quát

mắng, mĩm cười khẽ gật, bĩu môi, ngừng lại mở chiếc hộp ăn trầu, ngồi thừ nghĩ tìm mưu kế, thong thả

dằn từng tiếng, ….

Nhân vật bà phán Lợi cũng vậy. Đọc tiểu thuyết Đoạn tuyệt chúng tôi chỉ có thể lược được vài

câu miêu tả dáng vẻ rất ngắn của nhà văn: “Tiếng sau cùng bà kéo dài ra và cao giọng như có ý để

Loan nghe thấy”, “Bà phán nguýt Loan”, “Bà phán quắc mắt”, “Bà phán chỉ vào mặt Loan, sỉa sói”,

“Bà phán vừa khóc vừa đứng dậy chỉ vào mặt Loan, the thé”, “Thấy bà phán đưa tay áo lên gạt nước

mắt và khóc sụt sịt”, “Bà phán cao giọng”, “Khác với mọi lần, bà phán không mỉa mai hỏi nàng đi đâu

về (…) bà phán ngọt ngào bảo Loan” [101, tr. 54], [101, tr. 82], [101, tr. 83], [101, tr. 84], [101, tr.

84], [101, tr. 85], [101, tr. 87], [101, tr. 88]… Miêu tả đã ít, nhà văn lại còn không quan tâm đến mọi

phương diện. Ông chủ yếu tập trung phản ánh thật cụ thể, rõ ràng thái độ và hành động của nhân vật để

qua đó giúp độc giả nhận thấy chức năng và quyền hành của loại người phụ nữ này trong gia đình.

Trở lên là hai nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Một nhân vật của Khái Hưng, một

nhân vật của Nhất Linh. Nhưng rõ ràng cả hai không khác biệt nhau là bao. Bà án cũng như bà phán,

hai bà đều ích kỷ, độc ác. Người thì lấy lí do lo cho hạnh phúc và tương lai của con mà bằng mọi cách

chia rẽ tình cảm Lộc – Mai; người thì dùng uy quyền của mẹ chồng để hành hạ con dâu. Rồi đến bà

phán Trinh, bà tuần, bà Phủ (Thoát ly), ông bà án Báo (Gia đình) nói chung đều tàn nhẫn và ác độc như

vậy cả. Trong gia đình, họ chính là người đại diện cho thế lực phong kiến, bảo thủ và tàn ác.

Còn các nhân vật ông lý, ông cán, mỗi người Trần Tiêu khắc họa bằng một nét riêng. Ông đại

“trịnh trọng bước một đi đầu”, ông lý Vũ “đứng cạnh cổng vái lia lịa như chầy máy” [103, tr. 641],

ông cựu từ - “Một ông râu tóc đã hoa râm đeo mục kính trắng, trông đạo mạo như một cụ đồ nho, từ

cách vuốt râu cho chí dáng điệu đứng ngắm và nhẳm đọc các câu đối, đại tự” [103, tr. 642], ông cán

Bích “thò tay vào nách gãi sồn sột, rồi thản nhiên lấy móng tay cái búng ghét trong các móng khác”

[103, tr. 690], cụ tuần “vuốt lại bộ râu bạc, rồi hai khuỷu tay chống xuống hai đầu gối, hai bàn tay

chắp lấy nhau” [103, tr. 694] … Mỗi người, mỗi kiểu nhưng nếu nhìn kỹ lại tất cả những nét chạm

khắc ấy ta không khó để nhận ra đấy toàn là những nét vẽ nhà văn muốn dành tặng riêng cho lớp nhà

nho gàn dỡ cuối mùa.

Tuy nhiên cũng phải nói ngay rằng nhân vật được các nhà văn Tự lực văn đoàn ưu tiên khắc họa

không phải là những con người nói trên. Nhân vật được họ tập trung nhiều công sức xây dựng nhất là

hệ thống nhân vật trẻ. Riêng ở mảng tiểu thuyết phong tục, chúng ta hãy thử so sánh hai nhân vật Mai

và Loan.

Mai là nhân vật chính trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân. Còn Loan, nàng là nhân vật chính của

Đoạn tuyệt. Khái Hưng cũng như Nhất Linh đều theo suốt nhân vật từ lời nói, cho đến cử chỉ, hành

động. Mỗi nhân vật đều có một gia đình, có bạn bè, có cử chỉ, dáng điệu riêng và cũng được khắc họa

nội tâm sâu sắc. Nhưng về tính cách, hai con người này rõ ràng có nhiều điểm rất giống nhau. Cả Mai

và Loan đều được hưởng một nền giáo dục mới nên cả hai đều có ý thức trách nhiệm cao đối với bản

thân. Mai cũng như Loan đều là những con người có ước mơ, có hoài bão. Họ yêu cái đẹp của tâm hồn,

họ bất chấp mớ lễ nghi cũ kĩ. Tuy sống giàu tình cảm nhưng họ cũng là lớp người có suy nghĩ sáng

suốt, và hành động mạnh mẽ dứt khoát.

Với kiểu nhân vật người nông dân, cách xây dựng của nhà văn Tự lực văn đoàn cũng vậy. Cuộc

đời bà lý Bổng (Chồng con), bà lý Chỉ rồi đến bà khán Bột (Con trâu) dù có trải qua nhiều thăng trầm

nhưng chung quy lại đó vẫn là cảnh đời chung của những người vợ Việt Nam “tam tòng tứ đức” và mãi

khổ với “cái nợ chồng con”...

So với những kiểu xây dựng nhân vật khác, ấn tượng của người đọc đối với các nhân vật được

xây dựng theo kiểu nhân vật loại hình dĩ nhiên sẽ không thể toàn diện, và sâu sắc bằng. Tuy nhiên, phải

nói ngay rằng, yêu cầu của nhà tiểu thuyết phong tục không nằm ở chỗ xây dựng nhân vật sao cho thật

sự sống động mà là ở khả năng phản ánh các vấn đề về phong tục tập quán. Bà án, bà tuần, bà phán,

hay ông lý, ông cựu xuất hiện trong tác phẩm là để tượng trưng cho những cội rễ của một xã hội chuẩn

đắc trong tập tục và hủ tục với đầy đủ thủ đoạn và kế hoạch nhằm duy trì nền tảng xã hội đó. Còn Mai,

Loan, Hồng là đại diện cho lớp người trẻ, ý thức sâu sắc về vấn đề tự do cá nhân và hạnh phúc lứa đôi.

Họ thuộc kiểu nhân vật tiến bộ, không ngại chống đối lại cái cũ, lạc hậu. Mâu thuẫn giữa bà án – Mai,

bà phán Lợi – Loan, bà phán Trinh – Hồng, ông bà tuần – Dũng do đó không còn là mâu thuẫn nội bộ

giữa cá nhân với cá nhân hay giữa cha mẹ và con cái nữa mà đã trở thành mâu thuẫn giữa hai thế hệ già

– trẻ, mâu thuẫn giữa giai cấp phản tiến bộ và giai cấp tiến bộ.

Tóm lại, với việc tạo dựng hai mẫu nhân vật: mẫu thứ nhất gồm các nhân vật bà án (Nửa chừng

xuân), bà phán Lợi (Đoạn tuyệt), ông bà án Báo (Gia đình) hay các ông lý ông cán (Con trâu, Chồng

Con); mẫu nhân vật thứ hai là Mai (Nửa chừng xuân) Loan, Dũng (Đoạn tuyệt), Nhung (Lạnh lùng),

Hồng (Thoát ly) … các nhà văn Tự lực văn đoàn đã hoàn thành được tôn chỉ “Làm cho người ta biết

đạo Khổng không hợp thời nữa” của mình. Những ai đã đọc tiểu thuyết của họ có lẽ chỉ cần nghe đến

chữ “án”, “phủ”, “phán” hay “lý”, “cựu” … đều có thể biết ngay rằng những người sắp được nói đến là

những con người có đầu óc bảo thủ, thích tỏ ra có quyền hành. Ngược lại, những người có một tâm hồn

lãng mạn, lối sống trẻ trung luôn được gắn với những cái tên như Mai, Loan, Dũng. Điều này cũng

chứng tỏ cho cách lựa chọn nhân vật là những con người của cuộc sống đời thường cùng cách xây

dựng theo kiểu nhân vật loại hình của các nhà văn Tự lực văn đoàn là một việc làm đúng đắn. Nhân vật

của họ đọng lại trong lòng độc giả không phải bằng tính cách mà bằng hành động, không bằng ngoại

hình mà bằng tên gọi. Đây là chính một thành công mà không phải nhà tiểu thuyết phong tục nào cũng

có được!

3.2. Nghệ thuật miêu tả không gian – thời gian

Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhà văn dù chú ý hay không chú ý nhưng qua câu chữ, qua

không khí, tình huống, không gian vẫn hiển nhiên tồn tại cùng với một thời gian xác định. Đặc biệt, đối

với những tiểu thuyết viết về phong tục, khi nhà văn chú ý miêu tả thì đây chính là hai yếu tố vừa có

tính hình thức vừa có tính nội dung cao. Đó có thể là không gian - thời gian lễ hội, không gian - thời

gian gia đình, không gian - thời gian làng quê, … Những không gian - thời gian vô cùng quen thuộc.

Tháng giêng là tháng ăn chơi. Làng thôn Việt Nam lúc này đâu đâu cũng diễn ra lễ hội. Nào hội

chợ Xuân Gia Lạc, hội Đình Tích Sơn, hội vật võ ... Lễ hội làng Cầm cũng được tổ chức vào thời điểm

này. Ngày mùng hai có cỗ mừng thôn của ông thủ chỉ, mùng sáu là hội quan lão, rồi mùng bốn tháng

hai – một ngày của ông đại. Ngày thường, văn miếu đình làng vắng vẻ yên ắng là thế. Đến ngày hội,

đây là nơi tập trung đông đủ của cả làng. Dân thì vui chơi, quan viên thì tiệc tùng chè chén. Nhà văn

Trần Tiêu của nhóm Tự lực văn đoàn đã không bỏ qua sự kiện phong tục đắt giá này. Tiểu thuyết Con

trâu của ông ghi lại những ba kì lễ hội (Lễ cầu đảo, Lễ đón ông thủ chỉ và Hội quan lão), từ khâu

chuẩn bị lễ, cách thức rước lễ, cả âm thanh của tiếng trống, tiếng tù và cho đến cảnh các cụ vào cỗ thế

nào, chia chác mâm lễ ra sao ... Thậm chí, trong suốt quá trình diễn ra sự kiện trọng đại của cả làng,

những người dân đã nói với nhau, tranh cãi với nhau điều gì, nhà văn cũng thu lại được:

Lộc thánh tất cả có ba con gà và một mâm xôi nhỏ. Thế mà hai mươi ông ăn cũng đủ, miễn là

mỗi mâm có một chai rượu là được rồi, tuy không được túy lúy càn khôn như ngày đại tuyết (…) Ăn

uống xong, các ông tản mát mỗi người một ngã. Năm bảy ông ngồi lại họp tổ tôm. Ông không đánh,

ngồi chầu rìa mách nước. Gần hết hội mà chưa ông nào chịu góp. Ông lý và một vài ông có tiền cũng

không dám bỏ ra, sợ được thì được “tịch” mà thua thì mất “thiếc”. Hết hội, các ông tính toán tiền

nong, ông thua ông được, rối xòe. Các ông đã vậy còn thằng mõ chia bài thì sao? Một ông thua nhiều

nhất chịu đứng ra nhận vậy, ông khất nợ: “Này, cái số một hào chia bài, tao nhận, mai kia tao giả

nhé” [103, tr. 808].

Lễ hội là một trong những hình thức sinh hoạt cộng đồng mang đậm nét văn hóa dân gian. Do

đó, tuy không hẹn nhưng các nhà văn viết tiểu thuyết phong tục thường hay gặp nhau ở việc lựa chọn

không gian – thời gian lễ hội cho tác phẩm của mình, bởi theo họ đây là một trong những kiểu không –

thời gian có giá trị nhất giúp mang lại chất phong tục cho tiểu thuyết. Hay nói khác hơn, với việc lựa

chọn không – thời gian lễ hội, nhà văn có được một bối cảnh thuận lợi hơn để phục hiện những nét đặc

trưng trong sinh hoạt văn hóa của một vùng miền.

Được lệnh các cụ, bác giơ trống ra trước mặt đánh ba hồi chín tiếng. Tức thì, cờ quạt, tàn

lọng giải ra rực cả lối đi từ cổng chùa đến tận đường cái. Ông Hiểu vẫn mũ áo chỉnh tề, hai tay kính

cẩn nâng cái hòm sắc của ngài đặt lên kiệu bát cống.

Xã Chính đánh một hồi ba tiếng. Dứt tiếng thứ ba, tám anh ghé vai, nhấc bổng kiệu lên rất đều

đặn, ngay ngắn vì các anh khiêng kiệu nhiều lần nên đã thạo lắm. Trống cà rùng, trống cái, trống con,

bát âm nổi rịp. Rồi tiếng loa giục, tiếng tù và inh ỏi [103, tr. 668].

Có khi miêu tả theo diễn tiến buổi lễ (Lễ đón ông thủ chỉ), có khi xoáy sâu vào tâm điểm (Lễ

Cầu đảo), có khi lại chỉ chọn lựa những hình ảnh, sinh hoạt tiêu biểu gắn với sự quan sát của nhân vật

(Hội quan lão) nhưng nhìn chung các nhà văn Tự lực văn đoàn đã tái hiện được những ngày hội làng,

ngày lễ tết cổ truyền, những buổi hát hò thường rang với nghi thức lễ, với những sinh hoạt văn hóa, với

những tiếng động và âm thanh trong những trang tiểu thuyết của họ thật sống động, tạo ra một không

gian đậm tính văn hóa dân gian.

Từ thế kỷ XIX trở về trước, mọi sinh hoạt trong gia đình người Việt đều được dựa trên nền tảng

Nho giáo. Giống như bao giáo lý khác, Nho giáo khi mới ra đời cũng tỏ ra là một giáo lý có nhiều ưu

điểm nên nó dễ dàng được người Việt tiếp thu. Một nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam đã khẳng định

rằng từ thế kỷ XIX trở về trước, ở Việt Nam Nho giáo phổ biến đến nỗi: “Không có một dấu vết nào

của văn hóa Việt Nam mà không mang một biểu hiện có thể xem là có tính chất Nho giáo, dù đó là văn

học, chính trị, phong tục, nghi lễ, nghệ thuật, tín ngưỡng. Cũng không có người Việt Nam nào, dù

chống Nho giáo đến đâu mà lại không chịu ảnh hưởng Nho giáo” [76, tr. 201]. Tuy nhiên, sang thế kỷ

XX, cuộc giao lưu văn hóa với các nước phương Tây đã giúp nhiều người nhận ra rằng bên cạnh vài

yếu tố còn giữ nguyên giá trị như trung quân ái quốc, ý thức về gia đình, tổ tiên dòng họ thì sự tồn tại

của hệ thống giáo điều này là một trong những nguyên nhân gây cản trở bước tiến của xã hội. Trước

tiên, đó là các vấn đề liên quan đến tự do cá nhân, vấn đề hôn nhân, và vấn đề bình đẳng nam nữ trong

phạm vi mỗi gia đình.

So với không gian làng quê, gia đình là một không gian hẹp. Tuy nhiên, trong thời buổi giao

thời, đây lại là một không gian thực sự “có vấn đề”. Qua không gian này, ta không chỉ thấy được sự

lung lay của các giềng mối đạo đức giữa người và người mà còn thấy cả những đổi thay của “bậc thang

các giá trị”. Theo số liệu chúng tôi đã thống kê được, trong tám tiểu thuyết viết về phong tục gồm Nửa

chừng xuân, Gia đình, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Thoát ly, Thừa tự, Con trâu và Chồng con có tất cả hơn

ba mươi gia đình – cả chính lẫn phụ. Để miêu tả cặn kẽ về cách sinh hoạt trong những gia đình này,

các biện pháp nghệ thuật như kể, tả, phân tích đã được nhà văn sử dụng phối hợp, linh hoạt. Thói quen

trong suy nghĩ và hành động của mỗi thành viên và kết quả của nó do đó đều được hiển hiện trên từng

trang giấy. Qua đó, họ đã giúp người đọc hôm nay hiểu rõ lý do vì sao cha mẹ và con cái không thể

hòa hợp (Đoạn tuyệt), vợ chồng không thể hạnh phúc (Gia đình, Nửa chừng xuân), hay nỗi đơn chiếc

của người phụ nữ góa chồng (Lạnh lùng) và trong Chồng con là cả những nhọc nhằn của một đời làm

vợ làm mẹ …

Càng ngày chế độ phong kiến ở Việt Nam càng bộc lộ ra là một chế độ phản tiến bộ. Trong

những năm 1930 – 1945 thế hệ trẻ lại đang được tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Tây. Những đứa

con bắt đầu nhận thấy bằng cách này cách khác phải cố thoát khỏi những quy phạm phong kiến, sống

một cuộc sống tự do. Trong khi ấy những người làm cha làm mẹ – đại diện cho phong kiến – như bà án

(Nửa chừng xuân), bà phán Lợi (Đoạn tuyệt) vẫn cố níu kéo quá khứ bằng cách duy trì trật tự của một

đại gia đình. Mâu thuẫn gia đình thường xuyên nảy sinh. Với sự lựa chọn không gian gia đình là không

gian sáng tác chính, hai nhà văn Nhất Linh và Khái Hưng đã đưa ra được hàng loạt vấn đề đang cần

thay đổi để cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Tác phẩm của họ cho thấy một hôn nhân theo

quan niệm môn đăng hộ đối, con dâu phải phục dịch mẹ chồng, chồng chết vợ phải thủ tiết, làm trai

được quyền lấy năm lấy bảy không còn phù hợp trong cuộc sống hôm nay. Song song đó, không gian

gia đình cũng là nơi giúp các nhà văn có thể tôn vinh đức hy sinh, tính vị tha của người phụ nữ (Chồng

con), lòng hiếu thảo của con cái đối với mẹ (Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt), tình yêu thương của chị

dành cho em (Nửa chừng xuân).

Những năm 1930 – 1945 là những năm lịch sử đang chuẩn bị sang trang. Mọi sinh hoạt xã hội

lúc này khó tránh khỏi những xáo trộn. Không gian gia đình cũng vậy. Đây là cảnh nhà ông Án:

Ông Án, bà Án ngồi trên cái sập sơn son thiếp vàng. Liền sập kê một bộ bàn ghế trắc kiểu Tàu

pha kiểu Pháp thập bát thế kỷ, bàn lượn sáu múi, chân vòng cánh cung, ghế sáu cái, bốn cái vuông và

hai cái dài, lưng dựa chia ra hai phần, một bên chạm bài thơ chữ nho và một bên trổ tứ quý. Bộ bàn

ghế nhà ông án Nguyễn cũng giống những bộ thấy bày trong nhiều khách đường các nhà quan, nhưng

lại có thêm một đặc sắc, là bốn câu thơ ở cái ghế vuông, không câu nào toàn vẹn bảy chữ. Câu thì còn

sáu, câu thì còn năm, có câu lại chỉ trọn vẹn ba chữ (…) Sau cái sập là cái tủ trà gụ khảm xà cừ kê

trên đôi mễ. Ở gian bên, trong một cái tủ đứng kiểu Nhật Bản có bày đủ các đồ quý, nào bát sứ, đĩa sứ

tàu, nào ngọc Vân Nam, nào voi, ngựa bằng đồng. Phía bên kia và đối diện với cái tủ chật khoảng

giữa hai hàng cột (…) Trên tường bên tả treo hai thanh kiếm An Nam giao nhau theo hình chữ X.

Chuôi kiếm bằng răng voi, bao kiếm bằng gỗ trắc khảm xà cừ và bịt bạc dát vàng (…) Phía bên hữu,

treo câu đối với đôi kiếm ta một thanh kiếm tay và một cây súng hai nòng (…) Ông thích quá ngắm

nghía suốt mấy ngày, rồi gọi thợ ảnh đến chụp cho ông một bức hình vận đại trào tay chống thanh

kiếm tây. Bức hình ấy đem phóng đại, tô màu và treo ngay giữa phòng khách trên cái tủ khảm. Khi

chụp, râu ông còn đen, mặt ông còn phương phi đầy đặn, thân thể ông còn vạm vỡ, nở nang, trông có

vẻ võ tướng lắm, dẫu cái mũ cánh chuồn hơi yếu đuối một chút” [50, tr. 46].

Cảnh tiếp theo, tại nhà một quan lãnh:

Cái làm họ giật mình trước hết, là một võ quan vận nhung phục, mề đay vàng, thanh kiếm bạc

hẳn hoi, đứng sững ngay ở phòng tiếp khách, trố mắt ra nhìn họ trừng trừng (…) đó là bức truyền thần

của chủ nhân, truyền bằng sơn màu vào kính, cao lớn vừa tầm người, khéo đến nỗi nếu cặp má hồng

của vị võ quan không hồng quá, và cặp môi son không son quá, thì hắn cũng nhận lầm là người thực.

Trên bức truyền thần, ở khắp bốn mặt tường, là ảnh và ảnh (…) Lại còn có cả bức phóng đại của một

người đàn bà “đuôi gà, khăn vấn” lạc lõng vào đối diện với bức phóng đại khác “mề đay, ngân

khánh” của chủ nhân. Rồi lại có cả bức ảnh chủ nhân mặc vận nhung phục Đại Việt, với chiếc mũ lốc,

đôi ủng, áo cẩm bào …” [85, tr. 47 - 48].

Chỉ cần tả qua cách trang trí nhà cửa tại những gia đình nhà Nho lúc này tác giả đã cho thấy rõ

tính chất “giao thời” đã và đang diễn ra từng giờ từng phút trong xã hội và trong mỗi gia đình người

Việt. Hai đoạn văn, đoạn trên của Khái Hưng miêu tả không gian nhà tại nhà ông án Báo, đoạn dưới

của Đồ Phồn ghi lại cảnh nhà quan lãnh. Hai nhà văn thuộc hai trường phái, hai nhân vật lại không

cùng sinh sống cùng một địa phương. Nhưng thị hiếu thẩm mỹ của hai nhân vật lại có một sự giống

nhau đến lạ kỳ. Nhà của họ nay đã không còn thuần túy chỉ tranh tứ bình, thông, cúc, trúc, mai hay

long, lân, quy, phụng hay hoành phi câu đối … mà xen kẽ nào là giường Tây, nào tủ Nhật, nào bàn

đánh bóng … Nhưng có lẽ nực cười hơn cả chính là bức ảnh truyền thần của chủ nhân hai ngôi nhà với

lối y phục nửa Tây nửa Tàu.

Trong sáu tiểu thuyết lấy không gian gia đình làm không gian thể hiện chính của Nhất Linh,

Khái Hưng và Trần Tiêu, chúng tôi thấy thời gian gắn liền với nó luôn là thời gian gặp gỡ giữa hai thế

hệ. Trong mỗi gia đình đều có hai tuyến nhân vật. Một tuyến đại diện cho thế hệ cũ, một tuyến đại diện

cho thế hệ mới. Và tất nhiên giữa họ không thể có bất cứ một sự hòa hợp nào về tư tưởng, lối sống.

Hàng ngày họ gặp nhau chỉ để tranh cãi. Ngấm ngầm có, công khai quyết liệt có. Điều này dĩ nhiên đã

khiến người đọc dẫu hời hợt cũng có thể khám phá được từ những cuộc tranh cãi này các vấn đề về tư

tưởng, về nhân sinh quan. Lộc thuyết phục mẹ từ bỏ quan niệm môn đăng hộ đối để chàng được cưới

người con gái chàng yêu. Mai tuyên bố thẳng với bà án rằng nàng không có mã lấy lẽ. Loan khẳng

định quyền làm người của nàng trước mẹ chồng “không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh

tôi” [101, tr. 99]. Hay trong Gia đình là cảnh Nga – Phụng vì đố kỵ mà sinh ra mặt nặng mặt nhẹ, cãi

vả nhau “Ngày kỵ chẳng phải chỉ là một dịp để quan viên trong làng mượn chén châm chọc, lấn át

nhau, mà còn là một ngày để cha mẹ. anh em, chị em họp mặt đông đủ giữa làn không khí hiềm khích

bất hòa” [50, tr. 76]. Đến hai tác phẩm Thừa tự và Thoát ly ta lại gặp mâu thuẫn giữa dì ghẻ con

chồng. Anh em Trình Khoa (Thừa tự) không bỏ qua dịp nào để kể tội bà vợ ba của cha. Ngược lại, bà

phán Trinh (Thoát ly) cũng không dễ chịu chút nào. Bà luôn tìm cách làm khổ đứa con riêng của

chồng. Trong những gia đình này, những lúc gặp nhau thay vì gắn kết tình cảm họ lại kèn cựa nhau,

bắt bẻ nhau từng lời ăn tiếng nói, theo dõi nhau từng cử chỉ, từng thái độ, hành động.

Thời gian đặc biệt tạo ra những tình huống, bối cảnh đặc biệt, là cơ sở để nhà văn miêu tả phong

tục, là điều kiện để nhân vật bộc lộ tính cách. Trong không gian gia đình, các nhà văn Tự lực văn đoàn

chú ý đặc biệt đến thời gian đêm. Đêm khuya, từng cơn gió lạnh lọt vào phòng làm Nhung bứt rứt

không yên, chạy đến chỗ hẹn với Nghĩa (Lạnh lùng). Đêm Lộc tỏ bày dự định về cuộc sống sau này

cùng Mai (Nửa chừng xuân). Đêm Ngọc phát hiện ra chú tiểu Lan là gái và đem lòng yêu (Hồn bướm

mơ tiên). Rồi đêm tân hôn thật bẽ bàng của Loan và Thân (Đoạn tuyệt), đêm Hĩm bị sốt được anh

người làm chăm sóc để cuối cùng họ quyết định cùng nhau đi tìm một cuộc sống mới.

Màn đêm và bóng tối chính là thời điểm phần “Con” trỗi mạnh hơn phần “Người”. Con người

ban đêm có thể nói thật khác với “con người hành chính” ban ngày. Tại thời điểm này, ta dễ dàng bắt

gặp được những nỗi niềm, những tâm sự, những ham muốn, những giọt nước mắt và cả những niềm

đau … Sự lặp đi lặp lại thời gian đêm tối trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn vì vậy đã khiến ta phải đặt

dấu hỏi. Phải chăng chọn thời điểm này nhà văn muốn tố cáo sự phi lý của những tập tục đã trói buộc

“con người hành chính” ban ngày?

Ở vào giai đoạn tranh sáng tranh tối của xã hội, các nhà văn Tự lực văn đoàn đúng là đã chưa

nhận ra những vấn đề lớn lao của Tổ quốc. Tuy nhiên, các ông đã nhìn thấy tính chất phi lý của chế độ

đại gia đình. Qua tiểu thuyết, các ông tập trung phản ánh nếp sống nếp sinh hoạt trong các gia đình ở

thành thị. Đó là gia đình của những ông nghè ông án. Nhưng con cái họ bây giờ không còn là những

cậu ấm cô chiêu mà là những nam thanh nữ tú. Lớp trẻ này không còn cam chịu, cúi đầu tuân theo

hàng mớ lễ nghi gia đình như trước kia. Theo họ, chúng đều đã cũ và cần phải thay đổi. Lộc bất chấp

lời răn đe của mẹ, nhờ người khác đứng ra hỏi cưới Mai. Loan nài nỉ, thuyết phục ông bà nghè khi ông

bà ép nàng lấy người chồng mà nàng không hề yêu. Dũng không chịu nổi sự quản thúc của ông bà

Tuần đã rời bỏ gia đình. Nhung vẫn đi lại với Nghĩa. Và đặc biệt hơn nữa là Hĩm cùng Thu bỏ làng tìm

đến một chân trời tự do. Chế độ đại gia đình cùng với những quy phạm khắt khe vì vậy có thể nói là đã

hoàn toàn sụp đổ dưới ngòi bút của các nhà văn Tự lực. Văn chương Tự lực văn đoàn đã từng bước

thực hiện cải cách xã hội thông qua cải cách hủ tục trong gia đình.

Không gian làng quê cũng là loại không gian thường xuyên xuất hiện nhất trong tiểu thuyết Việt

Nam thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Vì sau lũy tre lúc này không còn là mái nhà tranh với làn

khói bếp chập chờn trong buổi hoàng hôn, hay giọng hát dân ca ngọt ngào của những cô thôn nữ. Sự có

mặt của thực dân Pháp trên đất Việt, những cấu kết giữa chúng với bọn địa chủ phong kiến đã khiến

cho cuộc sống người dân quê vốn đã khó khăn giờ lại càng thêm chồng chất khó khăn. Những kiếp

người, những cảnh đời tối tăm, sống tủi sống nhục vì sưu cao thuế nặng, vì thiếu cơm thiếu áo, lại thêm

nạn ức hiếp … không làng nào không có. Chứng kiến những cảnh tượng này, Ngô Tất Tố, Nguyễn

Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng và rất nhiều nhà văn hiện thực khác nữa đã không thể làm

ngơ. Tắt đèn (Ngô Tất Tố) là cuộc đời quằn quại đến ứa máu của vợ chồng chị Dậu trong những ngày

làng Đông Xá thúc sưu. Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) ghi lại cuộc đời đau khổ dằng dặc của

anh Pha vì bị bọn quan lại phong kiến dùng những thủ đoạn đàn áp, bốc lột đến tận xương tận tủy.

Các nhà tiểu thuyết phong tục trong giai đoạn lịch sử này cũng chọn bối cảnh sáng tác cho mình

là làng quê. Nhưng làng quê trong thể tài tiểu thuyết này không giống với các thể tài tiểu thuyết khác.

Đó thường là một ngôi làng cụ thể. Một ngôi làng với những biểu hiện rất riêng về phong tục tập quán.

Làng Cầm của Trần Tiêu là một ngôi làng có “con đường lát gạch”, có đền thờ “vua cuốn

chiếu” nằm ngay trên đê, quay mặt ra sông Hóa. Và “Chung quanh làng, cánh đồng vàng hoe. Xa xa

nữa, các lũy tre làng lân cận liên tiếp nhau thành một dãi xanh rì” [103, tr. 599]. Những đặc điểm này

giúp người đọc không thể nhầm nó với bất cứ một ngôi làng nào ở Bắc bộ như xóm Giếng chùa có

“khung cổng tiền cổng hậu như hai ụ súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung màu gan gà

vừa to vừa dày ốp khít vào nhau, chắc đến đập không vỡ. Con đường chính giữa làng dài một cây số

được lát toàn bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh – Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng nên bây giờ vẫn

chắc khừ” [109, tr. 5], hay làng Đông trong Bến không chồng của Dương Hướng với “cây quéo trước

cửa đình”, “cánh mả Rốt dày đặc những mồ mả mấp mô”. Và càng phân biệt với cái làng ở Nam bộ

của Phi Vân có “những con rạch ngoằn ngoèo, tuyệt nhiên không có một con đường bộ”, những tháng

mưa “đồng dơ dáy, ẩm thấp, muỗi mòng”. Tuy nhiên, đáng lưu ý hơn là trong hầu hết các tiểu thuyết

phong tục tất cả những đặc điểm riêng này đều được nhà văn giới thiệu ngay từ những trang đầu tác

phẩm. Dường như người viết tiểu thuyết muốn ngầm báo với người đọc một điều rằng mỗi làng khác

nhau sẽ có những thói quen sinh hoạt khác nhau.

Trước cách mạng tháng Tám, cổng làng ở Bắc bộ sáng mở chiều đóng nhưng không gian làng là

một không gian khép kín. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Người dân quê từ thế hệ này sang thế hệ khác

chỉ biết quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời để mong sao kiếm cho đủ cơm ăn áo mặc. Còn

tục này lệ kia của làng đều nằm ở một tay bọn quan vơn. Làng nào bộ máy quan vơn còn biết nghĩ thì

gánh việc làng của người dân nhẹ được đôi chút. Ngược lại, cuộc đời của dân quê dù có vắt kiệt sức ra

thì rốt cuộc cũng như cụ Thượng ở làng Lão Việt:

Từ thuở mười bảy tuổi đầu đến giờ, tôi không chơi không ngày nào, trừ ra những ngày đau

ốm. Thôi thì cày sâu cuốc bẫm, buôn ngược bán xuôi, không quản ngại một việc gì cả. Có lúc đã lên

mỏ Hích lăn lộn với đám phu mõ … Những việc tôi làm, tuy không phát đạt nhưng không thất bại bao

giờ, chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời nghèo xác, nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ, cả

nhà có một thằng con đành để nó dốt nát (Xem Tuyển tập Ngô Tất Tố, tập 1, nhà xuất bản Giáo dục,

trang 383).

Như vậy, khi lựa chọn không gian sáng tác là không gian làng, các nhà văn của chúng ta rất dễ

chạm đến những vấn đề phong tục có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống người dân. Cả nhà bác xã

Chính từ bác trai, bác gái đến đứa con lớn của bác đều ra công bỏ sức, làm lụng không lúc nào ngơi

tay. Họ lại biết chăm lo tích góp. Thế mà con trâu cái mãi mãi vẫn là một ước mơ họ không thể thực

hiện. Nguyên do vì sao? Có lẽ chính những ai sinh ra và lớn lên ở làng Cầm cũng khó có thể biết. Tuy

nhiên, những ai đọc Con trâu của Trần Tiêu thì đều được nhà văn cho hay. Chỉ kể riêng về khoản đóng

góp cho việc làng, người dân ở đây tiêu tốn mất biết bao nhiêu là tiền bạc lẫn công sức. Hàng năm làng

sửa chữa văn miếu, hội hè đình đám, khao vọng … liên tục. Hết dụ dỗ người dân mua nhiêu mua xã,

bọn quan vơn trong làng lại bày ra hàng loạt trò nhảm nhí khác. Chúng tìm mọi cách làm cho đầu óc

người dân quê ngày càng trở nên mê muội hơn. Bài bạc, rượu chè, thuốc phiện, thú vui cô đầu … diễn

ra nhan nhản mọi lúc mọi nơi. Bác Chính trai đã ở vào thế chẳng đặng đừng. Bác không nghe cũng

không xong:

Xã Chính vừa cài cúc áo lương vừa nói:

- Mình có tiền đưa tôi hai đồng.

Vợ sửng sốt:

- Hai đồng để làm gì?

- Ngồi hát.

- Ngồi hát? Mình biết hát hỏng thế nào mà ngồi hát.

Xã Chính phì cười:

- Mình dở lắm. Ngồi hát là ngồi xếp bằng nghe “nhà tơ” hát, rồi vừa nhắm rượu vừa nghe

hát.

- Thì mình ngồi hát làm gì, nhà đã chả có …

- Ai chả biết thế. Nhưng cụ đại bảo thì phải nể. Chán vạn người bị bắt ép, cứ gì mình” [103,

tr. 643].

Tất cả đã rõ ràng. Ban đầu là mua xã. Tiếp đến bác bận rộn với những buổi hội hè đình đám, hát

xướng. Rồi, bác sang cát cho cụ thân sinh, thêm hạn hán mất mùa, nợ một lãi mười… Bấy nhiêu

chuyện, thử hỏi sao gia đình bác Chính tránh được cảnh đói cơm rách áo. Làng Cầm đã sinh ra bác

nhưng bao nhiêu thứ lệ không đâu của nó lại vắt kiệt sức của người nông dân hiền lành, siêng năng cần

cù này. Tác phẩm Con trâu cuối cùng đã được khép lại sau cái chết thảm thương của nhân vật chính.

Đi cùng với không gian làng quê là thời gian nông nghiệp. Phải trong mùa gặt thì cảnh vay

mượn, rồi chạy vạy năn nỉ để được khắc nợ của người dân nghèo như gia đình bác Chính mới rõ ràng

nhất. Và cũng chỉ sau mùa gặt mới diễn ra câu chuyện về bọn chức sắc dụ dỗ những nhà được mùa bỏ

tiền để mua lý này xã nọ. Hay đây cũng chính là cơ sở để làm bật lên đức tính chịu thương chịu khó, sự

đảm đang tháo vát của người nông dân xưa rồi đến cả cách làm đổi công cho nhau của họ (Xem thêm

Con trâu). Thời gian nông nghiệp tóm lại là thời gian rất đặc trưng cho vùng trồng lúa. Với việc chọn

lựa thời gian này, các nhà văn Tự lực văn đoàn đã khai thác được triệt để những sinh hoạt hàng ngày ở

nông thôn Việt Nam xưa kia.

Xét trong mối tương quan với không gian gia đình thì không gian làng là một không gian rộng.

Tuy nhiên, cả hai đều thuộc loại không gian vi mô. Trong giai đoạn 1930 – 1945 này, nhìn chung các

nhà viết tiểu thuyết phong tục chưa ai có điều kiện mở rộng không gian sáng tác từ làng này sang làng

khác hay từ làng ra phố, từ phố về làng như một số tác phẩm ra đời sau này: Đoàn Lê – Cuốn gia phả

để lại viết 1986, Huy Cờ - Phố làng viết 1997 và đặc biệt là Nguyễn Xuân Khánh với Mẫu thượng

ngàn ra đời 2006. 149 trang khổ giấy 16x24 của Con trâu cũng chỉ quẩn quanh qua lại một nơi duy

nhất là làng Cầm. Ngày tiếp ngày, tháng tiếp tháng, năm tiếp năm lần lượt đến rồi lại đi. Thời gian trôi

chảy. Nhưng đời sống con người nơi đây không một chút gì để gọi là mới mẻ. Trước sau họ vẫn là

những người quen làm, cạn nghĩ. Thấy người sao thì ta vậy. Cha làm thì con theo. Họ khổ mà không

biết nguyên nhân nỗi khổ do đâu. Tuy không thể hoàn toàn xem đây là một ưu điểm của các nhà văn

Tự lực văn đoàn. Nhưng theo chúng tôi, trong một chừng mực nào đấy thì chính điều nay lại làm tăng

thêm tính hiệu ứng cho những phong tục đã được nhà văn đề cập đến trong tác phẩm.

Tạo dựng một không gian - thời gian đảm bảo làm nền cho mọi sự kiện, mọi chi tiết trong truyện

quả là một việc làm không dễ dàng. Vì vậy, những gì mà các nhà văn Tự lực văn đoàn đã làm được

trong những tiểu thuyết viết về phong tục của họ quả là một cố gắng rất lớn cần được ghi nhận. Tuy

nhiên, một nhà văn phong tục không thể chỉ chuyên tâm lựa chọn không gian - thời gian. Để người đọc

cảm nhận được “không khí phong tục” từ tác phẩm thì bên cạnh không gian thời gian, ngôn từ cũng

góp một phần không nhỏ.

3.3. Những nét đặc sắc trong ngôn từ và giọng điệu

Mỗi khi đưa ra ý kiến đánh giá tiểu thuyết này, nhà văn kia có phải là một tiểu thuyết phong tục,

nhà văn phong tục hay không, người ta thường chỉ xem tác phẩm đó viết về vấn đề gì, có phải là những

vấn đề liên quan đến phong tục tập quán hay nhà văn kia có phải là người có nhiều tác phẩm viết về đề

tài phong tục. Còn nghệ thuật thể hiện thế nào dường như thỉnh thoảng mới có người nhắc đến (chúng

tôi nhấn mạnh). Theo chúng tôi, ở thể tài phong tục, không thể chỉ quan tâm đến nội dung phản ánh.

Những yếu tố thuộc về nghệ thuật như điểm nhìn, nhân vật, không gian thời gian, ngôn ngữ … chính là

những yếu tố hỗ trợ nhà văn rất nhiều trong việc thể hiện nội dung phong tục được rõ ràng, sắc nét.

Nhất là ngôn ngữ. Trong tiểu thuyết phong tục, ngôn ngữ đồng thời phải vừa là một phương tiện biểu

đạt, vừa là một yếu tố mang tính phong tục.

Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn viết về phong tục tập quán của người Việt trong những năm đầu

thế kỷ XX. Đối tượng được họ đề cập đến có thể chia ra hai loại. Loại thứ nhất là những người thuộc

tầng lớp trung lưu sống ở thành thị trong sáng tác của hai nhà văn Nhất Linh và Khái Hưng. Loại thứ

hai là những người nghèo ở nông thôn miền Bắc. Loại này gắn với tên tuổi của Trần Tiêu. Hai đối

tượng khác nhau trong hai không gian sống cũng khác nhau, do đó, khi đem so sánh tác phẩm của ba

nhà văn này chúng tôi thấy riêng về mặt ngôn ngữ thì Nhất Linh và Khái Hưng có những điểm rất khác

với Trần Tiêu.

Sự khác nhau trước hết thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Một đằng ngôn ngữ nói

năng của nhân vật trang nhã, một đằng lại hết sức dân dã:

Bỗng thấy chồng đi qua hiên, bà Hai lên tiếng gọi:

- Này ông, ông lại xem con ông nó mắng tôi kia kìa.

Ông Hai quay lại mắng con:

- Không được hỗn!

Loan nhìn ra đáp:

- Thưa thầy con không hỗn. Không bao giờ con dám vô lễ với me con. Nhưng ít ra, me con cũng

để con nói chuyện phân bày phải trái về một việc rất quan hệ đến đời con.

(…)

Thấy me ứa nước mắt khóc, Loan quay lại nói riêng với bà Hai:

- Thưa me con xin lỗi me đã làm me phải phiền lòng. Nhưng còn hơn để me buồn khổ mãi mãi.

Nếu con không cắp sách đi học, con sẽ cho lời me nói là một cái lệnh không thể trái được, con sẽ như

mọi người khác bị ép uổng, rồi liều mình tự tử. Đó mới là bất hiếu. Chứ nói rõ để me biết chỉ làm

phiền lòng me chốc lát mà thôi. Thầy me giận con, vì thầy me không thể tưởng được rằng làm phận

con lại dám cả gan trái lời bố mẹ. Con, con cho thế mới là phải đạo [101, tr. 33-34].

Chỉ thoáng qua câu chữ, người đọc dẫu hời hời cũng biết được những nhân vật tham gia đối

thoại trong đoạn văn trên thuộc tầng lớp nào trong xã hội. Đó không phải là những người nông dân quê

mùa. Nhà quê không ai gọi người sinh ra mình bằng “thầy – me”. “Không được hỗn” là một câu mệnh

lệnh. Nó lại được phát ra ngay khi người phát ngôn chưa rõ đầu đuôi sự việc đã cho thấy người phát

ngôn ở đây có một quyền uy tuyệt đối. Còn người nghe, rõ ràng là một người có học thức. Lời nói thật

nhẹ nhàng, từ tốn, lễ phép: “thưa thầy”, “thưa me con xin lỗi me”, “không bao giờ con dám”. Và đặc

biệt, cách lập luận của nhân vật rất chặt chẽ: “Con xin lỗi đã … Nhưng …”, “Nếu không … con sẽ …”,

“Chứ nói rõ … chỉ làm phiền … mà thôi”. Tất cả những điều này hoàn toàn không thể tìm thấy trong

cuộc đối thoại giữa các nhân vật của Trần Tiêu:

Xã Chính ngửng lên, thở dài giọng chán nản:

- Cơ trời thế này thì còn nắng to. Ít nước đầm sao cho đủ cả một cánh đồng mênh mông bát

ngát như thế kia? Đến nguy mất, bu nó ạ.

Thấy chồng lo lắng, buồn rầu, vợ thương hại tìm lời an ủi:

- Thầy nó chẳng việc gì mà lo. Rồi các cụ đảo võ đảo viếc chứ … Như năm nào, thầy nó còn

nhớ không, trời cũng nắng mãi. Thế mà sau khi đảo võ, ông ấy giáng ngay cho một trận, lúa đương

xấu bông bổng tốt sổng ngay lên.

- Ừ, cũng còn mong thế. Nhưng biết bao giờ các cụ mới nghĩ tới chứ.

- Ấy còn đợi tỉnh sức về chứ. Năm nào đảo võ chả vậy [103, tr. 659].

hay trong tác phẩm của Phi Vân:

Rồi chàng đứng cà rà nghe đám tá điền cãi nhau:

- Ai đời muốn tát đìa, thì cho hay trước, tụi mình dự bị tát hồi sáng có khỏe hơn không. Đợi tới

trưa trờ, trưa trật mới kêu, trời nắng chang chang mệt ngất như thế này! …

Một người đàn bà đang xăn quần sửa soạn bắt cá xen vô:

- Thì thuở giờ hễ ổng muốn là muốn giật ngược, đố khỏi chiều nay mắc làm cá phụ, trễ đi coi

hát!

Một người khác:

- Thôi đi các cha các mẹ. Cứ làm xăng lên, thế nào rồi cũng kịp, cằn nhằn thấu tai ổng, ổng sần

sượng lắm.

Anh tằng khạo Lạnh cũng lên tiếng:

- Mấy người không biết! Sẳn dịp chánh hương quản vô, ông hội muốn lựa một mớ cá lớn để đãi

đằng, chứ hôm kia tôi nghe ổng định tối hai mươi mới tát lận, kia! [114, tr. 65].

Nhân vật của cả hai nhà văn, Trần Tiêu và Phi Vân, đều là những người nhà quê. Đoạn trên hai

vợ chồng xã Chính rõ ràng là người dân miền Bắc, họ dùng phương ngữ của miền Bắc: “thầy nó”, “bu

nó”, “cơ trời”, “tốt sổng”, “chứ”, “chả vậy”. Trong khi đấy, ở đoạn văn dưới, phát ngôn của bốn

người tuy cũng “nhà quê” nhưng rặt màu sắc Nam bộ: “trưa trờ trưa trật”, “nắng chang chang”, “

muốn giật ngược”, “mắc làm cá phụ”, “thấu tai”, “lận”.

Tóm lại, trong tiểu thuyết phong tục, nhà văn không thể phản ánh phong tục chung chung.

Phong tục luôn phải được xác định rõ ràng là của một cộng đồng người nhất định, hay của một vùng

miền nào đấy. Do đó, lời ăn tiếng nói của nhân vật phải thể hiện được tính địa phương là một lẽ. Còn

một lẽ khác cũng cần phải có tính địa phương nữa đó chính là lời kể của nhà văn. Và từ địa phương đã

được nhiều nhà văn phong tục sử dụng đến như một cứu cánh.

Trần tiêu sử dụng khá nhiều các từ ngữ và những cách diễn đạt phổ biến của Bắc bộ: Thầy, bu,

ngót, ăn quàng đi, chóng nỏ, sắng đồ nhắm, đứng rộn lại, nói khí không phải, dớ dẩn, làm đỏm, hượm

đã, ngộ nhỡ, chả, ấy, thế, từ rầy, sáng bảnh mắt, cơ, ối dào, nói phứa, rõ nỡm, phỉnh, đế vào, phỏng,

ngữ ấy, dấm dẳn, rảo bước, nói phứa, rỗi hơi, chắc mẫm …. Từ chỉ sự vật có, chỉ hành động có, từ

xưng hô có, đại từ thay thế có. Sự có mặt của những đơn vị từ ngữ này đã giúp người đọc chỉ cần đọc

qua một hai trang tiểu thuyết của ông cũng nhận ra đây chính là cảnh sắc và con người xứ Bắc.

Không bao giờ Mít sung sướng bằng hôm nay. Mít dậy thực sớm, xuống bếp làm vài lưng cơm

với mấy con tôm rang mặn, vội đun ấm nước trà tươi để chốc nữa thầy dậy uống, rồi tất tả lên nhà

trang điểm. Mít thắng xong bộ cánh, vuốt đi vuốt lại dãi lưng thiên lý, ngắm trước ngắm sau cái váy

lụa mềm, rồi móc ở túi áo cộc trắng lộ trong chiếc áo tứ thân màu nâu non, một cái gương nhỏ [103,

tr. 625].

Rõ ràng bên cạnh bộ trang phục là chiếc áo tứ thân, cái váy lụa, dãi lưng thiên lý, những từ ngữ

địa phương được tác giả sử dụng như “vài lưng cơm”, “đun”, “chốc”, “thắng xong bộ cánh” đã tô

đậm thêm tính chất Bắc bộ cho nhân vật. Mít khó có thể lẫn với bất cứ cô thiếu nữ nào ở các vùng

miền khác.

Trong khi ấy, ở tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng, số lượng từ địa phương được sử dụng ít

đi rõ rệt. Và ở những tác phẩm có nội dung phản ánh là cuộc sống của tầng lớp thị dân như Nửa chừng

xuân, Lạnh lùng, Đoạn tuyệt, người đọc hầu như càng khó bắt gặp hơn.

Hơn ngàn năm sống dưới ách thống trị của phong kiến Trung Hoa, đất nước và con người Việt

Nam tuy không bị đồng hóa nhưng thật khó tránh khỏi những ảnh hưởng về kinh tế, văn hóa xã hội, …

Riêng ở lĩnh vực sáng tác văn chương, đó là các bài thơ luật Đường, các bài hịch, bài phú với lời văn

nho nhã, đầy tính ước lệ, tượng trưng. Cho đến khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây, chúng ta mới

mạnh dạn sáng tác những tác phẩm có lời văn gần giống lời ăn tiếng nói hàng ngày (Trương Vĩnh Ký

đi đầu với tác phẩm Chuyện đời xưa, lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích năm 1866. Hay năm

1886, trong lời tựa Truyện thầy Lazaro Phiền, Nguyễn Trọng Quản cũng kêu gọi: “Thì tôi chẳng có ý

làm sách này cho đặng khoe tài hay khoe trí; tôi một có ý dụng, lấy tiếng thường mọi người hằng nói

mà làm ra một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều chuyện hay, trước là làm cho

trẻ vui mà tập đọc, sau là làm cho các dân các xứ biết rằng người An Nam sánh trí sánh tài thì cũng

chẳng thua ai!” [80, tr. 21- 22]. Rồi báo Nông cổ mín đàm qua cuộc thi sáng tác tiểu thuyết cũng phát

động...) Nhưng ta thử đọc lại hai đoạn văn của Nguyễn Trọng Thuật và Hoàng Ngọc Phách – hai nhà

văn được đánh giá là đã có nhiều đổi mới:

- Thuyền chạy vùn vụt, gió thổi vù vù, sóng vỗ chòng chành. Người ấy (tức là An Tiêm) cứ đứng

sừng sững không hề nhúc nhích chút nào, chợt đâu vầng thái dương ở dưới gầm thượng hải kéo lên đỏ

lừng lững, trong hàm cái sắc kim quang lóng lánh, không lấy vật đỏ nào của thế gian mà tỷ nghị được,

bấy giờ ánh triều dương chiếu ra, mây khói sóng nước đều có vẻ hồng hồng cả rồi càng lên thế gian

càng rạng dần ra mà nhãn quan của người càng chiếu rộng xa mãi ra được, sóng mênh mông bát ngát

tít tắp mù khơi, không biết đâu là bờ, cơn mây bốn chân trời kéo lên tới tấp khoảnh khắc biến thiên, vô

số hình sắc, mà ngoảnh lại phía tây chốn non sông tổ quốc thì mây ám sương sa không rõ gì cả, người

ấy lại ngậm ngùi vô hạn (Quả dưa đỏ - chương 5).

- Mặt biến sắc, con mắt hoe hoe rồi ngồi phịch xuống ghế, gục đầu vào bàn tay mà khóc. Tôi

thổn thức và bối rối quá chừng, nói chỉ ra hơi và không thành tiếng. Cái thổn thức đó, ai đã qua lúc

này như tôi, ai đã phải giọt nước mắt đầu của ái tình, bị đè nén bấy lâu, nó rỏ vào ruột mới hiểu được.

Tôi nói không ra tiếng nên cầm lấy tay nàng mà lôi dậy, van nàng im đi. Trong ngũ quan tôi hình như

cùng lay động, một lúc tôi mới nói được một câu rằng … ( Xem Tố Tâm)

Hai tác giả của Quả dưa đỏ và Tố Tâm dù đã cố gắng đổi mới câu văn nhưng hai ông vẫn chưa

đoạn tuyệt được hẳn với lối văn biền ngẫu đăng đối, các từ ngữ Hán việt. Tuy nhiên, đến thời của các

nhà văn Tự lực văn đoàn, câu văn Việt gần như đã có được một sự cách tân hoàn toàn so với trước.

Một phần vì tôn chỉ Tự lực văn đoàn ghi rõ: “dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn

thật có tính cách An Nam”, một phần khác là vì nội dung họ đề cập là phong tục, những sinh hoạt gắn

với người bình dân, nên từ ngữ, câu văn phải dung dị, dễ hiểu. Các tiểu thuyết như Nửa chừng xuân,

Gia đình, Con trâu, … của Tự lực văn đoàn có rất nhiều thành ngữ – cách nói của người bình dân

“Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân” (Hồ

Chí Minh).

Chỉ riêng tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng chúng tôi đã thống kê được hơn bảy mươi thành

ngữ: “trông gà hóa cuốc”, “run như cầy sấy”, “bóp hầu mổ bụng”, “tức lộn ruột”, “cá lớn nuốt cá

bé”, “giấu đầu hở đuôi”, … Đa số thành ngữ của tiếng Việt đều được hình thành trên cơ sở của các

phương thức so sánh, ẩn dụ, hoán dụ. Do đó, cũng thì miêu tả nhưng miêu tả bằng thành ngữ thì hình

ảnh của đối tượng được miêu tả hiện lên rõ ràng sinh động và hấp dẫn hơn nhiều.

“Nhưng họ lại sợ cái tính đầu bò đầu bướu của lý Cúc” [103, tr. 620].

“Đầu bò đầu bướu” là một thành ngữ. Với việc thành ngữ vừa ngắn gọn, dễ hiểu vừa có tính

tạo hình cao này, nhà văn Trần Tiêu đã thông tin đầy đủ với người đọc tính cách ương ngạnh, bướng

bỉnh, bất cần, không bao giờ biết lùi trước bất kỳ ai nhân vật lý Cúc.

Hay thành ngữ “đầu tắt mặt tối” trong câu văn miêu tả sau cũng của Trần Tiêu: “Suốt mấy

ngày, vợ chồng con cái làm lụng đầu tắt mặt tối, sáng đội thóc đi tối đội thóc về” [103, tr. 605] chẳng

hạn. Nó vừa cho chúng ta biết từ ngày nay sang ngày khác, để có chén cơm, cả nhà bác xã Chính phải

làm lụng quần quật, hết việc nọ đến việc kia vừa tỏ được niềm cảm thông sâu sắc của tác giả dành cho

nhân vật.

Bên cạnh khả năng vận dụng hợp lý nhiều thành ngữ, Nhất Linh, Khái Hưng và Trần Tiêu còn

được biết đến như những chuyên gia về từ láy vì cách sử dụng từ láy của họ thật tự nhiên:

Cô thiếu nữ xấu hổ lui ra mấy bước rồi lại ngần ngừ đứng lại. Lúc bấy giờ, một cậu học trò độ

chín, mười tuổi, đứng sau hàng giậu vẫy cô. Cô rón rén đến gần, mắt lấm lét nhìn người canh cổng

[51, tr. 8].

Lối dùng những tiếng láy để làm tăng âm điệu của câu và ý nghĩa của chữ không phải là mới lạ

trong văn chương Việt Nam. Chỉ có điều trong một đoạn văn rất ngắn, tác giả của nó dùng đến ba từ

láy. Cả ba đều đã được nhà văn đặt đúng vị trí nên câu văn miêu tả hết sức gợi hình, gợi cảm.

Trong tiếng Việt, không những có giá trị tạo hình mà “Mỗi từ láy là một nốt nhạc về âm thanh,

chứa đựng trong mình một bức tranh cụ thể của các giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác,

khứu giác … kèm theo những ấn tượng về sự cảm thụ chủ quan, những cách đánh giá, những thái độ

của người nói trước sự vật, hiện tượng đủ sức thông qua các giác quan hướng ngoại và hướng nội của

người nghe mà tác động mạnh mẽ đến họ” [9, tr. 54]. Vậy mà, các kiểu láy hoàn toàn, láy bộ phận

được dùng để miêu tả người: đăm đăm, dửng dưng, se sẽ, run run, lững thững, thủng thỉnh, hấp tấp,

luộm thuộm, khúm núm, rón rén, bẽn lẽn, dịu dàng, lẳng lặng, …; miêu tả cảnh: mơn mởn, lù mù, lấm

tấm, ngoắt nghéo, khúc khuỷu …; miêu tả âm thanh: văng vẳng, lao xao, lạt sạt, sụt sịt, se sẽ, om sòm,

… lại xuất hiện dày đặc trên khắp các trang văn của Nhất Linh, Khái Hưng. Điều này đã phần nào làm

tăng thêm nhiều sắc thái biểu cảm, tăng tính họa và tính nhạc cho tác phẩm.

Mặc dù vậy, gây chú ý đặc biệt với người đọc hơn cả là việc tạo ra biến thể của từ bằng cách

xen kẽ từ “với” hoặc kết hợp phương thức láy với hình vị sau được cấu tạo kiểu “X+iếc” của Trần

Tiêu: trùm với chẳng trùm, khéo với chẳng khéo, khất với khứa, cụ với kiếc, ăn với nói, tát với tiếc, gỏi

với ghém, biếu với xén, tiếc đắt tiếc rẻ, cháu với chiếc, tĩnh tiếc, hoa hiếc, hàng sốc hàng siếc, ông hàn

ông hiếc, đảo võ đảo viếc, giếng giếc … thật gần gũi với lời ăn tiếng nói của người dân quê. Không

những thế, thông qua lớp từ này tác giả cũng đồng thời biểu thị một thái độ phủ định, “Các từ láy âm

mà hình vị láy ở sau có vần “iếc” có ý nghĩa phi cá thể hóa kèm theo thái độ phủ định giá trị của sự

vật, hiện tượng”, đối với hiện tượng được nói tới.

Một khi đã đề cập đến ngôn ngữ, chúng ta không thể nào bỏ qua mặt cấu tạo câu. Trước Tự lực

văn đoàn, cú pháp câu văn do chịu nhiều ảnh hưởng của lối văn biền ngẫu từ Trung Quốc nên thường

dài dòng, nhiều vế đăng đối với nhau: “Nghĩ cho con người ta có cái thân ở đời mà nếu không làm nên

được sự nghiệp gì, thứ nhứt là sinh làm con trai An Nam đương buổi đời này, như vẫn có sự nghiệp rất

vĩ đại để dành cho, mà chỉ lờ lững ở dưới bóng tà dương hay chen vai ở trong cái xe điện, thời chẳng

thà được như con diều hâu đó, đem cái thân ra mà làm bạn với trời xanh” (trích lại theo Trịnh Hồ

Khoa – Những cách tân trong nghệ thuật văn xuôi Tự lực văn đoàn). Ngày nay, nó được thay bằng

những câu đơn ngắn và câu đơn mở rộng hai ba thành phần. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ tạm bỏ qua những

câu đơn ngắn, chỉ dẫn ra một vài câu dài để làm một phép so sánh với những câu dài đã dẫn của

Nguyễn Trọng Thuật và Hoàng Ngọc Phách:

- Cái nhà này ông ta ở đã hơn hai chục năm nay, từ ngày chưa có Mai và Huy, ông ta thuộc từng cái

xà cái rui, từng gốc tường sứt, bây giờ ông ta sắp sửa phải rời nó để đi nơi khác, để nhường lại cho

người chủ mới họ đem đống bạc đến cướp, mà chôn vùi biết bao sự vui, sự buồn, sự giận của gần một

trăm năm [51, tr. 59].

- Được chồng luôn luôn ngủ bên nhà mình, cô ba lên lên mặt hãnh diện với hàng xóm láng giềng lắm,

và tỏ ý tôn kính chồng như một ông lớn vậy: ra vào rón rén, bắt đầy tớ không được nói chuyện hoặc

hắng giọng để được tĩnh mịch cho quan Hàn yên giấc [51, tr. 69].

- Vả lại, trong làng có mấy anh chồng là không rong chơi thỏa thích trong mấy tháng xuân, có mấy

anh chồng là đi bắt sâu bẻ ngành, trừ khi những anh ấy thuộc vào hạng đụt, không biết quân bài lá bạc

là gì, không biết đỏ mặt tía tai vì chai rượu với chiếc đùi chó [103, tr. 763].

Câu văn Tự lực văn đoàn viết tuy dài nhưng rõ ràng không rườm rà, không đăng đối, và chứa

đựng được một lượng thông tin lớn.

Những ai từng đọc Đoạn tuyệt có thể cũng sẽ đồng tình với đánh giá của Bạch Năng Thi: “Văn

Nhất Linh vừa rành mạch, trong sáng vừa có nhạc điệu, có hình ảnh. Nó diễn tả được những cảm giác

tinh vi. Nó sử dụng các so sánh cụ thể, có khả năng tạo hình và gợi cảm. Những cảnh dựng nên thường

chỉ thoáng qua thôi và chỉ chiếm mấy dòng chữ, lại ăn nhịp với tâm trạng của nhân vật” [26, tr. 507].

Nỗi buồn của người phụ nữ trẻ không được toại nguyện trong tình yêu, thật vậy, đã được Nhất Linh

diễn tả lại bằng những câu văn rất hiện đại mà vẫn bảo đảm tính mềm mại uyển chuyển, duyên dáng,

tinh tế của người Việt Nam:

Một cơn gió lạnh lọt vào phòng. Bỗng Nhung đột nhiên thấy lòng buồn man mác; nhìn vẻ mặt

tươi đẹp của mình, Nhung nghĩ đến rằng không bao lâu nữa ngắm lại dung nhan, nàng sẽ thấy mái tóc

điểm sương, mắt nàng mờ, và cũng như đôi gò má hồng, tình yêu của Nghĩa có một ngày kia phai lạt.

Tháng đi, năm đi, mùa xuân của đời nàng đi qua không bao giờ trở lại nữa [65, tr. 204]!

Dù Tự lực văn đoàn vẫn còn một vài chỗ “làm văn”:

Buổi chiều mùa xuân hạt mưa lấm tấm, bao phủ hồ Tây bát ngát mênh mông. Con thuyền nan

của khách chơi xuân rập rờn trên mặt nước. Cơn gió may thoảng đưa, mấy chiếc lá vàng rơi lác đác.

Mai ngước nhìn lên, búp xuân non mơn mởn đầu cành. Cái cảm tưởng về xuân dịu dàng êm ái, khiến

Mai hé cặp môi tươi thắm mỉm cười với xuân, trong lòng chứa chan hy vọng [51, tr. 26].

Mai tì tay lên bao cửa nhìn xuống con sông sâu thẳm, nước đỏ lờ đờ, điểm hạt mưa xuân lấm

tấm. Chiếc buồm trắng con, xen lẫn vào bọn buồm nâu sắc thẫm, to bản cột cao, rồi theo dòng nước

theo chiều gió trôi đi như lướt trong cảnh rộng bao la, mà biến vào đám xa mờ mịt. Mai thở dài lo sợ

vẩn vơ cho số phận chiếc thuyền con, lại trạnh nghĩ vơ vẩn đến phận mình [51, tr. 41].

hay đôi khi kiểu cách: “Cái nào cũng rõ ràng phân hắc bạch”, “điều đình với người láng giềng”,

“tình âu yếm của song thân”, “phải thập niên đăng hỏa mới đậu được tú tài”, “quý hồ họ không tình

phụ mình, chẳng thèm phúc âm”,… nhưng về Tự lực văn đoàn, vấn đề tranh cãi không nằm ở ngôn

ngữ. Nhìn chung, ai cũng công nhận một điều là trên chặng đường phát triển của ngôn ngữ tiểu thuyết

ở Việt Nam ta, công sức của các nhà văn Tự lực văn đoàn đóng góp vào rất lớn: “Cùng với sự đổi mới

của thể loại, Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp quan trọng vào việc đổi mới câu văn xuôi quốc

ngữ đưa nó tới chỗ thuần thục. Câu văn xuôi quốc ngữ sau mấy chục năm tập rèn nổ lực khá vất vả

của nhiều nhà văn lớp trước đến Tự lực văn đoàn mới thật gọn gàng, nhẹ nhõm, đạt tới sự trong sáng

cần thiết” (trích bài giới thiệu của Nguyễn Hoành Khung viết cho bộ Văn xuôi lãng mạn Việt Nam,

Nxb Văn học, Hà Nội). Chúng tôi không muốn đi khẳng định lại. Những phân tích về đặc điểm ngôn

ngữ ở trên chỉ để cho thấy bên cạnh nội dung phản ánh các vấn đề liên quan đến phong tục, thì ngôn

ngữ trong sáng tác của nhà văn này cũng mang tính phong tục. Mỗi đối tượng phản ánh khác nhau,

ngôn ngữ được họ dùng khác nhau. Họ đã chọn viết những câu đơn bình dị, ngắn gọn, rõ ràng. Mỗi ý

dù chính hay phụ đều được diễn đạt thành một câu biệt lập, không làm cho câu văn rườm rà, tối nghĩa.

Không những thế những nhà văn này còn khéo sắp xếp câu văn nọ nối tiếp câu văn kia theo quan hệ

logích tạo cho mạch văn phát triển tự nhiên. Bên cạnh đó, các nhà văn Tự lực văn đoàn còn là những

người nắm rất vững cấu trúc ngữ pháp của câu văn tiếng Việt, có khả năng kết hợp các loại từ trong

câu, từ chỉ mục đích, sở chỉ …. nên đã linh hoạt khi tổ chức câu văn xuôi tiếng Việt. Do đó, dường như

tất cả các dạng ngôn ngữ, từ ngôn ngữ nói của nhân vật, lời bình của nhà văn trong tác phẩm đều là

ngôn ngữ hàng ngày của đời sống, ngôn ngữ của giai đoạn 1930 – 1945.

Dù trong những sáng tác của mình các nhà văn Tự lực văn đoàn không bao giờ trực tiếp tham

gia vào kết cấu tác phẩm với vai trò của một nhân vật. Nhưng tâm hồn lãng mạn cùng với tầm quan sát

nhân vật ở điểm nhìn gần nên đôi lúc Khái Hưng, Nhất Linh và Trần Tiêu đã xen nhiều đoạn văn trữ

tình ngoại đề trong lời văn kể, văn tả:

Kể ra giá chàng cứ thú thật với Mai rằng mẹ chàng không bằng lòng cho chàng kết hôn cùng

Mai. Nhưng ngoài Mai ra, chàng không thể yêu được một người nào khác, thì có lẽ Mai cũng vì chàng

mà hy sinh hết trinh tiết cùng danh dự, hy sinh cả cái đời thanh niên [51, tr. 102] (xem thêm Nửa

chừng xuân các trang 103 – 105).

Chính nhân vật đang nuối tiếc hay Khái Hưng đang bình luận về hành động thiếu sáng suốt của

nhân vật? Đọc đoạn văn đầy suy tư trên chúng ta có thể sẽ trả lời là cả hai. Nhân vật nuối tiếc cho bản

thân. Nhà văn nuối tiếc cho nhân vật. Đoạn văn đậm chất trữ tình.

Tương tự, chúng ta đọc tiếp một đoạn khác trong tiểu thuyết Chồng con của Trần Tiêu:

Đem Hĩm ví với con lợn thì tội nghiệp cho Hĩm quá! Vả lại cũng không đúng với tâm tính Hĩm

chút nào. Hĩm ngây thơ, dại dột như con chim, dễ quên nỗi khổ, thản nhiên (…) Mà biết đâu! Bà Nghị

cả có thể ốm, chết, để lại cho Hĩm cả một cơ nghiệp đồ sộ. Biết đâu dòng dõi nhà ông Nghị, lại không

ở Hĩm mà sinh sôi nảy nở? Ấy là mẹ Hĩm vì thương Hĩm quá mà nghĩ lẫn thẫn như thế cho khuây khỏa

nỗi ăn năn [103, tr. 816]…

Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn nghiên về khuynh hướng hiện thực khách quan như

Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, người đọc khó có thể tìm được những đoạn văn bàn luận trữ

tình kiểu này - Xuyên suốt tác phẩm, các nhà văn hiện thực chỉ miêu tả những sự kiện xảy ra xung

quanh nhân vật. Họ rất ít khi đưa ra lời bình luận – thì trong sáng tác của các nhà văn Tự lực, điều này

sẽ ngược lại. Họ là những nhà văn thuộc trào lưu lãng mạn nên họ rất quan tâm đến thế giới tình cảm,

đến tâm hồn con người. Vì vậy, mặc dù nội dung tác phẩm được xác định là tập trung phản ánh phong

tục nhưng tất cả nỗi lòng của những nhân vật như cô Mai, cô Loan, chị xã Bổng, hay bác Chính … từ

những rung động khẽ khàng nhất đều đã được Nhất Linh, Khái Hưng hay Trần Tiêu thấu suốt. Điều

này khiến họ không chỉ trực tiếp giải bày nỗi niềm của nhân vật mà đôi khi còn xen cả những lời giải

thích, bình luận trữ tình ngoại đề. Qua những đoạn văn trữ tình này nhà văn sẽ thể hiện thái độ yêu

ghét rõ ràng. Tiểu thuyết phong tục của Tự lực văn đoàn do đó không chỉ tái hiện được phong tục mà

còn cho thấy cả thái độ của người viết trước những vấn đề phong tục ấy. Tuy nhiên, trong thể tài tiểu

thuyết phong tục, yếu tố tạo nên âm hưởng chủ đạo cho tác phẩm nằm ở giọng điệu.

Giọng điệu là khái niệm gắn liền với phong cách nhà văn. Nó bao gồm trong đó cả cách diễn

đạt, cú pháp, âm thanh và nhịp điệu. Do gắn liền với cảm hứng sáng tác nên giọng điệu của người kể

chuyện trong tác phẩm thường biểu hiện một thái độ nhất định. Tức tương ứng với mỗi loại cảm hứng,

người kể chuyện sử dụng mỗi giọng điệu khác nhau. Cảm hứng phê phán, giọng điệu sẽ bình thản, hoạt

kê hay lên án; cảm hứng trữ tình, giọng điệu sẽ thiết tha thương cảm, ….

Giọng cảm thông chia sẻ là giọng điệu xuất phát từ lòng cảm thông của nhà văn khi chứng kiến

những điều vượt quá sức chịu đựng con người. Đó có thể là những khổ đau về mặt thể xác, có thể là

những khổ đau về mặt tinh thần:

Trong lúc nói câu ấy nàng nhận thấy một cách rõ rệt sự đè nén khốc liệt của cái xã hội nhỏ

quanh mình. Em nàng vài hôm nữa sẽ đi với chồng xa hẳn được nhưng còn nàng thì nàng không biết

bao giờ mới thoát khỏi. Nào cha mẹ đẻ, nào em chồng, nào họ hàng làng nước, bao nhiêu thứ bắt nàng

không thể sống theo ý muốn của mình được. Nàng biết rằng mọi người đã muốn cho nàng là một người

đàn bà giá ở vậy thờ chồng, thì nàng phải ở vậy thờ chồng. Nàng thấy thoáng hiện ra trước mắt bức

hoành phi treo ở buồng khách nhà nàng và mấy chữ “Tiết hạnh khả phong” cái phần thưởng cuối

cùng của những người biết ăn ở phải đạo như nàng [65, tr. 85].

Lời văn thật trong sáng chan chứa yêu thương, giọng điệu lại thiết tha trữ tình cho thấy Nhất

Linh thấu hiểu nỗi cô đơn của nhân vật. Đọc những câu văn trên ta cảm giác dường như tác giả của nó

đang muốn sẻ chia với nhân vật của mình gánh nặng từ bốn chữ “Tiết hạnh khả phong”.

Ngoài sự thấu hiểu nhân vật, thái độ “thỏa hiệp” của nhà văn cũng được thể hiện bằng giọng

cảm thông:

Ngồi trong xe nhìn ra cảnh hàng phố và những người qua lại dưới mưa tầm tả, Nhung rạo rực,

hối hận; nàng thấy nàng là một người hư hỏng và đời nàng là một đời bỏ đi, tan tác, rã rời như những

cây ướt mưa bị gió đập hai bên đường. Nàng rưng rưng muốn khóc. Nhưng cùng với hai giọt lệ ứa ra

ở khóe mắt, Nhung thấy một nỗi sung sướng man mác nẩy ra ở trong lòng, với những điều ước vọng

mơ màng về một cuộc đời mới mẻ, đáng sống và tốt đẹp hơn cái đời nhơ nhuốc của nàng hiện giờ.

Nàng ngẫm nghĩ: Có gì mà nhơ nhuốc (…) vả lại nếu mà xấu nữa thì cái xấu ấy còn hơn cái đẹp giả

dối, đánh lừa mọi người [65, tr. 155].

Nhất Linh miêu tả cảnh Nhung sau khi ở nhà Nghĩa trở ra. Giọng điệu câu văn trong đoạn trên

thật linh họat nhịp nhàng. Lúc trầm lúc bổng, lúc trữ tình lúc lại như đang lập luận với ai. Nhung day

dứt hay chính Nhất Linh đang day dứt để rồi đi đến lý luận bảo vệ Nhung “có gì mà”, “vả lại”? Có lẽ

là cả hai?! Nhung day dứt vì nàng không muốn sống lừa dối mà lại phải lừa dối. Còn Nhất Linh, ông

càng day dứt hơn. Ông yêu thương Nhung nhưng không làm gì được cho nàng. Ông đành phải chứng

kiến nàng trong tình trạng bị lương tâm dằn xé với một tấm lòng cảm thông sâu sắc.

Có thể là lời lẽ tha thiết, chan chứa yêu thương; có thể xen kẻ giữa lý luận và trữ tình để bảo vệ

nhân vật nhưng chủ âm của giọng điệu cảm thông chia sẻ trong tác phẩm của các nhà văn lãng mạn

vẫn là những thanh âm trong trẻo, nhẹ nhàng. Điều này khác so với giọng cảm thông của những nhà

văn hiện thực:

Hạnh buông màn nằm thao thức nghe ngóng từng tiếng động nhỏ ngoài cửa. Chợt có cơn gió

nổi lên lao xao ngoài vườn chuối. Một con đom đóm bay tọt qua lỗ cửa vào trong nhà lượn đi lượn lại

rồi đậu ngay vào màn Hạnh. Hạnh kéo khăn trùm kín đầu. Hạnh không rõ đom đóm bay vào nhà là

lành hay dữ? Ý nghĩ về con đom đóm cứ ám ảnh mãi trong giấc ngủ chập chờn [52, tr. 282].

Cũng là chia sẻ nhưng hãy đọc to đoạn văn trên, chúng ta sẽ nhận ra rằng nó không có được âm

điệu nhẹ nhàng, trữ tình, man mác thấm sâu lòng người như lời sẻ chia, như lời bầu bạn. So với các nhà

văn lãng mạn, giọng cảm thông của các nhà văn hiện thực thường biểu hiện ra bằng những âm trầm và

đục. Nhà văn viết từng câu rất ngắn, nhịp văn rất chậm rãi.

Bên cạnh giọng cảm thông chia sẻ, trong khi trình bày bức tranh phong tục, ta thấy ở các nhà

văn Tự lực văn đoàn còn nổi lên rất rõ giọng lên án, phê phán. Đây là giọng điệu thường gặp nhất khi

nội dung phản ánh của tác phẩm xoay quanh lối sống cổ hủ, lợi dụng vào phong tục để trục lợi cho bản

thân. Trong sáng tác của mình, các nhà văn Tự lực văn đoàn không sử dụng những thanh âm cao,

không đả kích hay chê bai như những nhà tiểu thuyết xã hội. Vì nếu như thế “chất phong tục” của tác

phẩm sẽ bị phá vỡ. Muốn tố cáo lên án, người kể chuyện trong tiểu thuyết phong tục thường dùng đến

một cách kể từ tốn rồi xen vào đấy các câu phân tích bình phẩm, các câu văn tả. Từ ngữ được lựa chọn

đồng thời cũng phải có tính hình tượng cao.

Những câu chuyện của bọn này có phần quan hệ trịnh trọng hơn. Họ tiếc thời xưa, phàn nàn

thời buổi dở dang này. Họ nói: thời họ còn làm việc làng có nhiều mỹ tục. Thí dụ như đời bố mà không

bầu xã, bầu nhiêu thì con dẫu có thiên ức vạn lai cũng chẳng cất đầu lên được. “Thời nay thì úi chao!

Động có của là lý nọ khán kia rối xòe, chẳng cần đếm xĩa đến dòng dõi ông cha. Con thằng bạch đinh

mà có tiền, cũng có thể nhảy lên làm ông lý. Như - đến đây các cụ hạ giọng nói rất khẽ - lão cán Cẩn

với con hắn. Rồi chẳng khỏi đến cháu chắt hắn. Thế mà khi xưa ông cha chẳng bầu bán gì cả, suốt đời

chỉ đi gồng đi gánh, chẳng hơn gì thằng mõ!”.

Thực ra thì các cụ ghen tị mà nói thế thôi, chứ thời nay cũng không khác xưa mấy. Cán Cẩn và

con hắn ngóc đầu lên được cũng vì các cụ, vì các cụ muốn có tiền bỏ túi lại muốn có cổ, có phần. Vả

lại tuy hắn, con hắn có ngôi thứ hẳn hoi, các cụ vẫn rẻ rúng, vẫn xúm lại mà bắt nạt.

Những câu chuyện đương nồng nàn từ trên chí dưới bỗng im bặt và mặt ông nào ông nấy bỗng

hiện vẻ nghiêm trang và bước đi của ông đại bỗng trở lại chậm chạp, trịnh trọng, dõng dạc như lúc

mới ở đình bước ra [103, tr. 622].

Đoạn văn của Trần Tiêu thuật lại diễn biến trên đường đi từ đình làng đến nhà ông thủ chỉ.

Đoạn văn dẫu chỉ ghi chép lại những câu chuyện được nói giữa đường nhưng nội dung những câu

chuyện là việc làng việc giáp. Hơn nữa, những nhân vật góp chuyện lại là các cụ có vai vế cả, sao Trần

Tiêu lại sử dụng nhiều từ ngữ lạ lùng thế? Nào “cất đầu”, “động có của là lý nọ, khán kia”, “rối xòe”,

“đếm xỉa”, “nhảy lên”, “bầu bán”, “ghen tị”, “ngóc đầu”, “xúm nhau” rồi “dẫu có cũng chẳng”,

“đương bỗng” … kết hợp với câu văn phân tích “ thực ra thì … bắt nạt”. Tất cả được nhà văn sắp xếp

đâu vào đấy để thành một đội quân từ ngữ. Và thế là cả một sự thật không ra gì của bộ máy lý dịch ở

nông thôn xưa và nay, và cả tính ngấm ngầm đố kỵ ghen ghét nhưng chỉ giỏi nói sau lưng của các cụ

“đến đây các cụ hạ giọng, nói rất khẽ” đều không thể che đậy được nữa.

So với giọng lên án của Trần Tiêu, giọng lên án của Nhất Linh có phần “đanh thép” hơn:

Chính bà mẹ chồng đã giết chết cháu bà mà không biết. Bà còn đổ lỗi cho thị Loan cái tội giết

con! Đến nay, bà đổ cho thị Loan cái tội giết chồng, nhưng bà có biết đâu, con bà chết là lỗi ở bà, lỗi

ở luân lý trái mùa và quá ư nghiêm ngặt kia. Người có tội chính là bà mẹ chồng thị Loan và cái luân lý

cổ hủ kia. Nhưng nếu vượt lên trên và nghĩ rộng ra, không kể đến cá nhân nữa, thì bao nhiêu những

việc xảy ra không phải lỗi ở người nào cả, mà là lỗi ở sự xung đột hiện thời đương khốc liệt của hai

cái mới, cũ [101, tr. 110].

Nhà văn đã lên án quá khéo léo. Ông mượn lời trạng sư để tố cáo cái chế độ nô lệ đang tồn tại

trong mỗi gia đình người Việt. Câu văn được tổ chức chặt chẽ, rõ ràng dễ hiểu. Lập luận sắc bén. Thái

độ người phát ngôn có sự phân định yêu ghét rạch ròi, công kích trực diện vào đối tượng: “chính là”,

“không phải”. Tác phẩm đã có sức phê phán tố cáo mạnh mẽ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, có lẽ đây lại

chính là một trong những nguyên nhân để Vũ Ngọc Phan xếp tiểu thuyết của Nhất Linh vào loại tiểu

thuyết luận đề: “Có mấy tập tiểu thuyết của ông (Nhất Linh – PTMT) là những truyện dựng theo một

luận đề. Đọc những truyện ấy người ta có cái cảm tưởng: xấu xa như thế này đây và cần phải sửa đổi

như thế này” [26, tr. 273].

Đa số các nhà văn khi viết về hủ tục, đặc biệt là những hủ tục thuộc về đời sống tâm linh, còn

thường hay dùng đến giọng điệu hoạt kê. So với giọng lên án, giọng hoạt kê có khả năng làm cho vấn

đề giảm bớt tính căng thẳng, tác giả tránh được phần nào những “va chạm” không cần thiết. Hay nói

theo cách của M. M. Bakhtin trong công trình nghiên cứu về Sáng tác của Francois Rabelais và nền

văn hóa dân gian trung cổ và phục hưng thì giọng điệu hoạt kê được sử dụng trong tiểu thuyết phong

tục là nhằm để “giải thiêng”:

Xã Chính đánh một hồi ba tiếng. Dứt tiếng thứ ba, tám anh ghé vai, nhắc bổng kiệu lên rất đều

đặn, ngay ngắn vì các anh khiêng kiệu nhiều lần nên đã thạo lắm. Trống cà rùng, trống cái, trống con,

bát âm nổi dịp. Rồi tiếng loa giục, tiếng tù và inh ỏi.

Nhưng kiệu ngài đến cổng liền dừng lại không chịu nhúc nhích. Ông lý Hiểu tạm lĩnh chức đại

bái và các cụ xúm lại khấn khứa mãi, ngài nể lời mới chịu đi cho. Đi được mươi bước, ngài bắt đầu

bay, bay mãi. Các cụ xoắn tay áo thụng lên tận khuỷu, chạy theo kiểu đàn vịt, hai dãi mũ bay tỏa ra

đằng sau như đôi cương ngựa. Xã Chính quên cả lùi chạy bán sống bán chết, đứt cả guốc mà không

dám trở lại nhặt.

Ngài bay thẳng vào đình thôn hạ, đứng lại hồi lâu ở sân đình cho các kỳ hào “văn vũ” đến lễ

khấn đầu, rồi ngài lại bay vào đình thôn Thượng, thôn Tiền. Khác các thánh, ngài bay cả vào thôn

Trung. Rồi ngài xoay, ngài lùi, ngài phi. Mỗi lần ngài làm dữ quá, các cụ lại phải xúm lại cầu khấn”

[103, tr. 668].

Cũng cờ, cũng trống, cũng kiệu, cũng khăn đóng áo dài đón rước đức ông nhưng trước mắt

người đọc không phải khung cảnh của một nghi thức lễ. Tất cả hình ảnh ở đây hiện ra như “một hoạt

cảnh”. Kiệu thì được “nhắc bổng”, lúc “không chịu nhúc nhích” lúc lại “bay, bay mãi”. Hết “xoay” rồi

lại “lùi”, lại “phi”. Chưa đủ. Còn thêm hình ảnh của các cụ với áo thụng, tay xoắn đến tận khuỷu lúp

xúp chạy theo. Xã Chính đứt cả guốc mà không dám quay nhặt … Trần Tiêu đã có mặt trong buổi lễ

cầu đảo. Nhưng vị trí quan sát của nhà văn không giống với dân làng. Ông chếch điểm này nhìn một

chút, dịch sang điểm kia vài phân. Tức thì hình ảnh buổi lễ trở nên hết sức ngộ nghĩnh. Ông đã phá tan

làn sương huyền ảo vẫn bao bọc bấy lâu và mọi thứ tưởng như rất trang nghiêm kia nay đã được miêu

tả lại với một thái độ hài hước và dí dỏm. Nhưng các cụ không ai có thể bắt bẻ ông. Phê phán như nhà

văn quả thật là rất khôn ngoan và khéo léo. Nụ cười của ông không phải là nụ cười của một người dễ

dãi vui tính hay thâm độc bí hiểm. Cũng như Hồ Xuân Hương, tiếng cười của Trần Tiêu là tiếng cười

đầy tính chất “canavan” – tiếng cười giải thiêng, tiếng cười kéo xuống.

Ngoài phương thức canavan hóa của Trần Tiêu, trong tác phẩm của hai nhà tiểu thuyết Nhất

Linh và Khái Hưng, giọng điệu hoạt kê còn được vang lên từ những tình tiết bất ngờ, thú vị. Người đọc

Thừa tự (Khái Hưng) vốn đã biết bà ba là người có tính keo kiệt và đầy mưu mô ngay từ đầu. Nhưng

cũng không thể ngờ rằng vì không thể để mất món hồi môn cho con gái, bà có thể giả vờ khóc chồng.

Bà khóc lóc, và kể lể nhiều quá đến ngất xỉu. Thế là Cúc và Phan không thể vào lạy bà. Bà không nhận

lễ được tức bà cũng không mừng con được. Tài sản kếch sù của bà đã không phải hao mòn vì con. Vậy

mà mỉa mai thay khi chứng kiến cảnh ấy ai nấy đều nghĩ thật lòng bà ba đang thương nhớ đến người

quá cố!

So với những tiểu thuyết phong tục của các nhà văn khác, nhìn chung giọng điệu hoạt kê của

tiểu thuyết Nhất Linh, Khái Hưng và Trần Tiêu không mang âm vang ầm ĩ, không gây ồn ào náo nhiệt.

Nó không phải là tiếng cười trào lộng như tiếng cười của Nguyễn Công Hoan trong Cái thủ lợn:

Tức thì năm khách ăn, cùng một lượt, chấm đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ vào nước đựng

trong chậu thau đầu bé và nông như chiếc đĩa tây, để cọ vào nhau và quệt lên hai mép nhờn bóng. Họ

rửa xong, người rút vuông vải bằng màu nước dưa giắt ở thắt lưng, người kéo thứ khăn dự khuyết là

vạt áo để chùi mồm. Người không có gì lau thì dùng luật khoa học, bắt tạo hóa phải hầu. Nghĩa là sức

nóng của trời dần dần hút hết nước đi [46, tr. 453].

Hay sảng khoái như tiếng cười họ Vũ:

Cả gia đình ấy đã nhao lên mỗi người một cách, đi gọi từ ông lang băm Tây cho tới ông lang

băm Đông, già và trẻ, để thực hành đúng cái lý thuyết “nhiều thầy thối ma”. Ông cụ già chết, danh dự

của Xuân lại càng tô thêm, vì cái lẽ rất chính đáng là luôn ba hôm nó đã trốn một chỗ nào không ai

biết (…) thiếu thầy đốc tờ Xuân là thiếu tất cả, những ông thầy thuốc chính hiệu đã thất bại hoàn toàn

(…) trong lúc gia đình nhốn nháo, thằng bồi tiêm đã điếm được đúng một nghìn tám trăm bảy mươi

hai câu gắt “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! [11, tr. 179].

Tiếng cười trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn mang một thanh âm lắng đọng, xoáy sâu vào lòng

người. Đó là một tiếng cười đầy ý vị.

Vào thời điểm thể tiểu thuyết vừa mới xuất hiện, để có được một lối diễn đạt gần gũi với lời ăn

tiếng nói hàng ngày đã là cả một một vấn đề. Thế mà tiểu thuyết của các nhà văn Tự lực văn đoàn

ngoài cách diễn đạt tự nhiên còn phong phú về giọng điệu. Mặc dù họ chưa thể tiến đến một tiểu thuyết

“đa thanh” theo quan điểm của Bakhtin nhưng ta vẫn thấy đâu đó trong những tác phẩm của các nhà

văn này có sự thay đổi của nhiều giọng điệu khác nhau. Giọng điệu nhân vật rồi giọng điệu người kể

chuyện; giọng lên án rồi giọng cảm thông chia sẻ, giọng hài hước. Tất cả đều được thể hiện thật linh

hoạt, nhịp nhàng, đầy hấp dẫn và lôi cuốn. Tự lực văn đoàn do đó đã rất xứng đáng với đánh giá khi

được các nhà nghiên cứu, là nhóm văn mở ra một thời đại tiểu thuyết mới ở Việt Nam.

* *

*

Mặc dù với người nghệ sĩ, sáng tạo là để thể hiện một cách nhìn một cách cảm thụ, một thái độ,

một lời đề nghị về cuộc sống. Nhưng trên thực tế, đúng Gi. P. Xactrơ đã có lần nói: “Và một khi tác

phẩm đã hoàn thành, điều làm người đọc chú ý đầu tiên vẫn là cái hình thức mà người ta giả vờ khinh

miệt, cái hình thức mà ý nghĩa của nó người ta không phải lúc nào cũng nói được một cách chính xác

nhưng lại tạo cho người đọc thế giới riêng của tác phẩm” [29, tr. 185]. Trong nghệ thuật, người ta

không chỉ cần tư tưởng mà cần cả hình thức. Một tác phẩm chứa đựng tư tưởng lớn lao nhưng hình

thức thể hiện qua loa đại khái sẽ không thể xem là một tác phẩm có giá trị văn học mà chỉ là một bài

thuyết giáo về tư tưởng. Nội dung tư tưởng phải được chuyển hóa bằng hình tượng nghệ thuật, tình

huống, chi tiết và hiện thực hóa bằng ngôn từ. Nhìn lại quá trình sáng tác của các nhà văn Nhất Linh,

Khái Hưng và Trần Tiêu, chúng ta thấy những hình thức nghệ thuật của họ vừa đảm bảo phù hợp với

yêu cầu thể tài, vừa lại thể hiện được dấu ấn sáng tạo riêng. Thế giới họ tạo dựng vì vậy là một thế giới

cụ thể về những cảnh đời, những kiểu người, thế giới của âm thanh, màu sắc, đường nét và hình khối –

một thế giới không thể bị hòa tan vào đại dương của những sáng tác cùng thời.

KẾT LUẬN

Tiểu thuyết phong tục là một thể tài văn học, có nội dung phản ánh xoay quanh những vấn đề

phong tục. Thể tài này xuất hiện và phát triển ở phương Tây từ thế kỷ XVIII, XIX. Sang đầu thế kỷ

XX, nó được du nhập vào Việt Nam. Trong những năm đầu mới đến với mảnh đất giàu truyền thống

thơ ca này, tiểu thuyết phong tục phải bước những bước đi chập chững. Nhưng ba mươi năm sau, tức

từ năm 1930 – 1945, thể tài tiểu thuyết này bắt đầu được phát triển rầm rộ từ Nam chí Bắc. Bất kể là

nhà văn theo khuynh hướng hiện thực hay lãng mạn, mỗi người đều cho ra đời ít nhất một tác phẩm có

nội dung xoay quanh một vấn đề phong tục tập quán nào đó của nước nhà.

Có phong tục miền ngược, có phong tục miền xuôi, có phong tục ở thành thị, cũng có phong tục

nông thôn, phong tục của người Kinh và phong tục của các dân tộc anh em nhưng tất cả những phong

tục này khi đi vào tiểu thuyết đều được quy thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm các sáng tác ca

ngợi thuần phong mỹ tục, nhóm thứ hai là nhóm tác phẩm có nội dung phê phán các hủ tục lạc hậu.

Tuy nhiên, với những tiểu thuyết phong tục của Tự lực văn đoàn, chúng ta không thể xếp riêng vào

nhóm nào. Tác phẩm của họ thường phản ánh cả hai – hủ tục và mỹ tục. Trong cùng một tác phẩm, các

nhà văn phong tục Tự lực văn đoàn vừa phê phán lên án lề thói sinh hoạt của lớp người này, vừa bênh

vực cổ vũ cho hành vi, cách ứng xử của những người kia. Qua những tiểu thuyết phong tục của mình,

họ muốn người đọc nhận ra được tính chất cổ hủ, lạc hậu, phi nhân tính của chế độ đại gia đình và sự

lên ngôi của cái mới tiến bộ hơn, văn minh hơn.

Bên cạnh thái độ quan tâm, giải phóng tự do cho mỗi cá nhân, các nhà văn Tự lực văn đoàn

cũng hết sức để ý đến nề nếp sinh hoạt của cộng đồng. Những trang viết về cuộc sống ở nông thôn của

Trần Tiêu đã cố gắng khai thác những phong tục tạo nên sắc thái văn hóa tinh thần của con người ở

đồng bằng Bắc bộ nói riêng và những phong tục có tác động đến tư tưởng và hành động của dân quê

nói chung. Trong chừng mực nhất định nào đó, nhà văn cũng đã cho thấy rõ nguyên nhân sâu xa vì đâu

người nhà quê quanh năm đầu tắt mặt tối mà đói nghèo thì vẫn đói nghèo.

Bên cạnh đó, những tiểu thuyết Tự lực văn đoàn do vừa phản ánh vừa định hướng phong tục

nên hệ thống nhân vật trong tác phẩm của họ bao giờ cũng được chia thành hai tuyến. Tuyến nhân vật

đại diện cho thế lực kìm hãm bảo thủ, chuẩn đắc với tập tục cũ, lạc hậu đặt bên cạnh tuyến nhân vật đại

diện cho thế hệ mới giàu ước mơ và hoài bão. Người kể chuyện lại không đứng từ xa hay tiến đến đồng

hóa với nhân vật mà dừng ở vị trí “tiệm cận”. Với điểm dừng này, nhà văn đã vừa đảm bảo được tính

khách quan vừa đạt đến chiều sâu của sự phản ánh. Ba kiểu không gian – thời gian được họ lựa chọn

cũng là những kiểu không – thời gian có tính phong tục cao nhất: không – thời gian lễ hội, không –

thời gian gia đình và không – thời gian làng xã. Ngoài ra, từ ngữ lại rất giàu màu sắc địa phương, gần

gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Và giọng điệu câu văn linh hoạt cũng là một trong những phương

diện cho thấy bước phát triển vượt bậc của nghệ thuật văn chương Tự lực văn đoàn.

Tóm lại, nhóm Tự lực văn đoàn là nhóm văn xuất hiện trên văn đàn Việt Nam vào thập kỷ 30

của thế kỷ XX, có mục đích, tôn chỉ sáng tác rõ ràng. Đây là một nhóm tập hợp được nhiều cây bút vừa

trẻ vừa có trình độ. Văn chương Tự lực văn đoàn nhìn chung cũng vướng phải một vài hạn chế. Trong

quá trình sáng tác, đôi khi tính luận đề còn rõ nét, nhân vật xây dựng chưa thật điển hình, hay có lúc

dùng những từ ngữ kiểu cách. Nhưng tất cả những điều này so với những gì họ làm được là không

đáng kể. Chỉ xét riêng mảng tiểu thuyết viết về phong tục, họ đã công khai bày tỏ mối quan tâm và

lòng mong ước trước những vấn đề của hiện thực đời sống xã hội những năm 1930 – 1945. Nhìn vào

nội dung được họ nêu lên, những ai có quan tâm đến xã hội và văn học đều nhận thấy đồng thời với

tinh thần cải cách để theo mới, ở đó còn có một sự kế thừa, tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống

vốn có của dân tộc và những điều này đều rất phù hợp với bối cảnh phát triển chung của xã hội lúc bấy

giờ. Nhiều vấn đề họ đặt ra cho đến hôm nay vẫn còn giá trị. Do đó, cuối cùng, tôi muốn mượn lời

nhận xét của một nhà nghiên cứu mà bản thân rất tâm đắc để kết luận về họ:

“Các nhà văn trên (Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Lan Khai, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất

Tố, Tô Hoài – PTMT) chỉ cốt tả cái chân tướng của sự vật, tuy có những đối tượng khác nhau nhưng

đều chung một khuynh hướng tả thực. Còn một nhóm văn gia khác cũng tả thực (phong tục, hoạt động

xã hội) nhưng vì đã có sẵn định kiến, nên chú trọng đặc biệt một khía cạnh của xã hội chứ không nhìn

toàn thể như nhóm trước. Dùng những kỹ thuật văn chương sắc bén, họ vạch cho độc giả thấy rõ

nguyên nhân từng tệ đoan trong xã hội, có khi quan niệm được trình bày rõ ràng trong các tiểu thuyết

luận đề, có khi luận đề ẩn hẳn vào trong truyện, nhà văn để cho độc giả tự hiểu thấu qua lời tả. Nhân

sự xung đột giữa cũ mới, các nhà văn – đa số đều là Tây học – không ngần ngại thiên hẳn về phái mới.

Trong các văn gia khuynh hướng cải tạo xã hội, nhóm có chương trình nhất định, có những văn phẩm

có giá trị, đáng tiêu biểu hơn cả là Tự lực văn đoàn” [24, tr. 32].

Rõ ràng tác phẩm văn học không chỉ là một sự bày tỏ, một nỗi cảm thông. Qua tác phẩm, nhà

văn phải mang lại cho bạn đọc đương thời chút gì đó băn khoăn, xao xuyến. Từ những băn khoăn, xao

xuyến đó, bạn đọc sẽ soát lại bản thân, liên hệ qua cuộc sống của những người quen biết, những việc

xảy ra thường ngày được nghe tận tai, thấy tận mắt mà rút ra cho mình cái gì đó để sống có ý nghĩa

hơn. Phong tục chính là một nét của văn hóa. Với một tiểu thuyết phong tục hay, ngoài những điều này

chúng ta còn được hưởng cái sướng của một người làm công tác sưu tầm văn hóa nước nhà. Đóng góp

của tiểu thuyết phong tục của các nhà văn Tự lực văn đoàn là vừa lưu giữ vừa góp phần định hướng

văn hóa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1986), “Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua”, Tạp chí văn học (1), tr. 14 - 25.

2. Lại Nguyên Ân (1998), Đọc lại người trước, đọc lại người xưa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

4. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

5. Toan Ánh (1963), “Nhà văn Nhất Linh”, Tạp chí Lành mạnh (83), tr. 1 - 10.

6. Toan Ánh (2005), Phong tục thờ cúng trong gia đình, Nxb Thanh niên, Tp.HCM.

7. Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong tục, Nxb Thanh niên, Tp. HCM.

8. Hồ Biểu Chánh (2005), Tại tôi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

9. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Trương Chính (1988), “Vấn đề đánh giá Tự lực văn đoàn”, Tạp chí văn học (3-4), tr. 21 - 30.

11. Nguyễn Đình Chú, Trần Hữu Tá (Chủ biên) (2005), Văn học 11, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Huy Cờ (1998), Phố làng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

13. Nguyễn Đức Đàn (1958), Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hưng – hai nhà văn tiêu biểu của Tự

lực văn đoàn, Nghiên cứu Văn – Sử - Địa (1954 – 1959), Hà Nội.

14. Nguyễn Đức Đàn (1963), “Nhất Linh trên bước đường sáng tác hiện nay”, Tạp chí văn học (1), tr.

61 - 68.

15. Nguyễn Văn Dân (1997), “Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại vài nhận xét

tổng quan”, Tạp chí văn học (2).

16. Vũ Thị Khánh Dần (1997), “Nhìn nhận về tiểu thuyết của Nhất Linh hơn nửa thế kỉ qua”, Tạp chí

văn học (3), tr. 81 - 86.

17. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

18. Đặng Anh Đào (1994), “Tính chất hiện đại của tiểu thuyết”, Tạp chí văn học (2), tr. 17 - 19.

19. Đặng Anh Đào (1994), “Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học Việt Nam 1930 – 1945”, Tạp chí

văn học (7), tr. 1 - 5.

20. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn con người và văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.

21. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác (2001), Văn học Việt Nam (1900– 1945), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Đăng Điệp (Giới thiệu và tuyển chọn), (2004), Trần Đình Sử tuyển tập – tập 1, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

24. Nguyễn Đồng (1958),“Tự lực văn đoàn”, Tạp chí Bách khoa (25–26),tr.30-40.

25. Dorothy Brewster, John Burrell (2003), Tiểu thuyết hiện đại (Dương Thanh Bình dịch), Nxb Lao

động, Hà Nội.

26. Hà Minh Đức (2007), Tự lực văn đoàn - trào lưu - tác giả, Nxb Giáo dục, Huế.

27. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học (phần tác phẩm văn học), Nxb Đại học quốc gia

Tp.HCM.

28. G.N. Pôxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học – tập 1 (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê

Ngọc Trà dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Gi. P. Xactrơ (1999), Văn học là gì, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

30. Vu Gia (1995), Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

31. Vu Gia (2006), Trần Tiêu – Nhà văn độc đáo của Tự lực văn đoàn, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

32. Chu Giang (Biên soạn) (1997), Tuyển tập Trường Chinh - Về văn hóa và nghệ thuật, tập 1, Nxb

Văn học, Hà Nội.

33. Gulaiep N.A (1982), Lí luận văn học, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

34. Dương Quảng Hàm (1960), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ quốc gia giáo dục, Sài Gòn.

35. Lê Bá Hán (chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

36. Lê Thị Đức Hạnh (1970), “Vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn trong truyện của Nguyễn

Công Hoan trước cách mạng”, Tạp chí văn học (6), tr.45 - 54.

37. Lê Thị Đức Hạnh (1998), “Trần Tiêu và cuộc sống của người nông dân trước cách mạng”, Tạp

chí văn học (2), tr. 11 - 18.

38. Lê Thị Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.

39. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn chuyện đời, Nxb Giáo dục.

40. Hồ Sĩ Hiệp (sưu tầm và biên soạn) (1997), Khái Hưng, Thạch Lam, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.

41. Lê Cẩm Hoa (biên soạn) (2000), Nhất Linh con người và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.

42. Nguyễn Công Hoan (1935), Kép Tư Bền, Nhà in Tân Dân.

43. Nguyễn Công Hoan (1997), Cô giáo Minh, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM.

44. Nguyễn Công Hoan (1997), Lá ngọc cành vàng, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM.

45. Nguyễn Công Hoan (1999), Nợ nần, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM.

46. Nguyễn Công Hoan (2002), Cái thủ lợn (in trong Tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan), Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

47. Khái Hưng – Nhất Linh (1995), Gánh hàng hoa, Nxb Văn học, Hà Nội.

48. Khái Hưng (1994), Hồn bướm mơ tiên, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.

49. Khái Hưng (1995), Trống mái, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM.

50. Khái Hưng (1999), Gia đình, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.

51. Khái Hưng (2006), Nửa chừng xuân, Nxb Hội nhà văn.

52. Dương Hướng (1991), Bến không chồng, Nxb Hội nhà văn.

53. Mai Hương (Tuyển chọn) (2000), Nhất Linh cây bút trụ cột của Tự lực văn đoàn, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

54. Mai Hương (Tuyển chọn) (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

55. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu thượng ngàn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

56. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2005), Từ điển Việt Nam văn hóa tín ngưỡng phong tục, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

57. Mộc Khuê (1941), Ba mươi năm văn học, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.

58. Đinh Trọng Lạc (2002), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục,Hà Nội.

59. Thanh Lãng (1961), Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 32 – 45, Nxb Đại học.

60. Thanh Lãng (1965 – 1966), Phê bình văn học thế hệ 32 – 45 - Giảng khoa chứng chỉ văn chương

quốc âm, Đại học văn khoa Sài Gòn.

61. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ), Nxb Trình bày, Sài Gòn.

62. Phong Lê (1996), “Tố Tâm với nền tiểu thuyết mới và với giòng văn xuôi lãng mạn Việt Nam”,

Tạp chí văn học (8).

63. Phong Lê (1997), Văn học Việt Nam trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà

Nội.

64. Nhất Linh (1996), Nắng thu, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.

65. Nhất Linh (1999), Lạnh lùng, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.

66. Phương Lựu (Chủ biên) (1998), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

67. Trường Lưu (1999), Văn học trong hành trình văn hóa, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin.

68. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển dịch), Bộ Văn hóa

thông tin và thể thao - Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

69. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

70. M. M. Bakhtin (2006), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và phục

hưng, Nxb KHXH, Hà Nội.

71. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nxb Đại học quốc

gia, Hà Nội.

72. Tú Mỡ (1988), “Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn”, Tạp chí văn học (5+6).

73. Bùi Xuân Mỹ (2007), Lễ tục trong gia đình người Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

74. Phương Ngân (Tuyển chọn) (2000), Khái Hưng – nhà tiểu thuyết xuất sắc của Tự lực văn đoàn,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

75. Nhân Nghĩa (1941), “Chồng con”, Tạp chí Tri Tân (1941 – 1945) tập 8, tr.525- 529.

76. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học.

77. Phạm Thế Ngũ (1998), Lịch sử văn học Việt Nam giản ước tân biên, Nxb Đồng Tháp, Đồng

Tháp.

78. Vũ Đức Nguyên (1993), Lỡ thì, Nxb Lao động, Hà Nội.

79. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hóa – từ một góc nhìn, Nxb Văn học và Trung tâm

nghiên cứu Quốc học, Tp.HCM.

80. Vương Trí Nhàn (2003), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX

đến 1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

81. Oh Eun Chol (2000), “Vấn đề gia đình trong tiểu thuyết gia đình của Khái Hưng (Việt Nam) và

tiểu thuyết Ba thế hệ của Yom Sông Sop (Hàn Quốc)”, Tạp chí văn học (11), tr. 69 - 74.

82. Hoàng Ngọc Phách (1988), Tố Tâm, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.

83. Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại, Tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội.

84. Hoàng Phê (Chủ biên) (2005), Từ điển Tiếng việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội.

85. Đồ Phồn (1988), Khao, Nxb Văn học, Hà Nội.

86. Vũ Đức Phúc (1963), “Mấy nhận xét về quá trình phát triển của các khuynh hướng thuộc trào lưu

văn học lãng mạn 1930 – 1945”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (3), tr. 12 - 19.

87. Vũ Đức Phúc (1976), “Trào lưu hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam từ 1930 – 1945”,

Tạp chí văn học (5), tr. 58 - 73.

88. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nxb Văn

học, Hà Nội.

89. Phạm Quỳnh (1929), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Nam phong tùng thư, Hà Nội.

90. Vũ Tiến Quỳnh (1991), Khái Hưng – Thạch Lam – Hồ Biểu Chánh – tuyển chọn và trích dẫn

những bài phê bình bình luận văn học của các nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới,

Nxb Tổng hợp Khánh Hòa, Khánh Hòa.

91. Trần Đình Sử (1998), “Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học”, Tạp chí văn học (6).

92. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học – một số vấn đề và lịch sử, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

93. Doãn Quốc Sỹ (1961), “Nửa chừng xuân”, Luận đàm bộ 1 (5), tr. 707 - 718.

94. Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”, Tạp chí văn học

(2).

95. Bùi Việt Thắng (Biên soạn) (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

96. Trần Khánh Thành (Tuyển chọn) (2004), Hà Minh Đức tuyển tập – tập 2, Nxb Giáo dục.

97. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

98. Ngô Văn Thư (2006), Bàn về tiểu thuyết Khái Hưng, Nxb Thế giới, Hà Nội.

99. Phan Trọng Thưởng (2000), “Cuối thế kỉ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh giá văn chương Tự lực

văn đoàn”, Tạp chí văn học (2), tr. 51 - 64.

100. Phan Trọng Thưởng (chủ biên) (2005), Lý luận và phê bình văn học, đổi mới và phát triển, Nxb

Khoa học xã hội.

101. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (Tuyển chọn và giới thiệu), (2001), Văn chương Tự lực văn

đoàn, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

102. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (Tuyển chọn và giới thiệu), (2001), Văn chương Tự lực văn

đoàn, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

103. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (Tuyển chọn và giới thiệu), (2001), Văn chương Tự lực văn

đoàn, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

104. Tổ bộ môn văn học trường Đại học sư phạm Hà Nội (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930 –

1945, tập 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

105. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, Tp. HCM.

106. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa, Nxb Thanh niên, Tp.

HCM.

107. Nguyễn Trác – Đái Xuân Ninh (1989), Về Tự lực văn đoàn, Nxb Tp.HCM.

108. Hoàng Trinh (1965), “Con người bình thường, cuộc sống bình thường trong văn học”, Tạp chí

văn học (1), tr. 8 - 17.

109. Nguyễn Khắc Trường (1999), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Văn nghệ Tp.HCM

110. Lê Thị Dục Tú (1997), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Nxb KHXH,

Hà Nội.

111. Mạnh Phú Tư (1983), Sống nhờ, Nxb Văn học, Hà Nội.

112. Mạnh Phú Tư, (2000), Gây dựng, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM.

113. Mạnh Phú Tư, (2002), Nhạt tình, Nxb Văn nghệ, Tp. HCM.

114. Phi Vân (2002), Dân quê, Nxb Văn nghệ Tp.HCM.

115. Vũ Thanh Việt (Tuyển chọn và biên soạn) (2002), Nguyễn Công Hoan cây bút hiện thực xuất sắc,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

116. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc.

117. Nguyễn Văn Xung (1958), Bình giảng về Tự lực văn đoàn: Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo,

Thạch Lam, Thế Lữ, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.

118. http://www.britannica.com/eb/article_51001.