VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN BÁ VINH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN BÁ VINH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 8 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. HỒ SỸ SƠN
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, kết quả trong luận văn là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
NGUYỄN BÁ VINH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ......................................... 6
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm cắp tài sản ............ 6
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản .......... 17
CHƯƠNG 2. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH
QUẢNG NGÃI............................................................................................... 22
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Huyện Sơn
Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013-2018 ....................................................... 22
2.2. Định tội danh tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi . 23
2.3. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây,
tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 43
2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của Bộ
luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản .......................................................... 65
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN ......................................................................................................... 69
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
trộm cắp tài sản ............................................................................................... 69
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt nam về
tội trộm cắp tài sản .......................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản và các tội
phạm về chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2013– 2018. ..................................................................................... 22
Bảng 2.2: Bảng thống kê về hình phạt tội Trộm cắp Tài sản được xét xử sơ
thẩm trong giai đoạn từ 2013 – 2018 trên địa bàn huyện Sơn Tây ................. 49
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi, được thành lập ( tách ra từ huyện Sơn
Hà) vào năm 1994, là một huyện miền núi phía tây của tỉnh Quảng Ngãi, với
địa hình sông núi cách trở, trình độ dân trí nghèo nàn lạc hậu, là một trong
những huyện có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn.
Những năm gần đây, được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư phát
triển kinh tế, nên đời sống của người dân ngày được nâng cao cả về vật chất
và tinh thần …
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của sự phát triển kinh tế- xã hội,
thì tình hình tội phạm cũng ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính chất
mức độ phức tạp, nguy hiểm ngày càng cao. Theo thống kê tình hình tội phạm
trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi. Những năm đầu mới tách
huyện ( từ 1994 đến ) Tội trộm cắp là không xảy ra, tình hình trật tự trị an
tương đối ổn định . Mọi nhà đều không có khóa cửa, xe máy, và các tài sản
khác hầu như không ai bị trộm cắp. Nhưng hiện nay tội trộm cắp trên địa bàn
ngày càng phổ biến và trở nên táo bạo, tinh vi, phức tạp. [bảng số 1]
Mặt khác trong quá trình áp dụng pháp luật Hình sự, để xử lý những
hành vi trộm cắp tài sản các cơ quan tố tụng nói riêng và một số cơ quan Nhà
nước khác vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất, dẫn đến hiệu quả pháp
luật chưa cao, còn tùy tiện khi áp dụng. Hơn nữa theo qui định của BLHS
năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, tội trộm cắp có một số qui định
mới chưa được giải thích kịp thời dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Tội Trộm cắp tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi” sẽ góp phần
1
làm rõ thêm về lý luận, những hạn chế, vướng mắc trong quá trình định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, trong
một chừng mực nhất định, việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần vào việc đề
xuất hoàn thiện các quy định của PL về tội “ Trộm cắp tài sản”, đồng thời
nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, phòng, chống tội
phạm trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ngoài những giáo trình mang tính chính thống, thể hiện quan điểm của Đảng,
Nhà nước ta như: “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)”,
GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; Trường
Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II)”, NXB.
CAND, Hà Nội, 2009; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập II)”, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2009; “Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 -
Phần các tội phạm)”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010. .. Thì còn có rất
nhiều các công trình nghiên cứu mang tính khoa học pháp lý như: Bình luận
khoa học “Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)” của GS.TS Võ Khánh
Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2014 ; các đề tài Luận văn Thạc sĩ như:
Luận văn thạc sĩ của Trương Quang Hưng;...
Những bài viết, những đề tài và các công trình nghiên cứu trên đã phân
tích làm rõ một số vấn đề về lý luận, cũng như sự hình thành các quy định về
tội trộm cắp tài sản trong PLHS Việt Nam qua các giai đoạn phát triển của đất
nước, kể từ khi nước ta giành được độc lập đến nay. Tuy nhiên, chưa có công
trình nghiên cứu chuyên sâu tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Sơn Tây -
tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “ Tội trộm cắp tài sản theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng
Ngãi” là cần thiết, thông qua quá trình nghiên cứu Luận văn này, tác giả đi sẽ
sâu tìm hiểu toàn diện về loại tội trộm cắp tài sản, kế thừa những nội dung đã
2
được tiếp cận từ các công trình nghiên cứu của các tác giả, học giả, các nhà
khoa học đi trước, kết hợp phân tích tình hình thực tế trên địa bàn để tìm ra
nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong việc áp dụng pháp luật hình sự
đối với loại tội phạm này, từ đó đưa ra những giải pháp, nhằm khắc phục và
áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn,
cũng như đưa ra những đề xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của PLHS Việt
Nam, thực tiễn áp dụng quy định của Pháp luật hình sự về tội “ Trộm cắp tài
sản”( định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án) tại huyện Sơn Tây,
tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy
định của Pháp luật hình sự đối với tội “Trộm cắp tài sản” tại địa bàn nói trên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm
vụ chính sau đây:
- Phân tích khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội “ trộm cắp tài sản”,
phân biệt tội này với một số tội phạm khác có dấu hiệu tương đối giống nhau.
- Phân tích nội dung của các quy định của Pháp luật Việt Nam về tội
trộm cắp tài sản.
- Phân tích thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
trộm cắp tài sản ở huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
- Lập luận các yêu cầu và đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng
quy định của Pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây, tỉnh
3
Quảng Ngãi trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học đã được nêu ra trong khoa học luật
hình sự về tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng; các quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ phát triển về tội trộm cắp tài
sản; thực tiễn định tội danh và quyết định hình phát của Tòa án nhân dân
huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ 2013 đến 2018 để nghiên cứu các vấn đề
thuộc nôi dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự.
Các số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài được thu thập từ số liệu thống kê
của TAND tỉnh Quảng Ngãi và VKSND tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013 -
2018.
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản
bao gồm nhiều nội dung. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ nầy, tác giả luận văn
chỉ nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án
nhân dân huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian nói trên.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà
nước và Pháp luật, về quyền con người, về tội phạm và hình phạt, về đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm, và về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên sự kết hợp trong một tổng thể
4
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như là: phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê, nghiên cứu án điền hình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần nhận thức sâu sắc và thống nhất những vấn đề lý
luận về tội phạm, về hình phạt, về định tội danh và về quyết định hình phạt
đối với một tội cụ thể, nói ở đây là tội trộm cắp tài sản theo pháp luật Việt
nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với kết quả nghiên cứu các khía cạnh lý luận, pháp luật và thực tiễn của
tội trộm cắp tài sản, Luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo cho các cấp cơ
quan có thẩm quyền sữa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về và có liên
quan đến tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra, Luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong khởi tố điều tra, truy tố, xét xử tội trộm cắp tài sản và
trong nghiên cứu giảng dạy và học tập về Luật hình sự nói chung và về tội
trộm cắp tài sản nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
Trộm cắp tài sản
Chương 2: Áp dụng pháp luật hình sự Việt nam về tội Trộm cắp tài sản
tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật
5
hình sự về tội Trộm cắp tài sản.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm cắp tài
sản
1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Hiện nay trong BLHS Việt Nam không quy định khái niệm tội trộm cắp
tài sản là gì. Nhưng để hiểu được khái niệm tội trộm cắp tài sản là gì thì
chúng ta phải phân tích và hiểu được cụm từ “ trộm cắp tài sản là gì”. Sau đó
mới phân tích khái niệm “tội trộm cắp tài sản là gì”.
Trộm cắp là một hành vi mà khi nói đến mọi người đều hiểu, còn được
gọi là ăn cắp, hay ăn trộm. Là một hành vi của một người hay nhóm người lén
lút, bí mật chiếm đoạt một vật gì đó của người khác. Đối tượng tác động có
thể là đồ vật hay không phải là vật như thông tin, dịch vụ... ví dụ là tiền,
vàng, là các công cụ phương tiện thì có thể gọi là trộm cắp tài sản; nếu đối
tượng không phải là tài sản như thông tin thì gọi là trộm thông tin (tin
tặc),..Trộm cắp tài sản thì đối tượng của hành vi trộm cắp phải là “Tài sản”.
Theo từ điển pháp luật hình sự: “Trộm cắp tài sản” là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản của người khác quản lý [23, tr.283].
Chiếm đoạt, theo từ điển tiếng việt thì được hiểu là một động từ lấy của
người khác làm của mình, thủ đoạn có thể bằng vũ lực, quyền thế, hoặc thủ
đoạn khác. Có thể hiểu là sự tước đoạt quyền sở hữu của người khác làm của
mình.
Lén lút không phải là hành vi mà là thể hiện ý thức chủ quan của người
6
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, là cách thức, thủ đoạn thực hiện hành vi
chiếm đoạt. Có thể nói một cách khác: trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt
tài sản của người khác một cách lén lút.
Trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm hại
đến quan hệ sở hữu về tài sản giữa người với người trong xã hội. Tác hại của
nó ảnh hưởng không nhỏ đến tình tình trật tự trị an, kinh tế xã hội... Tùy theo
tính chất nguy hiểm của mỗi hành vi trộm cắp cụ thể và từng thời kỳ phát
triển, mà các quốc gia trên thế giới quy định là tội phạm cần phải bị trừng trị
và loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội.
Như vậy “ tội trộm cắp tài sản” là gì. Từ những phân tích trên tác giả có
Khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén
lút chiếm đoạt trái phép tài sản đang do người khác quản lý được quy định
trong Bộ luật hình sự và bị xử lý hình sự”.
Bộ luật hình sự hiện hành quy định xử lý về tội trộm cắp tài sản tại điều
173.[5, tr.129]
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
1.1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản
- Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại [37, tr.86].
Tội phạm trộm cắp tài sản chủ yếu xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản
của người khác và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội.
Điều luật quy định: “ Người nào trộm cắp tài sản của người khác…” ở đây
điều luật đã thể hiện quan hệ sở hữu về tài sản giữa người và người. Quyền sở
hữu về tài sản đã được Hiến pháp quy định tại điều 32 “quyền sở hữu tư
nhân… được nhà nước bảo hộ” và được luật hình sự bảo vệ.
Như vậy khách thể của tội trộm cắp tài sản là: Quyền sở hữu tài sản của
người khác, đây là khách thể trực tiếp và trật tự an toàn xã hội là khách thể
gián tiếp. Quyền sở hữu của người khác được hiểu là không phải của chính
7
mình, bao gồm sở hữu của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nhưng nếu
giao cho người khác quản lý mà sau đó lén lút đến chiếm đoạt thì có thể là
phạm tội trộm cắp tài sản. Quyền sở hữu tài sản phải là tài sản hợp pháp. Đối
với những tài sản không hợp pháp thì hành vi chiếm đoạt những tài sản đó
không phải là tội trộm cắp tài sản. Trên thực tế những trường hợp trộm cắp tài
sản đang do người khác quản lý một cách bất hợp pháp( ví dụ: tài sản phạm
tội mà có) vẫn có quan điểm cho là phạm tội trộm cắp. Đây là vấn đề đang
tranh cải cần có sự giải thích áp dụng thống nhất.
Quyền sở hữu tài sản bao gồm các quyền: Quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
[2, điều 158]
Nhưng nếu một hành vi chỉ xâm phạm đến một trong ba quyền trên của
chủ sở hữu, thì không phải là hành vi trộm cắp tài sản. Bởi bản thân từ trộm
cắp tài sản đã được khái niệm và hiểu là hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là
tước đoạt cả ba quyền trên của chủ sở hữu.
Để xâm phạm quyền sở hữu tài sản trong tội trộm cắp thì kẻ phạm tội
phải chiếm đoạt một tài sản nào đó . Tài sản nói ở tội trộm cắp là một khái
niệm chung, theo quy định của BLDS hiện hành tại điều 105 : “Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động
sản” [2, tr.62].
Nhưng không phải tất cả các loại tài sản quy định tại điều 105 BLDS
đều là đối tượng của tội trộm cắp. Tài sản của tội trộm cắp phải thể hiện dưới
dạng tiền hay đồ vật cụ thể có trị giá và giá trị sử dụng. Quyền tài sản, bất
động sản không thể là đối tượng của tội trộm cắp. Quyền tài sản không phải là
vật cụ thể nên người khác không thể cầm nắm được và bất động sản thì
không di chuyển dễ dàng được nên không thể lén lút chiếm đoạt, muốn chiếm
đoạt thì phải dùng thủ đoạn khác. Hay nói cách khác hành vi chiếm đoạt
quyền sở hữu hay bất động sản không phải là tội trộm cắp, mà là một loại tội
8
chiếm đoạt khác. Mặt khác cũng có một số loại tài sản có tính chất đặc biệt
nếu trộm cắp thì sẽ không xử lý về hành vi trộm cắp, ví dụ như vũ khí, ma
túy, đất đai, …
Đối với những tài sản là di vật, cổ vật, được quy định tại điểm đ khoản 1
điều 173 đây là qui định mới cần được hiểu một cách thống nhất, có thể hiểu
đó là vật mà có trị giá không lớn nhưng xét về giá trị tinh thần, giá trị văn hóa
thì vô giá đối với chủ sở hữu. Theo quy định tại điều 4 Luật di sản văn hóa
thì: “ Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học”; “ Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử,
văn hóa, khoa học, có từ trăm tuổi trở lên.”. Nhưng hiện nay các căn cứ để
xác định di vật, cổ vật chưa được hướng dẫn cụ thể.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm
bao gồm: Hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả [37, tr.99].
Đồng thời cả các biểu hiện bên ngoài khác của tội phạm như công cụ,
phương tiện phạm tội, thời gian, địa điểm,…
Hành vi khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người thực hiện
tội phạm thực hiện. Hành vi khách quan bị điều kiển chí phối bởi ý chí, nhận
thức của người thực hiện hành vi và thể hiện bằng hành động hoặc không
hành động. Bản chất của trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản của người
khác một cách lén lút, bí mật, cho nên hành vi khách quan là hành động chiếm
đoạt tài sản. “ Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ
có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng
hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản
lý tài sản, không trông coi cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan
khác như chen lấn, xô đẩy nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm
9
đoạt mà người quản lý tài sản không biết” [14, tr.199].
Việc lén lút bí mật là nhằm mục đích che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản
của người phạm tội . Đây là dấu hiệu cơ bản và duy nhất để phân biệt tội trộm
cắp tài sản với những tội chiếm đoạt khác. Sự lén lút, bí mật không phải là
hành vi, mà là tính chất của hành vi chiếm đoạt trong tội trộm cắp tài sản,
cũng là ý thức chủ quan của người phạm tội, người phạm tội muốn che giấu
hành vi phạm tội của mình, không muốn chủ tài sản hay người quản lý tài sản
biết hành vi chiếm đoạt của mình. Thực tế cho thấy, khi người phạm tội thực
hiện hành vi trộm cắp tài sản, có thể thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác
nhau để che giấu hành vi như: Che giấu toàn bộ hành vi (lén lút khách quan);
ví dụ: Lợi dụng đêm tối lúc mọi người ngủ say, lẻn vào chiếm đoạt tài sản;
hoặc che giấu một phần hành vi, hoặc che giấu tính chất của hành vi nhưng lại
công khai với những người khác (lén lút chủ quan); ví dụ: Lợi dụng chủ nhà
đi vắng, kẻ phạm tội công khai đến cẩu những cây kiểng có giá trị mà những
người hàng xóm đều thấy.
Tài sản mà người thực hiện hành vi trộm cắp phải là tài sản đang nằm
trong sự quản lý của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý. Những
tài sản đã thoát khỏi sự quản lý của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm
quản lý thì người chiếm đoạt những tài sản đó không phải là tội trộm cắp. Ví
dụ: các trường hợp chiếm giữ tài sản bị thất lạc.
Về hậu quả trong tội trộm cắp.
Để chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội trộm cắp tài sản phải tác
động đến tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản. Tức là
đã lấy đi một loại tài sản nào đó, gây thiệt hại cho chủ sở hữu về giá trị vật
chất hoặc tinh thần nhất định. Đồng thời thiệt hại này phải là đáng kể, theo
BLHS hiện hành quy định thì, trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000
đồng trở lên mới cấu thành tội phạm; còn nếu tài sản bị chiếm đoạt có trị giá
dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo những điều kiện cụ thể chẳng hạn như:
10
a) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm; b) đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 168, 169,….
Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất, cho nên khi hành vi phạm tội
thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý, như hậu quả, đạt được mục đính (
chiếm đoạt được TS ) thì tội phạm mới hoàn thành. Vì vậy tội phạm hoàn
thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Tuy nhiên, nếu người có
hành vi trộm cắp chưa chiếm đoạt được tài sản do khách quan, nằm ngoài ý
muốn chủ quan của họ thì vẫn cấu thành tội trộm cắp tài sản, nhưng ở giai
đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành hoặc chưa đạt đã hoàn thành. Ví dụ:
A đi ngang qua tiệm vàng nhìn thấy trong tủ chưng rất nhiều dây chuyền và
nhẫn màu vàng. Tối đến A lẽn vào cạy tủ lấy về đem bán thì mới biết vàng
giả. Như vậy A phạm tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã
hoàn thành.
Mặc khác tùy vào đặc điểm từng loại tài sản ( đối tượng) mà thời điểm
được xem là chiếm đoạt được tài sản là khác nhau. Nếu là vật nhỏ gọn nhẹ
như tiền, nhẫn vàng , đồng hồ đeo tay,.. thì chỉ cần lấy ra khỏi vị trí ban đầu
thì xem như đã chiếm đoạt được. Ví dụ: A vào nhà B thấy chiếc đồng hồ đeo
tay của B đang để trên bàn, lợi dụng lúc B không để ý, A lấy bọc túi. Nếu là
vật cồng kềnh như xe máy, máy tính, quạt điện,.. thì phải dịch chuyển ra khỏi
khu vực quản lý của chủ sở hữu như ra khỏi nhà, xưởng, công ty,..
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Đòi hỏi giữa hành vi phạm tội và hậu quả thiệt hại phải có mối quan hệ
nhân quả. Hành vi trộm cắp là nguyên nhân, là cái gây ra hậu quả ( hậu quả là
thiệt hại về vật chất như mất tài sản, hoặc thiệt hại về tinh thần). Theo đó,
hành vi trộm cắp phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; Hậu quả mất tài
sản là do hành vi trộm cắp. Nếu giữa hành vi và hậu quả không có mối quan
hệ nhân quả thì không xác định được tội phạm. Ví dụ: Kẻ phạm tội A vào nhà
11
của một người, thực hiện một hành vi trộm cắp một tài sản (tiền), nhưng chủ
nhà xác định mất tài sản là xe máy không phải do hành vi trộm cắp của A. thì
không thể kết luận A trộm cắp xe máy.
1.1.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Trước tiên, cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội
“Trộm cắp TS”cũng phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như đủ độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định.
Điều 12 BLHS năm 2015 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có
quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều 123, 134, … của Bộ luật này [5, tr.14].
Như vậy chủ thể của tội trộm cắp tài sản phải đảm bảo các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, về độ tuổi phải là từ đủ 16 tuổi trở lên, nếu người từ đủ 14 tuổi
trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ là chủ thể của tội trộm cắp tài sản quy định
tại các khoản 3 và 4 Điều 173 BLHS”. Thứ 2, phải có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự.
Pháp nhân không phải là chủ thể của tội trộm cắp tài sản. Pháp nhân chỉ
chịu TNHS các điều quy định tại điều 76 BLHS.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Theo pháp luật hình sự Việt Nam mặt chủ quan của tội phạm đó là
những diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội như ý chí, nhận thức,
mong muốn,… được thể hiện qua các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.
Trong đó lỗi là một yếu tố quan trọng, bắt buộc trong bất kỳ cấu thành tội
phạm nào. Nếu không có lỗi thì không cấu thành tội phạm.
Lỗi được hiểu là thái độ tâm lý bên trong của chủ thể (con người) đối với
hành vi của mình đã gây ra và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trong cấu thành tội “ Trộm cắp Tài
12
sản”theo Điều 173 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Trong mặt chủ quan
thì lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp và là yếu tố bắt buộc, không có
trường hợp vô ý trộm cắp hay trộm cắp với lỗi cố ý gián tiếp. Về mặt lý trí
người phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và về ý chí thì họ mong muốn
hậu quả xảy ra. Tức mong muốn lấy được tài sản. Còn nếu họ vô ý cầm nhầm
hoặc sử dụng nhầm tài sản của người khác thì không phải trộm cắp .
Mục đích được hiểu là cái đích hướng đến của hành vi. Mục đích của tội
phạm trộm cắp là chiếm tài sản của người khác [9, tr.314]; là kết quả trong ý
thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi
phạm tội.
Trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì trong đầu người phạm
tội đã xuất hiện mục đích chiếm đoạt tài sản. Do vậy, có thể khẳng định mục
đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của tội trộm cắp tài sản. Tuy
nhiên, cùng với mục đích chiếm đoạt thì người phạm tội còn có thể có những
mục đích khác như, làm cho họ bị trở ngại, khó khăn,… nếu mục đích đó
không cấu thành một tội phạm độc lập khác thì người phạm tội cũng chỉ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. Ví dụ trộm cắp các thiết
bị quan trọng nhằm phá hoại các công trình an ninh quốc gia. Thì có thể bị xử
lý về tội phá hoại cơ sở vật chất- kỷ thuật của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Động cơ phạm tội đó là cái thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội. Động cơ phạm tội chỉ có ở những loại tội được thực hiện bởi lỗi cố
ý, nó có thể là dấu hiệu bắt buộc của một số loại tội. Trong tội trộm cắp động
cơ có thể là lòng tham, là vụ lợi (là chủ yếu), có thể là để trả thù cho bỏ
ghét,... Động cơ không phải là yếu tố bắt buộc của tội trộm cắp.
1.1.2.5. Dấu hiệu về hình phạt của tội trộm cắp tài sản
Tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có
13
quy định hình phạt cho tội trộm cắp tài sản, mức hình phạt được sắp xếp từ
nhẹ đến nặng, tùy theo tính chất nguy hiểm của hành vi và được chia thành 4
mức, tương ứng với 4 khung hình phạt chính. Ngoài ra người phạm tội còn có
thể bị áp dụng thêm hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 của điều luật. Cụ
thể như sau:
Khung 1: Có mức hình phạt : bị cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Khung 2: Có hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù;
Khung 3: Có hình phạt từ 7 đến 15 năm tù;
Khung 4: Có hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù;
Khoản 5 của điều luật qui định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
5.000.000đồng đến 50.000.000đồng.
1.1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội khác
1.1.3.1. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 BLHS
năm 2015. Đó là hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người
khác bằng cách công khai, trước mắt người quản lý tài sản, người phạm tội lợi
dụng hoàn cảnh khó khăn của người khác trong việc quản lý tài sản hoặc lợi
dụng trong tình trạng họ không có điều kiện để tự bảo vệ tài sản mà chiếm
đoạt tài sản của họ, không dùng bất kỳ thủ đoạn nào khác như: Dùng vũ lực,
Uy hiếp tinh thần…Người bị hại hoàn toàn xác định được người phạm tội.
Còn ở tội trộm cắp tài sản thì hành vi khách quan chiếm đoạt một cách lén lút,
bí mật, che giấu không để chủ quản lý TS biết có hành vi chiếm đoạt.
1.1.3.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp giật tài sản
Tội cướp giật tài sản được quy định tại điều 171 BLHS năm 2015. Đó là
hành vi chiếm đoạt tài sản, mà người phạm tội thực hiện một cách công khai,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản (giật) của người khác rồi nhanh chóng tẩu
14
thoát. Về khách thể thì tội cướp giật tài sản ngoài xâm phạm quan hệ sở hữu
về tài sản còn xâm phạm quan hệ nhân thân, như gây tổn hại đến sức khỏe
hoặc tính mạng của người quản lý tài sản. Ví dụ: Giật tài sản của những người
đi xe máy, làm họ ngã xuống đường dẫn đến thương tích hoặc chết.. Hơn nữa,
trong tội trộm cắp tài sản thì trị giá tài sản tối thiểu được quy định trong
CTTP để làm cơ sở truy cứu TNHS, còn ở tội cướp giật tài sản thì không quy
định giá trị tài sản tối thiểu, mà chỉ quy định hành vi “ người nào cướp giật tài
sản của người khác..” tức chỉ cần có hành vi cướp giật là phạm tội.
1.1.3.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
Về mặt khách quan của tội Lạm dụng tín nhiệm là là vay, mượn, thuê tài
sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức
hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó
hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
không trả; hoặc vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài
sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào
mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. [5, Điều
175]. Còn đối với tội trộm cắp tài sản thì người thực hiện hành vi phạm tội
một cách lén lút để chiếm đoạt tài sản, tức chiếm đoạt tài sản mà chủ sở hữu
không hề biết ;
1.1.3.4. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng trái phép tài sản
Về khách thể là xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, nhưng ở mặt
khách quan của tội phạm sử dụng trái phép tài sản của người khác là thể hiện
hành vi sử dụng trái phép tài sản, như khai thác công dụng của tài sản, hưởng
hoa lợi, lợi tức từ tài sản của người khác một cách trái phép. Về mặt khách
quan cũng có thể là lén lút, ví dụ sử dụng trái phép công quỹ,.. nhưng ý thức
chủ quan là không có ý thức chiếm đoạt tài sản. Đây là dấu hiệu cơ bản để
15
phân biệt.
1.1.3.5. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo, chủ yếu dựa vào thủ đoạn
gian dối, làm cho chủ tài sản tưởng giả là thật giao tài sản cho người phạm tội.
Có một số trường hợp cũng có hành vi lén lút nhưng không giữ vai trò quyết
định trong việc chiếm đoạt. Ví dụ: A vào tiện vàng, giả vờ mua vàng, yêu cầu
cho xem vàng sau đó lén lút tráo vàng giả, chiếm đoạt vàng thật mà người chủ
không biết. Hành vi này là lừa đảo chứ không phải là trộm cắp. Bởi hành vi
quyết định việc chiếm đoạt được vàng thật ở đây là người phạm tội đã gian
dối nói là mua vàng và sử dụng vàng giả để tráo vàng thật rồi chiếm đoạt.
Cũng có lập luận cho rằng đó là hành vi trộm cắp. Vì hành vi lén lút tráo vàng
để chiếm đoạt là quyết định, số vàng giả là che đậy hành vi trộm cắp.
1.1.3.6. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp tài sản.
Như đã nói ở trên dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là hành vi
chiếm đoạt một cách lén lút, người phạm tội chỉ lợi dụng sự sơ hở của người
quản lý tài sản để chiếm đoạt ( lấy cắp); Còn tội cướp tài sản, người phạm tội
có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có
những hành vi khác làm cho người bị hại mất khả năng kháng cự để chiếm
đoạt tài sản, chẳng hạn dùng thuốc mê,... Khách thể của tội cướp tài sản ngoài
việc xâm hại đến quyền sở hữu tài sản còn xâm hại đến sức khỏe, tính mạng
của nạn nhân.
1.1.3.7. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290) khác với tội trộm cắp tài sản chủ
yếu ở một số dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất: Về khách thể của tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, ngoài xâm phạm đến
16
tài sản của người khác còn xâm phạm đến chế độ quản lý an ninh mạng;
Thứ hai: Về mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau: Người
phạm tội có hành vi sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ Ngân hàng của các cá
nhân, tổ chức, hoặc làm giả thẻ ngân hàng để chiếm đoạt tiền của chủ thẻ
hoặc thanh toán các hóa đơn hàng hóa, dịch vụ qua thẻ; Hoặc có hành vi sử
dụng các thiết bị điện tử truy cập trái phép vào tài khoản của các cá nhân, cơ
quan để chiếm đoạt; Về đối tượng tác động, không tác động trực tiếp đến tài
sản, không có hành vi dịch chuyển tài sản như ở tội trộm cắp tài sản.
Tóm lại để phân biệt được tội trộm cắp tài sản với các loại tội khác
chúng ta cần chú ý phân biệt được người phạm tội dùng phương thức, thủ
đoạn nào để chiếm đoạt. Đối với tội trộm cắp thì chiếm đoạt một cách lén lút,
tội cướp thì dùng vũ lực hoặc đeo dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt, tội lừa đảo
thì dùng thủ đoạn gian dối đưa ra các thông tin giả làm cho chủ tài sản giao tài
sản rồi chiếm đoạt,...
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản
1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản
từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Để bảo vệ thành quả của cách mạng
và duy trì sự ổn định xã hội, Nhà nước ta đã phải ban hành nhiều văn bản
pháp luật để quản lý xã hội, trong đó có văn bản pháp luật quy định xử lý tội
phạm, có các quy định về tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài
sản nói riêng như: Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký cho phép tạm thời giữ lại các luật, lệ tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ
cho đến khi ban hành các VBPL thống nhất trong toàn quốc; Sắc lệnh số 12-
SL ngày 12/3/1948 quy định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh
trong thời bình và thời kỳ chiến tranh; Thông tư số 11 - BK ngày 14/12/1949
của Liên Bộ nội vụ, Quốc phòng, Tư pháp ấn định phương pháp đối phó với
các vụ trộm cắp tại nơi có chiến sự; Nghị định số 32 - NĐ ngày 06/4/1952 của
17
Bộ tư pháp quy định đường lối xét xử các tội trộm cắp, lừa đảo, biển thủ tài
sản. Sau đó ngày 21/10/1970, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp
lệnh số 149-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh số
150-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Theo đó
tội trộm cắp tài sản được phân biệt và được quy định ở 2 pháp lệnh 149 và
150. Đồng thời trong 2 điều luật cũng đã quy định cụ thể các tình tiết định
khung trong điều luật, có các khung hình phạt tương ứng với tính chất, mức
độ nguy hiểm của mỗi hành vi phạm tội.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 về tội trộm
cắp tài sản
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ 9, thông
qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1986 (BLHS năm
1985) . Đây là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta quy định tất cả các
hành vi nguy hiểm cho xã hội lúc bấy giờ, đồng thời thể hiện quan điểm của
Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm. Bộ luật hình sự năm 1985 đã
góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Tội trộm cắp tài sản được quy định bao gồm hai điều luật
độc lập, trong đó điều 132 quy định về tội trộm cắp tài sản XHCN và điều 155
quy định về tội trộm cắp tài sản của công dân. Điều 132 có ba khoản với mức
hình phạt khác nhau, khoản 1 có mức hình phạt thấp nhất là “phạt cải tạo
không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”;
khoản 3 có mức hình phạt cao nhất là “tù chung thân hoặc tử hình”. Điều 155
quy định về tội trộm cắp tài sản của công dân cũng chia thành ba khoản,
khoản 1 là “phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm” và khung hình phạt cao nhất ở khoản 3 là “phạt tù từ bảy
năm đến hai mươi năm”. Như vậy, trong giai đoạn này, tội trộm cắp tài sản
vẫn được chia thành 2 điều luật và có hình phạt khác nhau. Đối với trộm cắp
18
tài sản XHCN thì được xem là nghiêm trọng hơn và có mức hình phạt nghiêm
khắc hơn. Tuy nhiên cả 2 điều luật đều không quy định giá trị tài sản tối thiểu
để làm cơ sở truy cứu TNHS.
BLHS năm 1985 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển trong kỹ thuật
lập pháp, tuy nhiên quá trình phát triển của xã hội nó đã trở nên lạc hậu, mặc
dù đã trải qua bốn lần sửa đổi, bổ sung (vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997)
nhưng những lần sửa đổi, bổ sung này chủ yếu nhằm phục vụ cho cuộc đấu
tranh đối với một số loại tội phạm mới nhất định, và sau các lần sửa đổi, bổ
sung đó thì BLHS đã không còn là một chỉnh thể thống nhất.
1.2.3. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ
sung năm 2009) về tội trộm cắp tài sản
Bộ luật hình sự năm 1999 được thông qua ngày 21/12/1999 tại kỳ họp
thứ 6, Quốc hội khóa X và có hiệu lực từ ngày 01/7/2000 . Theo đó tội trộm
cắp tài sản được quy định tại điều 138, không phân biệt là tài sản XHCN hay
công dân như trước đây. Thể hiện quan điểm của Đảng ta đã có một sự nhìn
nhận khách quan hơn về sự bình đẳng của các thành phần sở hữu trong các
mối quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng. Đồng
thời đã giải quyết được những bất cập khi xử lý một hành vi duy nhất nhưng
tài sản bị xâm hại bao gồm nhiều hình thức sở hữu hoặc việc xác định hình
thức sở hữu để định tội danh theo khách thể (Sở hữu XHCN hay sở hữu công
dân)... gặp rất nhiều khó khăn trong thực tế. Mặt khác điều luật đã quy định
mức giá trị tối thiểu của tài sản bị chiếm đoạt để làm cơ sở cho việc xác định
tội phạm và định khung hình phạt cho thống nhất. Đến ngày 19/6/2009 Quốc
hội đã ban hành Nghị quyết số 32/2009/QH12 về việc thi hành luật sửa đổi bổ
sung một số điều của BLHS thì tội trộm cắp tài sản vẫn được giữ nguyên là 5
khoản, trong đó khoản 2 đến khoản 4 là định khung tăng nặng và khoản 5 là
hình phạt bổ sung . Nhưng trị giá tài sản bị chiếm đoạt được nâng lên từ “năm
trăm nghìn đồng” thành “hai triệu đồng”. Những hành vi trộm cắp tài sản có
19
trị giá dưới hai triệu đồng không coi là tội phạm nữa. Đây là việc phi tội phạm
hóa của nhà nước ta, điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã
hội, nhằm giảm đáng kể một số lượng những vụ án trộm cắp có giá trị không
lớn.
1.2.4. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017)
Ngày 27/11/2015, QH khóa XIII và ngày 20/6/2017 QH khóa XIV của
nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam đã thông qua BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
2017) thay thế cho BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01.01.2018. Trong đó, tội “ Tội trộm cắp tài sản” được quy định
tại điều 173 và đã có thay đổi bổ sung chi tiết hơn về định lượng so với trước.
Theo đó, so với điều 138 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), Điều luật
này đã sửa đổi, bổ sung một số điểm sau:
- Tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn các căn cứ định tội trong trường
hợp tài sản bị chiếm đoạt có trị giá dưới hai triệu đồng. Bao gồm: “đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”; “đã
bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169,
170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm”; “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; “tài
sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” ; “tài sản
là di vật, cổ vật”.
- Tại khoản 2 Điều 173 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” và
thay bằng tình tiết “tài sản là bảo vật quốc gia” .
- Tại Khoản 3 Điều 173 BLHS 2015 đã bỏ tình tiết định khung tăng nặng
“gây hậu quả rất nghiêm trọng” thay bằng tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”.
- Tại Khoản 4 Điều 173 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng” thay bằng tình tiết “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn
20
cấp”.
Tuy nhiên các tình tiết mới được bổ sung trong điều luật đến nay cũng
chưa có văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể . Về hình phạt thì đã bỏ hình phạt
tù chung thân.
Kết luận Chương 1
Trước tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu ngày một gia tăng, trong
đó có tội trộm cắp tài sản đang có tính phổ biến cao, xu hướng ngày càng tinh
vi, táo bạo và nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an
toàn xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây
hoang mang trong đời sống xã hội. Để nhận biết rõ hơn về tội trộm cắp tài sản
thì trong phạm vi Chương 1, tác giả đã đưa ra và phân tích những vấn đề lý
luận và các quy định của pháp luật Việt nam về tội trộm cắp tài sản như: phân
tích các dấu hiệu pháp lý trong các quy định của pháp luật Việt Nam về tội
trộm cắp tài sản và tác giả đã xây dựng khái niệm về tội trộm cắp tài sản. Bên
cạnh đó, phân tích về lịch sử hình thành các quy định của pháp luật liên quan
đến tội phạm trộm cắp tài sản trong quá trình phát triển của đất nước trong
giai đoạn từ 1945 đến nay. Quá đó giúp cho người đọc nắm chắc được những
quy định của pháp luật Việt Nam về tội trộm cắp tài sản, đồng thời cho thấy
sự phát triển từng bước trong quá trình lập pháp từ tư duy nhận thức đến kỷ
thuật xây dựng văn bản của các nhà làm luật, của khoa học pháp lý nói chung,
cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước ta qua từng thời kỳ. Đồng thời
cũng thấy được sự phát triển của đất nước qua các quan hệ xã hội mà pháp
21
luật đã điều chỉnh.
CHƯƠNG 2
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM
CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH
QUẢNG NGÃI
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
Huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013-2018
Bảng 2.1. Thống kê các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản và các tội phạm về
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn
2013– 2018
Tội Trộm cắp TS Tội chiếm đoạt khác Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
0 0 2013 10 11
1 1 2014 04 07
3 3 2015 03 03
2 2 2016 02 03
2 2 2017 04 04
0 0 2018 07 08
TC 30 36
Nguồn: VKSND, TAND Huyện Sơn Tây, Quảng Ngãi: Số liệu thống kê kết
quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự từ năm 2013 đến năm 2018
Huyện Sơn Tây là một huyện có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn của
tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi được tái thành lập vào năm 1994, cùng với các cơ
quan Hành chính thì, hệ thống các cơ quan Tư pháp cũng được thành lập. Do
là một huyện miền núi có địa hình hiểm trở, đường xá giao thông những năm
22
đầu chưa được đầu tư, trình độ dân trí thấp, văn hóa còn lạc hậu. Song
những năm đầu tình hình an ninh tương đối ổn định, căn cứ theo số liệu thống
kê cho thấy:
- Từ 1994 đến 1998: Mỗi năm chỉ xảy ra 1-2 vụ án, không có tội trộm
cắp tài sản.
- Từ 1999 đến 2009: Tội phạm bắt đầu gia tăng về số lượng; trong đó tội
trộm cắp cũng xuất hiện mỗi năm 1-2 vụ.
- Từ năm 2010 trở đi, số vụ phạm pháp hình sự, cũng như tội trộm cắp
tài sản xảy ra nhiều hơn, tính chất ngày càng tinh vi táo bạo hơn, chiếm tỉ lệ
trên 50% trên tổng số án Tòa án đã giải quyết.
Nguyên nhân: Do Từ năm 2010, được sự quan tâm đầu tư phát triển của
Đảng và Nhà nước, các công trình nhất là Thủy điện ( hiện nay trên địa bàn
đã có 4 công trình thủy điện) thu hút một lượng công nhân các nơi đến; Theo
đó các nhà hàng, dịch vụ cũng phát triển và các tệ nạn xã hội đã lôi kéo
thanh niên vào còn đường thích ăn chơi, lười nhác lao động dẫn đến phạm tội
trộm cắp. Về cơ cấu tổ chức bộ máy và cán bộ của các cơ quan tư pháp trên
địa bàn, những năm đầu cũng thiếu biên chế; hầu hết là những cán bộ trẻ mới
ra trường được điều động lên công tác nên trình độ và kinh nghiệm công tác
cũng chưa cao. Chính vì vậy việc áp dụng pháp luật nói chung và đối với tội
trộm cắp nói riêng còn có những thiếu sót. Bên cạnh đó do các quy định trong
điều luật, cũng như các văn bản hướng dẫn giải thích luật còn chưa rõ ràng
dẫn đến có những quan điểm khác nhau, gây khó khăn trong quá trình áp
dụng pháp luật để xử lý đấu tranh với tội phạm trên địa bàn.
2.2. Định tội danh tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây, tỉnh
Quảng Ngãi
2.2.1. Khái quát lý luận định tội danh
Tội phạm là một hiện tượng xã hội, là một sự kiện tiêu cực của xã hội và
23
nó có các dấu hiệu của nó để phân biệt, nhận biết. Theo xã hội học tội phạm
thì có 3 nhóm dấu hiệu, đó là: Thứ nhất: Dấu hiệu về khách thể- dấu hiệu vất
chất quan trọng của tội phạm, là những quan hệ xã hội thống trị trong xã hội (
các giá trị, các lợi ích) được bảo vệ; Thứ hai, là phương thức đặc trưng của sự
xâm hại đến quan hệ xã hội đã được hình thành, là các hành vi nguy hiểm cho
xã hội xâm hại đến các quan hệ xã hội; thứ ba là dấu hiệu các đặc điểm của
chủ thể của các hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong quá trình xây dựng các quy định luật hình sự, thì nhà làm luật(
Nhà nước) đã dựa vào các dấu hiệu của nó để phân chia thành các loại tội
danh tương ứng để có các biện pháp chế tài thích ứng với tính chất nguy hiểm
của mỗi hành vi. Trong khoa học pháp lý đã đưa ra một khái niệm đó là cấu
thành tội phạm (CTTP) là tổng hợp( hệ thống) những dấu hiệu khách quan và
chủ quan cần và đủ, đặc trưng cho một loại tội phạm (tội danh) cụ thể, là sự
mô tả một tội phạm cụ thể, thông qua 4 yếu tố của cấu thành của nó là: Chủ
thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm.
Khi xử lý một hành vi nguy hiểm nào đó (tội phạm) thì đòi hỏi các chủ
thể, trước hết phải xem hành vi đó phạm tội gì được quy định trong Bộ luật
hình sự hay chưa. Hay nói một cách khác là phải định tội danh, từ đó mới áp
dụng các quy định của pháp luật đối với tội đó để xử lý.
Định tội danh “là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý hình sự phù
hợp chính xác giữa các dấu hiệu của các hành vi phạm tội cụ thể đã được
thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong
quy phạm pháp luật hình sự” [41, tr.40].
Hay nói một cách khác định tội danh là việc kết luận, khẳng định hành vi
nguy hiểm nào đó phạm tội gì trong BLHS. Đây là công đoạn đầu tiên mang
tính quyết định của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Nếu định tội danh
đúng thì việc áp dụng pháp luật để xử lý phù hợp với tính chất của hành vi và
24
ngược lại.
Khi định tội danh, chủ thể định tội phải đối chiếu, so sánh các đặc điểm,
xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết thực tế của hành vi nguy
hiểm đã thực hiện theo 4 yếu tố cấu thành của tội phạm được quy định trong
BLHS gồm: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan . Từ đó xác
định hành vi đó đã phạm tội gì trong Bộ luật hình sự.
Cơ sở pháp lý của việc định tội:
Pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý của việc định tội, bởi: “ Chỉ một người
nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự.” (Điều 2 BLHS). Đồng thời pháp luật hình sự quy định, liệt kê
tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà được coi là tội phạm (quy định
các cấu thành của các tội phạm cụ thể theo các điều luật tương ướng). Nếu
những hành vi nguy hiểm không được quy định trong BLHS thì không được
coi là tội phạm; muốn xử lý hành vi này thì cần bổ sung luật theo một trình tự
nhất định.
Cấu thành tội phạm (CTTP) là cơ sở pháp lý của việc định tội danh, bởi
vì: CTTP là các yếu tố cần và đủ cho việc định tội, nó quy định các dấu hiệu
đặc trưng nhất, điển hình nhất của các hành vi phạm tội cùng loại, CTTP thể
hiện bản chất của tội phạm ấy, cho phép phân biệt với tội khác và được quy
định trong Bộ luật hình sự. Hay nói cách khác CTTP là khuôn mẫu pháp lý
của tội phạm và là cơ sở duy nhất cho định tội danh. Khi chúng ta xác định
đầy đủ các dấu hiệu của CTTP ( Khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ
quan) thì mới đủ căn cứ xác định người đó có phạm tội hay không và phạm
tội gì. Chẳng hạn, khách thể xâm hại đến quyền sở hữu thì có thể là các tội ở
chương xâm hại quyền sở hữu, nếu như xâm hại đến các khách thể khác quan
trọng hơn thì có thể xử lý ở loại tội khác,… nếu như chưa xác định đầy đủ các
25
dấu hiệu của CTTP thì không thể định tội danh.
Tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm liên quan chặt chẽ với nhau,
được tập hợp thành một hệ thống và là khuôn mẫu pháp lý dung làm cơ sở,
căn cứ cho người tiến hành tố tụng đối chiếu, so sánh với các dấu hiệu của
hành vi phạm tội đã xảy ra ở ngoài thực tế khách quan, từ đó cho phép xác
định được người đã thực hiện hành vi nguy hiểm đó có phạm tội hay không,
phạm tội gì, được quy định tại điều luật nào trong BLHS.
Từ phân tích trên chúng ta có thể thấy việc định tội danh có những đặc
điểm chính sau:
Thứ nhất: Định tội danh là một hoạt động nhận thức của các chủ thể (
Điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, Luật sư) có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng. Đó là quá trình xem xét hành vi nguy hiểm đã thực hiện phù
hợp với cấu thành cụ thể nào trong BLHS. Đòi hỏi các chủ thể phải tư duy
phân tích, tổng hợp, so sách để đi đến kết luận.
Thứ hai: Định tội danh là một dạng hoạt động thực tiễn của con người,
hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để xử lý một trường hợp phạm tội nhất
định, cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự vào trong thực tế đời sống xã
hội. Chính vì vậy vẫn có thể xẩy ra những sai sót do vô tình hay cố ý (Vì bị
chi phối bởi yếu tố chủ quan của chủ thể định tội danh).
Các giai đoạn của quá trình định tội danh:
Trong quá trình định tội danh, có thể chia thành 3 giai đoạn như sau:
- Bước 1: Thiết lập, xem xét đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã xảy
ra trên thực tế đời sống xã hội một cách đầy đủ, chính xác, khách quan. Quá
trình này bao gồm các hoạt động chứng minh và thực hiện các biện pháp tố
tụng theo quy định của pháp luật, là quá trình thu thập chứng cứ để chứng
minh các tình tiết của vụ án, xác định các yếu tố của tội phạm.
- Bước 2: Nhận thức thống nhất và đúng đắn quy định của BLHS về các
26
dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng bao gồm các yếu tố cấu thành của
Tội phạm được quy định trong BLHS và các nội dung liên quan khác được
quy định trong phần chung của BLHS hoặc các văn bản, chính sách pháp luật
của Đảng về đấu tranh phòng chống tội phạm. Giai đoạn này đòi hỏi chủ thể
định tội danh phải tư duy để nhận thức đúng đắn, nhất là một số quy phạm có
ranh giới phân biệt gần giống nhau, chưa rõ ràng,... ví dụ như như thế nào là
nguy hiểm chưa đáng kể, như thế nào là chủ thể đặc biệt, ... từ đó có cái nhận
thức đúng.
- Bước 3: Lựa chọn quy phạm pháp luật tương ứng để đối chiếu so sánh,
xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với cấu
thành tội phạm tương trong BLHS. Tức là chủ thể định tội phải so sánh đối
chiếu giữa các yếu tố của hành vi nguy hiểm với các yếu tố của CTTP cụ thể
được quy định trong BLHS. Trên thực tế có những hành vi thõa mãn các dấu
hiệu, xảy ra sự tranh chấp về cấu thành, đòi hỏi chủ thể phải lựa chọn xác
định cấu thành nào là phù hợp nhất với hành vi
Ba quá trình trên tuy được tách ra để phân tích độc lập với nhau về mặt
lý thuyết, nhưng trên thực tế nó liên quan chặt chẽ với nhau, qua lại hòa
quyện với nhau thành một một quá trình gọi là quá trình định tội danh.
Tóm lại: Định tội danh là việc người có thẩm quyền kết luận một hành vi
nào đó đã xãy ra có phạm tội hay không và phạm tội gì được quy định trong
BLHS.
2.2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây
2.2.2.1. Định tội danh theo cấu thành cơ bản
Định tội danh theo cấu thành cơ bản đó là chủ thể định tội danh dựa theo
những dấu hiệu pháp lý đặc trưng bắt buộc đối với tội phạm được quy định tại
khoản 1 điều 138 BLHS năm 1999 và khoản 1 điều 173 BLHS năm 2015, các
dấu hiệu đặc trưng đó là những điều kiện cần và đủ để một hành vi trộm cắp
27
tài sản được coi là tội phạm, đồng thời phản ánh bản chất của loại tội phạm và
cho phép chúng ta phân biệt với tội phạm khác. Tại khoản 1 điều 138 BLHS
năm 1999 quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ
năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm
nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính
về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ
sung năm 2009, nâng giá trị tài sản lên từ năm trăm nghìn đồng thành hai
triệu đồng. Tại khoản 1 điều 173 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều
168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
Căn cứ theo quy định trên thì nếu một hành vi trộm cắp tài sản có trị giá
dưới 2.000.000đ mà không thuộc các trường hợp: “gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội
chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” theo BLHS năm
28
2009 hoặc quy định từ điểm a đến điểm đ của BLHS năm 2015 nêu trên thì
không đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp và không phải chịu hình phạt, tức
không phải là hành vi phạm tội mà chỉ có thể bị xử lý hành chính.
Như vậy để xác định hành vi trộm cắp nào đó có đủ cấu thành tội trộm
cắp TS hay không thì phải căn cứ vào kết quả định giá giá trị tài sản mà người
thực hiện hành vi trộm cắp đã chiếm đoạt . Trên thực tế việc định giá là do
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thực hiện, nhưng việc định giá vẫn còn
những bất cập. Tại thông tư 02/2001/TTLT của TANDTC-VKSTC- BCA-
BTP hướng dẫn: “ giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định theo giá thị
trường của tài sản tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt”. Nhưng
trên thực tế việc xác định giá trị tài sản chỉ trên cơ sở chủ quan của Hội đồng
định giá, nhất là các tài sản đã qua sử dụng, hoặc thu hồi không được, định giá
qua sự mô tả,... Hội đồng định giá cũng chỉ xác định tương đối chứ chưa có
cơ sở pháp lý ràng buộc nào, dẫn đến việc xác định có tội hay không có tội,
khung hình phạt nhiều trường hợp không đúng.
Ví dụ: Vụ án theo quyết định khởi tố vụ án hình sự số 02 ngày 04 tháng
05 năm 2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Tây về tội
Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đối với bị
can Phạm Viết Hiệp cùng đồng bọn về hành vi trộm cắp 1.901kg dây điện.
Tại bản kết luận định giá số 12/HĐĐG ngày 29/6/2018 của Hội đồng
định giá trong tố tụng hình sự kết luận 1.901 kg dây cáp điện có giá trị thực tế
tại ngày 10/3/2018 là 34.218.000 đồng (ba mươi bốn triệu hai trăm mười tám
ngàn đồng), tương đương 18.000đ/1kg dây cáp điện.
Nhưng trước đó Hội đồng định giá định giá theo khấu hao tài sản và cho
rằng 1.901kg dây điện có giá trị 0đồng. Vì đã hết khấu hao. Nếu với kết quả
định giá này thì hành vi trộm cắp dây điện của Phạm Viết Hiệp và đồng bọn
không phạm tội trộm cắp.
29
Ngoài ra trong Thông tư 02 có hướng dẫn:
- Những trường hợp có đủ căn cứ chứng minh ý thức chủ quan của người
thực hiện hành vi trộm cắp là chiếm đoạt tài sản cụ thể có giá trị nhất định thì
lấy giá trị đó làm căn cứ truy cứu TNHS. Nhưng trên thực tế việc chứng minh
ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi trộm cắp là rất khó khăn, bởi
người phạm tội luôn có ý thức chối tội, khai lợi cho mình, nếu chỉ căn cứ vào
lời khai nhận tội để truy cứu thì khi phản cung thì sẽ không đủ cơ sở buộc tội.
Nếu không có tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh người có hành vi
trộm cắp đã thực hiện trộm cắp tài sản cụ thể nào, thì không thể truy cứu
TNHS.
Ví dụ: Vụ Đinh văn Hói có hành trộm cắp sợi dây chuyền màu vàng
của chị Lâm thị Huệ, bị bắt quả tang. Khi giám định là vàng giả, giá trị
500.000đ. Lúc đầu Hói khai nhận tưởng vàng thật nên lấy, nhưng sau Hói
khai đã biết là vàng giả nhưng thấy đẹp nên lấy. Vụ án phải đình chỉ điều tra
vụ án.
- Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm
phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá
trị tài sản bị xâm phạm (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường
của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để
xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm
phạm. Trên thực tế khi áp dụng trường hợp này cũng có vướng mắc.
Ví vụ: Vụ án Đinh Văn Khiết.
Khoảng 22 giờ ngày 09/9/2015, nhân lúc đêm khuya, trời tối Đinh Văn
Khiết đột nhập vào nhà bà Đinh Thị Dung, trú tại thôn Tà Vay – xã Sơn Long
– Sơn Tây – Quảng Ngãi, để trộm cắp tài sản. Vì trước đó Khiết đã nhìn thấy
bà Dung lấy tiền trong 01 (một) thùng gỗ để ở góc nhà, nên Khiết đã vào ôm
thùng gỗ đó ra bờ suối cách nhà bà Dung 80m, dùng chân tay cạy nắp thùng
30
để chiếm đoạt tài sản có trong đó (Vì nếu cạy trong nhà sẽ gây tiếng ồn, bị
phát hiện). Trong thùng gỗ có: Tiền là 27.000.000 vnđ và 02 sợi dây chuyền,
03 chiếc nhẫn và 01 vòng đeo tay bằng vàng, có tổng giá trị là 58.056.500đ
(năm mươi tám triệu không trăm năm sáu ngàn năm trăm đồng). Tuy nhiên
Đinh Văn Khiết chỉ phát hiện thấy tiền, nên Khiết chỉ chiếm đoạt số tiền là
27.000.000đ, còn số vàng có trong thùng gỗ, Khiết không thấy và Cơ quan
điều tra đã thu giữ trả lại cho chủ sở hữu.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2016/HSST ngày 27 tháng 01 năm
2016, Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây đã nhận định: Hành vi của Khiết đã
dịch chuyển thùng gỗ ra khỏi nhà bà Dung (khỏi nơi bảo quản) nên hành vi
phạm tội của Khiết đã hoàn thành và phải chịu trách nhiệm hình sự đối với
toàn bộ giá trị tài sản có trong thùng (bao gồm cả tiền và vàng), với tổng giá
trị 58.056.500đ (năm mươi tám triệu không trăm năm sáu ngàn năm trăm
đồng). Đồng thời đã viện dẫn quy định tại phần II, điểm 3 của Thông tư liên
tịch số 02/2001/TTLT của Tòa án NDTC- VKSNDTC- Bộ Công an- Bộ Tư
Pháp ngày 25/12/2001 để cho rằng hành vi phạm tội của Đinh Văn Khiết
thuộc trường hợp quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 138 BLHS ,tuyên: Bị
cáo Đinh Văn Khiết phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm e, khoản 2
điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46; điều 33; điều 69 và khoản 1 điều
74 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Đinh Văn Khiết 18 ( mười tám) tháng tù.
Theo quan điểm của CQĐT và VKS thì không thống với bản án, Vì:
Thứ nhất: Theo quy định tại phần II, điểm 3 của Thông tư liên tịch số
02/2001/TTLT : Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh người có
hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan
tâm đến giá trị tài sản ( giá trị bao nhiêu cũng được) thì lấy giá trị thị trường
của tài sản bị xâm hại... để xem xét việc truy cứu... Nhưng trong vụ án này bị
cáo không có ý định xâm phạm đến những chiếc nhẫn, dây chuyền và lách
31
đeo tay vì bị cáo chưa nhìn thấy và không hề biết trong Thùng gỗ của bà
Dung có vàng, bị cáo chỉ nhìn thấy tiền, đối tượng trộm chính trong ý thức
chủ quan của bị cáo là tiền ở trong thùng gỗ và trên thực tế bị cáo cũng không
chiếm đoạt số vàng trang sức này. Điều này chứng tỏ số vàng có trong thùng
gỗ là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo, bị cáo không hề hay biết, không
có ý định xâm phạm đến. Bị cáo chỉ chiếm đoạt số tiền trong Thùng gỗ là 27
triệu đồng. Vì vậy không thể lấy toàn bộ giá trị tài sản có trong Thùng gỗ để
làm căn cứ định khung hình phạt cho bị cáo như bản án. Quy định tại phần II,
điểm 3 của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT nêu trên chỉ áp dụng trong
trường hợp bị cáo đã có ý định xâm phạm đến 1 tài sản(vật) cụ thể nào đó, vi
dụ như xe Hon da... mà không quan tâm giá trị của xe là bao nhiêu.
Thứ hai: Đây là tội phạm có cấu thành vật chất, số vàng trong thùng gỗ
bị cáo chưa chiếm đoạt được thì không thể nói là tội phạm đã hoàn thành. Tội
phạm chỉ hoàn thành khi chiếm đoạt được tài sản.
Trong vụ án này HĐXX đã vận dụng hướng dẫn của Thông tư 02/2001
là không đúng.
Mặt khác đối với những trường hợp trị giá tài sản nhỏ hơn 2.000.000đ
thì cũng xảy ra nhiều bật cập sau:
- Khi áp dụng tình tiết a): “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”. Theo quy định của Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012, tại khoản 2 điều 2 quy định: Xử phạt vi phạm hành
chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Như
vậy đối với trường hợp đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính là giáo dục
tại xã phường về hành vi trộm cắp mà còn vi phạm thì có bị coi là phạm tội
hay không.
32
Ví dụ: Vụ án Đinh Văn Thơi trộm điện thoại trị giá 1.000.000đ, sau khi
đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại UBND xã Sơn Dung… Nhưng không bị
khởi tố để xử lý về tội trộm cắp. Theo quan điểm của tác giả đây là trường
hợp bỏ lọt tội. Vì biện pháp giáo dục tại xã phường là một biện pháp xử lý
hành chính có tính chất nặng hơn là xử phạt cảnh cáo, thể hiện ở việc quy
định thời gian được xem như chưa bị xử lý hành chính là 2 năm, còn ở biện
pháp xử phạt cảnh cáo là 6 tháng [Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính].
- Khi áp dụng tình tiết c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội. và tình tiết d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người
bị hại và gia đình họ; tại khoản 1 điều 173 của BLHS năm 2015, cũng gặp
nhiều vướng mắc đó là chưa có văn bản hướng dẫn, giải thích chính thống về
hai tình tiết này.
Ví dụ: Vụ án Đinh Văn Quê cùng đồng bọn đột nhập vào phòng khuyến
nông huyện phá két chiếm đoạt 600.000đ. Hay vụ Đinh Văn Thái trộm cắp xe
Honda của anh Đinh Văn Rin, chiếc xe là phương tiện anh Rin dùng đi mua
gom phế liệu…
Ngoài ra nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt nhỏ hơn 2.000.000đ nhưng
thuộc trong các trường hợp: Phạm tội có tổ chức; có tính chất chuyên
nghiệp;Tái phạm nguy hiểm; dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung
để tẩu thoát; Tài sản là bảo vật quốc gia; lợi dụng thiên tai; lợi dụng hoàn
cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp; có phạm tội trộm cắp hay không, nếu
có thì truy tố khoản nào. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất, bởi
theo quy định của điều luật thì có 2 quan điểm:
- Quan điểm 1: Ngoài việc xác định trị giá của tài sản bị chiếm đoạt
(quan hệ sở hữu) còn phải xác định, thiệt hại về tinh thần, tính nguy hiểm của
hành vi cho xã hội. Bởi tội trộm cắp ngoài khách thể bị xâm hại là quyền sở
hữu còn các khách thể khác bị xâm hại như an ninh trật tự, an toàn xã hội;…
33
Vì vậy nếu trị giá nhỏ hơn 2.000.000đ mà gây ảnh hưởng xấu đến an ninh thì
phạm tội theo khoản 1 điều 173; nếu hành hung để tẩu thoát, hoặc dùng thủ
đoạn xảo quyệt, nguy hiểm thì phải áp dụng khoản 2 hoặc khoản 3 tương ứng.
- Quan điểm 2: Đây là tình tiết định khung. Bởi vậy buộc phải đủ yếu tố
cấu thành cơ bản ( Trị giá TS bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000đ trở lên, nếu
dưới thì phải buộc có 1 trong 5 tình tiết quy định tại các điểm a, b, c,d, đ của
khoản 1 điều 173). Các tình tiết trên không phải là tình tiết theo quy định tại
khoản 1 nên chưa đủ cấu thành cơ bản thì không phạm tội.
Từ đó cho thấy kỷ thuật lập pháp nói chung và việc xây dựng quy định
của tội trộm cắp vẫn còn chưa chặt chẽ, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và
phải cần những văn bản giải thích hướng dẫn.
2.2.2.2. Định tội danh theo cấu thành tăng nặng
Định tội danh theo cấu thành tăng nặng là việc chủ thể định tội danh xác
định hành vi phạm tội cụ thể đã có đủ những tình tiết định khung tăng nặng
quy định trong điều luật. Đây là những trường hợp phạm tội có tính nguy
hiểm cho xã hội và mức độ hậu quả của tội phạm cao hơn so với cấu thành cơ
bản. Đối với tội trộm cắp tài sản thì cấu thành tăng nặng được quy định ở
khoản 2, 3 và 4 của điều 138 BLHS 1999 và điều 173 BLHS năm 2015.
Tại khoản 2 điều 138 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: “ Phạm tội có tổ chức; Có
tính chất chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm; Dùng thủ đoạn xảo quyệt,
nguy hiểm; Hành hung để tẩu thoát ; Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ
50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; Gây hậu quả nghiêm trọng. Tại
khoản 3 điều 138 BLHS quy định: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm
triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Tại khoản 4 điều 138 BLHS quy định: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ
năm trăm triệu đồng trở lên; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
34
Đối với điều 173 BLHS thì bỏ các tình tiết: Gây hậu quả nghiêm trọng;
Gây hậu quả rất nghiêm trọng; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nhưng
thêm các tình tiết: Tài sản là bảo vật quốc gia; Lợi dụng thiên tai, dịch
bệnh;Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”.
Thực tế định tội danh theo cấu thành tăng nặng trên địa bàn huyện Sơn
Tây là ít xảy ra, chủ yếu là định tội theo cấu thành cơ bản. Một số trường hợp
theo cấu thành tăng nặng là rơi vào các trường hợp có các tình tiết: Tái phạm
nguy hiểm; có tính chuyên nghiệp; giá trị tài sản trên năm mươi triệu đồng.
Ví dụ: Vụ án Lê Hùng Thiên ( tái phạm nguy hiểm)
Lê Hùng Thiên sinh năm 1980, là một thanh niên có sức khoẻ, đầy đủ
khả năng nhận thức và điều kiển hành vi của mình, có trình độ học vấn nhất
định (đã tốt nghiệp lớp 12). Tuy nhiên vì lười nhát lao động, lại muốn có tiền
tiêu xài cá nhân nên đã có nhiều lần chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị
Tòa án huyện Sơn Hà xử phạt 12 tháng tù, với tình tiết tái phạm về hành vi
trộm cắp tài sản. Khoảng 17h00 ngày 21/08/2007 Lê Hùng Thiên đang ngồi
chơi, uống rượu trước nhà của mình cùng với Đinh Văn Trong thì có Biện
Trung Nghĩa (Sn: 1988 ) là bạn của Thiên từ Tập Đoàn 21 – Ra Bâng – Sơn
Dung – Sơn Tây, trên đường xuống Thành Phố Quảng Ngãi để sửa máy gạo
của gia đình, do xuống tối nên Nghĩa ghé vào nhà Thiên ở lại để ngày mai đi
). Sau khi Nghĩa thay quần áo xong thì ra ngồi chơi và uống rượu với Thiên
và Trong. Sau đó Biện Trung Nghĩa và Lê Hùng Thiên cùng rủ nhau đi đánh
bi da, khi đi ngang qua quán sửa xe của anh Sắt thì gặp Tín và Duy là bạn của
Nghĩa, nên cùng rủ nhau ra quán bà Xoan tại ngã ba trung tâm huyện Sơn Tây
để uống rượu. Tại đây Thiên, Nghĩa, Tín, Duy uống hết khoảng 1 lít rượu thì
nghỉ và cùng rủ nhau đi hát Karaoke tại quán Diễm Ca ở xóm Trường Nội Trú
– Huy Măng – Sơn Dung – Sơn Tây . Đến khoảng hơn 23h00 thì nghỉ, Nghĩa
về nhà Thiên và cả hai lên giường ngủ chung. Đến khoảng 6h30 ngày
35
22/8/2007, Biện Trung Nghĩa thức dậy phát hiện mình bị mất một sợi dây
chuyền bằng vàng tây trọng lượng hơn 1chỉ và một ví da (bóp đựng tiền) bên
trong có khoảng hơn 400.000đ . Nghĩa nói với Thiên và cùng Thiên tham gia
tìm kiếm, tìm một lúc thì Thiên và Nghĩa nhìn thấy mặt sợi dây chuyền hình
ông phật của Nghĩa nằm trên giường, và một số giấy tờ cá nhân như giấy
chứng minh nhân dân v.v…, sau khi tìm một lúc nữa cũng không thấy, Nghĩa
chạy xe ra quán sửa xe anh Sắt gặp Duy để hỏi thử Duy có thấy tài sản của
mình không, nhưng Duy nói không thấy nên Nghĩa quay về nhà Thiên tìm
tiếp nhưng vẫn không thấy gì nên Biện Trung Nghĩa ra báo cho Công An
huyện Sơn Tây để điều tra xác minh.
Cơ Quan CSĐT Công An huyện Sơn Tây đã tiến hành xác minh, qua đấu
tranh khai thác với Lê Hùng Thiên thì Thiên đã khai nhận: Sau khi ngủ cùng
Biện Trung Nghĩa đến khoảng 2h00 sáng ngày 22/08/2007, do mắc tiểu nên
Lê Hùng Thiên dậy bật điện nhà dưới và đi tiểu, khi đi vệ sinh xong bước vô
gần đến giường thì Lê Hùng Thiên nhìn thấy chiếc ví da của Biện Trung
Nghĩa bọc trong túi quần bị ló ra ngoài, nên Thiên nảy sinh ý định lấy cắp.
Lợi dụng lúc Biện Trung Nghĩa đang ngủ say, Thiên dùng tay phải kéo chiếc
bóp từ trong túi của Nghĩa ra và lục lấy hết tổng cộng số tiền của Nghĩa là
426.000đ ( bốn trăm hai mươi sáu ngàn đồng). Trong lúc lấy tiền Thiên vô ý
làm rơi giấy tờ trong bóp ra, sợ lộ nên Thiên lượm lên bỏ ở mép giường nơi
Thiên và Nghĩa ngủ, còn bóp da Thiên bỏ qua khe ván nhà mình, ở giữa
đường luồng của hai nhà, nhà Thiên và nhà hàng xóm. Số tiền Thiên lấy được
Thiên cầm xuống nhà bếp bỏ vào một cái xô nhựa màu xanh lam rồi đậy nắp
lại, sau đó Thiên tiếp tục đi ngủ như không có chuyện gì xảy ra. Đến khoảng
hơn 6h00 sáng, ông Lê Văn Thống (cha của Thiên) hiện đang ở trên Tập
Đoàn 21 – Ra Bâng – Sơn Dung – Sơn Tây gọi điện về cho bà Thọ ở gần nhà
Thiên nhờ bàThọ qua kêu Thiên dậy để lo vệ sinh cho mẹ của Thiên. Khi
36
nghe bà Thọ gọi thì Lê Hùng Thiên dậy lúc bước xuống giường, Thiên nhìn
thấy sợi dây chuyền của Biện Trung Nghĩa bị đứt rơi xuống giường ngay phía
sau lưng Nghĩa, nhìn thấy Biện Trung Nghĩa vẫn còn ngủ say, Lê Hùng Thiên
lại nảy sinh ý định trộm cắp nên Thiên đã lấy luôn sợi dây chuyền này của
Nghĩa và đưa xuống bếp bỏ vào cái xô nhựa mà Thiên đã bỏ tiền trộm cắp của
Nghĩa trước đó.
Số tiền 426.000đ ( bốn trăm hai mươi sáu ngàn đồng ) Lê Hùng Thiên
đã rủ một số bạn của mình là Đinh Văn Trong, Đinh Văn Lúc và Đinh Văn
Tiết đều trú tại Sơn Dung – Sơn Tây uống rượu, hát karaôkê và sử dụng hết
vào tối ngày 22/08/2007. Còn lại sợ dây chuyền chưa kịp tiêu thụ, Thiên đã
giao nộp lại cho cơ quan điều tra. Qua kiểm tra và kết quả định giá của Hội
đồng định giá đã xác định: Sợi dây chuyền mà Lê Hùng Thiên giao nộp là:
loại vàng tây, vàng 6 tuổi 8, có trọng lượng 1 chỉ 4 phân 2 li. Giá trị thực tế
tính vào ngày 22/08/2007 là 810.000đ/1 chỉ. Như vậy sợi dây chuyền có giá
trị là : 1.150.000đ. Sợi dây chuyền này Biện Trung Nghĩa xác nhận là của
mình và Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nghĩa.
Tại bản án sơ thẩm hình sự số 02/2008 ngày 02/01/2008 của TAND
huyện Sơn Tây đã áp dụng điểm b, p điều 46; điểm c khoản 2 điều 138 và
điều 33 BLHS xử phạt bị cáo Thiên 24 tháng tù.
Đối với bản án này HĐXX của Tòa án huyện Sơn Tây đã phân tích đầy
đủ các tình tiết của vụ án cũng như đối chiếu các quy định của pháp luật để
định tội danh theo khoản 2 điều 138 BLHS là đúng.
Ví dụ 2: Vụ án Đinh Văn Khiết ( Xác định giá trị tài sản chiếm đoạt sai,
thiếu căn cứ).
Khoảng 22 giờ ngày 09/9/2015, nhân lúc đêm khuya, trời tối Đinh Văn
Khiết đột nhập vào nhà bà Đinh Thị Dung, trú tại thôn Tà Vay – xã Sơn Long
– Sơn Tây – Quảng Ngãi, để trộm cắp tài sản. Vì trước đó Khiết đã nhìn thấy
37
bà Dung lấy tiền trong 01 (một) thùng gỗ để ở góc nhà, nên Khiết đã vào ôm
thùng gỗ đó ra bờ suối cách nhà bà Dung 80m, dùng chân tay cạy nắp thùng
để chiếm đoạt tài sản có trong đó (Vì nếu cạy trong nhà sẽ gây tiếng ồn, bị
phát hiện). Sauk hi cậy được nắp thùng gỗ thì Khiết dùng pin điện thoại lục
thấy tiền và lấy đem về nhà đào lỗ cất dấu. Sáng hôm sau bà Dung báo công
an. Qua công tác khám nghiệm hiện trường thấy trong thùng gỗ có 02 sợi dây
chuyền, 03 chiếc nhẫn và 01 vòng đeo tay bằng vàng, có tổng giá trị là
31.056.500đ Cơ quan điều tra đã thu giữ trả lại cho chủ sở hữu.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2016/HSST ngày 27 tháng 01 năm
2016, Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây đã tuyên: Bị cáo Đinh Văn Khiết phạm
tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm e, khoản 2 điều 138; điểm p khoản 1,
khoản 2 điều 46; điều 33; điều 69 và khoản 1 điều 74 của Bộ luật hình sự: Xử
phạt Đinh Văn Khiết 18 ( mười tám) tháng tù.
Đối với vụ án này HĐXX đã xác định toàn bộ số tài sản trong thùng gỗ
bao gồm tiền 27.000.000đ và vàng giá trị 31.056.500đ, tổng cộng là
58.056.500đ là giá trị tài sản mà bị cáo Khiết đã chiếm đoạt; việc Khiết dịch
chuyển thùng gỗ ra khỏi nhà là coi như đã chiếm đoạt được và tội phạm đã
hoàn thành. Nên đã áp dụng tình tiết định khung tăng nặng để xét xử và áp
dụng hình phạt. Việc xác định của HĐXX như trên là không đúng và không
có cở sở. Bởi: Số vàng trong thùng nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo, khi
dịch chuyển thùng gỗ ra khỏi nhà, đồng thời số vàng này thực tế bị cáo không
chiếm đoạt. Mặt khác về chứng cứ chứng minh không đầy đủ, vẫn có thể
người bị hại bỏ thêm vào thùng sau khi phát hiện, vì theo bị cáo đã lục nhưng
chỉ thấy tiền, không thấy vàng. Hơn nữa đây là tội có cấu thành vật chất nên
tội phạm hoàn thành khi bị cáo đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng trong vụ án
này bị cáo không hề hay biết có vàng trong thùng. Vì vậy khi định tội danh
đối với tội trộm cắp cần chú ý chứng minh được bị cáo đã chiếm đoạt được
38
cái gì, trị giá bao nhiêu. Nếu không có cơ sở để chứng minh thì không thể
buộc tội bị cáo.
2.2.2.3. Định tội danh trong trường hợp đặc biệt.
- Định tội danh trong trường hợp đồng phạm. Đây là những vụ án có
đồng phạm. Nếu có sự cấu kết chặt chẽ thì thuộc trường hợp phạm tội có tổ
chức, nếu chỉ là đồng phạm giản đơn thì những người đồng phạm có thể bao
gồm: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Về
nguyên tắc các đồng phạm phải chịu TNHS về tội đã thực hiện. Khi định tội
danh trong trường hợp có đồng phạm đòi hỏi chủ thể định tội danh phải tôn
trọng các nguyên tắc như chịu trách nhiệm chung; nguyên tắc chịu trách
nhiệm độc lập hay nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Tại khoản 4
điều 17 BLHS quy định: “ Người đồng phạm không chịu trách nhiệm hình sự
về hành vi vượt quá của người thực hành”. Vì trên thực tế những hành vi vượt
quá của người thực hành có thể cấu thành một tội phạm độc lập khác hoặc là
thuộc khung tăng nặng, mà những người đồng phạm khác không thống nhất,
không cùng chung ý chí phạm tội.
Ví dụ: Phạm Viết Hiệp cùng đồng bọn phạm tội trộm cắp
Trong quá trình thi công điện cho trụ sở Công an huyện Sơn Tây Phạm
Viết Hiệp sinh năm 1992, trú tại thôn Thọ Trung, xã Tịnh Thọ, huyện Sơn
Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi đã để ý đường điện 6KV của Công ty cổ phần thủy
điện ĐăkĐrinh chạy dọc theo tỉnh lộ 623 địa phận xã Sơn Tân, huyện Sơn
Tây, tỉnh Quảng Ngãi ngừng hoạt động, Phạm Viết Hiệp nảy sinh ý định cắt
trộm số dây điện này để bán lấy tiền vì vậy Hiệp đã rủ Lý Công Toàn, sinh
năm: 1978, trú tại xã Tịnh Ấn Đông, Tp Quảng Ngãi và Huỳnh Việt, sinh
năm: 1991, trú tại xã Tịnh An, Tp Quảng Ngãi cùng tham gia với mình thì
Toàn và Việt đồng ý.
Sáng ngày 03/3/2018, Phạm Viết Hiệp điều khiển xe mô tô biển số kiểm
39
soát (BSKS) 76D1 – 123.10 rủ theo Lý Công Toàn và Huỳnh Việt điều khiển
xe mô tô BSKS 76U1-178.60 mang theo một túi đựng đồ nghề điện cùng
nhau lên thôn Ra Nhua, xã Sơn Tân, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi để thực
hiện việc cắt trộm đường dây điện 6KV của Công ty cổ phần Thủy điện
ĐăkĐrinh. Khi đến nơi, quan sát không có người trông coi, quản lý Hiệp trực
tiếp chỉ đạo cho Toàn, Việt thay phiên nhau leo lên trụ điện cắt trộm dây điện.
Cụ thể Toàn, Việt đeo dây an toàn thay nhau sử dụng cây kim loại (dạng đai
ốc) xỏ vào lỗ trụ điện để leo lên trụ (từ trụ C20 – C23 của đường dây 6KV)
rồi dùng kìm cộng lực và kìm bấm tay để cắt dây điện, Hiệp ở dưới trụ cắt
nhỏ từ 15 – 20m các đoạn dây mà Toàn và Việt đã bấm rơi xuống, các bị cáo
làm xong đến khoảng 12 giờ 00 phút thì nghỉ ngơi và ăn trưa. Trong lúc nghỉ
trưa Hiệp đã gọi điện thoại cho ông Nguyễn Thọ sinh năm 1977 trú tại xã
Tịnh Thọ làm nghề chở thuê bằng xe ba gác máy để liên hệ lên chở số dây
điện đem đi tiêu thụ. Sau khi nghỉ ngơi, buổi chiều cùng ngày các bị cáo tiếp
tục thực hiện việc cắt trộm đường dây 6KV từ trụ C20 – C19’. Sau đó cùng
nhau bê số dây điện đã cắt trộm lên xe ba gác máy của Ông Nguyễn Thọ. Đến
16 giờ 30 phút, các bị cáo vận chuyển số tài sản trộm cắp về Thị trấn Di Lăng,
huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi vì chưa biết ở đâu mua dây điện phế liệu nên
Toàn đã gọi điện hỏi thăm ông Lý Đình Vũ sinh năm 1983 trú tại Thôn Tan
Via, xã Sơn Dung, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, sau khi được Vũ chỉ nơi
bán các bị cáo đã đem số dây điện trộm được bán cho tiệm phế liệu của ông
Võ Đình Thịnh với số tiền 13.610.000 đồng (mười ba triệu sáu trăm mười
ngàn đồng) tương đương với 648 kg dây cáp điện.
Ngày 04/3/2018, Phạm Viết Hiệp bận việc đột xuất không trực tiếp tham
gia nhưng đã chỉ đạo Toàn và Việt lên lại vị trí hôm ngày 03/3/2018 để thực
hiện việc cắt trộm đường dây 6KV. Các bị cáo Toàn, Việt đã thay phiên nhau
lên trụ C19’ – C17 cắt, cuộn thành từng đoạn và cùng với ông Nguyễn Thọ vận
40
chuyển về Thị trấn Di Lăng và Phạm Viết Hiệp đã chờ sẵn rồi cùng đến bán
cho tiệm phế liệu của Ông Võ Đinh Thịnh lấy số tiền là 6.500.000 đồng (sáu
triệu năm trăm ngàn đồng) tương đương 309 kg dây cáp điện.
Trong hai ngày 03 và 04/3/2018 các bị cáo Phạm Viết Hiệp, Lý Công
Toàn, Huỳnh Việt đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tổng cộng 2.214m
tương đương với 957 kg dây cáp điện loại AC70, bán với tổng số tiền là
20.110.000 đồng (hai mươi triệu một trăm mười ngàn đồng) số tiền này các bị
cáo chia như sau: Toàn và Việt mỗi người 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng)
trả tiền công chở cho Nguyễn Thọ 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm ngàn
đồng), còn lại Hiệp giữ lại phần mình và chi trả tiền ăn nhậu nghỉ ngơi. Đồng
thời Hiệp, Toàn, Việt bàn bạc thống nhất ngày 10/3/2018 sẽ tiếp tục lên Sơn
Tây để cắt trộm dây điện.
Khoảng 11 giờ ngày 10/3/2018, Hiệp, Toàn, Việt lên xã Sơn Tân, huyện
Sơn Tây tiến hành cắt trộm đường dây 6KV của công ty cổ phần Thủy điện
Đăk Đrinh. Các bị cáo đã dùng kìm cộng lực và kìm tay cắt từ trụ C7 – C6,
cuộn tròn gởi lại nhà ông Đinh Văn Điềm trú ở thôn Ra Nhua, xã Sơn Tân.
Ngày 11/3/2018, ông Điềm tưởng là thợ điện nhờ giữ hộ nên đồng ý giữ và
đòi 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng). Sau khi gửi xong các bị cáo tiếp tục
quan sát trạm biến áp gần nhà máy Thủy điện ĐăkĐrinh và biết được đường
dây 35KV cũng đang ngừng sử dụng nên Hiệp, Toàn, Việt thống nhất hôm
sau sẽ tiếp tục cắt trộm đường dây 35 KV.
Sáng ngày 11/3/2018 Hiệp gọi điện cho Nguyễn Thọ lên xã Sơn Tân để
vận chuyển số dây điện trộm cắp được. Sau đó khoảng 08 giờ 30 phút Hiệp,
Toàn, Việt lên xã Sơn Tân tiếp tục việc cắt trộm đường dây 6KV từ trụ C5-
C8, cuộn tròn và nghỉ trưa, đến chiều cả bọn đã thực hiện việc cắt trộm 495m
dây cáp điện loại AC95 từ trụ C96 – C98 của đường dây 35KV. Sau khi thực
hiện xong việc cắt trộm và thu gom số dây cắt được trong hai ngày 10,
41
11/3/2018 Hiệp, Toàn, Việt cùng Thọ vận chuyển về Thi trấn Di Lăng, huyện
Sơn Hà bán cho tiệm phế liệu của ông Võ Đình Thịnh với tổng số tiền là
17.930.000 đồng (mười bảy triệu chín trăm ba mươi ngàn đồng) tương đương
với 854 kg dây cáp điện để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Số tiền này các bị cáo
chia nhau như sau: trả tiền chở cho ông Thọ 1.200.000 đồng (một triệu hai
trăm ngàn đồng) chia cho Toàn 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm ngàn
đồng) chia cho Việt 3.000.000 đồng (ba triệu đồng), còn lại hiệp giữ phần
mình và trả tiền chi phí ăn nhậu, ngủ nghỉ chung.
Tại bản kết luận định giá số 12/HĐĐG ngày 29/6/2018 của Hội đồng
định giá trong tố tụng hình sự kết luận 1.901 kg dây cáp điện có giá trị thực tế
tại ngày 10/3/2018 là 34.218.000 đồng (ba mươi bốn triệu hai trăm mười tám
ngàn đồng), tương đương 18.000đ/1kg dây cáp điện.
Bản cáo trạng số 403/QĐ-VKS ngày 31/8/2018 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Sơn Tây truy tố các bị cáo Phạm Viết Hiệp, Lý Công Toàn, Huỳnh
Việt ra trước Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây về tội “Trộm cắp tài sản” theo
khoản 1 Điều 173 BLHS. Bản án Bản án số: 01/2018/HS-ST, Ngày 09-10-
2018 Tuyên bố các bị cáo Phạm Viết Hiệp, Lý Công Toàn, Huỳnh Việt phạm
tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm b, s
khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Xử phạt bị cáo
Phạm Viết Hiệp 10 (mười) tháng tù; Xử phạt bị cáo Lý Công Toàn 07 (bảy)
tháng tù. Xử phạt bị cáo Huỳnh Việt 07 (bảy) tháng tù.
- Định tội trong trường hợp phạm nhiều tội.
Về nguyên tắc một hành vi không thể bị xét xử về 2 tội danh khác nhau.
Trên thực tế để thực hiện một tội phạm, người phạm tội có thể phải thực hiện
nhiều hành vi, nếu những hành vi này đủ yếu tố cấu thành một tội độc lập thì
phải chịu trách nhiệm về cả hai tội. Ví dụ để giết người A đã mua súng về nhà
cất và sau đó dùng để giết người, thì A phải chịu TNHS về hai tội mua bán
42
hoặc sử dụng trái phép vũ khí quân dụng và tội giết người.
Đối với tội trộm cắp chỉ có một hành vi khách quan duy nhất đó là chiếm
đoạt tài sản của người khác một cách lén lút. Nếu sử dụng vũ lực để chiếm
đoạt tài sản thì không phải trộm cắp mà có thể là Cướp hoặc cướp giật. Trên
thực tế có những vụ “ Đầu trộm đuôi cướp”, tức là khi thực hiện hành vi trộm
bị phát hiện, người phạm tội đã có những hành vi chống trả làm chuyển biến
tội danh. Nếu chưa chiếm đoạt được tài sản mà có hành vi dùng vũ lực để
chiếm được tài sản là phải định tội là tội cướp. Ví dụ: A lợi dụng đêm tối vào
nhà của B để trộm tài sản, nhưng bị B phát hiện, A đã dùng dao khống chế lấy
tài sản. Còn trường hợp khi đã chiếm đoạt được tài sản mà hành hung để tẩu
thoát thì chỉ áp dụng tình tiết định khung, nếu hành vi chống trả này đủ yếu tố
cấu thành tội độc lập khác thì phải chịu TNHS thêm tội đó. Ví dụ chống trả
gây thương tích từ 11% trở lên. Những nội dung này đã được hướng dẫn tại
tiểu mục 6.1 và 6.2, mục I, thông tư số 02/2001/TTLT. Và trên thực tiển tại
Sơn Tây không gặp vướng mắc gì nên tác giả không phân tích sâu.
2.3. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn
Tây, tỉnh Quảng Ngãi
2.3.1. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt
2.3.1.1. Khái niệm
Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình
sự của Tòa án có thẩm quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (mà ở đây được giao cho Hội đồng xét xử) thực hiện sau khi đã xác định
được tội danh và tùy từng trường hợp để quyết định khung hình phạt, loại
hình phạt (bao gồm hình phạt chính và có thể có hình phạt bổ sung), mức hình
phạt cụ thể cho người phạm tội trong phạm vi của khung hình phạt do pháp
luật quy định; phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
và nhân thân người phạm tội. Trong khoa học pháp lý hình sự đến nay đã có
43
nhiều tác giả đưa ra khái niệm về quyết định hình phạt. Trong đó tác giả đồng
ý với khái niệm : “ Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình
phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung với mức
độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội”
Có một số quan điểm cho rằng “Miễn trách nhiệm hình sự” cũng thuộc
về giai đoạn quyết định hình phạt, bởi miễn TNHS là không buộc người phạm
tội phải chịu TNHS về tội họ đã phạm, miễn trách nhiệm hình sự được thực
hiện sau khi xác định xong tội danh, thuộc về giai đoạn đầu của việc xác định
chế tài hình sự đối với người phạm tội. Cho nên coi miễn TNHS thuộc về
quyết định hình phạt. Nhưng trên thực tế hiện nay việc miễn TNHS vẫn được
các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát áp dụng.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung đi sâu phân
tích việc quyết định hình phạt của Tòa án (Hội đồng xét xử) vì theo qui định
của pháp luật thì chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội. Luật Hiến pháp 2013 quy định TAND là cơ quan xét xử
của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Điều 102) [30].
Điều 30 BLHS 2015, quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án
quyết định áp dụng…” [5, tr.22].
2.3.1.2. Đặc điểm của Quyết định hình phạt
Từ khái niệm và phân tích trên cho thấy quyết định hình phạt có các đặc
điểm sau:
- Quyết định hình phạt là một dạng hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận
thức của con người cụ thể;
- Quyết định hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Hội
đồng xét xử thực hiện trên thực tế, để quyết định một mức hình phạt hoặc có
thể miễn TNHS, miễn hình phạt đối với bị cáo, dựa trên cở sở các quy định
44
của pháp luật;
- Quyết định hình phạt mang tính tùy nghi cao, thể hiện trong việc lựa
chọn loại hình phạt áp dụng, mức hình phạt,…
2.3.1.3. Mục đính của Quyết định hình phạt
Theo quy định tại điều 31 BLHS: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị
người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo
dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm”. Một số nhà khoa học pháp lý hiện nay cho rằng
mục đích của Hình phạt là nhằm bảo vệ công lý, công bằng xã hội và phòng
ngừa tội phạm. Cũng có quan điểm cho rằng trừng trị là mục đích của hình
phạt bởi vì để bảo vệ lợi ích thì người phạm tội phải bị trừng trị. Nhưng cũng
có quan điểm cho rằng trừng trị và cải tạo là nội dung của hình phạt chứ
không phải là mục đích của hình phạt. Theo tác giả cũng đồng tình với quan
điểm này, mục đích là cái chúng ta hướng tới nhằm đạt được khi áp dụng hình
phạt. Như vậy mục đích hình phạt là để pháp luật được tôn trọng, phòng ngừa
và đấu tranh với tội phạm, nhằm loại bỏ tội phạm ra khỏi xã hội. Còn trừng trị
và cải tạo người phạm tội là nội dung của hình phạt. Nếu chúng ta áp dụng
trừng trị và cải tạo có hiệu quả thì sẽ đạt được mục đích của hình phạt và
ngược lại. Như vậy có thể nói mục đích của quyết định hình phạt là không chỉ
nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội
mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
2.3.1.4. Căn cứ Quyết định hình phạt
Căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội đòi hỏi phải công
bằng, nhân đạo phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm đã
45
thực hiện. Các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 50 BLHS
năm 2015: “1.Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào các quy định của
Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền…. Tòa án căn cứ vào tình hình tài
sản, khả năng thi hành của người phạm tội” .
+ Các quy định của BLHS: Trước hết Tòa án phải căn cứ vào các quy
định của BLHS để lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng cho người
phạm tội. Vấn đề đặt ra ở đây là các quy định của BLHS là những quy định
nào, tác giả cho rằng các quy định của BLHS bao gồm: Các quy định của
BLHS liên quan đến quyết định hình phạt bao gồm: Những quy định về từng
loại hình phạt (Điều 32,33), những quy định về tăng nặng, giảm nhẹ, những
quy định về quyết định hình phạt,… Đây là những căn cứ pháp lý, giúp Tòa
án có quyết định hình phạt chính xác trong thực tế.
+ Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: là tính
nguy hiểm của tất cả các tội phạm cùng loại so với các tội phạm khác loại;
Còn mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được hiểu là tính nguy hiểm
của một tội phạm cụ thể so với các tội phạm khác cùng loại. [16, tr.129]
+ Nhân thân người phạm tội: là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của
người phạm tội, gắn liền với người phạm tội như: tuổi, nghề nghiệp, trình độ
văn hóa, hoàn cảnh gia đình, kinh tế, tiền án, tiền sự,... Những đặc điểm này
nó cũng thể hiện tính nguy hiểm của hành vi và khả năng cải tạo, giáo dục họ.
Vì vậy luật quy định cũng là một căn cứ cần xem xét không bỏ qua.
+ Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS: Các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng TNHS được quy định tại Điều 51 và Điều 52 BLHS. Khi quyết định
hình phạt bắt buộc phải xem xét cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm TNHS
vì đây là một trong các tình tiết để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của
46
hành vi.
2.3.1.5. Các nguyên tắc quyết định hình phạt:
Xuất phát từ đặc điểm của quyết định hình phạt, cho thấy việc quyết định
hình phạt là một hoạt động rất quan trọng, ảnh hưởng đến cả quá trình đấu
tranh phòng chống tội phạm, thể hiện ở mục đích và ý nghĩa của việc quyết
định hình phạt. Vì vậy quyết định hình phạt cũng phải tuân theo các nguyên
tắc nhất định, nếu không sẽ dễ dẫn đến sai phạm và tùy nghi. Các nguyên tắc
quyết định hình phạt, bao gồm:
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Thể hiện ở các nội dung sau:
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải tuân thủ các quy định của Bộ
luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự;
+ Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: Về bản chất thì hình phạt
không có tính nhân đạo. Tính nhân đạo trong hình phạt là nguyên tắc nhân
đạo trong BLHS quy định. Tại Điều 3 BLHS 2015 quy định, nguyên tắc xử lý
tội phạm: “…khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác
người đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách
nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn
năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”, [5, tr.7].
Vì vậy khi quyết định hình phạt thì phải bảo đảm nguyên tắc này. Phải tôn
trọng và bảo vệ quyền con người.
+ Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt: Cá thể hóa hình phạt trong áp dụng
PLHS là áp dụng hình phạt phù hợp đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể,
từng vụ án cụ thể. Tức khi quyết định hình phạt thì HĐXX phải cân nhắc các
tình tiết lien quan đến mỗi cá nhân người phạm tội, bảo đảm hình phạt phải
tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS.
+ Nguyên tắc công bằng: Được hiểu là khi quyết định hình phạt phải
47
phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
không phân biệt giới tính, dân tộc, địa vị kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng, thành
phần xuất thân… Ngoài ra nguyên tắc này còn đòi hỏi phải được thể hiện ở
công bằng trên toàn lãnh thổ. Tuy nhiên chúng ta phải hiểu rằng không có
công bằng tuyệt đối và nguyên tắc này còn chịu ảnh hưởng của các nguyên
tắc khác.
2.3.1.3. Ý nghĩa của Quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt đúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm trên thực tiễn, bởi:
- Quyết định hình phạt đúng sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để đạt được
mục đích của hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả của hình phạt và bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa;
- Quyết định hình phạt đúng, chính xác là điều kiện đảm bảo tính khả thi
của hệ thống hình phạt, từ đó sẽ tác động đến ý thức pháp luật của mỗi người
để họ thấy được hành vi sai trái của mình để thực hiện pháp luật cho đúng;
- Quyết định hình phạt đúng là bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật,
làm cho hình phạt trở thành công cụ hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm;
Tóm lại khi quyết định hình phạt đòi hỏi Thẩm phán áp dụng phải có tư
duy phân tích tổng hợp các quy định của pháp luật với các tình tiết khác có
liên quan thì mới có hình phạt thích đáng với hành vi phạm tội. Không được
48
vì mục đích phòng ngừa chung mà xử lý nặng cho người phạm tội.
2.3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản tại huyện
Sơn Tây
Bảng 2.2: Bảng thống kê về hình phạt tội Trộm cắp Tài sản được xét xử sơ
thẩm trong giai đoạn từ 2013 – 2018 trên địa bàn huyện Sơn Tây
Phạt tù từ 6 tháng Kháng Giám đến 03 năm Số bị KHÁNG nghị đốc Năm cáo CÁO phúc Phạt tù Hưởng thẩm thẩm giam án treo
05 06 01 2013 11
01 06 2014 07
03 2015 3
01 02 2016 3
01 03 2017 4
02 06 02 2018 8
10 26 03 0 0 Tổng 36
Nghiên cứu thực tiễn hoạt động quyết định hình phạt giai đoạn 2013 -
2018 trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi cho thấy số vụ án về tội
trộm cắp tài sản mà Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây đã đưa ra xét xử là 30vụ
với 36 bị cáo. Tất cả những vụ án trên đều được cơ quan tiến hành tố tụng
huyện Sơn Tây xác định đúng người, đúng tội. Không có vụ án nào Tòa án
tuyên không phạm tội. Việc quyết định hình phạt của Tòa án là tương đối
chính xác theo quy định của pháp luật và phù hợp với tính chất hậu quả của
hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây
đã áp dụng đầy đủ các quy định của BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng
dẫn của cơ quan có thẩm quyền nhất là các NQ của HĐTP Tòa án Tối Cao và
49
những Thông tư liên tịch, đồng thời, trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà Tòa án quyết định hình phạt
chính xác, tương xứng với hành vi, thủ đoạn phạm tội của từng bị cáo. Hầu
hết những vụ án hình sự, trong đó có những vụ án trộm cắp tài sản được đưa
ra xét xử kịp thời, đảm bảo tính ren đe, giáo dục phòng ngừa.
Trên cơ sở thống kê số liệu xét xử về tội trộm cắp tài sản cho thấy, hình
phạt được áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện
Sơn Tây chủ yêu là hình phạt tù từ 3 năm trở xuống với 36 bị cáo, trong đó
được hưởng án treo chiếm tỉ lệ cao; không có trường hợp nào được miễn hình
phạt. Số vụ án bị kháng cáo chiếm tỉ lệ thấp, không có án bị kháng nghị phúc
thẩm hay giám đốc thẩm. Tỉ lệ án bị cấp phúc thẩm sửa không nhiều, chủ yếu
theo hướng giảm nhẹ hình phạt, hoặc cho hưởng án treo. Nguyên nhân do các
bị cáo đa số là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa lạc hậu, phạm tội lần
đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tuy nhiên qua đó cho thấy việc quyết
định hình phạt của Tòa án huyện Sơn Tây tương đối chính xác, phù hợp với
tính chất, hậu quả của hành vi, các thẩm phán đã vận dụng đúng các nguyên
tắc và các căn cứ của quyết định hình phạt để thực hiện việc quyết định hình
phạt, từ đó đã đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị
cáo, đảm bảo tác dụng tuyên truyền, giáo dục và cải tạo người phạm tội.
2.3.2.1. Quyết định hình phạt tội trộm cắp theo khoản 1.
Khoản 1 là cấu thành cơ bản của tội trộm cắp, có mức hình phạt: “ Phạt
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm”.
Thực tế trên địa bàn huyện Sơn Tây, tội trộm cắp tài sản tập trung ở khoản 1
điều 138 BLHS năm 1999 và khoản 1 điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi
2017. Việc áp dụng pháp luật trọng việc quyết định hình phạt của HĐXX Tòa
án Sơn Tây là tương đối chính xác. Bởi HĐXX đã xem xét, đánh giá đầy đủ
các tình tiết của vụ án từ đó đánh giá được đúng tính chất mức độ nguy hiểm
50
cho xã hội của hành vi. Đồng thời đã cân nhắc đến nhân thân của người phạm
tội ( chủ yếu là người dân tộc thiểu số, sự hiểu biết pháp luật không nhiều, có
tính bồng bột, phạm tội lần đầu) Nên mức hình phạt của các bản án đã tuyên
luôn được đồng tình ủng hộ của người dân, không có án bị kháng cáo, kháng
nghị theo hướng phúc thẩm.
Ví dụ: Bản án số: 09/2015/HSST, Ngày 19 tháng 11 năm 2015
Vào khoảng 17 giờ 00 phút, sau khi Đinh Văn Trình đi phát rẫy về nhà,
Trình đến nhà chị Phạm Thị Thủy lấy tiền công phụ hồ của mình rồi đi uống
rượu tại nhà Đinh Văn Hía. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày Trình đến quán chị
Trinh mua nợ 01 thùng bia Dung quất để mang lên Thủy điện Đăk Rin nhậu
cùng bạn bè. Khi mua nợ được bia, Trình về nhà lấy xe máy chở bia đi, nhưng
trên đường về thấy tại sân nhà chị Đinh Thị Đép 02 chiếc xe mô tô dựng sát
nhau và không có người trông coi, trời tối, điện tắt, lợi dụng lúc đêm khuya
mọi người đi ngủ, Trình lén lấy 01chiếc xe mô tô BKS 76N1 – 01381 của chị
Đinh Thị Bây, dắt ra ngoài lấy chìa khóa trong người mở khóa, điều khiển xe
chạy đến nhà chị Trinh chở bia lên Thủy điện Đăk Rin (chìa khóa xe máy này
là của chị Đinh Thị Bẻ cho bị cáo mượn xe máy sử dụng trước đó, nhưng khi
trả xe bị cáo chưa trả chìa khóa cho chị bẻ). Trên đường đi đến cầu sông
Rinh (cầu cũ), Trình thấy một nhóm thanh niên đang nhậu dưới bờ sông,
tưởng có người quen Trình đem bia xuống cùng nhậu, nhưng người lạ không
quen nên tham gia uống một ly rồi bỏ đi ngủ tại bãi đất gần đó. Đến khoảng
03 giờ ngày 10/4/2015 Trình thức dậy điều khiển xe về lại xã Sơn Tinh nhưng
đến xã Sơn Màu xe hết xăng, Trình gửi xe lại nhà chị Đinh Thị Dố rồi đến
nhà chú mình Đinh Văn Banh ngủ, đến 15 giờ cùng ngày đón xe xin về nhà.
Về đến nhà Trình nghe cơ quan CSĐT Công an huyện Sơn Tây đang tiến
hành điều tra vụ việc, sợ bị phát hiện Trình bỏ trốn khỏi địa phương đi làm ăn
nơi khác.Theo kết luận số: 02/HĐĐGTS ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Hội
51
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Tây, thống nhất định
giá 01 chiếc xe mô tô BKS 76N1- 01381, tại thời điểm bị cáo Trình trộm cắp
có giá trị 13.230.000đ (Mười ba triệu hai trăm ba chục ngàn đồng).Tại bản
cáo trạng số 81/QĐ - VKS ngày 23/10/2015 của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo Đinh Văn Trình về tội
“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa,
đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong phần
tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đinh Văn Trình về tội
“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự; đồng thời đề
nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1Điều 46 và
Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt đối với bị cáo Đinh Văn Trình từ 08
(tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Ý kiến của trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo: Đồng ý quan điểm
của Kiểm sát viên trong bản luận tội về tội danh bị cáo phạm tội “Trộm cắp
tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều
tình tiêt giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo chấp nhận chịu
bồi thường số tiền theo yêu cầu của người bị hại, người bị hại cũng xin giảm
nhẹ hình phạt cho bị cáo, người bào chữa xuất trình giấy chứng nhận mẹ bị
cáo là bệnh binh. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm b, p khoản
1, 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo án treo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào
kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ,
ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác.
Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Đinh Văn Trình phạm tội “Trộm cắp tài
sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự như cáo trạng Viện
kiểm sát nhân dân huyện Sơn Tây đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội
52
và đúng pháp luật.
Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử
thấy rằng: Bị cáo Đinh Văn Trình là công dân đã trưởng thành, có đầy đủ
năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định, nhận thức và điều
khiển được hành vi của chính mình. Năm 2000 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi xử phạt bị cáo 08 (Tám) năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em” và bị
cáo đã chấp hành xong bản án, được xóa án tích, lẽ ra bị cáo lấy đó làm bài
học, sửa chữa lỗi lầm, lương thiện làm ăn để trở thành công dân tốt, có ích
cho xã hội, nhưng vì lười lao động, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và muốn có xe
để đi nên bị cáo đã trộm cắp chiếc xe của chị Đinh Thị Bây để vụ lợi cá nhân.
là thể hiện sự ngoan cố, bất chấp xem thường pháp luật. Hành vi của bị cáo là
nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản của công dân, gây
mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Hội đồng xét xử cần phải áp dụng hình
phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm để giáo dục, răn
đe bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đồng thời góp phần nâng cao ý
thức bảo vệ tài sản trong nhân dân. Song, xét bị cáo là người dân tộc thiểu số,
khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có mẹ là bệnh
binh, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự được quy định tại điểm p khoản 1,2 Điều 46 và Điều 33 của Bộ luật
hình sự nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét lời đề nghị của
vị đại diện Viện kiểm sát về áp dụng điều luật và hình phạt đã nêu. Hội đồng
xét xử xét cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo với mức hình phạt thấp hơn so với mức hình phạt khởi
điểm của Kiểm sát viên đề nghị cũng đủ có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo.
Đối với ý kiến của người bào chữa đã đề nghị. Hội đồng xét xử xét bị cáo
Đinh Văn Trình, thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội này chưa
quá hai năm. Do vậy chưa đủ điều kiện để cho bị cáo được hưởng án treo theo
53
quy định tại điểm b1 khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết 01 ngày 06/11/2013 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên không chấp nhận. Đối với
chị Bây tại phiên tòa chị yêu cầu bị cáo Trình phải trả số tiền 280.000đ là số
tiền chị đã sửa chữa xe máy BKS 76N1- 01381 do bị cáo trộm cắp đi bị hư
hỏng và tại phiên tòa bị cáo Trình thỏa thuận chấp nhận chịu trả số tiền này
cho chị Đinh Thị Bây. Sự thỏa thuận của các bên là hoàn toàn tự nguyện đúng
pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận
đó của các bên. HĐXX đã Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1, 2
Điều 46, Điều 33 của BLHS: Xử phạt bị cáo Đinh Văn Trình 07 (bảy) tháng
tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày
12/8/2015.
Qua bản án trên cho chúng ta thấy HĐXX đã áp dụng đầy đủ các quy
định của pháp luật lien quan trong việc quyết định áp dụng hình phạt; xem xét
các ý kiến của KSV, người bào chữa, người bị hại,… để quyết định một hình
phạt chính xác, phù hợp với hành vi của bị cáo.
Ví dụ 2: Bản án số: 01/2015/HSST, Ngày 22 tháng 01 năm 2015
Sáng ngày 17/10/2014, bị cáo Võ Duy Thanh điều khiển xe máy BSKS
76V6 - 3840 chạy từ huyện Sơn Hà đến xã Sơn Lập, huyện Sơn Tây để tìm
người đi hái trái cà phê cho chị của mình là Võ Thị Mai ở tỉnh Đăk Lăk.
Khi đến thôn Tà Ngàm, xã Sơn Lập, bị cáo vào nhà Đinh Thị Thoan
nhưng không có chị Thoan ở nhà mà chỉ có mẹ chị Thoan là bà Đinh Thị
Hoanh đang trông giữ 02 con của chị Thoan. Thanh hỏi: “ nhà đi đâu hết rồi”,
bà Hoanh trả lời: “con tôi đi làm hết rồi” sau đó bị cáo Thanh hỏi mua 01 gói
thuốc lá Ngựa đen, bà Hoanh đến tủ kính trong nhà lấy thuốc lá bán cho
Thanh thì Thanh đi theo sau đứng ở phía sau lưng của bà Hoanh. Lúc này,
Thanh phát hiện trong tủ kính ở tầng trên cùng có 02 ví da (01 cái màu vàng
và 01 cái màu đen) nên bị cáo nẩy sinh ý định trộm cắp. Lợi dụng lúc bà
54
Hoanh lấy thuốc để bán, bị cáo thò tay vào trong tủ kính lấy 01 cái ví da màu
vàng và mở ra xem thấy trong ví có nhiều tờ tiền Polime mệnh giá 500.000đ
và 100.000đ; bị cáo đã lấy 5.000.000đ (Năm triệu đồng) gồm có 10 tờ tiền
Polime mệnh giá 500.000đ bỏ vào trong túi quần, bị cáo chưa kịp để ví lại vị
trí cũ thì bị bà Hoanh đã phát hiện bị cáo đang cầm ví của chị Thoan trên tay,
bà Hoanh nói: “ví đó của người ta không được đụng vào”, nghe vậy bị cáo để
ví lại trong tủ và lúc này bị cáo lại nhìn thấy trên đầu tủ kính có một điện
thoại di động, nhãn hiệu Coocel, màu vàng trắng đang sạc pin, bị cáo tiếp tục
lén lấy chiếc điện thoại di động này bỏ vào túi quần, vừa lúc đó bà Hoanh bán
cho bị cáo Thanh 01 gói thuốc lá ngựa đen trị giá 10.000đ/gói. Sau khi đã
mua thuốc lá xong, bị cáo điều khiển xe máy BSKS 76V6 - 3840 đi về nhà ở
TDP Kà Đáo, thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà. Khi sự việc xảy ra, bà Hoanh
kể lại chị Đinh Thị Thoan nghe và chị Thoan phát hiện biết mình bị mất 01
điện thoại di động và số tiền 5.000.000đ nên chị Thoan báo cho Công an
huyện Sơn Tây biết để điều tra xử lý. Khi nhận được tin báo, Công an huyện
Sơn Tây đã triển khai phối hợp các lực lượng Công an các xã tiến hành điều
tra, chốt chặn các tuyến đường trên địa bàn huyện. Đến khoảng 11 giờ cùng
ngày, tại thôn Tà Vinh, xã Sơn Màu, huyện Sơn Tây, tổ công tác của Công an
huyện đã phát hiện bị cáo Thanh đang điều khiển xe máy BSKS 76V6-3840
từ xã Sơn Tinh về xã Sơn Màu. Khi phát hiện thấy tổ công tác, bị cáo đã bỏ
lại xe máy BSKS 76V6 - 3840, chạy trốn vào rừng. Công an huyện Sơn Tây
đã lập biên bản tạm giữ xe máy BSKS 76V6 - 3840 và 01 điện thoại di động
hiệu Coocel trong cốp xe, đưa về Công an huyện để điều tra xử lý vụ việc.
Ngày 18/10/2014 bị cáo Thanh ra đầu thú trước Công an huyện Sơn Tây về
hành vi phạm tội của mình và đã giao nộp 5.000.000đ (Năm triệu đồng) cho
cơ quan cảnh sát điều tra.Theo kết luận số: 08/HĐĐGTS ngày 12 tháng 12
năm 2014 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Tây,
55
thống nhất định giá 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Coocel, màu vàng
trắng, tại thời điểm bị cáo Thanh trộm cắp có giá trị 292.500đ (hai trăm chín
mươi hai ngàn năm trăm đồng). Như vậy, tổng giá trị tài sản của Chị Thoan bị
cáo Thanh trộm cắp là : 5.292.500đ (Năm triệu hai trăm chín mươi hai ngàn
năm trăm đồng ). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn
Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố
bị cáo Võ Duy Thanh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của
Bộ luật hình sự; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều
138, điểm b, h, p khoản 1 Điều 46, Điều 47, điều 60 của Bộ luật hình sự, xử
phạt đối với bị cáo bị cáo Võ Duy Thanh 4 tháng tù cho hưởng án treo. HĐ
XX đã nhận định hành vi của bị cáo là táo bạo, cần phải xử nghiêm khắc để
làm gương.
HĐXX đã áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46,
Điều 33 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Võ Duy Thanh 6 tháng tù. Thời
hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Đối với bản án này nhận thấy HĐXX đã chưa xét xét đầy đủ các quy
định của BLHS như điều 60 về cho hưởng án treo, điều 47 về áp dụng hình
phạt dưới mức thấp nhất khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Đồng thời vì mục
đích chung là phòng ngừa tội phạm. Dẫn đến đã quyết định áp dụng một hình
phạt nặng cho bị cáo.
2.3.2.2. quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp theo cấu thành tăng
nặng.
Cấu thành tăng nặng của tội trộm cắp được quy định tại các khoản 2, 3
và 4 của điều 138 BLHS 1999( điều 173 BLHS 2015). Thực tiển trên địa bàn
huyện Sơn Tây việc quyết định hình phạt theo cấu thành tăng nặng chủ yếu là
khoản 2 điều 138. Không có vụ nào ở khoản 3 hoặc 4. Ở cấu thành này thì
56
hình phạt có tính nghiêm khắc hơn, quy định mức hình phạt: “Phạt tù từ hai
năm đến bảy năm”. Đây là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy HĐXX cũng rất
thận trọng trong việc quyết định hình phạt.
Ví dụ: Vụ án Đinh Văn Thới
Đinh Văn Thới sinh năm 1992 là một công dân có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự, đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp tập trung giáo dưỡng về
hành vi trộm cắp, lẽ ra bị can phải ý thức làm ăn lương thiện, phấn đấu trở
thành công dân tốt cho xã hội. Nhưng Từ ngày 19 tháng 5 đến ngày 20 tháng
6 năm 2009, liên tiếp thực hiện hành vi trộm cắp 05 chiếc xe máy tại Sơn
Dung – Sơn Tây và đến ngày 23 tháng 6 năm 2009 bị Công an huyện Sơn Tây
bắt khẩn cấp. Ngày 26 tháng 6 năm 2009 bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can về
tội Trộm cắp tài sản. Tổng giá trị của 05 chiếc xe máy là 52.200.000 đ.
Tại bản cáo trạng số 04/2009 đã truy tố bị can Đinh Văn Thới về tội
“Trộm cắp tài sản”, quy định tại điểm e khoản 2 điều 138 Bộ luật hình sự của
Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án hình sự sơ thẩm số
04/2009/HSST ngày 28/9/2009 đã áp dụng điểm e khoản 2 điều 138; điểm g,
p khoản 1 điều 46; điều 47; điều 74 BLHS xử phạt bi cáo với mức án 9 tháng
tù.
Xét bản án chúng ta thấy, mặc dù bị cáo có nhân thân không tốt , đã
phạm tội nhiều lần, tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là trên năm mươi
triệu đồng, phạm vào khoản 2 điều 138, có mức hình phạt là từ hai năm đến 7
năm tù. Song HĐXX đã chú ý đến các quy định khác như điều 47; điều 74 về
nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội để quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Bảo đảm tính giáo dục và
nhân đạo.
2.3.2.3. Quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Đây là những vụ án
57
có đồng phạm, về nguyên tắc thì chúng ta cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ
bản trong quyết định hình phạt, đặc biệt chú ý đến nguyên tắc cá thể hóa trách
nhiệm hình sự. Theo quy định của điều 58 BLHS: “ Khi quyết định hình phạt
đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng
phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng đồng phạm; các tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng
phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.”.
Chế định đồng phạm được quy định tại điều 17 BLHS 2015. Vì vậy khi
đã xác định được vụ án có đồng phạm thì đòi hỏi cơ quan điều tra phải chứng
minh làm rõ vai trò của từng đồng phạm để có thể áp dụng hình phạt thích
đáng. Tại điểm c khoản 1 điều 3 BLHS quy định người chủ mưu cầm đầu, chỉ
huy cần phải nghiêm trị. Vì đây là những người đồng phạm có vai trò quan
trọng và nguy hiểm.
Trên thực tế có rất nhiều hình thức đồng phạm: Đồng phạm giản đơn;
đồng phạm phức tạp; đồng phạm có thông mưu trước; phạm tội có tổ chức.
Tuy nhiên trên địa bàn huyện Sơn Tây những vụ án có đồng phạm là đồng
phạm giản đơn cùng thực hành, hoặc có phân công vai trò nhưng cũng thuộc
giản đơn chứ không có sự cấu kết chặt chẽ như trường hợp phạm tội có tổ
chức. Mặt khác khi quyết định hình phạt cũng cần chú ý đến mức độ tham
gia, thái độ tham gia,…của từng người đồng phạm.
Ví dụ: Vụ án : Phạm Viết Hiệp cùng đồng bọn phạm tội trộm cắp đã nêu
ở phần định tội danh. HĐXX đã xác định vai trò, tính chất mức độ tham gia
của mỗi bị cáo, áp dụng những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ riêng cho từng bị
cáo. Vì vậy đã có hình phạt tương thích với hành vi của mỗi bị cáo.
Ví dụ 2:
Khoảng 19 giờ 30 ngày 16/8/2018 Đinh Văn Khô, sinh năm 1997 trú tại
thôn Huy Em, xã Sơn Mùa, huyện Sơn Tây cùng Đinh Văn Mỳ, sinh ngày
58
04/4/2003, Đinh Văn Tăng, sinh năm 2000 trú tại thôn Ra Nhua, xã Sơn Tân
cùng tụ tập, ăn nhậu tại nhà của Đinh Văn Trái, sinh năm 1994, trú tại thôn
Huy Em, xã Sơn Mùa. Trong khi đang ngồi nhậu, Đinh Văn Khô nảy sinh ý
định đi rút trộm xăng xe mô tô tại Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Sơn
Tây (gọi tắt Phòng TC-KH) để đổ vào xe mô tô của Đinh Văn Tăng đi chơi,
Khô rủ Mỳ cùng tham gia thì Mỳ đồng ý. Khô nói với Mỳ “đi mua không”,
Mỳ nói “đi thì đi” (“đi mua” là tiếng lóng, các đối tượng cùng ngầm hiểu với
nhau là đi trộm cắp tài sản). Sau đó, Khô đi tìm một số vỏ chai nhựa, loại chai
nước giải khát hiệu Chánh Thắng ở xung quanh nhà Trái rồi mượn xe mô tô
Biển kiểm soát (BKS) 76U1 – 007.62 của Đinh Văn Tăng chở Mỳ đi. Khi đến
ngã ba gần trụ sở Phòng TC-KH, Khô bảo Mỳ đứng ngoài trông xe, Khô một
mình trèo hàng rào đi đến hành lang phía bên trái Phòng TC – KH (từ ngoài
cổng vào). Tại đây, Khô thấy xe mô tô BKS 76B1 – 1147 (xe công vụ do
Phòng TC-KH quản lý) đang dựng ở hành lang. Khô đi tới dùng tay rút ống
dẫn xăng ra cho chảy vào được khoảng nửa lít xăng thì dừng lại. Lúc này,
Khô phát hiện cửa ra vào gần nơi để xe mô tô không khóa, nên nảy sinh ý
định đột nhập vào bên trong để trộm cắp tài sản. Khô mở cửa đi vào phòng
đầu tiên bên tay phải của mình (đây là phòng văn thư – lưu trữ). Khô quan sát
xung quanh nhưng không thấy có tài sản có thể lấy được nên đi qua phòng
khác. Khô đi đến phòng làm việc cạnh cửa chính của trụ sở Phòng TC-KH.
Khô mở cửa đi vào bên trong thấy có một số bàn ghế và nhiều tài liệu. Khô đi
đến ngồi vào 01 chiếc ghế dựa, cạnh 01 cái bàn làm việc phía góc bên trái của
phòng. Tiếp đó, Khô cúi người xuống, dùng tay mở cửa hộc bàn làm việc
(cửa tủ không khóa) rồi dùng tay mò vào trong lục lọi, tìm kiếm tài sản để lấy.
Khô sờ trúng một túi nilon, khi mở túi nilon này ra Khô cầm trúng một “sấp
giống như tiền” nên lấy ra khỏi hộc bàn xem. Nhờ có ánh đèn ngoài đường
chiếu vào, Khô nhìn thấy đó là một sấp tiền gồm nhiều tờ tiền Việt Nam, bằng
59
Polime có mệnh giá 20.000đ (Hai mươi ngàn đồng), Khô lấy sấp tiền này bỏ
vào túi quần dài trước. Khô tiếp tục thò tay vào túi nilon lấy ra các sấp tiền
khác có mệnh giá 10.000đ (Mười ngàn đồng), 50.000đ (Năm mươi ngàn
đồng), 100.000đ (Một trăm ngàn đồng) và tám tờ tiền VNĐ có mệnh giá
200.000đ (Hai trăm ngàn đồng). Toàn bộ số tiền này là tiền cá nhân của chị
Đinh Thị Yến. Mặc dù biết bên trong vẫn còn tiền nhưng Khô quyết định
không lấy nữa và bỏ toàn bộ số tiền lấy được vào túi quần và đi ra ngoài.
Khi thấy Khô ra, Mỳ hỏi “Cái gì đó, tiền hả?”, Khô trả lời “Ừ, về nhà thằng
Trái đi”. Khi về tại nhà Đinh Văn Trái, Khô rủ Mỳ và Đinh Văn Tăng cùng
xuống huyện Sơn Hà chơi thì Tăng và Mỳ đồng ý. Đinh Văn Tăng sử dụng xe
mô tô của mình chở Khô, Mỳ xuống tại nhà nghỉ Cô Mai tại TT. Di Lăng,
huyện Sơn Hà chơi. Tại đây, Khô đưa số tiền đã lấy được ra cùng Mỳ, Tăng
đếm được 12.400.000 đ (mười hai triệu bốn trăm ngàn đồng), Đinh Văn Tăng
dùng điện thoại của mình, chụp ảnh số tiền này và đăng lên mạng xã hội
Facebook. Số tiền này Khô đã cùng bạn bè ăn nhậu mua sắm hết.
Khoảng 20 giờ ngày 18/8/2018, Trong lúc ngồi nhậu tại nhà anh Gió,
Khô, Mỳ cùng bàn bạc về việc quay lại Trụ sở Phòng TC–KH huyện để trộm
cắp tài sản. Trên đường đi, Khô bàn bạc với Mỳ, khi đột nhập vào Phòng TC-
KH, phát hiện tiền hoặc tài sản khác có giá trị, có thể lấy thì đều lấy hết. Đến
nơi, Khô dựng xe bên ngoài đường, nhìn xung quanh không có người, Khô và
Mỳ trèo rào vào bên trong, Khô, Mỳ đi đến cửa sổ phía bên trái của tầng 1
(gần cửa chính), cùng nhau dùng tay giật mạnh cửa sổ này làm gãy chốt bên
trong, mở được cửa sổ và trèo vào bên trong. Tiếp đó, Khô, Mỳ đi đến phòng
làm việc, nơi lần trước Khô vào lấy tiền để tìm kiếm tài sản. Đinh Văn Mỳ đi
đến bàn làm việc ở vị trí đối diện với cửa phòng (Đây là bàn làm việc của chị
Huỳnh Thị Mỹ Châu, sinh năm 1984, là Kế toán trưởng Phòng TC-KH). Mỳ
dùng tay giật mạnh hộc cửa bàn làm việc, làm cửa bung ra, rồi dùng tay mò
60
vào bên trong lục tìm và lấy ra lần lượt hai sấp tiền VNĐ có mệnh giá
10.000đ (mười ngàn đồng), một sấp tiền VNĐ có mệnh giá 20.000đ (hai mươi
ngàn đồng). Mỳ bỏ toàn bộ số tiền lấy được vào túi quần. Lúc này, Khô đang
dùng tay mở cửa két sắt của Phòng TC-KH phía góc tường, cạnh vị trí nơi Mỳ
lấy tiền nhưng không mở được. Khô dùng tay bẻ mạnh, làm tay cầm cửa két
sắt bị gãy nên cả hai đi ra khỏi phòng, đóng cửa lại. Trên đường đi về, khi đến
đoạn đường gần cổng vào Ban chỉ huy quân sự huyện Sơn Tây, Mỳ lấy toàn
bộ số tiền đã lấy được, đưa cho Khô giữ. Sau đó, Khô rủ Mỳ, Tăng, Minh,
Nga đến Thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà chơi.
Trong quá trình điều tra bị can đã nhận thức được hành vi của mình là
sai trái, thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đây là căn
cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị can theo quy định tại điểm s khoản 1
Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, bị can đã có 02 lần thực hiện hành vi phạm tội
Trộm cắp tài sản, trong đó mỗi lần đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo
quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Do đó, bị can phải chịu tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội từ 02 lần trở lên” quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 52 BLHS. Ngoài ra, qua kết quả điều tra đã xác định: Sau khi
thực hiện hành vi phạm tội lần thứ nhất trót lọt, bị can tiếp tục nảy sinh ý định
thực hiện lần thứ hai, đồng thời rủ rê, lôi kéo Đinh Văn Mỳ cùng tham gia
phạm tội. Tại thời điểm cùng với Khô thực hiện hành vi trộm cắp này, Đinh
Văn Mỳ chưa đủ 18 tuổi. Vì vậy, bị can phải chịu tình tiết tăng nặng “Xúi dục
người dưới 18 tuổi phạm tội” theo quy định điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật
Hình sự. .
- Chị Đinh Thị Yến khai báo bị mất tổng số tiền 13.160.000 đ (Mười ba
triệu một trăm sáu mươi ngàn đồng). Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định
Đinh Văn Khô chỉ chiếm đoạt 12.400.000 đ (Mười hai triệu bốn trăm ngàn
đồng) trong hộc bàn của chị Yến. Chị Yến yêu cầu bị can phải bồi thường số
61
tiền bị can đã chiếm đoạt của chị Yến là 12.400.000 đ.
- Chị Huỳnh Thị Mỹ Châu khai nhận bị mất tổng số tiền 61.934.000 đ
(Sáu mươi mốt triệu chín trăm ba mươi bốn ngàn đồng). Trong quá trình điều
tra chỉ chứng minh được Đinh Văn Mỳ và Đinh Văn Khô chiếm đoạt
6.000.000 đ (Sáu triệu đồng) tại hộc bàn làm việc của chị Châu. Chị Châu yêu
cầu các đối tượng đã chiếm đoạt tiền của chị, phải có trách nhiệm hoàn trả lại
số tiền đã chiếm đoạt.
- Đối với Đinh Văn Mỳ sinh ngày 04/04/2003, tính đến thời điểm phạm
tội (tháng 8/2018), Mỳ chưa đủ 16 tuổi. Do đó căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 12 Bộ luật Hình sự Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự
(TNHS) đối với Đinh Văn Mỳ.
- Đối với Đinh Văn Tăng: Đinh Văn Tăng giao xe mô tô BKS 76U1 –
007.62 của mình cho Đinh Văn Khô và Đinh Văn Mỳ mượn. Sau đó, Khô,
Mỳ sử dụng để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản; bản thân Tăng có cùng
tham gia tiêu xài số tiền Khô, Mỳ trộm cắp được. Tuy nhiên, Tăng không biết
Khô, Mỳ mượn xe mô tô của mình để trộm cắp tài sản, không biết được số
tiền Khô, Mỳ có được là tiền trộm cắp. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập
xử lý.
- Đối với Đinh Văn Nga, Đinh Văn Minh và một số đối tượng khác cùng
tham gia ăn nhậu từ số tiền Đinh Văn Khô, Đinh Văn Mỳ đã trộm cắp được.
Tuy nhiên, Nga và Minh và những đối tượng này không biết về hành vi trộm
cắp của Khô, Mỳ nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Tại bản án sô 04/2019/HSST ngày 28/3/2019. HĐXX đã phân tích và áp
dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt đối với
bị cáo Khô, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều
52 BLHS; khoản 1 điều 173 BLHS để xử phạt bị cáo 14 tháng tù.
Ngoài ra bản án cũng xem xét đánh giá đối với những người đồng phạm
62
khác. Việc không truy cứu TNHS đối với Đinh Văn Mỳ là có cơ sở và đúng
pháp luật.
- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.
Đây là trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác
nhau, mỗi hành vi cấu thành một tội độc lập, được Tòa án đưa ra xét xử cùng
một lần. Quyết định hình phạt trong trường hợp này cần phải tuân theo quy
định của pháp luật. Tại điều 55 BLHS quy định: “ Khi xét xử cùng 01 lần một
người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng
hợp hình phạt theo quy định sau đây: 1. Đối với hình phạt chính:a) Nếu các
hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời
hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt
chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ,
30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn; b) Nếu các hình phạt đã tuyên là cải
tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được
chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ
được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều này; c) Nếu hình phạt nặng nhất trong số
các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung
thân;d) Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình
thì hình phạt chung là tử hình;đ) Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình
phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;e) Trục
xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác; 2. Đối với hình phạt bổ
sung: a) Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được
quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó;
riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình
phạt chung; b) Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án
63
phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.”
Trên thực tế hoạt động xét xử của Tòa án huyện Sơn Tây rất ít gặp
trường hợp này. Tuy nhiên HĐXX vẫn quyết định hình phạt đảm bảo đúng
theo quy định của pháp luật
Ví dụ: Bản án số 01/2010/HSST ngày 19/3/2010 của Tòa án nhân dân
huyện Sơn Tây, xét xử đối với Đinh Văn Thới và Lê Hùng Thiên về tội trộm
cắp tài sản và trốn khỏi nơi giam.
Tóm tắt nội dung: Lê Hùng Thiên và Đinh Văn Thới là những công dân
có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của mình. Nhưng vì lười nhác lao động, thích chơi bời lêu lỗng nên
đã đi vào con đường phạm tội, cả 2 đều đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản.
Năm 2007 Lê Hùng Thiên đã bị phạt 09 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản,
sau khi chấp hành xong hình phạt về địa phương thì ngày 21/9/2009 lại tiếp
tục phạm tội trộm cắp chiếc xe máy của anh Trương Đình Thanh. Đinh Văn
Thới cũng đã được đưa đi giáo dưỡng vì hành vi trộm cắp, sau khi chấp hành
xong thời gian giáo dưỡng trở về địa phương, Đinh Văn Thới tiếp tục phạm
tội trộm cắp và bị xử phạt 09 tháng tù giam. Trong thời gian Lê Hùng Thiên
bị tạm giam để điều tra về hành vi trộm cắp, Đinh Văn Thới bị tạm giam chờ
thi hành án về tội trộm cắp, thì ngày 24/10/2009 Đinh Văn Thới và Lê Hùng
Thiên đã dùng lưỡi Rìu đục phá tường phòng tạm giam số 01 nhà tạm giữ
thuộc công an huyện Sơn Tây để trốn khỏi nơi giam .Sau khi trốn khỏi nơi
giam ra ngoài, Đinh Văn Thới và Lê Hùng Thiên đã cùng nhau tiếp tục trộm
cắp 02 chiếc xe máy của Anh Nguyễn Thanh Hùng và Võ Thanh Chương và
sau đó Đinh Văn Thới cũng đã tiếp tục trộm cắp 02 chiếc xe máy của anh
Đinh Văn Riêu và Đinh Xuân Tuyên.
HĐXX đã áp dụng: khoản 1 điều 138; khoản 1 điểu 311; điểm p khoản 1
điều 46; điểm g khoản 1 điều 48 BLHS xử phạt Lê Hùng Thiên 18 tháng tù về
64
tội trộm cắp, 30 tháng tù về tội trốn khỏi nơi giam và căn cứ điều 50 BLHS
tổng hợp hình phạt chung là 4 năm tù. Áp dụng khoản 1 điều 138; khoản 1
điểu 311; điểm p khoản 1 điều 46; điểm g khoản 1 điều 48; điều 68, 69, 74,
BLHS xử phạt bị cáo Đinh Văn Thới 15 tháng tù về tội trộm cắp, 22 tháng tù
về tội trốn khỏi nơi giam, áp dụng điều 50 để tổng hợp hình phạt chung là 3
năm 01 tháng tù; và áp dụng điều 51 BLHS tổng hợp với phần hình phạt 05
tháng của bản án trước chưa chấp hành, buộc bị cáo phải chấp hình phạt
chung của 2 bản án là 03 năm 6 tháng tù.
Qua bản án trên cho thấy HĐXX đã vận dụng đầy đủ các quy định của
pháp luật trong việc quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt.
2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản
2.4.1. Về việc định tội danh
- Xác định giá trị tài sản
Như phân tích ở trên, trị giá của Tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc xác định một hành vi trộm cắp TS nào đó có phải là tội
phạm hay không, nếu phạm tội thì là thuộc trường hợp tặng nặng hay không.
Hiện nay việc xác định trị giá tài sản đang giao cho HĐ định giá TS trong tố
tụng hình sự, do UBND địa phương thành lập. Nhưng chưa có những quy
định cụ thể để ràng buộc trách nhiệm của các thành viên HĐ định giá, cũng
như những căn cứ khoa học cho việc xác định giá. Dẫn đến tùy tiện trong việc
xác định giá trị của tài sản bị chiếm đoạt, ảnh hưởng đến kết quả xử lý tội
phạm.
- Thời điểm hoàn thành( thời điểm chiếm đoạt được tài sản)
Việc xác định thời điểm được coi là đã chiếm đoạt được tài sản cũng rất
quan trọng trong việc định tội danh và áp dụng hình phạt. Vì nguyên tắc thì
tội phạm hoàn thành bao giờ cũng có hậu quả nguy hiểm hơn, chính sách xử
65
lý cũng phải nghiêm khắc hơn. Hiện nay chưa có văn bản nào quy định hoặc
hướng dẫn về vấn đề này. Theo khoa học pháp lý chỉ nêu chung chung: Tùy
vào loại tài sản và vị trí để tài sản mà thời điểm xác định chiếm đoạt được tài
sản có thể xác định khác nhau. Chính vì vậy mà có sự không thống nhất trong
quá trình áp dụng pháp luật.
Ví dụ: Đối vụ án Đinh Văn Khiết nêu trên. Bị cáo Khiết ôm thùng gỗ ra
khỏi nhà ( nơi cất giữ) để lục lấy tài sản, bị cáo chỉ thấy tiền và lấy, còn vàng
thì bị cáo không thấy và không lấy vẫn còn trong thùng gỗ. Vậy đối với cái
thùng gỗ thì tội phạm hoàn thành kể từ khi đem ra khỏi nhà, còn số vàng cũng
đã được bị cáo đem ra khỏi nhà, nhưng nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo,
bị cáo cũng không chiếm đoạt. Vậy số vàng đó có được coi là đã chiếm đoạt
được hay chưa để xác định giai đoạn phạm tội cho đúng.
- Đánh giá mặt chủ quan thông qua hành vi (MKQ)
Ý thức chủ quan của tội phạm, ngoài lời khai nhận tội của bị can, còn
phải được chứng minh thông qua các tình tiết thuộc mặt khách quan của tội
phạm. Tuy nhiên có nhiều vụ án các tình tiết khách quan không chứng minh
được ý thức chủ quan, dẫn đến khó xử lý.
Ví dụ: Vụ Đinh Văn Hậu, khi đi dự đám cưới về, Hậu vào chỗ để xe
Honda mở khóa và dắt một chiếc xe máy của anh Đinh Văn Trái cũng đi ăn
cưới cùng. Khi dắt xe ra Hậu mở khóa điện và điều kiển về nhà mình ngủ.
Sáng hôm sau anh Hậu báo công an và tìm phát hiện xe đang ở nhà của Hậu.
Hậu khai là tưởng xe của Hậu nên dắt nhầm. Ở vụ án này đã không đủ chứng
cứ chứng minh ý thức chiếm đoạt của Hậu nên hành vi của Hậu không xử lý
theo tội trộm cắp được.
2.4.2. Về áp dụng hình phạt
- Về áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
Theo quy định tại khoản 1 điều 173 BLHS thì có mức hình phạt là: Cải
66
tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Như vậy
người phạm tội có thể bị áp dụng một trong hai loại hình phạt là cải tạo không
giam giữ hoặc bị phạt tù. Tùy vào tính nguy hiểm của hành vi và nhân thân
của bị cáo mà HĐXX có thể quyết định áp dụng loại hình phạt nào cho đạt
được mục đích của hình phạt. Nhưng trên thực tế HĐXX vẫn thường không
áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ mà áp dụng hình phạt tù là chủ yếu.
Nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì hạ xuống dưới mức thấp nhất của hình
phạt tù là 3 hoặc 4 tháng tù. Sở dĩ như vậy vì hiện nay chưa có hướng dẫn
trong việc áp dụng hình phạt, mà điều luật thì quy định mức hình phạt quá
dài, hoặc trong điều luật quy định hình phạt gồm nhiều loại.
- Quyết định hình phạt khác nhẹ hơn
Tại khoản 1 điều138 BLHS năm 1999 thì có mức hình phạt là: Cải tạo
không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Hình phạt
cải tạo không giam giữ có tính chất ít nghiêm khắc hơn hình phạt tù. Trong
điều luật có quy định cả 2 loại hình phạt như khoản 1 điều 138 thì, mức thấp
nhất của khung hình phạt này là cải tạo không giam giữ. Nhưng trên thực tế
HĐXX áp dụng điều áp dụng điều 47 lại xử phạt bị cáo 4 tháng tù. Điều này
cũng là một vấn đề tranh cải trên địa bàn huyện Sơn Tây, cần được giải thích
hướng dẫn.
- Về cho hưởng án treo (theo điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 và
điều 65 BLHS năm 2015)
Luật hình sự quy định: “Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào
nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không
cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định
thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong
thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.”. Đây là điều
luật mang tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời để giảm bớt số
67
lượng người chấp hành án tại các cơ sở cải tại. Tuy nhiên trên thực tế vì nhiều
lý do, án treo đã bị lạm dụng một cách tùy tiện. Đồng thời Tòa án cũng có
những quy định hạn chế cho hưởng án treo. Điều này là vi phạm pháp luật,
ảnh hưởng đến quyền lợi của những người được hưởng án treo khi họ đủ điều
kiện theo luật định.
Kết luận Chương 2
Trong chương 2, tác giả đã đưa ra và phân tích những nội dung thuộc về
mặt lý luận trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt theo qui
định của pháp luật hình sự Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu thực trạng việc
áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại Tòa án nhân dân huyện
Sơn Tây - tỉnh Quảng Ngãi. Qua đó cho thấy thực tiễn hoạt động định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện
Sơn Tây đã được Tòa án (HĐXX) thực hiện tương đối tốt. Đã áp dụng đầy đủ
các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn
liên quan để định tội danh và quyết định hình phạt. Tỉ lệ án bị kháng cáo ít, án
kháng nghị không có; việc cải sửa của cấp phúc thẩm cũng ít. Tuy nhiên bên
cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập trong
việc định tội danh và áp dụng hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản. Những
tồn tại, bất cập, hạn chế này đã được thể hiện trong luận văn thông qua các vụ
án cụ thể. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó chủ yếu là do cách
nhận thức, hiểu các quy định của Pháp luật nói chung và pháp luật về tội trộm
cắp nói riêng chưa được thống nhất; hiểu sai tinh thần của điều luật, dẫn đến
việc áp dụng quy định của pháp luật để định tội danh và quyết định hình phạt
chưa chính xác. Do đó, đòi hỏi phải có những giải pháp để đảm bảo pháp luật
68
được áp dụng một cách thống nhất.
CHƯƠNG 3
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội trộm cắp tài sản
3.1.1. Yêu cầu của việc bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự
Quyền con người, hay còn gọi là nhân quyền, đó là những quyền tự
nhiên vốn có của một con người, là một giá trị cơ bản và quan trọng của nhân
loại. Từ khi sinh ra ai cũng đều có quyền con người. Chẳng hạn quyền được
sống, quyền được tự do đi lại, quyền bất khả xâm hại về sức khỏe, quyền
được sở hữu về tài sản hợp pháp,… Nhưng để bảo đảm quyền con người được
tôn trọng thì đòi hỏi phải có những quy định của pháp luật. Trước đây pháp
luật chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, quyền con người bị giới hạn
trong chừng mực nhất định. Ngày nay quyền con người đã được các quốc gia
trên thế giới tôn trọng và bảo vệ. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử
loài người, ở đâu quyền con người được tôn trọng càng nhiều thì ở đó thể hiện
sự dân chủ văn minh.
Ở Việt Nam, kể từ khi giành độc lập năm 1945, việc phổ biến và giáo
dục nhân quyền ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, khuyến khích.
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên
phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người đã
được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp
69
năm 2013.
Trong Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992, Ban Bí thư Trung ương
Đảng đã khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu
dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế
giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên
nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”.
Hiến pháp 2013 đã dành cả một chương (Chương II: Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) để quy định cụ thể và toàn diện hơn
các quyền của con người; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (từ Điều 14
đến Điều 49). Điều 14 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật”. Điều 16 quy định:1. Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật; 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều 20 quy định:1. Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối
xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.
Như vậy, Pháp luật là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực
hiện bảo vệ quyền con người. Chính vì vậy khi áp dụng pháp luật để định tội
danh hay áp dụng hình phạt chúng ta cần tôn trọng các quy định của pháp luật
về quyền con người, không nên tùy tiện xúc phạm hay tước bỏ các quyền
khác khi không bị pháp luật hạn chế. Mặt khác quyền sở hữu về tài sản hợp
70
pháp là một trong những quyền cơ bản của công dân, được pháp luật bảo hộ
cho nên chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ. Mọi hành vi phạm tội trộm cắp
phải được xử lý nghiêm minh.
3.1.2. Yêu cầu của việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân; Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng
pháp luật, do Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo; là nhà nước trong đó pháp
luật là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền đã được Đảng và nhà nước xem là
mục tiêu quan trọng trong công cuộc đổi mới. Đến nay hệ thống pháp luật đã
được hoàn thiện dần, đáp ứng những yêu cầu trước mắt;
Xuất phát từ yêu cầu này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải đảm
bảo áp dụng đúng pháp luật, trong đó có tội trộm cắp Tài sản. Muốn vậy thì
phải tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan CSĐT, VKSND, Tòa
án và một số cơ quan tiến hành tố tụng khác.
3.1.3. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp hình sự
Công cuộc cải cách tư pháp hình sự, là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm được ghi nhận trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo kết luận số 92/KL-TW
ngày 12/3/2104 : “Tuy nhiên, việc chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cải
cách tư pháp vẫn còn chậm, chưa theo đúng lộ trình của Chiến lược cải
cách tư pháp. Một số nhiệm vụ khi triển khai thực hiện có ý kiến khác nhau,
nhưng chưa được nghiên cứu, kết luận kịp thời. Việc nghiên cứu, xác định
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cơ chế phân bổ ngân sách và việc đổi
mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, chính sách
đãi ngộ đối với cán bộ của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp vẫn còn
71
chậm. Vẫn còn một số cán bộ tư pháp phẩm chất chính trị, ý thức trách
nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu
cầu. Tình trạng một bộ phận cán bộ tư pháp nhũng nhiễu, tiêu cực chưa
giảm, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào chất lượng hoạt động tư
pháp.”
Để khắc phục tình trạng này thì việc áp dụng pháp luật đúng của các cơ
quan có thẩm, các cá nhân có thẩm quyền là một yêu cầu cần thiết. Nhằm
cũng cố niềm tin của Nhân dân vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước nói chung và hệ thống pháp luật nói riêng.
3.1.4. Yêu cầu của hội nhập quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, vấn đề quan hệ quốc tế về
lĩnh vực tư pháp nói riêng là hết sức cần thiết. Vì đây là cơ sở để cơ quan thực
thi pháp luật các nước tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc truy tố,
xét xử các vụ án hình sự nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội
phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, trong đó có loại tội
trộm cắp tài sản; đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân mỗi nước. Đặc biệt là những năm gần đây, tình hình tội phạm có yếu tố
nước ngoài, xuyên quốc gia diễn biến phức tạp: mua bán người, giết người,
mua bán trái phép chất ma túy, tham nhũng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,... nên
số lượng các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của các nước gửi đến Việt
Nam thực hiện, cũng như yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của các cơ
quan tiến hành tố tụng Việt Nam gửi đi nước ngoài thực hiện ngày càng
nhiều. Đáng chú ý nổi lên một số yêu cầu liên quan đến tội phạm sử dụng
công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản; tài sản tham nhũng, trộm cắp thường
được các đối tượng tẩu tán ra nước ngoài, chuyển đổi hình thức sở hữu thành
nguồn gốc hợp... Vì vậy yêu cầu của việc áp dụng đúng pháp luật để giải
quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài, đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm
72
xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, triển khai và thực hiện có hiệu quả
các quy định mới về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự của Bộ luật hình sự
năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và các đạo luật tư pháp mới là điều cần
thiết trong thời đại ngày nay.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt
nam về tội trộm cắp tài sản
3.2.1. Tăng cường nhận thức đúng về áp dụng pháp luật
Định tội danh và quyết định hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật
của những con người cụ thể, là hoạt động thực tiễn, thông qua nhận thức, tư
duy của chủ thể áp dụng pháp luật. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và
PL về tội “Trộm cắp tài sản”sẽ tạo điều kiện cho hoạt động áp dụng PL được
thực hiện chính xác và có hiệu quả; đảm bảo tính thống nhất và tính pháp chế
trong việc áp dụng PL.
Tuy các BLHS của Việt Nam chưa đưa ra được khái niệm về tội “Trộm
cắp tài sản” nhưng thực tiễn cho thấy, chúng ta có thể nhận thức rõ được đâu
là tội “Trộm cắp tài sản”, các dấu hiệu đặc trưng của nó, để phân biệt với các
hành vi phạm tội khác. Bởi BLHS hiện hành đã cụ thể hóa cấu thành cơ bản,
cấu thành tăng nặng của tội “Trộm cắp tài sản”. Đòi hỏi các cơ quan tiến hành
tố tụng, những người tiến hành tố tụng phải có nhận thức chính xác, đầy đủ,
khách quan những quy định này thì mới đảm bảo tính thống nhất và công
bằng trong quá trình định áp dụng PL về tội “Trộm cắp tài sản”.
Muốn nhận thức đúng, đòi hỏi các chủ thể phải tăng cường học hỏi,
nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan.
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật
Tội trộm cắp tài sản đã được BLHS năm 2015 ( sửa đổi bổ sung năm
2017) . Nhưng qua thực tiễn áp dụng vẫn còn những bất cập vướng mắc nêu
trên, nhất là hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn, vẫn còn áp dụng hướng dẫn
73
tại TTLT số 02/2001. Một số tình tiết mới chưa có hướng dẫn. Mặt khác xu
hướng phát triển của xã hội ngày càng đi lên, các quan hệ xã hội mới cũng
theo đó phát sinh. Vì vậy, một trong những giải pháp thường xuyên và lâu dài
là phải tiến hành bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật,
bảo đảm các quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, dễ thực hiện. Hoàn thiện hệ
thống văn bản PL phòng, chống tội “Trộm cắp tài sản” cũng là nhu cầu bức
xúc để nhằm ngăn chặn và đẩy lùi loại tội phạm này, góp phần ổn định tình
hình trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ quyền con người.
Chính vì lẽ đó, học viên kiến nghị Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
cùng những cơ quan tiến hành tố tụng khác, trước hết sớm ban hành văn bản
hướng dẫn, giải thích đối với tội trộm cắp tài sản, vì một số nội dung mới của
điều luật chưa được giải thích, hướng dẫn thống nhất để áp dụng như: “gây
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; Tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật”.
Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu phần lý luận và thực tiển áp dụng pháp
luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sơn Tây. Tác giả luận văn
kiến nghị sửa đổi điều 173 BLHS như sau:
- Tại khoản 1 điều 173: Cần sửa đổi bổ sung điểm a như sau: “a) Đã bị
xử lý vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;”
Quy định như vậy mới đầy đủ vì xử lý vi phạm hành chính bao gồm cả xử lý
kỷ luật, xử phạt, hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.
- Tại khoản 2: Cần sửa như sau:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000
74
đồng mà thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; Có tính chất
chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm; Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
Hành hung để tẩu thoát;
c) Tài sản là bảo vật quốc gia;
- Tại khoản 3: Cần sữa như sau:
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07
năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 50.000.000đồng đến dưới
200.000.000 đồng mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm b
khoản 2 điều này;
c)Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
- Tại khoản 4: Cần sửa như sau:
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 điều
này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Quy định như vậy thì sẽ đảm bảo tính công bằng hơn. Bởi trị giá tài sản
bị chiếm đoạt là một căn cứ để xem xét, phân chia khung hình phạt và các
tình tiết như: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm;
Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; Hành hung để tẩu thoát; Cũng là một
trong những tình tiết xem xét tính nguy hiểm của hành vi để định khung tăng
75
nặng. Chính vì vậy nếu trị giá tài sản ít hơn mức định khung liền kề mà có
thêm một trong các tình tiết định khung thì phải áp dụng khung tăng nặng
bằng với trị giá tài sản định khung.
3.2.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản
Thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ đối với
công tác điều tra, truy tố , xét xử đối với các vụ án phức tạp, lựa chọn là án lệ
để bổ sung kiến thức kinh nghiệm cho đội ngủ cán bộ tư pháp . Nâng cao
trình độ và kinh nghiệm giải quyết đối với án trộm cắp tài sản..
Các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp cần quan tâm thường xuyên đến
việc đúc rút kinh nghiệm về các hoạt động nghiệp vụ thụ lý giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với tội phạm nói
chung trong đó có “Trộm cắp tài sản”. Hàng năm mỗi ngành phải tổ chức các
lớp tập huấn chuyên sâu về công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trên cơ sở tổng
kết, rút kinh nghiệm những ưu điểm và hạn chế trong thực tiễn công tác này
để rút ra những bài học kinh nghiệm để bỗi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ
ĐTV, KSV và TP.
3.2.4. Nâng cao khả năng, năng lực, trình độ, kỹ năng của cán bộ áp
dụng pháp luật (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát
viên), của Luật sư, giám định viên.
Nâng cao nghiệp vụ và khả năng nhận thức và kinh nghiệm của ĐTV,
KSV và TP trong việc áp dụng pháp luật nói chung và đối với tội trộm cắp nói
riêng là một đòi hỏi cần thiết. Nhất là đối với một huyện núi Sơn Tây, trình độ
và kinh nghiệm của đội ngủ ĐTV, KSV, TP vẫn còn hạn chế . Số lượng án
xảy ra hàng năm ít. Vì vậy cần phải tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng trong từng hoạt động điều tra, truy tố và xét
xử để đảm bảo mọi tội phạm đều phải được điều tra và xử lý kịp thời, nghiêm
76
minh, đúng quy định của PL.
Đi đôi với việc nâng cao trình độ năng lực thì cũng cần nâng cao bản
lĩnh nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm trong đấu tranh phòng chống tội phạm
của các cá nhân có thẩm quyền. Cần tiếp tục quán triệt việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
3.2.5. Nâng cao ý thức xã hội
Nâng cao nhận thức của người dân trong việc đấu tranh phòng chống tội
phạm trong đó có tội phạm “Trộm cắp tài sản” là một trong những điều kiện
quan trọng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, điều tra nhanh chóng xác
minh, tìm ra sự thật của vụ án, truy tố đúng người, đúng tội, tránh oan sai,
đồng thời, góp phần ngăn ngừa tội phạm trong xã hội.
Để nâng cao ý thức của mọi người dân thì: Công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục PL cần được thực hiện một cách bài bản, đồng bộ, bằng nhiều
hình thức, từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, trong đó, tuyên truyền giáo
dục PL trong nhà trường cần được quan tâm và thực hiện một cách nghiêm
túc, linh hoạt; đẩy mạnh tuyên truyền PL trên các phương tiện thông tin đại
chúng, lồng ghép trong các cuộc họp của tổ dân phố, các cuộc họp của chi bộ,
đoàn thể…tạo một phong trào nâng cao ý thức pháp luật và ý thức đấu tranh,
phòng chống tội phạm trong toàn dân. Mặt khác trong quá trình xét xử thì Tòa
án cũng nên tăng cường công tác xét xử lưu động, qua đó nêu cao tinh thần
cảnh giác của mọi người.
3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất cho cơ quan áp dụng pháp luật
Trên cơ sở định hướng chung về cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp
được các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đề cập là: Tăng cường cơ
sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan, cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp theo hướng hiện đại, không để lạc hậu hơn so với phương tiện hoạt động
của bọn tội phạm. Trong việc xây dựng, trang bị cần đón đầu, tiếp cận ngay
77
với những trang bị, phương tiện hiện đại trong điều kiện cho phép; BCA-
VKSND tối cao- TAND tối cao cần hoạch định những bước đi phù hợp để
bảo đảm cơ sở vật chất về trụ sở, trang thiết bị phục vụ hoạt động của của các
cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương, cụ thể là: Từng bước xây dựng đầy
đủ trụ sở làm việc đảm bảo khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi phục vụ tốt
cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; Trang bị đầy đủ các phương tiện làm
việc ĐTV, KSV và TP, đặc biệt là phương tiện phục vụ cho công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm như phương tiện đi lại, trang thiết bị kỹ thuật
phục vụ công tác như: Camera, máy ảnh, máy in, các dụng cụ bảo hộ, bồi
dưỡng độc hại...nhằm động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ tư
pháp; Từng bước áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của điều tra,
truy tố, xét xử.
Từ thực tiễn giải quyết các vụ án “Trộm cắp tài sản”trên địa bàn huyện
Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi cho thấy, diễn biến tình hình tội trộm cắp ngày
càng phức tạp, và táo bạo, tội phạm ngày càng sử dụng những phương thức,
thủ đoạn tinh vi,… Trong khi đó cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phục
vụ hỗ trợ công tác điều tra truy tố và xét xử; phục vụ việc xác minh, thu thập
chứng cứ, tài liệu…còn nhiều hạn chế và lạc hậu. Vì vậy tăng cường cơ sở vật
chất, thiết bị cho các cơ quan tiến hành tố tụng là điều cần thiết.
3.2.7. Tăng cường phối hợp trong hoạt động áp dụng pháp luật của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Mặc dù hiện nay các cơ quan tiến hành tố tụng đã có những quy chế phối
hợp liên ngành từ trung ương đến cơ sở trong việc điều tra, xét xử các vụ án
hình sự. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy, có một số trường hợp khi tiến hành
điều tra và xử lý các vụ án nói chung, án trộm cắp tài sản nói riêng, CQĐT
vẫn chưa thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp với VKSND, chẳng hạn: Không
nghiêm túc thực hiện các yêu cầu trong xử lý tố giác, tin báo về tội trộm cắp;
78
Có những vụ việc, CQĐT không tiến hành biện pháp như khám nghiệm hiện
trường hoặc có tổ chức khám nghiệm nhưng lại không thông báo cho VKSND
biết để thực hiện kiểm sát nên đã không đảm bảo thủ tục pháp lý; không thu
thập kịp thời các dấu vết, vật chứng,… Hoặc trong việc đánh giá chứng cứ
giữa VKS và Tòa án, nếu có sự không đồng nhất cần phải có cuộc họp bàn
bạc, trao đổi để đi đến thống nhất. Tránh quyền anh quyền tôi dẫn đến phải trả
điều tra bổ sung hoặc án oan sai.
Kết luận Chương 3
Từ những nội dung về lý luận và thực tiễn được phân tích, đánh giá ở
chương 1 và chương 2, trong phạm vi chương 3 này, tác giả đã đưa ra các yêu
cầu và giải pháp nhằm áp dụng đúng pháp luật về tội trộm cắp tài sản, nhằm
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Sơn
Tây nói riêng. Đồng thời, tác giả đưa ra một số đề xuất hoàn thiện quy định
của pháp luật hình sự, cũng như kiến nghị các giải pháp trước mắt nhằm áp
dụng pháp luật được thống nhất. Bảo đảm phán quyết của Tòa án đưa ra đúng
79
người, đúng tội, đúng pháp luật.
KẾT LUẬN
Qua thực tiễn nghiên cứu đề tài “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây - tỉnh Quảng Ngãi”, cho thấy :
Thứ nhất: Về quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản chưa rõ ràng,
chưa chặt chẽ, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chưa thống nhất, mặc dù hiện nay
đã được sửa đổi bổ sung, nhưng vẫn cần những văn bản giải thích.
Thứ hai: Về thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản vẫn
còn bộc lộ một số sơ hở, hạn chế đó là việc thu thập tài liệu, chứng cứ của
ĐTV đôi lúc còn chậm trễ, thiếu sót, chủ quan dẫn đến không đủ căn cứ buộc
tội; về trình độ nhận thức của cán bộ công chức của các cơ quan tố tụng chưa
đồng đều;
Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả đấu tranh đối với loại
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn chưa cao. Từ đó tác giả đã đưa ra những giải
pháp cũng như các kiến nghị sửa đổi bổ sung hoàn thiện các quy định của
pháp luật về tội trộm cắp tài sản. Nhằm góp phần đấu tranh có hiệu quả đối
80
với loại tội phạm này ./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự năm 2005.
2. Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Bộ luật hình sự năm 1985.
4. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
5. Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
6. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
7. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
8. Bộ tư pháp (1999), Số chuyên đề về luật hình sự của một số nước trên thế
giới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6.
9. Nguyễn Mai Bộ (2010), Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình
sự, tập III, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
11. Trần Mạnh Hà (2006), Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số dấu
hiệu đặc trưng, Tạp chí nghề luật, số 5/2006.
12. Nguyễn Ngọc Hòa - Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb
Tư Pháp.
13. Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành tội phạm - Lý luận và thực tiễn,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
14. Đinh Thế Hưng - Trần Văn Biên (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2009, - Viện Nhà nước và pháp luật - Chương XIV: Các tội xâm
phạm sở hữu, Nxb Lao động
15. Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm
2012 của Quốc hội.
16. Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm
phán - Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong
phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999.
17. Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật hình sự.
18. Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm
thời hạn chấp hành hình phạt.
19. Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật
hình sự về án treo.
20. Hồ Trọng Ngũ (2009), Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự
pháp nhân trong sửa đổi BLHS năm 1999, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
Hà Nội.
21. Cao Thị Oanh - chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
22. Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên), Bình luận Bộ luật hình sự
năm 2015, Nxb Lao Động, Hà Nội.
23. Cao Thị Oanh (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Pháp lệnh số 149-LCT ngày 21 tháng 10 năm 1970 trừng trị các tội xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.
25. Pháp lệnh số 150-LCT ngày 21 tháng 10 năm 1970 trừng trị các tội xâm
phạm tài sản riêng của công dân.
26. Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng 7 năm 2002 về việc
xử lý vi phạm hành chính.
27. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02 tháng 4 năm 2008 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
28. Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm - tập
2, Nxb TP.HCM.
29. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm, tập
II: Các tội xâm phạm sở hữu, NXB tổng hợp TP.Hồ Chí Minh.
30. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội;
31. Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 47 ngày 10 tháng 10 năm
1945.
32. Sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 12-SL ngày 12
tháng 3 năm 1948 phạt tội ăn cắp lấy trộm các vật dụng của nhà binh
trong thời bình và trong thời kỳ chiến tranh.
33. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân 83
tối cao - Bộ công an - Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(tập 2), Nxb Công an nhân dân.
35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
37. Trường Đại học Luật Nà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,
tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Trượng (2008), Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội
trộm cắp tài sản, Tạp chí TAND, số 3.
39. Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (phần các tội
phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội
phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
42. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Bảng 2.1: Bảng thống kê các vụ án về tội trộm cắp tài sản và các vụ án hình
sự khác được xét xử trong giai đoạn từ 1994 – 2018 trên địa bàn.
Tội Trộm cắp TS Tội hình sự khác Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
1994
1995 01 01
1996 02 02
1997 02 02
1998 03 05
1999 02 06 12 06
2000 01 04 08 01
2001 01 04 04 01
2002 02 04 08 01
2003 02 02 02 02
2004 01 03 06 01
2005 02 0 0 05
2006 02 05 09 04
2007 02 03 05 02
2008 02 05 07 06
2009 03 07 10 06
2010 05 11 16 07
2011 02 07 13 03
2012 09 18 35 13
2013 10 11 14 11
Tội Trộm cắp TS Tội hình sự khác Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
07 06 09 2014 04
03 10 10 2015 03
03 08 10 2016 02
04 07 06 2017 04
08 12 13 2018 07
Tổng cộng
Biểu đồ 2.2: Số vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sơn
Tây, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2013 – 2018.
Nguồn:VKSND, TAND Huyện Sơn Tây, Quảng Ngãi: Số liệu thống kê kết quả
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự từ năm 2013 đến năm 2018