BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
------------------ PHẠM THỤC ANH QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DỰ ÁN BẤT ĐỘNG SẢN CÓ VỐN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI HÀ NỘI – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành
: Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HOÀNG ÁNH
HÀ NỘI - 2007
-1-
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với bất cứ quốc gia nào, phát triển kinh tế luôn đi cùng với sự phát
triển của các dự án bất động sản. Là một nước có nền kinh tế đang đổi mới, Việt
nam lại càng cần thiết phải chú ý vào việc phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó có
các dự án bất động sản để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển các
nguồn lực trong nước.
Trong hai thập kỷ gần đây, một trong những thay đổi mà bất cứ người dân
nào cũng có thể nhận thấy, đó là sự xuất hiện của những toà nhà văn phòng,
khách sạn, căn hộ, trung tâm thương mại… do nước ngoài đầu tư xây dựng và
quản lý. Những công trình này đã làm cho thành phố trở nên hiện đại hơn, ngày
càng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, khi Việt nam gia
nhập WTO, nhu cầu về văn phòng, khách sạn, nhà ở,… và các dịch vụ có liên
quan sẽ tăng lên rất nhanh chóng. Để có thể có thể trở thành một thủ đô ngang
tầm với các nước phát triển khác ở khu vực, Hà nội vẫn đang rất cần có thêm
nhiều dự án như vậy. Bên cạnh đó, làm thể nào để quản lý, vận hành và phát
triển có hiệu quả nhất các dự án, vừa đảm bảo mang lại lợi ích kinh tế, xã hội
cho Thành phố, vừa đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư luôn là thách thức đối
với các cơ quan chính quyền và các nhà đầu tư, kinh doanh và quản lý bất động
sản trong và ngoài nước.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc quản lý và phát triển các dự án bất
động sản có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà nội, tác giả quyết định chọn đề tài
“Quản lý và phát triển các dự án bất động sản có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà
nội: Thực trạng và Giải pháp” cho luận văn thạc sỹ của mình.
-2-
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới đã có rất nhiều các đề tài, sách giáo khoa, báo, tạp chí
và các diễn đàn về quản lý và phát triển bất động sản như “Kinh tế học đô thị và
thị trường bất động sản” của tác giả Denise DePasquale & William C. Wheaton;
“Xây dựng thị trường bất động sản ở các nền kinh tế chuyển đổi” của Gavin
Adlington và nhiều tác giả, “Các thể chế về đất đai và thị trường bất động sản”
của Klaus Deininger,... và các báo cáo của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng
Thế giới, Tổ chức Lương thực Thế giới,.... Tại Việt nam hiện nay cũng có nhiều
bài báo và một số công trình nghiên cứu về bất động sản, tiêu biểu như : “Đề án
phát triển thị trường bất động sản” (Đề án của Bộ Xây dựng tháng 2/2004);
“Chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và thị trường bất động sản”
(PGS. TS. Ngô Doãn Vịnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và TS. Lưu Đức Hải, Phụ trách ban nghiên cứu các ngành dịch
vụ, Viện Chiến lược và Phát triển); “Chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài
nước vào thị trường bất động sản”. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên
cứu sâu về các dự án bất động sản ở khía cạnh đầu tư nước ngoài và việc quản
lý, phát triển những dự án này. Vì vậy, đây sẽ là luận văn đầu tiên nghiên cứu
một cách hệ thống về việc quản lý và phát triển các dự án bất động sản có vốn
đầu tư nước ngoài. Trong đó, tác giả nghiên cứu vấn đề cơ sở lý luận về bất
động sản, tình hình đầu tư nước ngoài vào các dự án bất động sản ở Việt nam và
Hà nội. Tác giả cũng thu thập và tổng hợp những quan điểm, ý kiến của các cơ
quan quản lý nhà nước, các chủ đầu tư dự án bất động sản và các nhà quản lý bất
động sản đối với vấn đề này hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có những mục đích sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về bất động sản, thị trường bất động
sản, kinh doanh và quản lý bất động sản;
-3-
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý và phát triển các dự án bất động
sản có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam và Hà nội;
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường việc quản lý và phát triển các dự
án bất động sản có vốn đầu tư nước ngoài tốt hơn, để Hà nội ngày càng phát
triển trở thành một thủ đô có tầm cỡ sánh ngang các nước trong khu vực và trên
thế giới trong bối cảnh Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nói trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về bất động sản, thị trường bất
động sản và quản lý kinh doanh bất động sản.
- Đánh giá chung về thực trạng quản lý và phát triển các dự án bất động sản
có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam và Hà nội,
- Đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý và phát triển các dự án này tốt
hơn.
-
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Các lý luận chung về bất động sản, quản lý và kinh doanh bất động sản.
+ Tình hình quản lý và phát triển các dự án bất động sản có vốn đầu tư nước
ngoài hiện nay và việc quản lý, kinh doanh và phát triển bất động sản của các
nhà đầu tư và các công ty bất động sản.
- Phạm vi nghiên cứu: Do khuôn khổ luận văn và thời gian có hạn, đề tài
chỉ nghiên cứu một số lý luận chung về bất động sản, thị trường bất động sản và
quản lý bất động sản, phân tích thực trạng hoạt động quản lý và phát triển các dự
án bất động sản có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, vì khái niệm bất động sản
-4-
rất rộng lớn và số lượng các dự án bất động sản ở Việt nam rất nhiều nên trong
phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ giới hạn tập trung vào nghiên cứu sự quản
lý và phát triển của các dự án bất động sản với ý nghĩa là những công trình xây
dựng vốn đầu tư nước ngoài đưa vào kinh doanh văn phòng, căn hộ, khách sạn
và trung tâm thương mại tại Hà nội.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mac- Lênin
về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn áp dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như nghiên cứu tại địa bàn, phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, diễn giải, quy nạp
và phỏng vấn một số người có trách nhiệm trong các cơ quan quản lý nhà nước
và các công ty kinh doanh và quản lý bất động sản.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có 3 chương
Chương 1: Tổng quan về bất động sản và quản lý bất động sản
Chương 2: Tình hình quản lý và phát triển các dự án bất động sản có vốn đầu tư
nước ngoài tại Hà nội
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện việc quản lý và phát triển các dự án
bất động sản có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà nội
Do còn hạn chế về thời gian, nguồn tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm của bản
thân, nội dung của luận văn sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác
giả mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô
giáo, các độc giả và những người quan tâm đến luận văn này. Xin trân trọng
cảm ơn.
-5-
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ BẤT ĐỘNG SẢN
VÀ QUẢN LÝ BẤT ĐỘNG SẢN
1.1. Các khái niệm
1.1.1 Khái niệm bất động sản và phân loại bất động sản
1.1.1.1 Khái niệm bất động sản
Bất động sản (BĐS) là một khái niệm được dùng phổ biến ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Trong tiếng Anh, người ta thường sử dụng từ real estate (hoặc
real property, realty) để nói về BĐS:
“Về mặt luật pháp, đó là khái niệm chỉ đất và hầu hết những thứ gắn với
nó với quyền sở hữu từ dưới lòng đất lên đến không gian. Về mặt kinh tế, đó là
khái niệm chỉ các tài sản dưới dạng đất đai hoặc công trình xây dựng và các
hoạt động liên quan đến quyền sở hữu, sử dụng và chuyển nhượng các tài sản
này” [25].
Theo cách định nghĩa như trên, BĐS không chỉ là đất đai, của cải trong
lòng đất mà còn là tất cả những gì được tạo ra do sức lao động của con người
gắn liền với các công trình xây dựng, mùa màng, cây trồng... và tất cả những gì
liên quan hay gắn liền đến đất đai theo không gian ba chiều (chiều cao, chiều
sâu, chiều rộng) để tạo thành một dạng vật chất có cấu trúc và công năng được
xác định và bao gồm cả những quyền sở hữu, sử dụng và chuyển nhượng kèm
theo đó.
Ở Việt Nam, trước khi ban hành Bộ luật Dân sự năm 1995, trong hệ thống
pháp luật cũng như trong quản lý và hoạt động kinh tế, chúng ta rất ít khi sử
-6-
dụng các thuật ngữ bất động sản và động sản. Trong pháp luật kinh tế trước đây
thường sử dụng thuật ngữ tài sản cố định, tài sản lưu động và xác định nội hàm
của chúng. Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005 đã phân chia tài sản theo thông
lệ và tập quán quốc tế thành bất động sản và động sản. Trong đó, điều 174 quy
định:
“Bất động sản là các tài sản không di dời được bao gồm đất đai, nhà ở,
các công trình xây dựng gắn liền với đất đai kể cả các tài sản gắn liền với nhà
ở, công trình xây dựng ở đó, các tài sản khác gắn liền với đất đai và các tài sản
khác do pháp luật quy định. Động sản là những tài sản không phải bất động
sản”. [6]
Trong khái niệm trên yếu tổ không thể di dời được coi là tiêu thức đầu
tiên trong việc xác định BĐS. Ngoài ra, khái niệm này còn liệt kê thứ tự các yếu
tố không thể di dời được như nhà xây trên đất, vật xây dựng khác gắn liền với
nhà và các tài sản cố định khác do pháp luật qui định bởi vì trong BĐS còn chứa
các tài sản cố định. Như vậy, không kể các tài sản cố định theo cách thống kê kế
toán (tàu thuỷ, máy bay, ô tô, máy móc, thiết bị...) là vật có thể di dời được song
không phải là BĐS, BĐS chỉ bao gồm các tài sản cố định gắn với đất và nhà mà
thôi. Khái niệm của Bộ Luật Dân sự Việt Nam đưa ra nhìn nhận BĐS một cách
bao quát nhất, phổ biến nhất là đất và vật kiến trúc trên đất. Khái niệm này sẽ
được tác giả sử dụng xuyên suốt đề tài nghiên cứu.
1.1.1.2 Phân loại bất động sản
Theo khái niệm đã nêu trên thì BĐS có rất nhiều loại. Tuỳ theo mục đích
nghiên cứu và tiếp cận khái niệm BĐS, có nhiều cách phân loại BĐS.
Về mặt quản lý xây dựng và phát triển BĐS, có thể chia BĐS thành ba
nhóm:
+ BĐS có đầu tư xây dựng: Gồm BĐS nhà ở, nhà xưởng, công trình
thương mại dịch vụ, BĐS hạ tầng (hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội), BĐS là trụ
-7-
sở làm việc,... Trong nhóm này, BĐS nhà đất (gồm đất đai và các tài sản gắn
liền với đất đai) là nhóm BĐS cơ bản., tính chất phức tạp rất cao và chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Nhóm này cũng tác động lớn
đến quá trình phát triển của nền kinh tế và phát triển đô thị bền vững. Nhóm này
chiếm tuyệt đại đa số các giao dịch trên thị trường BĐS ở tất cả các nước trên
thế giới.
+ BĐS không đầu tư xây dựng: BĐS ở nhóm này chủ yếu là đất nông
nghiệp (dưới dạng tư liệu sản xuất) bao gồm đất nông nghiệp, đất rừng, đất nuôi
trồng thuỷ sản, đất làm muối, đất hiếm...
+ BĐS đặc biệt: Là những BĐS như các công trình bảo tồn quốc gia, di
sản văn hoá vật thể, nhà thờ họ, đền chùa, nghĩa trang,... Nhóm này có đặc điểm
là khả năng tham gia thị trường rất thấp.
Về mặt kinh tế, nhiều luật gia và nhà kinh tế trên thế giới đã phân chia
bất động sản thành 5 loại chủ yếu theo từng lĩnh vực:
+ Nhà ở là loại bất động sản được sử dụng làm nơi cư ngụ cho các gia
đình, cá nhân
+ Bất động sản công nghiệp gồm nhà làm việc của các doanh nghiệp,
xưởng máy, nhà kho, các nhà máy điện, nhà máy nước...
+ Bất động sản nông nghiệp bao gồm các đồn điền, trang trại, vườn cây
lâu năm, rừng khai thác gỗ, trại chăn nuôi, đất canh tác rau quả, các trại nuôi
trồng thuỷ sản,...
+ Bất động sản thương mại bao gồm các toàn nhà văn phòng, trung tâm
thương mại, căn hộ cho thuê, khách sạn, nhà hàng, các bãi đỗ xe, các tiện nghi
công ích, khu vui chơi, thể thao,...
+ Bất động sản sử dụng cho mục đích chuyên biệt bao gồm giảng đường,
trường học, bất động sản thuộc nhà nước quản lý và sử dụng,...
-8-
Dù phân loại theo cách nào, cũng có thể thấy một cách hiểu phổ biến về
BĐS là: BĐS là những tài sản vật chất không thể di dời, tồn tại và ổn định lâu
năm. Như vậy, tài sản có thể coi là BĐS khi có các điều kiện sau:
- Là một yếu tố vật chất có ích cho con người;
- Được sở hữu (chiếm giữ) bởi cá nhân hay cộng đồng người;
- Có thể đo lường được bằng giá trị nhất định;
- Không thể di dời hoặc di dời hạn chế để tính chất, công năng, hình thái
của nó không thay đổi;
- Tồn tại lâu dài.
1.1.1.3 Đặc điểm của bất động sản
Bất động sản có những đặc điểm khác biệt so với những hàng hoá khác,
nhưng đặc điểm nổi bật nhất của BĐS là BĐS có tính cố định và giá trị của nó
phụ thuộc nhiều vào mục đích sử dụng.
+ Tính cố định: là đặc trưng khác biệt của BĐS so với các loại hàng hoá
khác. Đặc tính này đòi hỏi phải có phương thức giao dịch và quản lý hoạt động
giao dịch khác với các thị trường hàng hoá khác. Với các hàng hoá khác, người
bán và người mua có thể di chuyển hàng hoá tuỳ ý nhưng điều này hầu như
không thể thực hiện đối với BĐS.. Hàng hoá BĐS không thể đem đi trưng bày ở
nơi khác mà thường phải được giới thiệu thông qua hình ảnh, bản vẽ hoặc các
tài liệu, hình thức mô tả khác. Vì đặc điểm này mà việc quản lý BĐS có thể
được thực hiện dễ dàng hơn cho dù có thay đổi nhiều chủ sở hữu. Pháp luật qui
định việc giao dịch BĐS thông qua các chứng từ, chứng thư về quyền sử dụng
và phải được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền nhằm mục đích quản lý chặt
chẽ BĐS và bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu. Tính cố định còn làm cho hàng
hoá BĐS mang tính địa điểm và tính địa phương rất cao. Cùng một loại BĐS
nhưng ở những địa điểm khác nhau thì có những giá trị rất khác nhau. Ví dụ,
cùng loại BĐS giống nhau nhưng ở vị trí trung tâm thành phố thì giá trị khác với
-9-
ngoại ô, ở đô thị lớn thì khác với các thị trấn nhỏ hoặc tỉnh lẻ ... Tính cố định
này đã đặt ra vấn đề phải có sự điều tiết thị trường BĐS khác so với các thị
trường hàng hoá thông thường, thông qua dự báo và kế hoạch tạo lập chủ động
của chính quyền địa phương để điều tiết cung cầu.
+ Giá trị BĐS: BĐS thường được coi là các tài sản có giá trị lớn và có thể
gia tăng giá trị (thông qua đầu tư, kinh doanh…). Do đó, BĐS trở thành đối
tượng để đầu tư hoặc đơn giản là để bảo toàn giá trị đồng tiền tích luỹ và cũng là
đối tượng thu hút đầu cơ. Giá trị BĐS đất đai có đặc thù rất khác biệt so với các
BĐS khác. Giá trị của BĐS đất đai phụ thuộc vào mục đích sử dụng chúng, hay
nói cách khác, là phụ thuộc vào sự tác động của yếu tố con người làm tăng khả
năng sinh lời của BĐS. Ví dụ, khi đất đai được quy hoạch vào sản xuất nông
nghiệp hoặc lâm nghiệp thường có giá trị thấp hơn so với trường hợp đất đai đó
được quy hoạch phát triển nhà ở hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại,... Nói
một cách khác, công tác quy hoạch có vai trò ảnh hưởng quyết định đối với giá
trị BĐS nói chung và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nói riêng.
+ Tính hữu hạn: Bất động sản đất đai là loại tài sản bị hạn chế về mặt gia
tăng về số lượng. Bản thân đất không tự sinh sôi thêm được mà chỉ có thể có các
công trình được xây trên đất. Quỹ đất là có giới hạn và do đó, việc xây dựng
cũng không thể là vô hạn. Đặc điểm này sẽ làm cho có lúc đất đai trở nên khan
hiếm cho một mục đích đầu tư nào đó và giá đất sẽ bị biến động theo. Vì vậy,
đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải có sự nghiên cứu rất kỹ trước khi
đưa ra một bản quy hoạch phát triển cho một vùng, một khu vực nào đó để tránh
đầu tư lãng phí, kém hiệu quả.
1.1.1.4 Điều kiện để BĐS trở thành hàng hoá
Theo định nghĩa của kinh tế học cổ điển, để của cải nói chung trở thành
hàng hoá thì xã hội phải có sự phần công lao động đến một mức độ nhất định,
-10-
đồng thời phải có sự cách biệt tương đối giữa các chủ thể sản xuất. Đối với
những hàng hoá đặc biệt thì phải có những điều kiện đặc biệt.
Đất là tài nguyên khi nó thuần tuý là sản vật của tự nhiên, do thiên nhiên
mang đến cho con người. Đất có khả năng sinh lời nhưng sẽ không sinh lời nếu
không có bàn tay lao động của con người.
Đất sẽ trở thành hàng hoá và là một hàng hoá đặc biệt nếu nó hội tụ các
điều kiện sau:
+ Đất phải là sản phẩm của lao động do con người bỏ công sức khai phá,
giữ gìn.
+ Đất phải có quyền sở hữu, quyền sử dụng tách biệt một cách rõ ràng và
được pháp luật thừa nhận mới đem trao đổi, giao dịch được như đem cho thuê,
đem chuyển nhượng, thế chấp,...
Để đất trở thành hàng hoá, có ba điều cần chú ý sau:
+ Hàng hoá theo đúng nghĩa thì cần phải là vật có ích, và tính có ích phải
do con người tạo ra chứ không phải do thiên nhiên trao tặng và nó phải có ích
cho người khác, cho xã hội chứ không phải cho bản thân người làm ra nó. Như
vậy, đất mới có giá trị trao đổi.
+ Bản thân đất rất quý nhưng chính quyền sở hữu và sử dụng nó mới có
giá trị trao đổi. Có các cấp độ khác nhau về quyền sở hữu, có thể là quyền sở
hữu tuyệt đối hoặc quyền thuê đất trong một thời gian nhất định theo một hợp
đồng thuê đất với nhà nước hoặc người sở hữu đất. Tài sản cố định trên đất cũng
có quyền sở hữu và sử dụng và có giá trị trao đổi.
+ Ở Việt nam và một số nước trên thế giới hiện nay vẫn có sự tách rời
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất. Trong đó, đất thuộc sở hữu toàn dân
mà nhà nước là người đại diện, chỉ có quyền sử dụng đất mới là hàng hoá. Điều
này cũng được quy định rõ trong Luật Đất đai của Việt Nam: “Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” [8]. Luật Đất đai cũng đồng
-11-
thời quy định các loại đất được tham gia thị trường BĐS cũng như các điều kiện
để đất tham gia thị trường BĐS.
1.1.2. Kinh doanh bất động sản và kinh doanh dịch vụ bất động sản
Trong kinh tế học, khái niệm kinh doanh có thể được hiểu như sau: “Kinh
doanh là một khoa học xã hội trong việc quản lý con người để tổ chức và duy trì
năng suất tập thể để hoàn thành các mục đích sản xuất và sáng tạo, thông
thường nhằm mục đích thu được lợi nhuận” [20]. Một cách diễn giải khái niệm
này là kinh doanh là các hoạt động của con người nhằm mục đích thu được lợi
nhuận. Luật Doanh nghiệp của Việt nam cũng đưa ra khái niệm: “Kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi” [7]. Kinh doanh bất động sản theo đó có nghĩa là các
hoạt động của con người liên quan đến BĐS nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận. Vì
bất động sản là một loại hàng hóa đặc biệt nên việc kinh doanh bất động sản
cũng có những điểm khác với kinh doanh những loại hàng hoá khác. Theo Luật
Kinh doanh BĐS Việt Nam thì: “Hoạt động kinh doanh bất động sản bao gồm
kinh doanh bất động sản và kinh doanh dịch vụ bất động sản” [12]. Như vậy,
trong lĩnh vực bất động sản, có hai khái niệm tách rời là kinh doanh bất động
sản và kinh doanh dịch vụ bất động sản.
Cũng theo định nghĩa của Luật Kinh doanh BĐS Việt Nam thì “Kinh
doanh bất động sản là việc bỏ vốn đầu tư tạo lập, mua, nhận chuyển nhượng,
thuê, thuê mua BĐS để bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê
mua nhằm mục đích sinh lợi” [13]. Các đối tượng thực hiện hoạt động này là các
nhà đầu tư phát triển BĐS, các quỹ phát triển BĐS, các nhà đầu cơ BĐS, các đối
tác góp vốn trong dự án dưới các hình thức như tiền, đất, công nghệ,...
Trong khi đó “Kinh doanh dịch vụ BĐS là các hoạt động hỗ trợ kinh
doanh BĐS và thị trường BĐS, bao gồm các dịch vụ môi giới BĐS, định giá
-12-
BĐS, sàn giao dịch BĐS, tư vấn BĐS, đấu giá BĐS, quảng cáo BĐS, quản lý
BĐS”[14]. Tham gia vào hoạt động này có các công ty tư vấn đầu tư, các công
ty môi giới BĐS, các công ty quản lý BĐS, các đại lý marketing, các công ty
kiểm toán, đấu giá, công ty chứng khoán,...
Tuy là những khái niệm tách rời nhau nhưng hoạt động kinh doanh BĐS
và kinh doanh dịch vụ BĐS luôn luôn đi gắn liền nhau và có tác động qua lại và
ảnh hưởng tới nhau trong việc phát triển BĐS. Việc kinh doanh BĐS không thể
thành công được nếu như không có sự tồn tại của hoạt động kinh doanh dịch vụ
BĐS. Cũng như vậy, nếu không có hoạt động kinh doanh BĐS thì kinh doanh
dịch vụ BĐS cũng không tồn tại. Ví dụ, khi tìm đất đầu tư và xây dựng thì chủ
đầu tư (người kinh doanh BĐS) luôn phải có sự giúp đỡ của công ty tư vấn, môi
giới (người kinh doanh dịch vụ BĐS), ngược lại, phải có nhu cầu của các các
nhà đầu tư BĐS thì các công ty tư vấn, môi giới và quản lý mới phát triển đựơc
công việc kinh doanh của họ. Khi có càng nhiều dự án kinh doanh BĐS ra đời
thì sẽ có càng nhiều người tham gia kinh doanh dịch vụ BĐS.
1.1.3. Thị trường bất động sản
1.1.3.1 Khái niệm thị trường bất động sản
Thị trường là một khái niệm thường xuyên được nhắc tới trong kinh
doanh. Một trong những khái niệm chung nhất về thị trường là: “Thị trường là
một sự sắp đặt xã hội cho phép những người mua và người bán tìm hiểu thông
tin và thực hiện việc trao đổi tự nguyện các hàng hóa và dịch vụ” [24]. Hiện nay
cũng chưa có một khái niệm chính tắc nào được đưa ra cho thị trường BĐS. Tuy
nhiên, do những đặc điểm riêng của hàng hoá BĐS, từ khái niệm tổng quát có
thể có các cách hiểu về thị trường BĐS như sau:
+ Thị trường BĐS là thị trường của hoạt động mua bán, trao đổi, cho
thuê, thế chấp, chuyển nhượng quyền sử dụng BĐS theo các quy luật của thị
trường và sự quản lý của nhà nước.
-13-
+ Thị trường BĐS là tổng hoà các giao dịch về BĐS tại một địa bàn nhất
định, trong một thời gian nhất định.
+ Thị trường BĐS là tổ chức các quyền có liên quan đến BĐS sao cho
chúng có thể trao đổi lấy giá trị giữa các cá nhân hoặc các chủ thể tham gia thị
trường. Các quyền này độc lập với các đặc tính vật chất của BĐS. Khái niệm
này nghiêng về thị trường BĐS như một mô hình, tổ chức để các quyền liên
quan đến đất được thực hiện một cách độc lập.
Tuy nhiên, các cách hiểu trên đều có một điểm chung khái quát về thị
trường BĐS, đó là tổng hoà các quan hệ giao dịch về BĐS được thực hiện thông
qua các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Cụ thể hơn, đó là tổng hoà các quan hệ trao
đổi hàng hoá BĐS (các quan hệ giao dịch giữa người mua và người bán, giữa
cung và cầu về BĐS) và thực hiện các quan hệ chuyển dịch về giá trị BĐS. Như
vậy, sự ra đời và phát triển của thị trường BĐS gắn liền với quá trình đất đai
chuyển thành hàng hoá do tất yếu của nhu cầu sử dụng đất và sự phát triển của
các hoạt động kinh tế xã hội. Trên thực tế, nội dung cơ bản của thị trường BĐS
và cũng là cách quan niệm phổ biến hiện nay về thị trường BĐS theo nghĩa hẹp,
đó là thị trường nhà đất vì trong thị trường BĐS, thị trường nhà đất được hình
thành rõ rệt nhất và vận hành sôi động nhất. Thị trường nhà đất được hiểu là nơi
diễn ra các hành vi mua và bán hàng hoá quyền sử dụng đất đai, công trình xây
dựng cũng như dịch vụ gắn liền với hàng hoá đó. Quá trình trao đổi quyền sử
dụng đất luôn vận động và phát triển làm cho các phương thức giao dịch, trao
đổi cũng diễn ra nhiều dạng khác nhau.
Bất động sản khác với các hàng hoá khác ở chỗ nó không chỉ được mua
bán, mà còn là đối tượng của nhiều giao dịch khác như cho thuê, thế chấp,
chuyển dịch quyền sử dụng. Kinh doanh BĐS chính là các hoạt động của các cá
nhân hoặc tổ chức trên thị trường bất động sản nhằm mục đích sinh lời. Các hoạt
động này có thể là đầu tư, cho thuê, quản lý, chuyển nhượng BĐS,… và các
dịch vụ kèm theo như môi giới, tư vấn, đánh giá bất động sản,… Do đó, thị
-14-
trường BĐS hoàn chỉnh không thể chỉ là quan hệ giữa người mua và người bán
về BĐS mà còn là nơi diễn ra các giao dịch liên quan đến BĐS như cho thuê, thế
chấp, bảo hiểm hay chuyển dịch quyền sử dụng bất động sản… và các giao dịch
trên thị trường BĐS cũng chịu tác động bởi các quy luật như quy luật giá trị, quy
luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,... như trên các thị trường hàng hoá khác.
1.1.3.2 Các yếu tố cấu thành thị trường bất động sản
Dưới góc độ kinh tế thương mại, thị trường BĐS được nhìn nhận trên cơ
sở tổng thể các yếu tố cấu thành của thị trường này, bao gồm:
+ Hàng hoá BĐS: đất đai, công trình trên đất, ...
+ Các lực lượng tham gia thị trường BĐS: Người mua, người bán, nhà
đầu tư, nhà quản lý, người trung gian, người thuê và cho thuê BĐS,...
+ Cơ sở vật chất hạ tầng của thị trường BĐS: Nơi diễn ra các hoạt động
trao đổi, các phương tiện hỗ trợ cho việc trao đổi, mua bán, giao dịch, phương
tiện thông tin, cơ sở pháp lý,...
+ Cơ chế vận hành của thị trường: Sự quản lý của nhà nước và sự điều tiết
của các quy luật trên thị trường
Như vậy, phát triển thị trường BĐS chính là thúc đẩy sự phát triển của
các yếu tố nêu trên, mà cụ thể là:
+ Mở rộng quy mô và tốc độ trao đổi, mua bán, nâng cao chất lượng và
giá trị sử dụng của hàng hoá BĐS.
+ Phát triển năng lực các lực lượng tham gia thị trường, tạo điều kiện bình
đẳng và công bằng cho mọi lực lượng tham gia thị trường thuận lợi theo đúng
quy định của pháp luật.
+ Có cơ chế đảm bảo thị trường vận hành theo các quy luật của thị
trường.
+ Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin, sàn giao dịch trao đổi
BĐS,...
-15-
+ Phát triển các phương thức và công cụ điều tiết của nhà nước nhằm đảm
bảo tính định hướng và sự ổn định của thị trường.
1.1.3.3 Đặc điểm của thị trường bất động sản
+ Những đặc điểm giống với thị trường các hàng hoá khác:
- Thị trường BĐS cũng phải chịu tác động của các qui luật thị trường như
các thị trường hàng hoá khác như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, qui
luật cạnh tranh,…và chịu ảnh hưởng của các nhân tố như cung, cầu về
BĐS, số lượng các giao dịch về BĐS, giá cả, cạnh tranh, các chính sách
của nhà nước và chính quyền địa phương ...
- Quyền sở hữu và quyền sử dụng BĐS được pháp luật bảo vệ. Việc giao
dịch và kinh doanh BĐS luôn yêu cầu sự minh bạch, công khai.
+ Những đặc điểm riêng của thị trường BĐS:
- Phương thức chuyển nhượng đặc biệt: Do BĐS không phải là hàng hoá
thông thường, quyền sở hữu và quyền sử dụng BĐS bị tách rời nhau nên
khi mua bán, chuyển nhượng hàng hoá BĐS, phải có cơ chế để quyền sở
hữu được thực hiện về mặt kinh tế. Việc mua bán, chuyển nhượng BĐS
luôn kèm theo hợp đồng, chứng thư.
- Chi phí chuyển nhượng đặc biệt: Việc mua bán chuyển nhượng BĐS luôn
có các chi phí giao dịch BĐS như thuế trước bạ, phí quản lý, thuế giá trị
gia tăng, thuế chuyển nhượng, phí công chứng, phí luật sư, phí hoa hồng
cho môi giới, thông tin, ... Theo thông lệ thì tổng phí giao dịch BĐS hợp
lý chiếm khoảng từ 6% đến 8% giá mua bán, chuyển nhượng BĐS. Việc
định giá khung tổng hợp các chi phí giao dịch, dịch vụ và thuế là do các
cơ quan chức năng của nhà nước thực hiện. Thuế sử dụng đất là thuế trả
hàng năm tính theo hoa lợi thu trên đất. Nhìn chung thì thuế sử dụng đất
không ảnh hưởng nhiều đến thị trường BĐS nhưng trong việc định giá
BĐS, thuế sử dụng đất cũng được xem là một yếu tố giúp định giá BĐS
chính xác hơn.
-16-
- Thị trường BĐS có liên quan mật thiết đến thị trường tín dụng BĐS. Bởi
vì muốn thị trường BĐS hình thành và phát triển thì phải có cơ chế tín
dụng BĐS như tín dụng cho người mua, tín dụng thế chấp, các khoản vay
đầu tư dài hạn... Ở các nước có thị trường BĐS phát triển thì lượng tín
dụng BĐS lại càng cao và có xu hướng hình thành những ngân hàng
chuyên nghiệp về tín dụng BĐS trong nền kinh tế.
1.1.4. Quản lý thị trường bất động sản và quản lý bất động sản
Một trong những khái niệm khái quát nhất về quản lý là: “Quản lý là quá
trình lãnh đạo và hướng dẫn toàn bộ hoặc một phần của một tổ chức, thường là
một doanh nghiệp, thông qua việc triển khai và điều khiển các nguồn lực (con
người, tài chính, nguyên vật liệu, tri thức hoặc tài sản vô hình)”[25]. Trong lĩnh
vực BĐS, quản lý là quá trình thực hiện và phối hợp các chức năng hoạch định,
tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát các hoạt động trong thị trường BĐS trong sự tác
động của hệ thống quản lý đến hệ thống bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu
thông qua việc sử dụng các công cụ và chính sách quản lý. Có thể chia hoạt
động quản lý thành hai cấp độ:
1.1.4.1 Quản lý thị trường bất động sản
Vai trò quản lý thị trường bất động sản là thuộc trách nhiệm của nhà
nước. Quản lý của nhà nước đối với thị trường BĐS là một quá trình thực hiện
và phối hợp bốn loại chức năng: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát đối
với các giao dịch trên thị trường BĐS nhằm thúc đẩy sự phát triển tích cực của
thị trường này. Đối với thị trường BĐS, quản lý nhà nước có những vai trò sau:
+ Định hướng: Nhà nước định hướng và hướng dẫn các doanh nghiệp
trong các hoạt động đầu tư và kinh doanh trên thị trường BĐS nhằm khai thác
mọi tiềm năng phát triển thị trường thông qua các chiến lược, quy hoạch, các
chương trình mục tiêu, các kế hoạch, chính sách và các quy định pháp luật.
-17-
+ Tạo lập môi trường kinh doanh: nhà nước tạo lập và cải thiện môi
trường kinh doanh cho các doanh nghiệp thông qua việc khai thông các quan hệ
thương mại trên thị trường BĐS và ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ như
ban hành Luật đầu tư, luật kinh doanh bất động sản, luật thuế,... Nhà nước cũng
thông qua các quan hệ đối ngoại của mình để thu hút đầu tư, huy động vốn cho
việc phát triển thị trường BĐS.
+ Hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực BĐS: Trong quá
trình quản lý kinh tế và thương mại, nhà nước luôn sử dụng quyền lực và khả
năng của mình để hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua các chính sách xây dựng,
tín dụng, lãi suất, tỷ giá, các loại quỹ đầu tư,... và các công ty tư vấn pháp luật
cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước cũng quan tâm phát triển những lĩnh
vực khác nhằm hỗ trợ cho các hoạt động của thị trường bất động sản như thông
tin, xúc tiến thương mại, ...
+ Giải quyết các mâu thuẫn trên thị trường: Nhà nước chính là chỗ dựa
cho doanh nghiệp trong việc giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong giao
dịch trên thị trường như mâu thuẫn giữa các chủ thể kinh doanh với nhau, mâu
thuẫn trong việc thực hiện các quy định về thuế, thủ tục hành chính pháp luật, ...
thông qua hệ thống luật pháp, các quy định, chuẩn mực và bộ máy tổ chức của
mình nhằm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế, xã hội trong lĩnh vực BĐS và tạo
động lực phát triển kinh tế. Thị trường và doanh nghiệp không thể tự mình giải
quyết những mâu thuẫn này.
+ Điều tiết thị trường bất động sản: Thị trường điều tiết cung cầu và giá
cả theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Nhưng nhà nước đóng vai trò chủ đạo
trong nhận thức và chủ động sử dụng các biện pháp công cụ để can thiệp thị
trường nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó. Nhà nước
không trực tiếp tham gia vào các nghiệp vụ kinh doanh BĐS mà chỉ tạo môi
trường thuận lợi giúp các chủ thể kinh doanh pháp huy lợi thế so sánh, khai thác
nội lực và nâng cao hiệu quả hoạt động.
-18-
1.1.4.2. Quản lý bất động sản
Bên cạnh việc quản lý của nhà nước đối với thị trường bất động sản còn
có hoạt động quản lý BĐS của các chủ đầu tư của dự án BĐS hoặc các công ty
đứng ra quản lý BĐS thay mặt cho chủ đầu tư một dự án. Ở Việt Nam , nói đến
quản lý BĐS, trước đây người ta chỉ nghĩ tới việc quản lý của nhà nước bằng
các chính sách, biện pháp áp dụng đối với bất động sản và việc kinh doanh BĐS
(mà chủ yếu là đất đai). Tuy nhiên, sau khi thực hiện chính sách mở cửa, thu hút
đầu tư của nước ngoài vào thị trường bất động sản, khái niệm quản lý BĐS (real
estate management/ property management) ngày càng trở nên phổ biến đối với
các nhà đầu tư BĐS. Khi nhiều dự án bất động sản thương mại được xây dựng
và đưa vào hoạt động thì nảy sinh nhu cầu quản lý vận hành những BĐS này, vì
phần lớn chúng được đem vào bán hoặc cho thuê. Do đó, trên thị trường BĐS,
cùng với việc tăng lên của số lượng các nhà đầu tư và các dự án BĐS, các tập
đoàn, công ty quản lý và tiếp thị BĐS cũng ra đời và ngày càng mở rộng hoạt
động của mình.
Trên thế giới, quản lý BĐS được hiểu là:
“Việc quản lý đất đai và các công trình xây dựng gắn liền với nó bằng một
loạt các chức năng liên quan đến đất đai và các công trình xây dựng đó, bao
gồm thu tiền thuê nhà/đất, thanh toán các chi phí, sửa chữa, bảo dưỡng công
trình, cung cấp các dịch vụ kèm theo, bảo hiểm, giám sát công việc của các
nhân viên, đàm phán với các khách hàng (thuê hoặc mua) hiện tại và khách
hàng tiềm năng...” [27].
Luật Kinh doanh BĐS của Việt Nam cũng đưa ra khái niệm dịch vụ quản
lý BĐS là: “Hoạt động của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ bất động sản
được chủ sở hữu hoặc chủ sử dụng BĐS uỷ quyền thực hiện thực hiện việc bảo
quản, giữ gìn, trông coi, vận hành và khai thác bất động sản theo hợp đồng
quản lý bất động sản” [15]. Như vậy, về cơ bản, quan điểm của nhà nước Việt
Nam về quản lý BĐS cũng gần với những khái niệm được đưa ra trên thế giới.
-19-
Phạm vi công việc và trách nhiệm quản lý giữa chủ sở hữu (chủ đầu tư)
BĐS và khách thuê (khách hàng) phụ thuộc vào các điều khoản và điều kiện
thuê BĐS. Chủ đầu tư có thể tự thực hiện các công việc này hoặc giao lại một số
hoặc toàn bộ các hạng mục đó cho một hoặc một số công ty hoặc đại lý BĐS
thực hiện. Toàn bộ những thoả thuận của chủ đầu tư và công ty quản lý sẽ được
thể hiện trong hợp đồng quản lý được ký kết giữa hai bên. Trong đó sẽ có các
quy định về quyền hạn và trách nhiệm của các bên, bao gồm cả việc thanh toán
các chi phí Quản lý hoặc phân chia doanh thu, lợi nhuận hoặc lỗ từ việc kinh
doanh.
Về bản chất, quản lý BĐS cũng là một loại dịch vụ trong kinh doanh BĐS.
Dịch vụ này được cung cấp bởi những công ty chuyên nghiệp và đang ngày
càng chứng tỏ ưu thế của mình trong việc kinh doanh các dự án BĐS có vốn đầu
tư lớn, nhất là khi nó được cung cấp từ các công ty đã xây dựng được thương
hiệu hoặc uy tín cho mình.
1.2. Vai trò của việc quản lý và phát triển BĐS trong nền kinh tế quốc dân
1.2.1. Làm tăng giá trị đất đai và thúc đẩy sản xuất phát triển
Trong sự phát triển các dự án BĐS, đặc biệt là BĐS thương mại, có thể dễ
dàng nhận thấy là số lượng các công trình xây dựng ngày càng tăng lên. Điều
này làm phong phú thêm các hình thức của tài sản BĐS và làm tăng thêm giá trị
của đất nơi có công trình xây dựng đó. Đồng thời, việc phát triển các dự án BĐS
sẽ kéo theo nhu cầu về một loạt nhu cầu về vật tư, vật liệu xây dựng, máy móc,
trang thiết bị, công nghệ xây dựng, thông tin... Khi phát triển các dự án BĐS thì
các ngành sản xuất cung cấp những hạng mục này cũng phát triển theo, từ
những hạng mục như sản xuất sắt thép, xi măng, gạch ốp lát, sơn,... đến máy
móc thiết bị như máy phát điện, điều hoà, bơm nước,... và các hàng hoá tiêu
dùng như đồ nội thất, đồ nhà bếp,.... Nếu việc quản lý BĐS tốt và thị trường
-20-
BĐS phát triển mạnh thì nhu cầu tiêu dùng các hàng hoá khác cũng tăng lên và
ngược lại.
Đối với các nhà đầu tư hoặc kinh doanh bất động sản, khi việc kinh doanh
bất động sản phát triển thuận lợi họ sẽ tiếp tục đầu tư, mở rộng hoạt động kinh
doanh của mình, thậm chí sử dụng lợi nhuận từ việc kinh doanh BĐS để đầu tư
vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác để tăng khả năng sinh lời và giảm rủi ro.
Do đó, vốn sẽ chuyển dịch từ thị trường BĐS sang thị trường khác và làm ngành
sản xuất kinh doanh đó phát triển.
1.2.2. Huy động vốn cho nền kinh tế
Khi việc phát triển các dự án BĐS góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển
thì bản thân nó đã là quá trình tăng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Sự phát
triển của BĐS chính là sự tăng lên của tài sản cố định trong xã hội, và là nguồn
vốn đầu tư phát triển quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. BĐS là đối tượng
để đầu tư trong thời gian dài, là nơi gom vốn và có thể chuyển vốn từ người này
sang người khác thông qua giao dịch mùa bán. Vì BĐS có giá vốn trên thị
trường, nên BĐS có thể được chuyển thành tiền thông qua việc bán hay vay vốn
tín dụng bằng thế chấp. Kinh doanh phát triển BĐS thường mang lại lợi nhuận
lớn, do vậy sức hấp dẫn vốn đầu tư vào BĐS lớn, thu hút được vốn đầu tư trong
và ngoài nước. Khi việc vận hành, quản lý và kinh doanh BĐS phát triển, tốc độ
chu chuyển của vốn nhanh hơn, đó chính là một cách bổ sung thêm vốn cho đầu
tư phát triển. Bản thân sự vận hành của khu vực BĐS sẽ mang đến những hiệu
quả lớn theo cấp số nhân trong vòng quay kinh tế nhờ sự liên hệ mật thiết và đa
dạng, tạo ra cầu về những hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra bởi nền kinh tế
trong nước. Các giao dịch thế chấp BĐS để vay vốn, góp vốn liên doanh bằng
BĐS là những giao dịch làm tăng thêm vốn cho đầu tư phát triển. Trong kinh
doanh BĐS, khi thực hiện thế chấp BĐS, nguồn vốn được tăng lên gấp đôi vì
nhờ đó, huy động được vốn nhàn rỗi mà BĐS vẫn sử dụng phát huy được tác
-21-
dụng. Góp vốn liên doanh bằng BĐS chính là tạo ra vốn đối ứng để thu hút đầu
tư nước ngoài, góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
1.2.3. Tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước
Hoạt động của các công ty quản lý và kinh doanh BĐS sẽ tác động tới
BĐS và mang lại những kết quả là:
+ Làm tăng giá trị của bất động sản: Từ một mảnh đất các nhà đầu tư bỏ
vốn xây dựng công trình, từ vận hành và khai thác công trình sẽ làm phát sinh
thêm doanh thu và lợi nhuận.
+ Kích thích các trao đổi hàng hoá BĐS trên thị trường, làm tăng các quan
hệ giao dịch về BĐS, khối lượng giao dịch cũng nhiều hơn do quá trình mua đi,
bán lại, thuê đi, thuê lại…
Những tác động đó đã góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước thông
qua các loại thuế: thuế từ hoạt động xây dựng, tư vấn, thiết kế, thuế mua bán
BĐS, chuyển nhượng BĐS, thuế trước bạ, thuế kinh doanh môi giới BĐS, thuế
thu nhập doanh nghiệp (từ các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cho thuê BĐS),
thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (đối với những dự án có vốn đầu tư nước
ngoài), thuế thu nhập cá nhân (với các doanh nhân nước ngoài và những nhân
viên Việt Nam có thu nhập cao từ hoạt động kinh doanh BĐS), thuế chuyển
nhượng cổ phần (với các doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư hoặc thay
đổi đối tác),... Ngoài ra, nhà nước sẽ có được thêm doanh thu từ các ngành sản
xuất kinh doanh phục vụ cho việc phát triển các dự án BĐS.
Kinh doanh và phát triển BĐS góp phần quan trọng trong việc khai thác
và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, tận dụng và phát triển BĐS để
đáp ứng nhu cầu của nhân dân, tăng nguồn thu ngân sách cho nhà nước. Những
vùng đất giá trị thấp hoặc đang khai thác hiệu quả thấp, sau khi quy hoạch sẽ có
giá trị tăng lên, nhân dân được đáp ứng về nhu cầu cư trú, làm việc. Khi nhu cầu
tiêu dùng BĐS tăng lên (nhu cầu về nhà ở, văn phòng, khách sạn...), nhu cầu về
-22-
các tiện ích sinh hoạt cũng tăng lên như điện, nước, gas, viễn thông,... và nhà
nước sẽ có thêm nguồn thu lớn từ các dịch vụ tiện ích này.
1.2.4. Mở rộng các thị trường trong và ngoài nước, mở rộng quan hệ quốc tế
Thị trường chung của mỗi quốc gia là một thể thống nhất của các loại thị
trường vốn, thị trường lao động, thị trường hàng hoá, thị trường BĐS. Do đó, sự
phát triển của hoạt động kinh doanh BĐS có ảnh hưởng đến tất cả các thị trường
đó và thị trường chung của mỗi quốc gia. Tác giả Hernando De Soto, nguyên cố
vấn về kinh tế và chính trị cho Tổng thống Peru, trong cuốn Mystery of Capital
đã viết: “Sự khác biệt quan trọng nhất giữa các nền kinh tế phát triển và kém
phát triển là sự tồn tại hay không tồn tại một thị trường BĐS hữu hiệu và hiệu
quả”[6]. Khi thị trường BĐS phát triển, nó sẽ yêu cầu thị trường vốn phải phát
triển theo để đầu tư phát triển. Nếu có nhiều giao dịch BĐS được thực hiện hoặc
nhiều dự án đầu tư vào BĐS để xây dựng, bán và cho thuê, vốn đổ vào thị
trường sẽ tăng lên. Các ngân hàng sẽ hoạt động tích cực hơn nhờ các nghiệp vụ
cho vay, định giá, thế chấp,... vốn nhàn rỗi sẽ được đưa vào thị trường. Khi đó,
thị trường sức lao động và thị trường các loại hàng hoá, trong đó có các hàng
hoá đầu vào cho thị trường BĐS như vật liệu xây dựng, máy móc thiết bị vận
hành trong các toà nhà, đồ trang trí nội thất, kỹ thuật công nghệ, ... cũng phát
triển theo tương ứng. Đồng thời, khi một công trình xây dựng vào sử dụng và
kinh doanh, chẳng hạn, một khách sạn 5 sao, sẽ đòi hỏi một loạt dịch vụ đi kèm:
dịch vụ làm sạch, dịch vụ bảo dưỡng máy móc thiết bị (điều hoà trung tâm, máy
phát điện, hệ thống cung cấp nước, hệ thống cứu hoả,...), dịch vụ cây cảnh, dịch
vụ giặt là, dịch vụ an ninh bảo vệ,.... Như vậy, người chủ của khách sạn này phải
ký hợp đồng với một loạt các nhà cung cấp những dịch vụ nói trên với chất
lượng tương xứng với toà nhà của mình. Khi nhiều toà nhà làm khách sạn được
đưa vào sử dụng, chẳng những thị trường cho thuê khách sạn phát triển mà sẽ
kéo theo sự phát triển của các thị trường dịch vụ phục vụ cho dịch vụ cho thuê
-23-
khách sạn và sự phát triển này cũng có cạnh tranh, đặc biệt là khi các khách sạn
cũng cạnh tranh lẫn nhau về chất lượng dịch vụ. Điều đó cho thấy, khi thị trường
bất động sản sôi động, nó kích thích những thị trường khác phát triển.
Trong hội nhập quốc tế, thị trường trong nước gắn chặt với thị trường
ngoài nước. Sự phát triển của các dự án BĐS góp phần tạo điều kiện cho các chủ
thể là người nước ngoài tham gia giao dịch và đầu tư vào phát triển BĐS trong
nước, đồng thời còn cho phép họ đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư kinh doanh
các lĩnh vực khác và thậm chí có thể cư trú và sinh sống tại đó. Tại các nước
đang phát triển, đầu tư nước ngoài là một kênh huy động vốn vô cùng quan
trọng. Nếu chỉ bằng các nguồn lực trong nước, bản thân các quốc gia này không
thể có được những công trình xây dựng chất lượng cao, quy mô lớn dùng cho
các mục đích như làm khách sạn, văn phòng, căn hộ cao cấp, trung tâm thương
mại... Bất cứ nhà đầu tư nào khi quyết định đầu tư vào một địa phương cũng đều
cần đến địa điểm giao dịch, làm việc, cư trú, giải trí,... có chất lượng tốt. Nếu
thị trường BĐS phát triển, sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu này thì nhà đầu tư
sẽ thuận lợi hơn trong việc triển khai các dự án sản xuất kinh doanh của mình.
Thông qua đó mà mở rộng quan hệ quốc tế, tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
nước, các dân tộc, đẩy nhanh quá trình hội nhập của quốc gia đó.
1.2.5. Giữ gìn ổn định xã hội
Việc quản lý và phát triển các dự án BĐS, trong đó có đất đai, luôn gắn
liền với các chính sách về đất đai. Việc kinh doanh và phát triển BĐS sẽ được
thể hiện trong sự phát triển của thị trường BĐS. Ở bất cứ quốc gia nào, thị
trường BĐS cũng là thị trường quan trọng bởi lẽ nó góp phần tạo ra sự ổn định
xã hội. Chính sách đất đai không phù hợp (không có sự quản lý tốt) sẽ dẫn đến
sự rối loạn của thị trường, gia tăng nạn đầu cơ, buôn bán, lũng đoạn giá cả, làm
cho giá cả lên xuống thất thường… Điều đó sẽ tác động xấu đến niềm tin của
người dân đối với các chủ trương, chính sách của nhà nước, sẽ hạn chế sự phát
-24-
triển của BĐS hoặc thậm chí dẫn đến tình trạng đóng băng thị trường BĐS. Do
đó, các hoạt động sản xuất, đời sống của con người và các hoạt động xã hội nói
chung cũng bị ảnh hưởng theo. Nhà nước, thông qua việc xây dựng pháp luật
(luật đất đai, luật đầu tư, luật kinh doanh BĐS, các văn bản dưới luật,...) và
hoạch định các chính sách về BĐS, cũng như tổ chức và thực hiện có hiệu quả
các chính sách này, quản lý tốt hoạt động kinh doanh BĐS trên thị trường sẽ xoá
bỏ được tình trạng “kinh doanh ngầm”, tham nhũng, trốn thuế, đầu cơ,... và các
tệ nạn khác xung quanh hoạt động kinh doanh và phát triển BĐS. Thị trường
BĐS hoạt động lành mạnh sẽ góp phần điều hoà cung cầu, bình ổn giá cả BĐS,
do đó sẽ góp phần làm cho xã hội được ổn định hơn.
1.2.6. Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của nhân dân
Các dự án kinh doanh và phát triển BĐS và các dịch vụ BĐS luôn thu hút
rất nhiều lao động tham gia, từ những công việc đòi hỏi lao động trí thức như
quản lý, tư vấn, tiếp thị, kỹ thuật … đến những công việc lao động chân tay như
làm sạch, chăm sóc cây cảnh, khuân vác,… Vì vậy, việc phát triển các dự án
BĐS đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho rất nhiều người lao động.
Về mặt xã hội, khi các dự án đầu tư và BĐS tăng lên, bộ mặt của đô thị
cũng như nông thôn sẽ thay đổi. Một thành phố với nhiều công trình xây dựng
đẹp với chất lượng cao, được quy hoạch hợp lý sẽ khẳng định “đẳng cấp” của
quốc gia. Thị trường BĐS phát triển buộc các nhà đầu tư, các nhà sản xuất hàng
hoá đầu vào và cung ứng các dịch vụ đi kèm phải không ngừng nâng cao trình
độ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Do đó,
điều này không những góp phần đáp ứng nhu cầu phát triển BĐS, phát triển sản
xuất mà còn đáp ứng tiêu dùng thông qua các công trình phục vụ cho các hoạt
động phục vụ nhu cầu văn hoá, thể thao, vui chơi giải trí, giao tiếp cộng đồng,…
Xã hội ngày càng phát triển, quan niệm tiêu dùng của nhân dân ngày càng thay
đổi theo chiều hướng yêu cầu ngày càng cao lên. Ngày càng xuất hiện những cá
-25-
nhân có thu nhập cao, có điều kiện sử dụng những căn hộ tiện nghi cao cấp, các
sự kiện quan trọng cũng muốn tổ chức tại các khách sạn, nhà hàng lớn, ngày
nghỉ cuối tuần cần có nơi vui chơi giải trí, mua sắm,... nhu cầu tiêu dùng cao
hơn nhu cầu tiết kiệm. Việc phát triển kinh doanh BĐS đáp ứng các nhu cầu này
và có thể mở ra những hạng mục mới, tiếp tục kích thích nhu cầu tiêu dùng... và
mức sinh hoạt chung được nâng lên.
Tóm lại, thị trường BĐS là một bộ phận của thị trường xã hội, do đó, sự
phát triển của thị trường này sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thị
trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường hàng hoá, và nói chung là tác
động tốt đến sự phát triển thị trường chung, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của
con người, qua đó mà nâng cao đời sống của nhân dân.
1.2.7. Góp phần đổi mới chính sách
Quan sát các hoạt động đầu tư, kinh doanh, quản lý và phát triển BĐS
cũng như các phản ứng của thị trường BĐS đối với các chính sách, nhà nước có
thể nhận ra những điểm chưa hợp lý trong các chính sách của mình, đặc biệt là
các chính sách đối với đất đai để từ đó sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính
sách này. Quan hệ đất đai là quan hệ kinh tế xã hội, được thực hiện chủ yếu qua
thị trường. Khi chính sách quản lý đất đai và BĐS không hợp lý sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh BĐS và thị trường BĐS, sẽ làm xuất
hiện các hiện tượng tiêu cực. Ví dụ, chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng
không hợp lý sẽ dẫn đến việc kiện tụng, không chấp hành quyết định làm chậm
tiến độ của cả dự án, gây lãng phí vốn, tăng chi phí. Chính sách hành chính nhà
đất rườm rà (nhiều ban bệ, nhiều cửa, nhiều con dấu...) sẽ dẫn đến hiện tượng
quan liêu, tham nhũng. Khung giá cả BĐS không hợp lý sẽ dẫn đến hiện tượng
đầu cơ BĐS hoặc đóng băng thị trường BĐS, làm giá cả thị trường sai lệch với
bản chất thực tế...
-26-
Hoạt động quản lý và phát triển BĐS góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới
quản lý đất đai, nhà ở, các công trình công cộng và các cơ sở kinh tế xã hội
khác. Từ thị trường đất đai và BĐS, nhà nước sẽ thấy rõ những bất cập của các
chính sách trong hệ thống quản lý đất đai và những chính sách liên quan như
chính sách xây dựng, chính sách tài chính,... Qua đó, nhà nước sẽ không chỉ đổi
mới, bổ sung và hoàn thiện các chính sách mà còn giám sát chặt chẽ các công
tác tổ chức thực hiện các chính sách đó, quản lý hoạt động của các doanh nghiệp
từ nhà đầu tư cho đến những nhà kinh doanh, môi giới và quản lý BĐS để đảm
bảo sự phát triển của một thị trường BĐS lành mạnh.
1.3. Một số bài học kinh nghiệm về quản lý và phát triển BĐS ở một số
nước trong khu vực Châu Á - Thái bình dương
1.3.1. Quản lý thị trường nhà ở tại Singapore thông qua Ủy ban Phát triển
nhà
Mặc dù là một quốc gia phát triển với GNP bình quân đầu người thuộc
diện cao nhất thế giới, vấn đề nhà ở cho các đối tượng dân cư khác nhau ở đây
cũng không đơn giản, đặc biệt, Singapore có diện tích nhỏ (nghĩa là quỹ đất vô
cùng hạn chế) trong khi lại thu hút nhiều người nhập cư. Vì vậy, vấn đề nhà ở
cho nhân dân là mối quan tâm hàng đầu của chính phủ trong việc quản lý lĩnh
vực bất động sản.
Chính phủ Singapore đã có những biện pháp quản lý thị trường nhà ở rất
hiệu quả để hỗ trợ tài chính đáng kể cho những người thuộc diện có thu nhập
không cao mà điển hình là việc thành lập Uỷ ban Phát triển nhà ở Singapore đầu
tư vào các căn hộ cho nhân dân. Uỷ ban phát triển nhà được thành lập từ những
năm 80 với dự định chỉ xây nhà cho thuê nhưng sau 4 năm, chính phủ quyết
định phải bán những căn hộ đó. Thủ tướng Lý Quang Diệu cho rằng, phải để
người dân có sở hữu một tài sản nào đó để họ gắn bó, chăm lo cho nó và cả đất
nước. Để dân chúng có thể mua được nhà, chính phủ cung cấp các khoản tiền
-27-
vay để sao cho mỗi tháng họ có thể trích dưới 20% thu nhập trả tiền mua nhà.
Đồng thời, thiết lập Quỹ nhà ở Trung ương (là một dạng quỹ bảo hiểm) bắt buộc
cả xã hội tham gia, giá bán nhà được trợ cấp sẽ thấp hơn giá trên thị trường.
Hiện nay, hơn 80% dân số, tương đương với 3,5 triệu người dân ở đây
được sống trong những căn hộ và Uỷ ban này quản lý hơn 880.000 căn hộ, trong
đó 90% thuộc sở hữu cá nhân [17]
Chương trình nhà ở của Singapore có được thành công trên là nhờ kế hợp
nhiều yếu tố. Quy hoạch các khu chung cư được thiết kế hợp lý ngày từ đầu
nhằm mang lại trí tưởng tượng sáng tạo và tăng sức hấp dẫn cho người mua.
Diện tích mỗi căn hộ cũng khác nhiều so với cách đây 40 năm. Trước kia, người dân chỉ cần những căn nhà có diện tích 35 m2, nay tối thiểu phải 60 m2
với 2-3 phòng ngủ.
Các nhà kiến trúc, xây dựng cũng rất quan tâm đến tính cộng đồng vì
Singapore là quốc gia mang tính đa văn hoá với nhiều dân tộc cùng chung sống.
Đồng thời, mỗi khu đô thị mang một bản sắc riêng. Đặc biệt, ai mua căn hộ ở
gần bố mẹ sẽ được ưu tiên và được trợ cấp nhiều hơn.
Những năm 90, chính phủ có chương trình đổi mới khu căn hộ cũ để nó
tiếp tục hấp dẫn và người dân sẽ không chuyển đi nơi khác. Chẳng hạn, những
khu nhà ở có thời gian 30 năm sẽ được cải tiến nội thất, trong đó cứ mỗi một đô
la chi phí, người dân sẽ chỉ phải bỏ ra 20 cent, còn lại, chính phủ sẽ bỏ ra 80
cent. Trước khi thực hiện một phương án nào đó, nhà quản lý sẽ tiến hành bỏ
phiếu, nếu người dân ủng hộ thì sẽ tiến hành.
Ngoài ra, chính phủ cũng có hệ thống tái phát triển khu cũ bằng cách tăng
cường xây dựng các khu mới xen kẽ. Những gia đình nào cư trú được 40 năm
rồi có thể di rời sang căn hộ gần đó có điều kiện sinh hoạt tốt hơn, còn những
gia đình trẻ có thể chuyển đến ở những khu căn hộ cũ.
Chính phủ cũng đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước vào chương trình nhà
ở, tháng 7 năm 2003, Singapore thực hiện chính sách công ty hoá các cơ quan
-28-
thuộc Uỷ ban Phát triển nhà như xây dựng, thiết kế ... . Năm 2006, chính phủ
mở rộng các dự án và áp dụng nguyên tắc thị trường một cách mạnh mẽ hơn.
1.3.2. Quản lý nhà nước đối với thị trường đất đai ở Malaysia
Tại Malaysia, những chính sách đô thị nhìn chung thực sự thành công
trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế xã hội. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
Malaysia 8%/ năm chính là bằng chứng cho điều này [18]. Mục tiêu chủ yếu của
Malaysia là tăng trưởng cùng với công lý và công bằng xã hội. Các chính sách
đô thị đã được soạn thảo để giúp đạt được mục tiêu kép tái cơ cấu xã hội và
giảm nghèo.
Vì những diện tích lớn ở Malaysia được sở hữu trong thời kỳ thuộc địa
nên trong nhiều trường hợp chính phủ phải thu hồi đất tư khi muốn thực hiện
những dự án quy mô lớn. Malaysia có những luật thu hổi đất đai rất mạnh,
không những cho những dự án công cộng mà còn để bán lại cho tư nhân. Chính
phủ can thiệp vào phát triển đất đai thông qua việc kiểm soát quy hoạch về đất
đai. Không ai có thể tiến hành bất kỳ hình thức phát triển đất đai nào nếu không
được sự cho phép của chính quyền địa phương.
Để ngăn chặn việc tích tụ đất của những người mua được đất rẻ để xây
nhà ở, tiểu bang ban hành quy định là đất phải được phát triển trong vòng hai
năm kể từ khi chuyển quyền sở hữu.
Để ngăn chặn những người mua được đất bán lại để thu lợi nhuận nhanh
chóng, các lô nhà phải kèm theo điều kiện là chúng không thể được bán hoặc
chuyển nhượng nếu không được chính quyền tiểu bang cho phép.
Chính quyền ban hành một loạt thuế, thuế thu nhập BĐS được dùng để
giảm thiểu sự đầu cơ đất và BĐS. Chính sách yêu cầu chủ đầu tư tư nhân phải
dành một phần các toà nhà mới xây cho một nhóm người Malaysia nhất định.
Điều này dựa trên quan điểm rằng nếu để mặc cho tác động của thị trường thì
nhiều nhóm kinh tế xã hội có thể bị tính giá cắt cổ trên thị trường đất, nhà nước
yêu cầu các nhà đầu tư đất đai tư nhân phải dành một phần nhất định trong các
-29-
kế hoạch phát triển của họ cho những người nghèo, tỷ lệ giảm giá trên giá quảng
cáo từ 5%-15% được quy định tuỳ từng tiểu bang. Chính phủ cũng yêu cầu
những nhà đầu tư tư nhân phải xây dựng một tỷ lệ 30% nhất định cho những căn
hộ giá rẻ trong chương trình xây nhà của họ.
Đối với người nước ngoài, chính phủ cho phép có thể mua bất động sản
có giá trị trên 250.000 Ringit mà không phải in phê duyệt của Uỷ ban Đầu tư
Nước ngoài và sẽ không có quy định nào về việc sử dụng hay hạn chế số lượng
căn nhà được phép mua. Bất cứ người nước ngoài nào muốn sống tại Malaysia
đều có thể mua bất động sản cho riêng mình, theo ước tính sẽ nằm trong khoảng
giá từ 700.000 đến 900.000 Ringit [29]. Đây là tín hiệu cho thấy Malaysia đang
từng bước xoá bỏ quan liêu. Tuy nhiên, chính phủ sẽ có những biện pháp để bảo
vệ người mua trong nước bằng các quy định phân bổ suất mua và giảm giá khi
mua bất động sản. Bằng quy định này, chính phủ mong muốn sẽ xây dựng được
một môi trường kinh doanh thân thiện với các thủ tục hành chính nhanh gọn hơn
để thu hút các dự án đầu tư vào những năm tới.
1.3.3. Kinh nghiệm đền bù giải phóng mặt bằng và quản lý hiện tượng bong
bóng về nhà đất ở Trung Quốc
Cũng giống như Việt nam, tại Trung Quốc, đất đai thuộc chế độ công
hữu: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đất đai ở khu vực thành thị và đất xây
dựng thuộc sở hữu toàn dân còn đất ở thuộc khu vực nông thôn và đất nông
nghiệp thuộc sở hữu của tập thể nông dân lao động. Theo quy định của Luật Đất
đai Trung Quốc năm 1998, đất đai thuộc sở hữu nhà nước được giao cho các tổ
chức, cá nhân sử dụng theo các hình thức: Cấp đất (giao đất, không thu tiền sử
dụng đất); xuất nhượng đất (giao đất có thu tiền sử dụng) và cho thuê đất.
Trong trường hợp nhà nước cần thu hồi đất của người đang sử dụng dùng
vào mục đích công cộng, vì lợi ích quốc gia, nhà nước sẽ có chính sách đền bù
và tổ chức tái định cư cho người bị thu hồi đất. Do sự khác nhau về hình thức sở
-30-
hữu đất đai ở thành thị và nông thôn nên có sự phân biệt về bồi thường nhà ở
giữa hai khu vực này. Đối với trường hợp bồi thường nhà ở tại thành thị, chủ
yếu, nhà nước bồi thường bằng tiền căn cứ vào giá thị trường BĐS tại thời điểm
thu hồi do các tổ chức tư vấn về giá đất đưa ra. Còn đối với trường hợp bồi
thường nhà ở tại khu vực nông thôn, khi thu hồi chính quyền có cách thức bồi
thường linh hoạt hơn: Tiền bồi thường về sử dụng đất đai chỉ bồi thường cho tập
thể, tiền bồi thường về hoa màu thì người nông dân hoặc người nhận khoán
ruộng đất được hưởng,... Để giải quyết các khó khăn về việc làm cho nông dân
khi bị thu hồi ruộng đất, nhà nước thực hiện chính sách chi trả tiền dưỡng lão
hàng năm cho những người cao tuổi, hỗ trợ tiền đi tìm việc mới cho những
người đang ở độ tuổi lao động.
Quyết định của chính phủ từng bước xoá bỏ việc sở hữu nhà nước trong
lĩnh vực nhà cửa vào đầu những năm 1990 đã mở đường cho sự phát triển của
thị trường nhà ở Trung Quốc. Việc thiết lập thị trường nhà thứ cấp vào năm
1999 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh BĐS cùng với việc cho
phép các ngân hàng thương mại được thực hiện dịch vụ thế chấp đã làm tăng
khả năng mua nhà của nhân dân, cả hai biện pháp này đã kích thích cầu về BĐS.
Chính phủ, nhờ thu thêm được lợi ích từ các loại thuế BĐS và doanh thu bán đất
đã có những khuyến khích về tài chính để kích thích việc phát triển của lĩnh vực
BĐS, do đó đã làm tăng hiện tượng “bong bóng” trong thị trường nhà đất. Từ
2001 đến 2003, ước tính thu được 910 tỷ NDT chỉ từ việc bán đất so với 6,7 tỷ
NDT năm 1998 [20]. Hơn nữa, trong những năm gần đây, vốn nước ngoài được
đổ vào thị trường nhà đất do dự đoán đồng NDT sẽ lên giá. Nhiều nhà đầu tư
trong nước chuyển sang đầu cơ do giá cả bất động sản tăng cao và không có dấu
hiệu giảm xuống, chỉ trong thời gian ngắn có thể thu lợi lớn từ các căn hộ. Theo
dự đoán, khoảng 20% tổng số các bất động sản sẽ tại các thành phố lớn sẽ không
có người ở. Thị trường BĐS tại Thượng Hải là một sự phản ánh độ nóng của
ngành kinh doanh BĐS trong vài năm qua. Giá bán trung bình của các căn hộ
-31-
chung cư đã tăng gấp đôi từ 6.000 NDT/ m2 cuối tháng 6/2004 lên 13.000 NDT/ m2 vào tháng 2/2005. Trong năm 2004, theo số liệu của Ngân hàng Nhân dân
Trung hoa (People’s Bank of China), 76% các khoản vay mới tại Thượng Hải là
để phục vụ ngành BĐS [21]. Từ tháng 3/2005, chính phủ đã sử dụng các biện
pháp làm dịu thị trường BĐS tập trung vào việc quản lý chặt chẽ việc cho vay
của ngân hàng và hạn chế kinh doanh BĐS như:
+ Đánh thuế nhận vốn bằng 10% đối với các căn hộ không có người ở trong
vòng hai năm kể từ khi mua.
+ Tăng lãi suất vay thể chấp lên 20 điểm
+ Tăng số tiền yêu cầu thanh toán ban đầu của các khoản vay thế chấp từ 20%
lên 30% tổng giá trị BĐS
+ Cấm người đi vay thế chấp hai lần
+ Đánh thuế suất gấp đôi đối với doanh thu bán hàng và thuế bất động sản của
những căn hộ cao cấp tại Thượng Hải.
+ Công bố rộng rãi các kế hoạch cung cấp đất cho các dự án xây nhà ở.
Các biện pháp trên đã làm chậm việc tăng giá BĐS:
“ Theo thống kê của eHomeday, một website chuyên về giao dịch BĐS
của Thượng Hải, tỷ lệ tăng giá trung bình tại 35 thành phố lớn và vừa là
8% vào quý 2 năm 2005, so với 12,5% vào quý 1 năm 2005 và 14,4% vào
năm 2004. Giá bán trung bình của các căn hộ đã giảm từ rất cao là 13.000 NDT/ m2 vào tháng 2/2005 xuống khoản 7.200 NDT/ m2 vào cuối
tháng 7/2005. Theo điều tra của Ngân hàng Nhân dân Trung hoa về tiết
kiệm gia đình tại khu vực thành thị vào tháng 5/2005, tỷ lệ các hộ gia
đình dự định mua nhà vào quý 3 năm 2005 đã sụt xuống 290 điểm so với
quý trước xuống chỉ còn 19,1%. Tuy nhiên, bất chấp các nguy cơ rủi ro về
BĐS, những người mua vẫn tìm cách điều chỉnh các kế hoạch của họ ở
tầm ngắn hạn để đối phó với các biện pháp chặt chẽ vì điều này không
cho thấy quyền lợi của họ trong thị trường BĐS đã hết. Kết quả điều tra
-32-
vào tháng 7/2005 cho thấy 70% những người được hỏi tin rằng giá nhà
vẫn tiếp tục tăng trong tương lai so với chỉ 11% số người tin rằng giá nhà
sẽ giảm xuống” [22].
Hiện nay, thị trường BĐS của Trung Quốc vẫn được ví như một thỏi nam
châm thu hút được rất nhiều công ty nước ngoài và người Hoa ở nước ngoài.
Việc các công ty này từ đầu đến không quan trọng bằng việc năng lực cạnh
tranh của họ ra sao. Với nhiều thể chế thị trường được hoàn thiện hơn, cuộc cải
cách nhà ở sâu rộng, thị trường tài chính hoàn thiện hơn và chính sách giao dịch
chuyển quyền sử dụng đất công khai, các doanh nghiệp xây dựng nước ngoài
càng tự tin hơn khi quyết định đầu tư vào Trung Quốc.
1.3.4. Hệ thống quản lý bất động sản Torrens của Australia
Australia là nước có hệ thống quản lý đất đai và thị trường BĐS đạt tới
trình độ phát triển rất cao. Trong đó, hệ thống quản lý BĐS “Torrens” ở của
nước này được coi là một trong những hệ thống quản lý BĐS hữu hiệu và hiệu
quả nhất trên thế giới. Đây là hệ thống quản lý BĐS được thiết lập từ năm 1858
bởi Thủ tướng Nam Australia, lúc đó là Sir Robert Torrens với ba nguyên tắc
chính là:
+ Nguyên tắc cái gương: Bảo đảm rằng cơ quan đăng ký phản ánh đầy đủ các
lợi ích hợp pháp trên mảnh đất.
+ Nguyên tắc màn che: Có nghĩa là sau khi đã đăng ký, không cần phải xem xét
“phía sau tờ trước bạ” để xác định các lợi ích trước đó đối với mảnh đất.
+ Nguyên tắc bảo đảm: Các thông tin trên tờ trước bạ được bản đảm bởi nhà
nước.
Hệ thống Torrens cần phải có bốn tính chất: nhanh chóng, đơn giản, chi
phí thấp, và phù hợp với đòi hỏi của cộng đồng. Bổ sung cho hệ thống Torrens,
gần đây Australia còn quản lý BĐS qua hệ thống “trước bạ không gian” (Strata
Title) để chứng nhận quyền sở hữu đối với các căn hộ thuộc nhà cao tầng. Về cơ
-33-
bản, toàn bộ hệ thống quản lý BĐS ở Australia dựa trên nguyên tắc thị trường tự
do về đất đai và BĐS. Đất đai được coi như một loại hàng hoá thông thường như
các hàng hoá khác. Quản lý BĐS là hoạt động độc quyền của nhà nước cho dù
có sự tham gia của rất nhiều tác nhân tư nhân như đo đạc địa chính, giao dịch
BĐS hay định giá BĐS. Những hoạt động này được điều tiết, quy định rất chặt
chẽ và nhưng bên tham gia đều phải có giấy phép.
Australia quan niệm đất đai nói riêng và các BĐS nói chung là nguồn lực
cơ bản của quốc gia, việc phân bổ và quản lý đất đai có hiệu quả đóng góp vô
cùng quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Về danh nghĩa,
đất đai thuộc về nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, các cá nhân có quyền nắm
giữ lâu dài (free hold) hoặc nắm giữ có thời hạn (lease hold) đối với một mảnh
đất cụ thể (bao gồm cả không gian và dưới mặt đất nhưng không có quyền khai
thác khoáng sản). Hiện nay đất ở Australia có ba loại sở hữu: đất tư nhân, đất
công cộng và đất thuộc sở hữu của thổ dân, trong đó, phần lớn là loại sở hữu tập
thể. Gắn với mỗi mảnh đất chỉ có một chủ đất duy nhất, có thể là tư nhân, cộng
đồng hoặc nhà nước. Một số quyền và lợi ích liến quan đến BĐS của chủ đất có
thể được buôn bán, trao đổi trên thị trường. Ở Australia, thị trường đất đai và
BĐS đã được tạo dựng vững vàng, xét cả về khung pháp lý, thể chế và vận hành.
Thị trường giao dịch BĐS hoàn toàn chính thức và xấp xỉ 100% các giao dịch
đất đai ở Australia được thực hiện một cách chính thức, nghĩa là có đăng ký tại
các cơ quan quản lý đất đai của nhà nước.
Chính phủ khuyến khích đầu tư vào BĐS đối với những người mua nhà
lần đầu và các chính sách cho vay của các thể chế tài chính bằng cách làm cho
các khoản vay để mua nhà trở nên dễ dàng hơn. Khoảng 80-90% các BĐS được
mua bằng cách vay tiền ngân hàng. 70% hộ gia đình Australia sở hữu một căn
hộ hoặc một phòng ở độc lập. Hầu hết người dân sinh sống trong các căn nhà có
tổng diện tích đất xung quanh khoảng 500 đến 1000 m2. Ngày càng có nhiều
người dân sống trong các căn hộ chung cư với mức giá thấp.
-34-
Tại Australia hiện nay, số vốn huy động dựa trên thế chấp BĐS lên tới
200 tỷ USD mỗi năm (Australia có khoản 10 triệu mảnh đất và khoảng 70% số
đó được thế chấp tại ngân hàng. Ước tính đất đai chiếm trên 50% tài sản của
Australia). Nhà nước trợ giúp việc hình thành thị trường BĐS chính thức chủ
yếu thông qua các biện pháp:
+ Thiết lập và duy trì các cơ quan đăng ký đất đai và BĐS
+ Bảo đảm tính hợp pháp không thể xâm phạm của các trước bạ đất và BĐS
+ Duy trì các bản đồ, thông tin địa chính
+ Thiết lập sự quản lý về địa không gian.
+ Tài trợ cho việc phối hợp và xây dựng cơ sở dữ liệu.
+ Đặt ra các tiêu chuẩn (như tiêu chuẩn đối với các nhà đo đạc địa chính, môi
giới đất đai).
Chính phủ Australia cũng can thiệp mạnh vào đầu tư BĐS dưới các hình thức
như sở hữu công cộng BĐS, các luật lệ xây dựng, quy hoạch trợ cấp và thuế
BĐS.
-35-
Chương 2:
TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DỰ ÁN BẤT ĐỘNG SẢN
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI HÀ NỘI
2.1 Tình hình đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực BĐS tại Việt Nam
2.1.1. Tình hình đầu tư vào các dự án BĐS tại Việt Nam
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam đã giảm xuống trong vài năm. Nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã triển
khai trước đó đã bị chậm tiến độ hoặc bị đình trệ trong một thời gian. Tuy nhiên,
từ năm 2003, FDI tại Việt Nam đã tăng lên mạnh mẽ trở lại với các nhà đầu từ
lớn nhất từ Singapore, Đài loan, Nhật bản, Hàn quốc, Hong Kong. Những tác
nhân làm cho FDI vào Việt Nam ngày càng tăng lên là do Việt Nam duy trì
tăng trưởng kinh tế khả quan trong một thời gian dài liên tục và có tình hình
chính trị ổn định. Ngoài ra, Luật Đầu tư 2005 (có hiệu lực từ 1/7/2006) có nhiều
quy định đảm bảo bình đẳng cho các nhà đầu tư của Việt Nam và nước ngoài.
Triển vọng gia nhập WTO trước đây và nay là việc Việt Nam đã trở thành
thành viên của WTO cũng là một trong những yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ làn
sóng đầu tư vào Việt Nam .
Tính trong giai đoạn từ năm 1988-2007, Việt Nam đã thu hút 7.086 dự án
đầu tư có vốn nước ngoài với tổng vốn đầu tư lến đến 64.178.837.749 USD , với
vốn đầu tư đã thực hiện được là 28.946.446.447 USD. Trong đó, tổng số các dự
án đầu tư vào BĐS thương mại (khách sạn, văn phòng, căn hộ, khu đô thị mới)
là 306 dự án (chiếm 4,3%) với tổng vốn đầu tư là 12.678.713.770USD (chiếm
19,7%) với vốn đầu tư đã thực hiện được là 4.314.281.592USD (Bảng 2.1). Có
-36-
thể thấy rằng, về tỷ lệ số dự án đầu tư vào BĐS thương mại không cao trong
tổng số các dự án nhưng tỷ lệ về vốn đầu tư của các dự án này lại rất cao. Theo
dự đoán của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch Đầu tư), con số các dự án
đầu tư sẽ còn tăng lên rất nhiều trong năm 2007 và BĐS là một trong những lĩnh
vực hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay.
(Tính tới ngày 22/4/2007 và chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: USD
Chuyên ngành
Số dự
Tổng VĐT
Vốn pháp định Đầu tư thực hiện
T
án
T
Bảng 2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2007
Công nghiệp và xây dựng
4.754
40.093.704.399 17.253.097.757
19.852.424.296
Công nghiệp dầu khí
32
2.005.241.815
1.648.241.815
5.148.473.303
I Công nghiệp nhẹ
2.020
10.420.885.796
4.626.997.393
3.558.906.219
Công nghiệp nặng
2.066
20.175.445.165
8.085.212.103
6.967.164.910
273
Công nghiệp thực phẩm
3.293.371.416
1.408.725.719
2.048.949.210
363
Xây dựng
4.198.760.207
1.483.920.727
2.128.930.654
848
Nông, lâm nghiệp
4.026.339.382
1.858.664.101
2.017.264.379
737
II Nông – lâm nghiệp
3.697.946.223
1.712.080.220
1.852.209.247
111
Thuỷ sản
328.393.159
146.583.881
165.055.1232
Dịch vụ
1.484
20.058.793.968
9.149.426.325
7.076.757.772
680
Dịch vụ
1.859.080.101
797.453.901
383.717.159
185
GTVT-Bưu điện
3.695.264.235
2.544.080.425
725.692.056
177
Khách sạn – Du lịch
3.942.077.568
1.752.837.744
2.336.752.832
64
III Tài chính – Ngân hàng
840.150.000
777.395.000
714.870.077
227
Văn hoá, y tế, giáo dục
985.585.862
430.003.794
363.629.558
XD Khu đô thị mới
7
3.177.764.672
884.920.500
111.294.598
XD Văn phòng, căn hộ
122
4.453.346.984
1.552.790.364
1.866.234.162
XD hạ tầng KCN-KCX
22
1.105.524.546
409.944.597
574.567.330
Tổng số
7.086
64.178.837.749 28.261.188.183
28.946.446.447
Nguồn: Báo cáo tóm tắt tình hình đầu tư nước ngoài 4 tháng năm 2007
(Cục Đầu tư Nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
-37-
Sức hấp dẫn từ thị trường BĐS Việt Nam thể hiện qua việc khá nhiều hội
thảo giới thiệu cơ hội đầu tư vào Việt Nam được các công ty tư vấn, quỹ đầu tư
hoặc các công ty kinh doanh và quản lý BĐS tổ chức trong và ngoài nước. Điểm
khác biệt so với trước đây là khách tham dự đa số là những nhà đầu tư chứ
không phải là những nhà phát triển BĐS. Điều này có nghĩa là có nhiều nhà đầu
tư có vốn sẵn sàng mua lại những dự án BĐS đang khai thác khoặc đầu tư tiền
vào các quỹ đầu tư BĐS tại Việt Nam . Trước kia, việc đầu tư BĐS chỉ gói gọn
ở hình thức lập liên doanh, xin đất và thực hiện dự án từ đầu thì nay các nhà đầu
tư đã tỏ ra linh hoạt, chủ động hơn khi bỏ tiền vào các dự án BĐS tại Việt Nam .
2.1.2. Những nhân tố tác động đến đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực BĐS Việt
Nam
2.1.2.1 Môi trường chính trị pháp luật:
Dưới góc độ của các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam là đất nước có tình
hình chính trị ổn định nhất trong khu vực, không xảy ra các cuộc biểu tình hay
bạo động. Chính phủ Việt Nam đang tích cực thực hiện đường lối đổi mới nhằm
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Kể từ năm 2003, rất nhiều văn bản pháp luật đã
được ban hành với nhiều quy định mới rõ ràng hơn và có nhiều điểm khuyến
khích các nhà đầu tư nhiều hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực BĐS như Luật Đất đai
năm 2003, Luật Xây dựng năm 2003, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp năm
2003, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Nhà ở năm 2006, ,
Quy chế Khu đô thị mới năm 2006, Luật Kinh doanh BĐS ...
+ Trước khi ban hành Luật Đất đai năm 2003, nhà nước không thừa nhận
việc mua bán quyền sử dụng đất (mặc dầu thừa nhận giá trị của nó) nên các
quan giao dịch BĐS phải thông qua nhà nước với các thủ tục rất phức tạp (ví dụ,
thay vì chuyển dịch quyền sử dụng đất theo quan hệ dân sự giữa các bên thì nhà
nước can thiệp bằng cách thu hồi và và giao lại), chính quan hệ hành chính nhà
nước trong giao dịch tạo các ức chế với thị trường và tạo kẽ hở phát sinh tiêu
-38-
cực. Luật Đất đai năm 2003 đã khắc phục tồn tại trên, thừa nhận quyền sử dụng
đất như một loại hàng hoá tham gia vào thị trường BĐS. Luật Đất đai 2003 cũng
có qui định mới cho phép: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư,
hoạt động văn hoá, hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn định tại
Việt Nam được Nhà nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất, được mua nhà ở
gắn liền với quyều sử dụng đất” [9]. Điều này khuyến khích Việt Kiều về Việt
Nam đầu tư và hoạt động kinh doanh và rất nhiều Việt Kiều có dự định đầu tư
vào BĐS.
Luật Đầu tư năm 2005 (Số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 có hiệu lực từ
1/7/2006) đã có rất nhiều sửa đổi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài về các thủ
tục hành chính, đăng ký đầu tư, các quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài... Điểm
nổi bật là Luật Đầu tư mới đã không có sự phân biệt giữa các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài. Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài có thể đi lại, hoạt động tại
Việt Nam không cần xác định thời hạn. Thời hạn của các dự án đầu tư cũng
được kéo dài đến 50 năm và có thể gia hạn không quá 70 năm [11]. Vì vậy, khi
đã được cấp phép cho một dự án đầu tư tại Việt Nam , nhà đầu tư có thể thực
hiện dự án khác mà không cần phải thành lập một công ty mới, tài khoản mới,
kể cả ở những lĩnh vực đầu tư khác. Các thủ tục cấp phép cũng đơn giản và
nhanh chóng hơn. Bộ Kế hoạch đầu tư đã giao cho Sở Kế hoạch Đầu tư tại từng
địa phương tiến hành thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư
nước ngoài. Điều này cũng cho phép việc giám sát thực hiện và quản lý dự án
của nhà nước được chặt chẽ hơn. Nhà nước cũng đang tích cực thực hiện cải
cách hành chính để tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục giấy tờ đối với các nhà
đầu tư không những chỉ trong giai đoạn xin cấp phép cho dự án mà còn trong
suốt quá trình thực hiện dự án.
Luật Kinh doanh Bất động sản (Số 63/2006/QH11 ngày 29/6/2006 có hiệu
lực từ 1/1/2007) góp phần làm thể chế hoá lĩnh vực kinh doanh BĐS, đặc biệt
trong một số hoạt động mà nhà đầu tư nước ngoài quan tâm như việc chuyển
-39-
nhượng bất động sản, hoạt động định giá, môi giới, tư vấn kinh doanh BĐS,...
Luật kinh doanh BĐS sẽ điều chỉnh các hoạt động đầu tư và kinh doanh BĐS
chính tắc trên thị trường, hạn chế các giao dịch ngầm trong kinh doanh BĐS
nhằm mục đích làm cho thị trường BĐS minh bạch và phát triển ổn định.
Việt Nam đã trở thành thành viên của APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương) năm 1998, là nước chủ nhà của Hội nghị APEC
2006. Năm 2006 cũng là một năm đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của Việt
Nam với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào tháng
12 năm 2006 và Hoa Kỳ thông qua Quy chế Thương mại Bình thường vĩnh viễn
với Việt Nam . Những sự kiện này đã mang đến rất nhiều thuận lợi cho môi
trường kinh tế, chính trị đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tác động tích cực
đến thị trường bất động sản và hoạt động đầu tư vào lĩnh vực này. Tâm lý nghi
ngại về tính pháp lý, ổn định của môi trường kinh doanh ở Việt Nam của các
nhà đầu tư nước ngoài đã phần nào được gạt bỏ. Đồng thời, kể từ khi mở cửa
nền kinh tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và ky kết hiệp định
thương mại với rất nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước phát
triển như Nhật bản, Hàn quốc, Các nước EU, Mỹ, ,... và đã thu hút một lượng
lớn các dự án ODA từ những nước này vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Đó là những
dự án mở đường cho dòng đầu tư vào các ngành công nghiệp, dịch vụ sau sự
kiện gia nhập WTO.
Tuy nhiên, mặt hạn chế của môi trường chính trị, pháp luật Việt Nam là
vẫn còn hiện tượng quan liêu, tham nhũng trong giải quyết các thủ tục triển khai
dự án khiến tiến độ của dự án bị chậm lại, hoặc dự án không được thực hiện
đúng như thiết kế. Một thực tế là hầu hết các dự án muốn được cấp phép nhanh
chóng, nhà đầu tư phải mời đối tác Việt Nam (và những bên có liên quan) đi
tham quan nước ngoài, cam kết cho vay ưu đãi hoặc hỗ trợ tài chính dưới hình
thức nào đó... Mặt khác, hệ thống quy định của pháp luật còn thiếu đồng bộ hoặc
-40-
chồng chéo làm các nhà đầu tư gặp nhiều phiền hà trong các khâu thực hiện dự
án.
2.1.2.2 Môi trường kinh tế:
Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế trong nhiều năm
qua và đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế hành chính bao cấp sang kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây
là giai đoạn đặc biệt cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài để cơ cấu lại nền kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng phát triển công nghiệp, dịch vụ. Chính sách mở cửa đã
thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa các tổ chức kinh tế Việt Nam và các tổ chức nước
ngoài. Do vậy, trong thời gian tới, nhất định nhu cầu về nơi ở và làm việc sẽ
tăng vọt lên khi ngày càng nhiều nhà đầu tư đến Việt Nam và Hà Nội sinh sống,
làm việc.
Việt Nam đang giữ mức tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm
qua. Tỷ lệ tăng GDP trung bình trong vòng 10 năm qua là 7%/ năm. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2005, tỷ lệ tăng GDP là 8,43% và năm 2006 là
8,17% so với năm trước. Chính phủ Việt Nam phấn đấu đạt mức tăng GDP là
8,2% trong năm 2007 (Bảng 2.2).
Bảng 2.2 Tốc độ tăng GDP của Việt Nam những năm gần đây
Năm 2004 2005 2006
Chỉ tiêu
Tốc độ tăng GDP tính theo giá 7,79% 8,43% 8,17%
so sánh
GDP tính theo giá thực tế 713.307 839.211 973.791
(Tỷ đồng)
GDP bình quân đầu người 556,3 638,4 725,3
Nguồn: Báo cáo về tốc độ tăng GDP của Việt Nam năm 2006 (Tổng cục Thống kê)
(USD)
-41-
Với tốc độ tăng trưởng như vậy, Việt Nam đã được UNESCAP (Ủy ban
Kinh tế và Xã hội Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc
đánh giá là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực. Mức tiêu dùng
của người dân đã có sự thay đổi đáng kể. Yêu cầu về sinh hoạt và giải trí đã tăng
cao với yêu cầu chất lượng ngày càng cao hơn và ngày càng nhiều người Việt
Nam trở thành đối tượng khách hàng mà những nhà đầu tư nước ngoài hướng
tới (đặc biệt là những dự án phát triển căn hộ, khu đô thị mới).
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Cụ thể là, các nguồn
tài nguyên chưa được khai thác và quản lý tích cực, có hiệu quả; nguồn lao động
dồi dào chưa được huy động và phân bổ hợp lý, đồng bộ trên phạm vi toàn quốc,
chất lượng lao động chưa cao và đồng đều; trang thiết bị sản xuất còn lạc hậu,
năng suất lao động thấp, trình độ quản lý kém... Bởi vậy, việc các tổ chức kinh
tế nước ngoài tìm kiếm thị trường, tìm cơ hội đầu tư kinh doanh là cần thiết và
phù hợp với khuynh hướng tổ chức sản xuất tại nơi cung cấp nguyên liệu, lao
động, tiêu thụ sản phẩm theo nhu cầu của thị trường trong khu vực và xuất khẩu
ra thị trường thế giới nhằm thu được nhiều lợi nhuận.
Về phía các nhà đầu tư, các nhà tài trợ đã cam kết một mức vốn ODA kỷ
lục cho năm 2007 và điều này làm khả năng thu hút vốn đầu tư của nước ngoài
vào Việt Nam trong những năm tới là rất lớn. Mặt khác, dòng vốn đầu tư nước
ngoài tiếp tục có xu hướng chuyển mạnh sang các nước đang phát triển, nhất là
các nền kinh tế mới nổi, có tốc độ tăng trưởng cao, có lợi thế về lao động, tài
nguyên và chính sách đầu tư thông thoáng, trong đó có Việt Nam . Trong khi đó,
những rủi ro do tập trung đầu tư quá lớn vào Trung Quốc đã bộc lộ rõ trong năm
2005, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các tập đoàn lớn điều chỉnh
chiến lược đầu tư dài hạn, trong đó có việc phân bổ nguồn vốn đầu tư sang một
số nước khác trong khu vực, trong đó Việt Nam là nước được nhiều tập đoàn
xuyên quốc gia quan tâm. Như dự báo, các tập đoàn của Nhật Bản đã thực hiện
-42-
chiến lược phân bổ nguồn vốn đầu tư theo mô hình Trung Quốc +1. Điều này đã
tạo cơ hội mới cho Việt Nam trong việc tăng cường thu hút đầu tư của các tập
đoàn Nhật Bản.
Thị trường BĐS của Việt Nam sau một thời gian đóng băng đã sôi động
trở lại, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán. Giá
vàng cũng tăng mạnh trong thời gian qua và giá đất, giá BĐS cũng đang tăng lên
(cả giá mua bán và cho thuê). Trong khi đó, thị trường vốn trong nước lại rất
hạn chế, điều này sẽ làm các chủ đất tìm kiếm nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
để phát triển các dự án kinh doanh BĐS. Hợp tác giữa chủ đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài trong việc triển khai các dự án sẽ diễn ra sôi động hơn.
Thủ tục vay vốn ngân hàng và khả năng vay vốn từ các ngân hàng để đầu
tư vào BĐS đã dễ dàng hơn trước, đặc biệt các nhà đầu tư có thể vay vốn từ các
ngân hàng trong nước với mức lãi suất từ 10-11%/ năm (Lãi suất gửi tiết kiệm
tiền đồng hiện nay khoảng 9%/ năm).
Năm 2006, tổ chức Standard & Poor’s đã nâng cấp định mức tín nhiệm
của hệ thống tài chính tiền tệ của Việt Nam lên một bậc. Ngoài ra, theo báo cáo
năm 2007 của Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) về
xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam và các nước trong khu vực, Việt
Nam đứng thứ 104/175, trên cả Philippine (126/175) và Indonesia (135/175)
[29]. Những yếu tố này cũng góp phần đưa Việt Nam thành mục tiêu của nhiều
nhà đầu tư nước ngoài.
Nhu cầu về văn phòng, căn hộ cho thuê và khách sạn có sự gia tăng đột
biến, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
phòng,... và các khu công nghiệp. Cùng với sự tăng lên nhanh chóng của dòng
vốn đầu tư, hàng loạt các nhà đầu tư nước ngoài đã đến Việt Nam làm nảy sinh
nhu cầu về văn phòng, nhà ở, khách sạn, đất đai phục vụ sản xuất, kinh doanh,
-43-
xây dựng nhà xưởng. Điều này đã kích thích thị trường BĐS cả trung lẫn dài
hạn.
Trong thời gian qua, rất nhiều công ty đa quốc gia đã đặt văn phòng hoặc
mở rộng văn phòng tại Việt Nam . Ngoài ra, các công ty, ngân hàng lớn của Việt
Nam cũng phát triển mạnh mẽ, không ngừng mở rộng mạng lưới chi nhánh và
có nhu cầu xây mới, cải tạo, thuê và cho thuê trụ sở làm việc như VNPT (Tổng
Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam), Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam
(Vinalines), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam , Ngân hàng Đầu tư và phát
triển Việt Nam ,... Các doanh nghiệp này cũng kêu gọi vốn đầu tư từ các doanh
nghiệp nước ngoài để có thể vừa có nơi làm việc lại vừa có lợi nhuận từ việc
kinh doanh toà nhà của mình.
Thị trường bất động sản tại các nước Đông Nam Á hiện đã bão hoà nên
Việt Nam trở thành một thị trường nhiều tiềm năng đầu tư và kinh doanh BĐS
đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Giai đoạn từ 2003 chính là một thời kỳ phát
triển mới nhiều triển vọng tốt đẹp của nền kinh tế Việt Nam . Chính vì vậy, các
nhà đầu tư có thể yên tâm phát triển các dự án BĐS mà không lo đến đầu ra của
dịch vụ này cũng như khả năng thu hồi vốn và sinh lời từ các dự án, nhất là
trung và dài hạn.
Thị trường chứng khoán của Việt Nam cũng đã hình thành và phát triển
với tốc độ nhanh chóng thu hút sự tham gia của nhiều nhà đầu tư. Một mặt, lợi
nhuận từ chứng khoán sẽ được chuyển sang đầu tư trực tiếp vào các dự án bất
động sản, mặt khác, chính các công ty kinh doanh BĐS sẽ niêm yết trên sàn giao
dịch chứng khoán để thu hút vốn đầu tư. Ví dụ, gần đây, công ty cổ phần
Vincom, một công ty có rất nhiều dự án BĐS lớn như Toà nhà Vincom City
Towers (kinh doanh văn phòng và trung tâm thương mại) ở Hà nội, Khu du lịch
Vinpear Land tại Hòn Tre, Nha Trang, Khánh hoà, Dự án cải tạo công viên Lê
nin và dự án sân gôn … đã phát hành cổ phiếu và chuẩn bị niêm yết trên sàn
-44-
giao dịch chứng khoán, quỹ đầu tư BĐS Vinaland cũng có ý định niêm yết trong
tương lai gần.
2.1.2.3 Môi trường văn hoá:
Trong những năm gần đây, do sự phát triển của công nghệ thông tin và
những chính sách mở cửa trong giáo dục, đào tạo và văn hoá của nhà nước Việt
Nam , trình độ văn hoá xã hội và nhận thức của người lao động đã được nâng
lên rất nhiều. Thanh niên Việt Nam ham hiểu biết, chịu khó học tập, có ý chí
tiến thủ và ngày càng trở nên năng động, có thể dễ dàng thích ứng với môi
trường và nhịp độ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hầu hết những người Việt Nam tìm việc trong các dự án đầu tư nước ngoài đều
phải trang bị vốn tiếng Anh hoặc ngôn ngữ của nước chủ đầu tư (Nhật, Pháp,
Đức, Trung Quốc,...) và kỹ năng sử dụng máy tính, các loại thiết bị văn phòng
để sử dụng trong công việc. Vì vậy, sự bất đồng ngôn ngữ không còn là việc cản
trở các đối tác trong việc ký kết thoả thuận hay cùng nhau kinh doanh, quản lý
dự án. Ngày càng có nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học ở nước
ngoài về làm việc tại Việt Nam , cùng với việc mở rộng và nâng cao chất lượng
đào tạo của các trường đại học trong nước, trình độ chuyên môn của người lao
động cũng tăng lên rất nhiều so với trước đây.
Việt Nam là nước tương đối bình đẳng trong việc sử dụng lao động nam
và nữ. Điều này xuất phát từ thực tế là chất lượng lao động trí thức Việt Nam
trong các ngành kinh tế và dịch vụ tương đối đồng đều giữa nam và nữ, thậm chí
có ngành, nữ có nhiều thuận lợi hơn. Phụ nữ Việt Nam khéo tay, cần cù và có
tính kiên nhẫn. Mặt khác, đời sống của nhân dân Việt Nam còn chưa cao nên
trong một gia đình, mọi thành viên đều phải nỗ lực lao động để trang trải các chi
phí sinh hoạt và giải trí. Vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài có thể có nhiều cơ
hội tuyển dụng được nhân sự vào những vị trí phù hợp với yêu cầu công việc
của mình. Tuy nhiên, người lao động Việt Nam có nhược điểm là ý thức kỷ luật
và tự giác chưa cao, tinh thần trách nhiệm đối với công việc đôi lúc vẫn chưa
-45-
đáp ứng được yêu cầu của công việc. Điều này đòi hỏi phải có sự đào tạo và
giám sát thực hiện đối với người lao động.
Trong việc điều hành các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vẫn
còn một số điểm khác biệt về cách nhận thức, tiếp cận công việc hay quan điểm
trong kinh doanh, quản lý, thủ tục hành chính giữa đối tác nước ngoài và Việt
Nam , đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ. Điều này xuất phát từ việc ngành công
nghiệp dịch vụ tại Việt Nam vẫn chưa phát triển và do sự khác biệt về văn hoá
phương đông và phương tây, hay đơn giản chỉ là sự khác biệt về nền văn hoá
giữa các quốc gia khác nhau.
Ví dụ: Trong các liên doanh BĐS có vốn của Nhật bản, Người Nhật rất
quan tâm đến chi tiết mà mong muốn thể hiện rõ ràng bằng văn bản tất cả các
chi tiết cụ thể, dù là nhỏ nhất trong các thoả thuận, giấy tờ. Trong khi đó, người
Việt có xu hướng sử dụng các từ ngữ mang ý nghĩa chung chung hoặc quá rộng
nên đôi khi dẫn đến sự hiểu nhầm. Khác với người Việt Nam – thường quan tâm
đến con dấu trong các văn bản, Người Nhật xem chữ ký quan trọng hơn con dấu.
Trong quản lý, người Nhật thích quản lý theo kiểu trực tuyến, thông tin đi thẳng
từ trên xuống hoặc có trình tự. Điều này có ưu điểm là mệnh lệnh được thực
hiện chính xác, đúng đối tượng tuy nhiên có thể nảy sinh quan liêu. Người Việt
lại có thể quan tâm đến những thông tin đan xen, vượt cấp, thông tin có thể
nhanh hơn nhưng đôi khi lại thiếu chính xác... Đây cũng là một nguyên nhân
dẫn đến sự bất đồng trong lãnh đạo của các công ty liên doanh có vốn đầu tư của
Nhật bản.
Do trình độ phát triển kỹ thuật của các đối tác nước ngoài và Việt Nam
khác nhau, đôi lúc việc kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng bởi quan điểm “thế nào là
hiện đại? thế nào là đẹp? thế nào là tiện lợi?”, đặc biệt là trong việc quản lý kinh
doanh bất động sản thương mại như cho thuê văn phòng, căn hộ, khách sạn, khu
giải trí,... Ví dụ: về màu sắc nội thất, người châu Âu thích những màu sặc sỡ,
tươi sáng, người Nhật thích những màu lạnh, trầm. Khi dự án đặt ra nhằm hướng
-46-
vào khách thuê người Nhật thì sẽ không thể trang trí theo kiểu nội thất Âu. Hoặc
đối với người nước ngoài nhãn hiệu, thương hiệu một số sản phẩm có thể khẳng
định được chất lượng, nhưng người Việt thường không tin tưởng những hàng
hoá có nguồn gốc sản xuất từ nước thứ ba... Nếu không dung hoà được thì khả
năng nảy sinh mâu thuẫn trong quản lý rất cao. Vì vậy, khi quyết định đầu tư,
nhà đầu tư cần nghiên cứu để chọn hình thức đầu tư và quản lý dự án thích hợp.
2.2 Tình hình đầu tư và kinh doanh bất động sản tại Hà Nội
2.2.1. Tầm quan trọng của việc phát triển các dự án BĐS có vốn đầu tư nước
ngoài tại Hà Nội
Hà nội là thủ đô của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam , là
trung tâm văn hoá và chính trị của cả nước và trung tâm kinh tế lớn thứ hai sau
Thành phố Hồ Chí Minh. Hà nội có diện tích tự nhiên là 92,1 nghìn hecta và là
một thành phố cổ với 1000 năm lịch sử . Vì vậy, trong bối cảnh hội nhập kinh tế
thế giới khi Việt Nam đã gia nhập WTO, mục tiêu của Hà Nội trong những
năm tới là trở thành thủ đô văn minh, hiện đại, có thể sánh vai với các thành phố
lớn khác trong khu vực. Chính quyền Hà Nội đã có định hướng tăng quy hoạch
phát triển kinh tế – xã hội của thủ đô giai đoạn 2001 – 2010 nhằm phát huy đối
đa các tiềm năng của mình và thu hút các nguồn vốn FDI, ODA để có thể tăng
trưởng các chi tiêu kinh tế cơ bản của thành phố lên từ 1,5 đến 2,5 lần vào năm
2010. Trong đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng và bất động sản đóng vai trò đặc
biệt quan trọng đối với việc đổi mới bộ mặt của thành phố. Lĩnh vực này đòi hỏi
một lượng vốn đầu tư rất lớn để có thể phát triển và điều này chỉ có thể được
giải quyết thông qua kêu gọi đầu tư nước ngoài.
Các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản thường có qui mô
lớn, vị trí đẹp, thiết kế nổi bật, công nghệ hiện đại và cách quản lý chuyên
nghiệp. Với những công trình này, Hà Nội có thể có đầy đủ điều kiện cung cấp
trụ sở làm việc, khu vực cư trú, vui chơi giải trí, ... cho các nhà đầu tư từ nước
-47-
ngoài đến sống và làm việc tại đây, đồng thời đáp ứng được nhu cầu làm việc và
sinh hoạt ngày càng cao của nhân dân. Với cơ sở hạ tầng và vật chất đầy đủ, khả
năng cạnh tranh của Hà Nội sẽ được tăng lên để thu hút vốn đầu tư, phát triển
kinh tế và phát triển ngành du lịch, một trong những thế manh của thành phố.
Đầu tư nước ngoài vào bất động sản sẽ tạo điều kiện về vốn để thực hiện
đúng quy hoạch xây dựng và cơ cấu xây dựng của thành phố. Hà Nội sẽ được
mở rộng về diện tích, phát triển được đô thị hoá các khu vực lân cận, từ đó vừa
không làm mất đi nét cổ kính riêng biệt lại vừa hiện đại hoá phù hợp với sự phát
triển kinh tế chung của đất nước và khu vực.
Cùng với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài khác, các dự án BĐS góp
phần làm tăng GDP, tăng nguồn thu cho ngân sách thành phố qua các đóng góp
về thuế, phí,... Trong năm 2006, khối đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 15%
tổng đầu tư xã hội trên địa bàn, đóng góp 16% GDP, 38% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tạo 10% tổng thu ngân sách cho thành phố và thu hút 71 nghìn lao động
[16].
Các dự án BĐS do nước ngoài đầu tư đã thu hút rất nhiều lao động tại Hà
Nội, giải quyết công ăn việc làm , tăng thu nhập cho người lao động. Sự hấp dẫn
về thu nhập cùng những đòi hỏi cao về trình độ buộc là những yếu tố buộc
người lao động có ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ và tay nghề
để được nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp này. Sự cạnh tranh tự nhiên
giữa các doanh nghiệp và người lao động đã giúp cho lực lượng lao động của Hà
nội có trình độ và tác phong làm việc hiện đại, năng động và chuyên nghiệp hơn.
Phát triển đầu tư nước ngoài vào các dự án BĐS giúp Hà nội tiếp nhận
công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, đặc biệt trong lĩnh vực xây
dựng, tài chính và quản lý. Cùng với sự xuất hiện của các công trình ngày càng
hoàn thiện về thiết kế, cảnh quan, tiện ích sử dụng là kinh nghiệm quản lý cùng
với các kỹ năng quan trọng như kỹ năng hoạch định chiến lược, điều hành sản
xuất, quản trị marketing, tài chính, nhân sự,... cũng được đưa vào. Đây là cơ hội
-48-
để học tập những kiến thức và kỹ năng quí báu mà đội ngũ các nhà quản lý trong
nước có thể nghiên cứu và học tập để áp dụng cho các hoạt động kinh doanh của
mình. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận sự khác biệt về văn hoá, môi trường kinh tế,
pháp luật, chính trị,... sẽ làm cho các nhà hoạch định chính sách của thành phố
có điều kiện ra soát lại những qui định của mình để có sự điều chỉnh cho phù
hợp, làm các chính sách được ban hành ngày càng có hệ thống và tính khả thi
cao hơn, kết hợp được hài hoà lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư, doanh nghiệp
trong nước và người lao động.
Sự xuất hiện của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và trong
lĩnh vực BĐS nói riêng đã tạo nên một sự cạnh tranh trong không khí hoạt động
của các doanh nghiệp trong nước và trong thành phố. Đó là việc cạnh tranh của
các doanh nghiệp tự hoàn thiện sản phẩm hoặc dịch vụ của mình với mong
muốn trở thành người cung cấp hay nhà thầu cho các dự án. Mặt khác, việc cạnh
tranh này cũng có thể là tự cải thiện chất lượng dịch vụ BĐS của các nhà phát
triển bất động sản hoặc kinh doanh dịch vụ BĐS trong nước để không bị thất thế
trước các dự án, công trình của nước ngoài. Ở khía cạnh nào, cũng làm cho
doanh nghiệp trong nước năng động hơn và các sản phẩm, dịch vụ được cung
cấp ra ngày càng có chất lượng tốt hơn.
2.2.2. Những thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động
sản ở Hà Nội
2.2.2.1 Tình hình đầu tư vào BĐS tại Hà nội
Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính
tới ngày 22/4/2007, Hà nội đã thu hút 814 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số
vốn đầu tư 10.251.931.996 USD, là thành phố đứng thứ 2 trong cả nước (sau
Thành phố Hồ Chí Minh) về thu hút đầu tư nước ngoài. Có thể nhận thấy, trong
những năm gần đây, đầu tư nước ngoài vào Hà nội đã tăng lên nhanh chóng cả
về số lượng dự án lẫn tổng vốn đầu tư đăng ký (Bảng 2.3). Điều này chứng tỏ,
-49-
Hà nội có sức hấp dẫn rất lớn với các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2007, Hà nội
phấn đấu thu hút vốn đầu tư đăng ký từ 1,5 tỷ USD trở lên với trên 200 dự án.
Bảng 2.3: Kết quả thu hút vốn ĐTNN của Hà Nội trong những năm gần đây
Đơn vị tính: triệu USD
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2/2007
Hạng mục
Số dự án cấp phép 44 60 66 74 110 194 33
Tổng vốn ĐT đang ký 200 362 162 293 1.585 1.120 145,5
Nguồn: Báo cáo tóm tắt kết quả đầu tư nước ngoài 2006và kế hoạch định hướng 2007 (Sở KH và ĐT Hà nội)
Tổng vốn ĐT thực hiện 85 175 200 270 300 - -
Trong các dự án đầu tư nước ngoài vào Hà Nội, có rất nhiều dự án phát
triển BĐS và c ó số vốn rất lớn. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư (Xem Phụ lục 1 và Phụ lục 2), tính đến tháng 3 năm 2007,
đã có 36 dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phát triển văn phòng và
căn hộ và 30 dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn và du lịch
đã chính thức được cấp phép triển khai xây dựng và đi vào hoạt động. Ba dự án
đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Hà nội đang được triển khai là Dự án phát triển
Khu đô thị mới Nam Thăng long (liên doanh với) Singapore với tổng vốn đầu
tư 2,1 tỷ USD; dự án phát triển Khu đô thị mới Bắc Thăng Long (liên doanh với
Thái lan) với tổng vốn đầu tư là 236 triệu USD và dự án Tổ hợp văn phòng, căn
hộ, trung tâm thương mại và giải trí của Công ty Coralis VietNam (100% vốn
Luxembourg). Tháng 1/2006, dự án Khu đô thị Tây Hồ Tây (Hàn Quốc) với
tổng vốn đầu tư 314 triệu USD đã được cấp giấy phép đầu tư.
Trong năm 2006 và đầu năm 2007, có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài
đang tiến hành thủ tục xin cấp phép trong lĩnh vực BĐS với các dự án có qui mô
đầu tư rất lớn như dự án khách sạn 5 sao tại khu X1 (1,98ha) của tập đoàn
-50-
Charmvit (Hàn Quốc) với vốn đầu tư khoảng 80-100 triệu USD; dự án tổ hợp
khách sạn 5 sao tại khu X2 (4 ha) của tập đoàn Riviera (Nhật bản) với vốn đầu
tư 550 triệu USD, dự án tổ hợp khách sạn 5 sao trên đường Phạm Hùng của tập
đoàng KeangNam (Hàn Quốc) với vốn đầu tư dự kiến 500 triệu USD; dự án
Công viên Tuổi trẻ Thủ đô là liên doanh của tập đoàn RAFIN (Ba lan) với Tổng
công ty Du lịch Hà nội với mục đích xây tổ hợp khách sạn, trung tâm thương
mại, văn phòng và căn hộ cao cấp với tổng số vốn khoảng 200 triệu USD; dự án
West Gate xây dựng và kinh doanh tổ hợp văn phòng, khách sạn, trung tâm
thương mại và căn hộ bán lẻ của tập đoàn Orix (Nhật bản) liên doanh với Tổng
công ty Gốm và Thuỷ tinh Việt Nam (Viglacera) trên diện tích 35.000 m2 đối
diện với Trung tâm Hội nghị Quốc gia với số vốn dự định hơn 100 triệu USD,...
Bên cạnh đó, rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài và Việt Kiều đã đến Hà nội để
khảo sát, tìm vị trí và đối tác đầu tư vào lĩnh vực BĐS.
Trong những lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài của thành phố Hà
nội hiện nay có việc ưu tiên các dự án đầu tư phát triển các khu đô thị mới Bắc
Sông Hồng cùng các trung tâm văn phòng, thương mại, triển lãm, đào tạo -
nghiên cứu – phát triển đi cùng và các dự án cải tạo và phát triển các khu tập thể
cũ trong thành phố thành những khu dân cư đô thị hiện đại với hạ tầng hoàn
chỉnh.
2.2.3 Tình hình kinh doanh bất động sản ở Hà nội hiện nay
Theo quan điểm của một công ty chuyên nghiệp về quản lý và phát triển
BĐS là Công ty CBRE Việt Nam , các toà nhà thương mại ở Hà Nội được chia
thành 3 hạng: hạng A, hạng B và hạng C như trong bảng sau (Bảng 2.4).
-51-
Xếp Hạng
Hạng A
Hạng B
Hạng C
Loại công trình
Các toà nhà văn phòng
+ Nằm trong khu trung tâm
+ Nằm trong khu trung
+ Không nằm trong khu
kinh doanh
thương mại
tâm kinh doanh thương
vực CBD
(CBD). Đó
là các quận
mại hoặc khu giáp ranh
Hoàn Kiếm, Ba đình và
với CBD.
những khu vực thuộc quận
Đống Đa, Hai Bà Trưng
giáp ranh với hai quận đó
+ Kiến trúc nổi bật (do các
+ Kiến trúc đẹp, cao
+ Kiến trúc thiết thực,
kiến trúc sư và nhà thần nổi
trên 7 tầng, diện tích
diện tích mặt sàn dưới
tiếng đảm nhiệm). Toà nhà
mặt sàn từ 500m2 đến
500m2
cao tầng, diện tích mặt sàn
1000m2
lớn hơn 1000m2 và tốt nhất
là không có cột giữa
Các toà nhà dân cư
+ Nằm trong khu trung tâm
+ Nằm trong khu trung
+ Không nằm trong khu
kinh doanh thương mại hoặc
tâm kinh doanh thương
vực CBD
khu giáp ranh với CBD.
mại hoặc khu giáp ranh
+ Diện tích mặt bằng rộng,
với CBD.
tiện nghi cao cấp
(sân
+ Tiện nghi tiêu chuẩn
+ Thiết thực, có một vài
tennis, bể bơi, khu chăm sóc
và có hầu hết các dịch
tiện nghi và dịch vụ đi
sức khoẻ), có đầy đủ mọi
vụ. Trang thiết bị nội
dịch vụ khép kín đồng bộ.
thất đầy đủ, hiện đại.
kèm. Trang thiết bị nội thất tốt, đầy đủ.
Trang thiết bị nội thất đầy
đủ, hiện đại, sang trọng
(Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis VietNam )
Bảng 2.4: Phân hạng các toà nhà
Tuỳ vào đối tượng khách hàng mà nhà kinh doanh BĐS muốn cung cấp
dịch vụ mà nhà đầu tư sẽ lựa chọn quy mô, vị trí đất đầu tư phù hợp với ngân
sách và mục đích của mình.
2.2.3.1 Tình hình kinh doanh văn phòng cho thuê:
Thị trường văn phòng cho thuê của Hà Nội hiện nay đang sôi động hơn
bao giờ hết. Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến giới kinh doanh tin
-52-
rằng sẽ tiếp tục xảy ra sốt giá với các văn phòng hạng A là dòng vốn đầu tư
nước ngoài đang đổ vào Việt Nam ngày một lớn. Số công ty, văn phòng đặt trụ
sở tại Hà Nội đang tăng lên mạnh mẽ cùng với sự có mặt của đông đảo các
doanh nhân nước ngoài và Việt Kiều. Bản thân một số doanh nghiệp trong nước
có năng lực về tài chính cũng muốn chuyển vào các toà văn phòng cao cấp để
hưởng dịch vụ tốt hơn và nâng cao hình ảnh, thương hiệu của mình với các đối
tác. Vì vậy, đối tượng khách hàng mà các toà nhà hạng A nhắm tới giờ đây
không chỉ là những công ty, văn phòng nước ngoài mà còn là những công ty lớn
hoặc kinh doanh thành công tại Việt Nam . Xu hướng của hầu hết các khách
thuê văn phòng là muốn làm việc tại một toà nhà hiện đại, tiện nghi có cách
quản lý chuyên nghiệp. Trong khi số lượng các toà nhà hạng A và B tại Hà nội
không đủ để đáp ứng nhu cầu đó (Biểu 2.1).
Biểu 2.1: Diện tích cho thuê và diện tích còn trống tại các toà nhà văn phòng hạng A và hạng B
(Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis VietNam )
-53-
Chỉ mới 2, 3 năm trước đây, giá cho thuê bình quân tại các toà nhà hạng A ở Hà Nội chỉ vào khoảng 24USD/m2/tháng nhưng đến nay giá thuê văn phòng đã tăng mạnh, vượt xa mức 30USD/m2/tháng mà vẫn kín chỗ thuê. Giá thuê đã
vượt quá 50USD/m2/tháng tại các vị trí đẹp trong các trung tâm thương mại lớn
như Vincom City Towers, Luxury Mall,…Các toà nhà hạng B cũng được cho
thuê với tỷ lệ rất cao. Trong Quý I/2007, giá thuê văn phòng hạng A đã tăng 5%
so với quý trước (Biểu 2.2).
Biểu 2.2: Giá thuê trung bình của văn phòng hạng A tại Hà nội (Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis Vietnam)
Mặc dù chưa chính thức khai trương nhưng hai toà nhà hạng A là Opera
Business Centre (Hongkong) ở đường Lý Thái Tổ và Pacific Place (Pháp) trên
đường Lý Thường Kiệt ở Hà nội dù mới sắp đi vào hoạt động cũng có giá tương
tự và đã kín chỗ đặt thuê. Hai cao ốc hạng B khác là Viglacera Tower và VIT
Tower cũng đã được đặt thuê hết chỗ. Các công ty kinh doanh BĐS dự báo sức
ép của nhu cầu thuê văn phòng hạng A sẽ không giảm cho đến năm 2008, bởi
-54-
trong khoảng thời gian đến đó, không có thêm một cao ốc văn phòng hạng A
nào đi vào hoạt động.
Một vấn đề mà cả chủ toà nhà lẫn khách thuê đều đặc biệt quan tâm tại
các toà nhà văn phòng, đó là các bãi đỗ xe. Các toà nhà thường có bãi đỗ xe
trong tầng hầm, hoặc trên một số tầng trong toà nhà. Tuy nhiên, với số lượng xe
máy quá động của các nhân viên làm việc trong đó, cộng thêm với việc ngày
càng có nhiều người sử dụng ô tô, cũng như các xe ô tô của các văn phòng, đa
số các toà nhà hiện nay bị quá tải về chỗ đỗ xe và điều này khó có thể khắc phục
được và đó cũng là một điểm mà các nhà đầu tư BĐS cần quan tâm đặc biệt đối
với các dự án sau này.
Dự đoán trong năm 2008 sẽ có 33.000m² tổng diện tích sàn văn phòng
Hạng A sẽ đi vào hoạt động và rất nhiều tòa nhà văn phòng Hạng B khai trương
trong năm 2007, 2008. Thị trường văn phòng cho thuê của Hà nội sẽ vẫn còn rất
phát triển trong một vài năm tới. Tuy nhiên, sau năm 2010, thị trường văn
phòng có thể sẽ phải đối mặt với sự bão hoà và giá cho thuê sẽ giảm xuống.
2.2.3.2 Tình hình kinh doanh căn hộ cho thuê
Tuy không được “nóng” như thị trường văn phòng cho thuê nhưng thị
trường căn hộ cho thuê cũng đang phát triển rất tốt với hệ số sử dụng cao và giá
thuê tăng lên (Biểu 2.3).
-55-
Biểu 2.3: Căn hộ cho thuê trong Quý 1/2007 và tỷ lệ còn trống (Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis Vietnam)
Đối tượng của thị trường này là các cá nhân và tổ chức nước ngoài làm
việc tại Hà nội. Hiện tại, số lượng các căn hộ cho thuê vẫn đang tăng lên theo
nhu cầu sử dụng nhưng giá thuê chỉ tăng nhẹ, trung bình từ 18,7 đến 49,6
USD/m2/ tháng. Giá của các căn hộ nhỏ có xu hướng tăng cao hơn các căn hộ
có diện tích lớn (Biểu 2.4). Đầu tư vào căn hộ cho thuê cũng rất hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài. Tiền thuê căn hộ thường được thanh toán trước trong thời
hạn dài nên có thể mang lại doanh thu ổn định cho nhà đầu tư.
-56-
Biểu 2.4: Giá thuê phân theo loại hình căn hộ (USD/m2/tháng) (Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis Vietnam) Khi đầu tư vào các dự án có quy mô nhỏ, chủ đầu tư cũng không nhất
thiết phải trang bị các tiện nghi giải trí kèm theo mà chỉ cần chú trọng đến chất
lượng của căn hộ và dịch vụ cung cấp cho căn hộ ấy như làm buồng, điện nước,
ADSL, kênh truyền hình,... Như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí và giảm
được tiền thuê, và sẽ tăng được tỷ lệ thuê lên.
Trong thời gian tới, các căn hộ cho thuê có xu hướng phát triển thành căn
hộ – khách sạn (hotel apartment). Thực tế thời gian qua cho thấy, do hạn chế của
thị trường khách sạn cao cấp tại Hà Nội, nhất là trong các sự kiện kinh tế, chính
trị, văn hoá và du lịch, các căn hộ đã được đem cho thuê với giá của khách sạn
và chủ đầu tư đã thu được một khoản lợi nhuận cao hơn so với cho thuê dài hạn.
Vì vậy, các chủ đầu tư sẵn sàng trang bị cho căn hộ của mình để đón tiếp khách
ngắn hạn vào bất cứ lúc nào.
-57-
Đầu tư vào căn hộ thương đi kèm với việc cung cấp các dịch vụ sinh hoạt
như làm buồng, ăn uống, giặt là, mua hàng, ... Để tiết kiệm chi phí thuê ngoài,
các nhà đầu tư và quản lý phải đào tạo đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp riêng.
2.2.3.3. Tình hình kinh doanh nhà ở
Đây là lĩnh vực mới đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhưng lại phát
triển rất nhanh và được các nhà đầu tư rất quan tâm. Nguyên nhân của điều này
là do luật pháp Việt Nam đã cho phép người Việt Nam định cư tại nước ngoài
có quyền mua nhà, đồng thời, mức sống và nhu cầu sinh hoạt của người Việt
Nam cũng tăng rất nhanh nên ngày càng nhiều người muốn và có khả năng mua
nhà tại những khu dân cư cao cấp, tiện nghi, hiện đại và văn minh. Mặt khác,
khi tiến hành dự án xây nhà để bán, nhà đầu tư có thể thu hồi vốn nhanh hơn (do
các khách hàng phải ứng tiền mua nhà trước), từ đó có thể tính toán được doanh
thu và lợi nhuận từ dự án ngay sau một thời gian ngắn triển khai dự án, điều này
cho phép các nhà đầu tư có thể tiếp tục lên kế hoạch cho các án khác của mình
nhằm nhanh chóng quay vòng vốn.
Khi đầu tư vào thị trường nhà ở, các nhà đầu tư nước ngoài thường tập
trung vào các dự án lớn, có chất lượng cao, dịch vụ tiêu chuẩn quốc tế, còn các
nhà đầu tư trong nước thường chiếm ưu thế trong các dự án có quy mô vừa và
nhỏ, chất lượng khá. Những dự án hiện nay đã triển khai và đã bán được gần hết
là Golden West Lake, Chelsea Park, The Mannor, Pacific Place, Ciputra... Giá
bán tại các căn hộ này cũng tăng rất nhanh trong thời gian qua (Biểu 2.5).
Theo dự đoán của các chuyên gia BĐS, nhu cầu về nhà ở sẽ tiếp tục gia
tăng mạnh và tình hình kinh doanh tại các dự án có chất lượng cao sẽ rất khả
quan. Tuy nhiên, các căn hộ ở vị trí trung tâm vẫn có một khoảng cách rất xa về
giá bán so với các vị trí ở xa. Hiện nay, cũng chưa có nhiều nhà đầu tư mặn mà
trong việc cải tạo các chung cư cũ ở Hà nội dù có rất nhiều vị trí đẹp. Lý do chủ
yếu là các nhà đầu tư lo ngại vấn đề đền bù tái định cư và giải phóng mặt bằng
tại các khu vực này.
-58-
(Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis VietNam )
Biểu 2.5: Giá bán căn hộ tại một số dự án tiêu biểu
Việc phát triển kinh doanh nhà ở sẽ kéo theo sự ra đời của các khu đô thị
mới để đảm bảo một môi trường sinh hoạt hoàn chỉnh với các trường học, bệnh
viện, khu vui chơi, công viên.... Hiện này những khu căn hộ cao cấp đã có nhiều
người đến ở như Ciputra, the Mannor,... và sắp tới các căn hộ cao cấp khác như
Golden West Lake, Pacific Place (là hai khu căn hộ đắt tiền nhất hiện nay),
Chealsea Park, Hoa Binh Towers,... hay các đô thị mới như Tây Hồ Tây, Nam
Thăng Long, Việt Hưng, Bắc Sông Hồng, ... sẽ thu hút một lượng dân cư và
người nước ngoài đến sinh sống và làm việc tại đó. Vì vậy, chính quyền thành
phố cần thu hút cả đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng tại những khu vực
này.
-59-
2.2.3.4. Tình hình kinh doanh khách sạn
Do sự phát triển kinh tế (qua làn sóng đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh
tế) và du lịch của Việt Nam cùng với sự xuất hiện của các hãng hàng không giá
rẻ như Asia Air, Jet Star, Tiger Airlines & Hong Kong Air,... những năm gần
đây, Hà nội đã thu hút một số lượng rất lớn khách quốc tế (Biểu 2.6)
Biểu 2.6: Số lượt khách quốc tế đến Việt Nam 1990 – 2006 (Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis Vietnam)
Tuy nhiên, hầu hết các khách sạn 4 và 5 sao đã đi vào hoạt động từ những
năm 90 và không có khách sạn mới nào đi vào hoạt động trong một vài năm qua.
Vì vậy, hiện nay Hà Nội đang rất thiếu những khách sạn cao cấp trong khi nhu
cầu sử dụng rất cao. Hiện nay, Hà Nội chỉ có 8 khách sạn 5 sao, 6 khách sạn 4
sao. Các khách sạn đều đạt hiệu suất sử dụng xấp xỉ 84% trong quý 1/2007 với
giá cho thuê trung bình 115USD/ngày chưa có thuế và dịch vụ phí (Biểu 2.7).
Theo tính toán của các chuyên gia, với mức giá đó, chỉ cần hiệu suất sử dụng
30% trở lên là có thể hoà vốn và bắt đầu có lãi. Dự đoán, trong năm 2007, sẽ có
320 phòng khách sạn từ 3-5 sao được đưa vào sử dụng và sẽ thêm 4 khách sạn 5
-60-
sao được cấp giấy phép đầu tư. Do đó, đầu tư vào kinh doanh dịch vụ khách sạn
tại Hà nội cũng vô cùng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và các quỹ đầu tư.
Biểu 2.7: Hiệu suất sử dụng phòng trung bình và giá phòng
(Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis Vietnam)
tại các khách sạn 5 sao
Một trong các nhân tố kích thích phát triển đầu tư vào khách sạn tại Hà
nội là sự phát triển của hoạt động du lịch trong thời gian gần đây khiến số lượng
khách có nhu cầu thuê phòng ở ngắn hạn tăng lên. Các công ty tổ chức Tour du
lịch tại nước ngoài thường ký hợp đồng hợp tác với các khách sạn lớn theo mùa
du lịch hoặc trong các sự kiện đặc biệt thu hút khách tham quan đến Hà nội. Vì
vậy mà trong hai năm gần đây, có những thời điểm khách vãng lai không thể
thuê nổi một phòng khách sạn 4 hoặc 5 sao nào trong một thời gian khá dài.
Trong một vài năm tới, lượng cung về khách sạn 4, 5 sao sẽ tăng rất nhanh do
-61-
hiện nay có rất nhiều dự án đầu từ vào khách sạn đã bắt đầu khởi công hoặc xin
giấy phép. Đa số, các dự án này đều có qui mô rất lớn và ở những vị trí thuận
tiện. Dự đoán, khi các khách sạn đã và đang xin giấy phép đầu tư hiện nay đi
vào hoạt động, sẽ có sự cạnh tranh mạnh mẽ về chất lượng dịch vụ, đồng thời,
các khách sạn hiện đang kinh doanh sẽ phải tự đổi mới để giữ khách hàng hiện
tại và tiếp tục khai thác nguồn khách mới.
2.2.3.5. Tình hình kinh doanh cho thuê các khu trung tâm thương mại
Thị trường bán lẻ vẫn chưa phát triển mạnh tại Hà Nội nên hiện nay các
tập đoàn bán lẻ nước ngoài đang rất năng động trong việc tìm kiếm các cơ hội
và chuẩn bị cho sự thâm nhập thị trường Việt Nam sau ngày 1/1/2009. Trong
khi đó, các nhà bán lẻ nội địa cũng tích cực mở rộng mạng lưới của mình trước
thời điểm này.
Các trung tâm thương mại cũng chỉ mới được khai trương tại Hà nội
những năm gần đây nhưng nhu cầu lớn và đang tiếp tục tăng mạnh trong khi
lượng cung vẫn còn hạn chế. Xu hướng và thị hiếu tiêu dùng của người dân Hà
nội đã hướng về những nhãn hiệu nổi tiếng, vì vậy ngày càng nhiều thương hiệu
quốc tế có mặt tại Việt Nam và Hà Nội. Điều này làm giá thuê tại các trung tâm
thương mại tăng mạnh nhưng vẫn không đủ đáp ứng (Biểu 2.8).
Trong thời gian tới sẽ có một số dự án tiêu biểu của nước ngoài như
Ciputra Mall (Khu đô thị Nam Thăng Long - 2010), the Landmark (Liễu Giai -
Đào tấn - 2010), The Garden (Mỹ đình - 2009)... sẽ được hoàn thành, tuy nhiên
trong thời gian trước mặt sẽ chỉ có các dự án của nhà đầu tư trong nước được
đưa vào sử dụng như Viet Tower (Thái Hà), Thai Thinh Plaza (Thái Thịnh) vào
Quý 1/2008. Khi đầu tư phát triển các khu đô thị mới, nhà đầu tư nước ngoài
cũng rất chú trọng phát triển các dự án này để đảm bảo tính đồng bộ và tiện ích
của khu dân cư, đồng thời có thể cùng lúc phát triển lĩnh vực quản lý kinh doanh
bán lẻ.
-62-
Biểu 2.8: Diện tích và giá thuê tại các trung tâm thương mại HN (Nguồn: Công ty Quản lý và Tiếp thị BĐS CB Richard Ellis Vietnam)
2.2.4. Những hạn chế của việc đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản
tại Hà Nội
2.2.4.1 Những tồn tại
Các dự án FDI đầu tư vào ngành BĐS tại Hà Nội còn rất hạn chế, chưa
tương xứng với tiềm năng của các đối tác này, đặc biệt chưa tận dụng và phát
huy được lợi thế của Thủ đô trong phát triển kinh tế và du lịch. Cơ cấu hình
thức đầu tư của các dự án FDI chưa đa dạng. Các hình thức đầu tư mới chỉ tập
trung vào hình thức doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và các hình thức đầu tư
khác còn rất hạn chế.
-63-
Nhìn chung, tiến độ thực hiện của hầu hết các dự án còn chậm so với luận
chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Nhiều dự án được cấp trước thời kỳ khủng
hoảng tài chính khu vực vẫn không triển khai hoặc mới chỉ triển khai một số ít
hạng mục như dự án,... Nhiều dự án bất động sản vẫn “dậm chân tại chỗ” do
vướng cơ chế chính sách, gặp khó khăn về đền bù, giải phóng mặt bằng, như dự
án khu đô thị Trấn Sông Hồng, dự án tổ hợp Tháp Văn phòng Hoa Anh đào tại
Bến xe Kim mã,.... Một số dự án gặp vướng mắc kéo dài chưa được xử lý dứt
điểm gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Kết quả là chênh lệch giữa vốn
đăng ký và vốn thực hiện còn lớn, tốc độ tăng vốn thực hiện chưa cao. Thậm chí
có dự án đã bị rút giấy phép đầu tư (Liên doanh Daewoo Hanel xây dựng khu
công nghiệp, thương mại, nhà ở tại Sài đồng) sau 8 năm cấp phép mà chủ đầu tư
mới chỉ làm được một việc là cắm cọc mốc giới cho diện tích đất được giao để
đầu tư.
Tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ
nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước ngoài thì châu Âu và Hoà Kỳ đầu tư
chưa lớn và chưa tương xứng với tiềm năng của họ.
Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư ngước ngoài không thực hiện đúng
những quy định của luật pháp về việc sử dụng lao động là người Việt Nam ,
như: kéo dài thời gian học nghề, trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà
nước quy định, không thực hiện đúng chế độ bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian
lao động trong ngày, ... Trong khi đó, nhiều người lao động không nắm được các
quy định của pháp luật, cộng thêm việc thiếu các tổ chức công đoàn , các cán bộ
của bên Việt Nam không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của người lao
động,... đó chính là nguyên nhân chủ yếu xảy ra các tranh chấp về lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.2.2 Nguyên nhân:
+ Hệ thống luật pháp, chính sách mặc dù đã được hoàn thiện và cập nhật
liên tục song những thay đổi của chúng ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định
-64-
của nhà đầu tư. Rất nhiều ý kiến của các nhà đầu tư và doanh nghiệp cho rằng,
sự hạn chế của vốn đầu tư là do các quy định pháp luật, chính sách hay thay
đổi. Nguyên nhân chính vẫn là do hệ thống các quy định này đang gắn với quá
trình chuyển đổi của nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều quan hệ kinh tế mới phát
sinh vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của hệ thống luật pháp, chính sách. Hơn
nữa, hệ thống quy định của chính sách, pháp luật lại đang trong quá trình điều
chỉnh phù hợp với thông lệ quốc tế. Có những điều luật từ khi ban hành đến khi
có những văn bản hướng dẫn thi hành phải mất vài tháng. Các quy định về đầu
tư bất động sản còn một số điểm chưa rõ ràng hoặc mâu thuẫn với quyền lợi của
nhà đầu tư khiến cho nhà đầu tư dễ nản lòng.
Ví dụ, mới đây nhất, Điều 12, Quyết định số 153 năm 2006 của ủy ban
Nhân dân Thành phố Hà nội qui định:
“Đối với các dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới, khu nhà ở có diện tích trên 3.000m2 đất, theo quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chủ đầu tư
giúp Thành phố chuẩn bị mặt bằng 20% quỹ đất xây dựng nhà ở (khu quy hoạch
xây dựng nhà chung cư) để Thành phố chủ động đầu tư xây dựng quỹ nhà ở
phục vụ nhu cầu chung của thành phố. Phần diện tích đất này, Thành phố thanh
toán hoàn trả chủ đầu tư đủ kinh phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật theo kết quả thẩm
định của liên ngành và được UBND Thành phố phê duyệt.” [19]
Quy định này đã khiến nhiều nhà đầu tư phát triển BĐS trong và ngoài
nước rất bất bình. Khi thiết kế dự án, nhà đầu tư đã phải đưa ra một ý tưởng kiến
trúc cho toàn bộ công trình trên diện tích mảnh đất họ đầu tư, vậy sẽ lấy 20% đất
của phần nào để trả lại cho thành phố, và giả sử, nếu việc ấy được thực hiện thì
việc xây dựng và sử dụng diện tích đó của thành phố sẽ làm hỏng ý tưởng thiết
kế ban đầu, gây ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Nếu nhà đầu tư nộp khoản
tiền tương đương thay vì giao lại đất cho thành phố sẽ làm nảy sinh vấn đề nộp
-65-
tiền (20% tổng kinh phí đất đầu tư xây dựng) dựa trên cơ sở nào, và để tránh
phải nộp nhiều tiền, sẽ nảy sinh hiện tượng không trung thực khi kê khai chi phí
xây dựng dự án. Cũng tương tự như vậy khi nói về mức hoàn trả kinh phí đầu tư
hạ tầng kỹ thuật cho chủ đầu tư vì sự đánh giá về kinh phí của nhà đầu tư và kết
quả thẩm định liên ngành sẽ không thống nhất, và nhà đầu tư lo ngại sẽ phải
gánh chịu thiệt thòi. Quy định này hoàn toàn không phù hợp với chủ trương thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nhà ở tại Hà nội và cần phải bị bãi bỏ
hoặc sửa đổi.
Môi trường đầu tư cũng đã được cải thiện đáng kể song vẫn tồn tại những
hạn chế như mặt bằng, đất đai, cung cấp điện , nước , giao thông, dịch vụ viễn
thông ... Đây chính là các điều kiện tối thiểu để hình thành một dự án và đảm
bảo lợi nhuận kinh doanh cho nhà đầu tư. Chi phí dịch vụ ở Việt Nam còn cao
hơn ở các nước trong khu vực như cước viễ thông, giá điện, chi phí vận tải ...
Hiện tại, chi phí dịch vụ ở Hà Nội cao hơn các thành phố khác trong khu vực: tiền thuê đất ở vùng nội đô thị là 1 - 12 USD/m2 năm, ngoại ô là 0.35 - 7,2 USD/m2/năm. Đặc biệt trong thời gian gần đây Hà Nội còn gặp phải sự cạnh
tranh gay gắt từ các địa phương trong nước (chủ yếu là do tình trạng khan hiếm
đất đai, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng cao, chính sách thuế, giá lao động,
các thủ tục cấp phép,... ), thậm chí một số địa phương còn giảm giá đất để thu
hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đây là yếu tố gây bất lợi cho Hà Nội trong
thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài. Đã có những dự án sau khi nhà đầu
tư khảo sát tại Hà Nội đã rút vốn không đầu tư nữa hoặc chuyển sang đầu tư ở
địa phương khác. Hà Nội còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa để nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình khi Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh về môi trường kinh
doanh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam xếp hạng năm
2006 của Hà Nội đứng thứ 40 (tụt tới 26 bậc so với bảng xếp hạng năm
trước)[5].
-66-
Công tác xúc tiến đầu tư có nhiều cố gắng nhưng gặp khó khăn do thiếu
kinh phí để tổ chức các cuộc vận động đầu tư ở nước ngoài cũng như hoàn chỉnh
các tài liệu xúc tiến đầu tư. Thành phố hiện vẫn đang thiếu cán bộ có chuyên
môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đã phối
hợp xây dựng văn phòng xúc tiến thương mại, du lịch, đầu tư của thành phố ở
Tokyo (Nhật bản) ... Kinh phí cho quảng cáo du lịch còn quá thấp, bình quân
mỗi khách quốc tế đến Hà Nội chi tiêu 700USD nhưng ngành du lịch bỏ ra có 1
USD dành cho quảng bá xúc tiến. Với mức kinh phí thấp như vậy, việc quảng bá
hình ảnh du lịch Hà Nội đến các thị trường quốc tế gặp nhiều khó khăn.
Một số lĩnh vực có lợi nhuận cao như kinh doanh khách sạn, văn phòng,
căn hộ,... hiện nay đang có sự cạnh tranh từ khu vực kinh tế trong nước. Chất
lượng các sự án hiện đang đầu tư tại Hà Nội chưa được cao, chưa gây được lòng
tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ các dự án đổ bể và gặp khó khăn trong
triển khai còn lớn, trong đó một số dự án gặp vướng mắc kéo dài như dự án của
công ty liên doanh khách sạn Indochine Hà Nội, công ty TNHH khu nghỉ ngơi
sân golf Nội Bài. Trong các dự án kinh doanh BĐS hiện nay, chỉ khoảng hơn
một nửa là có lãi, còn lại là đang hoạt động bình thường hoặc vẫn còn khó khăn
về tài chính, phải xin giãn nợ, chưa triển khai hoạt động hoặc giãn tiến độ thực
hiện.
Thành phố còn chưa thật sự chủ động trong việc xây dựng danh mục dự
án kêu gọi đầu tư nước ngoài phù hợp với nhu cầu phát triển trong giai đoạn
mới, nhất là việc khuyến khích vốn FDI vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
Quy hoạch tổng thể của Thủ đô đã được Chính phủ phê duyệt tuy nhiên
các quy hoạch chi tiết, khu vực chưa được phê chuẩn đồng bộ do vậy đã gây khó
khăn có các nhà đầu tư nước ngoài. Vấn đề đền bù và giải phóng mặt bằng đã
gây khó khăn rất nhiều cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do thiếu quy hoạch chi
tiết nên công tác đền bù, giải toả, giải phóng mặt bằng điễn ra thường chậm hơn
so với tiến độ và làm tăng thái độ chần chừ, do dự của nhà đầu tư.
-67-
Thủ tục hành chính, thủ tục cấp phép còn phức tạp, rườm rà, thời gian trả
lời của các Bộ, ngành đối với dự án chậm, chưa đáp ứng quy định, thủ tục cấp
phép cũng là yếu tố hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài. Khoảng 60% ý kiến
phỏng vấn cho rằng thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp, kéo dài là yếu tố hạnh
chế đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, khi các doanh nghiệp FDI
trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn muốn thuê lao động nước ngoài hay nhà
quản lý nước ngoài làm việc tại Việt Nam thì thủ tục nhập cảnh cho họ cùng
thân nhân rất phiền hà, phức tạp, kéo dài điều này cũng khiến cho các nhà đầu tư
nước ngoài e ngại.
Công tác quản lý đầu tư, nhất là quản lý sau cấp phép còn hạn chế do
thiếu sự phối hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các cấp, ngành chức năng. Đặc biệt
là khâu kiểm tra của các cơ quan nhà nước đối với nội dung của các báo cáo
hoạt động định kỳ mà các doanh nghiệp nộp lên. Vì vậy, các cơ quan chức năng
có thể không nắm được thông tin chính xác và trung thực về tình hình hoạt
động, kinh doanh của các dự án này.
Con người là khâu quyết định nhưng đang là khâu yếu. Trình độ cán bộ
làm công tác đầu tư nước ngoài ở Hà Nội và làm việc trong ngành bất động sản
và du lịch Hà Nội còn hạn chế, chưa được đào tạo bài bản, thiếu thông tin nên
việc hướng dẫn các nhà đầu tư về luật Đầu tư nước ngoài còn yếu kém, chưa
thống nhất, làm hạn chế phát triển dự án FDI trên địa bàn.
2.3. Tình hình quản lý bất động sản tại Hà nội
Như trong khái niệm quản lý bất động sản đã nêu ở chương 1 của luận
văn, việc quản lý dự án BĐS có thể do tự chủ đầu tư BĐS thực hiện hoặc thuê
một công ty chuyên nghiệp thưc hiện, trong đó mỗi hình thức quản lý đều có
những ưu điểm và hạn chế riêng.
2.3.1 Hoạt động quản lý của các chủ đầu tư dự án bất động sản
-68-
Hiện nay, đa số các toà nhà văn phòng và một số toà nhà kinh doanh căn
hộ cho thuê ở Hà nội là do chủ đầu tư tự quản lý như 63 Lý Thái Tổ, Central
Office Building, International Center, Janadeco, Pan Horison, ...
2.3.1.1 Nội dung công việc quản lý BĐS
Việc quản lý một tòa nhà thương mại thường bao gồm những hạng mục
sau đây:
+ Các công tác về nhân sự: tuyển dụng, đào đạo, điều hành và giám sát hoạt
động của nhân viên
+ Các công việc với khách hàng: Quản lý, thu chi hàng ngày, cung cấp dịch vụ,
tổ chức sự kiện, marketing,
+ Các kế hoạch tài chính, đối ngoại, marketing, các thủ tục, báo cáo với cơ quan
quản lý, các kế hoạch phát triển ngắn và trung hạn
+ Các công việc với nhà thầu và các nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ: cây cảnh,
thực phẩm, thư báo, thông tin, ...
+ Các công việc bảo trì , bảo dưỡng máy móc thiết bị, trang trí làm đẹp để duy
trì chất lượng công trình
2.3.1.2. Ưu điểm và hạn chế của việc tự quản lý bất động sản
* Những ưu điểm:
+ Chủ đầu tư được điều hành dự án theo hướng mình đặt ra, trực tiếp quản lý
điều hành các nhân viên, do đó có thể phát hiện và khắc phục được ngay các
điểm còn hạn chế trong vận hành và kinh doanh, nhất là vấn đề cung cấp dịch vụ
và bảo trì, bảo dưỡng.
+ Doanh thu và tình hình tài chính được giữ bí mật
+ Tiết kiệm được chi phí quản lý
+ Chủ động trong việc hoạch định các chiến lược kinh doanh và tài chính
+ Tích luỹ được kinh nghiệm, quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp... cho các
dự án sau
-69-
+ Đội ngũ cán bộ và nhân viên chuyên nghiệp, có trình độ cao làm tăng chất
lượng dịch vụ của toà nhà vì do nhà quản lý xét tuyển theo một tiêu chuẩn chung
của mình.
* Những hạn chế:
+ Do thiếu kinh nghiệm và không am hiểu về các tập quán kinh doanh dịch vụ,
nhất là trong thời gian đầu tiên, hoạt động của công trình sẽ gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt là sẽ bị nhiều khiếu nại từ khách hàng, ảnh hưởng đến uy tín của toà
nhà.
+ Các nhân viên thiếu chuyên nghiệp và thiếu năng động khi làm việc vì đa số
họ được xét tuyển trên quan điểm của nhà đầu tư, chưa chắc đã phù hợp với
công việc quản lý vận hành
+ Dễ nảy sinh tình trạng tiêu cực về tài chính (ví dụ: việc nhận chênh lệch hợp
đồng giữa chủ đầu tư và các nhà cung cấp, khách hàng,...)
+ Dễ phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ do môi trường làm việc không chuyên
nghiệp nên dễ bị lẫn lộn các vị trí công việc
2.3.2 Hoạt động của các công ty quản lý BĐS tại Hà nội
Quản lý BĐS là một lĩnh vực kinh doanh khá mới tại Việt Nam và Hà
nội. Mục đích chung của việc quản lý BĐS là bảo cho công trình được vận hành
và kinh doanh có hiệu quả nhất. Kể từ khi có các dự án BĐS có vốn đầu tư nước
ngoài, các công ty quản lý BĐS mới có mặt tại Việt Nam và Hà nội. Sau khi
hoàn thành công việc xây dựng, một số chủ đầu tư tự quả lý lấy dự án của mình,
ví dụ như Sun Red River, Tungshing Square, Vietcombank Tower, V-Tower,...
Ngoài ra, hiện nay có rất nhiều dự án thuê các công ty chuyên nghiệp quản lý và
những thương hiệu như Sheraton, Sedona, Hilton, Somerset Grand... hay CBRE,
Chesterton,... đã dần trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, trong lĩnh vực quản lý BĐS
lại có sự khác nhau giữa quản lý khu vực khách sạn (như khách sạn, căn hộ cao
cấp, khu nghỉ mát) và quản lý khu vực làm việc, kinh doanh, cư trú (văn phòng,
căn hộ, trung tâm thương mại).
-70-
2.3.2.1. Lĩnh vực đầu tư và phát triển khách sạn:
Hầu hết ở các dự án khách sạn lớn, chủ đầu tư đều thuê một tập đoàn quản
lý khách sạn có uy tín trên thế giới quản lý. Vì vậy, khách hàng thường biết đến
tên của khách sạn đi kèm với tên của công ty quản lý chứ hầu như không biết
chủ đầu tư của khách sạn đó. Ví dụ, Tập đoàn Accor (Pháp) quản lý Khách sạn
Sofitel Metropole và khách sạn Sofitel Plaza; Tập đoàn Somerset quản lý Toà
nhà Hanoi Towers, Recency West Lake, Hoa Binh Tower,...
Trên thế giới việc nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực quản lý và
kinh doanh khách sạn đã được áp dụng . Tuy nhiên, tại Việt Nam , chưa có điều
luật qui định vấn đề nhượng quyền thương mại (franchising) trong lĩnh vực bất
động sản, các tập đoàn nổi tiếng đứng ra quản lý việc kinh doanh của dự án đều
thực hiện dưới hình thức hợp đồng quản lý. Vì vậy, tuy chủ đầu tư không phải
trả phí sử dụng thương hiệu của các tập đoàn này nhưng việc thuê quản lý khách
sạn và căn hộ thường ổn định, dài hạn (hợp đồng thường từ 5 năm trở lên) với
mức phí quản lý cao. Trung bình, nhà quản lý khách sạn có thể nhận được 2-3%
tổng doanh thu và khoảng 10% lãi gộp từ việc kinh doanh của dự án. Một lý do
nữa là khi cái tên khách sạn đó đã quen thuộc với các khách hàng thì việc thay
đổi sẽ làm khách hàng nghi ngờ sự ổn định về tình hình kinh doanh của dự án,
trừ khi đó là một cái tên nổi tiếng hơn.
Trên thực tế, chủ đầu tư không dễ dàng thuê một tập đoàn quản lý khách
sạn nổi tiếng về quản lý cho mình, vì những tập đoàn này thường có những yêu
cầu rất chặt chẽ. Bản thân tập đoàn quản lý cũng cân nhắc về chất lượng và qui
mô của dự án mà quyết định có nhận quản lý không để giữ gìn uy tín của mình.
Nhưng khi đã ký hợp đồng thì nhà quản lý rất nghiêm ngặt trong việc thực hiện
các nguyên tắc quản lý của mình, từ việc tuyển dụng, đào tạo nhân sự đến các
hoạt động thu chi, hoá đơn,...
Hiện nay, hầu hết các khách sạn cao cấp ở Hà nội đều thuê công ty quản
lý như Nikko, Gouman, Melia, Sheraton,... và một số toà nhà hỗn hợp cũng thuê
-71-
quản lý như Hanoi Towers, Vincom City Tower, Syrena, ...và các toà nhà sắp
khai trương cũng có xu hướng thuê công ty quản lý chuyên nghiệp như Pacific
Place, Atlanta,...
2.3.2.2. Lĩnh vực đầu tư văn phòng, căn hộ và trung tâm thương mại
Chủ đầu tư các dự án loại này thường thuê một công ty chuyên nghiêp về
Kinh doanh và Tiếp thị bất động sản quản lý cho mình. Thông thường, tên của
toà nhà sẽ được nhắc tới nhiều hơn là tên của công ty quản lý. Ví dụ, những
khách hàng thường biết đến Vincom City Towers nhiều hơn việc CB Richard
Ellis quản lý toà nhà đó, hoặc Pacific Place hay Rose Garden nhiều hơn việc
Chesterton Petty quản lý những toà nhà này,...
Hợp đồng quản lý cho các toà nhà này thường được ký ngắn hạn và công
ty quản lý có thể được thay đổi hàng năm hoặc vài năm một lần. Phí quản lý
cũng hoàn toàn dựa vào đàm phán giữa hai bên. Mặc dù một công ty quản lý tốt
sẽ giúp toà nhà khẳng định tên tuổi của mình trên thị trường BĐS, nhưng các
công ty quản lý (thậm chí là rất nổi tiếng) cũng không dễ dàng ký được hợp
đồng quản lý với các chủ đầu tư. Ông Alastair Orr Ewing, Chủ tịch Hội đồng
Quản trị công ty Chesterton Petty VietNam (có trụ sở tại Anh), một trong
những công ty kinh doanh và tiếp thị bất động sản nước ngoài đầu tiên hoạt
động tại Việt Nam cho rằng việc quản lý các tòa nhà văn phòng và thương mại
của các công ty BĐS hiện nay là vô cùng khó khăn. Nhiều nhà đầu tư cho rằng
việc quản lý toà nhà văn phòng rất đơn giản và chủ đầu tư có thể tự làm được.
Mặt khác, đa số các chủ đầu tư đều là các công ty liên doanh và phía Việt
Nam chưa ý thức được vai trò của quản lý chuyên nghiệp. Cụ thể là, mặc dù ký
hợp đồng quản lý nhưng họ vẫn luôn muốn can thiệp vào việc điều hành như
giới thiệu nhân sự vào làm việc, giới thiệu nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ,...
khiến nhà quản lý rơi vào trạng thái bị động trong khi nguyên tắc thuê quản lý là
chủ đầu tư chỉ quan tâm đến việc nhà quản lý đã thực hiện các mục tiêu kinh
doanh như thế nào, có hiệu quả không,... Một lý do nữa mà một số chủ đầu tư
-72-
không thích thuê công ty quản lý là nếu như vậy, họ sẽ không nhận được các
khoản tiền hoa hồng từ việc cho thuê hoặc các khoản tiền không chính thức
khác.
Do đó, hình thức thuê quản lý trong các toà nhà loại này thường được
những chủ đầu tư ít kinh nghiệm quản lý, có mâu thuẫn trong quản lý giữa các
đối tác hoặc không đủ nhân sự quản lý,... áp dụng.
2.3.2.3. Ưu điểm và hạn chế của việc thuê công ty quản lý BĐS:
* Các ưu điểm
- Việc quản lý điều hành chuyên nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ làm cho
một toà nhà khác biệt so với các toà nhà khác và thu hút được những khách thuê
tốt. Mọi dịch vụ do toà nhà cung cấp cho khách thuê (mua) đều đạt chất lượng
cao (về mặt vệ sinh, bảo trì bảo dưỡng, an ninh và an toàn).
- Công ty quản lý chuyên nghiệp thường cũng là những công ty chuyên
nghiệp trong hoạt động nghiên cứu thị trường và marketing, nhờ đó, họ có thể tư
vấn cho chủ đầu tư về chiến lược kinh doanh hay giá cả. Việc kinh doanh sẽ tốt
hơn nữa nếu công ty quản lý toà nhà tham gia vào cả quá trình thiết kế dự án,
như vậy sẽ đảm bảo được tính thiết thực và kiểm soát được các chi phí hoạt
động trong tương lai.
- Chủ đầu tư không phải tham gia vào điều hành hoạt động hàng ngày của
dự án mà vẫn nắm được tình hình hoạt động, thu chi thông qua báo cáo của công
ty quản lý.
- Vì mức phí trong hợp đồng quản lý là mức phí thoả thuận, nếu chủ đầu tư
quy định mức phí quản lý thấp (chỉ tương đương với chi phí trả lương cho nhân
sự của công ty quản lý làm việc cho dự án) và mức chia lợi nhuận sẽ cao trong
trường hợp kinh doanh có lãi thì các công ty quản lý sẽ phải luôn cố gắng điều
hành tốt nhất để mang lại lợi nhuận tối đa nhằm tăng thu nhập cho mình.
-73-
- Bằng các điều khoản trong hợp đồng quản lý, chủ đầu tư vẫn có khả năng
quản lý những khoản thu chi lớn, bất thường của dự án. Trong thực tế, hợp đồng
quản lý bao giờ cũng chỉ rõ giới hạn một con số về tài chính mà nhà quản lý có
quyền chi tiêu mà không phải hỏi ý kiến của chủ đầu tư (Phụ lục 3).
- Khi thuê quản lý chuyên nghiệp, chủ đầu tư có thể học tập kinh nghiệm,
nghiệp vụ của họ để tự mình quản lý sau khi hợp đồng quản lý hết hạn, nhằm
tiết kiệm chi phí và chủ động trong kinh doanh.
* Các hạn chế
- Chủ đầu tư không chủ động giám sát được việc thực hiện dự án của mình
mà chỉ gián tiếp điều hành thông qua các báo cáo của nhà quản lý
- Chủ đầu tư phải mất phí quản lý cho công ty quản lý BĐS, kể cả trong
trường hợp dự án bị lỗ
- Có thể phát sinh mâu thuẫn về tài chính do cách tính toán doanh thu và lợi
nhuận khác nhau. Lợi nhuận mà nhà đầu tư thu được chưa chắc đã là tối đa.
- Trong trường hợp đổi công ty quản lý, có thể gây nên ảnh hưởng nhất
định đến khách hàng và bộ máy nhân sự của công ty
2.4. Phân tích một số dự án điển hình
2.4.1. Dự án toà nhà căn hộ – văn phòng Mặt trời Sông Hồng (Sun Red
River)
Đây là dự án đi theo mô hình chủ đầu tư đồng thời là người quản lý, vận
hành dự án.
2.4.1.1 Giới thiệu dự án:
Công ty TNHH Mặt trời Sông Hồng (Sun Red River) thành lập ngày 26
tháng 5 năm 1995 do Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (nay là Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cấp giấy phép) là Công ty Liên doanh giữa Công ty TNHH
Hasegawa, Nhật bản (chuyên sản xuất kinh doanh các đồ thờ cúng và tu bổ đền
chùa) và Công ty Cơ điện Công trình, Việt Nam . Công ty có tổng vốn đầu tư 30
-74-
triệu USD trong đó vốn pháp định là 9 triệu USD (các bên đóng góp theo tỷ lệ Nhật – 70% bằng tiền và Việt Nam 30% bằng quyền sử dụng 3700m2 đất và
nhà xưởng tại 23 Phan Chu Trinh, Hà nội) và 21 triệu USD là vốn vay. Mục
đích kinh doanh là xây dựng và vận hành một toà nhà loại A để kinh doanh dịch
vụ cho thuê văn phòng, căn hộ và các dịch vụ kèm theo.
Tháng 4 năm 1999, việc xây dựng hoàn thành và toà nhà được đưa vào vận hành với 46 căn hộ và 14.000 m2 văn phòng cho thuê.
2.4.1.2 Tình hình quản lý và kinh doanh:
Ngay khi toà nhà khánh thành và đưa vào hoạt động, việc kinh doanh đã
phải chịu rủi ro bởi cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Châu Á. Khủng hoảng
này đã khiến mức đầu tư của công trình bị tăng lên trong khi nhu cầu của thị
trường bị giảm xuống và bị các đối thủ cạnh tranh về giá cả Trong thời kỳ này,
tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã bị suy giảm ở tất cả các ngành, trong
đó, ngành dịch vụ giảm từ 8,9% năm 1996 xuống 7,1% năm 1997; 4,2% năm
1998 và chỉ còn 2,6% năm 1999. Công ty phải đối mặt với báo cáo tài chính lỗ
nặng nề. Mặt khác, khi bước vào quản lý toà nhà, các mâu thuẫn nảy sinh và
ngày càng gay gắt, chủ yếu liên quan vấn đề quản lý vận hành và nhân sự. Vì
vậy, năm 2001, đối tác Việt Nam đã đồng ý chuyển nhượng 100% cổ phần cho
đối tác Nhật bản. Sun Red River trở thành công ty kinh doanh bất động sản đầu
tiên có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2004, Hasegawa gặp khó khăn từ các
dự án đầu tư nước ngoài, trong khi kinh doanh trong nước vô cùng phát đạt. Vì
vậy, các cổ đông không muốn tiếp tục các dự án nước ngoài nữa nên hai dự án
bất động sản tại Việt Nam , trong đó Sun Red River được chuyển nhượng cho
công ty Yazu – một công ty chuyên sản xuất và kinh doanh thực phẩm, đồ uống
dinh dưỡng phục vụ việc cải thiện sức khoẻ cộng đồng, cũng là một trong các
công ty rất phát đạt tại Nhật. Nhưng, do sự nhạy cảm trong quản lý tại Việt Nam
, chủ đầu tư mới vẫn giữ nguyên bộ máy điều hành tại Việt Nam , thậm chí, thực
-75-
hiện các chính sách cải thiện tiền lương, chế độ lao động của các nhân viên
trong công ty.
Chủ Đầu tư cũng đồng thời là người quản lý toà nhà. Cơ cấu nhân sự của
công ty rất đơn giản, chỉ có một Tổng Giám đốc người Nhật và 6 trưởng phòng
ban là người Việt Nam trong tổng số 65 nhân viên. Các dịch vụ như bảo vệ, vệ
sinh công cộng, cây cảnh... đều thuê ngoài. Tuy nhiên, trong nhiều năm vận
hành, bộ máy này vẫn tỏ ra có hiệu quả.
Kể từ năm 2001, do sự phục hồi của nền kinh tế Châu Á và việc Việt Nam
chuẩn bị và gia nhập WTO, việc kinh doanh của công ty bắt đầu phát triển tốt
đẹp. Sau những khó khăn ban đầu, hiện nay, công ty đã có tỷ lệ thuê 100% đối
với khu vực văn phòng và 93% đối với khu vực căn hộ với giá cho thuê trung bình là 25USD/ m2. Tỷ lệ này có lúc còn cao hơn và đã được duy trì trong một
thời gian dài. Rất nhiều khách hàng đã biết đến Sun Red River với những ấn
tượng tốt đẹp. Doanh thu trong 3 năm gần đây đạt khoảng 3 triệu USD/ năm.
Báo cáo tài chính đã có lãi và các dịch vụ cũng như chính sách phúc lợi đối với
nhân viên cũng được cải thiện
2.4.1.3. Các nguyên nhân thành công và hạn chế của dự án của dự án:
+ Nguyên nhân thành công
- Vị trí của toà nhà thuận lợi cho bất cứ công ty hoặc cá nhân nào có nhu
cầu mở văn phòng và cư trú. Quận Hoàn Kiếm là nơi tập trung nhiều cơ quan
nhà nước, trung tâm giao dịch, cửa hàng....
- Ngay từ khi thiết kế, các nhà đầu tư đã quan tâm tạo ra điểm khác biệt:
Đối với khu vực văn phòng, mặt bằng rất rộng và linh hoạt theo yêu cầu của khách (diện tích mặt sàn tối đa là 2.200m2 và tối thiểu là 70m2, tổng diện tích văn phòng là 14.000 m2) cùng với hệ thống kỹ thuật hiện đại: điều hòa, máy
phát công suất lớn, thang máy bố trí hợp lý, thuận tiện, chỗ để xe... Đối với khu
vực căn hộ, có 46 căn hộ được thiết kế sang trọng và rộng rãi hơn với các toà
-76-
nhà khác (ví dụ căn hộ 1 phòng ngủ có diện tích 83m2, ở nơi khác là 60m2đến 75m2; căn hộ 3 buồng rộng 180m2, ở nơi khác là 130-160m2). Khách căn hộ và
văn phòng sử dụng các thang máy riêng biệt.
- Công ty xác định dịch vụ là lợi thế cạnh tranh lớn của mình: Đối với văn
phòng, chú trọng dịch vụ bảo dưỡng hàng ngày và định kỳ, đáp ứng các yêu cầu
của khách hàng nhanh chóng, hiệu quả với thái độ tận tình, chân thành. Đối với
căn hộ, chú trọng dịch vụ làm sạch, an ninh, chỉ dẫn. Phương châm của công ty
là: “Sự phát triển và hài lòng của khách hàng chính là sự phát triển kinh doanh
của công ty” hay “Dịch vụ và sự nhiệt tình đều phải xuất phát từ trái tim”. Điều
này có thể do ảnh hưởng từ tư tưởng của chủ đầu tư đầu tiên với khẩu hiệu
“mang trái tim và tấm lòng tới mọi nơi”.
+ Nguyên nhân hạn chế:
- Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á đã khiến mức đầu tư của công
trình bị tăng lên, trong khi nhu cầu thuê bị giảm xuống. Sau khủng hoảng, rất
nhiều toà nhà phải chờ rất lâu mới đưa ra hoạt động, ví dụ Melia, Sheraton ...,
Sun Red River đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng thời
gian đầu. Điều này đã khiến công ty chuyển đối tượng khách hàng vào những
công ty lớn, có uy tín, thuê diện tích lớn, trả tiền trước dù giá không cao.
- Xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh về giá cả (thậm chí có những toà nhà
tương tự như Hanoi Central Office Building (cạnh Melia Hotel), Tung Shing, Prime Center... chấp nhận giá thuê chỉ 11-14 USD/ m2 để có thể phần nào bù
đắp chi phí họ bỏ ra.
- Sau cuộc khủng hoảng, nhiều dự án mới bắt đầu triển khai có hình thức
kinh doanh tương tự nhưng chi phí đầu tư thấp hơn rất nhiều và càng về sau họ
sẽ càng khắc phục được những nhược điểm của các dự án trước (ví dụ: Năm
1990 khi thiết kế các toà nhà cao tầng ở Hà nội, người ta không lường trước
được nhu cầu đỗ xe máy mà chỉ tính đến chỗ đỗ ô tô, chính vì vậy, khi toà nhà
hoạt động, đã buộc phải sử dụng chỗ đỗ ô tô cho khách hàng để xe máy dẫn đến
-77-
việc thiếu chỗ đỗ xe). Mặt khác, khoa học công nghệ ngày càng phát triển, và
điều này cũng thể hiện rất rõ trong lĩnh vực xây dựng, bất động sản: các nguyên
vật liệu rẻ hơn, phong phú hơn, thi công nhanh hơn... khiến các dự án mới dễ thu
hồi vốn hơn. Ví dụ toà nhà Vietcombank Tower, toà nhà Vincom City Towers,
Pacific Place,...
2.4.1.4 Chiến lược kinh doanh của công ty:
+ Đối với khu vực văn phòng:
Lúc đầu công ty tập trung thu hút khách hàng lớn, có uy tín, khả năng
thanh toán cao, một phần để tạo uy tín của toà nhà, một phần bù đắp doanh thu
sau khủng hoảng. Có một điều thú vị là mặc dù đối tượng ban đầu của dự án là
các công ty nước ngoài nhưng chính những công ty lớn của Việt Nam lại là
những khách hàng có khả năng thuê với giá cao hơn, trả tiền sớm hơn và diện
tích lớn hơn. Sau khi có được doanh thu, công ty sẽ tập trung vào chiến dịch
“tăng số lượng”, có nghĩa là khuyến khích các văn phòng có diện tích trung bình
và nhỏ thuê với giá cao. Đây cũng là chiến lược phát triển lâu dài của công ty, vì
nếu khách hàng lớn chấm dứt hợp đồng, công ty sẽ rất vất vả lấp chỗ trống về
diện tích và doanh thu, tình hình kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng lớn.
Công ty phát triển các dịch vụ đi kèm văn phòng như trang trí nội thất, lắp
đặt các thiết bị điện, viễn thông, điều hoà ... theo yêu cầu của khách
Công ty tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ bảo dưỡng, bảo trì:đây
chính là công việc vô cùng quan trọng làm nên tiêu chuẩn của toà nhà. Nhờ chú
trọng công tác này mà Sun Red River là toà nhà vận hành mà rất ít gặp sự cố về
điện, nước,...các yêu cầu về sửa chữa của khách hàng được đáp ứng rất nhanh
chóng và có lịch bảo dưỡng định kỳ cho máy móc thiết bị ở tất cả các khu vực
toà nhà.
+ Đối với khu vực căn hộ:
Công ty xác định đối tượng chủ yếu là các doanh nhân Nhật bản, các tổ
chức quốc tế. Dịch vụ tập trung vào việc làm sạch và bảo dưỡng để khách hàng
-78-
luôn có cảm giác căn hộ lúc nào cũng mới. Ngoài ra, công ty phát triển các dịch
vụ đi kèm: Thư , báo, shopping, ... mà không thu thêm phí dịch vụ. Công ty
cũng luôn đáp ứng yêu cầu của khách đối với việc thay thế, sửa chữa,... và đổi
mới kịp thời các thiết bị đã lỗi thời, không còn phù hợp
+ Phương thức cạnh tranh:
Công ty không thực hiện việc giảm giá để thu hút khách mà thay vào đó
là giữ giá hoặc tăng giá với dịch vụ tốt hơn. Bên cạnh đó, việc giữ đúng những
cam kết về dịch vụ với khách hàng, dù là trong những việc nhỏ nhất được bảo
đảm tuyệt đối để có thể xây dựng hình ảnh trung thực và uy tín về công ty, về
toà nhà và những nhân viên trong đó.Trên thực tế, giá thuê ở Sun Red River
không quá cao so với các toà nhà cùng quy mô và được khách hàng đánh giá là
dịch vụ tốt nhất. Công ty phân khúc thị trường rõ ràng, thực hiện chiến lược
kinh doanh tập trung. Đối tượng của khu vực căn hộ là khách Nhật, của khu vực
văn phòng là các tổ chức uy tín và các văn phòng có ngân sách cao, có tiềm
năng phát triển trong tương lai.
+ Mục tiêu phát triển:
- Về văn phòng, trong thời gian tới nhu cầu thị trường có thể sẽ bão hoà, vì
vậy công ty sẽ không mở rộng đầu tư vào văn phòng cho thuê. Công ty sẽ ưu
tiên cho việc “tự làm mới” bằng kế hoạch cải tạo toà nhà trong năm 2006 –2008
về hình thức và chất lượng thiết bị.
- Về căn hộ, thị trường ở Hà nội còn rất nhiều tiềm năng, các khu công
nghiệp ngày một phát triển, số lượng chuyên gia ngày càng tăng, tuy nhiên, họ
sẽ không đi tìm những căn hộ quá xa xỉ mà chỉ tìm kiếm những căn hộ tiện nghi,
hiện đại, phục vụ tốt. Sun Red River đã có kế hoạch đầu tư cho một dự án kinh
doanh căn hộ cho thuê mới tại Hà nội trong thời gian tới đây, với quy mô vừa
phải (khoảng 10 triệu USD).
-79-
2.4.2 Dự án xây dựng và kinh doanh Khách sạn Sheraton
2.4.2.1 Giới thiệu dự án:
Công ty Liên doanh TNHH VietNam – Malaysia (Vimas Joint Venture
Co., Ltd.) thành lập ngày 04 tháng 6 năm 1993 do Ủy ban Nhà nước về Hợp tác
và Đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép) là Công ty Liên doanh
giữa Công ty Faber Labuan Sendinan Berhad Corporation và Tổng Công ty Xây
dựng Tây Hồ, Việt Nam . Công ty có tổng vốn đầu tư 79 triệu USD trong đó vốn
pháp định là 30 triệu USD (các bên đóng góp theo tỷ lệ Malaysia – 70% bằng tiền và Việt Nam 30% bằng quyền sử dụng 18.000m2 đất và nhà xưởng tại K5
Nghi tàm, Hà nội) và 21 triệu USD là vốn vay. Mục đích kinh doanh là xây
dựng và kinh doanh dịch vụ khách sạn 5 sao. Việc xây dựng khởi công vào
tháng 7 năm 1994 và hoàn thành cơ bản vào tháng 10 năm 1997. Đến tận tháng
11/2003 việc trang bị các tiện nghi mới kết thúc và phải đến ngày 05/3/2004,
khách sạn Sheraton mới khai trương và bắt đầu hoạt động kinh doanh với 299
phòng cho thuê.
2.4.2.2 Tình hình quản lý và kinh doanh:
Như đã nêu ở trên, đây là một trong các dự án BĐS tại Hà nội chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á. Sau khi hoàn tất
việc xây dựng, chủ đầu tư đã không đủ khả năng tài chính để kinh doanh, và đã
phải chịu mất không một khoản chi phí không nhỏ cho việc đào tạo nhân viên
(mà không sử dụng được) và bảo dưỡng máy móc, thiết bị, tài sản trong thời
gian chờ đợi kéo dài đến gần 7 năm.
Khi bắt đầu mở cửa, chủ đầu tư thuê tập đoàn Sheraton đứng ra quản lý,
đồng thời sử dụng thương hiệu của Sheraton (một tập đoàn kinh doanh khách
sạn nổi tiếng trên thế giới) trong việc marketing và kinh doanh. Tuy nhiên,
Sheraton chỉ là công ty quản lý chứ không phải là công ty nhượng quyền thương
mại và Sheraton chỉ hưởng thù lao quản lý và lợi nhuận được chia từ việc quản
-80-
lý công trình có hiệu quả. Khách sạn có khoảng 300 nhân viên và có chế độ đãi
ngộ cao hơn những khách sạn cùng đẳng cấp khác tại Hà nội.
Kể từ khi mở cửa, việc kinh doanh tương đối ổn định. Năm 2004 và 2005,
công suất thuê là 68%/ năm; năm 2006 là 79% và tính đến hết tháng 4/2007, tỷ
lệ này là 85%. Giá thuê trung bình hiện nay là 124 USD/ phòng, trong đó giá
công bố cao nhất là 750USD/ phòng/ ngày và thấp nhất là 200USD/ phòng/
ngày. Doanh thu trung bình là 1 triệu USD/ tháng và chi phí tiền lương khoảng
gần 40.000USD/ tháng. Tuy nhiên, khi đón tiếp các nguyên thủ quốc gia thì số
tiền thu về trong vài ngày thậm chí còn cao hơn cả doanh thu một năm.
Khách sạn đã đón tiếp rất nhiều nhân vật quan trọng như các Tổng thống
Mỹ, Australia, Hàn Quốc, Dong Timo, Nga, Nhật, Malaysia, Philippines, Xu
đăng... và nhiều quan chức cao cấp chính phủ nước ngoài khác. Có thể đánh giá
là hiện tại việc kinh doanh của Sheraton rất tốt, khách sạn trả lương nhân viên
cao, cạnh tranh so với các khách sạn khác để thu hút người giỏi và có chế độ
phúc lợi tốt.
2.4.2.3. Các nguyên nhân thành công và hạn chế của dự án:
+ Nguyên nhân thành công
- Đây là khách sạn 5 sao mới nhất Hà nội hiện nay với các phòng có thiết
kế rộng nhất (lên đến 37m2).
- Thương hiệu Sheraton là thương hiệu nổi tiếng thế giới và được nhiều
người biết tới. Khoảng 50% đồ dùng sử dụng trong khách sạn đều sử dụng nhãn
hiệu Sheraton hoặc các sản phẩm do Sheraton đặt hàng.
- Khách sạn được tham gia vào hệ thống Marketing toàn cầu Starwood
Central Marketing Delivery, vì vậy việc quảng bá hình ảnh và quảng cáo tại
trong và ngoài nước được thực hiện rất tốt.
- Khách sạn hoàn thiện phần trang thiết bị chỉ ngay trước khi mở cửa khai
trương nên các thiết bị rất hiện đại, đặc biệt là những trang bị phục vụ hội thảo,
tiệc và tổ chức sự kiện – Một trong những hạng mục dịch vụ ngày càng được ưa
-81-
chuộng sử dụng tại các khách sạn có tiêu chuẩn quốc tế và mang lại doanh thu
không nhỏ.
- Khách sạn đã tạo được uy tín trong dịch vụ nhà hàng với các món ăn và
cách thức tổ chức tiệc chiêu đãi.
- Khách sạn sử dụng một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, giỏi nghiệp vụ
và đào tạo nhân viên rất quy củ nên có một đội ngũ nhân viên làm việc rất
chuyên nghiệp.
- Khách sạn đã xây dựng được một môi trường văn hoá riêng cho mình
(Starwood Care) để đảm bảo sự khác biệt so với những khách sạn cùng loại
khác.
+ Nguyên nhân khó khăn
- Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á đã khiến khách sạn không thể
hoạt động trong một thời gian rất dài sau khi đã hoàn thành công việc xây dựng.
Điều này đã gây ra lỗ cho chủ đầu tư nên phải cần rất nhiều thời gian kinh doanh
có lãi mới khó thể bù đắp được những tổn thất này.
- Việc chậm khai trương cũng làm khách sạn bị thiệt thòi rất lớn cả về kinh
phí và nhân sự. Bởi vì, ngay sau khi xây dựng, chủ đầu tư đã bỏ rất nhiều chi phí
để đào tạo bài bản toàn bộ các vị trí làm việc trong khách sạn, từ nhân sự cao
cấp đến những lao động phổ thông. Trong thời gian đào tạo (kéo dài hàng tháng
và thậm chí có những người được đào tạo ở nước ngoài) khách sạn đã thanh
toán tiền lương, các chi phí khác cho đội ngũ nhân sự này. Nhưng vì không thể
khai trương được nên toàn bộ các nhân viên này đã chuyển sang tìm việc tại
những công ty khác mà không phải bồi thường, ngược lại, khách sạn coi như đã
“đào tạo miễn phí” cho các đối thủ cạnh tranh của mình.
- Vị trí của khách sạn không năm trong khu vực trung tâm kinh doanh của
thành phố nên khó có thể trở thành sự lựa chọn hàng đầu đối với các doanh nhân
đến Hà nội làm việc. Điều này đã làm cho bộ phận Marketing của khách sạn
phải cố gắng tìm khách và giữ khách hàng. Cũng do vị trí này mà xung quanh
-82-
khách sạn cũng không có nhiều các cửa hàng hoặc các nhà hàng ăn uống - điều
mà các khách du lịch thường quan tâm đến.
- Do thiết kế ban đầu, lối ra vào của khách sạn bị hạn chế trong việc tổ
chức các sự kiện lớn và cũng rất khó khăn cho việc ra vào của những xe du lịch
đường dài (cỡ lớn), vì vậy, cũng gây ra sự ái ngại đối với các công ty du lịch.
- Tuy thiết bị nội thất của khách sạn rất hiện đại nhưng những trang thiết bị
về kỹ thuật lại lắp đặt từ thời kỳ xây dựng. Sau thời gian dài, các thiết bị này đã
lỗi thời so với các công nghệ ngày nay nhưng không phải dễ dàng có thể thay
thế hay đổi mới do những hạn chế về kinh phí và thi công.
+ Đánh giá về mức độ thành công và chiến lược kinh doanh
- Với tình hình kinh doanh hiện nay, đây có thể được coi là một khách sạn
thành công. Điều này có nguyên nhân chủ yếu từ sự khan hiếm các khách sạn
năm sao trên thị trường hiện nay và mặt bằng giá thuê phòng đang rất cao.
- Hà nội là địa phương thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư nước ngoài từ
các tập đoàn, công ty lớn trên thế giới và một lượng khách du lịch ngày càng
tăng nên trong một vài năm tới cầu sẽ vẫn cao hơn cung về khách sạn cao cấp.
- Tuy nhiên, về dài hạn, khách sạn sẽ phải có một chiến lược cụ thể để kinh
doanh thành công trong một môi trường khá cạnh tranh. Sắp tới rất nhiều khách
sạn 5 sao có quy mô đầu tư lớn hơn rất nhiều được khởi công. Trong thời gian
này, khách sạn tăng cường việc khẳng định thương hiệu bằng việc mở rộng khai
thác các dịch vụ của mình như tổ chức tiệc cưới, tuần lễ thời trang, tiệc năm
mới, noel, trung thu, tổ chức các sự kiện khai trương, khánh thành, các buổi giới
thiệu sản phẩm …
- Về mặt marketing, khách sạn đẩy mạnh khâu quảng cáo, có những chính
sách khuyến khích đối với người thường xuyên đặt phòng, có hợp đồng ưu đãi
với những tổ chức thường xuyên đăng ký thuê hoặc thuê phòng dài hạn, …
Quảng bá, giới thiệu dịch vụ bằng các tờ rơi thiết kế ấn tượng, phát các phiếu sử
dụng dịch vụ miễn phí hoặc giảm phí …
-83-
2.5 Quản lý của Thành phố Hà Nội đối với các dự án đầu tư nước ngoài vào
lĩnh vực bất động sản
Cơ quan quản lý các dự án có vốn ĐTNN của Thành phố Hà nội là Sở Kế
hoạch và Đầu tư. Đây cũng là nơi các nhà đầu tư nước ngoài đến tư vấn, tìm
hiểu thông tin và làm các thủ tục xin cấp phép, báo cáo hoạt động, đệ trình các ý
kiến, yêu cầu và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Sở Kế hoạch Đầu tư Hà
nội đã thành lập một website của mình và thường xuyên cập nhật và công khai
các thông tin về những dự án đầu tư đang triển khai, đang kêu gọi vốn cũng như
các hạng mục trong lĩnh vực BĐS sẽ nhận được ưu đãi khi đầu tư, hướng dẫn
thủ tục hành chính, văn bản pháp luật, các thông tin thị trường,.... cho các nhà
đầu tư và doanh nghiệp. Sự hoạt động của website này ngày càng có hiệu quả
khi lượng truy cập và hỏi đáp tăng lên rất nhanh, đồng thời những doanh nghiệp
có thắc mắc về vấn đề thủ tục đã được phản hồi nhanh chóng. Về thủ tục giấy tờ,
Sở Kế hoạch Đầu tư đã sử dụng chế độ hành chính “một cửa” khi nhận và trả hồ
sơ, giấy phép để tránh mất thời gian cho nhà đầu tư và hạn chế tiêu cực.
+ Đối với các dự án đã đi vào hoạt động, Sở Kế hoạch và Đầu tư luôn yêu
cầu có báo cáo định kỳ về tình hình hoạt động, tình hình tài chính và những khó
khăn của doanh nghiệp để kịp thời giúp đỡ khắc phục.
+ Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà nội cũng thường xuyên ra các quyết
định kèm theo các bộ luật hay những thông tư, nghị định của chính phủ để có
thể cụ thể hoá chính sách đối với các nhà đầu tư.
-84-
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DỰ ÁN BẤT ĐỘNG SẢN CÓ VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TẠI HÀ NỘI
3.1. Những cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực đầu tư BĐS Hà nội trong
thời gian tới
Tuy bất động sản là một lĩnh vực đầu tư khá mơí mẻ và hấp dẫn nhà đầu
tư nước ngoài nhưng bên cạnh những cơ hội mở ra cho việc đầu tư vào BĐS,
còn có những thách thức đối với việc quản lý và phát triển những dự án này.
3.1.1. Những cơ hội
+ Do kết quả của việc tăng trưởng kinh tế và tập trung đầu tư vào Hà nội,
thị trường cung cấp văn phòng, nhà ở đang ở trong tình trạng mất cân đối giữa
cung và cầu đối với các văn phòng, căn hộ chất lượng cao. Trên thực tế, nguồn
cung cấp văn phòng loại A hoặc căn hộ đạt tiêu chuẩn quốc tế rất hạn chế. Các
văn phòng của các công ty nước ngoài thường phải cải tạo nhà dân hoặc thuê
khách sạn để làm nơi ở và làm việc, tuy nhiên họ thường bị mất nhiều thời gian,
chi phí và đôi khi gặp phải phiền toái về an ninh, xã hội hay các thủ tục đăng ký,
cư trú. Cũng có một số dự án cải tạo, xây dựng nhằm cung cấp văn phòng cho
thuê nhưng quy mô không lớn, không có các thiết bị như thang máy, máy phát
điện, hệ thống điều hoà, chỗ để ô tô... Tuy vậy, giá thuê lại rất cao (từ 20USD đến 50USD/ m2/ tháng hoặc cao hơn).
+ Một số dự án văn phòng và căn hộ lớn cũng đang có kế hoặc xây dựng
và đưa vào hoạt động, tuy nhiên, để thực hiện, phải làm nhiều thủ tục như xin
giấy phép đầu tư, giải trình F/S, giải phóng mặt bằng và xin cấp giấy xác nhận
quyền sử dụng đất (đây là khâu khó nhất), xin giấy phép thiết kế, xây dựng ...
-85-
nên mất rất nhiều thời gian. Nếu Sun Red River sớm được đưa vào hoạt động sẽ
có những lợi thế của người đi đầu trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
+ Việc đưa một toà nhà tiêu chuẩn quốc tế hiện đại vào kinh doanh tại Hà
nội cũng góp phần vào việc phát triển kinh tế chung của thành phố. Các công ty
nước ngoài đến thuê văn phòng và chỗ ở, mở rộng hoạt động kinh doanh, tuyển
nhân viên địa phương, hợp tác với các công ty Việt Nam , vì thế thị trường sẽ
phải phát triển thích hợp để đáp ứng nhu cầu dịch vụ thương mại của cộng đồng
này. Các loại dịch vụ sẽ phát triển đặc biệt với những điểm mà nhiều người thuê
văn phòng, căn hộ và nhân viên, khách hàng của họ ưa thích. Nhu cầu về dịch
vụ thương mại, kể cả dịch vụ thư ký, văn phòng, bưu điện, thông tin, vận tải... sẽ
tăng lên trong khu vực có nhiều văn phòng và cá nhân nước ngoài.
+ Các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay đang rất nhiệt tình đầu tư vào thị
trường bất động sản. Rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đến Hà nội để tìm
kiếm cơ hội đầu tư. Nhiều dự án đã được quyết định rất nhanh chóng và có số
vốn đầu tư khổng lồ. Hà nội có quyền lựa chọn các nhà đầu tư thích hợp nhất để
phát triển các dự bất động sản theo đúng quy hoạch của mình với những công
trình có chất lượng cao nhất.
+ Hà nội cũng có cơ hội giới thiệu, kêu gọi đầu tư đối với các dự án đang
thiếu vốn, đặc biệt là với những dự án mở rộng phát triển thành phố, hình thành
những khu đô thị mới. Nhờ đó, mà có thể tập trung vào việc duy trì, khôi phục
khu trung tâm Hà nội phục vụ cho việc phát triển du lịch.
+ Nhờ các dự án BĐS nước ngoài, rất nhiều người lao động có cơ hội tìm
việc, và có thể lựa chọn cho mình một công việc phù hợp. Các doanh nghiệp
nước ngoài sẽ phải cạnh tranh để thu hút lao động có chất lượng cao. Mặt bằng
lương sẽ được nâng lên và đời sống của nhân dân sẽ được cải thiện.
-86-
3.1.2. Những thách thức
+ Các chính sách về quy hoạch của thành phố hiện nay vẫn chưa được
thực hiện tốt hoặc với tiến độ rất chậm. Vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng luôn
gây khó khăn cho nhà nước và các doanh nghiệp nước ngoài khi thực hiện một
dự án BĐS. Đặc biệt, công tác tuyền truyền về chính sách còn chưa được thực
hiện hoặc do chính sách đền bù không thoả đáng nên nhiều dự án không thể thực
hiện được giải phóng mặt bằng khiến nhà đầu tư nước bị lãng phí thời gian, chi
phí đi lại, làm các thủ tục hành chính và quan trọng hơn là mất tin tưởng với đối
tác Việt Nam và tính khả thi của các chính sách của nhà nước.
+ Đội ngũ quản lý BĐS của nhà nước và thành phố vẫn còn nhiều hạn chế
về chuyên môn, trình độ ngoại ngữ khi làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài.
Cách hiểu và truyền đạt lại những quy định pháp luật cho các nhà đầu tư của các
cơ quan khác nhau nhiều khi có mâu thuẫn khiến nhà đầu tư hoang mang.
+ Hiện tại, cơ sở hạ tầng của Hà nội còn chưa tốt. Mặc dù đã có nhiều dự
án cải tạo nhưng tình trạng đường xá, hệ thống cấp thoát nước của Hà nội hiện
nay vẫn là vấn đề khiến các nhà đầu tư e ngại. Thành phố vẫn chưa khắc phục
được tình trạng ngập nước tại các khu vực phố trung tâm. Giao thông tại Hà nội
cũng còn rất nhiều bất cập do các phương tiện đi lại lộn xộn trên đường, thường
xuyên xảy ra tắc nghẽn trong thời gian dài.
+ Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước thiếu sự thống nhất và đồng bộ. Một
vấn đề của dự án có khi lại thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau.
Ngoài ra, việc nối mạng thông tin quản lý dự án giữa các cơ quan chính quyền
vẫn chưa được thực hiện, sẽ gây khó khăn cho các cán bộ phụ trách dự án và
doanh nghiệp khi cần xác minh các thông tin để giải quyết một vấn đề hoặc một
yêu cầu nào đó.
+ Tình trạng tham nhũng vẫn không thể khắc phục được. Những thủ tục
liên quan đến đất đai luôn làm nảy sinh hiện tượng tham nhũng. Tuy nhiên, đây
là một vấn đề rất khó đề cập đến và rất khó chứng minh vì bản thân nhà đầu tư
-87-
đã hài lòng với các chi phí mình bỏ ra. Nói cách khác, trong một số dự án, nhà
đầu tư tự nguyện tiếp tay cho nạn tham nhũng để có thể nhanh chóng đạt được
mục đích đầu tư của mình và coi như đôi bên cùng có lợi. Thực tế, hầu hết các
dự án bất động sản đều phát sinh hiện tượng tham nhũng, từ khâu bàn giao mặt
bằng đến khâu xây dựng và kinh doanh. Do đó, chi phí đầu tư thực tế luôn bị
đẩy lên khiến Hà nội vốn là thành phố có giá cả thuê văn phòng, căn hộ,... vào
loại đắt nhất trong khu vực lại càng trở nên đắt hơn. Tình trạng tham nhũng
cũng sẽ làm nhà nước bị mất một số cơ hội thu hút vốn đầu tư khi có những nhà
đầu tư chấp nhận bỏ cuộc vì chi phí cao. Nhưng điều quan trọng nhất là nó sẽ
tạo ra định kiến của các nhà đầu tư nước ngoài khi kinh doanh tại đây, và rất có
thể, chính những người lao động trong doanh nghiệp lại chịu hậu quả của những
định kiến đó.
+ Việc một loạt các nhà đầu tư đến Hà nội sẽ làm nảy sinh khó khăn cho
chính quyền thành phố trong việc thẩm định các dự án đầu tư và kiểm tra năng
lực tài chính, động cơ đầu tư cũng như kinh nghiệm của các nhà đầu tư nước
ngoài. Nếu việc thẩm định dự án không được làm chặt chẽ, chuyên nghiệp, sẽ
làm nảy sinh những dự án “ảo” để lấy thành tích, hoặc những dự án “treo” gây
lãng phí thời gian và chi phí, ... Ngoài ra, việc chọn dự án nào để phê duyệt cho
phù hợp nhất với yêu cầu và điều kiện của Hà nội. Trong việc lựa chọn dự án và
nhà đầu tư, phải đảm bảo sự công bằng giữa các đối tác trong và ngoài nước,
giữa các đối tác từ các quốc gia khác nhau, đảm bảo sự hài hoà về quyền lợi
kinh tế và thậm chí còn phải kết hợp cả yếu tố chính trị. Lấy ví dụ việc giải
quyết sự cạnh tranh giữa hai nhà đầu tư lớn là KeangNam (Hàn Quốc) và
Riviera (Nhật bản), Thành phố Hà nội đã giải quyết rất tốt mối quan hệ về chính
trị cũng như quyền lợi kinh tế của các nhà đầu tư và của thành phố. Kết quả là,
cả hai nhà đầu tư đều quyết định đầu tư vào những dự án tổ hợp thương mại có
số vốn rất lớn (500 triệu USD từ KeangNam và 550 triệu USD từ Riviera) tại
-88-
những khu đất có vị trí trọng điểm của thành phố. Ngoài ra, Riviera còn ký biên
bản ghi nhớ với thành phố Hà nội đầu tư dự án sân golf Thanh trì, sân golf Sóc
sơn và tổ hợp văn phòng nhà ở cao cấp tại Đông Anh với vốn đầu tư khoảng 500
triệu. Hai tập đoàn này cũng ủng hộ số tiền rất lớn vào quỹ phúc lợi thành phố
(KeangNam ủn hộ 2 triệu USD và nộp trước 250 tỷ tiền thuê đất; Riviera ủng
hộ 5 triệu USD và nộp trước 50 triệu USD tiền bảo lãnh thực hiện dự án)
3.2 Các xu hướng đầu tư vào bất động sản tại Việt Nam
Ông Marc Townsend, Tổng Giám đốc công ty Quản lý Bất động sản CB
Richard Ellis Việt Nam (CBRE), khi nhận định về hoạt động đầu tư trong lĩnh
vực BĐS tại Việt Nam đã dự đoán: “Làn sóng đầu tư vào cao ốc sẽ tiếp tục
không ngừng. Văn phòng cho thuê và các căn hộ cao cấp cho thuê sẽ vẫn tiếp
tục “sốt” cả về giá cả lẫn nhu cầu” [2]. Trong thời gian tới, đầu tư vào lĩnh vực
BĐS sẽ có những xu hướng sau:
3.2.1 Đầu tư vào các dự án tổ hợp văn phòng, căn hộ, trung tâm thương mại
và khách sạn:
Sẽ có nhiều dự án đầu tư vào các cao ốc văn phòng, căn hộ và khách sạn
cao cấp. Hiện nay, số lượng các toà nhà văn phòng hạng A và các căn hộ tiêu
chuẩn quốc tế tại Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường mặc
dù giá thuê đang ở mức rất cao. Mặt khác, trong thời gian qua, không có khách
sạn 5 sao được xây dựng và mới nào đi vào hoạt động trong thời gian tới nên sẽ
có nhiều dự án đầu tư vào các khách sạn cao cấp và các dịch vụ giải trí và tiện
ích đi kèm. Xu hướng đầu tư vào các toà nhà nhiều chức năng: văn phòng, căn
hộ, khách sạn, trung tâm thương mại sẽ trở nên phổ biến. Các chủ đầu tư luôn
mong muốn đem lại một dịch vụ trọn gói và đồng bộ cho khách hàng của mình
và cũng để đa dạng hoá doanh thu, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Thực tế, khi
khách hàng đi kiếm nhà để thuê hoặc ở, họ luôn xem xét nơi đó có tiện lợi về
giao thông không, có phải đi xa để mua sắm hoặc giải trí không, ăn uống ở đâu...
-89-
Một công trình nhiều chức năng sẽ đáp ứng cùng lúc nhiều nhu cầu của khách
hàng và mang lại một môi trường sống và làm việc hoàn hảo.
3.2.2 Đầu tư vào các vị trí đất đẹp, thuận tiện kinh doanhvới qui mô lớn
Các nhà đầu tư vẫn có xu hướng ưu tiên đầu tư những dự án có vị trí đất
đẹp. Khi cân nhắc đầu tư vào BĐS, vốn đầu tư không phải là yếu tố đặt lên hàng
đầu đối với các nhà đầu tư nước ngoài vì vốn có thể huy động được nhưng vị trí
đẹp không thể dễ dàng tìm kiếm được và quỹ đất đai là hữu hạn. Trong kinh
doanh bất động sản thì vị trí là một tiêu chí hàng đầu đối với các nhà đầu tư và
phát triển BĐS. Với cùng một tiêu chuẩn chất lượng xây dựng và dịch vụ nhưng
những toà nhà tại nơi trung tâm, giao thông thuận tiện sẽ dễ có khách hàng thuê
hoặc mua hơn và có giá bán cao hơn nhiều, thậm chí là nhiều lần so với những
toà nhà như vậy ở những nơi khác ở cùng một thành phố/ địa phương. Vì vậy
trong những năm tới có thể thấy một xu hướng là các dự án BĐS có vốn đầu tư
lớn hơn 100 triệu USD sẽ rất nhiều và thậm chí trong thời gian qua đã có nhiều
dự án được đệ trình xin cấp phép với số vốn đầu tư lên đến hàng trăm triệu hoặc
trên một tỷ USD như dự án Hòn ngọc Châu Á do tập đoàn ủy thác Trustee Thuỵ
sỹ đầu tư tại Phú quốc với số vốn 2 tỷ USD, dự án Khu giải trí Bãi vòng ở Kiên
giang do tập đoàn Limited Investment Zone của Mỹ đầu tư với số vốn 2 tỷ USD,
dự án đầu tư vào khu Yên Sở Hà hội của tập đoàn Gamuda, Malaysia với số vốn
1 tỷ USD, hai dự án khách sạn 5 sao tại Hà nội của tập đoàn Riviera với vốn đầu
tư 550 triệu USD của Nhật bản và KeangNam của Hàn quốc với vốn đầu tư là
500 triệu USD,...
3.2.3 Đầu tư vào các thành phố và phát triển khu đô thị mới
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn là trung tâm thu hút các dự án
thương mại và nhà ở do nằm ở vị trí kinh tế chiến lược, sau đó là một số thành
phố khác như Hải phòng, Đà nẵng. Do việc phát triển thị trường BĐS thương
mại nhằm phục vụ nhu cầu làm việc, sinh sống và giải trí, nên những dự án ở
các thành phố lớn hoặc các khu du lịch sẽ hấp dẫn nhà đầu tư hơn. Kể cả khi làm
-90-
việc tại các khu công nghiệp, các chuyên gia nước ngoài cũng vẫn thích thuê
nhà tại thành phố để họ có thể cảm thấy thoải mái khi nghỉ ngơi sau thời gian
làm việc. Các công ty sản xuất cũng có nhu cầu đặt văn phòng tại thành phố để
dễ dàng giao dịch, quảng bá và tiểu thụ sản phẩm. Thị hiếu của người Việt Nam
có nhu cầu mua nhà chung cư vẫn thích mua tại đô thị vì có điều kiện hạ tầng tốt
hơn những vùng ở xa và giao thông tiện lợi hơn. Ngoài ra, có một lý do nữa là
các thành phố lớn này đã có quy hoạch tổng thể nên nhà đầu tư có thể định
hướng được cho dự án của mình dựa vào các quy định hiện hành hoặc các công
bố, quyết định từ UBND Thành phố.
Sẽ có nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào các khu đô thị mới hoặc các quần
thể gồm nhà ở, các phương tiện giải trí như sân chơi, bể bơi, phòng tập thể dục,
cây xanh, trường học, câu lạc bộ, bệnh viện, … Việc này là phát sinh tất yếu từ
yêu cầu mở rộng của các thành phố lớn và khu công nghiệp theo quy hoạch tổng
thể của nhà nước nhằm đổi mới bộ mặt của các thành phố để thu hút vốn đầu tư.
Quỹ đất trong nội thành tại các thành phố lớn ngày càng ít và nhu cầu phát triển
đô thị ngày càng tăng. Đời sống của một bộ phận dân cư cũng tăng thêm rất
nhiều cùng với nhu cầu sinh hoạt, giải trí, đi lại ngày càng tăng cả về lượng và
chất. Thêm vào đó, kể từ năm 2004, người Việt định cư ở nước ngoài bắt đầu
được phép mua nhà tại Việt Nam và họ có xu hướng chọn những nơi có chất
lượng xây dựng và dịch vụ đi kèm tương tự của mình tại nước ngoài. Các toà
nhà trong nội thành, tuy có thuận lợi về vị trí nhưng lại có giá cao và không đáp
ứng cùng một lúc những yêu cầu đó. Điều này kích thích việc đầu tư phát triển
các khu căn hộ cao cấp rồi bán lại cho những người có nhu cầu.
3.2.4 Đầu tư có sự kết hợp giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài
Thị trường vẫn có xu hướng kết hợp giữa nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài để cùng nhau phát triển dự án. Nhà đầu tư trong nước đang cần vốn và
kinh nghiệm quản lý, công nghệ xây dựng. Nhà đầu tư nước ngoài mạnh về vốn
nhưng lại mất thời gian tìm hiểu thị trường và tìm kiếm địa điểm xây dựng. Tuy
-91-
nhiên, trước đây thường là các nhà phát triển BĐS chuyên nghiệp là những
người quan tâm đến hoạt động đầu tư và kinh doanh BĐS thì hiện nay rất nhiều
nhà đầu tư có vốn quan tâm đến lĩnh vực này. Điều này có nghĩa là, rất nhiều
nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để mua lại các dự án đang khai thác hoặc đầu tư trực
tiếp vào một dự án nào đó thông qua các quỹ phát triển BĐS miễn là họ nhìn
thấy khả năng sinh lời trong tương lai. Mới đây, hội nghị thu hút vốn đầu tư
nước ngoài do công ty IDJ (Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Quốc
tế) Việt Nam tổ chức tại Hà nội đã thu hút số lượng nhà đầu tư tham gia vượt
quá dự tính của những người tổ chức. Trong số 69 dự án kêu gọi góp vốn, có
đến 70% liên quan đến lĩnh vực BĐS [4].
3.2.5 Các nhà đầu tư châu Á vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu đầu tư theo nước
Trong vòng một hai năm trước mắt, các nước châu Á vẫn chiếm tỷ lệ lớn
trong tổng số các dự án đầu tư vào Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực BĐS
nói riêng. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
kể từ năm 1988 đến hết năm 2006, đã có 77 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án
đầu tư tại Việt Nam , trong đó các nước châu Á chiếm 67% tổng vốn đăng ký;
các nước châu Âu chiếm 29% tổng vốn đăng ký; các nước châu Mỹ chiếm 4%
vốn đăng ký. Riêng 5 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam là Đài
Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông đã chiếm 60,6% tổng vốn
đăng ký. Trong năm 2006 có 44 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam ,
trong đó, Hàn Quốc dẫn đầu có vốn đầu tư trên 2,5 tỷ USD, chiếm 25,2% tổng
vốn cấp mới; tiếp theo là Hồng Kông, vốn đầu tư 1,59 tỷ USD, chiếm 15,6% ;
Nhật Bản đứng thứ 3, vốn đầu tư 1,33 tỷ USD, chiếm 13,1%; [1] Hoa Kỳ đứng
thứ 4 , vốn đầu tư 790,6 triệu USD, chiếm 7,7% tổng vốn cấp mới. Nếu tính cả
một số dự án của Hoa Kỳ đầu tư thông qua nước thứ ba thì Hoa Kỳ đứng thứ
hai. Tuy nhiên, về lâu dài, sẽ có nhiều đối tác từ Châu Âu và Mỹ sẽ đầu tư vào
Việt Nam do Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ khi gia nhập WTO.
-92-
3.2.6 Các quỹ đầu tư phát huy vai trò xúc tiến đầu tư vào BĐS
Sẽ có nhiều dự án đầu tư phát triển BĐS thương mại thông qua các quỹ
đầu tư BĐS. Vai trò của các quỹ đầu tư sẽ ngày càng trở nên quan trọng đối với
hoạt động kinh doanh BĐS vì khả năng huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu
quả của họ rất lớn, các nhà đầu tư có thể tin tưởng giao vốn cho những quỹ này
quản lý. Hiện nay, có rất nhiều nhà đầu tư có vốn nhưng không có điều kiện tìm
hiểu thị trường hoặc không hoạt động trong lĩnh vực BĐS, vì thế họ có thể thông
qua quỹ đầu tư để kinh doanh BĐS tại Việt Nam khi nhận thấy đây là thị trường
có nhiều triển vọng và có khả năng thu được lợi nhuận. Mặt khác, các quỹ đầu
tư có khả năng huy động nhiều nguồn vốn nhỏ, lẻ để phát triển những dự án lớn.
Ví dụ như giữa tháng 3/2007, Quỹ đầu tư BĐS VinaLand (Vina Capital)
đã tổ chức một đợt huy động vốn tại New York (Mỹ) và chỉ trong vòng 4 tuần
đã huy động được khoảng 600 triệu USD. Thông qua Quỹ này nhiều nhà đầu tư
lớn từ Mỹ (chiếm 40%), châu Âu (chiếm 50%) và châu Á (10%) đã chính thức
đổ vốn vào thị trường BĐS Việt Nam và đã có khoảng 30 dự án nằm trong kế
hoạch giải ngân vốn cho quỹ này.
3.2.7 Sự mở rộng của các công ty kinh doanh BĐS hiện nay
Sẽ có nhiều nhà kinh doanh BĐS hiện tại mở rộng kinh doanh của mình
bằng cách tìm kiếm và thực hiện các dự án mới. Đã có rất nhiều nhà đầu tư
thành công trong lĩnh vực kinh doanh BĐS tại Việt Nam và họ sẽ không bỏ lỡ
thời cơ vàng hiếm có hiện nay để tiếp tục phát triển việc kinh doanh của mình
với những lợi thế sẵn có về nghiên cứu thị trường, uy tín đã tạo dựng được,
nguồn khách hàng tiềm năng, các kinh nghiệm về xây dựng và quản lý,… Ví dụ
như tập đoàn Keppel Land của Singapore với những dự án Saigon Center (văn
phòng, căn hộ cho thuê và trung tâm thương mại), Tamarind Park (căn hộ cho
thuê), Villa Riviera (căn hộ và biệt thư bán), Saigon Sports City (khu đô thị) tại
Thành phố Hồ Chí Minh , và International Center (văn phòng cho thuê), Royal
-93-
Park Sedona Suites Hanoi tại Hà nội… Hiện nay, tập đoàn này vẫn tiếp tục tìm
kiếm cơ hội phát triển dự án BĐS mới tại Việt Nam .
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc quản lý và phát triển các dự án
bất động sản có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà nội
3.3.1. Các giải pháp từ phía nhà nước
Để hoàn thiện việc quản lý và phát triển các dự án BĐS tại Hà nội, cần có
sự kết hợp các giải pháp từ chính phủ Việt Nam lẫn chính quyền thành phố Hà
nội để tạo ra một môi trương pháp lý đồng bộ đối với lĩnh vực này. Trong đó
bao gồm những giải pháp sau:
3.3.1.1. Các giải pháp từ chính phủ
+ Giữ vững ổn định về chính trị
Giữ vững ổn định về chính trị có ý nghĩa quyết định đến việc thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài, yếu tố này luôn được các nhà đầu tư xem xét đầu tiên.
Họ chỉ muốn đầu tư ở những khu vực, những quốc gia có sự ổn định về chính
trị- xã hội, có đủ năng lực và điều kiện thực hiện đầy đủ các cam kết của mình
với độ tin cậy cao. Hơn nữa việc giữ vững về ổn định chính trị – xã hội có ý
nghĩa hết sức quan trọng với sự phát triển của ngành kinh doanh BĐS, ảnh
hưởng trực tiếp tới việc thu hút đầu tư, du lịch, tới hoạt động lưu trú, hoạt động
sản xuất kinh doanh… từ đó sẽ ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh của các
doanh nghiệp có vốn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam nói chung và Hà
nội nói riêng, cũng như ảnh hưởng tới quyết định của các nhà đầu tư đang xem
xét đầu tư vào lĩnh vực BĐS tại Hà Nội. Vì vậy Nhà nước cần có những biện
pháp nhằm đảm bảo sự ổn định về chính trị- xã hội, riêng với Hà nội, duy trì
danh hiệu “Thành phố vì hoà bình” nhằm chuyển tải tới các nhà đầu tư một
thông điệp “Hà Nội là địa điểm đầu tư an toàn và thành đạt của giới kinh doanh;
là điểm đến an toàn, thân thiện của du khách quốc tế”.
-94-
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến đầu
tư và thị trường bất động sản
Thị trường BĐS liên quan đến nhiều lĩnh vực, từ đất đai đến tài chính
ngân hàng, xây dựng, tư pháp.... Vì vậy, phát triển BĐS và vận hành thị trường
BĐS đòi hỏi phải có khung pháp lý đồng bộ và chặt chẽ. Nội dung của khung
pháp lý phải bao quát từ thị trường sơ cấp (thị trường quyền sử dụng đất), thị
trường đầu tư phát triển BĐS đến thị trường thứ cấp (thị trường giao dịch BĐS).
Mặc dù Luật Đầu tư năm 2005 và Luật Kinh doanh Bất động sản đã được công
bố và có hiệu lực thi hành, mang lại nhiều thay đổi tích cực trong việc quản lý
và phát triển các dự án BĐS có vốn ĐTNN tại Việt Nam và Hà nội, trong thời
gian tới, chính phủ vẫn cần thiết phải ban hành các văn bản luật có liên quan đến
lĩnh vực này như Luật Đăng ký Bất động sản, Luật thuế BĐS, … Tiếp theo đó,
cần nghiên cứu và ban hành các văn bản dưới các hình thức pháp lý khác về các
vấn đề liên quan đến thị trường BĐS và đầu tư vào thị trường BĐS. Đó là những
văn bản pháp lý về thu hồi đất để chuyển thành đất phi nông nghiệp, văn bản
pháp lý về quy hoạch (là quy hoạch chung cho cả quy hoạch phát triển tổng thể
kinh tế – xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển ngành và địa
phương, quy hoạch xây dụng đô thị ), các văn bản pháp lý về sự tham gian của
các tổ chức tín dụng, ngân hàng vào thị trường BĐS như Quy chế bảo lãnh cho
các hoạt động đầu tư vào thị trường BĐS của ngân hàng; Quy chế cấp vốn tín
dụng cho các hoạt động đầu tư vào thị trường BĐS của các tổ chức tín dụng, văn
bản pháp lý về sự tham gia của các thể chế tài chính và đầu tư vào BĐS; Quy
chế hoạt động cho các quỹ hỗ trợ đầu tư vào thị trường BĐS; Quy chế về việc
tái bảo lãnh cho việc đầu tư vào thị trường BĐS….
+ Phát triển và quản lý tốt thị trường chứng khoán: Thị trường chứng
khoán Việt Nam còn non trẻ và có triển vọng phát triển cao trong tương lai. Thu
hút vốn vào các dự án kinh doanh BĐS thông qua thị trường chứng khoán rất
phổ biến tại các nước phát triển trên thế giới. Thị trường chứng khoán của Việt
-95-
Nam hiện nay bắt đầu thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích cổ phần hoá các công ty kinh doanh
BĐS và niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán để thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước vào BĐS. Tuy nhiên, đi đôi với việc khuyến khích cần có một hệ
thống quản lý và giám sát chặt chẽ tránh tình trạng thị trường phát triển tự phát
hoặc bị các nhà đầu tư lợi dụng việc niêm yết để kiếm lợi khiến giá cả biến động
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế chung.
+ Hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về thị trường BĐS, về
đầu tư vào thị trường BĐS
Nhà nước cần xem xét và đổi mới sự phân công, phân cấp giữa các cơ
quan mà trong chức năng hoạt động có liên quan đến các bộ phận cấu thành của
BĐS, của đầu tư BĐS sao cho mỗi cơ quan trong hệ thống quản lý nhà nước
phải chịu trách nhiệm về một nội dung theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình. Theo đó, không có nội dung nào liên quan đến BĐS, thị trường
BĐS và đầu tư vào thị trường BĐS mà không được một cơ quan chịu trách
nhiệm chính. Ví dụ khi thị trường BĐS trở nên quá nóng hoặc đóng băng thì
phải có một cơ quan chịu trách nhiệm chính để tìm ra các giải pháp khắc phục
tình trạng đấy. Giữa các cơ quan phải có sự thống nhất về thông tin. Điều này có
thể thực hiện được thông qua hệ thống thông tin giữa các cơ quan quản lý BĐS
có liên quan, và các thông tin này cần phải được cập nhật hàng ngày và phải có
người quản lý, giám sát. Khi đã có sự thống nhất về thông tin thì các cơ quan
quản lý mới có thể đưa ra được những giải pháp đúng đắn, kịp thời và thống
nhất.
Hiện nay, nhiều cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng, nhà ở…
tại cấp tỉnh, huyện (và các cấp tương đương) bị quá tải trong việc thi hành chức
năng, nhiệm vụ được giao. Một trong những lý do của việc này là do sự chồng
chéo hoặc mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước và sự hạn chế về trình độ
nhận thức của cán bộ. Nhà nước cần có kế hoạch sớm khắc phục sự quá tải này,
-96-
trong đó nổi lên hàng đầu là vấn đề cán bộ và trang thiết bị cho bộ máy hoạt
động có hiệu quả. Cần phải có sự đào tạo về kiến thức, hướng dẫn tổ chức thi
hành các điều khoản của luật pháp hoặc quy định cho các chuyên viên phụ trách
các dự án. Nếu những chuyên viên này nắm bắt được rõ ràng các yêu cầu về thủ
tục hành chính, họ sẽ có sự giải thích rõ ràng và hướng dẫn được các nhà đầu tư
trong việc triển khai các dự án. Như vậy, sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho
các bên, tránh được các hiện tượng tiêu cực, đồng thời nâng cao được uy tín của
các cơ quan quản lý nhà nước trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài.
3.3.1.2. Các giải pháp từ UBND thành phố Hà nội
+ Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp chuyên ngành BĐS, tổ chức tốt
việc thực hiện Luật Kinh doanh BĐS và các bộ luật khác có liên quan đến lĩnh
vực BĐS cùng những thông tư, văn bản hướng dẫn thi hành luật. Luật và các
văn bản dưới luật tạo môi trường pháp lý cho việc quản lý hoạt động đầu tư vào
BĐS, thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển các dự án
BĐS phù hợp với tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế của Hà Nội, cụ thể:
- Rà soát lại cơ chế chính sách, luật pháp, sửa đổi hoặc loại bỏ các ưu đãi,
trợ cấp liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp FDI không phù hợp với cam
kết WTO cũng như các cam kết quốc tế và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của
các nhà đầu tư có liên quan.
- Phối hợp cùng các Bộ, ngành xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách
tài chính BĐS, chính sách ưu tiên đầu tư cho phát triển những dự án kêu gọi đầu
tư, chính sách xuất nhập cảnh, hải quan....
- Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước
và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho
các hoạt động kinh doanh BĐS. Đồng thời bổ sung, mở rộng áp dụng một số
quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực BĐS thành phố
đang khuyến khích đầu tư với mỗi khu vực, trong từng thời kỳ. Tiếp tục thực
-97-
hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất
cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quyết định số
53/1999/QĐ-TTg của thủ tướng Chính Phủ.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện các chính sách tài chính (chính sách
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, thuế sử dụng đất, tiền thuê mặt đất,
tiền thuê mặt nước…) nhằm khuyến khích đầu tư phát triển các khu đô thị mới,
du lịch. Tạo môi trường thông thoáng về tài chính, đảm bảo tính rõ ràng, đơn
giản và ổn định trong chính sách tài chính với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Cải cách các loại thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu theo yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế theo
hướng đảm bảo nguồn thu cho ngân sách thành phố nhưng phải ưu tiên đầu tư,
khuyến khích hoạt động của các doanh nghiệp FDI.
- Bổ sung các cơ chế, chính sách xử lý các vấn đề pháp lý có liên quan đến
việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình AFTA và các cam kết song
phương, đa phương trong quá trình hội nhập kinh tế nhất là trong mở cửa lĩnh
vực dịch vụ (bưu chính viễn thông, du lịch, giáo dục và đào tạo, y tế…).
- Tránh tình trạng chồng chéo giữa cơ chế, chính sách, các Luật khác nhau.
Chính sách phải được quy định rõ ràng mới thu hút được các nhà đầu tư nước
ngoài. Việc ban hành quy chế khuyến khích thu hút đầu tư xây dựng khách sạn
4-5 sao của UBND thành phố Hà Nội là một hành động kịp thời và đúng đắn
kêu gọi các nhà đầu tư tại Hà Nội. Trong quy chế này đã ghi rõ ràng những ưu
đãi về đất đai, ưu đãi khác và nghĩa vụ của các nhà đầu tư khi đầu tư xây dựng
khách sạn cao cấp tại Hà Nội.
+ Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý Nhà nước giữa Chính Phủ và
chính quyền thành phố Hà Nội, chú trọng vào công tác hướng dẫn, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của cơ quan cấp dưới tránh tình
trạng ban hành chính sách ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp
-98-
của cơ quan quản lý trung ương vào xử lý các vấn đề cụ thể, trong đó nhiệm vụ
giám định đầu tư và hậu kiểm được tăng cường; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
quản lý từ trung ương đến cấp cơ sở thông qua tổ chức tập huấn và đào tạo ngắn
hạn.
Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại
các dự án FDI đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp,
kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp đã đi vào
hoạt động, trong phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan quản lý cần có biện
pháp quản lý và động viên kịp thời; đồng thời sẵn sàng tháo gỡ những khó khăn
của doanh nghiệp để đầu vào, thông tin thị trường, thuế để doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả. Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các cơ quan quản
lý cần cùng các nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn về giải phóng mặt bằng, thủ tục
nhập trang thiết bị, máy móc phục vụ dự án để đẩy nhanh tiến độ thực hiện;
đồnh thời giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô
hoạt động của dự án. Đối với những dự án chưa triển khai hoặc không có khả
năng hoạt động cần kiên quyết thu hồi giấy phép, dành địa điểm cho các nhà đầu
tư khác
+ Cải cách thủ tục hành chính.
Hà Nội cần tiên phong trong việc khắc phục có hiệu quả với sự thiếu
minh bạch, chậm trễ, ách tắc trong thủ tục hành chính. Các công việc cần thực
hiện để cải cách thủ tục hành chính bao gồm:
- Đơn giản hoá việc thẩm định và cấp phép đầu tư, thủ tục cấp đất, thủ tục
giải phóng mắt bằng, mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép
đầu tư.
- Tăng cường tư vấn, hướng dẫn và trợ giúp các nhà đầu tư nước ngoài
triển khai thực hiện dự án. Các cơ quan chức năng về quản lý BĐS, quản lý hoạt
động đầu tư nước ngoài cần quy định rõ ràng, công khai, các thủ tục hành chính
hướng tới giảm chi phí và thời gian cho các nhà đầu tư. Kiên quyết xử lý các
-99-
trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tham nhũng, vô trách nhiệm của các cán bộ
cơ quan công quyền. Điều này tạo nên sự yên tâm cho các nhà đầu tư khi họ
muốn đầu tư tại Hà Nội.
- Tạo điều kiện để cải cách các thủ tục xuất nhập cảnh cho lao động nước
ngoài và thân nhân của họ, điều này có ý nghĩa với Hà Nội bởi đây là địa bàn có
nhiều người nước ngoài làm việc, sinh sống và du lịch
+ Hoàn chỉnh công tác quy hoạch
- Các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố đặc biệt là Sở Kế hoạch và
Đầu tư cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà
soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc xây dựng dự án.
- Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư
trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh
vực, sản phẩm, du lịch phù hợp với các cam kết quốc tế cũng như quy hoạch
tổng thể thành phố.
- Hà Nội cần đặc biệt lưu ý tới việc hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất,
công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt
bằng cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện.
- Tuy đã tiến hành đấu giá đất của nhiều dự án trong thành phố để lựa chọn
chủ đầu tư, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều nhà đầu tư còn nợ tiền đất. Tính đến
tháng 12/2006, số nợ phải thu từ việc đấu giá đất còn 1.100 tỷ động. Vì vậy,
thành phố cần có những qui định đấu giá đất chặt chẽ, giám sát thực hiện
nghiêm túc và kiên quyết thu hồi trong trường hợp cần thiết. Mặt khác, không để
tình trạng “bán lúa non” xảy ra khi chạy theo thu nhập từ quyền sử dụng đất của
các nhà đầu tư mà bán đấu giá những lô đất chưa đủ điều kiện đem đấu giá (về
cơ sở hạ tầng, đền bù giải toả mặt bằng, quy hoạch chi tiết...). Nếu đất được đem
ra đấu giá đúng thời cơ và được sử dụng hiệu quả thì không những thu nhập
ngân sách thành phố mà còn tránh được tình trạng lãng phí, quy hoạch treo, nợ
-100-
đọng từ các nhà đầu tư và việc quản lý của thành phố đối với đất đai và bất động
sản được thực hiện tốt hơn.
+ Thúc đẩy hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá hình ảnh của Hà Nội, kết hợp chặt chẽ
với việc đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua hoạt động của các
nhà lãnh đạo Nhà nước và Chính Phủ tại các diễn đàn kinh tế quan trọng như:
WTO, APEC, ASEM, ASEAN… nâng cấp trang thông tin điện tử về đầu tư
nước ngoài, tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo trong và ngoài nước, tại các cuộc
hội nghị này phải quảng bá môi trường đầu tư tại Hà Nội, giới thiệu các chính
sách ưu đãi đầu tư và thông tin mới về sự thay đổi của những chính sách này
trong thời gian gần đây. Sở Kế hoạch và Đầu tư cần tổ chức các cuộc họp mặt
định kỳ với các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại để lắng nghe ý kiến của họ về
môi trường đằu tư hoặc những khó khăn mà họ gặp phải khi thực hiện triển khai
dự án, cũng như những đề xuất của họ đối với cơ quan quản lý.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cần nghiên cứu lập kế hoạch cho hoạt
động xúc tiến đầu tư để trình UBND thành phố bố trí nguồn kinh phí cố định từ
ngân sách thành phố dành cho hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Hà Nội nên áp dụng chính sách tiếp thị tập đoàn, tức là nên tập trung và
các công ty đa quốc giam, xuyên quốc gia nhằm tận dụng công nghệ nguồn,
công nghệ cao và thị phần lớn của các tập đoàn này đồng thời tập trung vào các
đối tác thuộc địa bàn trọng điểm Châu Âu và Châu Mỹ.
- Thiết lập và triển khai hiệu quả danh mục dự án gọi vốn đầu tư trong bất
động sản, không những chỉ ở trên trang website mà cần có kế hoạch tiếp thị dự
án đến từng nhà đầu tư tiềm năng. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư cần có chiến lược quy hoạch, phân tích tiềm
năng của dự án kèm theo danh mục dự án đầu tư, đây là cơ sở thực hiện chương
trình vận động đầu tư. Tất cả những thông tin mục tiêu, địa điểm, hình thức đối
tác thực hiện dự án trong danh mục phải có độ chính xác và tin cậy cao vì đây là
-101-
thông tin mà nhà đầu tư cần để đưa ra quyết định lựa chọn. Danh mục các dự án
nên tập trung vào các lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng …
hoặc các lĩnh vực mà Hà Nội đang ưu tiên, khuyến khích đầu tư (ví dụ, hiện nay
UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số78/2006/QĐ-UBND-có hiệu lực từ
ngày 01/07/2006- ban hành quy chế khuyến khích thu hút đầu tư xây dựng
khách sạn 4 sao và 5 sao nhằm thu hút vốn đầu tư, từng bước giải quyết nhu cầu
về cơ sở lưu trú có chất lượng cao trên địa bàn thành phố Hà Nội).
- Thành phố Hà nội cần có chính sách khuyến khích hoạt động của các quỹ
đầu tư BĐS và các công ty kinh doanh dịch vụ BĐS vì họ chính là những người
năng động nhất trong việc tìm nhà đầu tư, đối tác đầu tư và khách hàng cho các
dự án phát triển BĐS.
+ Khắc phục những hạn chế về kết cấu hạ tầng.
Do vị thế và tiềm năng phát triển lâu dài của Hà Nội cần phải xây dựng
Thủ đô Hà Nội trở thành một trung tâm giao dịch kinh tế quốc tế, một địa điếm
thu hút đầu tư và du lịch có tầm cỡ của khu vực, nên Hà Nội cần chú trọng
nhiều hơn và thực hiện đồng bộ việc nâng cấp kết cấu hạ tầng.
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc
biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước. Tập trung xử lý những khâu yếu
kém nhất gây trở ngại đối với hoạt động đầu tư như đường giao thông, sân bay,
bến cảng, kho hàng, hệ thống liên lạc viễn thông, hệ thống điện, hệ thống cấp
thoát nước... Chú trọng mở rộng hệ thống đường giao thông ở các cửa ngõ của
Thủ đô, mở các cổng giao dịch điện tử băng tải rộng và dung lượng lớn.
- Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng. Đối với
các dự án này thành phố cần có sự quản lý giám sát thường xuyên và chặt chẽ về
tiến độ và chất lượng vì các dự án này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
của nhiều dự án đầu tư khác nói chung và BĐS nói riêng.
- Xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài
Nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng. Đầu tư vào kết cấu
-102-
hạ tầng thường đòi hỏi nhiều vốn và không thể nhanh chóng thu hồi vốn và thu
lợi nhuận, mặt khác, ở một số lĩnh vực nhà nước lại giữ độc quyền nên không
khuyến khích được cạnh tranh và chi phí hạ tầng vì vậy vẫn còn ở mức cao. Vì
vậy, hiện nay, ngoài các dự án được tài trợ, rất ít nhà đầu tư quan tâm đến lĩnh
vực này, nếu được hưởng những ưu đãi nhất định, họ sẽ nhiệt tình tham gia.
+ Chú trọng công tác phát triển nguồn nhân lực
Trong định hướng thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài trong lĩnh vực BĐS tại Hà Nội thời gian tới thì nguồn nhân lực
là yếu tố quan trọng hàng đầu và phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn nhất
định. Vì vậy để phát huy tối đa vai trò của nguồn nhân lực này trong khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đã đề ra các
biện pháp sau:
- Đối với cán bộ quản lý cần chú trọng đào tạo cả kiến thức chuyên môn,
trình độ ngoại ngữ lẫn phẩm chất đạo đức. Việc nắm vững các kiến thức về luật
pháp quốc tế, thông lệ quốc tế trong lĩnh vực BĐS, du lịch cũng cần phải được
quan tâm. Sở Kế hoạch- Đầu tư phối hợp cùng Sở Du lịch Hà Nội tổ chức các
lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước và cán bộ trong các doanh
nghiệp có vốn FDI trong lĩnh vực kinh doanh BDS và du lịch.
- Cần đa dạng hoá các loại hình đào tạo, mở rộng phạm vi bồi dưỡng kiến
thức pháp luật, nghiệp vụ quản lý BĐS và cập nhật các thông tin BĐS cho đội
ngũ nhân viên làm việc cho các doanh nghiệp FDI góp phần nâng cao chất
lượng dịch vụ. Hiện nay các trường đại học khối kinh tế vẫn chưa có một khoa
về Bất động sản và các nghiệp vụ có liên quan như nghiệp vụ định giá, giám
định BĐS, môi giới phát triển BĐS, quảng cáo tiếp thị BĐS, quản lý BĐS,....
Tạm thời, cơ quan có thẩm quyền có thể tổ chức những khoá học về những vấn
đề trên và cấp chứng chỉ để chuyên nghiệp hoá đội ngũ quản lý và nhân viên
kinh doanh BĐS và dịch vụ BĐS.
-103-
+ Về lao động- tiền lương.
Thực hiện các biện pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ Luật lao động vào thực tế để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp,
lành mạnh hoá quan hệ lao động theo tinh thần của bộ Luật lao động, bao gồm.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động tiền lương phù hợp
trong tình trạng mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành
pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo các điều
kiện làm việc và đời sống cho người lao động
- Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên
truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong
các doanh nghiệp FDI để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền
lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, ở Hà Nội thì công tác này tương đối
thuận lợi bởi Hà Nội có đầy đủ điều kiện về thông tin liên lạc, các hình thức
tuyên truyền, giáo dục pháp luật phong phú và hơn nữa lao động ở Hà Nội nói
chung và lao động trong ngành BĐS ở Hà Nội nói riêng có trình độ văn hoá
tương đối cao.
- Xây dựng một mặt bằng chung về mức lương tối thiểu cho người lao
động làm việc trong các doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp FDI hay
doanh nghiệp trong nước có tính đến các yếu tố điều chỉnh về lạm phát, các quy
định về mức sống tối thiểu của người Hà Nội để tạo điều kiện cho người lao
động chuyên tâm với công việc hơn.
3.3.2. Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp
Ngoài các giải pháp từ phía chính phủ còn có một số giải pháp từ các nhà
đầu tư BĐS trong nước và nước ngoài nhằm phát triển hoạt động quản lý và
kinh doanh bất động sản như sau:
3.3.2.1 Mở rộng dịch vụ và tạo sự khác biệt
-104-
Nhu cầu về dịch vụ của các khách hàng trong những dự án BĐS luôn tăng
lên không ngừng. Ví dụ, khi thuê văn phòng, khách muốn yêu cầu chỗ đỗ xe,
muốn được chạy điều hoà trung tâm miễn phí trong thời gian lâu hơn, muốn có
dịch vụ diệt côn trùng định kỳ,... Hoặc trong lĩnh vực căn hộ cho thuê, khách
hàng không chỉ muốn có nơi ở mà còn yêu cầu các dịch vụ kèm theo như cung
cấp nước uống, thực phẩm, vé vào câu lạc bộ sức khỏe.
Muốn giữ khách hàng và thu hút các khách hàng mới, nhà đầu tư và quản
lý phải không ngừng đề ra và thực hiện các loại hình dịch vụ mới.
Ví dụ: Đối với khu vực văn phòng, nắm bắt được nhu cầu của một số văn
phòng đại diện có rất ít nhân viên, hoặc chỉ có một vài người nước ngoài làm
việc, một số toà nhà đã thành lập nên loại hình “Business Center” (văn phòng
kinh doanh) ngay trong toà nhà của mình trong đó cho thuê những văn phòng rất
nhỏ, thậm chí chỉ khoảng 12m2 đã được trang bị đầy đủ nội thất để khách thuê
có thể làm việc ngay và giá thuê những văn phòng nhỏ này thường đắt gấp rưỡi
đến gấp đôi các văn phòng bình thường nhưng khách hàng vẫn vui vẻ ký hợp
đồng vì cả hai phía đều có lợi: Chủ nhà được thêm tiền thuê, khách hàng tiết
kiệm được chi phí thuê so với diện tích lớn mà không sử dụng hết và không mất
công cải tạo văn phòng. Bên cạnh đó, toà nhà có thể cho thuê các dịch vụ đi kèm
như dịch vụ phiên dịch, thư ký, thuê xe ô tô, vệ sinh văn phòng,...
Đối với lĩnh vực căn hộ, nhận thấy nhiều khách hàng sống độc thân,
không có điều kiện mua sắm thực phẩm , đồ uống, toà nhà có thể cung cấp dịch
vụ shopping (mua hàng) theo đúng giá thị trường bằng cách ký hợp đồng với
những cửa hàng tạp phẩm uy tín hoặc một siêu thị. Khách hàng sẽ hài lòng vì
họ vẫn mua được thứ mình cần mà không mất thêm một khoản chi phí nào.
Đối với những dự án bắt đầu triển khai, chủ đầu tư cần phải tiên lượng
trước các nhu cầu về dịch vụ cũng như thị hiếu của khách hàng trong tương lai
để tạo cho mình một sự khác biệt so với các toà nhà khác mà nhờ đó sẽ thu hút
được khách hàng. Ví dụ, chỗ đỗ xe ô tô có công suất lớn, trần văn phòng cao,
-105-
vách ngăn linh hoạt,... Một công trình có sự khác biệt cũng sẽ mang đến cho
khách hàng sự hài lòng và cảm giác họ đang được hưởng một dịch vụ cao cấp
hơn. Do đó, khách hàng sẽ không ngần ngại ký hợp đồng thuê hoặc mua bán.
Donald Trump, một tỷ phú người Mỹ đã đưa ra các nguyên tắc để quản lý
BĐS tốt nhất, đó là:“Phát triển óc quan sát chi tiết. Xem người thuê nhà như
những khách hàng quý giá chứ không phải là những người gây rắc rối” và
“Thận trọng với việcbảo dưỡng và sửa chữa” [3]
3.2.2.2. Thuê dịch vụ quản lý và marketing chuyên nghiệp
Một số nhận xét về việc quản lý các toà nhà thương mại:
- Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bất động sản là vô cùng cần thiết đối
với sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này. Các công trình chất
lượng cao sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt đô thị ở các thành phố. Thị trường
bất động sản tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng hiện rất còn nhiều
tiềm năng. Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư để khai thác không thể dễ dàng thực
hiện. Một phần, do cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển, các nhà đầu tư vẫn còn e
ngại những khó khăn về thủ tục cấp phép, giải phóng mặt bằng và nạn tham
nhũng.
- Trong quản lý nói chung, và quản lý bất động sản nói riêng, hình thức liên
doanh không tỏ ra có ưu thế, thậm chí có thể là nguyên nhân gây ra sự trì trệ của
việc đưa ra chiến lược kinh doanh hay các quyết định của công ty, từ đó dẫn đến
việc bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
- Các công ty của Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý và
Marketing nên ít nhất trong thời gian đầu cần thiết phải thuê một công ty chuyên
nghiệp làm các công việc đó để có thể học tập kinh nghiệm và tự mình quản lý
cũng như làm marketing cho dự án của mình.
-106-
- Dự án bất động sản luôn tập trung vào một hay vài đoạn thị trường nhất
định chứ không thể thoả mãn mọi đối tượng vì vậy cần có sự tư vấn để lựa chọn
khách hàng và cách tiếp cận hoặc đáp ứng nhu cầu của nhóm khách thích hợp.
- Trên thực tế, khách hàng thường có cảm tình với những tòa nhà do nước
ngoài hoặc một công ty quản lý chuyên nghiệp đứng ra quản lý, vì ở đó họ có
thể được đáp ứng nhu cầu tốt hơn với cùng một số tiền bỏ ra, thậm chí, họ có thể
phải trả nhiều hơn và vẫn thấy hài lòng.
- Trong lĩnh vực bất động sản, cạnh tranh về giá cả không được đánh giá
cao bằng chất lượng dịch vụ và sự khác biệt.
Từ những nhận xét ở trên và những ưu điểm của việc quản lý chuyên
nghiệp đã được trình bày ở chương 2 của luận văn này, có thể thấy việc thuê
những công ty chuyên nghiệp về quản lý và phát triển BĐS là một trong những
giải pháp đối với các nhà đầu tư BĐS nhằm tăng tính cạnh tranh của dự án, xây
dựng uy tín và tăng doanh thu.
Ngoài ra, với các dự án không thuê quản lý, thì cần thiết thuê một hoặc
nhiều công ty chuyên nghiệp để làm công việc và làm đại lý cho mình. Hiện tại
ở Hà nội, việc thuê công ty chuyên nghiệp về marketing và đại lý BĐS được áp
dụng phổ biến hơn thuê hợp đồng quản lý nhưng nhiều chủ đầu tư BĐS vẫn
chưa nhận thức được hết vai trò của các công ty marketing và đại lý BĐS.
Với các toà nhà mới khai trương, marketing là công việc rất quan trọng
nhằm nâng ty lệ thuê, bán bất động sản. Với những chủ đầu tư ít hoặc không có
kinh nghiệm thì việc thuê công ty chuyên về marketing và các đại lý BĐS lại
càng cần thiết. Việc này có những ưu điểm sau:
- Dự án được tiếp thị một cách chuyên nghiệp đến đúng nhóm đối tượng
khách hàng của mình.
- Chủ đầu tư được cung cấp và cập nhật miễn phí các thông tin về thị
trường, đối thủ cạnh tranh cũng như các dự báo về cung cầu trong tương lai.
- Được tư vấn về cách quảng cáo, tiếp thị
-107-
- Chi phí thấp hoặc hầu như không có vì các công ty này thường nhận thù
lao dưới dạng hoa hồng khi bán hay cho thuê được BĐS. Theo thông lệ hiện nay
tại Hà nội, phí hoa hồng trong lĩnh vực cho thuê văn phòng, căn hộ, trung tâm
thương mại... tối đa là 1 tháng tiền thuê với thời hạn từ 2 năm trở lên, hoặc từ
1% đến 2% giá bán bất động sản trong trường hợp bán (Phụ lục 4).
Việc thuê công ty marketing và đại lý BĐS chỉ có nhược điểm là có thể bị
xảy ra tình trạng khách hàng và đại lý BĐS thoả thuận với nhau để hưởng khoản
tiền hoa hồng giới thiệu nên nhiều khách thuê, dù có khả năng làm việc trực tiếp
với chủ đầu tư lại vẫn muốn thông qua đại lý BĐS để ký hợp đồng thuê hoặc
mua bán.
Việc thuê công ty marketing và đại lý BĐS thường được áp dụng khi trên
thị trường cung nhiều hơn cầu hoặc vị trí của dự án không thuận tiện, có một số
hạn chế trong kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay, các toà nhà đều chấp nhận việc
giới thiệu khách hàng chính tắc của căc đại lý BĐS chuyên nghiệp.
3.3.2.3 Thành lập hiệp hội các nhà đầu tư bất động sản Hà Nội
Hiện nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có Hiệp hội Bất động sản Thành
phố Hồ Chí Minh với hơn 600 thành viên tham gia hoạt động. Tại Hà nội, các
dự án đầu tư vào BĐS đang ngày càng tăng lên nhanh chóng và do vậy, số lượng
các nhà đầu tư BĐS cũng tăng lên. Việc thành lập một Hiệp hội Các nhà đầu tư
BĐS của Hà nội là rất cần thiết để hướng tới một thị trường BĐS có tổ chức,
cạnh tranh lành mạnh, giá cả ổn định đảm bảo cả quyền lợi của chủ đầu tư lẫn
khách hàng. Hiệp hội BĐS có những vai trò sau:
- Thống nhất ý kiến các nhà đầu tư BĐS và đại diện cho họ đề đạt với các
cơ quan có thẩm quyền những thắc mắc, nguyện vọng và đề nghị của các nhà
đầu tư BĐS đối với các chính sách và qui định hiện hành.
-108-
- Thu thập, hệ thống các thông tin mới nhất về các văn bản pháp luật, tình
hình thị trường BĐS trong và ngoài nước cũng như các cơ hội đầu tư BĐS và
cung cấp cho các nhà đầu tư.
- Đạt được sự cam kết về giá mua bán hoặc cho thuê BĐS tối đa hoặc tối
thiểu cho mỗi thời kỳ nhằm tránh sự phá giá hoặc nâng giá thuê đột ngột của
hàng loạt toà nhà cùng một lúc, giữ cho thị trường BĐS được ổn định.
- Đào tạo các chuyên gia tư vấn, định giá BĐS, quản lý BĐS... cho các chủ
đầu tư
- Tổ chức các buổi hội thảo để các chủ đầu tư trao đổi thông tin và kinh
nghiệm kinh doanh, quản lý; tạo ra không khí thân mật, hợp tác giữa các nhà
đầu tư với nhau và với các công ty chuyên nghiệp quản lý, kinh doanh BĐS.
- Hiệp hội các nhà đầu tư BĐS cũng có thể phát hành tạp chí hay tài liệu
quảng cáo của riêng mình, như vậy, các thành viên tham gia có thể tiết kiệm
được chi phí quảng cáo. Ví dụ, có thể phát hành sách giới thiệu về các toà nhà
văn phòng, căn hộ, trung tâm thương mại hay khách sạn đang hoạt động tại Hà
nội cùng các thông tin dịch vụ, giá cả, tiêu chuẩn kỹ thuật và địa chỉ liên lạc của
từng toà nhà.
3.3.2.4. Giải pháp chuyển nhượng cổ phần trong các liên doanh BĐS
+ Xu hướng chuyển nhượng cổ phần trong các liên doanh
Trước năm 2005, khi đầu tư vào các dự án BĐS, các nhà đầu tư nước
ngoài bắt buộc phải chọn hình thức liên doanh hoặc hợp tác kinh doanh. Thông
thường là phía Việt Nam góp vốn bằng quyền sử đất, phía nước ngoài góp vốn
pháp định bằng tiền.Vốn đầu tư cho dự án thường được liên doanh đi vay (với
sự giúp đỡ , thu xếp hoặc bảo lãnh của bên nước ngoài).
Tuy nhiên, hầu hết các liên doanh sau một thời gian hoạt động thường
phát sinh mâu thuẫn trong quản lý giữa các bên góp vốn khiến việc kinh doanh
-109-
bị ảnh hưởng, đặc biệt là với những liên doanh có nhiều đối tác tham gia. Những
mâu thuẫn đó thường là:
* Mâu thuẫn khi lựa chọn nhà thầu, nhà cung cấp cho dự án
* Mâu thuẫn về tuyển dụng nhân sự và tiền lương
* Mâu thuẫn trong quan điểm về thẩm mỹ, chất lượng, dịchvụ, cách điều hành
công việc hàng ngày
* Mâu thuẫn về chiến lược kinh doanh và chính sách tài chính và đối ngoại
Vì vậy, các công ty liên doanh thường có xu hướng nhượng cổ phần để có
thể giải quyết những mâu thuẫn đó. Tuy nhiên, cũng có một lý do cần được ghi
nhận nữa là hầu hết các công ty thực hiện chuyển nhượng khi việc kinh doanh
không phát đạt hoặc thua lỗ hoặc một đối tác trong liên doanh gặp khó khăn về
tài chính. Việc chuyển nhượng cổ phần có thể được thực hiện theo những hướng
sau:
- Một bên chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần cổ phần của mình cho
đối tác hoặc các đối tác còn lại nhằm tăng tính áp đảo của quyền biểu quyết
trong Hội đồng quản trị để có thể nhanh chóng quyết định một chính sách hay
một kế hoạch của công ty. Ngoài ra, khi việc kinh doanh gặp khó khăn và mâu
thuẫn quản lý trầm trọng, đây cũng là cách tốt nhất để thống nhất quản lý về một
mối, tránh không để tình trạng bị xấu thêm. Hoặc khi một trong hai công ty mẹ
gặp khó khăn về tài chính hay cần rút vốn đầu tư cho dự án khác mà họ thấy có
triển vọng hơn. Trường hợp này cũng có thể xảy ra khi nhà đầu tư có mục đích
đầu cơ dự án rồi tìm đối tác chuyển nhượng để kiếm lợi trong thời gian ngắn và
quay sang tìm kiếm dự án mới.
- Một bên chuyển nhượng cổ phần cho bên thứ ba. Điều này thường chỉ
được áp dụng khi có sự nhất trí của bên/các bên còn lại và cũng thường áp dụng
khi bên chuyển nhượng gặp khó khăn hoặc mâu thuẫn nặng nề với bên/ các bên
còn lại.
-110-
- Các bên thống nhất chuyển toàn bộ hoặc một phần cho bên thứ ba. Điều
này thường được áp dụng khi công ty kinh doanh thua lỗ hoặc dự án mới ở giai
đoạn đầu mà các chủ đầu tư tiên đoán trước là sẽ thua lỗ. Trường hợp này cũng
có thể xảy ra theo kiểu “bán lúa non”, nghĩa là các nhà đầu tư bán luôn dự án để
thu về một khoản lãi thấp hơn nhiều so với F/S những lại là lợi nhuận chắc chắn
và có thể nhanh chóng quay vòng vốn sang dự án khác, tránh được rủi ro kinh
doanh.
+ Hợp đồng chuyển nhượng và các thủ tục chuyển nhượng vốn
Thông thường trong các hợp đồng chuyển nhượng vốn, giá chuyển
nhượng không bao giờ đúng với giá chuyển nhượng thực tế. Vì bên chuyển
nhượng không muốn nộp thuế lợi nhuận phát sinh, một lý do khác là các bên
muốn giữ bí mật con số thực tế vì có thể trong tương lai lại tiếp tục chuyển
nhượng cho một bên khác.
Thủ tục chuyển nhượng vốn cũng rất thuận tiện trong trường hợp các bên
không có tranh chấp hoặc tranh chấp với bên thứ ba (ví dụ ngân hàng cho vay
vốn hay nhà thầu xây dựng). Đối với những dự án còn nhiều khoản nợ thì bên
nhận chuyển nhượng phải có cam kết chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ liên
quan đến những khoản nợ đó và điều này sẽ được cơ quan có thẩm quyền thể
hiện trong điều chỉnh giấy phép đầu tư.
+ Tác dụng của việc chuyển nhượng vốn
- Việc chuyển nhượng vốn có tác dụng lớn nhất là giải quyết được dứt điểm
mâu thuẫn trong quản lý của dự án
- Các bên có thể thu được lợi ích tài chính từ việc chuyển nhượng vốn.
- Bên nhận chuyển nhượng sẽ được toàn quyền quản lý, điều hành dự án và
toàn quyền chuyển nhượng dự án cho bên thứ ba, cũng như việc thế chấp dự án,
xin tăng vốn đầu tư, chuyển đổi mục đích kinh doanh,... trong khi bên chuyển
nhượng có thể nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư sang dự án khác
-111-
KẾT LUẬN
Kinh doanh và quản lý bất động sản vẫn còn là một lĩnh vực mới ở Việt
nam. Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, thực tế đã cho thấy các nhà
đầu tư, kinh doanh và quản lý các dự án bất động sản, đặc biệt là những dự án có
vốn đầu tư nước ngoài đã chứng tỏ được tầm quan trọng của mình trong việc
vận hành và phát triển các công trình này. Sự thành công của các dự án bất động
sản có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà nội đã trở thành những động lực và bài học
kinh nghiệm để phát triển bộ mặt đô thị của Thủ đô trong bối cảnh Việt Nam trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Tuy nhiên, việc kinh doanh, quản lý và phát triển các dự án bất động sản
có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay vẫn còn những điểm hạn chế nhất định. Bằng
luận văn này, ngoài việc nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý thuyết về bất
động sản và các hoạt động kinh doanh, quản lý bất động sản, tác giả mong muốn
tổng kết những thành công và hạn chế của các dự án bất động sản có vốn đầu tư
nước ngoài trong thời gian qua và đưa ra những nguyên nhân của những thành
công và hạn chế ấy. Trên cơ sở đó, tác giả cũng mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp để tăng cường hoạt động quản lý và phát triển các dự án bất động sản có
vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội. Việc gia nhập WTO hứa hẹn trong thời gian
tới, Việt nam sẽ là địa điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, khách
du lịch quốc tế và ngày càng thu hút các dự án đầu tư vào các dự án bất động
sản. Với lợi thế là thủ đô của đất nước nhưng lại còn nhiều hạn chế về cơ sở vật
chất hạ tầng, Hà Nội còn nhiều nhu cầu về phát triển bất động sản và sẽ trở
thành một địa điểm chiến lược để các nhà đầu tư nước ngoài phát triển các dự án
kinh doanh bất động sản của mình.
Tác giả hy vọng rằng luận văn của mình sẽ có một ý nghĩa nhất định đối
với các nhà đầu tư và quản lý bất động sản, đồng thời sẽ góp phần để người đọc
hiểu tốt hơn về tầm quan trọng của việc quản lý và phát triển các dự án bất động
sản có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng.
MỤC LỤC
TRANG
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
1
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẤT ĐỘNG SẢN VÀ
QUẢN LÝ BẤT ĐỘNG SẢN
1.1
Các khái niệm
5
5
1.1.1
Khái niệm bất động sản và phân loại bất động sản
1.1.1.1 Khái niệm bất động sản
5
1.1.1.2 Phân loại bất động sản
6
1.1.1.3 Đặc điểm của bất động sản
8
1.1.1.4 Điều kiện để bất động sản trở thành hàng hoá
9
10
1.1.2
Kinh doanh bất động sản và kinh doanh dịch vụ bất động sản
12
1.1.3
Thị trường bất động sản
1.1.3.1 Khái niệm thị trường bất động sản
12
1.1.3.2 Các yếu tố cấu thành thị trường bất động sản
13
1.1.3.3 Đặc điểm của thị trường bất động sản
14
15
1.1.4
Quản lý thị trường bất động sản và quản lý bất động sản
1.1.4.1 Quản lý thị trường bất động sản
16
1.1.4.2 Quản lý bất động sản
17
18
1.2
Vai trò của việc quản lý và phát triển bất động sản trong nền kinh
tế quốc dân
18
1.2.1
Làm tăng giá trị của đất đai và thúc đẩy sản xuất phát triển
19
1.2.2
Huy động vốn cho nền kinh tế
20
1.2.3
Làm tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước
21
1.2.4 Mở rộng các thị trường trong và ngoài nước, mở rộng quan hệ quốc
tế
22
1.2.5
Giữ gìn ổn định xã hội
23
1.2.6
Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của nhân dân
24
1.2.7
Góp phần đổi mới chính sách
25
1.3
Một số bài học kinh nghiệm về quản lý và phát triển bất động sản ở
một số nƣớc trong khu vực
25
1.3.1
Quản lý thị trường nhà ở tại Singapore
27
1.3.2
Quản lý nhà nước đối với đất đai ở Malaysia
28
1.3.3
Kinh nghiệm đền bù giải phóng mặt bằng và quản lý hiện tượng bong
bóng nhà đất của Trung Quốc
31
1.3.4
Hệ thống quản lý bất động sản Torrens của Australia
CHƢƠNG 2: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DỰ ÁN BẤT
ĐỘNG SẢN CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI TẠI HÀ NỘI
34
2.1
Tình hình đầu tƣ nƣớc ngoài vào lĩnh vực bất động sản tại Việt
Nam và Hà Nội
34
2.1.1
Tình hình đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản tại Việt Nam
36
2.1.2
Những nhân tố tác động đến đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất
động sản tại Việt Nam
2.1.2.1 Môi trường chính trị pháp luật
36
2.1.2.2 Môi trường kinh tế
38
2.1.2.3 Môi trường văn hoá
42
44
2.2
Tình hình đầu tƣ và kinh doanh bất động sản tại Hà Nội
44
2.2.1
Tầm quan trọng của việc phát triển các dự án bất động sản có vốn
đầu tư nước ngoài tại Hà nội
46
2.2.2
Những thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất
động sản ở Hà Nội
48
2.2.3
Tình hình kinh doanh bất động sản ở Hà Nội hiện nay
2.2.3.1 Tình hình kinh doanh văn phòng cho thuê
49
2.2.3.2 Tình hình kinh doanh căn hộ cho thuê
52
2.2.3.3 Tình hình kinh doanh nhà ở
53
2.2.3.4 Tình hình kinh doanh khách sạn
56
2.2.3.5 Tình hình kinh doanh các khu trung tâm thương mại
58
59
2.2.4
Những hạn chế của việc đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản
tại Hà Nội
2.2.4.1 Những tồn tại
59
2.2.4.2 Nguyên nhân
60
64
2.3
Tình hình quản lý bất động sản tại Hà nội
64
2.3.1
Hoạt động quản lý của các chủ đầu tư dự án bất động sản
2.3.1.1 Nội dung công việc quản lý bất động sản
64
2.3.1.2 ưu điểm và hạn chế của việc tự quản lý bất động sản
65
66
2.3.2
Hoạt của các công ty quản lý bất động sản chuyên nghiệp
2.3.2.1 Lĩnh vực đầu tư và phát triển khách sạn
66
2.3.2.2 Lĩnh vực đầu tư văn phòng, căn hộ và trung tâm thương mại
67
2.3.2.3 ưu điểm và hạn chế của việc thuê công ty quản lý
68
70
2.4
Phân tích một số dự án điển hình
70
2.4.1
Dự án Mặt trời Sông Hồng (Sun Red River) – Văn phòng và căn hộ
cho thuê
2.4.1.1 Giới thiệu dự án
70
2.4.1.2 Tình hình quản lý và kinh doanh
70
2.4.1.3 Các nguyên nhân thành công và hạn chế của dự án
71
2.4.1.4 Chiến lược kinh doanh
73
75
2.4.2
Dự án xây dựng và kinh doanh khách sạn Sheraton
2.4.2.1 Giới thiệu dự án
75
2.4.2.2 Tình hình quản lý và kinh doanh
75
2.4.2.3 Các nguyên nhân thành công và hạn chế của dự án
76
2.4.2.4 Chiến lược kinh doanh
78
79
2.5
Quản lý của Thành phố Hà Nội đối với các dự án đầu tƣ nƣớc
ngoài vào lĩnh vực bất động sản
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VIỆC QUẢN
LÝ VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DỰ ÁN BẤT ĐỘNG SẢN CÓ VỐN ĐẦU TƢ
NƢỚC NGOÀI TẠI HÀ NỘI
80
3.1
Những cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực đầu tƣ bất động sản
Hà Nội trong thời gian tới
80
3.1.1
Những cơ hội
81
3.1.2
Những thách thức
84
3.2
Các xu hƣớng đầu tƣ vào bất động sản tại Việt nam
84
3.2.1
Đầu tư vào các dự án tổ hợp văn phòng, căn hộ, trung tâm thương
mại và khách sạn
84
3.2.2
Đầu tư vào các vị trí đất đẹp, thuận tiện kinh doanh với qui mô lớn
85
3.2.3
Đầu tư vào các thành phố và phát triển khu đô thị mới
86
3.2.4
Đầu tư có sự kết hợp giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài
87
3.2.5
Các nhà đầu tư Châu á vẫn chiếm ưu thế trong cơ cấu đầu tư theo
nước
87
3.2.6
Các quỹ đầu tư phát huy vai trò xúc tiến đầu tư vào bất động sản
88
3.2.7
Sự mở rộng của các công ty kinh doanh bất động sản hiện nay
88
3.3
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc quản lý và phát triển các dự
án bất động sản có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại Hà Nội
88
3.3.1
Các giải pháp từ phía nhà nước
89
3.3.1.1 Các giải pháp từ phía chính phủ
91
3.3.1.2 Các giải pháp từ UBND thành phố Hà Nội
99
3.3.2
Các giải pháp từ phía các doanh nghiệp
99
3.3.2.1 Mở rộng dịchvụ và tạo sự khác biệt
100
3.3.2.2 Thuê dịch vụ quản lý và marketing chuyên nghiệp
102
3.3.2.3 Thành lập hiệp hội các nhà đầu tư bất động sản Hà Nội
103
3.3.2.4 Chuyển nhượng cổ phần trong các công ty liên doanh bất động sản
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1: Danh mục các dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trong lĩnh vực
văn phòng và căn hộ đã đƣợc cấp phép tính đến tháng 3/2007
PHỤ LỤC 2: DANH MỤC CÁC DỰ ÁN CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
TRONG LĨNH VỰC KHÁCH SẠN VÀ DU LỊCHĐÃ ĐƢỢC CẤP PHÉP
TÍNH ĐẾN THÁNG 3/2007
PHỤ LỤC 3: MẪU HỢP ĐỒNG QUẢN LÝ BẤT ĐỘNG SẢN
PHỤ LỤC 4: MÉu Hîp ®ång dÞch vô Marketing bÊt ®éng s¶n
Lêi c¶m ¬n
Hoàn thiện được công trình nghiên cứu này, trước tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn
trân trọng tới TS Nguyễn Hoàng Ánh – Phó Trưởng khoa Sau Đại học, trường Đại học
Ngoại Thương Hà nội đã tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn cụ thể, sửa chữa kịp thời cũng như
những khuyến khích, ủng hộ, động viên trong suốt quá trình tác giả thực hiện Luận văn
Thạc sỹ.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới một số chuyên viên của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà nội, ông Yoichi Nozuka - Tổng Giám đốc Công ty TNHH
Mặt trời Sông Hồng (Sun Red River), ông Katsuaki Nishikawa – Tổng Giám đốc Công
ty Phát triển Căn hộ Hướng Công viên (Garden View Court), ông Alastair Orr Ewing,
Chủ tịch Công ty Chesterton Petty Vietnam cùng các nhân viên công ty CB Richard
Ellis, Chesterton Petty Vietnam, Khách sạn Sheraton đã hỗ trợ tác giả khai thác thông
tin, ý kiến và thu thập số liệu nghiên cứu.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA ASEAN Free Trade Area: Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
APEC: Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương
ASEAN Association of Southeast Asian Nations: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
ASEM Asia-Europe Meeting: Hội nghị Cao cấp á - Âu
European Union: Liên minh Châu Âu
EU
Foreign Direct Investment : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI
Feasibility Study: Luận chứng Khả thi
F/S
Gross Domestic Product: Tổng sản phẩm quốc nội
GDP:
International Financial Company: Công ty Tài chính Quốc tế
IFC:
International Moneytary Fund: Quỹ Tiền tệ quốc tế
IMF:
Official Development Aids: Hỗ trợ Phát triển Chính thức
ODA
World Bank: Ngân hàng Thế giới
WB:
WTO: World Trade Organization: Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
TRANG
1
BẢNG
Bảng 2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2007
Bảng 2.2 Tốc độ tăng GDP của Việt Nam những năm gần đây
Bảng 2.3 Kết quả thu hút vốn ĐTNN của Hà Nội trong những năm gần đây
Bảng 2.4
Phân hạng các toà nhà
2
BIỂU
Biểu 2.1 Diện tích cho thuê và diện tích còn trống tại
các toà nhà văn phòng hạng A và hạng B
Biểu 2.2 Giá thuê trung bình của văn phòng hạng A tại Hà nội
Biểu 2.3 Căn hộ cho thuê trong Quý 1/2007 và tỷ lệ còn trống
Biểu 2.4 Giá thuê phân theo loại hình căn hộ (USD/m2/tháng)
Biểu 2.5 Giá bán căn hộ tại một số dự án tiêu biểu
Số lượt khách quốc tế đến Việt Nam 1990 – 2006
Biểu 2.6
Biểu 2.7 Hiệu suất sử dụng phòng trung bình và giá phòng
tại các khách sạn 5 sao