BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỮU HỒNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN HỮU HỒNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành : Quản lý công Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀNG QUY

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bài luận văn là công trình nghiên cứu độc lập của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn

gốc rõ ràng.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018

Học viên

Nguyễn Hữu Hồng

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn, bản thân tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt

tình của thầy cô của Học viện Hành chính Quốc gia, đồng nghiệp và bạn bè.

Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy, cô giáo của Học viện Hành

chính Quốc gia đã tận tình, chu đáo trong quá trình tham gia giảng dạy và

truyền đạt kiến thức cho tác giả. Xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến

toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của Học viện Hành chính Quốc gia và

Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Thừa Thiên Huế đã tạo

điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong thời gian học tập, nghiên cứu và

hoàn thành chương trình cao học cũng như hoàn thành Luận văn này.

Đặc biệt với tình cảm trân trọng nhất, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu

sắc đến TS. Nguyễn Hoàng Quy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong

quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn.

Xin cảm ơn Lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Sở xây dựng tỉnh Quảng

Ngãi đã nhiệt tình cung cấp tài liệu, số liệu giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ

nghiên cứu này.

Kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô giáo, đồng nghiệp

và các học viên cao học - Học viện Hành chính Quốc gia để Luận văn được

hoàn thiện và hữu ích hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Học viên

Nguyễn Hữu Hồng

MỤC LỤC

Trang bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục viết tắt Danh mục bảng biểu, sơ đồ, biểu đồ MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ

VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP .............................................................. 5

1.1. Những vấn đề lý luận chung về Khu công nghiệp .................................... 5

1.1.1 Khái niệm, phân loại Khu công nghiệp ................................................................. 5

1.1.2. Vai trò của Khu công nghiệp đối với nền kinh tế ................................................ 8

1.2. Quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp .......................... 14

1.2.1. Khái niệm, mục tiêu, yêu cầu quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công

nghiệp ............................................................................................................................ 14

1.2.2. Nội dung và tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công

nghiệp. ........................................................................................................................... 20

1.2.3. Công cụ tác động của nhà nước đến các Khu công nghiệp ............................... 28

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu

công nghiệp ................................................................................................................... 32

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp và bài

học cho Quảng Ngãi ..................................................................................... 35

1.3.1. Kinh nghiệm tại Đài Loan .................................................................................. 35

1.3.2. Kinh nghiệm tại Thái Lan ................................................................................... 37

1.3.3. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước ..................................................... 39

1.3.4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Ngãi ........................................................ 45

KẾT LUẬN CHƯƠNG I.............................................................................. 48

Chương 2:THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ VÀO

CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NGÃI. ............................... 50

2.1. Khái quát về các Khu công nghiệp ........................................................ 50

2.1.1. Giới thiệu tổng quan về tỉnh Quảng Ngãi .......................................................... 50

2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................ 50

2.1.1.2 Tìm năng kinh tế ............................................................................................... 51

2.1.2 Vị trí và tiềm năng phát triển của các Khu công nghiệp Quảng Ngãi ............... 53

2.1.3 Vai trò của các Khu công nghiệp Quảng Ngãi đối với sự phát triển của tỉnh.... 55

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp tỉnh

Quảng Ngãi .................................................................................................. 56

2.2.1 Về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách quản lý nhà nước

các Khu công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi ........................................................................ 56

2.2.2. Về tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách

quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp Quảng Ngãi .............. 61

2.2.3.Về công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động của các Khu công

nghiệp Quảng Ngãi. ...................................................................................................... 77

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp

tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua ............................................................ 78

2.3.1. Thành tựu đạt được ............................................................................................. 78

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong quản lý nhà nước về đầu tư vào các

Khu công nghiệp Quảng Ngãi ...................................................................................... 80

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................. 86

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ......................... 87

3.1. Định hướng và mục tiêu phát triển các Khu công nghiệp Quảng Ngãi ... 87

3.1.1. Định hướng phát triển Khu kinh tế, Khu công nghiệp của Đảng, Chính phủ .. 87

3.1.2. Quan điểm và định hướng phát triển các Khu công nghiệp Quảng Ngãi ..... 88

3.1.3. Các chỉ tiêu thực hiện .......................................................................................... 89

3.1.4. Dự báo nhu cầu và nguồn vốn đầu tư cho các Khu công nghiệp Quảng Ngãi . 91

3.1.5. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa

bàn tỉnh Quảng Ngãi ..................................................................................................... 93

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư vào các

Khu công nghiệp Quảng Ngãi ...................................................................... 94

3.2.1. Hoàn thiện quy hoạch Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ........... 94

3.2.2. Nâng cao vai trò quản lý nhà nước của Ban quản lý các Khu công nghiệp

Quảng Ngãi.................................................................................................................. 100

3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút, cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận

đầu tư: .......................................................................................................................... 103

3.2.4. Đổi mới chính sách đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các doanh

nghiệp trong Khu công nghiệp ................................................................................... 112

3.2.5. Hoàn thiện công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của các Khu công

nghiệp ........................................................................................................ 114

3.3. Kiến nghị với các cơ quan cấp trên: ..................................................... 115

KẾT LUẬN ............................................................................................... 119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ban Quản lý BQL

Công nhân CN

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa CNH, HĐH

Kinh tế xã hội KTXH

Ủy ban nhân dân UBND

Bảo vệ môi trường BVMT

DN Doanh nghiệp

FDI Foreign Direct Investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài)

Khu công nghiệp KCN

Khu chế xuất KCX

Khu kinh tế KKT

Khu công nghệ cao KCNC

Ngân sách nhà nước NSNN

Thương mại TM

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

Nhà xuất bản NXB

Sản xuất SX

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Danh mục ngành nghề theo chiến lược phát triển của tỉnh Quảng

Ngãi ............................................................................................................. 57

Bảng 2.2. Tình hình thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

tính đến 31/12/2017 ...................................................................................... 69

Bảng 2.3 Tổng hợp nguồn vốn đầu tư hạ tầng các KCN Quảng Ngãi g.đoạn

2013-2017 .................................................................................................... 75

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Biểu đồ biểu diễn số người làm việc trong nên kinh tế năm 2014 . 52

Hình 2.2. Mô hình tổ chức quản lý Nhà nước về KCN, KCX ở Việt Nam .... 63

Hình 2.3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý KKT Dung Quất và các

KCN Quảng Ngãi ......................................................................................... 68

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch

hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường, việc đổi mới và hoàn

thiện quản lý nhà nước nói chung, đối với từng ngành, từng lĩnh vực, trong đó

có hoạt động đầu tư, phát triển các Khu công nghiệp (KCN) tập trung nói

riêng. Những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, cơ

chế, chính sách về quản lý đầu tư nói chung, đối với lĩnh vực KCN, Khu kinh

tế (KKT) nói riêng. Nhờ đó quản lý nhà nước đối với đầu tư vào các KCN có

nhiều thành tựu, góp phần quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư, phát

triển kinh tế. KCN tập trung với những ưu thế đặc biệt về thủ tục hành chính,

cơ chế quản lý, tài chính, thuế quan ... đã trở thành môi trường hấp dẫn đối

với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Ở nước ta KCN đóng vai trò

tích cực vào việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đã đạt được

và duy trì tốc độ tăng trưởng cao, tạo lập năng suất công nghiệp mới và có

hiệu quả cho nền kinh tế đất nước.

Ngày 07/10/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

830/TTg về việc thành lập Ban Quản lý các Khu công nghiệp Quảng Ngãi với

chức năng là xây dựng và quản lý các KCN tỉnh Quảng Ngãi, gồm: KCN

Tịnh Phong, KCN Quảng Phú và KCN Phổ Phong. Mục tiêu phát triển chủ

yếu của các KCN là tạo môi trường thu hút đầu tư nước ngoài và thực hiện

chủ trương phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước; tạo cơ hội

cho quá trình tiếp thu khoa học công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến từ bên

ngoài. Thực tế, trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay, các KCN

đóng vai trò thu hút và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư đã đóng góp huy

động các nguồn lực vào thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tỉnh

Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung.

1

Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, thì quản lý nhà nước đối với

đầu tư vào các KCN nói chung, KCN Quảng Ngãi nói riêng còn nhiều hạn

chế bất cập như: Một số qui định của luật pháp, cơ chế, chính sách còn chưa

phù hợp, chồng chéo, thiếu và chưa đồng bộ; Việc phân cấp, ủy quyền chưa

được thực hiện mạnh mẽ, đầy đủ, cơ quan quản lý trực tiếp các KCN (Ban

Quản lý) chưa có chế tài xử phạt nên chưa tạo được hành lang pháp lý giúp

doanh nghiệp đi đúng hướng. Điều này làm giảm hiệu lực và hiệu quả của

quản lý nhà nước nói chung, trong lĩnh vực đầu tư phát triển các KCN nói

riêng. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài: Quản lý nhà nước về đầu tư vào các

KCN tỉnh Quảng Ngãi có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

2. Mục tiêu của đề tài

- Góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản về quản lý nhà nước về đầu tư

vào các KCN.

- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN tỉnh

Quảng Ngãi hiện nay, chỉ ra những mặt đạt được, những mặt chưa đạt được

và nguyên nhân của những hạn chế.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý Nhà nước về

đầu tư vào các KCN tỉnh Quảng Ngãi trong những năm tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản lý Nhà nước về đầu tư vào các

KCN. Tuy nhiên, các KCN tập trung cả nước có phạm vi rộng. Vì vậy, Luận văn

này tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu quản lý Nhà nước về đầu tư vào các

KCN tỉnh Quảng Ngãi thông qua khảo sát thực trạng công tác quản lý nhà

nước đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và

2

vốn đầu tư của nhà đầu tư thứ cấp, đó là từ các cá nhân, tổ chức kinh tế đăng

ký thực hiện dự án đầu tư vào các KCN tỉnh Quảng Ngãi.

- Thời gian nghiên cứu chủ yếu tính từ năm 2011 đến nay. Đề xuất

phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư vào các

KCN Quảng tỉnh Ngãi đến năm 2020.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN

- Thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN tỉnh Quảng Ngãi.

- Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN

tỉnh Quảng Ngãi.

5. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp để xây dựng các luận cứ

cho từng vấn đề. Kết hợp phương pháp thống kê, phương pháp trừu tượng

hoá, phương pháp phân tích tổng hợp, xử lý số liệu, so sánh để khái quát

thành những luận điểm có căn cứ lý luận thực tiễn.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Góp phần hệ thống hoá lý luận và kinh nghiệm về quản lý Nhà nước

về đầu tư vào các KCN.

- Đánh giá được thực trạng của quản lý Nhà nước về đầu tư vào các

KCN tỉnh Quảng Ngãi hiện nay, chỉ ra được thành tựu, hạn chế và nguyên

nhân của những hạn chế, bất cập cần giải quyết.

- Đề xuất phương hướng và các giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn

để hoàn thiện quản lý Nhà nước về đầu tư vào các KCN tỉnh Quảng Ngãi thời

gian tới.

3

7. Kết cấu của luận văn

Tên luận văn: "Quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công

nghiệp tỉnh Quảng Ngãi".

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu thành 3

chương như sau:

Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu

công nghiệp.

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công

nghiệp Quảng Ngãi.

Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư

vào các Khu công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi.

4

Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

1.1. Những vấn đề lý luận chung về Khu công nghiệp

VỀ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

1.1.1 Khái niệm, phân loại Khu công nghiệp

* Khái niệm về Khu công nghiệp

Các KCN được thành lập ở nhiều nước nhằm thực hiện mục tiêu thu

hút vốn, thu hút công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài góp phần

thực hiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng

về xuất khẩu. Khái niệm cụ thể về KCN ở một số nước như sau:

Ở Philipine, theo luật về các KCN, KKT được định nghĩa như sau:

“KCN là một khu đất được chia nhỏ và xây dựng căn cứ vào một qui hoạch

toàn diện dưới sự quản lý liên tục thống nhất và với các qui định đối với cơ sở

hạ tầng cơ bản và các tiện ích khác, có hay không có các nhà xưởng tiêu

chuẩn và các tiện ích công cộng được xây dựng sẵn cho việc sử dụng chung

trong KCN”.

Ở Inđônêxia KCN được định nghĩa: “là khu vực tập trung các hoạt

động chế tạo công nghiệp có đầy đủ cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất và các

phương tiện hỗ trợ khác do công ty KCN cung cấp và quản lý”. Ở đây, “Công

ty KCN là các công ty có tư cách pháp nhân được thành lập theo luật của

Inđônêxia và ở trên lãnh thổ Inđônêxia, với chức năng quản lý nhà nước các

KCN”.

Còn ở Thái Lan KCN được định nghĩa: “KCN có nghĩa là diện tích

được dùng vào sản xuất công nghiệp và các công việc khác liên quan đến sản

xuất công nghiệp”

5

Từ các khái niệm ở trên có thể thấy quan niệm về KCN giữa các nước

cũng không đồng nhất, nhưng thường được hiểu là một khu đất được phân

chia và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa

điểm cho các ngành công nghiệp tương hợp với hạ tầng cơ sở, các tiện ích

công cộng, các dịch vụ phục vụ và hỗ trợ.

Theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ

Việt Nam quy định về KCN, KCX và KKT thì KCN là: “Khu chuyên sản xuất

hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh

giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy

định tại Nghị định này”. Nghị định 29/2008/NĐ-CP cũng qui định một số

- Diện tích đất công nghiệp là diện tích đất của KCN đã xây dựng kết

khái niệm khác bao gồm:

cấu hạ tầng để cho nhà đầu tư thuê, thuê lại thực hiện dự án đầu tư sản xuất,

- Doanh nghiệp chế xuất là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động

kinh doanh trong KCN.

trong KCX hoặc doanh nghiệp xuất khẩu toàn bộ sản phẩm hoạt động trong

- Quy hoạch tổng thể phát triển KCN, KKT trên phạm vi cả nước là

KCN, KKT.

quy hoạch được lập và phê duyệt theo quy định của pháp luật về lập, phê

duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển KTXH.

* Phân loại về Khu công nghiệp:

Có thể phân loại KCN nằm trong phạm vi, đối tượng điều tiết của Nghị

định 29/2008/NĐ-CP thành hai nhóm chính như sau:

Nhóm 1: Các KCN mang tính truyền thống, được thành lập một cách

phổ biến ở Việt Nam (hiện nay có trên 200 KCN). Các KCN này có những

- Là khu vực được quy hoạch mang tính liên vùng, liên lãnh thổ và có

đặc điểm chung như sau:

6

- Là khu vực được kinh doanh bởi công ty đầu tư cơ sở hạ tầng (công

phạm vi ảnh hưởng không chỉ ở một khu vực địa phương.

ty phát triển hạ tầng KCN, công ty dịch vụ KCN...). Công ty này có trách

nhiệm bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả khu trong suốt thời gian tồn

- Trong KCN có thể có hoặc không có dân cư sinh sống, nhưng ngoài

tại.

- Là khu vực được quy hoạch riêng để thu hút các nhà đầu tư trong và

KCN phải có hệ thống dịch vụ phục vụ nguồn nhân lực làm việc ở KCN.

ngoài nước để thực hiện sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp cũng như

- Sản phẩm của các doanh nghiệp trong KCN có thể tiêu thụ trong

các hoạt động hỗ trợ, dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.

nước hoặc bán ra nước ngoài.

Nhóm 2: Khu chế xuất (ở Việt Nam hiện có 3 KCX là: Tân Thuận,

Linh Trung 1 và Linh Trung 2).

Theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP, KCX là Khu chuyên sản xuất hàng

xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất

khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và

thủ tục áp dụng đối với KCN.

Ngoài những đặc điểm chung giống như các KCN truyền thống, các

KCX còn có một số đặc điểm riêng, đó là: Được ngăn cách với lãnh thổ bên

ngoài bằng hệ thống tường rào, có cổng và cửa ra, vào, bảo đảm điều kiện cho

sự kiểm soát của Hải quan và các cơ quan chức năng có liên quan; Thủ tục hải

quan, kiểm tra và giám sát hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu

của KCX, doanh nghiệp chế xuất thực hiện theo pháp luật về hải quan. Quan

hệ trao đổi hàng hóa giữa các KCX, doanh nghiệp chế xuất với các khu vực

khác trên lãnh thổ Việt Nam, trừ khu phi thuế quan, là quan hệ xuất, nhập

khẩu. Các doanh nghiệp trong KCX được hưởng những ưu đãi đặc biệt về các

7

loại thuế như: miễn thuế xuất, nhập khẩu, miễn thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu

thụ đặc biệt, được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức ưu đãi và không

phải chịu thuế chuyển lợi nhuận về nước.

Từ việc nghiên cứu các khái niệm trên, theo tác giả Luận án thống nhất

quan niệm, KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các

dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập

theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Chính phủ.

KCN là đối tượng đặc thù của quản lý nhà nước về kinh tế trong các

giai đoạn phát triển với các đặc điểm về mục tiêu thành lập, giới hạn hoạt

động tập trung vào công nghiệp, ranh giới địa lý và thẩm quyền ra quyết định

thành lập.

1.1.2. Vai trò của Khu công nghiệp đối với nền kinh tế

Các KCN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền

kinh tế quốc dân, nhất là các nước đang phát triển thì việc phát triển các KCN

đã tạo ra được cơ hội phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa rút

ngắn bởi có thể kết hợp và học tập được những thành tựu mới nhất về khoa

học công nghệ, về tổ chức và quản lý doanh nghiệp, đồng thời tranh thủ được

nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển.

*Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển nền kinh tế

KCN với đặc điểm là nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng

bộ, hiện đại và thu hút các nhà đầu tư cùng đầu tư trên một vùng không gian

lãnh thổ do vậy đó là nơi tập trung và kết hợp sức mạnh nguồn vốn trong và

ngoài nước. Với quy chế quản lý thống nhất và các chính sách ưu đãi, các

KCN đã tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, có sức hấp dẫn

đối với các nhà đầu tư nước ngoài; hơn nữa việc phát triển các KCN cũng phù

hợp với chiến lược kinh doanh của các tập đoàn, công ty đa quốc gia trong

việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tranh thủ ưu đãi thuế quan từ phía

8

nước chủ nhà, tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận và khai thác thị trường mới ở

các nước đang phát triển. Do vậy, KCN giúp cho việc tăng cường huy động

vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội và là đầu

mối quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và là giải

pháp hữu hiệu nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI). Vốn

FDI là một trong những nhân tố quan trọng giúp quốc gia thực hiện và đẩy

nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt

khác, hoạt động của đồng vốn FDI đã tác động tích cực thúc đẩy sự lưu thông

của đồng vốn trong nước.

Việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước đầu tư vào KCN

bằng nhiều hình thức, đa dạng sẽ thu hút được một nguồn vốn lớn trong nước

tham gia đầu tư vào các KCN. Đây là nguồn lực tiềm tàng rất lớn trong xã hội

chưa được khai thác và sử dụng hữu ích. Nguồn vốn đầu tư của các doanh

nghiệp trong nước tham gia xây dựng hạ tầng KCN và đầu tư sản xuất trong

KCN sẽ tạo sự tin tưởng và là động lực thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu

tư vào KCN trong nước. Thực tế trong thời gian vừa qua, các KCN đã thu hút

được khá nhiều các nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế xã hội

của quốc gia nói chung và từng địa phương nói riêng.

*Tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực

Xây dựng và phát triển KCN đã thu hút một lượng lớn lao động vào

làm việc tại các KCN và đã có tác động tích cực tới việc xóa đói giảm nghèo

và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong cộng đồng dân cư đồng thời góp phần làm

giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây nên. Phát triển các KCN góp phần

quan trọng trong việc phân công lại lực lượng lao động trong xã hội, đồng

thời thúc đẩy sự hình thành, phát triển thị trường lao động có trình độ và hàm

lượng chất xám cao. Quan hệ cung cầu lao động diễn ra ở thị trường này diễn

ra gay gắt chính là động lực thúc đẩy người sử dụng lao động, người lao động

9

phải rèn luyện và không ngừng học tập, nâng cao trình độ tay nghề. Như vậy,

KCN đóng góp rất lớn vào việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên

môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ

khu vực và quốc tế và hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện

đại thông qua việc xây dựng các cơ sở đào tạo nghề, liên kết gắn đào tạo nghề

với giải quyết việc làm giữa các doanh nghiệp KCN với nhà trường.

*Thúc đẩy việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng và là hạt nhân

hình thành đô thị mới

Xây dựng và phát triển các KCN trong phạm vi từng tỉnh, thành phố,

vùng kinh tế và quốc gia là hạt nhân thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và hiện

đại hóa kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN tại các địa phương, cụ thể:

Cùng với quá trình hình thành và phát triển KCN, kết cấu hạ tầng của

các KCN được hoàn thiện; kích thích phát triển kinh tế địa phương thông qua

việc cải thiện các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực, gia tăng nhu

cầu về các dịch vụ phụ trợ, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các

cơ sở kinh doanh, dịch vụ trong khu vực; góp phần rút ngắn khoảng cách

chênh lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần của nhân dân;

Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu

hút các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng

quy mô để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các

khu đông dân cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô

nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ

các mục đích khác của cộng đồng trong khu vực;

Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn

đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển

các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp

10

phụ trợ, dịch vụ... các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao

động và cư dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí;

Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư vào các

ngành như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các

hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, phát triển thị trường địa ốc,

đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN;

Phát triển KCN là hạt nhân hình thành đô thị mới, mang lại văn minh

đô thị góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho khu vực rộng

lớn được đô thị hóa.

*Phát triển Khu công nghiệp góp phần bảo vệ môi trường sinh thái,

thúc đẩy việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế

Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải khai thác và sử

dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Do vậy để

một doanh nghiệp đơn lẻ xây dựng các công trình xử lý chất thải rất tốn kém,

khó có thể đảm bảo được chất lượng nhất là trong điều kiện hiện nay ở nước

ta phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. KCN là nơi tập trung số lượng lớn

nhà máy công nghiệp, do vậy có điều kiện trong việc quản lý, kiểm soát, xử lý

chất thải và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy việc xây dựng các KCN là tạo

thuận lợi để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, khu dân cư

đông đúc, hạn chế một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, cải thiện môi trường

theo hướng thân thiện với môi trường, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững;

Ngoài ra, KCN còn là động lực thúc đẩy việc đổi mới, hoàn thiện thể

chế kinh tế, hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, góp phần cơ cấu lại lĩnh

vực phân phối, lưu thông và dịch vụ xã hội; tạo điều kiện cho các địa phương

phát huy thế mạnh đặc thù của mình, đồng thời hình thành mối liên kết, hỗ trợ

phát triển sản xuất trong từng vùng, miền và cả nước, từ đó tạo ra những năng

lực sản xuất, ngành nghề và công nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều

11

tỉnh, thành phố và khu vực toàn tuyến hành lang kinh tế nói chung từng bước

chuyển biến theo hướng một nền kinh tế CNH, thị trường hiện đại, hội nhập

sâu rộng vào thị trường thế giới.

*Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ và góp phần tăng

nguồn thu ngân sách

Sự phát triển các KCN có tác động rất lớn đến quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng CNH hướng về xuất khẩu. Hàng hóa sản xuất ra từ

các KCN chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số lượng hàng hóa xuất khẩu của

địa phương và của cả nước. Khi các KCN mới bắt đầu đi vào hoạt động, lúc

này nguồn thu ngoại tệ của các KCN chưa đảm bảo vì các doanh nghiệp phải

dùng số ngoại tệ thu được để nhập khẩu công nghệ, dây chuyền, máy móc

thiết bị ... nhưng cái lợi thu được là nhập khẩu nhưng không mất ngoại tệ. Khi

các doanh nghiệp đi vào sản xuất ổn định, có hiệu quả thì lúc đó nguồn thu

ngoại tệ bắt đầu tăng lên nhờ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong

KCN. Ngoài ra, hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua việc cung ứng nguyên

vật liệu của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp chế xuất hoạt

động trong KCN và việc một số doanh nghiệp chế xuất tổ chức gia công một

số chi tiết, phụ tùng, một số công đoạn tại các doanh nghiệp trong nước góp

phần vào quá trình nội địa hóa trong cơ cấu giá trị sản phẩm của các doanh

nghiệp. Ngoài ra, các KCN cũng đóng góp đáng kể vào việc tăng nguồn thu

ngân sách cho các địa phương và đóng góp chung cho nguồn thu của quốc

gia.

* Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện

đại và kích thích sự phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và doanh

nghiệp trong nước

Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước trên thế giới cho thấy việc áp

dụng tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến của các nước đi trước là một trong

12

những bí quyết để phát triển và đẩy nhanh quá trình CNH. Việc tiếp cận và

vận dụng linh hoạt kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào điều kiện cụ thể của từng

quốc gia là một trong những giải pháp mà các nước đang phát triển áp dụng

nhằm rút ngắn thời gian của quá trình CNH. Cùng với sự hoạt động của các

KCN một lượng không nhỏ các kỹ thuật công nghệ tiên tiến, dây chuyền sản

xuất đồng bộ, kỹ năng quản lý hiện đại...đã được chuyển giao và áp dụng

thành công trong các ngành công nghiệp; Việc chuyển giao công nghệ của

khu vực FDI tới các doanh nghiệp trong nước đã góp phần thúc đẩy vào việc

tăng năng suất, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong các ngành công nghiệp.

KCN thúc đẩy sự phát triển năng lực khoa học công nghệ góp phần tạo ra

những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, công nghệ mới, sản phẩm

mới, phương thức sản xuất, kinh doanh mới... giúp cho nền kinh tế từng bước

chuyển dịch theo hướng kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập kinh tế quốc

tế và phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH của quốc gia.

KCN là nơi tập trung hóa sản xuất cao và từ việc được tổ chức sản xuất

khoa học, trang bị công nghệ kỹ thuật tiên tiến của các doanh nghiệp FDI, các

cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật làm việc tại các KCN sẽ được đào tạo về

kinh nghiệm quản lý, phương pháp làm việc với công nghệ hiện đại, tác

phong công nghiệp.... Những kết quả này có ảnh hưởng gián tiếp và tác động

mạnh đến các doanh nghiệp trong nước trong việc đổi mới công nghệ, trang

thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi phương pháp quản lý ... để

nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Sự có mặt của

các tập đoàn công nghiệp, các tập đoàn đa quốc gia, các công ty có uy tín trên

thế giới trong các KCN cũng là một tác nhân thúc đẩy phát triển công nghiệp

phụ trợ theo hướng liên doanh, liên kết. Thông qua đó cho phép các công ty

trong nước có thể vươn lên trở thành các nhà cung cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế

và trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, các công ty đa quốc gia.

13

1.2. Quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp

1.2.1. Khái niệm, mục tiêu, yêu cầu quản lý nhà nước về đầu tư vào các

Khu công nghiệp

* Khái niệm: Quản lý nói chung là sự tác động có tổ chức, có mục đích

của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng

có hiệu quả các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đặt ra trong sự vận động

của sự vật.

Đối tượng quản lý, khách thể quản lý chủ yếu là quản lý con người.

Ngoài ra còn quản lý các khách thể như tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật...

Chủ thể quản lý có thể là một người, một tổ chức, một bộ máy... Quản lý là sự

kết hợp giữa trí tuệ và lao động. Bởi vì ba nhân tố có tính chất quyết định sự

thành bại, sự phát triển của một công việc, một chế độ xã hội là: trí lực, sức

lao động và quản lý. Trong đó quản lý là sự phối kết hợp giữa sức lao động và

trí thức: nếu phối hợp tốt thì xã hội, nền kinh tế sẽ phát triển, còn ngược lại,

xã hội, nền kinh tế sẽ trì trệ, rối ren. Vì thế nói đến quản lý là phải nói đến cơ

chế vận hành, tức là cơ chế quản lý như chế độ, chính sách, biện pháp tổ

chức, tâm lý xã hội...

Trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người, quản lý xuất

hiện như một tất yếu khách quan. Có nhiều dạng quản lý khác nhau trong sự

vận động và phát triển của xã hội. Một trong số đó là dạng quản lý rất cơ bản,

đặc thù - Quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là một dạng quản lý do nhà

nước làm chủ thể định hướng điều hành, chi phối, v.v... để đạt được mục tiêu

kinh tế xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

Quản lý nhà nước là sự quản lý bằng quyền lực của nhà nước, ý chí

nhà nước, thông qua bộ máy nhà nước làm thành hệ thống tổ chức điều khiển

quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người để đạt được mục tiêu kinh

tế xã hội nhất định, theo những thời gian nhất định với hiệu quả cao. Quản lý

14

nhà nước là một tất yếu khách quan, mang tính cưỡng bức, cưỡng chế, mệnh

lệnh và tính chính trị rõ nét, đại diện cho cả xã hội.

Theo GS, TS Phan Huy Đường (2015), trong Quản lý nhà nước về kinh

tế [33], quản lý nói chung là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể

quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả

các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đặt ra trong sự vận động của sự vật.

Vì thế nói đến quản lý là phải nói đến cơ chế vận hành, tức là cơ chế quản lý

như chế độ, chính sách, biện pháp tổ chức, tâm lý xã hội...

Như vậy, từ nội hàm của quản lý nhà nước về kinh tế nói trên, chúng ta

có thể hiểu: Quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp là sự tác

động có tổ chức và bằng quyền lực của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư

vào các Khu công nghiệp nhằm đảm bảo cho các Khu công nghiệp được đầu

tư, phát triển theo quy định, chủ động phối hợp mục đích riêng của từng

doanh nghiệp nhằm đạt tới mục đích chung của nền kinh tế.

* Mục tiêu quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp

Quản lý nhà nước đối với KCN là một chức năng đặc thù của quản lý

nhà nước nói chung. Việc phát triển các KCN có mối quan hệ trực tiếp tới sự

phát triển công nghiệp vừa và nhỏ của địa phương cũng như của cả nước nói

chung. Đồng thời nó cũng chịu sự tác động, sự chi phối của nhiều yếu tố khác

như luật pháp, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó nhà nước cần tiến hành quản lý

quá trình hình thành và phát triển của các KCN.

Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, do đó nhà nước phải

sử dụng quyền lực và sức mạnh của mình để điều tiết và khống chế những

hành vi không có lợi đối với cộng đồng của doanh nghiệp, khắc phục những

khiếm khuyết của cơ chế thị trường, điều chỉnh hoạt động của các doanh

nghiệp trong KCN theo những mục tiêu đã định. Bởi vậy, mục tiêu của hoạt

động quản lý nhà nước về đầu tư đối với KCN là tạo ra môi trường đầu tư hấp

15

dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, thực hiện

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành công nghiệp có hiệu quả, thúc

đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính quản lý nhà nước

đối với KCN vừa tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp thực hiện mục tiêu

của họ, vừa hướng mục tiêu của doanh nghiệp vào việc thực hiện tốt nhất mục

tiêu chung của phát triển kinh tế xã hội. Do đó, quản lý nhà nước về đầu tư

đối với các KCN phải nhằm thu hút tối đa nguồn vốn đầu tư vào KCN, thực

hiện cơ cấu trong KCN phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.

Mặt khác, quản lý nhà nước đối với các KCN còn nhằm phát huy ưu điểm và

thế mạnh của mỗi KCN, thúc đẩy quá trình hợp tác giữa các doanh nghiệp

trong KCN, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp trong

nước. Đồng thời, quản lý nhà nước đối với các KCN phải nhằm khai thác

được các lợi thế của phát triển công nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, đặc

biệt phát huy được lợi thế về nguồn nhân lực, về tài nguyên thiên nhiên cũng

như các nguồn lực khác của nền kinh tế. Việc quản lý nhà nước đối với các

KCN còn nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong

KCN, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bên ngoài

chuyển vốn vào hoạt động kinh doanh cũng như triển khái các hoạt động sản

xuất kinh doanh trong KCN. Qua đó phát huy vai trò của từng doanh nghiệp

cũng như của các KCN đối với sự phát triển công nghiệp. Thông qua việc ban

hành các thể lệ, chính sách và giám sát thực thi các quy định của pháp luật thì

đồng thời nhà nước đã tạo ra môi trường thuận lợi để thúc đẩy việc xây dựng,

phát triển KCN, thực hiện thành công chiến lược CNH, HĐH đất nước.

Quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN còn là điều kiện cần thiết,

góp phần giúp cho các doanh nghiệp KCN sử dụng tài nguyên thiên nhiên

một cách tiết kiệm và có hiệu quả, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái. Bên

cạnh đó nhà nước còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển mở rộng

16

hợp tác với nhau thông qua việc hình thành chuỗi cung ứng trong KCN.

Chính công tác quản lý nhà nước nhằm đảm bảo cho các KCN được phát triển

theo quy hoạch đã định, chủ động phối hợp mục đích riêng của từng doanh

nghiệp nhằm đạt tới mục đích chung của nền kinh tế.

Trước tiên cần khẳng định rằng quản lý nhà nước về đầu tư vào các

KCN không chỉ là các hoạt động cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận

đăng ký đầu tư, công tác quy hoạch, điều hành, kiểm soát sự phát triển của

các KCN mà còn bao hàm cả hoạt động khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển của

các KCN. Quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN bao gồm việc tạo lập môi

trường pháp lý ổn định và bình đẳng cho các doanh nghiệp, biện pháp xúc

tiến đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, phối hợp đồng bộ

trong việc cung cấp các nguồn nhân tài vật lực đảm bảo thông suốt đầu vào và

đầu ra cho doanh nghiệp.

Từ những phân tích trên, theo tác giả, quản lý nhà nước về đầu tư vào

các KCN nhằm các mục tiêu cụ thể sau:

- Tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và phát triển công nghiệp: Công

nghiệp có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, cung cấp hàng tiêu

dùng và tư liệu sản xuất, nâng cao năng suất và thu nhập cho dân cư. Vì thế,

mục tiêu hàng đầu của Nhà nước khi thiết lập cơ chế quản lý nhà nước về đầu

tư vào các KCN là phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư bỏ vốn xây

dựng và vận hành hiệu quả. Để đạt được mục tiêu này, Nhà nước, ngoài ban

hành và thực hiện các chính sách ưu đãi cho các dự án trong KCN, còn tích

cực hỗ trợ doanh nghiệp về thủ tục hành chính, về cơ sở hạ tầng.

- Sử dụng quỹ đất một cách hiệu quả: Đất xây dựng KCN thường là

đất có giá trị kinh tế cao, có thể dùng để kinh doanh các ngành phi công

nghiệp hoặc là đất đô thị. Trong điều kiện quỹ đất có giá trị kinh tế ngày càng

hạn hẹp thì sử dụng đất để xây dựng KCN một cách hiệu quả là mục tiêu quan

17

trọng thứ hai trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Để sử dụng đất

một cách hiệu quả, Nhà nước thường phải quy hoạch xây dựng các KCN có

tính lâu dài, kết hợp được các yêu cầu về phát triển CN với các yêu cầu khác

của phát triển kinh tế - xã hội.

- Sử dụng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả: Thường

nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất lớn mà khả năng của Nhà nước và tư

nhân không thể đáp ứng đầy đủ. Do đó, để sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư

vào cơ sở hạ tầng KCN, một mặt, Nhà nước phải có kế hoạch, chương trình,

dự án đầu tư vốn nhà nước hiệu quả; mặt khác, Nhà nước phải có chính sách

khuyến khích tư nhân đầu tư hiệu quả vào cơ sở hạ tầng KCN.

- Bảo vệ môi trường sinh thái: Ưu tiên cho phát triển công nghiệp,

nhưng quản lý nhà nước về đầu tư đối với KCN còn có mục tiêu ngăn ngừa

các hoạt động xả thải của các nhà máy, xí nghiệp làm ảnh hưởng đến môi

trường. Nếu không có các biện pháp buộc các nhà đầu tư phải đảm bảo yêu

cầu xử lý chất thải và áp dụng công nghệ bảo vệ môi trường thì các lợi ích

ngắn hạn từ phát triển CN có thể không đủ bù đắp cho những thiệt hại môi

trường về lâu dài. Hơn nữa, các chủ đầu tư, vì lợi nhuận, có thể tiết kiệm chi

phí xử lý chất thải và tìm cách thải ra môi trường xung quanh. Do trong KCN

các doanh nghiệp (DN) tập trung với mật độ cao, nên nếu Nhà nước không có

biện pháp răn đe và phòng ngừa hữu hiệu thì nhà đầu tư có thể trốn tránh

nghĩa vụ bảo vệ môi trường của họ. Vì thế, ngày nay, bảo vệ môi trường trong

và ngoài KCN trở thành mục tiêu không kém phần quan trọng của quản lý nhà

nước.

- Nâng cao hiệu quả kinh tế theo lãnh thổ: Thông qua phát triển mạnh

các KCN, Nhà nước kỳ vọng vào tác động lan toả của nó đến các ngành và

vùng khác như hình thành thêm các vùng nông nghiệp cung cấp nguyên, vật

liệu, phát triển dịch vụ cho KCN, phát triển các trung tâm thương mại... Vì

18

thế, quản lý của Nhà nước về đầu tư vào các KCN phải được hoạch định và

thực hiện có tầm rộng và đủ xa một cách hợp lý. Trong nhiều trường hợp,

thông qua quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN, Nhà nước còn hướng đến

thay đổi bộ mặt kinh tế của địa phương.

- Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động: Đây là mục tiêu

quan trọng của quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN. Bởi vì, xét cho

cùng, phát triển công nghiệp (CN) phải nhằm phục vụ tốt hơn cuộc sống của

dân cư. Một trong những điều kiện để dân cư sống tốt hơn là có việc làm và

các quyền cơ bản được bảo vệ. Do đó, ngoài chính sách khuyến khích DN

trong KCN sử dụng lao động địa phương, Nhà nước còn ban hành các quy

định pháp lý bảo vệ quyền của người lao động, nhất là về lương, bảo hộ lao

* Yêu cầu quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp

động và giải quyết tranh chấp.

Để đáp ứng được các mục tiêu trên, hoạt động quản lý nhà nước về đầu

- Chính sách, biện pháp quản lý đưa ra phải phù hợp với luật pháp và

tư vào các KCN phải đáp ứng những yêu cầu sau:

các yêu cầu của xã hội. Một mặt phải bảo đảm kỷ cương, tuân thủ những giá

trị đạo đức của dân tộc; mặt khác phải không gây ra những khó khăn trở ngại

- Nhà nước phải tạo ra môi trường ổn định và bình đẳng cho các doanh

đến tính chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp trong KCN.

nghiệp hoạt động trong KCN và phải kết hợp hài hòa các mục tiêu của doanh

- Quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN tức là tạo điều kiện để nhà

nghiệp với các mục tiêu chung của đất nước.

đầu tư khởi tạo doanh nghiệp, gia tăng cơ hội tìm kiếm lợi nhuận, tăng khả

năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp

trong nước trong thị trường nội địa cũng như khi xuất khẩu. Điều đó có nghĩa

nhà nước phải có những chính sách thích hợp để thúc đẩy các doanh nghiệp

19

tập trung tìm kiếm thế mạnh và phát huy hết khả năng sản xuất kinh doanh

- Nhà nước phải cung cấp đầy đủ các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực

của mình.

cũng như các thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác để giúp cho

việc xây dựng, phát triển các KCN đạt hiệu quả cao.

1.2.2. Nội dung và tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước về đầu tư vào các

Khu công nghiệp.

* Các nội dung đánh giá quản lý nhà nước về đầu tư vào các khu công

nghiệp

Một là, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách quản

lý nhà nước các KCN.

Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, chiến

lược phát triển vùng, lãnh thổ, chiến lược phát triển công nghiệp, địa phương

xây dựng chiến lược phát triển KCN. Bởi vậy, khi xây dựng chiến lược, kế

hoạch quản lý nhà nước các KCN phải nghiên cứu tổng hợp các điều kiện tự

nhiên và xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế chung, phải tạo được bước

đi phù hợp với khả năng của vùng về tài chính, thu hút đầu tư của từng thời

kỳ.

Quản lý nhà nước các KCN cũng phải tính đến sự phân bố lực lượng

sản xuất, trên lãnh thổ nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và

bảo vệ môi trường, môi sinh. Đồng thời phát triển KCN cũng cần xem xét đến

tính cân đối trong phát triển khu vực, lãnh thổ và tính phát triển bền vững, sự

phát triển hài hòa giữa các vùng, lãnh thổ, tận dụng được lợi thế so sánh giữa

các vùng, lãnh thổ để đảm bảo sự phát triển cân đối hợp lý chung của cả nước.

Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ đầu tư, tổ chức

xúc tiến, vận động các nhà đầu tư phát triển KCN, quy chế hoạt động của các

KCN, các văn bản hướng dẫn thực hiện cũng như các văn bản pháp quy có

20

liên quan và hoàn thiện chúng qua từng thời kỳ nhằm tạo cơ sở pháp lý đồng

bộ và điều chỉnh có hiệu quả hoạt động của KCN cũng như của từng doanh

nghiệp trong KCN.

Xây dựng và áp dụng các biện pháp ưu đãi kinh tế xuất phát từ lợi ích

của nước nhà và lợi ích lâu dài của nhà đầu tư. Các biện pháp ưu đãi kinh tế

áp dụng tại KCN: bình đẳng, các bên cùng có lợi, được thể chế hóa về mặt

pháp lý. Đồng thời các biện pháp này cũng được điều chỉnh linh hoạt về mặt

pháp lý để theo kịp những biến động, thay đổi tình hình chính trị, kinh tế - xã

hội. Các ưu đãi về kinh tế hấp dẫn, tính cạnh tranh cao nhưng cũng cần phải

đảm bảo tính ổn định lâu dài để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.

Các biện pháp ưu đãi kinh tế đối với Khu công nghiệp bao gồm:

Một là, Ưu đãi về thuế so với doanh nghiệp ngoài KCN. Hỗ trợ về tài

chính như vay vốn ưu đãi, thuê đất, thuê hoặc mua nhà xưởng với giá thấp

nhất, khấu hao tài sản nhanh, …

Hai là, hướng dẫn các nhà đầu tư cách thức lập hồ sơ dự án, tổ chức

việc cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại giấy phép và thực hiện các thủ tục

hành chính nhà nước liên quan đến các dự án đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi

cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN. Thực hiện, công tác xúc tiến và

vận động đầu tư là quá trình có ý nghĩa hết sức quan trọng với mục đích giới

thiệu môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật, ưu đãi và các điều kiện đầu tư

vào KCN nhằm rút ngắn thời gian tìm hiểu, đi lại của nhà đầu tư. Nhà nước

phải chủ động trong công tác vận động, xúc tiến đầu tư, nhà nước cũng cần có

sách lược như lựa chọn đối tác, khu vực nhằm có thể tranh thủ tối đa nguồn

vốn, công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm đáp ứng như cầu phát triển

của vùng.

Ba là, tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách

quản lý nhà nước các KCN.

21

- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước các Khu công nghiệp

- Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong các khu công

nghiệp.

Khi chọn địa điểm thực hiện dự án, nhà đầu tư cũng thường quan tâm

đến cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội của khu vực vì nó đảm bảo cho các hoạt

động kinh tế sau này. Công trình hạ tầng kỹ thuật bao gồm công trình trong

hàng rào và ngoài hàng rào KCN. Công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài ràng rào

là công trình phụ thuộc vào quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ và đòi hỏi

vốn lớn. Vì vậy, nhà nước thường phải sử dụng ngân sách để đầu tư hoặc phải

có cơ chế để huy động vốn các thành phần kinh tế khác tham gia như phương

thức BOT, BO, BT...

Đối với công trình hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào KCN, thông thường

huy động các nguồn vốn của các doanh nghiệp và tư nhân. Đây thực chất là

doanh nghiệp kinh doanh bất động sản dễ thu lợi nhuận cao nhưng lại phụ

thuộc vào khả năng thu hút đầu tư nên rủi ro cũng lớn. Việc cho doanh nghiệp

tiến hành kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN là biện pháp huy động các nguồn

vốn trong xã hội để san sẻ gánh nặng cho ngân sách và tận dụng vốn và khả

năng kêu gọi đầu tư của các nhà đầu tư phát triển hạ tầng.

Phát triển KCN có tác dụng lan tỏa về kinh tế và xã hội của vùng, lãnh

thổ như áp lực lên hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo nên hiện tượng tập

trung lao động, làm hạt nhân hình thành đô thị công nghiệp... Cũng như các

công trình hạ tầng ngoài hàng rào, công trình hạ tầng kỹ thuật phải được nhà

nước thực hiện trước một bước và đảm bảo cho sự phát triển lâu dài KCN và

của vùng, lãnh thổ.

Bốn là, thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN.

Nhằm định hướng hoạt động của các KCN theo quy định của pháp luật

và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của các doanh

22

nghiệp trong KCN, kiểm soát và xử lý các vi phạm của doanh nghiệp trong

việc thực hiện quy định của pháp luật nhà nước và quy chế KCN.

Nhà nước thực hiện kiểm tra các KCN dưới hai giác độ: Kiểm tra DN,

dự án đầu tư hoạt động trong KCN và kiểm tra việc thực hiện quy chế quản lý

nhà nước của các Ban quản lý các KCN.

Nội dung và phương thức kiểm tra của Nhà nước đối với các DN, dự

án hoạt động trong KCN không khác với nội dung kiểm tra DN và đầu tư nói

chung. Tuy nhiên, do các hoạt động CN và dịch vụ trong KCN tập trung với

mật độ cao nên các hoạt động kiểm tra liên ngành có điều kiện và cần thiết

phải phối hợp với nhau tránh gây cản trở không cần thiết cho hoạt động sản

xuất, kinh doanh trong KCN. Nhà nước đặc biệt chú trọng kiểm tra về các mặt

ô nhiễm môi trường, thuế, chế độ sử dụng lao động ở các DN trong KCN, bởi

vì các hoạt động này tiềm ẩn khả năng lây lan và gây mất ổn định cao trong

KCN. Ngoài ra, các hoạt động kiểm tra sử dụng đất đai trong KCN cũng được

tăng cường hơn các nơi khác để tránh nguy cơ lãng phí đất, sử dụng đất

không đúng mục đích từ phía các nhà đầu tư.

Nội dung kiểm tra hoạt động của Ban quản lý các KCN bao gồm kiểm

tra của cấp trên đối với Ban quản lý và kiểm tra nội bộ. Một mặt, trong ban

quản lý phải có bộ phận thanh tra, kiểm tra nội bộ để bảo đảm hoạt động của

Ban đúng quy định của Nhà nước. Mặt khác, UBND tỉnh/TP, Bộ Kế hoạch và

Đầu tư có chế độ kiểm tra việc thực hiện các chức năng được uỷ quyền của

Ban quản lý các KCN nhằm đảm bảo kỷ cương, trật tự, hiệu lực, hiệu quả

chung trong quản lý nhà nước đối với KCN.

* Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công

nghiệp

Một là, tính phù hợp của chiến lược, quy hoạch và các chính sách quản

lý nhà nước về đầu tư đối với các khu công nghiệp. Sự phù hợp của quản lý

23

nhà nước về đầu tư đối với các KCN được thể hiện ở các vấn đề khi thực thi

được giải quyết đến đâu? ở mức độ nào? Tính phù hợp thể hiện là quản lý nhà

nước về đầu tư đối với các KCN với mục đích gì, thu hút các nhà đầu tư như

thế nào phải căn cứ vào tình hình thực tế trong nước, quy định về thu hút FDI

thế nào. Vị trí KCN là thước đo quan trọng đánh giá tính phù hợp của quản lý

nhà nước các KCN từ giai đoạn xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và

vận hành chúng, nó cho thấy tính hợp lý, đồng bộ, khoa học và hiệu quả của

KCN. Các tiêu chí cụ thể bao gồm: (i) Sự bố trí khoa học các KCN trong

phạm vi không gian vùng (đây là điều kiện thúc đẩy tăng cường sự liên kết

giữa các KCN); (ii) Bố trí vị trí KCN trong không gian địa phương: vị trí so

với khu dân cư; so với vị trí đường giao thông; và (iii) Nguồn gốc đất đai cho

phát triển KCN nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, bảo vệ và cải thiện môi

trường và thu hút lao động. Mặt khác, đây là dấu hiệu dẫn đến sự thành công

của các KCN. Các tiêu chí cụ thể là: KCN đặt ở vị trí thuận lợi hay khó khăn

về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như đường sá, bến cảng, nhà ga, sân bay, hệ thống

viễn thông; chất lượng các dịch vụ xã hội của địa phương... Tất cả những dấu

hiệu này phải cần được xem xét cả ở hiện tại và khả năng duy trì nó trong

tương lai lâu dài của KCN.

Hai là, tính khả thi chính sách và biện pháp quản lý nhà nước về đầu tư

vào các KCN Đánh giá quản lý nhà nước đối với các KCN dựa vào tiêu chí

đảm bảo các yếu tố công bằng khác sự phát triển của các KCN. Trong thực tế,

khi xây dựng chính sách quản lý nhà nước đối với các KCN, các nhà quản lý

đã cố gắng tạo ra những cơ hội ngang nhau đối với các nhà đầu tư, để đảm

bảo điều kiện hoạt động của KCN, việc xác định các đối tượng ưu tiên, những

nội dung quản lý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, với một nền kinh tế

mở thì việc ra đời một chính sách thích đáng, bền vững là rất khó.

24

Đánh giá quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN cũng tính tới mối

quan hệ tương quan giữa mục tiêu chính trị, kinh tế và xã hội cụ thể trong giai

đoạn đổi mới ở từng nước, phù hợp với quá trình hội nhập mà những áp lực

mà từng nước cam kết trong lộ trình hội nhập, sự ra đời các chính sách quản

lý nhà nước đối với các KCN phải đảm bảo hợp với quy luật của sự phát triển,

phải dựa vào tiến trình chuyển giao, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật

của đất nước, phải hướng tới các mục tiêu tăng trưởng kinh tế để tạo ra cơ sở

vật chất, phúc lợi xã hội, tiếp tục thực thi bền vững các chính sách khác.

Để kết quả thu được như mong muốn khi đánh giá quản lý nhà nước về

đầu tư vào các KCN, nhất là tính bền vững, mỗi nội dung trong chính sách ở

mỗi giai đoạn phát triển phải xác định đầy đủ mức độ hợp lý giữa tăng trưởng

kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, sự phù hợp, hỗ trợ cho nhau càng cao

thì hiệu quả để đạt được các mục tiêu càng lớn, bản thân mỗi một chính sách

cũng hàm chứa đầy đủ các nội dung và ý nghĩa của chính sách kinh tế và

chính sách xã hội.

Ba là, tính hiệu lực của các chính sách và biện pháp quản lý nhà nước

về đầu tư đối vào các KCN. Hiệu lực của quản lý nhà nước về đầu tư vào các

KCN phản ánh tác động ảnh hưởng của chính sách quản lý trong quá trình

thực thi, khả năng duy trì hay biến đổi trên thực tế so với mong muốn của nhà

nước. Đánh giá hiệu lực của quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN nhằm

đưa ra các kết quả của từng nội dung của chính sách có hiệu quả hay không?

Cụ thể:

+ Quy mô diện tích KCN: Qui mô diện tích tự nhiên KCN phù hợp

được đánh giá dựa trên tính hợp lý của quy mô so với mục đích và tính chất

hoạt động của KCN. Quy mô của KCN sẽ phụ thuộc vào mục đích hình thành

KCN. Với mục tiêu hình thành KCN để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì quy

mô có hiệu quả nằm trong khoảng 200 - 300 ha (đối với các KCN nằm trong

25

khu vực thành thị và vùng kinh tế trọng điểm), còn 300 - 500 ha đối với KCN

nằm trên các tỉnh; Với mục tiêu di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành

phố, đô thị lớn thì KCN có quy mô nhỏ hơn 100 ha; với mục tiêu tận dụng

nguồn lao động và thế mạnh tại chỗ của các địa phương thì quy mô KCN phù

hợp là từ 100 ha...

+ Điều kiện hoạt động của KCN: nếu KCN được đặt ở địa phương có

cảng biển và nguồn nguyên liệu lớn hình thành với tính chất chuyên môn hoá

sản xuất ổn định một số sản phẩm hàng hoá công nghiệp nặng thì quy mô

KCN phù hợp là từ 300-500 ha; với các KCN nằm ở xa đô thị, cảng biển, với

tính chất hoạt động là tận dụng lao động thì có quy mô hợp lý là từ 50 - 100

ha.

+ Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê trong diện tích đất

tự nhiên KCN. Tiêu chí này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu

quả sử dụng đất trong KCN; nó thể hiện mật độ của các doanh nghiệp sản

xuất trong KCN. Nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ gây lãng phí về mặt bằng, còn nếu

tỷ lệ này quá cao thì phần diện tích dành cho giao thông, sân chơi, cây xanh

và môi trường... sẽ thấp gây ảnh hưởng đến khả năng hoạt động cũng như môi

trường thông thoáng trong KCN. Tỷ lệ đất công nghiệp nên vào khoảng 60% -

70% thì hợp lý.

+ Tỷ lệ lấp đầy KCN: chỉ số này được đo bằng tỷ lệ giữa diện tích đất

KCN đã cho các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ thuê và tổng diện tích đất

có khả năng cho thuê của KCN. Chỉ số này cho phép đánh giá mức độ thành

công về thu hút đầu tư của KCN và so sánh giữa KCN với các KCN khác

trong việc khai thác, sử dụng đất đai. Một KCN có tỷ lệ diện tích được lấp

đầy là 100% là KCN đã khai thác triệt để phần diện tích đất công nghiệp có

thể cho thuê. Tất nhiên tỷ lệ lấp đầy không thể đạt cao ngay từ đầu mà nó phải

được đánh giá theo từng giai đoạn. Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng kết cấu

26

hạ tầng kéo dài khoảng 3-4 năm, tiếp sau đó là giai đoạn thu hút đầu tư và

hoàn thiện thủ tục với mục tiêu là thu hút nhanh chóng các nhà đầu tư vào

KCN để “làm sống” KCN, thu hồi chi phí xây dựng, tạo lập việc làm cho

người lao động. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy thời gian để thu hồi kinh phí

đầu tư xây dựng có thể kéo dài khoảng 15-20 năm, vì vậy nếu sau 10-15 năm

mà “tỷ lệ khoảng trống” trong KCN vẫn còn cao thì coi như hoạt động quản

lý nhà nước các KCN chưa có hiệu quả.

+ Sự gia tăng ổn định về mặt sản lượng trong hoạt động sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN: Đây là tiêu chí quan trọng nhất

đánh giá tính ổn định lâu dài về kinh tế đảm bảo hoạt động sản xuất của KCN.

Tiêu chí này có thể dựa trên các chỉ số cụ thể sau: (i) Qui mô, tốc độ tăng

trưởng về GTSX, (ii) giá trị gia tăng và (iii) đóng góp với ngân sách nhà nước

của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN.

+ Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong KCN: Có nhiều chỉ số

để đánh giá tiêu chí này như: Tổng số lao động thu hút được; tổng vốn kinh

doanh; tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng doanh thu... nhưng nổi bật lên trên hết

là hai chỉ số có thể thu thập và xác định khá dễ dàng là: (i) Doanh thu trên

một đơn vị lao động (Năng suất lao động) và (ii) Doanh thu trên một đơn vị

diện tích. Việc đánh giá các chỉ số này phải dựa trên quan điểm “động”, tức là

mức và tốc độ tăng trưởng của các con số đó. Điều đó cho phép kết luận về

khả năng duy trì tính bền bỉ trong hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp.

+ Trình độ công nghệ của doanh nghiệp và các hoạt động triển khai

khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Tiêu chí này phản ánh khả năng

cạnh tranh của các doanh nghiệp trong KCN, giữa KCN với các KCN khác

trong nước và quốc tế. Tiêu chí này thể hiện bằng các chỉ số: (i) cơ cấu trình

độ công nghệ của máy móc thiết bị sử dụng trong KCN theo tỷ lệ vốn sản

xuất trên 1 lao động và tỷ lệ vốn đầu tư trên một dự án; Quốc gia đầu tư, tính

27

chất công nghệ; (ii) Tỷ lệ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai trong

tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp, tỷ lệ doanh thu từ hoạt động nghiên

cứu và triển khai so với tổng quy mô hoạt động của doanh nghiệp và của toàn

KCN.

+ Hoạt động liên kết sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN: Đây

cũng là tiêu chí phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của toàn KCN, tính

chất tiên tiến trong tổ chức sản xuất và sự phù hợp với xu thế phát triển của

phân công lao động xã hội theo hướng hiện đại. Tiêu chí này thể hiện trên các

khía cạnh: (i) Tính chất chuyên ngành của KCN hay số ngành kinh tế trong

KCN; (ii) Tỷ lệ số doanh nghiệp có liên kết sản xuất với nhau trong tổng số

doanh nghiệp nằm trong KCN; (iii) Tỷ lệ số doanh nghiệp có liên kết sản xuất

với doanh nghiệp trong KCN khác và các doanh nghiệp khác bên ngoài KCN.

* Hệ thống pháp luật

1.2.3. Công cụ tác động của nhà nước đến các Khu công nghiệp

Hệ thống pháp luật điều chỉnh KCN khá đa dạng, bao phủ mọi mặt

hoạt động của KCN với tư cách một thực thể sống, một bộ phận của nền kinh

tế, của xã hội và chia làm hai loại: quy định pháp lý chung và quy định pháp

lý riêng cho KCN.

-Quy định pháp lý chung: gồm một số luật và văn bản dưới luật sau:

+ Luật Đầu tư: Chế định hoạt động đầu tư dưới ba hình thức: đầu tư

vào cơ sở hạ tầng KCN; đầu tư vào các dự án mới trong KCN; đầu tư vào các

dự án mở rộng trong KCN. Ngoài ra, Luật Đầu tư còn chế định quyền và

nghĩa vụ của các chủ thể đầu tư khác nhau hoạt động trong KCN.

+ Luật Doanh nghiệp: Chế định các hình thức tổ chức sản xuất kinh

doanh của các dự án đầu tư trong KCN

+ Luật Thương mại: Chế định các giao dịch trao đổi hàng hoá trong

và ngoài KCN

28

+ Luật Lao động, Luật Bảo vệ môi trường: Chế định hành vi của chủ

đầu tư và người lao động làm việc trong KCN.

+ Luật chuyên ngành: Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm, quy

- Quy định pháp lý riêng cho KCN: Tuỳ mỗi nước, các quy định này

định các điều kiện hành nghề trong KCN.

có thể được ban hành thành luật hoặc văn bản pháp lý dưới luật. Ở nước ta,

KCN được chế định bằng Nghị định 36/CP ngày 23/4/1997 về ban hành quy

chế KCN, KCX, KCNC; Nghị định 29/2008/NĐ-CP, ngày 14 tháng 3 năm

2008. Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế; Các nghị

định bổ sung điều chinh: Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11

năm 2013; Nghị định số 114/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2015. Nghị

định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi

tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Đầu tư. Các Nghị định này chứa đựng

nội dung, phương thức quản lý, trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước đối với

* Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước

KCN.

Nhà nước sử dụng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để định hướng và

điều hành các KCN. Nhà nước quy định chiến lược xây dựng, phát triển các

KCN của mỗi địa phương phải nằm trong quy hoạch tổng thể của cả nước và

hướng đến thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

và cả nước. Thông qua cách làm này Nhà nước đảm bảo rằng, các KCN vừa

sử dụng hiệu quả nguồn lực, vừa là công cụ thực thi đường lối phát triển kinh

tế ở địa phương và cả nước. Để làm được như vậy, các chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch của Nhà nước phải có chất lượng, ổn định trong thời gian dài, việc

điều chỉnh không làm thay đổi mục tiêu và định hướng chiến lược.

* Các chính sách của Nhà nước

29

Chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước, có thể sử dụng thuế và

đầu tư của Nhà nước để khuyến khích các nhà đầu tư lấp đầy KCN. Công cụ

thuế được sử dụng phổ biến nhất là miễn, giảm thuế nhập khẩu cho các lô

hàng nhập khẩu phục vụ các dự án đầu tư trong KCN và thuế thu nhập DN.

Miễn và giảm thuế thu nhập DN thường được áp dụng cho các khoản đầu tư

mới vào KCN. Tuy nhiên, sử dụng công cụ thuế nhập khẩu thường phức tạp

vì khó kiểm soát mục đích các lô hàng nhập khẩu. Hơn nữa, miễn và giảm hai

loại thuế này thường là chính sách khuyến khích đầu tư chung, được vận dụng

cho KCN.

Công cụ đầu tư Nhà nước thường dùng là tài trợ vốn để đầu tư ban đầu

vào cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN. Có nhiều hình thức tài trợ như tài trợ

toàn bộ, tài trợ một phần, tài trợ bằng cấp vốn ngân sách, tài trợ bằng vay tín

dụng ưu đãi…. Nhà nước thường sử dụng đầu tư nhà nước để đẩy nhanh tiến

độ xây dựng KCN.

Dễ thực hiện hơn cả là Nhà nước khuyến khích đầu tư vào KCN bằng

cách cung cấp dịch vụ hành chính công với giá rẻ, thuận tiện, đồng thời tích

cực cùng nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn. Đây là công cụ khả thi và có hiệu quả

- Chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng đối với Khu công nghiệp

cao của Nhà nước.

Nhà nước có thể sử dụng ngân sách cấp vốn hoặc sử dụng quỹ tín dụng

nhà nước cấp vốn tín dụng ưu đãi cho DN kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN và

doanh nghiệp kinh doanh trong KCN. Thông qua sự hỗ trợ trực tiếp này các

KCN có điều kiện hình thành nhanh hơn, thời gian đưa cơ sở hạ tầng trong

KCN vào sử dụng ngắn hơn. Ngoài ra, thông qua các DNNN quản lý và kinh

doanh KCN Nhà nước có thể giảm giá thuê đất và phí cơ sở hạ tầng cho các

- Chính sách xúc tiến đầu tư

nhà đầu tư, nhờ đó lấp đầy KCN nhanh hơn.

30

Nhà nước hỗ trợ các KCN tổ chức xúc tiến đầu tư thông qua hoạt động

quảng bá, thông tin về các KCN trên các trang webside của các cơ quan nhà

nước. Ngoài ra, nhiều địa phương còn tổ chức các đoàn đi quảng bá ở nước

- Chính sách đất đai

ngoài cho các KCN của họ.

Nhà nước sử dụng chính sách đất đai để điều chỉnh quỹ đất, giá thuê

đất trong KCN. Trước hết, Nhà nước quy định việc xây dựng KCN phải tuân

thủ quy hoạch vùng, phải quy hoạch tổng thể, dài hạn đất xây dựng các KCN.

Thứ hai, Nhà nước can thiệp vào quá trình thu hồi đất và chuyển giao cho Ban

quản lý các KCN. Vì thế, để có thể có đất và sử dụng cho mục đích kinh

doanh CN, thường phải tiến hành công tác thu hồi, đền bù, giải phóng mặt

bằng. Nhà nước tác động đến quá trình này bằng các quy định về thu hồi đất,

chính sách đền bù, chính sách tái định cư. Những can thiệp của nhà nước kể

trên vào thị trường đất đai tác động nhiều chiều đến KCN. Một mặt, quản lý

nhà nước đảm bảo việc sử dụng đất đai xây dựng KCN nằm trong quy hoạch

chung về sử dụng đất, nhất là cân đối giữa quỹ đất của KCN và đất nông

nghiệp. Mặt khác, những quy định phức tạp của Nhà nước sẽ làm cho thị

trường đất đai kém linh hoạt, do đó quá trình hình thành KCN phụ thuộc rất

- Chính sách lao động việc làm

lớn vào những quy định và tính tích cực của cơ quan nhà nước.

Nhà nước quản lý lĩnh vực lao động việc làm của các KCN thông qua

nhiều công cụ như quy định về tiền lương tối thiểu, khuyến khích các DN

trong KCN đào tạo người lao động, tạo điều kiện để người lao động trong

KCN có nhà ở, có dịch vụ về y tế, học tập… và người lao động trong KCN về

các phương diện bảo hiểm, quyền tham gia các tổ chức chính trị, xã hội,

quyền đình công, bãi công...Nhìn chung, các quy định quản lý của Nhà nước

trong lĩnh vực này rất phức tạp, luôn phải chịu sức ép từ hai phía là giới chủ

31

đầu tư và người lao động. Cân bằng các quyền lợi đồng thời vẫn khuyến

khích đầu tư, khuyến khích các KCN hoạt động hiệu quả, đóng góp lớn cho

nền kinh tế là nhiệm vụ rất khó khăn của Nhà nước trong khi sử dụng chính

sách lao động việc làm tác động vào KCN.

1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư

vào các Khu công nghiệp

* Chế độ, chính sách quản lý của Nhà nước về đầu tư vào các khu công

nghiệp

Chế độ, chính sách của Nhà nước ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về

- Chính sách phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, vùng, ngành, địa

đầu tư vào các KCN thể hiện trên các mặt:

phương, vùng, lãnh thổ, loại hình DN... đều tác động đến mục tiêu, nội dung

và phương thức quản lý của Nhà nước đối với KCN. Chế độ, chính sách

chung của Nhà nước rõ ràng, minh bạch có độ nhất quán và ổn định cao thì

tạo cơ sở pháp lý cho quản lý hiệu quả của Nhà nước về đầu tư vào KCN.

Ngược lại, chế độ, chính sách chung của Nhà nước thiếu minh bạch, không rõ

ràng, thiếu tính nhất quán có thể cản trở các cơ quan nhà nước thực hiện quản

lý có kết quả các KCN. Thậm chí, nếu chính sách phát triển kinh tế của nhà

nước có sai lầm thì quản lý nhà nước dễ trở thành lực cản sự phát triển của

- Thể chế hoá của Nhà nước về các mặt tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu

các KCN.

tư, thương mại, ngân sách, tiết kiệm,... phù hợp hay không phù hợp với kinh

tế thị trường cũng ảnh hưởng lớn đến quản lý nhà nước đối với KCN. Bởi vì,

nếu thể chế, chính sách của Nhà nước phù hợp với kinh tế thị trường thì sẽ hỗ

trợ quản lý nhà nước, làm cho quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN đơn

giản hơn, chi phí thấp hơn, hiệu quả cao hơn, khuyến khích các KCN phát

triển hiệu quả. Nếu việc thể chế không phù hợp với kinh tế thị trường thì sẽ

32

làm cho quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN vừa nặng nề, áp đặt mệnh

lệnh hành chính quan liêu, do đó chi phí quản lý cao, hiệu quả quản lý thấp,

các cơ quan quản lý nhà nước các KCN quá tải, bản thân KCN bị kìm hãm,

không phát triển được.

* Trình độ năng lực của chính quyền

Các KCN thường gắn liền với việc sử dụng đất, cơ sở hạ tầng, trong đó

có nhiều nội dung liên quan đến quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa

phương. Chính vì thế, năng lực, trình độ và nhãn quan của cấp chính quyền

địa phương ảnh hưởng rất lớn đến quản lý nhà nước đối với KCN.

Thứ nhất, ảnh hưởng của trình độ ban hành chính sách đối với khu

công nghiệp của cấp Tỉnh/Thành Phố. Khía cạnh ảnh hưởng ở đây là năng lực

chủ trì xây dựng và điều chỉnh quy hoạch phát triển các KCN trên địa bàn phù

hợp với quy hoạch tổng thể của cả nước. Mặc dù quy hoạch KCN ở địa

phương phải phù hợp với quy hoạch chung của vùng và cả nước, nhưng nội

dung và chất lượng quy hoạch KCN của từng địa phương phụ thuộc rất lớn

vào sự quan tâm, tầm nhìn và quyết tâm chỉ đạo của chính quyền cấp tỉnh.

Thực tế cho thấy, chính quyền địa phương nào sáng suốt và có tầm nhìn đúng

đắn, có năng lực chỉ đạo hiệu quả thì quản lý nhà nước ở địa phương đó cùng

chiều với phát triển KCN. Ngược lại, chính quyền địa phương thiếu năng lực,

không có tầm nhìn đúng, thiếu năng động thì quản lý nhà nước trở thành yếu

tố cản trở sự phát triển của KCN.

Thứ hai, ảnh hưởng của trình độ tổ chức thực hiện chính sách đối với

khu công nghiệp của cấp tỉnh. Đó là ảnh hưởng của năng lực tài chính và sự

chỉ đạo của cấp tỉnh đối với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp

Tỉnh/Thành Phố trong tổ chức xây dựng hệ thống các công trình kết cấu hạ

tầng kỹ thuật ngoài hàng rào KCN đồng bộ với hoạt động trong KCN. Địa

phương nào có tiềm lực tài chính mạnh và có quyết tâm phát triển KCN thì

33

thường ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng ngoài KCN nhằm tạo điều kiện cho

KCN phát triển, do đó quản lý nhà nước về đầu tư đối với KCN của các ban

ngành cũng thông thoáng hơn. Ngược lại, các địa phương nghèo, thiếu quan

tâm đến KCN thì quản lý của các ban ngành thường chặt chẽ và ít nhiều gây

khó khăn cho KCN.

Thứ ba, ảnh hưởng của trình độ kiểm tra, thanh tra và giám sát đối với

khu công nghiệp của cấp tỉnh. Đó là năng lực của cấp Tỉnh/Thành Phố trong

việc ban hành và giám sát thực hiện quy chế phối hợp giữa Ban quản lý các

KCN với các sở, ban, ngành quyết định chất lượng quản lý nhà nước đối với

KCN. Nếu việc phối hợp không tốt thì dù quyết tâm đến đâu quản lý nhà

nước cũng trục trặc. Ngược lại quy chế phối hợp rõ ràng, hiệu lực, phối hợp

cao, tiến độ phối hợp nhịp nhàng sẽ làm cho quản lý nhà nước thích ứng

nhanh với KCN và hiệu quả cao hơn.

Năng lực cấp Tỉnh/Thành Phố còn ảnh hưởng đến quản lý nhà nước

đối với KCN ở khía cạnh chỉ đạo thực hiện về xây dựng, lao động, bảo vệ môi

trường, phòng chống cháy nổ, an ninh trật tự trong KCN. Chính vì thế, sự

quan tâm và năng lực giải quyết các vấn đề này của địa phương ảnh hưởng

sâu sắc đến chất lượng và kết quả quản lý nhà nước đối với KCN.

Ngoài ra, cấp Tỉnh/Thành Phố đại diện cho nhiều quyền hạn quản lý

nhà nước khác về KCN theo quy định của pháp luật, do đó, chất lượng của

cấp tỉnh quyết định chất lượng quản lý của họ đối với KCN.

* Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương

- Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển KCN hỗ trợ quản lý nhà

nước đối với KCN trên các phương diện phát hiện nhu cầu, giảm nhẹ hỗ trợ

tài chính, dễ thực thi các chính sách thu hút đầu tư vào KCN, các KCN có

điều kiện hoạt động hiệu quả nên hỗ trợ thu ngân sách nhà nước, các vướng

mắc cần tháo gỡ ít hơn. Ngược lại, ở các địa phương có điều kiện không

34

thuận lợi cho phát triển KCN thì quản lý nhà nước vừa gặp nhiều vấn đề khó

khăn cần tháo gỡ, vừa phải trợ cấp lớn cho KCN, trong khi đó KCN có thể

vẫn vận hành không hiệu quả.

- Điều kiện kinh tế xã hội: Bản thân Nhà nước phải hỗ trợ nhiều mặt và

giúp đỡ KCN nếu như xây dựng KCN ở các vùng kém phát triển, lao động

vừa thiếu, vừa chưa được đào tạo, cơ sở hạ tầng nghèo nàn.. .Do đó, tuỳ theo

các điều kiện kinh tế xã hội của từng địa phương khác nhau mà nội dung quản

lý nhà nước cũng khác nhau.

1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp

và bài học cho Quảng Ngãi

1.3.1. Kinh nghiệm tại Đài Loan

Nhằm thực hiện chính sách phát triển công nghiệp và quản lý môi

trường, trong thời gian đầu, Đài Loan phát triển các KCX, tiếp theo là các

KCN, KCNC. Kinh nghiệm quản lý nhà nước các KCN của Đài Loan trước

hết, là chính sách phát triển công nghiệp đồng bộ; có cơ quan chuyên nghiên

cứu quy hoạch, xây dựng và phát triển KCN của quốc gia, lập được quy

hoạch KCN thoả mãn các yêu cầu; chọn được các loại hình công nghiệp cần

đầu tư. Chọn vị trí và quy mô hợp lý về đất đai để phát triển KCN; thực hiện

đồng bộ từ việc thủ tục đến thiết kế quy hoạch, thiết kế xây dựng, bảo trì và

phát triển KCN; tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư vào KCN, giải quyết đồng

bộ các khâu từ thủ tục pháp lý, tài chính và đầu tư kinh doanh phát triển.

Hai là, chính quyền Đài Loan rất chú trọng công tác quy hoạch phát

triển KCN và chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong nước vào các KCN. Ở

- Chính phủ căn cứ vào điều kiện tài nguyên, nguồn nhân lực cũng như

Đài Loan, công tác này được tổ chức khá chặt chẽ:

đặc điểm kinh tế - xã hội khác của từng địa phương, vùng để ban hành những

chỉ dẫn, các quy định để quản lý việc phát triển KCN phù hợp với quy hoạch

35

- Việc phát triển KCN được chú ý từ khi đưa ra chủ trương phát triển,

chung của cả nước.

qui hoạch phát triển và đấu thầu xây dựng các KCN. Sau khi qui hoạch được

thông qua, họ mới tiến hành chọn các nhà đầu tư để đấu thầu, trong đó ưu tiên

cho các nhà đầu tư tư nhân trong nước. Những nhà đầu tư trúng thầu sẽ xây

dựng và khai thác KCN của mình. Trong các KCN được khuyến khích xây

- Tiến hành đánh giá theo định kỳ 3 năm một lần hoạt động của các

dựng nhà xưởng cao tầng để tiết kiệm và tăng hiệu quả sử dụng.

KCN, chú trọng tính phù hợp trong hoạt động của KCN so với quy hoạch,

- Có chính sách điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ khu công

nhất là những vấn đề có liên quan đến môi trường.

nghiệp theo hướng bền vững và có hiệu quả. Cơ cấu sử dụng đất hợp lý, theo

kinh nghiệm của Đài Loan là: đất cho xây dựng nhà máy: 60%; đất dành cho

xây dựng khu dân cư: 2,2-3%; đất dành cho các công trình BVMT: 33% bao

gồm đất cho các công trình vui chơi, giải trí, đất trồng cây xanh [35, tr.54].

Ba là, sự phát triển mạnh các dịch vụ trong KCN, KCX. Các mô hình

- Hoạt động của trung tâm kho vận trong KCN, KCX. Trung tâm kho

dịch vụ quản lý hoạt động có hiệu quả trong các KCN, KCX ở Đài Loan là:

vận có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, bao gồm hệ thống kho và phương

tiện vận tải, chuyên chở tốt; thời gian làm việc tất cả mọi thời gian trong năm

và trong ngày; cung cấp dịch vụ nhanh, tiện nghi; chi phí dịch vụ mang tính

cạnh tranh, hàng hoá chuyên chở đều có bảo hiểm; hệ thống thông tin đáng tin

- Hoạt động trung tâm lưu thông hàng hoá. Trung tâm lưu thông hàng

cậy.

hoá có tính linh hoạt rất cao. Hàng nước ngoài, hàng trong KCN, và các

doanh nghiệp nội địa có thể đưa vào trung tâm. Hàng nhập khẩu và các

nguyên vật liệu nhập khẩu đưa vào gia công, đưa vào trung tâm không cần xin

36

phép hải quan. Các trung tâm lưu thông hàng hoá phối hợp với các công ty

marketing quốc tế hợp tác công nghệ, giúp cho các doanh nghiệp tìm kiếm,

phát triển thị trường, đầu mối giao dịch, tìm kiểm nguyên liệu với giá rẻ hơn,

làm tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.

Bốn là, bộ máy quản lý nhà nước các KCN ở Đài Loan đảm nhận

những chức năng có liên quan đến phát triển các KCN. Ngoài những chức

năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của KCN, ban quản lý các KCN còn

- Kiểm tra việc xây lắp nhà máy và vệ sinh môi trường. Với chức năng

thực hiện 2 chức năng:

này, ban quản lý tham gia kiểm tra, giám sát việc triển khai xây dựng dự án và

lắp đặt thiết bị máy để đảm bảo phù hợp với quy hoạch chung của KCN, kiểm

tra độ an toàn của dự án, đánh giá vệ sinh và khả năng gây ô nhiễm môi

- Chức năng giám sát phúc lợi công cộng. Với chức năng này, ban

trường của dự án.

quản lý các KCN giám sát hoạt động chăm sóc y tế, cung cấp thực phẩm; điều

kiện đi lại của người lao động đến nơi làm việc, tình hình cư trú, giáo dục,

giải trí của người lao động; sự bảo đảm an ninh, an toàn cho người lao động

tại nơi sản xuất cũng như nơi ở của họ.

1.3.2. Kinh nghiệm tại Thái Lan

Thái Lan phát triển mô hình KCN, KCX từ năm 1970. Mô hình KCN,

KCX của Thái Lan là mô hình KCN tập trung tổng hợp, bao gồm KC N, KCX

và các khu dịch vụ.

Các KCN Thái Lan có thể do Nhà nước, tư nhân sở hữu hoặc thông

qua một Tổng Công ty Nhà nước là Industrial Estates Authority of Thailand

(IEAT) hoặc Cơ quan đầu tư Thái Lan-Board of Investment (BOI); hoặc

thành viên của Hiệp hội KCN Thái Lan - Thailand Industrial Estates

Association (TIEA); hoặc thuộc Bộ Công nghiệp Thái Lan hoặc liên doanh

37

với IEAT. Do vậy, phương thức đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng

cũng đa dạng. Nhà đầu tư thứ cấp mua đất có thời hạn hoặc thuê đất trong

KCN đã phát triển hạ tầng.

Chính sách quản lý nhà nước các KCN nhất quán, có sự phân cấp cho

các vùng và địa phương. Các phương án quy hoạch KCN được thực thi bằng

các chính sách ưu đãi khác nhau theo từng vùng. Khi đầu tư vào các KCN

Thái Lan, các nhà đầu tư được hưởng ưu đãi về thuế, phí, giá và cơ chế quản

lý một cửa. Các ưu đãi về tài chính được xác định theo vùng ưu đãi đầu tư.

Các KCN của Thái Lan được chia thành 3 vùng: vùng 1 bao gồm Băng cốc và

5 tỉnh lân cận; vùng II bao gồm 12 tỉnh tiếp theo và vùng III bao gồm 58 tỉnh

còn lại. các ưu đãi tài chính được tập trung nhiều nhất cho vùng III. Vùng III

là vùng ưu đãi nhất. Đồng thời, Thái Lan cũng quy hoạch ngành theo vùng ưu

đãi đầu tư. Nhiều ngành công nghiệp không được phép đầu tư vào Vùng I mà

chỉ được phép đầu tư vào vùng II hoặc vùng III. Ví dụ như ngành sản xuất các

sản phẩm cao su, ceramic, sứ, kính và chế tạo dụng cụ,... phải đặt ở vùng II

hoặc vùng III; ngành sản xuất thức ăn gia súc, dầu thực vật; nước uống coca,

đường ăn, sản phẩm may mặc thông thường, lưới đánh cá,... phải đặt ở vùng

III. Nhìn chung, các ngành cần nhiều lao động giản đơn, dễ gây ô nhiễm, cần

sử dụng nguyên liệu ngành nông nghiệp được quy hoạch xa Bangkok và 5

tỉnh lân cận. Đây cũng là kinh nghiệm đối với Việt Nam nói chung và tỉnh

Quảng Ngãi nói riêng trong việc thu hút đầu tư theo quy hoạch và bố trí các

KCN.

Thái Lan quan tâm ngay từ đầu việc cung cấp đầy đủ cơ sở hạ tầng cơ

bản có lợi cho các KCN, nhất là ở các thành phố mới; phân phối lại thu nhập

cùng với các điều kiện vật chất khác; vấn đề ô nhiễm môi trường trong các

KCN được xử lý một cách có hệ thống và đồng bộ, hạn chế thành lập các

KCN tại các khu trung tâm du lịch; người lao động làm việc trong các KCN

38

được đào tạo liên tục và ngày càng nâng cao tay nghề; các công nghệ được

tập trung vào một số KCN là điều kiện cho sự chuyển giao khoa học công

nghệ giữa các nhà công nghiệp. Đặc biệt, Thái Lan quy hoạch đồng bộ từ

vùng công nghiệp, quy hoạch tổng thể KCN, quy hoạch không gian KCN.

Phát triển KCN luôn luôn có hệ thống hạ tầng xã hội khép kín bảo đảm cho

ăn, ở, sinh hoạt của người lao động. Thủ tục quản lý đơn giản thuận tiện cho

các nhà đầu tư. Có bộ máy xúc tiến chương trình phát triển đồng bộ giữa các

cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương. Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở

kỹ thuật để hình thành các trung tâm công nghiệp.

1.3.3. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước

* Bình Dương

Sau khi tái lập tỉnh, Bình Dương đã khởi lập KCN đầu tiên vào tháng 9

năm 1995, đó là KCN Sóng Thần với diện tích quy hoạch 180 ha. Đến cuối

năm 2004 ngoài KCN Việt Nam - Singapo (thành lập năm 1996, với diện tích

292 ha) thuộc Trung ương quản lý, Bình Dương đã có 12 KCN được thành

lập với diện tích quy hoạch 1.934,73 ha. Tiếp đó, trong 6 tháng đầu năm

2005, Chính phủ đã cho phép Bình Dương lập mới 3 KCN với diện tích 810,5

ha, đang trong quy hoạch KCN Mỹ Phước III, diện tích 890 ha. Đồng thời, dự

án Khu liên hợp “Công nghiệp-dịch vụ-đô thị Bình Dương” với qui mô 4.196

ha đã được Chính phủ phê duyệt. Trong Khu liên hợp này có 5 KCN với diện

tích 1.298 ha. Trải qua gần 20 năm kiên trì xây dựng các KCN, đến năm 2015

toàn tỉnh Bình Dương đã có 28 KCN với tổng diện tích trên 9.500 ha, chiếm

9,5% về số lượng và 11,3% về diện tích KCN của cả nước. Hiện nay, Ban

Quản lý các KCN tỉnh được giao quản lý 25 KCN với tổng diện tích quy

hoạch lên đến hơn 7.500 ha. Dưới sự quản lý minh bạch, khoa học của Ban

Quản lý các KCN tỉnh, các KCN đã hoàn thành việc xây dựng, kết cấu hạ

tầng trong và ngoài KCN được đầu tư đồng bộ và hiện đại góp phần thay đổi

39

diện mạo tỉnh nhà, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư phát triển

kinh tế - xã hội địa phương. Các KCN hình thành và phát triển phù hợp với

quy hoạch xây dựng và phát triển KCN của cả nước cũng như quy hoạch sử

dụng đất và phát triển của tỉnh. Đến nay tổng diện tích đất đã cho thuê của các

KCN thuộc phạm vi quản lý của ban là 2.572 ha, tỷ lệ lấp đầy đạt 50,5%, cao

hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước [77]. Qua hơn 20 năm phát

triển các KCN, Bình Dương đã rút ra bài học có ý nghĩa quan trọng là: thường

xuyên nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch; tổ chức xây

dựng hợp lý và có hiệu quả hệ thống các cơ sở hạ tầng KCN; tạo môi trường

đầu tư và kinh doanh thuận lợi; xúc tiến, quảng bá và thu hút các dự án đầu tư

hoạt động trong KCN, trong đó tỉnh đặc biệt chú trọng:

Thường xuyên nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch

phát triển KCN theo hướng đa dạng hoá các loại hình KCN để đáp ứng nhu

cầu khác nhau của nhà đầu tư.

Công tác QLNN đối với hoạt động của các doanh nghiệp trong các

KCN đã có bước phát triển toàn diện, từ công tác quản lý xây dựng, quản lý

lao động doanh nghiệp đến các lĩnh vực quản lý hoạt động, bảo vệ môi

trường... Trong đó, Bình Dương chú trọng công tác hướng dẫn, hỗ trợ doanh

nghiệp triển khai thực hiện những quy định của Nhà nước... đồng thời, tăng

cường công tác kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp trong việc chấp hành những

quy định của pháp luật; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, đẩy

mạnh cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa liên thông” tạo thuận

lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện dự án.

Về công tác tổ chức quản lý xây dựng: Hiện trong các KCN có 172

công trình đang xây dựng (2015), BQL đã hoàn thành nhiều phần việc: Cấp

giấy phép xây dựng; tổ chức kiểm tra; cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu

công trình; tiến hành xác nhận hợp đồng thuê lại đất; xác nhận hợp đồng thế

40

chấp đất và tài sản trên đất; xác định hợp đồng chuyển nhượng. Nhờ hoàn tất

khối lượng công việc quản lý trên đây, BQL góp phần đẩy nhanh tiến độ xây

dựng, hỗ trợ các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý tiếp tục thực hiện các dự án đi

vào hoạt động hiệu quả. Để hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai thực hiện dự

án, BQL thường phải chủ động hướng dẫn các thủ tục khi doanh nghiệp chuẩn

bị bước vào hoạt động chính thức, hay khi doanh nghiệp gặp khó khăn, hoặc

làm thủ tục giải thể, có tranh chấp hợp đồng kinh tế. Đối với các doanh

nghiệp đang hoạt động, thông qua việc thường xuyên kiểm tra mà BQL

hướng dẫn doanh nghiệp bổ sung hồ sơ đăng ký xin cấp giấy phép kinh

doanh, hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký thành lập văn phòng đại diện.

Trong sản xuất, kinh doanh thường phát sinh không ít vướng mắc, khó

khăn, các doanh nghiệp luôn yêu cầu BQL trợ giúp, nhất là về các thủ tục cần

thiết để doanh nghiệp sớm chính thức đi vào hoạt động. Qua những buổi làm

việc với doanh nghiệp, đoàn công tác của BQL đã hướng dẫn doanh

nghiệp thủ tục được hỗ trợ vay vốn để trả nợ lương người lao động, nợ bảo

hiểm xã hội và hướng dẫn giải quyết các chế độ cho người lao động thôi việc;

hướng dẫn các thủ tục giải thể trước thời hạn như trong việc giải thể của công

ty trách nhiệm hữu hạn EZ Sport Vina, Golden Fish; hướng dẫn thủ tục xin

tạm ngừng hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn Damool Vina,...Đối

với công tác quản lý lao động, vấn đề chủ yếu cần được giải quyết trong thực

tiễn hoạt động của các doanh nghiệp KCN là việc kiểm tra, thanh tra và

hướng dẫn thực hiện một số điều của Bộ Luật lao động. Trong đó, bộ phận

quản lý lao động thuộc BQL thường xuyên theo dõi, đôn đốc các doanh

nghiệp thực hiện những quy định về sử dụng lao động, như cấp sổ lao động,

cấp mới và gia hạn Giấy phép lao động cho người nước ngoài; hướng dẫn và

đôn đốc doanh nghiệp xây dựng nội quy lao động, ký kết thỏa ước lao động.

41

Về công tác kiểm tra giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

việc thực hiện Luật Lao động trong các doanh nghiệp, nắm tình hình và có

biện pháp giải quyết các tranh chấp lao động. Triển khai những mặt công tác

chủ yếu trên đây, BQL các KCN tỉnh Bình Dương còn coi trọng phối hợp vơi

Sở Tài nguyên và Môi trường kiểm tra công tác bảo vệ môi trường đối với

những doanh nghiệp có nhiều sai phạm (giấy, hóa chất, chế biến thực phẩm.),

tham gia hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án

quan trọng. Tỉnh Bình dương còn đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo

thuận lợi cho doanh nghiệp, ban hành quy trình xử lý công việc và công khai

thủ tục hành chính, các loại phí và lệ phí theo quy định; hoàn thành việc xây

dựng tổ chức công việc theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2008.

*Hải Phòng

Được thành lập sớm, từ 1994, trên địa bàn thành phố Hải Phòng có 3

KCN được thành lập (Nomura - Hải Phòng, Đình Vũ, Đồ Sơn) với tổng diện

tích đất tự nhiên 467 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 292.000 USD. Đến năm

2007, Hải Phòng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thêm 4 KCN. Tuy

nhiên, đến hết năm 2006, các KCN trên địa bàn mới chỉ thu hút được trên 70

dự án với tổng vốn FDI hơn 800 triệu USD, tổng vốn đăng ký trong nước

khoảng 1.280 tỷ đồng; quy mô dự án nhỏ, thiết bị, công nghệ trung bình; lao

động làm việc trong các doanh nghiệp KCN 8.000 người. Nhận thức và đánh

giá được vai trò, vị trí quan trọng của các KCN đối với sự phát triển kinh tế -

xã hội trong thời kỳ mới, từ năm 2007, Hải Phòng đã có những biện pháp,

giải pháp quản lý tích cực, đẩy mạnh và nâng cao công tác quản lý nhà nước

các KCN. Tính lũy kế đến ngày 31 tháng 12 năm 2015, trong các Khu công

nghiệp và Khu kinh tế tại Hải Phòng có 203 dự án có vốn đầu tư nước ngoài

còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký là 7,916 tỷ USD; 99 dự án có vốn đầu

tư trong nước còn hiệu lực, với tổng số vốn đăng ký là 46.822 tỷ VNĐ. Đạt

42

được các thành tựu trên là do Hải Phòng đã thực hiện các biện pháp quản lý

sau:

Về hoạch định, quy hoạch các KCN.

Quy hoạch KCN đổi mới và thay đổi lớn: Đề án điều chỉnh, xây dựng

mới các KCN của thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm

2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tiếp đến ngày 27/7/2011, Thủ

tướng Chính phủ đã chấp thuận bổ sung KCN Cầu Cựu của thành phố Hải

Phòng, diện tích 106 ha vào Quy hoạch phát triển các KCN Việt Nam. Như

vậy, đến nay trên địa bàn thành phố Hải Phòng có 17 KCN được quy hoạch

với tổng diện tích đất khoảng 10.000 ha. Đặc biệt, ngày 10/1/2008, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Quyết định số 06/2008/QĐ-TTg thành lập KKT Đình

Vũ - Cát Hải với quy mô 21.640 ha (nay được điều chỉnh bổ sung thành

22.140 ha) [75]. Đây là KKT có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng một

KKT tổng hợp được vận hành theo quy chế riêng biệt; là một trung tâm kinh

tế biển, đa ngành, đa lĩnh vực, bao gồm: kinh tế hàng hải (trọng tâm là phát

triển dịch vụ cảng, phát huy lợi thế thương hiệu cảng Hải Phòng có lịch sử

hơn 100 năm, kết hợp với cảng quốc tế Lạch Huyện sắp tới), trung tâm công

nghiệp, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại; là “cửa sổ hướng

ngoại và hội nhập”, là hạt nhân, động lực phát triển kinh tế của Hải Phòng,

Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước.

Về tổ chức thực hiện triển khai quy hoạch

Tập trung tăng cường quan hệ phối hợp công tác hài hoà, đồng bộ giữa

các cơ quan quản lý của thành phố, chính quyền, quận, huyện với Ban Quản

lý các KCX & CN Hải Phòng (nay là Ban quản lý KKT Hải Phòng), cải cách

thủ tục hành chính, giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến KCN như GPMB,

giao đất cho các chủ đầu tư triển khai dự án, kết nối cơ sở hạ tầng trong và

ngoài KCN, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, tạo nguồn lao động cung

43

ứng cho các doanh nghiệp, chăm sóc, hỗ trợ, giải quyết các khó khăn, vướng

mắc trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp; tạo môi

trường đầu tư hấp dẫn, môi trường sản xuất, kinh doanh ổn định, thuận lợi...

Bằng các hoạt động tích cực đó, trong vòng gần 5 năm (từ năm 2011 đến

2015), KCN của Hải Phòng đã khởi sắc với những kết quả rõ nét ở nhiều mặt.

Kết quả xây dựng KCN và thu hút đầu tư tăng nhanh: Trong 4 năm

2007-2011, có 7 Công ty xây dựng cơ sở hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng

nhận đầu tư (gấp hơn 2 lần của 13 năm trước đó), nâng tổng số các KCN được

thành lập và đi vào hoạt động là 10 khu với tổng diện tích gần 4.000 ha, tổng

vốn đầu tư cơ sở hạ tầng quy đổi 1,26 tỷ USD, loại hình công ty xây dựng và

kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN đa dạng hơn (có 4 công ty liên doanh với nước

ngoài, 1 công ty 100% vốn nước ngoài, 5 công ty 100% vốn trong nước).

Trong số này có 2 KCN đã lấp đầy diện tích giai đoạn I và đang triển khai giai

đoạn II (Nomura - Hải Phòng, Đình Vũ). Năm 2015, có 93 dự án có vốn đầu

tư nước ngoài được Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng điều chỉnh Giấy

chứng nhận đăng ký đầu tư, trong đó có 16 dự án điều chỉnh tăng tổng vốn

đầu tư 192,776 triệu USD; 08 dự án có vốn đầu tư trong nước được Ban Quản

lý Khu kinh tế Hải Phòng điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, trong

đó có 03 dự án điều chỉnh tăng tổng vốn đầu tư 6.551 tỷ VNĐ [74]. KCN đã

đóng góp tích cực đối với sự phát triển KT - XH: Các KCN, KKT Hải Phòng

đã góp phần tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật mới, huy động được nguồn lực

đáng kể của các thành phần kinh tế để mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất,

kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng

CNH, HĐH, đa dạng hoá ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và

khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tăng cường xuất khẩu, mở rộng hợp tác

quốc tế; tham gia giải quyết việc làm, nâng cao dân trí, thực hiện chính sách

44

xã hội, bảo vệ môi trường đảm bảo đầu tư bền vững, đóng góp cho ngân sách

địa phương ngày một gia tăng.

1.3.4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Quảng Ngãi

Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công

trong quản lý nhà về đầu tư vào các KCN của một số nước, vùng lãnh thổ

Châu Á và một số địa phương của Việt Nam, có thể rút ra các bài học sau cho

tỉnh Quảng Ngãi như sau:

Một là, sớm quy hoạch, tạo điều kiện phát triển các KCN là con đường

thích hợp để CNH, HĐH kinh tế địa phương. Kinh nghiệm các nước và các

địa phương cho thấy, để thúc đẩy KCN phát triển, chính quyền nhà nước và

các địa phương cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, nhất là thông qua

việc hoạch định chiến lược phát triển KCN, chính sách đất đai, chính sách tài

chính tín dụng, hỗ trợ thủ tục hành chính. Quy hoạch KCN phải kết hợp với

quy hoạch ngành lãnh thổ trên cơ sở quy hoạch tổng thể gắn với quy hoạch

vùng, gắn các KCN với các khu đô thị và dịch vụ.

Địa phương nào có chính quyền năng động thì KCN ở đó không những

phát triển nhanh mà còn hoạt động hiệu quả. Để tạo điều kiện phát triển các

KCN, chính quyền các tỉnh thường chú trọng hỗ trợ về đất, vốn, thủ tục hành

chính và xúc tiến đầu tư. Kinh nghiệm của nhiều tỉnh cho thấy, sự thân thiện

của các nhà quản lý nhà nước, quy hoạch công khai, rõ ràng, ổn định, sự hợp

tác của người lao động và cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đảm bảo là yếu tố

quyết định sự phát triển thành công của các KCN ở địa phương.

Hai là, kinh nghiệm các nước và các địa phương chỉ cho tỉnh Quảng

Ngãi thấy rằng, trong việc tổ chức quản lý nhà nước về đầu tư đối với các

KCN cần tập trung vào các vấn đề chính sau:

45

- Bảo đảm sự thống nhất trong quản lý bằng việc xác định rõ chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BQL KCN các cấp. Hệ thống QLNN phải gọn

nhẹ và có hiệu lực.

- Cần có những cơ chế chính sách ổn định lâu dài để nhà đầu tư yên

tâm trong việc đầu tư vào các KCN.

- Công khai các thủ tục hành chính, giải quyết yêu cầu của các nhà đầu

tư nhanh và đúng theo quy định của nhà nước .

- Cần có các chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các DN vi phạm pháp

luật.

- Có sự quan tâm, thân thiện của các các cấp chính quyền, các sở, ban,

ngành trong tỉnh đối với nhà đầu tư trong KCN. Bảo đảm sự thống nhất trong

quản lý bằng việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của BQL KCN

các cấp. Hệ thống QLNN phải gọn nhẹ và có hiệu lực.

- Phải có đội ngũ công chức toàn tâm, toàn ý, có trình độ năng lực thực

thi công việc quản lý nhà nước trong các KCN.

Ba là, những địa phương đạt được thành công nhất định trong việc

quản lý nhà nước về đầu tư đối với các KCN thường phải hội tụ được các điều

kiện sau:

- Tình hình chính trị, xã hội và kinh tế vĩ mô ổn định, chính quyền địa

phương quan tâm khuyến khích DN hoạt động theo nguyên tắc thương mại

thích hợp.

- Có cơ chế quản lý linh hoạt, có hiệu quả cao, thủ tục hành chính đơn

giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tránh được ở mức cao nhất tệ quan liêu, hành

chính gây phiền hà cho các nhà đầu tư.

- Thực thi một số biện pháp khuyến khích ưu đãi cho các DN hoạt

động trong KCN, nhất là thuế.

- Thu hút được lượng lao động dồi dào, có kỹ năng.

46

- Có địa điểm thuận lợi, chi phí đầu tư có sức cạnh tranh.

- Có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội tốt, gần trung

tâm đô thị và CN có khả năng hậu thuẫn cho hoạt động kinh tế.

- Được các ngành khác hỗ trợ.

Bốn là, quá trình quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN là một quá

trình phức tạp, đa dạng, phong phú. Mỗi địa phương có phương hướng và

cách đi khác nhau, song đều có điểm chung là nỗ lực phát huy được lợi thế so

sánh, mạnh dạn đi vào các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng

điểm, thực hiện sự mở cửa rộng rãi theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, đồng

thời quan tâm đến thị trường trong nước. Chính sách ưu đãi các nhà đầu tư

đến KCN không thể vượt rào ra ngoài các quy định chung của Chính phủ,

nhưng có thể vận dụng linh hoạt để tăng sức hấp dẫn thu hút mạnh nhưng nhà

đầu tư chiến lược theo đúng những ngành sản xuất, kinh doanh mà quy hoạch

chung của tỉnh yêu cầu.

47

Tóm tắt chương 1

Trong chương này luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề sau:

Đã hệ thống hóa và làm rõ khái niệm về KCN, vai trò của KCN đối với

nền kinh tế. Đã hệ thống hóa và làm rõ khái niệm quản lý nhà nước về đầu tư

vào các KCN. Từ đó luận án đã chỉ rõ mục tiêu của Quản lý nhà nước về đầu

tư vào các KCN, bao gồm 6 mục tiêu chính: Tạo điều kiện thuận lợi cho đầu

tư và phát triển công nghiệp; Sử dụng quỹ đất một cách hiệu quả; Sử dụng

vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng một cách hiệu quả; Bảo vệ môi trường sinh thái;

Nâng cao hiệu quả kinh tế theo lãnh thổ; Tạo việc làm và tăng thu nhập cho

người lao động.

Luận văn chỉ ra tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác quản lý nhà nước

về đầu tư vào các KCN bao gồm: Tính phù hợp; Tính hiệu lực; Tính khả thi;

Tính hiệu quả.

Luận văn đã phân tích rõ nội dung của quản lý nhà nước về đầu tư vào

các KCN theo quy trình quản lý, bao gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch,

kế hoạch và chính sách quản lý nhà nước các KCN; Thực hiện cấp, điều

chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; Tổ chức thực hiện chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch và chính sách quản lý nhà nước các KCN; Thực hiện

thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN; Luận văn cũng đưa ra

các công cụ tác động và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà

nước về đầu tư vào các khu công nghiệp

Luận văn đã giới thiệu khái quát về quản lý nhà nước tại một số nước,

vùng lãnh thổ châu Á, như: Đài Loan, Thái Lan, Malaysia, đây là các nước có

chế độ chính trị, điều kiện tự nhiên khác nhau và đều có các KCN phát triển

mạnh, đa dạng các loại hình. Ngoài ra luận văn cũng đã giới thiệu sơ lược về

công tác quản lý nhà nước về đầu tư tại các địa phương của Việt Nam, như:

48

Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương. Từ đó rút ra bào học có thể áp dụng cho

tỉnh Quảng Ngãi trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư vào các khu công

nghiệp trên địa bàn.

49

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU

2.1. Khái quát về các Khu công nghiệp

CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG NGÃI.

2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên

* Vị trí địa lý

Quảng Ngãi là tỉnh ven biển, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung

(Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Quảng Ngãi - Bình Định). Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 5.136,88 km2, đến năm 2014 dân số trung bình của tỉnh

Quảng Ngãi là 1.236.250 người, chiếm khoảng 1,6% dân số cả nước. Quảng Ngãi

có bờ biển dài khoảng 129 km, ngoài khơi có đảo Lý Sơn và một số đảo nhỏ khác.

Quảng Ngãi hiện có 1 thị xã, 6 huyện miền núi và trung du, 6 huyện đồng bằng ven

biển và huyện đảo Lý Sơn. Ngày 01/12/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

145/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện Tây Trà; mở rộng thị trấn, thành lập xã

và đổi tên xã thuộc các huyện Bình Sơn, Lý Sơn. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam,

phía Nam giáp tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum, phía Đông giáp biển

Đông. Quảng Ngãi có tuyến quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua tỉnh,

quốc lộ 24 nối Quảng Ngãi với Kon Tum và hạ Lào; đây là tuyến giao thông quan

trọng đối với Kon Tum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hóa giữa duyên

hải và Tây Nguyên, giao lưu trao đổi hàng hóa, phát triển kinh tế miền núi gắn với

an ninh quốc phòng. Phía Bắc tỉnh, tại huyện Bình Sơn đã và đang hình thành khu

kinh tế tổng hợp Dung Quất gần sát sân bay Chu Lai - tại đây có cảng nước sâu

Dung Quất, khu công nghiệp lọc hóa dầu và một số khu công nghiệp khác, khu đô

thị mới Vạn Tường - là một khu kinh tế lớn của đất nước ở miền Trung.

* Đặc điểm địa hình

Địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông với các dạng địa hình

đồi núi, đồng bằng ven biển, phía Tây của tỉnh là sườn Đông của dãy Trường Sơn,

2.1.1. Giới thiệu tổng quan về tỉnh Quảng Ngãi

50

tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có nơi núi chạy sát biển, đồi

núi chiếm phần lớn diện tích, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp (trừ đồng bằng thuộc hạ

lưu sông Trà Khúc, Sông Vệ).

* Khí hậu

Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới điển hình, nên nhiệt độ cao và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú, nhiệt độ trung bình năm trên 250C. Lượng

mưa trung bình năm trên 2.000 mm (giai đoạn 1991 - 2002), tập trung từ tháng 9

đến tháng Giêng năm sau (chiếm 70 - 80% lượng mưa cả năm); bình quân 4 năm có

một cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Ngãi. Tổng

lượng bức xạ lớn thuận lợi cho việc phơi sấy; sử dụng năng lượng mặt trời trong

công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, làm muối và sản xuất điện năng (năng

lượng gió).

2.1.1.2 Tìm năng kinh tế

Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được

Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của cả

nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế

tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa.

Năm 2015 là năm đầu tiên tỉnh Quảng Ngãi thu ngân sách nhà nước đạt

14.500 tỷ đồng, GDP tăng 6,68%, vượt so với kế hoạch đề ra là 6,2%. Đây là mức

tăng GDP cao nhất 5 năm gần đây (năm 2011 tăng 6,25%, năm 2012 tăng 5,25%,

năm 2013 tăng 5,42%, năm 2014 tăng 5,98%). Quy mô nền kinh tế năm nay theo

giá hiện hành đạt 4.192,9 nghìn tỷ đồng; GDP bình quân đầu người năm 2015 ước

đạt 45,7 triệu đồng/người, tương đương 2.109 USD, tăng 57 USD so với năm 2014,

yếu tố giá tăng 8,4%, cao hơn mức tăng 8,1% của năm 2014)...

51

Nguồn: Cục thống kê Tỉnh Quảng Ngãi

* Hiện trạng nhân lực lao động xã hội

+ Theo trình độ: Tỷ lệ biết chữ của dân số 15 tuổi trở lên năm 2014 là 91,83%, tăng

5,22% so với năm 1999 (năm 1999: 86,65%).

+ Theo ngành kinh tế: Tổng lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế là

707.044 người, được phân chia theo ngành kinh tế như sau:

Nông lâm thủy sản: 430.210 người; Khai khoáng: 4.125 người; Công nghiệp chế biến,

chế tạo: 66.485 người; Sản xuất và phân phối điện khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa

không khí: 1.325 người; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải: 963 người;

Xây dựng: 38.670 người; Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô xe máy và xe có động cơ

khác: 63.209 người; Vận tải, kho bãi: 14.230 người; Dịch vụ lưu trữ và ăn uống: 20.250

người; Thông tin và Truyền thông: 2.526 người; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo

hiểm: 2.584 người; Hoạt động kinh doanh bất động sản: 407 người; Hoạt động chuyên môn,

khoa học và công nghệ: 3.625 người; Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ: 1.614 người;

Hoạt động trong hệ thống chính trị, xã hội: 55.471; Hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình

sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tiêu dùng của hộ gia đình: 1.350 người.

Hình 2.1: Biểu đồ biểu diễn số người làm việc trong nên kinh tế năm 2014

52

2.1.2 Vị trí và tiềm năng phát triển của các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

*Vị trí các Khu công nghiệp Quảng Ngãi:

- Khu công nghiệp Tịnh Phong được thành lập năm 1997, nằm trên

tuyến quốc lộ 1A, cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi 7 km về phía Bắc,

cách Khu kinh tế Dung Quất và sân bay Chu Lai khoảng 20 Km về phía Nam,

có nguồn điện lưới Quốc gia, với diện tích quy hoạch 140,72 ha. Hạ tầng

KCN Tịnh Phong được đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung

ương và địa phương, đến nay cơ bản được đồng bộ. Đây là KCN tập trung thu

hút các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, đồ gỗ xuất khẩu, điện tử, da

giày, dệt may, vật liệu tổng hợp…Cung ứng các dịch vụ kỹ thuật và công

nghệ, đặc biệt là công nghệ cao; các dịch vụ chế tạo, sửa chữa, lắp ráp thiết bị

thi công, hàng gia dụng; sản xuất các sản phẩm công nghiệp khác, từng bước

thay thế hàng nhập khẩu.

- Khu công nghiệp Quảng Phú được thành lập năm 1999, nằm ở

phường Quảng Phú, thành phố Quảng Ngãi, cạnh Ga đường sắt Quảng Ngãi,

cách đường quốc lộ 1A 02 km về phía Tây, cách Khu kinh tế Dung Quất và

sân bay Chu Lai khoảng 30 km về phía Nam, có nguồn điện lưới Quốc gia,

với diện tích quy hoạch 92,14 ha. Hạ tầng KCN Quảng Phú được đầu tư bằng

nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và địa phương, đến nay cơ bản

được đồng bộ. Ngành nghề ưu tiên phát triển là công nghiệp chế biến thực

phẩm, sản xuất bao bì, thuỷ sản, sản xuất dầu ăn, Bia – rượu, nước giải khát,

đường, bánh kẹo, các loại sản phẩm sau đường, đồ gỗ xuất khẩu….

- KCN Phổ Phong được thành lập năm 2010 với quy mô diện tích là

157,38 ha, hiện trong giai đoạn giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng cơ sở

hạ tầng kỹ thuật. Ban Quản lý các KCN Quảng Ngãi đang đầu tư xây dựng

một số hạ tầng thiết yếu. Đây là KCN tập trung ưu tiên thu hút các dự án sử

53

dụng nguồn nguyên liệu địa phương như chế biến nông, lâm, thủy sản, các

ngành công nghiệp nhẹ ít gây ô nhiễm môi trường.

- KCN Đồng Dinh được Chính phủ phê duyệt năm 2015 với quy mô

diện tích khoảng 150ha trên cư ở một số nhà máy đã có sẵn cụm công nghiệp

Đồng Dinh. Hiện Ban Quản lý đang lập quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000. Đây

là KCN tập trung ưu tiên thu hút các dự án sử dụng nguồn nguyên liệu địa

phương như chế biến nông, lâm sản, các ngành công nghiệp nhẹ ít gây ô

nhiễm môi trường như may mặc….

- KCN Phổ Khánh: Nằm trong quy hoạch các KCN đã được Chính phủ

phê duyệt, Hiện Ban Quản lý đang lập quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000. Đây là

KCN tập trung ưu tiên thu hút các dự án sử dụng nguồn nguyên liệu địa

phương như chế biến nông, lâm, thủy sản, các ngành công nghiệp nhẹ ít gây ô

nhiễm môi trường như may mặc….

* Tiềm năng, lợi thế Các Khu công nghiệp Quảng Ngãi:

- Lợi thế về vị trí địa lý là điều kiện cho sự phát triển ổn định và chiến

lược: có cảng biển nước sâu đa chức năng, gần sân bay quốc tế Chu Lai và

sân bay Đà Nẵng, liền kề quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt, có Quốc lộ 24

nối với Tây Nguyên và các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông, là một trong

5 tuyến đường ngang Đông - Tây của hệ thống đường xuyên Á qua Việt Nam

(Dung Quất - Ngọc Hồi - Pakse - U don), có đô thi mới được quy hoạch phát

triển là thành phố công nghiệp - dịch vụ, phát triển theo tiêu chuẩn của một đô

thị hiện đại, văn minh. Đồng thời có chiều dài bờ biến trên 50 km hướng ra

biển đông với nhiều tiềm năng phát triển du lịch - dịch vụ ... Như vậy, các

KCN có lợi thế về vị trí địa lý hết sức thuận lợi trong giao lưu kinh tế trong

nước và thế giới bằng cả đường bộ, đường thủy lẫn đường hàng không.

- Lợi thế về sự hình thành và tác động của các ngành công nghiệp mũi

nhọn, quan trọng của nền kinh tế: các KCN Quảng Ngãi được xác định là vệ

54

tinh của KTT Dung Quất, lĩnh vực ưu tiên phát triển là các ngành công nghiệp

nhẹ, công nghiệp phụ trợ...

- Lợi thế về điều kiện hạ tầng: được Nhà nước quan tâm đầu tư đồng

bộ như giao thông, cấp điện, cấp nước, bưu chính viễn thông, các công trình

tiện ích xã hội cùng với một số dự án về các ngành kinh tế khác đã được triển

khai trước khi có quyết định thành lập các KCN. Đó là điều kiện và động lực

tác động thúc đẩy sự phát triển nhanh trong thời kỳ tới.

2.1.3 Vai trò của các Khu công nghiệp Quảng Ngãi đối với sự phát triển

của tỉnh

- Góp phần tăng trưởng kinh tế

Các KCN Quảng Ngãi góp phần tăng trưởng kinh tế nói chung và

công nghệ của Quảng Ngãi nói riêng, tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, cho phép khai thác tối đa các nguồn lực của tỉnh một cách có hiệu

quả, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của người

dân.

- Góp phần phát triển ngoại thương

Hàng hoá được sản xuất tại các KCN Quảng Ngãi không chỉ đáp ứng

được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà sẽ thâm nhập sang các thị trường nước

ngoài như EU, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc... do đó các KCN sẽ góp phần phát

triển mặt hàng, mở rộng thị trường, phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế

hướng về xuất khẩu.

- Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực nông thôn

Trừ KCN Quảng Phú, hai KCN Tịnh Phong và Phổ Phong nằm ở

ngoại thành nên nó không chỉ góp phần thúc đẩy kinh tế ở khu vực này, nâng

cao thu nhập và cải thiện đời sống của người lao động mà còn phá vỡ tính

khép kín của làng, xã, nâng cao trình độ dân trí cho người lao động địa

phương và làm giảm bớt khoảng cách của sự cách biệt với các khu vực khác.

55

- Phát huy nội lực của các thành phần kinh tế

Việc hình thành các KCN Quảng Ngãi đã tạo mặt bằng sản xuất, kích

thích sự tham gia của các doanh nghiệp (kể cả trong nước và nước ngoài) vào

hoạt động trong các KCN; đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các

thành phần kinh tế trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước; các khu công nghiệp cũng đã tạo ra một hệ thống kết

cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, có giá trị lâu dài, góp phần hiện đại hóa hệ

thống kết cấu hạ tầng trên cả nước.

2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp

tỉnh Quảng Ngãi

2.2.1 Về xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách quản lý

nhà nước các Khu công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi

Nhận thức vai trò quan trọng của công tác quy hoạch, kế hoạch và

chính sách quản lý nhà nước các KCN trong việc phát huy hiệu quả các nguồn

lực và lợi thế cạnh tranh của tỉnh Quảng Ngãi với các địa phương khác trong

việc phát triển KCN, tỉnh Quảng Ngãi đã tiến hành xây dựng quy hoạch phát

triển các KCN năm 2010 đến năm 2020 trên địa bàn. Quy hoạch phát triển

KCN Quảng Ngãi dựa trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh,

chiến lược phát triển vùng, lãnh thổ, chiến lược phát triển công nghiệp và

nghiên cứu tổng hợp các điều kiện tự nhiên và xã hội bước đầu tạo được bước

đi phù hợp với khả năng của tỉnh về tài chính, thu hút đầu tư của từng thời kỳ.

Chiến lược và quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi đã đưa ra 02

nội dung chính về quy hoạch mạng lưới các KCN và sản phẩm công nghiệp

của thành phố cụ thế như sau:

*Về mạng lưới các Khu công nghiệp chiến lược:

- Phát triển công nghiệp sạch, ít gây ô nhiễm, các khu công nghiệp

tập trung, di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm môi trường hoặc

56

không phù hợp với quy hoạch vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập

trung.

- Phía Bắc là KCN Tịnh Phong, diện tích khoảng 120ha: ưu tiên phát

triển công nghiệp điện tử - công nghệ thông tin, cơ khí, sản xuất ôtô, công

nghiệp vật liệu mới, vật liệu xây dựng, dệt may.

- Phía Nam gồm KNC Phổ Phong, Phổ Khánh, diện tích khoảng 300

ha: ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu địa

phương…, chế biến nông, lâm, thủy sản công nghệ hiện đại với nguyên liệu

đầu vào từ vùng phát triển nông nghiệp thuộc các huyện phía nam tỉnh Quảng

Ngãi, phát triển công nghiệp hỗ trợ (dệt may, da giày, cơ khí chế tạo, điện tử

tin học, sản xuất và lắp ráp ôtô ..

- Phía Tây là KCN Đồng Dinh, diện tích khoảng 130ha: ưu tiên phát

triển các ngành công nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu địa phương…, chế

biến nông, lâm nghiệp với nguyên liệu đầu vào từ vùng phát triển nông

nghiệp thuộc các huyện phía tây tỉnh Quảng Ngãi chủ lực, công nghiệp sinh

học phục vụ nông nghiệp, dệt may…

- Trong thành phố: KCN Quảng phú: diện tích khoảng 92 ha, ưu tiên

phát triển công nghiệp thực phẩm

Bảng 2.1. Danh mục ngành nghề theo chiến lược phát triển

của tỉnh Quảng Ngãi

Chiếm tỷ trọng TT Ngành 2015 2020 2030

1 Điện tử - công nghệ thông tin 10,86% 11,85% 15,53%

2 Cơ khí 44,55% 49,22% 52,00%

3 Hóa chất, hóa dược và mỹ phẩm 8,31% 7,19% 4,74%

Chế biến nông sản, thực phẩm và 4 17,54% 17,6% 19,99% đồ uống

57

5 Dệt may, da giày 5,90% 4,34% 1,99%

6 Vật liệu xây dựng, trang trí nội thất 6,58% 5,70% 3,77%

Nguồn: Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng

*Về quy hoạch

Cho đến nay, tỉnh Quảng Ngãi đã thực hiện tương đối tốt công tác quy

- Thông qua chương trình Quy hoạch ngành: Quy hoạch tổng thể phát

hoạch và phối hợp hợp xây dựng quy hoạch, điển hình là:

triển KCN ttỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Xây

dựng các báo cáo định kỳ và đột xuất liên quan đến quy hoạch KCN theo chỉ

đạo của Chính phủ; Báo cáo rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển các KCN

- Phối hợp làm việc với đơn vị kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN, Bộ

theo Chỉ thị 07 của Thủ tướng Chính phủ;

Kế hoạch và Đầu tư,...tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch các KCN phù

hợp với quy hoạch chung và quy hoạch phân khu; tham gia công tác quy

hoạch các KCN trong Đề án phát triển công nghiệp;

- Tiến hành kiểm tra và hướng dẫn doanh nghiệp trong các KCN

hoàn thiện các thủ tục đảm bảo công tác quản lý về quy hoạch và xây dựng

được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Hướng dẫn, tiếp nhận và

giải quyết các hồ sơ trong lĩnh vực quy hoạch xây dựng của các doanh nghiệp

thứ phát đầu tư xây đựng lại các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Quy hoạch phân bố các KCN công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi hiện nay

chủ yếu bám theo các trục quốc lộ trọng yếu như:

Dọc theo quốc lộ 1 có KCN Tịnh Phong và Phổ Khánh, nằm ở phía

Tây có KCN Phổ Phong giáp với quốc lộ 24, KCN Đồng Dinh, KCN Quảng

Phú gần hệ thống ga xe lửa, ở đây có các cảng nước sâu Dung Quất thuận tiện

cho các phương tiện vận tải thuỷ hoạt động, cách cảng Đà Nẵng không xa. Về

58

đường hàng không, KCN chỉ cách sân bay Chu Lai khoảng 30km. Với mạng

lưới giao thông này, việc cung ứng nguyên vật liệu và vận chuyển hàng hoá

xuất khẩu rất tiện lợi và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc phân bố và quy hoạch

các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn chưa thực sự hợp lý, một số KCN

điển hình như:

KCN Quảng Phú nằm trong thành phố quy hoạch KCN này thiếu sự

đồng bộ, hàng rào KCN không tách rời khỏi khu dân cư mà vẫn bị lẫn với

đường đi lại của dân cư xung quanh. Hoạt động của KCN ảnh hưởng rất lớn

đến đời sống dân cư, nhất là vấn đề ô nhiễ môi trường.

Khu công nghiệp Tịnh Phong khi xây dựng quy hoạch không tính hết

đến các yếu tố liên quan đến công tác bảo vệ môi trường nên đến nay vẫn

chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, gây ảnh hưởng rất lớn đến môi

trường KCN và dân cư vùng lân cận.

Khu công nghiệp Phổ Phong, do không huy động được nguồn vốn đầu

tư hạ tầng KCN nên hiện tại hệ thống hạ tầng bên trong KCN chưa được đầu

tư, gây khó khăn cho một số nhà đầu tư đăng ký đầu tư vào KCN này.

Về quy hoạch bố trí ngành nghề, đến nay chưa có KCN nào được xây

dựng theo mô hình KCN chuyên ngành (máy móc, điện tử) đồng bộ, hiện đại.

Ưu điểm của KCN chuyên ngành là các công ty có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau, các sản phẩm có thể cung cấp trao đổi với nhau.

*Về chính sách quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư vào các Khu

công nghiệp

Ngoài việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng và triển khai các quy

định, chính sách của Nhà nước, tỉnh Quảng Ngãi còn căn cứ vào tình hình

thực tế của tỉnh, cũng đã có một số cơ chế đặc thù nhằm quản lý nhà nước đối

với hoạt động đầu tư vào các KCN trên địa bàn, cụ thể hóa và ban hành thêm

các cơ chế ưu đãi cả về hành chính, tài chính và hỗ trợ phát triển hạ tầng

59

ngoài hàng rào KCN thông qua việc ban hành các Quyết định, Qui chế cho

- Ban hành các văn bản quy định một số chính sách hỗ trợ đầu tư trên

từng trường hợp cụ thể như:

địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, ban hành điều lệ KCN. Quy định và hướng dẫn việc

- Xây dựng và áp dụng một số biện pháp ưu đãi kinh tế xuất phát từ lợi

hình thành, xây dựng, phát triển và quản lý hoạt động của các KCN Quảng Ngãi

ích của nước nhà và lợi ích lâu dài của nhà đầu tư, bao gồm: (1) Hỗ trợ về tài

chính như vay vốn ưu đãi, thuê đất; (2) Hỗ trợ doanh nghiệp một phần tiền

thuê đất; (3) Hỗ trợ xây dựng hạ tầng trong KCN bao gồm hỗ trợ việc đền bù

giải phóng mặt bằng... để giảm giá cho thuê lại đất có hạ tầng; (4) Hỗ trợ đào

tạo nguồn nhân lực; (5) Hỗ trợ chi phí quảng cáo, tiếp thị, vận động xúc tiến

đầu tư; (6) Hỗ trợ các doanh nghiệp di dời vào KCN để chỉnh trang đô thị,

bảo vệ môi trường....

UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ban hành Quyết định số 16/2012/QĐ-

UBND ngày 29 tháng 6 năm 2012 ban hành Điều lệ KCN Tịnh Phong và

KCN Quảng Phú. Điều lệ này được xây dựng trên căn cứ pháp lý:

+ Luật đầu tư ngày 29/11/2005, áp dụng cho cả nhà đầu tư trong nước

và nước ngoài thực hiện đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam; Nghị định

108/2006/NĐ- CP ngày 22/9/2006; Nghị định 101/2006/NĐ-CP ngày

21/9/2006;

+ Luật doanh nghiệp ngày 29/11/2005;

+ Luật đất đai số 13/2003/QH11; Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày

28/1/2006 hướng dãn thi hành một số điều của luật đất đai;

+ Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12; Nghị định số

124/2008/NĐ-CP ngày 14/12/2008

+ Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy

định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;

60

+ Quyết định số 830/TTg ngày 07/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ

về việc thành lập Ban quản lý các Khu công nghiệp Quảng Ngãi;

+ Công văn số 7902-BKH/KCN ngày 08/12/1997 của Bộ Kế hoạch và

Đầu tư ban hành Điều lệ mẫu Khu công nghiệp;

+ Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND ngày 01/3/2012 của Ủy ban nhân

dân tỉnh ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Ban Quản lý các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

Những văn bản trên làm nhiều quy định trong Điều lệ nhưng đã trở

thành lạc hậu, trái với quy định của các văn bản quy phạm pháp luật mới ban

hành hoặc có những hành vi mới phát sinh mà Điều lệ chưa bao quát, điều

chỉnh được.

Các thủ tục hành chính cắt giảm, đơn giản hóa và được công bố công

khai tại trụ sở các cơ quan liên quan đến hoạt động của KCN trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi nên đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. Từ năm

2004, tỉnh Quảng Ngãi đã triển khai thực hiện triệt để cơ chế "một cửa, tại

chỗ" với việc quy định công khai giải quyết các thủ tục hành chính cho các

doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài, đã tạo ra bước đột phá về sự

thông thoáng trong thủ tục đầu tư, tốc độ đầu tư tăng nhiều lần so với thời

gian trướ c đó. Đến năm 2015, tỉnh đã rà soát và quy định công khai các thủ

tục hành chính thuộc thẩm quyền tiếp nhận bao gồm các lĩnh vực: đầu tư, lao

động, tài nguyên môi trường, xuất nhập khẩu...., giải quyết và tất cả các thủ

tục này đều được giải quyết theo cơ chế “một cửa”.

2.2.2. Về tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách

quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

*Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư vào các khu công nghiệp

Quảng Ngãi

61

KCN là một thực thể kinh tế phức tạp bao gồm nhiều hoạt động khác

như công nghiệp, thương mại, dịch vụ cho hoạt động CN như ngân hàng, đào

tạo, tư vấn...Do đó, quản lý nhà nước các KCN là nhiệm vụ của cả bộ máy

nhà nước, từ các cơ quan hoạch định luật pháp, chế độ, chính sách, đến các cơ

quan thực thi pháp luật, chế độ, chính sách và cơ quan giải quyết tranh chấp

kinh tế. Có thể thấy, KCN chịu sự chi phối của hầu hết các bộ luật, chịu sự

quản lý các bộ chuyên ngành và chính quyền địa phương. Tuy nhiên, quản lý

nhà nước theo nghĩa rộng không phải đối tượng xem xét của mục này. Ở đây,

chúng tôi chủ yếu xem xét bộ máy quản lý nhà nước các KCN theo nghĩa hẹp,

tức quản lý trực tiếp của các cơ quan đã được phân cấp theo chế độ của Nhà

nước ta hiện nay. Theo giác độ này, các cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước

các KCN bao gồm:

- Chính phủ là cơ quan thể chế hoá những chủ chương chính sách về

phát triển KCN như qui hoạch, đầu tư phát triển hạ tầng, đất đai, đào tạo

nguồn nhân lực, ưu đãi cho các DN đầu tư vào KCN; ban hành hệ thống các

văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động của các DN trong KCN.

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tham mưu cho Chính phủ, và trong

một số trường hợp được Chính phủ uỷ quyền cho quản lý trực tiếp một số nội

dung, trong lĩnh vực quản lý và phát triển các KCN. Theo Luật Tổ chức

Chính phủ, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản

lý nhà nước các KCN về các nội dung sau: Soạn thảo trình Chính phủ các văn

bản pháp luật liên quan đến đầu tư và kinh doanh trong KCN; thẩm định và

trình Chính phủ cấp phép các dự án thuộc thẩm quyền quản lý của Chính phủ;

giám sát thực hiện luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp trong KCN; thẩm định

quy hoạch và trình chính phủ phê duyệt quy hoạch KCN của các tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương.

62

- UBND cấp tỉnh/thành phố, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của mình, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực

và hành chính lãnh thổ đối với KCN, quản lý tài nguyên môi trường, quản lý

và phát triển đô thị, quản lý đất đai, lao động, thương mại, xuất- nhập khẩu,

có trách nhiệm hướng dẫn hoặc uỷ quyền cho Ban quản lý thực hiện một số

nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với KCN.

- Ban quản lý các KCN: thực hiện uỷ quyền của Bộ kế hoạch và Đầu tư

và uỷ quyền của UBND tỉnh/thành phố trong việc quản lý trực tiếp KCN về

các lĩnh vực đầu tư, xây dựng, quy hoạch, tổ chức bộ máy, biên chế của Ban

và một số lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật trên cơ sở hoạt động theo

nguyên tắc “một cửa, tại chỗ” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu

tư kinh doanh của nhà đầu tư và các yêu cầu đầu tư phát triển KCN.

Hình 2.2. Mô hình tổ chức quản lý Nhà nước về KCN, KCX

ở Việt Nam

-Quan hệ trực thuộc tổ chức và quản lý trực tiếp:

-Quan hệ phối hợp của các cơ quan:

-Quan hệ chỉ đạo, hướng dẫn quản lý Nhà nước: …………….►

63

Bộ máy quản lý nhà nước đối với KCN Quảng Ngãi được thực hiện

thống nhất từ trung ương đến địa phương thông qua cơ chế phân cấp uỷ quyền

để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN.

Các cơ quan quản lý nhà nước Trung ương: Chính phủ, các Bộ, ngành

trung ương tham gia vào quá trình quản lý nhà nước đối với KCN thông qua

các công cụ quản lý chủ yếu như: xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chính sách;

hướng dẫn quy trình, nghiệp vụ đối với Ban quản lý các KCN;

- Các cơ quan quản lý nhà nước địa phương:

UBND tỉnh Quảng Ngãi, là cơ quan chủ quản của Ban Quản lý các

KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, chịu trách nhiệm quản lý và giải quyết

các vướng mắc thuộc thẩm quyền đối với các KCN trên địa bàn; Sở KH&ĐT

tỉnh, là cơ quan phối hợp thực hiện việc hình thành và phát triển các KCN

tỉnh; BQL các KCN Quảng Ngãi là cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước các

KCN, có nhiệm vụ báo cáo định kỳ và hàng năm theo quy định của pháp luật

về tình hình: Hình thành, xây dựng, phát triển và quản lý nhà nước các KCN

về UBND TP, BQL các KCN Việt Nam, các cơ quan Chính phủ có liên quan.

Ban quản lý các KCN Quảng Ngãi được thành lập theo Quyết định số

830/TTg ngày 07/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban

quản lý các Khu công nghiệp Quảng Ngãi, là cơ quan trực tiếp quản lý nhà

nước các KCN , khu chế xuất và cụm công nghiệp theo cơ chế “Một cửa”.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản lý các KCN Quảng

Ngãi được xác định theo quy định tại Nghị định 29/2008/NĐ-CP (chương 5)

ngày 14/03/2008 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế Khu công nghiệp,

Khu chế xuất, Khu công nghệ cao, Nghị định 164/2013/NĐ-CP của Chính

phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày

14/03/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu

kinh tế; Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND ngày 01/3/2012 của Ủy ban nhân

64

dân tỉnh ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Ban Quản lý các Khu công nghiệp Quảng Ngãi, như sau:

+ Chức năng: Ban quản lý là cơ quan trực thuộc UBND tỉnh Quảng

Ngãi thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp theo

cơ chế “một cửa, tại chỗ”; vận động xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp;

phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp.

+ Nhiệm vụ, quyền hạn: Chủ trì tổ chức thẩm định và phê duyệt thiết

kế cơ sở, thiết kế bản vẽ thi công đối với những dự án đầu tư vào các khu

công nghiệp; Cấp chứng chỉ quy hoạch, Giấy phép xây dựng đối với các công

trình xây dựng trong KCN. Điều chỉnh quy hoạch chi tiết KCN theo uỷ quyền

- Kiểm tra việc xây dựng các KCN theo dự án và quy hoạch chi tiết đã

của Bộ Xây dựng.

được phê duyệt; phối hợp với Sở Xây dựng quản lý nhà nước về chất lượng

- Báo cáo và đề xuất phương án xử lý với cơ quan có thẩm quyền các

các công trình xây dựng trong KCN.

trường hợp không thực hiện đúng Dự án hoặc quy hoạch chi tiết đã được phê

- Xây dựng điều lệ KCN trên cơ sở điều lệ mẫu do Bộ Kế hoạch và

duyệt.

Đầu tư ban hành để trình UBND Thành phố phê duyệt; tổ chức hướng dẫn

- Cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho các dự án đầu tư trong nước

thực hiện Điều lệ KCN.

không sử dụng vốn ngân sách, chủ trì phối hợp với các Ngành liên quan thẩm

định trình UBND tỉnh quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn ngân sách vào

các KCN (nhóm B,C); cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy phép đầu tư nước ngoài

- Kiểm tra việc thực hiện giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đầu tư và

và các giấy phép, chứng chỉ thuộc thẩm quyền hoặc theo uỷ quyền.

phối hợp với các cơ quan QLNN trong việc kiểm tra, thanh tra việc chấp hành

65

- Quản lý các hoạt động dịch vụ trong KCN.

- Là đầu mối phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc

luật của các doanh nghiệp KCN , doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN.

- Xây dựng kế hoạch vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN trình UBND

giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động của các KCN.

- Xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu các

Thành phố phê duyệt và thực hiện.

- Báo cáo định kỳ và hàng năm về tình hình hoạt động, xây dựng, đầu

khu công nghiệp trên địa bàn trình tỉnh Quảng Ngãi.

tư, phát triển và quản lý nhà nước các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Bộ

Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan nhà nước có liên quan theo quy định.

Thực hiện quản lý nhà nước về lao động đối với các doanh nghiệp hoạt

động trong Khu công nghiệp hoặc Khu chế xuất.

Bộ máy tổ chức của Ban gồm có: 1 Trưởng ban có, 3 Phó Trưởng ban

và 06 phòng ban chuyên môn.

Tuy nhiên, thực hiện Quyết định số 1915/QĐ-TTg ngày 04/10/2016

của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Quản lý KKT Dung Quất và

các KCN Quảng Ngãi trên cơ sở hợp nhất Ban Quản lý KKT Dung Quất và

Ban Quản lý các KCN Quảng Ngãi; Ngày 12/12/2016, UBND tỉnh Quảng

Ngãi ban hành Quyết định số 63/2016/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi về việc ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công

nghiệp Quảng Ngãi. Theo đó, chức năng quản lý Nhà nước của Ban Quản lý

mới đối với KCN Quảng Ngãi vẫn giữ nguyên và cơ cấu tổ chức được tổ chức

lại theo Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 03 tháng 09

năm 2015, cụ thể gồm có: 1 Trưởng ban có, 3 Phó Trưởng ban và 06 phòng

ban chuyên môn.

66

Ban quản lý các KKT Dung Quất và KCN Quảng Ngãi là cơ quan quản

lý trực tiếp KKT Dung Quất, KCN Vsip và các KCN, trực tiếp giải quyết các

vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền và là đầu mối phối hợp với các cơ quan

quản lý nhà nước khác giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền. Các Bộ,

Ngành trung ương tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình thực hiện chức

năng quản lý nhà nước đối với các vấn đề thuộc ngành và ủy quyền cho Ban

quản lý trong việc giải quyết một số vấn đề liên quan đến hoạt động của KKT,

KCN Vsip và các KCN. Về cơ bản, cơ chế “ủy quyền”, “phân quyền” đã phát

huy tác động tích cực, Ban quản lý các đã được trao nhiều quyền hơn trong

việc quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước các KCN, góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiết kiệm thời gian và chi

phí cho các nhà đầu tư nên đã tạo được niềm tin của nhà đầu tư vào chính

sách của nước ta nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.

67

Hình 2.3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi

68

*Về công tác vận động, xúc tiến và thu hút cấp, điều chỉnh, thu hồi

Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư

Tính đến hết 31/12/2016, các KCN tỉnh Quảng Ngãi đã thu hút được 99

dự án với tổng số vốn đăng ký là 6.877 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn

15 nghìn lao động địa phương, hằng năm đóng góp vào ngân ách tỉnh khoảng

1.200 tỷ đồng. Bên cạnh việc tiến hành cấp phép đầu tư cho các doanh nghiệp

thì hoạt động quản lý sau đầu tư cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng.

Thời gian qua, Ban Quản lý đã thực hiện khá tốt vai trò quản lý về đầu tư,

công tác hậu kiểm các dự án sau cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

Đã tiến hành đôn đốc, rà soát các dự án ngừng hoạt động SXKD, dự án

chưa xây dựng, dự án đang thực hiện đầu tư và chậm tiến độ để theo dõi. Đến

nay đã rà soát, kiểm tra tiến độ đầu tư trên 90 dự án và theo thống kê giai

đoạn 2011-2016, Ban Quản lý đã thu hồi 20 dự án đầu tư với tổng vốn đăng

ký 1.500 tỷ đồng, đã mời gọi đầu tư lấp đầy vị trí đã thu hồi.

Bảng 2.2. Tình hình thu hút vốn đầu tư vào các Khu công nghiệp

Quảng Ngãi tính đến 31/12/2017

TT TÊN KCN Tổng số dự án Tổng số dự án

Đầu tư nước ngoài Tổng vốn đăng ký (triệu USD) Đầu tư trong nước Tổng vốn đăng ký (tỷ đồng) Tổng vốn thực hiện (tỷ đồng)

Tổng vốn thực hiện (triệu USD)

2 2 3 4 5 Tổng số Quảng Phú 1 Tịnh Phong 6 Phổ Phong 0 Đồng Dinh 0 Phổ Khánh 0 7 3.766 1.350 77 5.193 7,05 59,43 66,48 3.852 1.584 232 5.668 51 40 2 93

7,5 33 40,5 Nguồn: Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp

Quảng

69

Đến 31/12/2017, các KCN Quảng Ngãi đã thu hút được 07 dự án FDI

với tổng vốn đăng ký 66,48 triệu USD.

Nhìn chung, đến nay các dự án đăng ký đầu tư vào các KCN cơ bản

triển khai đúng nội dung đăng ký đầu tư. Tiến độ và tỷ lệ giải ngân các dự án

FDI trong các KCN Quảng Ngãi đạt tỷ lệ rất cao khoảng 62%. Tuy nhiên tỷ lệ

các dự án gia công, lắp ráp còn nhiều, số lượng dự án có trình độ công nghệ

cao, sử dụng nhiều vốn còn hạn chế, chỉ chiếm khoảng 10% tổng số dự án

đầu tư vào KCN.

Như vậy mục tiêu thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển nhất là nguồn

vốn FDI của các KCN Quảng Ngãi đạt được như kỳ vọng. Sự có mặt của

nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN Quảng Ngãi đã góp phần

thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo ra bước đột phá trong phát triển công

nghiệp, tạo thêm năng lực sản xuất mới cho nhiều ngành kinh tế, tạo nguồn

hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và hướng về xuất khẩu, đẩy

nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả khu vực. Mặt khác, sự phát triển của

các KCN Quảng Ngãi đã có tác động lan tỏa và ảnh hưởng tích cực đến sự

chuyển dịch cơ cấu của tỉnh Quảng Ngãi, của vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung.

Bên cạnh những thành tựu trên, UBND tỉnh đã tích cực triển khai nhiều

hoạt động nhằm tăng cường hỗ trợ và xúc tiến đầu tư như:

- Xây dựng và ban hành kế hoạch hoạt động xúc tiến đầu tư và dịch vụ

thông tin doanh nghiệp qua các giai đoạn.

- Tăng cường tuyên truyền quảng bá, giới thiệu và cưng cấp thông tin

về môi trường đầu tư, tiềm năng và cơ hội đầu tư vào các KCN tỉnh Quảng

Ngãi.

70

- Định kỳ, Ban Quản lý thường xuyên tổ chức hội nghị giao ban công

tác xúc tiến đầu tư và dịch vụ - thông tin doanh nghiệp với doanh nghiệp;

- Ban Quản lý cũng thường xuyên tham gia các hoạt động về thông tin

của Cục Đầu tư nước ngoài, Vụ Tài chính Tiền tệ, Viện Quản lý Kinh tế

Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; cập nhật cơ sở dữ liệu thông tin doanh

nghiệp tại các KCN tỉnh Quảng Ngãi;

- Với mục đích nâng cao trình độ cho cán bộ, Ban Quản lý cũng đã cử

cán bộ tham gia các khóa đào tạo ngắn ngày về kỹ năng xúc tiến đầu tư giải

quyết tranh chấp về thương mại - đầu tư quốc tế, pháp luật và thực thi các cam

kết của WTO và ASEAN, công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu

- Trong thời gian vừa qua, Ban Quản lý đã chủ trì tổ chức thực hiện tiếp

đón, tiếp xúc với các nhà đầu tư để hỗ trợ tư vấn cho các nhà đầu tư tìm kiếm,

lựa chọn cơ hội mở rộng dự án đầu tư và hình thành dự án đầu tư trong đó có

hơn 19 lượt nhà đầu tư đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,

Pháp,...

- Thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư: Căn cứ trên những quy

hoạch đã được phê duyệt. Các doanh nghiệp đầu tư mới hoặc đầu tư thứ cấp

sau khi hoàn thiện hồ sơ đầu tư sẽ gửi trực tiếp đến Ban Quản lý các KCN

Quảng Ngãi xử lý theo thẩm quyền.

- Cũng giống như quy trình thẩm định dự án đầu tư và kinh doanh hạ

tầng. Ban Quản lý có trách nhiệm: Tiếp nhận đủ số lượng bộ hồ sơ, kiểm tra

tính hợp lệ của hồ sơ theo, quy trình “một cửa tại chỗ”; thực hiện hoặc phối

hợp với các Sở ngành của để thực hiện thẩm định hồ sơ đầu tư theo đúng qui

định, cấp Giấy chứng nhận đầu tư hoặc chủ trương đầu tư, xin chủ trường đầu

tư tùy theo tính chất, mục tiêu, quy mô dự án đăng ký đầu tư.

*Về quản lý hoạt động của khu công nghiệp và của doanh nghiệp

Quản lý doanh nghiệp: Các phòng chức năng của Ban quản lý các

71

KCN thường xuyên, đôn đốc, kiểm tra tại các doanh nghiệp; xác nhận hợp

đồng thế chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng góp vốn cho các doanh nghiệp;

Trực tiếp tổ chức Hội nghị đối thoại doanh nghiệp để kịp thời giải đáp

thắc mắc, nắm bắt khó khăn và tâm tư, nguyện vọng của các doanh nghiệp từ

đó đưa ra những điều chỉnh cho phù hợp.

Ban Quản lý đã phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư và các các Sở,

Ban Ngành khác để cùng làm việc với đơn vị kinh doanh kết cấu hạ tầng và

các doanh nghiệp thứ cấp tại các KCN để tìm hiểu những vướng mắc của các

doanh nghiệp nhằm đưa ra các kiến nghị trình UBND, các Bộ, Ngành, Chính

phủ để giải quyết hoặc có các giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Ban Quản lý đã tổ chức các buổi tập huấn phổ biến nội

dung chính sách và Nghị quyết số 13/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó

khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường cho các doanh nghiệp, phối hợp với Sở

Công thương tập huấn cho các doanh nghiệp về sử dụng năng lượng tiết kiệm.

Quản lý hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu: Ban Quản lý

thường xuyên quản lý chặt chẽ, thúc đẩy hoạt động thương mại - xuất nhập

khẩu của các doanh nghiệp trong KCN thông qua một số việc làm như:

- Tuyên truyền, phố biến chính sách thương mại; tập huấn, hướng dẫn

và tháo gỡ kịp thời những vướng mắc khó khăn của doanh nghiệp nhằm thúc

đẩy hoạt động SXKD, tăng cường xuất khẩu.

- Theo dõi, giám sát, kiểm tra và đôn đốc doanh nghiệp thực hiện đúng

pháp luật trong quá trình triển khai hoạt động xuất nhập khẩu.

- Triển khai tốt việc kết nối quản lý cấp CO điện tử (ECOSYS) do Bộ

Công Thương chủ trì;

- Hướng dẫn áp dụng cấp CO điện tử tới các doanh nghiệp KCN.

Quản lý về môi trường: Ban Quản lý đã phối hợp với các đơn vị liên

quan thực hiện kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối

72

với các doanh nghiệp trong các KCN; đôn đốc các Công ty hạ tầng KCN và

các doanh nghiệp trong các KCN thực hiện quan trắc và báo cáo môi trường;

các doanh nghiệp KCN “tăng cường công tác đánh giá tác động môi trường

(ĐTM), đề án bảo vệ môi trường”.

Quản lý về lao động: Ban Quản lý đã thực hiện chức năng QLNN về

lao động thông qua những nhiệm vụ cụ thể đã và đang triển khai:

Kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc doanh nghiệp thực hiện đúng các quy

định của pháp luật Lao động và các luật liên quan đến vấn đề sử dụng lao

động; xem xét, thẩm định xây dựng và đăng ký nội quy lao động, thỏa ước lao

động tập thể của các doanh nghiệp KCN; kịp thời chấn chỉnh, yêu cầu các

doanh nghiệp tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật lao động.

Đã xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch nguồn

nhân lực cho các KCN đến năm 2020. Thực hiện xây dựng kế hoạch phát

triển nguồn nhân lực trong KCN đến năm 2020, tầm nhìn 2030; trong đó đã đi

điều tra gần 80 doanh nghiệp về cầu lao động và nhu cầu đào tạo nghề phục

vụ các KCN.

Một số các hoạt động mang tính phối hợp khác như cùng thanh tra Sở

Lao động - Thương binh xã hội, tổ chức các đoàn kiểm tra, thanh tra tại một

số doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động và các doanh nghiệp chưa thực

hiện theo đúng quy định của pháp luật lao động.

Những hoạt động trên đã phát huy vai trò tích cực, nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần, tạo môi trường làm việc ổn định cho người lao động. Đồng

thời chủ động phòng ngừa và hạn chế đình công, lãng công, ngừng việc tập

thể,...

*Về quản lý phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong các Khu

công nghiệp trên địa bàn:

Cho đến nay, 02 KCN Tịnh Phong và Quảng Phú đã cơ bản hoàn thành

73

việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong KCN, đấu nối với hạ tầng kỹ thuật ngoài

hàng rào và đã tiến hành cho các nhà đầu tư thứ cấp thuê lại. Riêng KCN Phổ

Phong thì vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện hệ thống giao thông nội bộ vì

KCN này được đầu tư theo hình thức cuốn chiếu, vừa đầu tư hạ tầng, vừa kêu

gọi thu hút đầu tư vào KCN. KCN Đồng Dinh và KCN Phổ Khánh đang trong

giai đoạn phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/2000. Cụ thể như sau:

Mạng lưới giao thông: Đến hết 31/12/2015, đã có 02 KCN Tịnh

Phong và Quảng Phú đã hoàn chỉnh hệ thống đường giao thông trong KCN,

điển hình là KCN Tịnh Phong có hệ thống đường giao thông được quy hoạch

và xây dựng đồng bộ, hiện đại đảm bảo cho nhu cầu hoạt động sản xuất, vận

chuyển hàng hóa, chất thải và sinh hoạt. Đường giao thông chính của KCN

Tịnh Phong và Quảng Phú có chiều rộng từ 20m đến 30 với 04 làn đường, hệ

thống đường phụ rộng 26m với 01 làn đường mỗi phía trên tổng số 2 làn

đường.

Cấp điện: Trong các KCN Quảng Ngãi hiện nay chỉ có 01 KCN đã xây

dựng trạm biến thế riêng, đó là KCN Tịnh Phong có trạm biến thế điện 22KV,

công suất 50MVA. Còn 02 KCN còn lại đều sử dụng trạm biến thế chung của

lưới điện quốc gia và tiến hành đấu nối tới chân hàng rào của doanh nghiệp.

Cấp nước: Hiện nay KCN Tịnh Phong và Quảng Phú đều có hệ thống

nước sạch được đấu nối đến chân hàng rào nhà máy.

Hệ thống thoát nước và hệ thống sử lý nước thải: Tính đến năm

2016, chỉ có 01 KCN xây dựng khu xử lý nước thải tập trung là KCN Quảng Phú, công suất 4.500m3/ngày/đêm.

Hạ tầng ngoài hàng rào: Các công trình hạ tầng kỹ thuật trong KCN

như hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước...cần phải đấu nối với các công

trình hạ tầng bên ngoài KCN. Hạ tầng ngoài hàng rào KCN ngoài đường giao

thông, cấp điện, cấp nước... còn có các công trình hạ tầng xã hội như trường

74

học, bệnh viện, chợ, nhà ở, khu vui chơi giải trí... vì thế nếu không có sự quan

tâm đúng mức đến hạ tầng bên ngoài thì KCN khi đi vào hoạt động sẽ gây

nên những tác động phức tạp về mặt xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt

động của KCN. Hậu quả của việc chưa đồng bộ hoá các công trình kết cấu hạ

tầng trong và ngoài hàng rào KCN chẳng những gây trở ngại cho các doanh

nghiệp công nghiệp đang hoạt động mà còn làm cho các nhà đầu tư e ngại đầu

tư vào KCN. Tuy nhiên thực tế hiện nay, công việc này còn gặp nhiều khó

khăn do thiếu sự phân công trách nhiệm một cách rõ ràng, nhiều KCN triển

khai xây dựng hạ tầng và thu hút đầu tư nhưng phải mất hàng năm, liên hệ với

nhiều cơ quan Nhà nước và đôi khi phải tự bỏ tiền để đầu tư một số công trình

ngoài hàng rào và điều đó dẫn đến hạn chế tính hấp dẫn của KCN và lỡ cơ hội

thu hút đầu tư.

Như vậy, hiện nay về hạ tầng kỹ thuật-xã hội của các KCN trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi cho đến nay chỉ được đầu tư có hạ tầng kỹ thuật trong hàng

rào là tương đối hoàn chỉnh, 03 KCN còn lại hạ tầng trong và ngoài hàng rào

chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ và đang trong giai đoạn phê duyệt quy

hoạch chi tiết. Điển hình nhất của sự thiếu đồng bộ đó là KCN Phổ Phong đến

nay việc xây dựng cơ sở hạ tầng chưa được đảm bảo, chưa có đường trục

chính, hệ thống giao thông bên trong KCN chưa được đầu tư, ... vấn đề đặt ra

đối với sự không đồng bộ này do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do

chưa thu hút được nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp kinh doanh kết cấu

hạ tầng, phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Bảng 2.3 Tổng hợp nguồn vốn đầu tư hạ tầng các KCN Quảng Ngãi

giai đoạn 2013-2017

Nguồn vốn đầu tư

(tỷ đồng) Năm Năm 2014 Năm Năm Năm

2013 2015 2016 2017

75

a. Ngân sách TW 0 0 0 0 0

b. Ngân sách địa 70,25 66,533 34,250 50,65 60,35 phương

Tổng vốn đầu tư 70,25 66,533 34,250 50,65 60,35

Nguồn: Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng

Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp: Dịch vụ kho vận hải - hải quan:

Do quy mô các KCN tương đối nhỏ, khoảng cách không xa nên tại KCN Tịnh

Phong đã có Chi cục Hải Quan thực hiện thủ tục hải quan cho các doanh

nghiệp KCN Quảng Ngãi.

Dịch vụ tài chính- ngân hàng: Đến nay các hoạt động giao dịch của các

doanh nghiệp KCN điều thực hiện tại các trụ sở chính đặt tại thành phố

Quảng Ngãi. Chưa có phòng giao dịch tại các KCN.

Hệ thống dịch vụ sinh hoạt: Hầu hết các KCN đều chưa có trạm bưu

điện, trạm Internet do vậy rất khó khăn cho người lao động trong KCN khi có

nhu cầu thông tin liên lạc. Ngoại trừ KCN Tịnh Phong trước năm 2008 có

một đại lý bưu điện đặt ngay sát cổng bảo vệ, tuy nhiên đến nay do việc mở

rộng và thay đổi cổng chính vào KCN thì đã xóa bỏ trạm này;

Các KCN đều chưa quan tâm đến quy hoạch xây dựng hệ thống trường

học, nhà trẻ, bệnh viện, chợ, nhà văn hóa, nhà vệ sinh công cộng,... cùng với

việc hình thành các KCN để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của người lao

động làm việc trong các KCN;

Các khu công nghiệp hầu như ít quan tâm tới nhu cầu vui chơi giải trí

của người lao động do không có quy hoạch dành đất cho việc này hoặc khi

quy hoạch KCN các cơ quan quản lý của tỉnh Quảng Ngãi chưa tính đến sự

cần thiết phải quy hoạch và xây dựng các khu vui chơi, giải trí lành mạnh như

rạp chiếu phim, công viên, vườn hoa, khu thể thao... để phục vụ nhu cầu văn

76

hóa tinh thần của người lao động sau những giờ lao động mệt mỏi có những

giây phút nghỉ ngơi thư giãn.

2.2.3.Về công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động của các Khu

công nghiệp Quảng Ngãi.

Tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ban hành

ngày 14/3/2008 có quy định Ban Quản lấp cấp I mới được thành lập Bộ phận

thanh tra trực thuộc Ban quản lý các KCN, thực hiện việc thanh tra toàn diện

đối với các hoạt động của các Khu công nghiệp, đây là một bước đột phát

đáng kể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các Khu công

nghiệp. Tuy nhiên, đối với Ban Quản lý các KCN trước đây là Ban Quản lý

KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi hiện nay không đảm bảo điều kiện

để thành lập Bộ phận thanh tra KCN. Vì vậy, để thực hiện chức năng này,

Thanh tra Ban Quản lý chỉ phối hợp với Thanh tra chuyên ngành của các Sở,

ngành liên quan thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra các hoạt động của các

KCN nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động của các

doanh nghiệp trong KCN, kiểm soát và xử lý các vi phạm của doanh nghiệp

trong việc thực hiện quy định của pháp luật của nhà nước và quy chế KCN.

Chính vì vậy, mặc dù UBND tỉnh đã ban hành Quyết định quy định quy chế

thanh tra, kiểm tra nhưng các đơn vị vẫn không thông qua một đầu mối là Ban

Quản lý mà thực hiện việc thanh tra chồng chéo, theo kế hoạch của đơn vị,

gây mất thời gian cho doanh nghiệp KCN.

Hiện tại, công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động của KCN đã thực

hiện dưới hình thức phối hợp, cụ thể sau:

- Tiếp nhận các đơn khiếu nại tố cáo có liên quan tới các hoạt động

SXKD trong KCN. Năm 2015, Ban Quản lý đã tiếp nhận và giải quyết 05 đơn

đề nghị giải quyết, kiến nghị phản ánh liên quan đến doanh nghiệp SXKD gây

ô nhiễm môi trường trong KCN Tịnh Phong và tranh chấp lao động trong

77

KCN Quảng Phú.

- Phối hợp với các sở, ngành liên quan thực hiện công tác kiểm tra giám

sát việc chấp hành pháp luật về các lĩnh vực đầu tư xây dựng, tài nguyên -

môi trường, phòng chống cháy nổ, vệ sinh, an toàn lao động, pháp luật về lao

động để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả. Trong năm 2015, Ban

Quản lý đã phối hợp kiểm tra việc kiểm tra sau cấp phép xây dựng cho 20

doanh nghiệp tại các KCN Tịnh Phong và Quảng Phú.

- Triển khai khai tập huấn tại BQL về Luật Tố tụng hành chính, Luật

Khiếu nại và Luật Tố cáo; kiện toàn thành viên Tổ tiếp công dân BQL các

KCN, KCX.

- Rà soát, hoàn thiện các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của BQL

với 55 bộ thủ tục hành chính.

Tuy nhiên hoạt động thanh tra, kiểm tra các KCN thời gian qua cũng

gặp không ít hạn chế do bị giới hạn do sự chồng chéo giữa các văn bản luật và

không có chế tài xử lý vi phạm. Nên chức năng thanh tra của Ban Quản lý chỉ

ở mức độ là cơ quan phối hợp, chưa có thẩm quyền quyết định các hình thức

xử phạt, thanh kiểm tra.

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư vào các Khu công

nghiệp tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua

2.3.1. Thành tựu đạt được

Như vậy, có thể nói, sau gần 20 năm thành lập, hoạt động quản lý nhà

nước về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi đã không ngừng được đổi mới, tăng

cường theo hướng ngày càng rõ đầu mối và thực quyền hơn, việc phân cấp

quản lý nhà nước bước đầu đã có sự thay đổi về chất nên đã hỗ trợ tích cực

cho quá trình hình thành, hoạt động của các doanh nghiệp KCN trên địa bàn.

Về cơ bản, cơ chế “phân cấp”, “ủy quyền” đã phát huy tác động tích cực, Ban

quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi đã được trao nhiều quyền

78

hơn trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước các

KCN, góp phần nâng cao tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,

tiết kiệm thời gian và chi phí cho các nhà đầu tư nên đã lấy lại niềm tin của

nhà đầu tư vào chính sách của nước ta.

- Về tính phù hợp, khả thi của chiến lược, quy hoạch kế hoạch quản lý

nhà nước các KCN

Ban Quản lý coi trọng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch kế

hoạch quản lý nhà nước các KCN. Ban Quản lý đã xác định phát triển KCN là

một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội, phát triển công nghiệp cũng như phát triển nông thôn. Việc quy hoạch và

xây dựng các KCN đã tạo ra sự phấn khởi, tin tưởng của các hộ sản xuất, các

DN đối với chính sách phát triển kinh tế của tỉnh. Khó khăn lớn nhất là mặt

bằng sản xuất cũng dần từng bước được giải quyết với sự hỗ trợ tích cực của

chính quyền các địa phương. Các hộ sản xuất đã tích cực chủ động đầu tư

phát triển ngành nghề, mở rộng quy mô sản xuất.

Ban Quản lý đã chủ động điều chỉnh quy hoạch cục bộ, chi tiết một số

KCN nhằm phù hợp với công năng trong quá trình phát triển của KCN; chủ

trì phối hợp với các cơ quan hữu quan tham gia giải quyết chồng lấn KCN,

tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch các KCN phù hợp với quy hoạch

chung và quy hoạch phân khu; tham gia công tác quy hoạch các KCN, quy

hoạch phát triển ngành công nghiệp, từ đó tạo điều kiện để các KCN hoàn

chỉnh cơ sở hạ tầng phục vụ công tác thu hút đầu tư. Đặc biệt là việc xử lý

nước thải trong KCN là một yếu tố rất quan trọng, nếu làm không tốt sẽ ảnh

hưởng đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn và gây ra khiếu

kiện của người dân.

79

- Về hiệu lực và hiệu quả của công tác chỉ đạo thực hiện chiến lược,

quy hoạch và chính sách biện pháp quản lý nhà nước đối với các Khu công

nghiệp

Bộ máy quản lý nhà nước Ban Quản lý đã tập trung chỉ đạo nhằm phát

huy hiệu quả những KCN đang hoạt động, đồng thời xây dựng mới một số

khu phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển tổng thể kinh tế - xã hội,

đảm bảo sự đồng bộ các công trình hạ tầng kỹ thuật, các công trình hạ tầng xã

hội phục vụ bộ phận dân cư xung quanh KCN, người lao động trong KCN.

- Về thực hiện cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư:

Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với một số dự án thuộc thẩm

quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh, thành phố trực

thuộc Trung ương. Theo đó, Ban Quản lý đã thực hiện có hiệu quả thủ tục

chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với việc xem xét thẩm tra nhu cầu sử

dụng đất, điều kiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Việc

áp dụng đồng thời các thủ tục nêu trên đã giúp cắt giảm đáng kể thời gian

thực hiện thủ tục hành chính do nhà đầu tư không phải tiến hành lần lượt từng

thủ tục liên quan đến việc sử dụng đất như quy định trước đây.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong quản lý nhà nước về đầu tư

vào các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

* Những hạn chế

- Công tác quy hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn chưa

thực sự phù hợp

Từ việc xác định quy hoạch tổng thể, đến việc hình thành các KCN

Quảng Ngãi đã phần nào phản ánh sự bất hợp lý giữa quy hoạch phát triển

KCN với quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ và địa phương, chưa tính đến tác

động lan tỏa khi KCN hoạt động. Việc bố trí địa điểm xây dựng KCN chú

trọng nhiều đến việc lựa chọn vị trí thuận lợi như cạnh các tuyến quốc lộ, ga

80

tàu lửa, gần trục lộ giao thông chính tuy nhiên không tính hết đến khả năng

phát triển của đô thị trong tương lai. Nguyên nhân là do chưa có sự phối hợp

chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển đô thị dài hạn với quy hoạch phát triển các

khu, cụm công nghiệp. Vì thế nên khi đô thị mở rộng, KCN Quảng Phú đã

nằm trong phạm vi nội đô, ngay sát khu dân cư tập trung và không phù hợp

với chủ trương xây dựng KCN là để di dời các cơ sở công nghiệp ra khỏi nội

đô và xa khu dân cư tập trung. Việc phân bố và quy hoạch các KCN trên địa

bàn tỉnh Quảng Ngãi còn chưa thực sự hợp lý, KCN Quảng Phú thực chất

trước đây là một cụm các nhà máy được quy hoạch lại thành KCN do vậy quy

hoạch KCN này thiếu sự đồng bộ, hàng rào KCN không tách rời khỏi khu dân

cư mà vẫn bị lẫn với đường đi lại của dân cư xung quanh.

Mặt khác, phát triển KCN không đồng bộ với việc đảm bảo các điều

kiện cho KCN hoạt động có hiệu quả, đặc biệt là sự thiếu đồng bộ giữa hạ

tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào Khu công nghiệp bao gồm hệ thống

giao thông ngoài hàng rào KCN, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống

thông tin liên lạc, hệ thống xử lý nước thải...và chưa coi trọng phát triển đồng

bộ các công trình hạ tầng xã hội, nhất là xây dựng khu dân cư, nhà ở cho công

nhân, trạm y tế, khu vui chơi giải trí do vậy đã gây ra tình trạng quá tải cho

khu vực xung quanh nơi đặt KCN.

Việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như xây dựng đường

giao thông, hệ thống thoát nước... luôn phụ thuộc vào quy hoạch phát triển

của địa phương nên luôn chậm hơn so với tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật

trong KCN. Do vậy đây cũng là nguyên nhân làm hạ tầng kỹ thuật trong và

ngoài hàng rào chưa đồng bộ. Hiện tại, các KCN còn lại chưa tiến hành cung

cấp các dịch vụ văn hoá - xã hội và xây dựng khu nhà ở tập trung cho cán bộ,

công nhân KCN thuê.

-Công tác tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch quản lý đối với các

81

KCN chưa thực sự hiệu quả, công tác thanh kiểm tra xử lý vi phạm và cải

cách thủ tục hành chính chưa triệt để, hiệu lực chưa cao.

Mặc dù thời gian qua công tác quản lý nhà nước đối với các KCN

Quảng Ngãi đã có nhiều chuyển biến tích cực và từng bước tạo được niềm tin

cho các nhà đầu tư tuy nhiên vẫn còn một số hoạt động quản lý cần được khắc

phục, cụ thể:

Tỉnh Quảng Ngãi đã có quy chế về quản lý hoạt động KCN trên địa

bàn, nhưng việc phân cấp quản lý các doanh nghiệp trong các KCN còn bị

chồng chéo với chức năng của một số Sở, Ngành khác của tỉnh... nên hiệu

quả, hiệu lực của Ban quản lý đối với họat động đầu tư vào các KCN chưa

cao. Mặt khác, thẩm quyền và trách nhiệm quản lý chưa đi đôi với nhau nên

một số hoạt động quản lý và hoạch định chính sách phát triển KCN chưa rõ

được đầu mối chủ trì và các cơ quan phối hợp, vì thế vẫn còn hiện tượng:

chưa thực hiện đầy đủ việc phân cấp hoặc có phân cấp nhưng lại đặt ra các

quy định khác làm vô hiệu thẩm quyền của Ban quản lý.

Hệ thống văn bản qui phạm pháp luật đối với KCN vẫn chưa đồng bộ,

chưa đủ cụ thể để có thể áp dụng được ngay khi vấn đề phát sinh. Một số văn

bản luật đã ban hành nhưng lại thiếu các nghị định, thông tư hướng dẫn, nên

luật đã có mà vẫn không thể thực hiện được, do vậy gặp rất nhiều khó khăn

trong quá trình triển khai thực hiện.

Việc triển khai thực hiện quy hoạch cũng như công tác quản lý quy

hoạch còn lỏng lẻo, một số khu công nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi đã được cấp

có thẩm quyền phê duyệt qui hoạch tuy nhiên trong quá trình triển khai xây

dựng hạ tầng vẫn còn những điểm vi phạm như vi phạm về mật độ xây dựng,

vi phạm hành lang qui hoạch bao quanh khu công nghiệp hoặc vi phạm

khoảng lùi phòng cháy chữa cháy. Hiện nay, việc lập quy hoạch và thực thi

quy hoạch đang là khâu yếu nhất trong hệ thống chính sách đối với việc phát

82

triển các KCN cả nước nói chung, các KCN tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.

Hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, cơ chế quản lý và chế tài xử

phạt đối với các vi phạm tại các KCN như công tác thanh tra kiểm tra, bảo vệ

môi trường, phòng chống cháy nổ và quản lý xây dựng theo quy hoạch... còn

nhiều bất cập, dẫn đến việc các doanh nghiệp chấp hành các quy định của Nhà

nước chưa nghiêm vì Ban quản lý chưa có chức năng thanh tra và xử lý vi

phạm. Sự phối hợp giữa Ban quản lý với các cơ quan liên quan và các địa

phương trong kiểm tra xử phạt đối với các vi phạm chưa thường xuyên, chưa

đồng bộ, giải quyết không triệt để.

- Công tác cải cách thủ tục hành chính tuy đã có bước chuyển biến tích

cực, nhưng vẫn chưa thật sự đồng bộ, việc giải quyết các vướng mắc nảy sinh

trong quá trình triển khai thực hiện đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các

doanh nghiệp cũng chưa tốt.

Cơ chế “một cửa, tại chỗ” tuy đã được quan tâm và thực hiện công khai

đầy đủ các thủ tục hành chính nhưng vẫn còn nhiều hạn chế do sự phối hợp

chưa đồng bộ giữa bộ phận “một cửa” với các phòng chức năng của Ban quản lý.

* Nguyên nhân của những hạn chế

Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển các KCN Quảng Ngãi chưa

thực sự dựa trên những phân tích, đánh giá đúng đắn về thực trạng kinh tế - xã

hội của tỉnh gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm

miền Trung và của cả nước trong từng thời kỳ, chưa tuân thủ các quy luật

khách quan trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế

quốc tế, nên chưa khai thác được lợi thế so sánh của Quảng Ngãi với các địa

phương khác;

Các cấp chính quyền chưa có sự quan tâm thấu đáo, ngân sách của địa

phương còn hạn hẹp, định hướng quy hoạch thiếu yếu tố xã hội; tốc độ gia

tăng của lao động nhất là lao động di cư tăng nhanh, đột biến.. ..do vậy đã tạo

83

nên sự không đồng bộ trong việc phát triển kết cấu hạ tầng trong và ngoài

hàng rào KCN, thậm chí sự phát triển hạ tầng xã hội còn mang tính tự phát và

không có quy hoạch rõ ràng;

Tầm nhìn không gian đô thị của các nhà hoạch định quy hoạch của tỉnh

Quảng Ngãi trước đây chưa toàn diện, công tác dự báo phát triển của tỉnh đã

không lường được tốc độ phát triển đô thị của tỉnh dẫn đến một hệ quả là đến

nay KCN Quảng Phú nằm lọt trong nội đô;

Tỉnh Quảng Ngãi chưa có chính sách cụ thể nhằm thu hút các dự án có

vốn lớn, công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn đầu tư vào KCN nhằm năng cao

hiệu quả kinh tế của KCN và đảm bảo tính bền vững;

UBND tỉnh Quảng Ngãi chưa có chính sách điều tiết hoạt động của

công ty đầu tư kinh doanh dịch vụ hạ tầng. Do vậy, công ty này chỉ quan tâm

tới hiệu quả kinh tế và khả năng sinh lời của họ chưa ít quan tâm tới hiệu quả

kinh tế-xã hội của địa phương nơi đặt KCN nói riêng và của tỉnh Quảng Ngãi

nói chung. Công tác GPMB chưa triệt để, cương quyết. Năng lực của một số

chủ đầu tư phát triển hạ tầng còn yếu và thiếu kinh nghiệm;

Công tác xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư còn mang tính hình thức,

hiệu quả các đoàn ra nước ngoài để xúc tiến đầu tư là chưa cao, chủ yếu vẫn

là hình thức đi thăm quan, học tập kinh nghiệm là chủ yếu còn hoạt động

quảng bá các KCN Quảng Ngãi ra thế giới còn dừng ở mức độ khiêm tốn. Các

trang Website đăng tải giới thiệu thông tin để về các KCN còn nghèo nàn

Các quy định tại pháp luật chuyên ngành chưa có sự thống nhất với quy

định về phân cấp, ủy quyền cho Ban Quản lý KCN, KKT quy định tại Nghị

định số 29/2008/NĐ-CP, cụ thể trong lĩnh vực quản lý xây dựng, môi trường

tại KCN, KKT đưa ra thêm điều kiện về năng lực và cơ cấu tổ chức của Ban

Quản lý KCN, KKT để có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.

84

Ban Quản lý gặp khó khăn trong việc đề nghị ủy quyền thực hiện

nhiệm vụ, như chưa được phân cấp, ủy quyền trong thẩm định, phê duyệt Báo

cáo đánh giá tác động môi trường, xác nhận đăng ký Kế hoạch bảo vệ môi

trường, cấp giấy phép lao động cho người lao động ở nước ngoài tại các

KCN, KKT. Do đó, chưa thực sự tạo được điều kiện thuận lợi cho các doanh

nghiệp trong thực hiện các thủ tục hành chính, cũng như khó khăn cho công

tác quản lý, giám sát việc chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường của

doanh nghiệp.

Ban Quản lý KCN, KKT không được giao thực hiện chức năng thanh

tra như các cơ quan chuyên ngành, nên hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước

không cao, nhiều trường hợp phát hiện vi phạm của các doanh nghiệp trong

KCN, KKT nhưng không có chế tài xử phạt.

85

Tóm tắt chương 2

Trong chương này luận văn đã làm rõ các vấn đề sau:

Luận văn đã trình bày thực trạng quản lý nhà nước về đầu tư vào các

KCN Quảng Ngãi theo quy trình quản lý bao gồm: Về xây dựng chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch và chính sách quản lý; Về tổ chức thực hiện chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch và chính sách quản lý; Về thực hiện cấp, điều chỉnh, thu

hồi giấy chứng nhận đầu tư; Về thực tiễn công tác kiểm tra, thanh tra, giám

sát các hoạt động;

Dựa trên các số liệu thống kê khảo sát, tác giả đã chỉ rõ thực trạng quản

lý nhà nước đối về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi; đã đánh giá thực trạng

công tác quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi theo hệ thống

các tiêu chí quản lý bao gồm: tính hiệu lực, tính hiệu quả, tính phù hợp và tính

bền vững của quản lý nhà nước.

Ngoài các thành tựu đạt được như công tác Phân cấp, ủy quyền, giải

quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa tại chỗ”. Luận văn đã đưa

ra các điểm yếu của công tác quản lý nhà nước các KCN Quảng Ngãi bao

gồm: Công tác quy hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn chưa

thực sự hợp lý; Công tác tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch quản lý đối

với các KCN chưa thực sự hiệu quả, công tác thanh tra kiểm tra xử lý vi phạm

và cải cách thủ tục hành chính chưa triệt để.

Luận văn đã đánh giá điểm mạnh điểm yếu của quản lý nhà nước về

đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi, từ đó chỉ ra các nguyên nhân chủ quan,

khách quan của các điểm yếu làm cơ sở đề xuất các giải pháp của luận văn.

86

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

3.1. Định hướng và mục tiêu phát triển các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

3.1.1. Định hướng phát triển Khu kinh tế, Khu công nghiệp của Đảng,

Chính phủ

Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa XI cũng đưa ra 10 định hướng lớn xây dựng hệ thống kết

cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại vào năm 2020, trong đó có định hướng phát triển kết cấu

hạ tầng KCN, KKT và nêu rõ: “Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng

khu công nghiệp, khu kinh tế. Không lấy đất lúa để xây dựng các khu công

nghiệp mới. Đến năm 2015, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu nhà ở và các hạ

tầng xã hội thiết yếu như nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, cơ sở khám chữa

bệnh... cho lao động các khu công nghiệp. Đến năm 2020, hoàn chỉnh các

công trình kết cấu hạ tầng trong các khu công nghiệp, khu kinh tế, đặc biệt là

các công trình hạ tầng xã hội và xử lý nước thải, rác thải.”

Thu hút đầu tư có chọn lọc, có định hướng theo ngành nghề phù hợp

với điều kiện phát triển của từng địa phương; Ưu tiên thu hút các ngành công

nghiệp phụ trợ, các dự án có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường;

chú trọng tính liên kết ngành trong phát triển KCN, KCX, KKT; Xúc tiến đầu

tư vào KCN, KCX, KKT theo trọng tâm, trọng điểm tập trung vào các đối tác

tiềm năng; Xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, KCX, KKT đúng tiến độ, theo

quy hoạch được duyệt và đảm bảo hiệu quả sử dụng đất; Đa dạng hóa các

hình thức huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN,

KCX, KKT; Rà soát hoạt động của các dự án đầu tư vào KCN, KCX, KKT,

87

kiên quyết xử lý các dự án trong KCN, KCX, KKT hoạt động kém hiệu quả;

Đánh giá và kịp thời có biện pháp giải quyết các vướng mắc về sử dụng đất,

bồi thường giải phóng mặt bằng, chính sách ưu đãi đầu tư đối với KCN,

KCX, KKT; Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp

luật về bảo vệ môi trường trong các KCN, KCX, KKT.

3.1.2. Quan điểm và định hướng phát triển các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

* Quan điểm phát triển

- Thứ nhất, Hình thành và phát triển các KCN Quảng Ngãi phải được

đặt trong tổng thể phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, trong

quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ngãi, trong tầm nhìn tác động

và gắn kết với sự phát triển của cả Tây Nguyên và sự nghiệp công nghiệp hóa

- hiện đại hóa của cả nước, với các nước láng giềng phía Tây (Campuchia -

Lào - Thái Lan).

- Thứ hai, Phát triển các KCN Quảng Ngãi trên quan điểm mở rộng và

hội nhập thị trường các nước trong khu vực và thế giới. Phát triển các khu

công nghiệp đảm bảo hình thành hệ thống các khu công nghiệp nòng cốt có

vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp của quốc gia. Bên cạnh đó, cần mở

rộng, quy hoạch các khu công nghiệp tại một số địa phương nhằm tạo điều

kiện phát triển khu vực nông thôn, làm thay đổi bộ mặt kinh tế – xã hội nông

thôn.

- Thứ ba, Tập trung xây dựng cơ sở vật chất toàn diện, đồng bộ và có

tính bền vững cao; xây dựng đô thị mới hiện đại, văn minh theo những bước

đi thích hợp. Mạnh dạn áp dụng các cơ chế chính sách thí điểm và năng động

để phát triển tất cả các loại hình sản xuất kinh doanh và các hoạt động đầu tư

xây dựng.

- Thứ tư, Phát triển các KCN Quảng Ngãi phải đảm bảo hiệu quả tổng

hợp cả về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường.

88

Cơ chế chính sách được áp dụng tại các KCN Quảng Ngãi phải thực sự ưu

đãi, khuyến khích, ổn định lâu dài, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của nhà đầu

tư và hiệu quả xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước

và nước ngoài yên tâm bỏ vốn vào phát triển sản xuất kinh doanh trong khuôn

khổ pháp lý hiện hành và ngày càng hoàn thiện; phù hợp với các điều ước

quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, phù hợp với xu hướng hội nhập

kinh tế quốc tế.

* Định hướng phát triển các Khu công nghiệp Quảng Ngãi giai đoạn

2016-2020

Định hướng phát triển các KCN đã được đề cập trong các Nghị quyết

của tỉnh Đảng bộ lấn thứ 18 (Nghị quyết 01-NQ/TU ngày 24/6/2011 của Tỉnh

ủy; Đề án phát triển công nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi) và các Nghị quyết

chuyên đề phát triển công nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015

và định hướng đến năm 2020. Chủ trương phát triển các KCN bền vững và

theo chiều sâu được đề ra tại Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ 18:

“Tiếp tục đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng, thu hút đầu tư các ngành nghề

theo định hướng, kịp thời mở rộng và phát triển một số khu, cụm công nghiệp

làng nghề khi có đủ điều kiện, khuyến khích mở rộng quy mô, chất lượng,

nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp. Phấn đấu thu hút đầu

tư tại các KCN giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 1.600 tỷ đồng; đến năm

2020, tỷ lệ lấp đầy tại KCN Phổ Phong đạt 100% diện tích”.

3.1.3. Các chỉ tiêu thực hiện

Trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực phục hồi đà tăng trưởng sau

cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng tốc độ phục

hồi còn chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro, nền kinh tế Việt Nam có dấu hiệu phục

hồi nhưng còn nhiều khó khăn thách thức. Theo chỉ đạo tại Chỉ thị 22/CT-

TTg ngày 05/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 07/CT-UBND

89

ngày 29/8/2014 của UBND tỉnh, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5

năm 2016-2020 tăng 6,5-7%/năm.

Dự báo các yếu tố xã hội thực tế tại địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, sự tác

động khách quan của nền kinh tế, các KCN Quảng Ngãi định hướng các chỉ

tiêu kinh tế xã hội cho giai đoạn 2016-2020 như sau:

- GTSX công nghiệp: tăng bình quân 6,5%/năm

- Kim ngạch xuất khẩu: tăng bình quân 7%/năm

- Tổng vốn thu hút đầu tư dự kiến: 1.600 tỷ đồng.

- Giải quyết việc làm mới cho: 3.000 lao động.

- Quy hoạch KCN Đồng Dinh, KCN Phổ Khánh và khảo sát vị trí dọc

theo tuyến đường Dung Quất - Sa Huỳnh để quy hoạch KCN.

- KCN Quảng Phú: Trong giai đoạn 2016-2020 chỉ duy trì và bảo

dưỡng thường xuyên công trình hạ tầng bằng nguồn vốn tự có và vốn huy

động của doanh nghiệp, đảm bảo mỹ quan hạ tầng KCN; 100% công trình hạ

tầng hoạt động đồng bộ, đáp ứng mọi nhu cầu của nhà đầu tư và doanh

nghiệp. Hàng năm, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần kinh phí để duy

tu bảo dưỡng hạ tầng KCN thông qua đầu mối là Ban Quản lý các KCN

Quảng ngãi – cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với các KCN tỉnh.

- KCN Tịnh Phong: Mục tiêu đến trước năm 2018, sẽ hoàn thành xây

dựng cơ sở hạ tầng đạt 100% theo quy hoạch; duy trì và bảo dưỡng thường

xuyên công trình hạ tầng bằng nguồn vốn tự có và vốn huy động của doanh

nghiệp, đảm bảo mỹ quan hạ tầng KCN; 100% công trình hạ tầng hoạt động

đồng bộ, đáp ứng mọi nhu cầu của nhà đầu tư và doanh nghiệp. Hàng năm,

ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần kinh phí để duy tu bảo dưỡng hạ

tầng KCN, thông qua đầu mối là Ban Quản lý các KCN Quảng Ngãi – cơ

quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với các KCN tỉnh. Đến năm 2020, xây

90

dựng hoàn thành khu hành chính, dịch vụ khu công nghiệp đáp ứng nhu cầu

của các doanh nghiệp và người lao động làm việc trong khu công nghiệp.

- KCN Phổ Phong: Đến cuối năm 2018, đền bù, giải phóng mặt bằng

đạt 50% diện tích đất trong KCN; Xây dựng một số các tuyến đường, một số

các công trình hạ tầng thiết yếu.

Đến năm 2019, đền bù, giải phóng mặt bằng đạt 100% diện tích đất

trong KCN; Xây dựng hoàn thiện tuyến đường vành đai bao quanh KCN và

một số tuyến đường nhánh theo quy hoạch.

Đến cuối năm 2020, xây dựng hoàn thành một số công trình hạ tầng

thiết yếu theo quy hoạch và xây dựng công trình dịch vụ khác.

3.1.4. Dự báo nhu cầu và nguồn vốn đầu tư cho các Khu công nghiệp

Quảng Ngãi

*Nhu cầu vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật các Khu công nghiệp

Ước tính tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng của các

KCN Quảng Ngãi đến năm 2010 khoảng 900 tỷ đồng, trong đó:

-Khu công nghiệp Quảng Phú và Khu công nghiệp Tịnh Phong

Năm 2016, hoàn thành xây dựng 100% cơ sở hạ tầng theo quy hoạch

KCN Quảng Phú; trong năm 2018, hoàn thành xây dựng 100% cơ sở hạ tầng

theo quy hoạch KCN Tịnh Phong; duy trì và bảo dưỡng thường xuyên công

trình hạ tầng bằng nguồn vốn tự có và vốn huy động của doanh nghiệp, đảm

bảo bộ mặt hạ tầng KCN luôn sạch, đẹp và văn minh; 100% công trình hạ

tầng luôn luôn hoạt động tốt nhất, đáp ứng mọi nhu cầu của nhà đầu tư và

doanh nghiệp. Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần hàng năm (nếu có)

thông qua đầu mối kế hoạch là Ban Quản lý các KCN Quảng Ngãi - cơ quan

quản lý nhà nước trực tiếp đối với các KCN.

Đến năm 2020, xây dựng hoàn thành khu hành chính, dịch vụ khu công

nghiệp.

91

Nhu cầu vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng còn lại của KCN Tịnh Phong,

Quảng Phú trong giai đoạn 2016-2020 khoảng 250 tỷ đồng (trong phạm vi

140,7 ha).

-KCN Phổ Phong

Hết năm 2018, Đền bù, GPMB 50% diện tích đất trong KCN.

Đến năm 2019, Đền bù, GPMB 100% diện tích đất trong KCN.

Đến năm 2020, Xây dựng hoàn thành một số hạ tầng thiết yếu theo quy

hoạch và xây dựng công trình dịch vụ khác.

- KCN Đồng Dinh

Đến năm 2019, Đền bù, GPMB 50% diện tích đất trong KCN.

Đến năm 2020, Đền bù, GPMB 100% diện tích đất trong KCN. Xây

dựng hoàn thành một số hạ tầng thiết yếu theo quy hoạch và xây dựng công

trình dịch vụ khác.

Tổng vốn đầu tư hạ tầng KCN Đồng Dinh cho giai đoạn 2016-2020

khoảng 350 tỷ đồng.

(Nguồn: Ban quản lý các KCN Quảng Ngãi)

* Nguồn vốn đầu tư

Để thực hiện được các mục tiêu và có thể huy động vốn từ các nguồn:

Vốn ngân sách nhà nước, vốn của doanh nghiệp đầu tư và các nguồn vốn hợp

pháp khác.

* Các dự án ưu tiên kêu gọi vốn đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi giai

đoạn 2016 – 2020

Đến nay, KCN Quảng Phú đạt tỷ lệ lấp đầy 100%. Vì vậy, giai đoạn

2015-2020, phấn đấu thu hút 20 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đạt 1.500 tỷ

đồng, chủ yếu thu hút các dự án vào KCN Tịnh Phong và Phổ Phong nhằm

khai thác lợi thế của địa phương và góp phần phát triển kinh tế phía Nam của

tỉnh

92

3.1.5. Định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các khu công

nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Theo Đề án phát triển công nghiệp gắn với quy hoạch phát triển các

khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến năm

2020, tầm nhìn 2030 và Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi

đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được phê duyệt, trong những năm

tới, Quảng Ngãi sẽ tập trung phát triển công nghiệp sạch, ít gây ô nhiễm, các

khu công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung.

Quy hoạch các KCN phải đảm bảo đồng bộ giữa cải tạo đầu tư chiều

sâu các KCN hiện có với lấp đầy các KCN đang và sẽ xây dựng. Phát triển

các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải được xem xét trong sự phối hợp,

gắn kết với việc phát triển các khu công nghệ cao, khu công nghiệp hỗ trợ,

làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, nhằm khai thác có hiệu

quả quỹ đất hiện có. Giải quyết hợp lý mặt bằng sản xuất cho các doanh

nghiệp nhỏ và vừa để đảm bảo vừa phát triển mới, vừa phục vụ việc di dời

các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm, không phù hợp quy hoạch ra khỏi nội

thành và khu vực dân cư. Ưu tiên xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp

phục vụ nhu cầu di dời của các cơ sở sản xuất có khả năng ô nhiễm từ khu

vực đông dân cư. Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển

KCN cho phù hợp nhu cầu thực tế theo hướng: (i) nâng cao chất lượng lập

quy hoạch, không phát triển tràn lan theo phong trào; (ii) chú trọng lựa chọn

quy hoạch các KCN tại các vị trí thuận lợi thu hút đầu tư, gắn với vùng

nguyên liệu và nguồn lao động, có điều kiện xử lý và bảo vệ môi trường; (iii)

hạn chế ở mức thấp nhất sử dụng đất trồng lúa, đất vùng trồng cây nguyên

liệu có hiệu quả cho ngành công nghiệp chế biến...

Quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đòi

hỏi phải xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh nhằm

93

khuyến khích phát triển các KCN đồng bộ, thu hút các doanh nghiệp sử dụng

công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ hàng đầu vào đầu tư trong các

KCN trên địa bàn.

Quản lý nhà nước đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nhằm

tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp, nhằm khai thác và sử dụng đất có hiệu quả, góp phần giảm thiểu

ô nhiễm môi trường, thúc đẩy phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn.

Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhằm hỗ trợ, khuyến khích

các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào các KCN; cơ chế,

chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh trong cụm,

nâng cao tỷ lệ lấp đầy trong các KCN.

Quản lý Nhà nước đối với các KCN nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu

phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, góp phần quyết định tăng trưởng công

nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Hình

thành cơ sở, căn cứ cho việc hoạch định phát triển công nghiệp trên địa bàn

tỉnh.

Quản lý Nhà nước đối với các KCN của tỉnh đáp ứng nhu cầu mở rộng

mặt bằng sản xuất, thu hút các nguồn lực về vốn, công nghệ ... để phát triển

mạnh công nghiệp của tỉnh, gắn sản xuất với thị trường, lao động, giải quyết

vấn đề ô nhiễm môi trường.

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư vào

các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

3.2.1. Hoàn thiện quy hoạch Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi

Quy hoạch phát triển KCN đồng bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là

một bộ phận trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và

quy hoạch phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm miền Trung,... thực

94

chất là sự kết hợp giữa quy hoạch phát triển ngành gắn với vùng lãnh thổ. Do

vậy, quy hoạch phát triển KCN phải gắn chặt chẽ với quy hoạch vùng, quy

hoạch các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội, quy hoạch phát triển KCN

trên phạm vi cả nước để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác quy hoạch

nhằm triệt để khai thác lợi thế của tỉnh Quảng Ngãi và tránh lãng phí tài

nguyên đất, đầu tư không hiệu quả, trùng lắp... cần nhanh chóng xây dựng

quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2015 và tầm nhìn 2020 theo hướng

phát triển KCN phải gắn liền với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH, quy

hoạch phát triển công nghiệp, chiến lược CNH, HĐH tỉnh Quảng Ngãi cũng

như của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

*Hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển khu công nghiệp gắn với

quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ, quy hoạch ngành

Để công tác quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi có

hiệu quả, việc quản lý nhà nước các KCN phải tính đến lợi thế so sánh của

Quảng Ngãi với các địa phương trong vùng và của cả nước, trước hết là các

địa phương lân cận như Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, tạo nên thế mạnh,

gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Quy hoạch phát triển vùng,

lãnh thổ thực chất là sự phối hợp giữa quy hoạch phát triển của từng địa

phương trong vùng với quy hoạch ngành trên địa bàn, tạo nên mối quan hệ đa

chiều: tỉnh-tỉnh, tỉnh-ngành, ngành-ngành trên cùng một phạm vi lãnh thổ. Do

vậy, quy hoạch phát triển KCN phải gắn chặt chẽ với quy hoạch vùng, quy

hoạch các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Quy hoạch xây dựng hạ tầng

kỹ thuật-xã hội trong và ngoài hàng rào KCN, quy hoạch ngành, nghề đầu tư

vào KCN, phương án bảo vệ môi trường, xử lý chất thải,... là những vấn đề

rất quan trọng, nếu không giải quyết tốt sẽ hạn chế hiệu quả của việc phát

triển KCN, thậm chí còn gây ảnh hưởng và để lại hậu quả về lâu dài, cụ thể:

95

+ Quy hoạch ngành nghề và lĩnh vực hoạt động của KCN phải là nơi

tập trung thu hút các nhà đầu tư có ngành nghề sản xuất, kinh doanh theo

đúng định hướng, phát huy được lợi thế so sánh của tỉnh. Trước đây mục đích

đầu tiên của việc thành lập KCN là để tận dụng lực lượng lao động dồi dào và

giá rẻ, điều kiện tự nhiên để thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực sản xuất

công nghiệp để lấp đầy KCN. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, với hạ tầng

kinh tế-xã hội phát triển, trong quá trình thu hút và lựa chọn các nhà đầu tư,

Quảng Ngãi cần chủ trương chuyển đổi cơ cấu đầu tư cho từng KCN, lựa

chọn và định hướng các nhà đầu tư phát triển các loại hình sản xuất công

nghiệp có trình độ công nghệ cao, hàm lượng KHKT lớn, các ngành sản xuất

hàng xuất khẩu có thể đủ sức cạnh tranh với thị trường khu vực và thế giới

theo hướng:

Không quy hoạch KCN sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động

phổ thông để giải quyết nhu cầu việc làm như trước đây mà chỉ xây dựng

KCN thu hút các dự án sử dụng nhiều vốn và áp dụng công nghệ cao vào sản

xuất. Chuyển từ KCN sản xuất đơn thuần sang KCN kết hợp sản xuất với

nghiên cứu khoa học, triển khai kỹ thuật công nghệ cao và các dịch vụ phục

vụ sản xuất;

Không lựa chọn những dự án sản xuất có nhiều nguy cơ gây ô nhiễm

môi trường mà chỉ lựa chọn những dự án công nghiệp sạch, thân thiện với

môi trường;

+ Quy hoạch xây dưng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào

Thực tế hiện nay tại Quảng Ngãi, kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng

rào đã yếu kém lại không đồng bộ, nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài

hàng rào như đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước... đòi hỏi vốn

lớn, nên chưa được triển khai hoặc triển khai chậm. Không ít những công

trình hạ tầng được quy hoạch hoặc xây dựng nhưng sau một thời gian đã

96

không đáp ứng được yêu cầu. Mặc dù các công trình hạ tầng kỹ thuật trong

hàng rào KCN có hiện đại, thuận lợi đến đâu nhưng các công trình hạ tầng kỹ

thuật ngoài hàng rào KCN như hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước, thông

tin liên lạc.. .thiếu đồng bộ, không thuận lợi thì cũng suy giảm sự hấp dẫn các

nhà đầu tư. Hiện nay, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của tỉnh Quảng Ngãi được đầu tư

nâng cấp thường xuyên thông qua việc huy động nhiều nguồn vốn kể cả

nguồn vốn ODA nhưng còn rất nhiều nơi kết cấu kỹ thuật ngoài hàng rào

KCN không đảm bảo chất lượng lại thiếu đồng bộ. Nhiều công trình hạ tầng

kỹ thuật ngoài hàng rào như đường giao thông, hệ thống cung cấp điện,

nước... đòi hỏi vốn lớn, nên chưa được triển khai hoặc triển khai chậm điển

hình là đường vào KCN Phổ Phong,... Do vậy, quy hoạch chi tiết KCN phải

xác định rõ các điểm nối và trách nhiệm của đơn vị liên quan (giao thông,

điện, nước, thông tin liên lạc, doanh nghiệp phát triển hạ tầng, cơ quan quản

lý địa phương...).

*Quy hoạch các khu công nghiệp phải tuân thủ quy hoạch phát triển

của tỉnh trong từng thời kỳ

Quy hoạch phát triển KCN cần phải căn cứ vào tổng thể quy hoạch phát

triển KT-XH, quy hoạch phát triển ngành công nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi

trong từng thời kỳ. Quy hoạch KCN được lập trên cơ sở những điều kiện khả

thi về xây dựng hạ tầng, khả năng thu hút đầu tư, xu hướng phát triển các đô

thị công nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi. Như vậy, việc phát triển các KCN trên

địa bàn tỉnh Quảng Ngãi vừa đảm bảo phù hợp với quy hoạch tổng thể của cả

nước, vừa phù hợp với thực tế của tỉnh và khả năng của nhà đầu tư, đảm bảo

tính khả thi của dự án. Trong đó, quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ

tầng KCN Quảng Ngãi phải đáp ứng yêu cầu phát triển trước mắt cũng như

lâu dài của tỉnh, của ngành công nghiệp và tốc độ đô thị hóa. Lưu ý đến kế

hoạch và lộ trình thực hiện quy hoạch đó cả về vốn, nguồn nhân lực, giải pháp

97

công nghệ, thời hạn thực hiện và có cơ chế linh hoạt để huy động các nguồn

lực thực hiện. Đồng thời, định kỳ 05 năm một lần đánh giá lại mức độ phù

hợp của quy hoạch với thực tiễn, nhất là tác động của các KCN đối với vấn đề

môi trường trên địa bàn tỉnh và có những điều chỉnh kịp thời. Căn cứ tình

hình triển khai thực tế trên cơ sở đánh giá lại khả năng thu hút đầu tư, khả

năng lấp đầy, mục đích hình thành của từng KCN, Ban quản lý KKT Dung

Quất và các KCN Quảng Ngãi cần chủ động đề xuất, tham mưu cho UBND

tỉnh kế hoạch bố trí, điều chỉnh quy mô, diện tích và hoạt động của từng khu

nhằm đảm bảo sự phát triển các KCN đồng bộ trên địa bàn tỉnh theo hướng:

+ Đối với các KCN đã đi vào hoạt động như KCN Tịnh Phong, Quảng

Phú, cần hoàn chỉnh các hạng mục kết cấu hạ tầng kỹ thuật bên trong như khu

xử lý nước thải, đường giao thông nội bộ và tiếp tục củng cố, hoàn thiện các

công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như đấu nối với hệ thống giao

thông chính,... Tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư tiếp tục tiến hành xây

dựng nhà máy để sản xuất và đẩy nhanh tốc độ lấp đầy KCN. Trường hợp

KCN thu hút đầu tư tốt, tỷ lệ lấp đầy đạt trên 80%, triển khai xây dựng hạ

tầng đảm bảo tiến độ và nhu cầu thuê đất của các nhà đầu tư cao và khu vực

còn quỹ đất để phát triển, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo

điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có thể xem xét việc mở

rộng KCN;

+ Đối với các KCN đang trong quá trình giải phóng mặt bằng và xây

dựng hạ tầng như Đồng Dinh, Phổ Phong, cần giám sát chặt chẽ công tác quy

hoạch trong các KCN về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, quy hoạch ngành

nghề theo định hướng phát triển chung của tỉnh. Quy hoạch KCN phải quan

tâm tới tính khả thi, hiệu quả hoạt động của KCN và vấn đề bảo vệ môi

trường đồng thời xem xét bổ sung quy hoạch các công trình hạ tầng kỹ thuật

98

và hạ tầng xã hội thiết yếu nhằm đảm bảo sự phát triển KCN đồng bộ trong

hiện tại và tương lai;

* Quy hoạch và tổ chức vị trí hợp lý giữa ba thành phần cấu thành cơ

bản của mối quan hệ là Khu công nghiệp, Khu nhà ở và Khu dịch vụ công

cộng

Khi quy hoạch phát triển các KCN cần tính toán tới việc đảm bảo tính

đồng bộ giữa các yếu tố cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội và môi trường bảo

đảm cho sự phát triển KCN và cả những khu vực xây dựng KCN. Hầu hết các

KCN Quảng Ngãi đều được bố trí ở khu vực ngoại thành, do vậy quá trình

hình thành và phát triển KCN cần gắn với việc hình thành đô thị công nghiệp

lân cận mới để đáp ứng phần nào điều kiện sống của người lao động mà hầu

hết là dân cư của các tỉnh khu vực miền Trung. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ

thuật và xã hội: đường xá, nhà cửa, điện, nước, mạng lưới thông tin viễn

thông, giáo dục, y tế và phát triển KCN được quy hoạch đồng bộ với quy

hoạch mạng lưới thị tứ, khu vực thành thị với các điều kiện sinh hoạt hiện đại;

Sự phát triển của khu nhà ở, dịch vụ công cộng gắn với KCN phải được

đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển của đô thị và sự phát triển của vùng.

Tuy nhiên, để tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cũng như phát triển đô thị

hoá trong tương lai, khu dân cư mới này phải nằm trong tổng thể quy hoạch

phát triển của đô thị, nó liên hệ gắn bó với đô thị, sử dụng chung một số công

trình hạ tầng xã hội của đô thị. Đô thị cũng nhờ có khu dân cư mới này để mở

rộng và phát triển trong tương lai. Như vậy, mối quan hệ giữa đô thị và khu

dân cư gắn với KCN phải là một mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn

nhau.

Quy hoạch xây dựng các công trình dịch vụ cần thiết nhất cho đời sống

hàng ngày cho người lao động của các KCN. Cụ thể là giai đoạn đầu xây

dựng chợ, cửa hàng bách hoá tổng hợp, trạm y tế; giai đoạn thứ hai xây dựng

99

trường học, nhà trẻ; giai đoạn thứ ba xây dựng các công trình nghỉ ngơi, vui

chơi giải trí và thể thao;

Quy hoạch sử dụng đất dành cho xây dựng nhà ở chiếm 38-60% đất

quy hoạch khu nhà ở công nhân, đất dành cho xây dựng các công trình phục

vụ công cộng như nhà trẻ, mẫu giáo, trạm y tế, rạp chiếu phim, câu lạc bộ,

nhà văn hóa, bách hóa, chợ chiếm 21-35%; đất dành cho cây xanh, sân vườn,

sân thể dục thể thao chiếm 10-18%; đất giao thông chiếm 6-9%.

3.2.2. Nâng cao vai trò quản lý nhà nước của Ban quản lý các Khu công

nghiệp Quảng Ngãi

Mặc dù, Ban quản lý các KCN Quảng Ngãi đã có Quy chế hoạt động

của Ban quản lý các KCN (ban hành kèm theo Quyết định số 03/2012/QĐ-

UBND ngày 01 tháng 3 năm 2012 của UBND tỉnh Quảng), nhưng hiện nay

một số điểm của Quy chế này không phù hợp với Nghị định số 29/2008/NĐ-

CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về KCN, KCX và

KKT; Nghị định này đã tăng thêm quyền hạn và trách nhiệm của Ban quản lý

các KCN địa phương, trong đó có Ban quản lý các KCN trong vai trò quản lý

các doanh nghiệp trong KCN trên địa bàn.

Kể từ ngày 12/12/2016, sau khi hợp nhất Ban Quản lý các KCN Quảng

Ngãi với Ban Quản lý KKT Dung Quất theo chủ trương của Chính phủ đã

tiến hành sát nhập làm một cơ quan lấy tên là Ban quản lý KKT Dung Quất và

các KCN Quảng Ngãi. Tuy nhiên, một số quy định hoạt động của đơn vị mới

này chưa có sự thống nhất, nên quá trình hoạt động của Ban quản lý gặp một

số khó khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, UBND tỉnh xác định rõ chức năng,

nhiệm vụ, thẩm quyền của Ban quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng

Ngãi theo chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động của KKT và các

KCN và chức năng tham mưu cho UBND tỉnh. Các đơn vị chức năng của Ban

quản lý cần ý thức được tinh thần trách nhiệm, vì sự nghiệp phát triển các

100

KKT và KCN Quảng Ngãi, vì doanh nghiệp để nâng cao vai trò của Ban quản

lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi đối với hoạt động đầu tư vào các

KCN Quảng Ngãi, như:

- Về quản lý môi trường: Hiện nay hoạt động của bộ phận này trong

Ban quản lý còn chưa bao quát được hết các phát sinh tại KKT và các KCN.

Một phần vì thiếu nhân lực, một phần là do cơ chế phân cấp ủy quyền chưa

được đồng bộ, việc thẩm định công tác bảo vệ môi trường do các cơ quan

chuyên môn đảm nhận. Vì vậy, trong quá trình kiểm tra công tác quản lý môi

trường tại các doanh nghiệp KCN, Ban Quản lý không có chế tài xử phạt,….

do vậy trong thời gian tới Ban quản lý cần tập trung củng cố công tác quản lý

môi trường tạo tiền đề cho việc phát triển KCN đồng bộ;

- Về quản lý doanh nghiệp: Thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước

về sản xuất, kinh doanh, kết hợp với các cơ quan hữu quan giải quyết những

khó khăn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong thời gian tới,

công tác quản lý doanh nghiệp cần sâu sát hơn với cơ sở, tránh tình trạng

quản lý hành chính như hiện nay. Có như vậy mới tham mưu đề xuất với các

cơ quan chức năng nhà nước và lãnh đạo Ban quản lý các chính sách, chế độ

nhằm khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất giỏi, thực hiện tốt

nghĩa vụ thuế với nhà nước và kịp thời tham gia giúp đỡ doanh nghiệp tháo

gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh.

- Về quản lý hoạt động đầu tư: Phối hợp với các đơn vị trong ban, các

cơ quan chức năng chuyên môn nhanh chóng tổ chức thẩm định các dự án đầu

tư ngay từ lúc tiếp nhận đơn và dự án đầu tư giúp các doanh nghiệp giảm bớt

thời gian chờ cấp phép. Tuy nhiên, không vì vậy mà thiếu chặt chẽ, hồ sơ nào

không đạt yêu cầu về vốn, về công nghệ, về các chỉ số kinh tế-kỹ thuật... sẽ

không cấp phép và việc cấp phép đầu tư có chọn lọc theo định hướng quy

hoạch phát triển các KCN của tỉnh hiện tại và tương lai;

101

- Về quản lý quy hoạch: Cấp chứng chỉ quy hoạch và tổ chức thẩm định

thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật đối với các dự án đầu tư vào KCN. Kiên quyết

không cấp phép và sử lý theo thẩm quyền đối với các trường hợp vi phạm quy

hoạch về mật độ xây dựng;

- Về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu: Quản lý các hoạt động thương

mại trong các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và cấp giấy chứng nhận

xuất xứ hàng hoá mẫu D theo uỷ quyền của Bộ Thương mại. Cần tăng cường

hơn nữa công tác quản lý xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp KCN để

hỗ trợ doanh nghiệp tăng kim ngạch xuất khẩu và kịp thời phát hiện những

gian lận thương mại nhằm tạo sân chơi bình đẳng cho hoạt động xuất nhập

khẩu của các doanh nghiệp KCN;

- Về công tác quản lý lao động: Theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc

người lao động và người sử dụng lao động thực hiện các quy định về pháp

luật lao động và quan hệ lao động. Công tác quản lý lao động trong thời gian

tới cần tập trung kiểm tra việc người sử dụng lao động có thực hiện tốt các

chính sách, chế độ lao động đối với người lao động như giao kết hợp đồng lao

động, xây dựng nội quy lao động, tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội,

thời gian làm việc, nghỉ ngơi, trợ cấp tai nạn lao động ... trong các doanh

nghiệp theo quy định của pháp luật hay không? Phối hợp với tổ chức Công

đoàn KKT Dung Quất và các KCN tổ chức hướng dẫn, khuyến khích các

doanh nghiệp ký kết thoả ước lao động tập thể nhằm giảm thiểu các nguy cơ

tranh chấp lao động tập thể dẫn đến đình công góp phần vào sự phát triển của

doanh nghiệp KCN;

- Về tăng cường vai trò của Đại diện ban quản lý tại các khu công

nghiệp: Cử cán bộ trực tiếp làm việc tại các KCN trọng yếu, nâng tần suất

xuống trực tiếp các KCN khác để nắm rõ tình hình sản xuất của các doanh

nghiệp đảm bảo thông tin luôn cập nhật. Những vấn đề phát sinh, những thắc

102

mắc cần giải quyết của doanh nghiệp tùy theo thẩm quyền và chuyên môn có

thể giải đáp trực tiếp hoặc chuyển các phòng chức năng giải quyết. Tuy nhiên,

cần nâng cao năng lực giải quyết tại chỗ các vướng mắc của doanh nghiệp

như các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính, liên quan đến quy trình và

nội dung hồ sơ cấp phép; các vấn đề liên quan đến tư vấn chế độ chính sách

đối với người lao động, người sử dụng lao động.

3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút, cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy

chứng nhận đầu tư:

* Cải thiện môi trường, đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư

Mục tiêu phát triển KCN hiện nay ở Quảng Ngãi là thu hút, lựa chọn

các ngành nghề đầu tư có tính mũi nhọn, định hướng dẫn dắt cho các ngành

khác phát triển đồng thời đẩy nhanh việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước

vào các KCN trên địa bàn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Do vậy xây dựng chiến

lược thu hút đầu tư một các có hiệu quả, tiến hành các hoạt động xúc tiến, vận

động đầu tư vào KCN và cải thiện môi trường đầu tư là một trong những nội

dung quan trọng, giữ vai trò quyết định sự thành công của KCN.

-Cải thiện môi trường đầu tư: Để cải thiện môi trường đầu tư nước

ngoài trước hết cần phải khẳng định bằng việc làm nguyên tắc, thực hiện nhất

quán và lâu dài chính sách thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Môi trường đầu tư

có tác động rất lớn đến việc thu hút đầu tư vào các KCN. Cải thiện môi

trường đầu tư tức là cải thiện một hệ thống các cơ chế, chính sách có liên

quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong

KCN; các chỉ tiêu về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội. Do vậy môi

trường đầu tư cần luôn được xem xét và không ngừng cải thiện để tạo những

điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư.

103

Những yếu tố hấp dẫn thu hút đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi trước

đây như nhiều lao động di cư, giá nhân công rẻ không còn là những lợi thế

cạnh tranh của Quảng Ngãi mà là những ưu thế về cải cách thủ tục hành

chính, trình tự thủ tục xin đất cho đến khi cấp phép đầu tư và sự hỗ trợ cho cả

quá trình hoạt động của nhà đầu tư sau này; ưu thế về nguồn nhân lực có trình

độ và chất lượng cao; ưu thế về các dịch vụ hỗ trợ; ưu thế về vị trí và đặc thù

kinh tế- xã hội của tỉnh ...đó chính là những nhân tố tạo môi trường hấp dẫn

thu hút các nhà đầu tư và góp phần giảm chi phí, tiết kiệm thời gian, giảm các

thủ tục hành chính phiền hà tạo sự tin tưởng của các nhà đầu tư khi đầu tư vào

các KCN Quảng Ngãi.

- Đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư: Một trong những biện

pháp xúc tiến vận động đầu tư hữu hiệu nhất để thu hút các nhà đầu tư nước

ngoài là việc các cơ quan quản lý nhà nước của Quảng Ngãi tích cực tham gia

giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình

xây dựng và sản xuất kinh doanh trong KCN. Việc các doanh nghiệp này hoạt

động thuận lợi, có hiệu quả sẽ là minh chứng thiết thực, đầy tính thuyết phục

và tạo nên lòng tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài đang có ý định đầu tư

vào Việt Nam nói chung và vào các KCN Quảng Ngãi nói riêng và tạo nên sự

hấp dẫn thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài khác đầu tư vào KCN.

Phải nâng cao chất lượng quy hoạch và danh mục dự án kêu gọi vốn

đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động đầu tư vào các

KCN Quảng Ngãi. Cần thống nhất quan điểm và phương pháp luận xây dựng

quy hoạch đầu tư nước ngoài vào KCN. Theo đó, đầu tư nước ngoài là một bộ

phận không tách rời của nền kinh tế quốc dân và quy hoạch thu hút nguồn vốn

này cần đặt trong tổng thể các nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội cũng như quy

hoạch phát triển từng lĩnh vực, ngành nghề, sản phẩm và địa bàn, kết hợp này

xác định ngay từ đầu theo yêu cầu phát triển kinh tế, đầu tư phát triển với an

104

ninh, quốc phòng. Do vậy, quy hoạch thu hút vốn FDI vào các KCN Quảng

Ngãi cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển

kinh tế-xã hội-an ninh-quốc phòng của Quảng Ngãi đến năm 2020 và tầm

nhìn 2030.

Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài vào KCN khi được công bố

phải có độ chính xác, tin cậy cao và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ.

Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển

KT-XH Quảng Ngãi trong từng thời kỳ, đồng thời phải dự báo nhu cầu và khả

năng thực tế của các nhà đầu tư.

- Quảng bá tiềm năng, cơ hội đầu tư vào các Khu công nghiệp: Mặc dù

hiện Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi và Ban quản lý KKT Dung Quất và

các KCN Quảng Ngãi đã có Website quảng bá thông tin về các KCN (quy

mô, diện tích, hạ tầng, giá thuê đất, tiền điện, nước...) để thu hút đầu tư tuy

nhiên nội dung còn sơ sài, thông tin còn thiếu, lạc hậu, nhất là sau khi hợp

nhất thì các thông tin về các KCN (cũ) chưa được cập nhật đầy đủ. Do vậy

cần tập trung nâng cao chất lượng thông tin tại các Website xúc tiến đầu tư

của tỉnh Quảng Ngãi qua hai kênh là Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi và

Ban quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi. Ngoài ra Quảng Ngãi

có thể thông qua phối hợp với trang Website của Phòng Thương mại và Công

nghiệp Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư... để tăng cường quảng bá hình ảnh

và thông tin về các KCN Quảng Ngãi để các nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm

hiểu và kết nối mạng với Website của các Ban quản lý các KCN các tỉnh,

thành phố trong cả nước và mạng thông tin chung về đầu tư của APEC,

ASEM...V.V

Ghi vào đĩa VCD, DVD với đầy đủ những nội dung cần giới thiệu về

các khu công nghiệp giúp cho nhà đầu tư có được thông tin chính xác, cập

nhật nhất về tình hình và môi trường đầu tư tại các khu công nghiệp Quảng

105

Ngãi, trong đó nêu rõ các chính sách, thủ tục thực hiện đầu tư, giới thiệu

những thông tin kinh tế cơ bản về các công trình hạ tầng đã xây dựng, giá

thuê đất, giá thuê hạ tầng, các ưu đãi... In ấn tờ rơi, cataloge, xuất bản tập tin

khu công nghiệp, các chuyên đề nghiên cứu, trao đổi về KCN Quảng Ngãi

nhất là những lĩnh vực đầu tư được ưu tiên, khuyến khích để nhà đầu tư có

được những thông tin ban đầu về cơ hội, tiềm năng cho các nhà đầu tư khi

tiếp cận, tìm hiểu đầu tư vào KCN;

Mở rộng độ bao phủ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư

gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các

cơ quan, hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước và đăng ký

chế độ phát thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng như

truyền hình Trung ương, đài truyền hình địa phương và một số tờ báo có uy

tín;

- Tổ chức tiếp xúc, vận động các nhà đầu tư quan tâm đầu tư vào các

Khu công nghiệp Quảng Ngãi: Phối hợp với VCCI, các Hiệp hội doanh

nghiệp định kỳ tổ chức các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư, nhất

là trong khuôn khổ Diễn dàn doanh nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài... nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng

mắc trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, coi

đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn về một

môi trường đầu tư năng động, thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư mới;

Phối kết hợp với các ngân hàng, tổ chức tài chính hoặc thuê các tổ chức

tư vấn, tổ chức xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước nhất là các tổ chức có uy

tín, có kinh nghiệm trong thu hút đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở dữ liệu và

các tài liệu kêu gọi đầu tư, tổ chức các cuộc hội thảo ngoài nước tại những nơi

tập trung nhiều tập đoàn đa quốc gia mạnh, để tiếp thị các định hướng đầu tư

(đặc biệt là thu hút các dự án công nghệ cao) vào các KCN Quảng Ngãi;

106

Chuẩn bị đầy đủ thông tin của một số dự án có tính khả thi cao của

KCN Quảng Ngãi để giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng thông qua các

hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ, triển lãm và hoạt động của Chương

trình xúc tiến thương mại quốc gia để kết hợp vận động đầu tư vào các Quảng

Ngãi;

- Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư: Tổ chức

nghiên cứu đánh giá tình hình, xu hướng đầu tư nước ngoài trên thế giới, kinh

nghiệm thu hút đầu tư của một nước trong khu vực, đặc biệt là các cơ chế

pháp lý song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế

mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình

nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động,

xúc tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai thực hiện

các cam kết quốc tế về đầu tư của Việt Nam. Trên cơ sở đó kiến nghị với

Chính phủ có những điều chỉnh trong các chính sách khuyến khích đầu tư

chung của quốc gia và giúp Quảng Ngãi có những căn cứ để xây dựng một số

chính sách thu hút đầu tư mang đặc trưng của vùng duyên hải miền Trung.

- Về hoạt động thu hút đầu tư của công ty xây dựng và kinh doanh cơ

sở hạ tầng: Cùng với việc tập trung xây dựng tốt cơ sở hạ tầng KCN phải chú

ý đến công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu thị hiếu, đặc tính của nhà

đầu tư để xây dựng chiến lược Marketing vận động thu hút đầu tư hữu hiệu,

tránh hiện tượng bị động như hiện nay. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị

trường trong và ngoài nước, nắm rõ nhu cầu đòi hỏi của thị trường để có kế

hoạch điều chỉnh, mở rộng hay thu hẹp quy mô và tổ chức xây dựng, tu chỉnh

cơ sở hạ tầng KCN cho phù hợp;

Nghiên cứu người tiêu dùng: Xác định rõ đâu là nhà đầu tư hiện tại và

đâu là nhà đầu tư tiềm năng? Nhu cầu và thị hiếu của nhà đầu tư ra sao? Họ

cần gì? Sản phẩm thế nào? Họ quan tâm đến vị trí, quy mô KCN; nguồn lao

107

động chất lượng cao; tính chuyên ngành của KCN; hệ thống dịch vụ phụ trợ...

hay giá cả? Lợi thế so sánh của KCN này với các KCN khác trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi và các tỉnh lân cận là gì?

Nghiên cứu động cơ mua hàng: Nhà đầu tư đến với ta mục đích là thuê

đất xây dựng nhà xưởng để sản xuất, xuất phát từ động cơ, động cơ xuất phát

từ nhu cầu, nhưng không có nghĩa là cứ có nhu cầu là họ sẽ quyết định đầu tư;

Nghiên cứu sản phẩm: Cần xem xét KCN của mình đã đáp ứng được

nhu cầu của nhà đầu tư và đối tượng khách hàng mà mình lựa chọn hay chưa?

có những ưu thế và hạn chế gì? cần cải tiến vấn đề gì và ra sao?

- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các Khu công nghiệp: Trong

thời gian vừa qua, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc

độ thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung và vào các KCN Quảng

Ngãi nói riêng suy giảm mạnh. Do vậy, Quảng Ngãi cần có những giải pháp

mang tính chiến lược dài hạn để thu hút đầu tư vào các KCN, đặc biệt là

nguồn vốn nước ngoài.

Xác định rõ mục tiêu, danh mục ngành nghề cần khuyến khích thu hút

đầu tư theo từng giai đoạn. Ưu tiên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao như: sản xuất vật liệu

mới, điện-điện tử, cơ khí thiết bị phụ tùng ngành sản xuất ô tô, xe máy, công

nghệ thông tin, công nghệ sinh học.... và các ngành mà Quảng Ngãi có nhiều

lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp

phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế;

Đẩy mạnh thu hút đầu tư lấp đầy các KCN đã đi vào hoạt động như

KCN Tịnh Phong, KCN Phổ Phong, KCN Đồng Dinh để phát huy vai trò và

thúc đẩy khu vực kinh tế phía tây và phía Nam của tỉnh phát triển, tạo điều

kiện liên kết phát triển các KCN khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Có

cơ chế khuyến khích và ưu đãi cho những nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ

108

tất cả các nước và vùng lãnh thổ, nhất là những nhà đầu tư có tiềm năng lớn

về tài chính, về công nghệ…. đầu tư vào KCN nhất là ở địa bàn có điều kiện

kinh tế - xã hội khó khăn như huyện, Nghĩa Hành.. hoặc những khu vực hạ

tầng kỹ thuật - xã hội còn chưa đồng bộ như KCN Phổ Phong,... nhằm tạo

động lực thu hút các nhà đầu tư nước ngoài khác cùng vào đầu tư;

Có kế hoạch thu hút vốn đầu tư của các công ty có quy mô vừa và nhỏ

nhưng công nghệ hiện đại hoặc nghiên cứu chuyển giao, đồng thời tạo điều

kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Quảng

Ngãi.

-Thu hút đầu tư trong nước vào Khu công nghiệp: Khi Luật Doanh

nghiệp và Luật Đầu tư có hiệu lực, môi trường đầu tư và kinh doanh của các

doanh nghiệp trong nước ngày càng thuận lợi. Do vậy, cần tăng cường thông

tin tuyên truyền, vận động, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong

nước đầu tư sản xuất trong các KCN để các doanh nghiệp trong nước có cơ

hội tiếp cận các doanh nghiệp nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm, công nghệ và

tăng cường liên kết hợp tác sản xuất, tăng tỷ lệ nội địa hoá, phát huy nội lực;

Ban hành công khai Danh mục dự án gọi vốn đầu tư vào KCN để các

thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân trong nước có cơ hội đầu tư, huy

động thêm nguồn vốn đầu tư xã hội. Nhà nước và thành phố Hà Nội cần

nghiên cứu các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước và khuyến

khích các thành phần kinh tế trong nước đầu tư vào KCN;

Nhà nước phải tạo khung pháp lý nhất quán và ổn định, UBND tỉnh

phải tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi và cạnh tranh

bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và

đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Hà Nội cần có những chính sách thỏa

đáng về đất đai, về vốn, hỗ trợ di dời các doanh nghiệp công nghiệp trong các

khu, cụm công nghiệp kiểu cũ và trong nội đô di dời vào các KCN để giảm

109

thiểu đến mức thấp nhất mức độ ô nhiễm môi trường do các doanh nghiệp

trong nội thành gây nên. Cùng với việc di chuyển, yêu cầu các cơ sở sản xuất

phải tiến hành đổi mới thiết bị, công nghệ hoặc đầu tư hệ thống xử lý chất thải

đảm bảo tiêu chuẩn cho phép trước khi thải ra môi trường xung quanh để

tránh hiện tượng di chuyển ô nhiễm từ nơi này đến nơi khác.

-Thu hút và huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Đối với

KCN, việc xây dựng cơ sở hạ tầng có chất lượng phục vụ tốt cho các doanh

nghiệp trong KCN có ý nghĩa quan trọng, đó là yếu tố sống còn đối với sự

thành công hay thất bại của KCN và phải đi trước một bước. Trong thời gian

vừa qua KCN Phổ Phong chưa thu hút đầu tư và một số dự án đã được cấp

Giấy chứng nhận đầu tư bị chậm tiến độ là do thiếu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng

kỹ thuật. Do vậy việc đa dạng hoá phương thức huy động vốn là vấn đề cần

thiết và để làm được điều này cần thực hiện một số giải pháp sau:

Tiến hành cổ phần hóa Công ty TNHH MTV Đầu tư xây dựng và kinh

doanh dịch vụ Quảng Ngãi để huy động vốn rộng rãi của các thành phần kinh

tế và công chúng và có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán khi có đủ

điều kiện phát hành cổ phiếu;

Đa dạng hóa các nguồn vốn: Nhà nước, tín dụng, vốn vay của các tổ

chức tín dụng, các quỹ đầu tư, nguồn vốn từ các chủ đầu tư, phát hành trái

phiếu và huy động các nguồn vốn nhàn rỗi khác trong xã hội;

Huy động vốn góp ứng trước của các nhà đầu tư có nhu cầu đầu tư sản

xuất kinh doanh trong KCN để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phương pháp

này sẽ có lợi cho cả hai bên. Một bên sẽ có vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ

tầng KCN, một bên sẽ được hưởng ưu đãi về giá cho thuê đất trong quá trình

hoạt động của KCN và họ vừa là cổ đông vừa là người tiêu dùng do vậy sẽ

nâng cao trách nhiệm trong quá trình xây dựng hạ tầng KCN;

110

Sử dụng quỹ đất đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, khuyến khích các

thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các hạng mục phù hợp với khả năng

của họ như đầu tư hệ thống cấp nước, hệ thống xử lý nước thải, hệ thống

thông tin liên lạc... theo hình thức BOT trên cơ sở đảm bảo các tiêu chí của

KCN đồng bộ.

* Nâng cao hiệu công tác cấp, điều chỉnh, thu hồi dự án đầu tư

Nhằm đảm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối

với các dự án đầu tư quan trọng, có quy mô lớn và tác động liên ngành, liên

vùng, Luật đầu tư 2014 đã bổ sung quy định về thẩm quyền, thủ tục chấp

thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và UBND cấp

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Điểm mới trong nội dung này là đơn

giản hóa thủ tục hành chính đối với một số dự án thuộc thẩm quyền chấp

thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương. Theo đó, cơ quan quản lý đầu tư thực hiện thủ tục chấp thuận chủ

trương đầu tư đồng thời với việc xem xét thẩm tra nhu cầu sử dụng đất, điều

kiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Việc áp dụng đồng

thời các thủ tục nêu trên sẽ giúp cắt giảm đáng kể thời gian thực hiện thủ tục

hành chính do nhà đầu tư không phải tiến hành lần lượt từng thủ tục liên quan

đến việc sử dụng đất như quy định trước đây. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu

quả sử dụng đất tại các KCN Quảng Ngãi theo tinh thần Chỉ thị số 07/CT –

TTg ngày 02 tháng 3 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ; thời gian đến Ban

Quản lý cần kiên quyết trong công tác thu hồi dự án chậm tiến độ, kém hiệu

quả, gây lãng phí đất công nghiệp. Theo đó, gia hạn cho doanh nghiệp trong

thời hạn cụ thể phải tìm kiếm đối tác chuyển nhượng dự án đầu tư. Trường

hợp chủ đầu tư cố tình không chấp hành quy định của cơ quan quản lý nhà

nước, Ban Quản lý cần phải có báo cáo đề xuất UBND tỉnh xem xét thành lập

tổ liên ngành xác định giá trị tài sản doanh nghiệp đã đầu tư làm cơ sở cho

111

việc giới thiệu đối tác chuyển nhượng dự án đầu tư, tránh hiện tượng chủ dự

án đưa ra giá trị chuyển nhượng quá cao so với giá trị thực tế nhằm mục đích

kéo dài thời gian thu hồi dự án, gây lãng phí đất công nghiệp.

3.2.4. Đổi mới chính sách đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của

các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hoạt động thu hút đầu tư, đặc

biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải chú trọng công tác đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN và

nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp KCN

* Đối với đội ngũ cán bộ quản lý

- Tổ chức đào tạo cho cán bộ theo nhiều hình thức như: tập huấn về

chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, ngoại ngữ,... nhằm nâng cao trình độ hiểu

biết chuyên môn, tinh thần trách nhiệm trong công việc và đạo đức nghề

nghiệp, đáp ứng yêu cầu của môi trường kinh doanh.

- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và

năng lực thực tiễn của cán bộ, cần tổ chức các khóa bồi dưỡng ngắn hạn nhằm

trang bị kiến thức mới về luật đầu tư, tình hình đầu tư trong nước và nước

ngoài. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải thiết thực, phù hợp với nhu cầu thực

tế gắn với công việc hàng ngày của cán bộ.

* Nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp:

Lực lượng lao động trong các KCN Quảng Ngãi chủ yếu là lao động

trẻ, có độ tuổi trung bình từ 18-35, thường từ khu vực nông thôn hoặc các

vùng lân cận tỉnh Quảng Ngãi di chuyển đến, chưa được đào tạo chuyên môn

nghiệp vụ, ý thức nghề nghiệp còn yếu, tùy tiện, dễ vi phạm kỷ luật lao động.

Qua thống kê, số lao động đã qua đào tạo từ cao đẳng trở lên chiếm 12%,

công nhân kỹ thuật trình độ trung cấp trở lên chiếm 17,2%. Tuy nhiên, công

112

tác đào tạo hiện nay chưa gắn liền với nhu cầu thực sự của doanh nghiệp, nội

dung đào tạo không phù hợp với công nghệ doanh nghiệp hiện có.

Trên thực tế, kỹ năng làm việc của lao động đang làm việc tại các KCN

đã qua đào tạo chưa phù hợp với dây chuyền sản xuất tại doanh nghiệp nên

chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, do đó đa số lao động sau khi được

tuyển dụng đều được doanh nghiệp đào tạo lại, bổ sung kỹ năng mới.

Một thực trạng chung của vấn đề đào tạo hiện nay là “cung chưa gặp

cầu”, công tác đào tạo chưa gắn liền với nhu cầu thực sự của doanh nghiệp,

nội dung đào tạo không phù hợp với công nghệ doanh nghiệp hiện có, do đó

đa số lao động sau khi được tuyển dụng đều được doanh nghiệp đào tạo lại,

bổ sung kỹ năng mới. Vì vậy, thời gian tới cần rất nhiều giải pháp đồng bộ.

Trong đó, quan trọng là phải đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu của xã hội.

UBND tỉnh cần chỉ đạo cơ quan chuyên trách tiến hành rà soát, quy hoạch hệ

thống các trung tâm giới thiệu việc làm, nâng cao tính chuyên nghiệp, phát

triển mạng lưới giới thiệu việc làm xuống tận địa phương, có thể áp dụng theo

bốn cấp hành chính từ Trung ương đến địa phương (phường, xã); cần có sự

chung tay góp sức, sự liên kết của cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và toàn xã hội.

Có như vậy, cung - cầu lao động mới có tiếng nói chung, mới giảm được tỷ lệ

thất nghiệp xuống mức thấp nhất và ổn định cuộc sống cho người lao động.

Ngoài ra, các doanh nghiệp tại KCN nên vận dụng hình thức đào tạo tại

chỗ và trực tiếp tuyển dụng lao động từ học viên nhằm tuyển dụng được đội

ngũ lao động đảm bảo kỹ năng thực hành phù hợp với yêu cầu công việc của

doanh nghiệp.

Đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho nền kinh tế nói

chung và cho các KCN nói riêng là một vấn đề có tính chiến lược không chỉ

riêng của tỉnh Quảng Ngãi mà còn là nhiệm vụ chung của cả quốc gia, do vậy

cần có sự định hướng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành,

113

đoàn thể chức năng của Trung ương và địa phương cùng với sự nỗ lực của

người lao động làm việc trong các KCN.

Trước hết các cơ sở đào tạo phải xác định lại các mục tiêu đào tạo ngắn

hạn, dài hạn và trình độ cần đào tạo chủ yếu là sơ cấp, trung cấp, cao đẳng: đó

là những công nhân, kỹ thuật viên có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt,

được trang bị kỹ thuật, nghiệp vụ tiên tiến phù hợp với nhu cầu của các KCN,

có tác phong công nghiệp cao, có đủ năng lực thực thi công việc được giao.

Để làm được việc này UBND tỉnh cần chỉ đạo hệ thống ngành Lao động

Thương binh và Xã hội tỉnh tổ chức điều tra khảo sát thực trạng và nhu cầu

đào tạo nghề của người lao động và của doanh nghiệp trong và ngoài KCN để

có những cơ sở dữ liệu chính xác giúp các cơ sở đào tạo nghề xây dựng định

hướng đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế và tương lai;

3.2.5. Hoàn thiện công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của các Khu công

nghiệp

Cần làm việc với các Sở, ngành liên quan xác định thống nhất nhận

thức về vai trò, nội dung của công tác kiểm tra, thanh tra; trên cơ sở đó thể

chế hoá công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của các khu công nghiệp bằng

quy chế kiểm tra, thanh tra.

Trong việc xây dựng quy chế kiểm tra, thanh tra hoạt động của các khi

công nghiệp cần lưu ý tốt một số vấn đề:

Quy chế nầy cần xác định đúng yêu cầu khách quan, trách nhiệm và

nghĩa vụ của các cơ quan quản lý, của các doanh nghiệp khu công nghiệp

trong công tác kiểm tra, thanh tra.

Làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của chủ thể thanh tra. Đó là hệ thống

thanh tra nhà nước, thanh tra chuyên ngành. Như vậy đối tượng thanh tra ở

đây là những vụ việc có dấu hiệu sai phạm phát sinh trong hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp (và cả hoạt động của Ban quản lý các KCN)

114

Làm rõ trách nhiệm, quyền hạn của cá nhân trực tiếp tham gia công tác

thanh tra, đồng thời quy định các chế tài đối với các đối tượng vi phạm quy

chế.

Chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ công tác thanh trra, từ

việc xây dựng quy chế, kế hoạch thanh tra và tổ chức thực hiện đều do cán bộ

viên chức đảm nhiệm công việc này quyết định. Cán bộ viên chức có trách

nhiệm cao, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, có trình độ nghiệp vụ c huyên

môn, nắm vững pháp luật, chính sách thì mới chắc chắn đảm bảo chất lượng

thanh tra. Và cũng chỉ có vậy mới xoá bỏ được những biểu hiện tiêu cực trong

hoạt động thanh tra, kiểm tra tại các KCN.

3.3. Kiến nghị với các cơ quan cấp trên

Hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư vào

các KCN là cần thiết trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Tham gia đầy đủ và mạnh mẽ vào thị trường thế giới bằng cách nâng cao hiệu

quả quản lý đối với các KCN góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH tạo

thêm việc làm và thu nhập cao cho người lao động, góp phần thúc đẩy ứng

dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, góp phần thực hiện mục tiêu

“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Quảng Ngãi là địa phương nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm miền

Trung. Đến nay, Quảng Ngãi đã có 05 KCN được Chính phủ phê duyệt, tuy

nhiên hiện nay mới chỉ có 03 Khu công nghiệp đi vào hoạt động. Quá trình

phát triển các KCN trên địa bàn đã được những kết quả bước đầu đáng trân

trọng, đó là đã tạo lập được một mạng lưới các KCN cơ bản được hình thành

theo định hướng phát triển của tỉnh, tạo sức hấp dẫn các nhà đầu tư trong

nước và nước ngoài, góp phần vào phần giải quyết việc làm và thu nhập cho

người lao động, tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, thúc đẩy xuất khẩu,

nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh. Diện mạo của các KCN

115

ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại, quy mô được mở rộng và đồng bộ,

đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh. Tuy nhiên bên cạnh những

thành tựu đã đạt được, những năm qua hoạt động quản lý các KCN ở Quảng

Ngãi vẫn còn đứng trước không ít hạn chế, trở ngại về công tác quy hoạch,

hiệu quả thu hút đầu tư còn thấp, vấn đề về đời sống của người lao động, xử

lý vấn đề môi trường sinh thái còn phức tạp.. ..trong quá trình phát triển các

KCN. Những tồn tại này là sự cần thiết phải hoàn thiện, nâng cao hiệu quả

quản lý nhà nước về đầu tư đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối

với các KCN, luận văn đi sâu vào phân tích đánh giá thực trạng công tác quản

lý nhà nước về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi từ khi hình thành đến nay,

chỉ ra những thành quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó. Dựa

vào những phân tích đó và căn cứ vào mục tiêu, định hướng phát triển các

KCN của tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020, luận văn đề xuất những quan điểm

và giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư

vào các KCN tỉnh Quảng Ngãi. Những giải pháp được đề xuất trong luận văn

tập trung vào các nội dung như: hoàn thiện quy hoạch KCN trên địa tỉnh;

nâng cao vai trò quản lý nhà nước của BQL KKT Dung Quất các KCN Quảng

Ngãi; đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư và thu hút đầu tư; Hoàn thiện

cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc phát triển KCN; hoàn thiện cơ sở hạ tầng đảm

bảo cho việc phát triển khu công nghiệp; đổi mới chính sách đào tạo nguồn

nhân lực đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong KCN; hoàn thiện công

tác thanh kiểm tra hoạt động của các KCN Quảng Ngãi. Để nâng cao hiệu quả

quản lý nhà nước về đầu tư vào các KCN Quảng Ngãi cần phải thực hiện

đồng bộ các giải pháp trên. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn phát triển có thể ưu

tiên sắp đặt những vấn đề cần tập trung giải quyết trước, sau theo tình hình

thực tế.

116

Qua nghiên cứu dưới góc độ quản lý, tác giả luận văn mạnh dạn đề

nghị tỉnh Quảng Ngãi, Ban Quản lý KKT Dung Quất và các KCN Quảng

Ngãi trong thời gian tới tập trung phát triển các KCN đã được Thủ tướng

chính phủ phê duyệt, tuân thủ nghiêm túc điều kiện, trình tự, thủ tục về đầu

tư, quy hoạch, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất, không phát triển KCN trên đất

trồng lúa có năng suất ổn định, hướng tới phát triển kinh tế xanh, tăng trưởng

bền vững...

Các nghiên cứu tiếp theo về vấn đề quản lý nhà nước về đầu tư vào các

KCN cần tập trung làm sâu sắc hơn các tiêu chí đánh giá công tác quản lý phù

hợp với các chuẩn mực của các tổ chức, các hiệp định quốc tế mà Việt Nam

gia nhập. Các giải pháp hoàn thiện quản lý cũng cần nhấn mạnh hơn nữa đến

tính liên ngành, liên vùng trong quản lý các KCN.

* Đối với cấp Trung ương, Chính phủ

Thứ nhất, Nghị định 164/2013/NĐ-CP vẫn duy trì cơ chế ủy quyền từ

các sở, ngành hoặc UBND cấp huyện mà không giao trực tiếp cho UBND cấp

tỉnh ủy quyền cho Ban Quản lý, điều này tiếp tục gây bất cập trong thực tế vì

các tỉnh, thành phố sẽ thực hiện không thống nhất; không giải quyết được vấn

đề chồng chéo trong quản lý, cũng như trách nhiệm chính về KCN, KKT dẫn

đến tình trạng quản lý lỏng lẻo, đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý

nhà nước.

Để giải quyết các vướng mắc, chồng chéo liên quan đến KCN, KKT,

cần nghiên cứu sớm ban hành Luật KKT, KCN, tạo khung pháp lý cao nhất,

phù hợp với đóng góp của hệ thống các KCN, KKT trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, duy trì Phòng Thanh tra đối với các Ban Quản lý được xếp

hạng 1 và bổ sung chức năng thanh tra cho Ban Quản lý KCN, KKT, tạo điều

117

kiện để Ban Quản lý chủ động trong việc xử lý các vi phạm của doanh nghiệp

trong KCN, KKT.

Thứ ba, tiếp tục tăng cường phân cấp, giao nhiệm vụ trực tiếp từ Trung

ương tới địa phương, gắn chặt với cơ chế phân công trách nhiệm và phối hợp

rõ ràng, minh bạch giữa các cơ quan Trung ương và địa phương. Kiện toàn bộ

máy quản lý nhà nước ở cấp Trung ương và địa phương đảm bảo đủ thẩm

quyền và nguồn lực để quản lý các KCN, KKT theo hướng một cửa, một đầu

mối và tương xứng với vai trò vị trí ngày càng quan trọng của các KCN, KKT

trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

118

KẾT LUẬN

Trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước, quốc tế và tỉnh Quảng Ngãi

trong những năm tới, từ cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng công tác quản lý

nhà nước về đầu tư vào các khu công nghiệp Quảng Ngãi trong những năm

qua, dựa theo định hướng phát triển công nghiệp gắn với quy hoạch phát triển

các Khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến

năm 2020, tầm nhìn 2030 và Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Quảng

Ngãi đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được phê duyệt, luận án đã đề

xuất 06 nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với

các KCN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi:

Thứ nhất là, hoàn thiện quy hoạch Khu công nghiệp trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi.

Thứ hai là, nâng cao vai trò quản lý nhà nước của Ban Quản lý Khu

kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng Ngãi

Thứ ba là, đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư và thu hút đầu

tư; Hoàn thiện cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc phát triển Khu công

nghiệp;

Thứ tư là, hoàn thiện cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc phát triển Khu

công nghiệp

Thứ năm là, đổi mới chính sách đào tạo và đãi ngộ nguồn nhân lực

đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp

Thứ sáu là, hoàn thiện công tác thanh kiểm tra hoạt động của các

Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Các giải pháp trên có vai trò, nội dung và biện pháp khác nhau nhưng

đều nhằm mục tiêu tăng cường tính hiệu quả, hiệu lực và sự phù hợp trong

119

công tác quản lý nhà nước đối với các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi.

120

[1]. Vũ Thành Tự Anh (2007), "Đánh thức tiềm lực vùng kinh tế trọng điểm

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

miền Trung", Diễn đàn phát triển kinh tế miền Trung.

[2]. Ban quản lý các KCN Quảng Ngãi (2014), "Báo cáo tình hình đầu tư phát

triển các KCN Quảng Ngãi giai đoạn 2010-2015 và kế hoạch phát triển

các KCN giai đoạn 2015-2020.

[3]. Ban quản lý các KCN Quảng Ngãi (2014), "Tổng hợp kết quả hoạt động

kinh doanh của các doanh nghiệp trong các KCN Quảng Ngãi”.

[4]. Bùi Quang Bình (2008), "Kinh tế vĩ mô", Nxb giáo dục.

[5]. Ngô Văn Điểm (2004), "Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế

của Việt Nam", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6]. Lê Thế Giới (Chủ biên) (2003), "Quản trị marketing", NXB Giáo dục, Hà

Nội.

[7]. Dương Phú Hiệp - TS. Nguyễn Duy Dũng (2002), "Điều chỉnh chính

sách kinh tế của Nhật Bản", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[8]. Lê Bộ Lĩnh (2002), Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội và

Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

[9]. Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014.

[10]. Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008, "qui định về KCN, KCX,

KKT". Chính phủ.

[11]. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) (2014), "Chỉ số

năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2014".

[12]. Vũ Thị Ngọc Phùng (2006), "Giáo trình Kinh tế phát triển", Trường Đại

học KTQD.

[13]. Tỉnh uỷ Quảng Ngãi (2010), "Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ

tỉnh lần thứ XVIII", Quảng Ngãi.

[14]. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2000), "Giáo trình chính sách kinh tế

xã hội", NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

[15]. Trần Xuân Tùng (2010), "Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam -

Thực trạng và giải pháp", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[16]. Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2004), "Chính sách phát

triển kinh tế - Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc", NXB Giao

thông vận tải, Hà Nội.

[17]. Các website,

- http://chinhphu.com

- http://www.quangngai.gov.vn/vi/bqlkcn

- http://nhipcaudautu.vn

- http://ipc.quangngai.gov.vn

- http://khucongnghiep.com.vn

- http://khukinhte.com.vn

- http://quangngai.gov.vn

- http://vi.wikipedia.org

- http://nif.mof.gonv/vn/