VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÁ VINH

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÁ VINH

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. HỒ SỸ SƠN

Hà Nội, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự

hướng dẫn của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, kết quả trong luận văn là

trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

NGUYỄN BÁ VINH

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH

SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ......................................... 6

1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm cắp tài sản ............ 6

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản .......... 17

CHƯƠNG 2. ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI

TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH

QUẢNG NGÃI............................................................................................... 22

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Huyện Sơn

Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013-2018 ....................................................... 22

2.2. Định tội danh tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi . 23

2.3. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây,

tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 43

2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của Bộ

luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản .......................................................... 65

CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN ......................................................................................................... 69

3.1. Yêu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội

trộm cắp tài sản ............................................................................................... 69

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt nam về

tội trộm cắp tài sản .......................................................................................... 73

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản và các tội

phạm về chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi

giai đoạn 2013– 2018. ..................................................................................... 22

Bảng 2.2: Bảng thống kê về hình phạt tội Trộm cắp Tài sản được xét xử sơ

thẩm trong giai đoạn từ 2013 – 2018 trên địa bàn huyện Sơn Tây ................. 49

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi, được thành lập ( tách ra từ huyện Sơn

Hà) vào năm 1994, là một huyện miền núi phía tây của tỉnh Quảng Ngãi, với

địa hình sông núi cách trở, trình độ dân trí nghèo nàn lạc hậu, là một trong

những huyện có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn.

Những năm gần đây, được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư phát

triển kinh tế, nên đời sống của người dân ngày được nâng cao cả về vật chất

và tinh thần …

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của sự phát triển kinh tế- xã hội,

thì tình hình tội phạm cũng ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính chất

mức độ phức tạp, nguy hiểm ngày càng cao. Theo thống kê tình hình tội phạm

trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi. Những năm đầu mới tách

huyện ( từ 1994 đến ) Tội trộm cắp là không xảy ra, tình hình trật tự trị an

tương đối ổn định . Mọi nhà đều không có khóa cửa, xe máy, và các tài sản

khác hầu như không ai bị trộm cắp. Nhưng hiện nay tội trộm cắp trên địa bàn

ngày càng phổ biến và trở nên táo bạo, tinh vi, phức tạp. [bảng số 1]

Mặt khác trong quá trình áp dụng pháp luật Hình sự, để xử lý những

hành vi trộm cắp tài sản các cơ quan tố tụng nói riêng và một số cơ quan Nhà

nước khác vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất, dẫn đến hiệu quả pháp

luật chưa cao, còn tùy tiện khi áp dụng. Hơn nữa theo qui định của BLHS

năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, tội trộm cắp có một số qui định

mới chưa được giải thích kịp thời dẫn đến việc áp dụng chưa thống nhất.

Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Tội Trộm cắp tài sản theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi” sẽ góp phần

1

làm rõ thêm về lý luận, những hạn chế, vướng mắc trong quá trình định tội

danh và quyết định hình phạt đối với tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, trong

một chừng mực nhất định, việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần vào việc đề

xuất hoàn thiện các quy định của PL về tội “ Trộm cắp tài sản”, đồng thời

nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, phòng, chống tội

phạm trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Ngoài những giáo trình mang tính chính thống, thể hiện quan điểm của Đảng,

Nhà nước ta như: “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)”,

GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001; Trường

Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II)”, NXB.

CAND, Hà Nội, 2009; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập II)”, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2009; “Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 -

Phần các tội phạm)”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010. .. Thì còn có rất

nhiều các công trình nghiên cứu mang tính khoa học pháp lý như: Bình luận

khoa học “Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)” của GS.TS Võ Khánh

Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2014 ; các đề tài Luận văn Thạc sĩ như:

Luận văn thạc sĩ của Trương Quang Hưng;...

Những bài viết, những đề tài và các công trình nghiên cứu trên đã phân

tích làm rõ một số vấn đề về lý luận, cũng như sự hình thành các quy định về

tội trộm cắp tài sản trong PLHS Việt Nam qua các giai đoạn phát triển của đất

nước, kể từ khi nước ta giành được độc lập đến nay. Tuy nhiên, chưa có công

trình nghiên cứu chuyên sâu tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Sơn Tây -

tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “ Tội trộm cắp tài sản theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng

Ngãi” là cần thiết, thông qua quá trình nghiên cứu Luận văn này, tác giả đi sẽ

sâu tìm hiểu toàn diện về loại tội trộm cắp tài sản, kế thừa những nội dung đã

2

được tiếp cận từ các công trình nghiên cứu của các tác giả, học giả, các nhà

khoa học đi trước, kết hợp phân tích tình hình thực tế trên địa bàn để tìm ra

nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong việc áp dụng pháp luật hình sự

đối với loại tội phạm này, từ đó đưa ra những giải pháp, nhằm khắc phục và

áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn,

cũng như đưa ra những đề xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp

luật.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, các quy định của PLHS Việt

Nam, thực tiễn áp dụng quy định của Pháp luật hình sự về tội “ Trộm cắp tài

sản”( định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án) tại huyện Sơn Tây,

tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy

định của Pháp luật hình sự đối với tội “Trộm cắp tài sản” tại địa bàn nói trên.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm

vụ chính sau đây:

- Phân tích khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội “ trộm cắp tài sản”,

phân biệt tội này với một số tội phạm khác có dấu hiệu tương đối giống nhau.

- Phân tích nội dung của các quy định của Pháp luật Việt Nam về tội

trộm cắp tài sản.

- Phân tích thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội

trộm cắp tài sản ở huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

- Lập luận các yêu cầu và đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng

quy định của Pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây, tỉnh

3

Quảng Ngãi trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy các quan điểm khoa học đã được nêu ra trong khoa học luật

hình sự về tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng; các quy định

của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ phát triển về tội trộm cắp tài

sản; thực tiễn định tội danh và quyết định hình phát của Tòa án nhân dân

huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ 2013 đến 2018 để nghiên cứu các vấn đề

thuộc nôi dung nghiên cứu của đề tài.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố

tụng hình sự.

Các số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài được thu thập từ số liệu thống kê

của TAND tỉnh Quảng Ngãi và VKSND tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013 -

2018.

Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản

bao gồm nhiều nội dung. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ nầy, tác giả luận văn

chỉ nghiên cứu thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án

nhân dân huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian nói trên.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ

nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà

nước và Pháp luật, về quyền con người, về tội phạm và hình phạt, về đấu

tranh phòng ngừa và chống tội phạm, và về cải cách tư pháp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên sự kết hợp trong một tổng thể

4

các phương pháp nghiên cứu cụ thể như là: phương pháp phân tích, tổng hợp,

so sánh, thống kê, nghiên cứu án điền hình.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần nhận thức sâu sắc và thống nhất những vấn đề lý

luận về tội phạm, về hình phạt, về định tội danh và về quyết định hình phạt

đối với một tội cụ thể, nói ở đây là tội trộm cắp tài sản theo pháp luật Việt

nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Với kết quả nghiên cứu các khía cạnh lý luận, pháp luật và thực tiễn của

tội trộm cắp tài sản, Luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo cho các cấp cơ

quan có thẩm quyền sữa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về và có liên

quan đến tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra, Luận văn có thể được sử dụng làm tài

liệu tham khảo trong khởi tố điều tra, truy tố, xét xử tội trộm cắp tài sản và

trong nghiên cứu giảng dạy và học tập về Luật hình sự nói chung và về tội

trộm cắp tài sản nói riêng.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3

chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội

Trộm cắp tài sản

Chương 2: Áp dụng pháp luật hình sự Việt nam về tội Trộm cắp tài sản

tại huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật

5

hình sự về tội Trộm cắp tài sản.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội trộm cắp tài

sản

1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Hiện nay trong BLHS Việt Nam không quy định khái niệm tội trộm cắp

tài sản là gì. Nhưng để hiểu được khái niệm tội trộm cắp tài sản là gì thì

chúng ta phải phân tích và hiểu được cụm từ “ trộm cắp tài sản là gì”. Sau đó

mới phân tích khái niệm “tội trộm cắp tài sản là gì”.

Trộm cắp là một hành vi mà khi nói đến mọi người đều hiểu, còn được

gọi là ăn cắp, hay ăn trộm. Là một hành vi của một người hay nhóm người lén

lút, bí mật chiếm đoạt một vật gì đó của người khác. Đối tượng tác động có

thể là đồ vật hay không phải là vật như thông tin, dịch vụ... ví dụ là tiền,

vàng, là các công cụ phương tiện thì có thể gọi là trộm cắp tài sản; nếu đối

tượng không phải là tài sản như thông tin thì gọi là trộm thông tin (tin

tặc),..Trộm cắp tài sản thì đối tượng của hành vi trộm cắp phải là “Tài sản”.

Theo từ điển pháp luật hình sự: “Trộm cắp tài sản” là hành vi lén lút

chiếm đoạt tài sản của người khác quản lý [23, tr.283].

Chiếm đoạt, theo từ điển tiếng việt thì được hiểu là một động từ lấy của

người khác làm của mình, thủ đoạn có thể bằng vũ lực, quyền thế, hoặc thủ

đoạn khác. Có thể hiểu là sự tước đoạt quyền sở hữu của người khác làm của

mình.

Lén lút không phải là hành vi mà là thể hiện ý thức chủ quan của người

6

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, là cách thức, thủ đoạn thực hiện hành vi

chiếm đoạt. Có thể nói một cách khác: trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt

tài sản của người khác một cách lén lút.

Trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm hại

đến quan hệ sở hữu về tài sản giữa người với người trong xã hội. Tác hại của

nó ảnh hưởng không nhỏ đến tình tình trật tự trị an, kinh tế xã hội... Tùy theo

tính chất nguy hiểm của mỗi hành vi trộm cắp cụ thể và từng thời kỳ phát

triển, mà các quốc gia trên thế giới quy định là tội phạm cần phải bị trừng trị

và loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội.

Như vậy “ tội trộm cắp tài sản” là gì. Từ những phân tích trên tác giả có

Khái niệm tội trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén

lút chiếm đoạt trái phép tài sản đang do người khác quản lý được quy định

trong Bộ luật hình sự và bị xử lý hình sự”.

Bộ luật hình sự hiện hành quy định xử lý về tội trộm cắp tài sản tại điều

173.[5, tr.129]

1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản

1.1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản

- Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo

vệ và bị tội phạm xâm hại [37, tr.86].

Tội phạm trộm cắp tài sản chủ yếu xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản

của người khác và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội.

Điều luật quy định: “ Người nào trộm cắp tài sản của người khác…” ở đây

điều luật đã thể hiện quan hệ sở hữu về tài sản giữa người và người. Quyền sở

hữu về tài sản đã được Hiến pháp quy định tại điều 32 “quyền sở hữu tư

nhân… được nhà nước bảo hộ” và được luật hình sự bảo vệ.

Như vậy khách thể của tội trộm cắp tài sản là: Quyền sở hữu tài sản của

người khác, đây là khách thể trực tiếp và trật tự an toàn xã hội là khách thể

gián tiếp. Quyền sở hữu của người khác được hiểu là không phải của chính

7

mình, bao gồm sở hữu của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nhưng nếu

giao cho người khác quản lý mà sau đó lén lút đến chiếm đoạt thì có thể là

phạm tội trộm cắp tài sản. Quyền sở hữu tài sản phải là tài sản hợp pháp. Đối

với những tài sản không hợp pháp thì hành vi chiếm đoạt những tài sản đó

không phải là tội trộm cắp tài sản. Trên thực tế những trường hợp trộm cắp tài

sản đang do người khác quản lý một cách bất hợp pháp( ví dụ: tài sản phạm

tội mà có) vẫn có quan điểm cho là phạm tội trộm cắp. Đây là vấn đề đang

tranh cải cần có sự giải thích áp dụng thống nhất.

Quyền sở hữu tài sản bao gồm các quyền: Quyền chiếm hữu, quyền sử

dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.

[2, điều 158]

Nhưng nếu một hành vi chỉ xâm phạm đến một trong ba quyền trên của

chủ sở hữu, thì không phải là hành vi trộm cắp tài sản. Bởi bản thân từ trộm

cắp tài sản đã được khái niệm và hiểu là hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là

tước đoạt cả ba quyền trên của chủ sở hữu.

Để xâm phạm quyền sở hữu tài sản trong tội trộm cắp thì kẻ phạm tội

phải chiếm đoạt một tài sản nào đó . Tài sản nói ở tội trộm cắp là một khái

niệm chung, theo quy định của BLDS hiện hành tại điều 105 : “Tài sản là vật,

tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động

sản” [2, tr.62].

Nhưng không phải tất cả các loại tài sản quy định tại điều 105 BLDS

đều là đối tượng của tội trộm cắp. Tài sản của tội trộm cắp phải thể hiện dưới

dạng tiền hay đồ vật cụ thể có trị giá và giá trị sử dụng. Quyền tài sản, bất

động sản không thể là đối tượng của tội trộm cắp. Quyền tài sản không phải là

vật cụ thể nên người khác không thể cầm nắm được và bất động sản thì

không di chuyển dễ dàng được nên không thể lén lút chiếm đoạt, muốn chiếm

đoạt thì phải dùng thủ đoạn khác. Hay nói cách khác hành vi chiếm đoạt

quyền sở hữu hay bất động sản không phải là tội trộm cắp, mà là một loại tội

8

chiếm đoạt khác. Mặt khác cũng có một số loại tài sản có tính chất đặc biệt

nếu trộm cắp thì sẽ không xử lý về hành vi trộm cắp, ví dụ như vũ khí, ma

túy, đất đai, …

Đối với những tài sản là di vật, cổ vật, được quy định tại điểm đ khoản 1

điều 173 đây là qui định mới cần được hiểu một cách thống nhất, có thể hiểu

đó là vật mà có trị giá không lớn nhưng xét về giá trị tinh thần, giá trị văn hóa

thì vô giá đối với chủ sở hữu. Theo quy định tại điều 4 Luật di sản văn hóa

thì: “ Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa

học”; “ Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử,

văn hóa, khoa học, có từ trăm tuổi trở lên.”. Nhưng hiện nay các căn cứ để

xác định di vật, cổ vật chưa được hướng dẫn cụ thể.

1.1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm

bao gồm: Hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm

và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả [37, tr.99].

Đồng thời cả các biểu hiện bên ngoài khác của tội phạm như công cụ,

phương tiện phạm tội, thời gian, địa điểm,…

Hành vi khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người thực hiện

tội phạm thực hiện. Hành vi khách quan bị điều kiển chí phối bởi ý chí, nhận

thức của người thực hiện hành vi và thể hiện bằng hành động hoặc không

hành động. Bản chất của trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản của người

khác một cách lén lút, bí mật, cho nên hành vi khách quan là hành động chiếm

đoạt tài sản. “ Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản, nên người phạm tội chỉ

có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng

hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản

lý tài sản, không trông coi cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan

khác như chen lấn, xô đẩy nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm

9

đoạt mà người quản lý tài sản không biết” [14, tr.199].

Việc lén lút bí mật là nhằm mục đích che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản

của người phạm tội . Đây là dấu hiệu cơ bản và duy nhất để phân biệt tội trộm

cắp tài sản với những tội chiếm đoạt khác. Sự lén lút, bí mật không phải là

hành vi, mà là tính chất của hành vi chiếm đoạt trong tội trộm cắp tài sản,

cũng là ý thức chủ quan của người phạm tội, người phạm tội muốn che giấu

hành vi phạm tội của mình, không muốn chủ tài sản hay người quản lý tài sản

biết hành vi chiếm đoạt của mình. Thực tế cho thấy, khi người phạm tội thực

hiện hành vi trộm cắp tài sản, có thể thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác

nhau để che giấu hành vi như: Che giấu toàn bộ hành vi (lén lút khách quan);

ví dụ: Lợi dụng đêm tối lúc mọi người ngủ say, lẻn vào chiếm đoạt tài sản;

hoặc che giấu một phần hành vi, hoặc che giấu tính chất của hành vi nhưng lại

công khai với những người khác (lén lút chủ quan); ví dụ: Lợi dụng chủ nhà

đi vắng, kẻ phạm tội công khai đến cẩu những cây kiểng có giá trị mà những

người hàng xóm đều thấy.

Tài sản mà người thực hiện hành vi trộm cắp phải là tài sản đang nằm

trong sự quản lý của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý. Những

tài sản đã thoát khỏi sự quản lý của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm

quản lý thì người chiếm đoạt những tài sản đó không phải là tội trộm cắp. Ví

dụ: các trường hợp chiếm giữ tài sản bị thất lạc.

Về hậu quả trong tội trộm cắp.

Để chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội trộm cắp tài sản phải tác

động đến tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản. Tức là

đã lấy đi một loại tài sản nào đó, gây thiệt hại cho chủ sở hữu về giá trị vật

chất hoặc tinh thần nhất định. Đồng thời thiệt hại này phải là đáng kể, theo

BLHS hiện hành quy định thì, trị giá tài sản bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000

đồng trở lên mới cấu thành tội phạm; còn nếu tài sản bị chiếm đoạt có trị giá

dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo những điều kiện cụ thể chẳng hạn như:

10

a) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi

phạm; b) đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các

điều 168, 169,….

Tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất, cho nên khi hành vi phạm tội

thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý, như hậu quả, đạt được mục đính (

chiếm đoạt được TS ) thì tội phạm mới hoàn thành. Vì vậy tội phạm hoàn

thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Tuy nhiên, nếu người có

hành vi trộm cắp chưa chiếm đoạt được tài sản do khách quan, nằm ngoài ý

muốn chủ quan của họ thì vẫn cấu thành tội trộm cắp tài sản, nhưng ở giai

đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành hoặc chưa đạt đã hoàn thành. Ví dụ:

A đi ngang qua tiệm vàng nhìn thấy trong tủ chưng rất nhiều dây chuyền và

nhẫn màu vàng. Tối đến A lẽn vào cạy tủ lấy về đem bán thì mới biết vàng

giả. Như vậy A phạm tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã

hoàn thành.

Mặc khác tùy vào đặc điểm từng loại tài sản ( đối tượng) mà thời điểm

được xem là chiếm đoạt được tài sản là khác nhau. Nếu là vật nhỏ gọn nhẹ

như tiền, nhẫn vàng , đồng hồ đeo tay,.. thì chỉ cần lấy ra khỏi vị trí ban đầu

thì xem như đã chiếm đoạt được. Ví dụ: A vào nhà B thấy chiếc đồng hồ đeo

tay của B đang để trên bàn, lợi dụng lúc B không để ý, A lấy bọc túi. Nếu là

vật cồng kềnh như xe máy, máy tính, quạt điện,.. thì phải dịch chuyển ra khỏi

khu vực quản lý của chủ sở hữu như ra khỏi nhà, xưởng, công ty,..

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

Đòi hỏi giữa hành vi phạm tội và hậu quả thiệt hại phải có mối quan hệ

nhân quả. Hành vi trộm cắp là nguyên nhân, là cái gây ra hậu quả ( hậu quả là

thiệt hại về vật chất như mất tài sản, hoặc thiệt hại về tinh thần). Theo đó,

hành vi trộm cắp phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; Hậu quả mất tài

sản là do hành vi trộm cắp. Nếu giữa hành vi và hậu quả không có mối quan

hệ nhân quả thì không xác định được tội phạm. Ví dụ: Kẻ phạm tội A vào nhà

11

của một người, thực hiện một hành vi trộm cắp một tài sản (tiền), nhưng chủ

nhà xác định mất tài sản là xe máy không phải do hành vi trộm cắp của A. thì

không thể kết luận A trộm cắp xe máy.

1.1.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Trước tiên, cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội

“Trộm cắp TS”cũng phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như đủ độ tuổi chịu

trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định.

Điều 12 BLHS năm 2015 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu

trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có

quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm

hình sự về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một

trong các điều 123, 134, … của Bộ luật này [5, tr.14].

Như vậy chủ thể của tội trộm cắp tài sản phải đảm bảo các dấu hiệu sau:

Thứ nhất, về độ tuổi phải là từ đủ 16 tuổi trở lên, nếu người từ đủ 14 tuổi

trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ là chủ thể của tội trộm cắp tài sản quy định

tại các khoản 3 và 4 Điều 173 BLHS”. Thứ 2, phải có đủ năng lực trách

nhiệm hình sự.

Pháp nhân không phải là chủ thể của tội trộm cắp tài sản. Pháp nhân chỉ

chịu TNHS các điều quy định tại điều 76 BLHS.

1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản

Theo pháp luật hình sự Việt Nam mặt chủ quan của tội phạm đó là

những diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội như ý chí, nhận thức,

mong muốn,… được thể hiện qua các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.

Trong đó lỗi là một yếu tố quan trọng, bắt buộc trong bất kỳ cấu thành tội

phạm nào. Nếu không có lỗi thì không cấu thành tội phạm.

Lỗi được hiểu là thái độ tâm lý bên trong của chủ thể (con người) đối với

hành vi của mình đã gây ra và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu

hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trong cấu thành tội “ Trộm cắp Tài

12

sản”theo Điều 173 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Trong mặt chủ quan

thì lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp và là yếu tố bắt buộc, không có

trường hợp vô ý trộm cắp hay trộm cắp với lỗi cố ý gián tiếp. Về mặt lý trí

người phạm tội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của

mình, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và về ý chí thì họ mong muốn

hậu quả xảy ra. Tức mong muốn lấy được tài sản. Còn nếu họ vô ý cầm nhầm

hoặc sử dụng nhầm tài sản của người khác thì không phải trộm cắp .

Mục đích được hiểu là cái đích hướng đến của hành vi. Mục đích của tội

phạm trộm cắp là chiếm tài sản của người khác [9, tr.314]; là kết quả trong ý

thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi

phạm tội.

Trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì trong đầu người phạm

tội đã xuất hiện mục đích chiếm đoạt tài sản. Do vậy, có thể khẳng định mục

đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của tội trộm cắp tài sản. Tuy

nhiên, cùng với mục đích chiếm đoạt thì người phạm tội còn có thể có những

mục đích khác như, làm cho họ bị trở ngại, khó khăn,… nếu mục đích đó

không cấu thành một tội phạm độc lập khác thì người phạm tội cũng chỉ bị

truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. Ví dụ trộm cắp các thiết

bị quan trọng nhằm phá hoại các công trình an ninh quốc gia. Thì có thể bị xử

lý về tội phá hoại cơ sở vật chất- kỷ thuật của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam.

Động cơ phạm tội đó là cái thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi

phạm tội. Động cơ phạm tội chỉ có ở những loại tội được thực hiện bởi lỗi cố

ý, nó có thể là dấu hiệu bắt buộc của một số loại tội. Trong tội trộm cắp động

cơ có thể là lòng tham, là vụ lợi (là chủ yếu), có thể là để trả thù cho bỏ

ghét,... Động cơ không phải là yếu tố bắt buộc của tội trộm cắp.

1.1.2.5. Dấu hiệu về hình phạt của tội trộm cắp tài sản

Tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có

13

quy định hình phạt cho tội trộm cắp tài sản, mức hình phạt được sắp xếp từ

nhẹ đến nặng, tùy theo tính chất nguy hiểm của hành vi và được chia thành 4

mức, tương ứng với 4 khung hình phạt chính. Ngoài ra người phạm tội còn có

thể bị áp dụng thêm hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 của điều luật. Cụ

thể như sau:

Khung 1: Có mức hình phạt : bị cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc

bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Khung 2: Có hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù;

Khung 3: Có hình phạt từ 7 đến 15 năm tù;

Khung 4: Có hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù;

Khoản 5 của điều luật qui định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ

5.000.000đồng đến 50.000.000đồng.

1.1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội khác

1.1.3.1. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài

sản

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 172 BLHS

năm 2015. Đó là hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người

khác bằng cách công khai, trước mắt người quản lý tài sản, người phạm tội lợi

dụng hoàn cảnh khó khăn của người khác trong việc quản lý tài sản hoặc lợi

dụng trong tình trạng họ không có điều kiện để tự bảo vệ tài sản mà chiếm

đoạt tài sản của họ, không dùng bất kỳ thủ đoạn nào khác như: Dùng vũ lực,

Uy hiếp tinh thần…Người bị hại hoàn toàn xác định được người phạm tội.

Còn ở tội trộm cắp tài sản thì hành vi khách quan chiếm đoạt một cách lén lút,

bí mật, che giấu không để chủ quản lý TS biết có hành vi chiếm đoạt.

1.1.3.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp giật tài sản

Tội cướp giật tài sản được quy định tại điều 171 BLHS năm 2015. Đó là

hành vi chiếm đoạt tài sản, mà người phạm tội thực hiện một cách công khai,

nhanh chóng chiếm đoạt tài sản (giật) của người khác rồi nhanh chóng tẩu

14

thoát. Về khách thể thì tội cướp giật tài sản ngoài xâm phạm quan hệ sở hữu

về tài sản còn xâm phạm quan hệ nhân thân, như gây tổn hại đến sức khỏe

hoặc tính mạng của người quản lý tài sản. Ví dụ: Giật tài sản của những người

đi xe máy, làm họ ngã xuống đường dẫn đến thương tích hoặc chết.. Hơn nữa,

trong tội trộm cắp tài sản thì trị giá tài sản tối thiểu được quy định trong

CTTP để làm cơ sở truy cứu TNHS, còn ở tội cướp giật tài sản thì không quy

định giá trị tài sản tối thiểu, mà chỉ quy định hành vi “ người nào cướp giật tài

sản của người khác..” tức chỉ cần có hành vi cướp giật là phạm tội.

1.1.3.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản

Về mặt khách quan của tội Lạm dụng tín nhiệm là là vay, mượn, thuê tài

sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức

hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó

hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình

không trả; hoặc vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài

sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào

mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. [5, Điều

175]. Còn đối với tội trộm cắp tài sản thì người thực hiện hành vi phạm tội

một cách lén lút để chiếm đoạt tài sản, tức chiếm đoạt tài sản mà chủ sở hữu

không hề biết ;

1.1.3.4. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng trái phép tài sản

Về khách thể là xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, nhưng ở mặt

khách quan của tội phạm sử dụng trái phép tài sản của người khác là thể hiện

hành vi sử dụng trái phép tài sản, như khai thác công dụng của tài sản, hưởng

hoa lợi, lợi tức từ tài sản của người khác một cách trái phép. Về mặt khách

quan cũng có thể là lén lút, ví dụ sử dụng trái phép công quỹ,.. nhưng ý thức

chủ quan là không có ý thức chiếm đoạt tài sản. Đây là dấu hiệu cơ bản để

15

phân biệt.

1.1.3.5. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo, chủ yếu dựa vào thủ đoạn

gian dối, làm cho chủ tài sản tưởng giả là thật giao tài sản cho người phạm tội.

Có một số trường hợp cũng có hành vi lén lút nhưng không giữ vai trò quyết

định trong việc chiếm đoạt. Ví dụ: A vào tiện vàng, giả vờ mua vàng, yêu cầu

cho xem vàng sau đó lén lút tráo vàng giả, chiếm đoạt vàng thật mà người chủ

không biết. Hành vi này là lừa đảo chứ không phải là trộm cắp. Bởi hành vi

quyết định việc chiếm đoạt được vàng thật ở đây là người phạm tội đã gian

dối nói là mua vàng và sử dụng vàng giả để tráo vàng thật rồi chiếm đoạt.

Cũng có lập luận cho rằng đó là hành vi trộm cắp. Vì hành vi lén lút tráo vàng

để chiếm đoạt là quyết định, số vàng giả là che đậy hành vi trộm cắp.

1.1.3.6. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cướp tài sản.

Như đã nói ở trên dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là hành vi

chiếm đoạt một cách lén lút, người phạm tội chỉ lợi dụng sự sơ hở của người

quản lý tài sản để chiếm đoạt ( lấy cắp); Còn tội cướp tài sản, người phạm tội

có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có

những hành vi khác làm cho người bị hại mất khả năng kháng cự để chiếm

đoạt tài sản, chẳng hạn dùng thuốc mê,... Khách thể của tội cướp tài sản ngoài

việc xâm hại đến quyền sở hữu tài sản còn xâm hại đến sức khỏe, tính mạng

của nạn nhân.

1.1.3.7. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực

hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290) khác với tội trộm cắp tài sản chủ

yếu ở một số dấu hiệu sau đây:

Thứ nhất: Về khách thể của tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, ngoài xâm phạm đến

16

tài sản của người khác còn xâm phạm đến chế độ quản lý an ninh mạng;

Thứ hai: Về mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau: Người

phạm tội có hành vi sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ Ngân hàng của các cá

nhân, tổ chức, hoặc làm giả thẻ ngân hàng để chiếm đoạt tiền của chủ thẻ

hoặc thanh toán các hóa đơn hàng hóa, dịch vụ qua thẻ; Hoặc có hành vi sử

dụng các thiết bị điện tử truy cập trái phép vào tài khoản của các cá nhân, cơ

quan để chiếm đoạt; Về đối tượng tác động, không tác động trực tiếp đến tài

sản, không có hành vi dịch chuyển tài sản như ở tội trộm cắp tài sản.

Tóm lại để phân biệt được tội trộm cắp tài sản với các loại tội khác

chúng ta cần chú ý phân biệt được người phạm tội dùng phương thức, thủ

đoạn nào để chiếm đoạt. Đối với tội trộm cắp thì chiếm đoạt một cách lén lút,

tội cướp thì dùng vũ lực hoặc đeo dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt, tội lừa đảo

thì dùng thủ đoạn gian dối đưa ra các thông tin giả làm cho chủ tài sản giao tài

sản rồi chiếm đoạt,...

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản

1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản

từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Để bảo vệ thành quả của cách mạng

và duy trì sự ổn định xã hội, Nhà nước ta đã phải ban hành nhiều văn bản

pháp luật để quản lý xã hội, trong đó có văn bản pháp luật quy định xử lý tội

phạm, có các quy định về tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài

sản nói riêng như: Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí

Minh ký cho phép tạm thời giữ lại các luật, lệ tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ

cho đến khi ban hành các VBPL thống nhất trong toàn quốc; Sắc lệnh số 12-

SL ngày 12/3/1948 quy định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh

trong thời bình và thời kỳ chiến tranh; Thông tư số 11 - BK ngày 14/12/1949

của Liên Bộ nội vụ, Quốc phòng, Tư pháp ấn định phương pháp đối phó với

các vụ trộm cắp tại nơi có chiến sự; Nghị định số 32 - NĐ ngày 06/4/1952 của

17

Bộ tư pháp quy định đường lối xét xử các tội trộm cắp, lừa đảo, biển thủ tài

sản. Sau đó ngày 21/10/1970, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp

lệnh số 149-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh số

150-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Theo đó

tội trộm cắp tài sản được phân biệt và được quy định ở 2 pháp lệnh 149 và

150. Đồng thời trong 2 điều luật cũng đã quy định cụ thể các tình tiết định

khung trong điều luật, có các khung hình phạt tương ứng với tính chất, mức

độ nguy hiểm của mỗi hành vi phạm tội.

1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 về tội trộm

cắp tài sản

Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ 9, thông

qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1986 (BLHS năm

1985) . Đây là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta quy định tất cả các

hành vi nguy hiểm cho xã hội lúc bấy giờ, đồng thời thể hiện quan điểm của

Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm. Bộ luật hình sự năm 1985 đã

góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân. Tội trộm cắp tài sản được quy định bao gồm hai điều luật

độc lập, trong đó điều 132 quy định về tội trộm cắp tài sản XHCN và điều 155

quy định về tội trộm cắp tài sản của công dân. Điều 132 có ba khoản với mức

hình phạt khác nhau, khoản 1 có mức hình phạt thấp nhất là “phạt cải tạo

không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”;

khoản 3 có mức hình phạt cao nhất là “tù chung thân hoặc tử hình”. Điều 155

quy định về tội trộm cắp tài sản của công dân cũng chia thành ba khoản,

khoản 1 là “phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba

tháng đến ba năm” và khung hình phạt cao nhất ở khoản 3 là “phạt tù từ bảy

năm đến hai mươi năm”. Như vậy, trong giai đoạn này, tội trộm cắp tài sản

vẫn được chia thành 2 điều luật và có hình phạt khác nhau. Đối với trộm cắp

18

tài sản XHCN thì được xem là nghiêm trọng hơn và có mức hình phạt nghiêm

khắc hơn. Tuy nhiên cả 2 điều luật đều không quy định giá trị tài sản tối thiểu

để làm cơ sở truy cứu TNHS.

BLHS năm 1985 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển trong kỹ thuật

lập pháp, tuy nhiên quá trình phát triển của xã hội nó đã trở nên lạc hậu, mặc

dù đã trải qua bốn lần sửa đổi, bổ sung (vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997)

nhưng những lần sửa đổi, bổ sung này chủ yếu nhằm phục vụ cho cuộc đấu

tranh đối với một số loại tội phạm mới nhất định, và sau các lần sửa đổi, bổ

sung đó thì BLHS đã không còn là một chỉnh thể thống nhất.

1.2.3. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi bổ

sung năm 2009) về tội trộm cắp tài sản

Bộ luật hình sự năm 1999 được thông qua ngày 21/12/1999 tại kỳ họp

thứ 6, Quốc hội khóa X và có hiệu lực từ ngày 01/7/2000 . Theo đó tội trộm

cắp tài sản được quy định tại điều 138, không phân biệt là tài sản XHCN hay

công dân như trước đây. Thể hiện quan điểm của Đảng ta đã có một sự nhìn

nhận khách quan hơn về sự bình đẳng của các thành phần sở hữu trong các

mối quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng. Đồng

thời đã giải quyết được những bất cập khi xử lý một hành vi duy nhất nhưng

tài sản bị xâm hại bao gồm nhiều hình thức sở hữu hoặc việc xác định hình

thức sở hữu để định tội danh theo khách thể (Sở hữu XHCN hay sở hữu công

dân)... gặp rất nhiều khó khăn trong thực tế. Mặt khác điều luật đã quy định

mức giá trị tối thiểu của tài sản bị chiếm đoạt để làm cơ sở cho việc xác định

tội phạm và định khung hình phạt cho thống nhất. Đến ngày 19/6/2009 Quốc

hội đã ban hành Nghị quyết số 32/2009/QH12 về việc thi hành luật sửa đổi bổ

sung một số điều của BLHS thì tội trộm cắp tài sản vẫn được giữ nguyên là 5

khoản, trong đó khoản 2 đến khoản 4 là định khung tăng nặng và khoản 5 là

hình phạt bổ sung . Nhưng trị giá tài sản bị chiếm đoạt được nâng lên từ “năm

trăm nghìn đồng” thành “hai triệu đồng”. Những hành vi trộm cắp tài sản có

19

trị giá dưới hai triệu đồng không coi là tội phạm nữa. Đây là việc phi tội phạm

hóa của nhà nước ta, điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã

hội, nhằm giảm đáng kể một số lượng những vụ án trộm cắp có giá trị không

lớn.

1.2.4. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2017)

Ngày 27/11/2015, QH khóa XIII và ngày 20/6/2017 QH khóa XIV của

nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam đã thông qua BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung

2017) thay thế cho BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), có hiệu lực thi hành

kể từ ngày 01.01.2018. Trong đó, tội “ Tội trộm cắp tài sản” được quy định

tại điều 173 và đã có thay đổi bổ sung chi tiết hơn về định lượng so với trước.

Theo đó, so với điều 138 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), Điều luật

này đã sửa đổi, bổ sung một số điểm sau:

- Tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) đã quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn các căn cứ định tội trong trường

hợp tài sản bị chiếm đoạt có trị giá dưới hai triệu đồng. Bao gồm: “đã bị xử

phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”; “đã

bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169,

170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà

còn vi phạm”; “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; “tài

sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” ; “tài sản

là di vật, cổ vật”.

- Tại khoản 2 Điều 173 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” và

thay bằng tình tiết “tài sản là bảo vật quốc gia” .

- Tại Khoản 3 Điều 173 BLHS 2015 đã bỏ tình tiết định khung tăng nặng

“gây hậu quả rất nghiêm trọng” thay bằng tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”.

- Tại Khoản 4 Điều 173 đã bỏ tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng” thay bằng tình tiết “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn

20

cấp”.

Tuy nhiên các tình tiết mới được bổ sung trong điều luật đến nay cũng

chưa có văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể . Về hình phạt thì đã bỏ hình phạt

tù chung thân.

Kết luận Chương 1

Trước tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu ngày một gia tăng, trong

đó có tội trộm cắp tài sản đang có tính phổ biến cao, xu hướng ngày càng tinh

vi, táo bạo và nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an

toàn xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây

hoang mang trong đời sống xã hội. Để nhận biết rõ hơn về tội trộm cắp tài sản

thì trong phạm vi Chương 1, tác giả đã đưa ra và phân tích những vấn đề lý

luận và các quy định của pháp luật Việt nam về tội trộm cắp tài sản như: phân

tích các dấu hiệu pháp lý trong các quy định của pháp luật Việt Nam về tội

trộm cắp tài sản và tác giả đã xây dựng khái niệm về tội trộm cắp tài sản. Bên

cạnh đó, phân tích về lịch sử hình thành các quy định của pháp luật liên quan

đến tội phạm trộm cắp tài sản trong quá trình phát triển của đất nước trong

giai đoạn từ 1945 đến nay. Quá đó giúp cho người đọc nắm chắc được những

quy định của pháp luật Việt Nam về tội trộm cắp tài sản, đồng thời cho thấy

sự phát triển từng bước trong quá trình lập pháp từ tư duy nhận thức đến kỷ

thuật xây dựng văn bản của các nhà làm luật, của khoa học pháp lý nói chung,

cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước ta qua từng thời kỳ. Đồng thời

cũng thấy được sự phát triển của đất nước qua các quan hệ xã hội mà pháp

21

luật đã điều chỉnh.

CHƯƠNG 2

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM

CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH

QUẢNG NGÃI

2.1. Khái quát tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn

Huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2013-2018

Bảng 2.1. Thống kê các vụ án hình sự về tội trộm cắp tài sản và các tội phạm về

chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn

2013– 2018

Tội Trộm cắp TS Tội chiếm đoạt khác Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

0 0 2013 10 11

1 1 2014 04 07

3 3 2015 03 03

2 2 2016 02 03

2 2 2017 04 04

0 0 2018 07 08

TC 30 36

Nguồn: VKSND, TAND Huyện Sơn Tây, Quảng Ngãi: Số liệu thống kê kết

quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự từ năm 2013 đến năm 2018

Huyện Sơn Tây là một huyện có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn của

tỉnh Quảng Ngãi. Sau khi được tái thành lập vào năm 1994, cùng với các cơ

quan Hành chính thì, hệ thống các cơ quan Tư pháp cũng được thành lập. Do

là một huyện miền núi có địa hình hiểm trở, đường xá giao thông những năm

22

đầu chưa được đầu tư, trình độ dân trí thấp, văn hóa còn lạc hậu. Song

những năm đầu tình hình an ninh tương đối ổn định, căn cứ theo số liệu thống

kê cho thấy:

- Từ 1994 đến 1998: Mỗi năm chỉ xảy ra 1-2 vụ án, không có tội trộm

cắp tài sản.

- Từ 1999 đến 2009: Tội phạm bắt đầu gia tăng về số lượng; trong đó tội

trộm cắp cũng xuất hiện mỗi năm 1-2 vụ.

- Từ năm 2010 trở đi, số vụ phạm pháp hình sự, cũng như tội trộm cắp

tài sản xảy ra nhiều hơn, tính chất ngày càng tinh vi táo bạo hơn, chiếm tỉ lệ

trên 50% trên tổng số án Tòa án đã giải quyết.

Nguyên nhân: Do Từ năm 2010, được sự quan tâm đầu tư phát triển của

Đảng và Nhà nước, các công trình nhất là Thủy điện ( hiện nay trên địa bàn

đã có 4 công trình thủy điện) thu hút một lượng công nhân các nơi đến; Theo

đó các nhà hàng, dịch vụ cũng phát triển và các tệ nạn xã hội đã lôi kéo

thanh niên vào còn đường thích ăn chơi, lười nhác lao động dẫn đến phạm tội

trộm cắp. Về cơ cấu tổ chức bộ máy và cán bộ của các cơ quan tư pháp trên

địa bàn, những năm đầu cũng thiếu biên chế; hầu hết là những cán bộ trẻ mới

ra trường được điều động lên công tác nên trình độ và kinh nghiệm công tác

cũng chưa cao. Chính vì vậy việc áp dụng pháp luật nói chung và đối với tội

trộm cắp nói riêng còn có những thiếu sót. Bên cạnh đó do các quy định trong

điều luật, cũng như các văn bản hướng dẫn giải thích luật còn chưa rõ ràng

dẫn đến có những quan điểm khác nhau, gây khó khăn trong quá trình áp

dụng pháp luật để xử lý đấu tranh với tội phạm trên địa bàn.

2.2. Định tội danh tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây, tỉnh

Quảng Ngãi

2.2.1. Khái quát lý luận định tội danh

Tội phạm là một hiện tượng xã hội, là một sự kiện tiêu cực của xã hội và

23

nó có các dấu hiệu của nó để phân biệt, nhận biết. Theo xã hội học tội phạm

thì có 3 nhóm dấu hiệu, đó là: Thứ nhất: Dấu hiệu về khách thể- dấu hiệu vất

chất quan trọng của tội phạm, là những quan hệ xã hội thống trị trong xã hội (

các giá trị, các lợi ích) được bảo vệ; Thứ hai, là phương thức đặc trưng của sự

xâm hại đến quan hệ xã hội đã được hình thành, là các hành vi nguy hiểm cho

xã hội xâm hại đến các quan hệ xã hội; thứ ba là dấu hiệu các đặc điểm của

chủ thể của các hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Trong quá trình xây dựng các quy định luật hình sự, thì nhà làm luật(

Nhà nước) đã dựa vào các dấu hiệu của nó để phân chia thành các loại tội

danh tương ứng để có các biện pháp chế tài thích ứng với tính chất nguy hiểm

của mỗi hành vi. Trong khoa học pháp lý đã đưa ra một khái niệm đó là cấu

thành tội phạm (CTTP) là tổng hợp( hệ thống) những dấu hiệu khách quan và

chủ quan cần và đủ, đặc trưng cho một loại tội phạm (tội danh) cụ thể, là sự

mô tả một tội phạm cụ thể, thông qua 4 yếu tố của cấu thành của nó là: Chủ

thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội phạm.

Khi xử lý một hành vi nguy hiểm nào đó (tội phạm) thì đòi hỏi các chủ

thể, trước hết phải xem hành vi đó phạm tội gì được quy định trong Bộ luật

hình sự hay chưa. Hay nói một cách khác là phải định tội danh, từ đó mới áp

dụng các quy định của pháp luật đối với tội đó để xử lý.

Định tội danh “là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý hình sự phù

hợp chính xác giữa các dấu hiệu của các hành vi phạm tội cụ thể đã được

thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong

quy phạm pháp luật hình sự” [41, tr.40].

Hay nói một cách khác định tội danh là việc kết luận, khẳng định hành vi

nguy hiểm nào đó phạm tội gì trong BLHS. Đây là công đoạn đầu tiên mang

tính quyết định của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Nếu định tội danh

đúng thì việc áp dụng pháp luật để xử lý phù hợp với tính chất của hành vi và

24

ngược lại.

Khi định tội danh, chủ thể định tội phải đối chiếu, so sánh các đặc điểm,

xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết thực tế của hành vi nguy

hiểm đã thực hiện theo 4 yếu tố cấu thành của tội phạm được quy định trong

BLHS gồm: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan . Từ đó xác

định hành vi đó đã phạm tội gì trong Bộ luật hình sự.

Cơ sở pháp lý của việc định tội:

Pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý của việc định tội, bởi: “ Chỉ một người

nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách

nhiệm hình sự.” (Điều 2 BLHS). Đồng thời pháp luật hình sự quy định, liệt kê

tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà được coi là tội phạm (quy định

các cấu thành của các tội phạm cụ thể theo các điều luật tương ướng). Nếu

những hành vi nguy hiểm không được quy định trong BLHS thì không được

coi là tội phạm; muốn xử lý hành vi này thì cần bổ sung luật theo một trình tự

nhất định.

Cấu thành tội phạm (CTTP) là cơ sở pháp lý của việc định tội danh, bởi

vì: CTTP là các yếu tố cần và đủ cho việc định tội, nó quy định các dấu hiệu

đặc trưng nhất, điển hình nhất của các hành vi phạm tội cùng loại, CTTP thể

hiện bản chất của tội phạm ấy, cho phép phân biệt với tội khác và được quy

định trong Bộ luật hình sự. Hay nói cách khác CTTP là khuôn mẫu pháp lý

của tội phạm và là cơ sở duy nhất cho định tội danh. Khi chúng ta xác định

đầy đủ các dấu hiệu của CTTP ( Khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ

quan) thì mới đủ căn cứ xác định người đó có phạm tội hay không và phạm

tội gì. Chẳng hạn, khách thể xâm hại đến quyền sở hữu thì có thể là các tội ở

chương xâm hại quyền sở hữu, nếu như xâm hại đến các khách thể khác quan

trọng hơn thì có thể xử lý ở loại tội khác,… nếu như chưa xác định đầy đủ các

25

dấu hiệu của CTTP thì không thể định tội danh.

Tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm liên quan chặt chẽ với nhau,

được tập hợp thành một hệ thống và là khuôn mẫu pháp lý dung làm cơ sở,

căn cứ cho người tiến hành tố tụng đối chiếu, so sánh với các dấu hiệu của

hành vi phạm tội đã xảy ra ở ngoài thực tế khách quan, từ đó cho phép xác

định được người đã thực hiện hành vi nguy hiểm đó có phạm tội hay không,

phạm tội gì, được quy định tại điều luật nào trong BLHS.

Từ phân tích trên chúng ta có thể thấy việc định tội danh có những đặc

điểm chính sau:

Thứ nhất: Định tội danh là một hoạt động nhận thức của các chủ thể (

Điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán, Luật sư) có thẩm quyền trong hoạt

động tố tụng. Đó là quá trình xem xét hành vi nguy hiểm đã thực hiện phù

hợp với cấu thành cụ thể nào trong BLHS. Đòi hỏi các chủ thể phải tư duy

phân tích, tổng hợp, so sách để đi đến kết luận.

Thứ hai: Định tội danh là một dạng hoạt động thực tiễn của con người,

hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để xử lý một trường hợp phạm tội nhất

định, cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự vào trong thực tế đời sống xã

hội. Chính vì vậy vẫn có thể xẩy ra những sai sót do vô tình hay cố ý (Vì bị

chi phối bởi yếu tố chủ quan của chủ thể định tội danh).

Các giai đoạn của quá trình định tội danh:

Trong quá trình định tội danh, có thể chia thành 3 giai đoạn như sau:

- Bước 1: Thiết lập, xem xét đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã xảy

ra trên thực tế đời sống xã hội một cách đầy đủ, chính xác, khách quan. Quá

trình này bao gồm các hoạt động chứng minh và thực hiện các biện pháp tố

tụng theo quy định của pháp luật, là quá trình thu thập chứng cứ để chứng

minh các tình tiết của vụ án, xác định các yếu tố của tội phạm.

- Bước 2: Nhận thức thống nhất và đúng đắn quy định của BLHS về các

26

dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng bao gồm các yếu tố cấu thành của

Tội phạm được quy định trong BLHS và các nội dung liên quan khác được

quy định trong phần chung của BLHS hoặc các văn bản, chính sách pháp luật

của Đảng về đấu tranh phòng chống tội phạm. Giai đoạn này đòi hỏi chủ thể

định tội danh phải tư duy để nhận thức đúng đắn, nhất là một số quy phạm có

ranh giới phân biệt gần giống nhau, chưa rõ ràng,... ví dụ như như thế nào là

nguy hiểm chưa đáng kể, như thế nào là chủ thể đặc biệt, ... từ đó có cái nhận

thức đúng.

- Bước 3: Lựa chọn quy phạm pháp luật tương ứng để đối chiếu so sánh,

xác định sự phù hợp giữa hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với cấu

thành tội phạm tương trong BLHS. Tức là chủ thể định tội phải so sánh đối

chiếu giữa các yếu tố của hành vi nguy hiểm với các yếu tố của CTTP cụ thể

được quy định trong BLHS. Trên thực tế có những hành vi thõa mãn các dấu

hiệu, xảy ra sự tranh chấp về cấu thành, đòi hỏi chủ thể phải lựa chọn xác

định cấu thành nào là phù hợp nhất với hành vi

Ba quá trình trên tuy được tách ra để phân tích độc lập với nhau về mặt

lý thuyết, nhưng trên thực tế nó liên quan chặt chẽ với nhau, qua lại hòa

quyện với nhau thành một một quá trình gọi là quá trình định tội danh.

Tóm lại: Định tội danh là việc người có thẩm quyền kết luận một hành vi

nào đó đã xãy ra có phạm tội hay không và phạm tội gì được quy định trong

BLHS.

2.2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn Tây

2.2.2.1. Định tội danh theo cấu thành cơ bản

Định tội danh theo cấu thành cơ bản đó là chủ thể định tội danh dựa theo

những dấu hiệu pháp lý đặc trưng bắt buộc đối với tội phạm được quy định tại

khoản 1 điều 138 BLHS năm 1999 và khoản 1 điều 173 BLHS năm 2015, các

dấu hiệu đặc trưng đó là những điều kiện cần và đủ để một hành vi trộm cắp

27

tài sản được coi là tội phạm, đồng thời phản ánh bản chất của loại tội phạm và

cho phép chúng ta phân biệt với tội phạm khác. Tại khoản 1 điều 138 BLHS

năm 1999 quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ

năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm

nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính

về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được

xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm

hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ

sung năm 2009, nâng giá trị tài sản lên từ năm trăm nghìn đồng thành hai

triệu đồng. Tại khoản 1 điều 173 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000

đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một

trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm

hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà

còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều

168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án

tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

Căn cứ theo quy định trên thì nếu một hành vi trộm cắp tài sản có trị giá

dưới 2.000.000đ mà không thuộc các trường hợp: “gây hậu quả nghiêm trọng

hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội

chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” theo BLHS năm

28

2009 hoặc quy định từ điểm a đến điểm đ của BLHS năm 2015 nêu trên thì

không đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp và không phải chịu hình phạt, tức

không phải là hành vi phạm tội mà chỉ có thể bị xử lý hành chính.

Như vậy để xác định hành vi trộm cắp nào đó có đủ cấu thành tội trộm

cắp TS hay không thì phải căn cứ vào kết quả định giá giá trị tài sản mà người

thực hiện hành vi trộm cắp đã chiếm đoạt . Trên thực tế việc định giá là do

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thực hiện, nhưng việc định giá vẫn còn

những bất cập. Tại thông tư 02/2001/TTLT của TANDTC-VKSTC- BCA-

BTP hướng dẫn: “ giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định theo giá thị

trường của tài sản tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt”. Nhưng

trên thực tế việc xác định giá trị tài sản chỉ trên cơ sở chủ quan của Hội đồng

định giá, nhất là các tài sản đã qua sử dụng, hoặc thu hồi không được, định giá

qua sự mô tả,... Hội đồng định giá cũng chỉ xác định tương đối chứ chưa có

cơ sở pháp lý ràng buộc nào, dẫn đến việc xác định có tội hay không có tội,

khung hình phạt nhiều trường hợp không đúng.

Ví dụ: Vụ án theo quyết định khởi tố vụ án hình sự số 02 ngày 04 tháng

05 năm 2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Tây về tội

Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đối với bị

can Phạm Viết Hiệp cùng đồng bọn về hành vi trộm cắp 1.901kg dây điện.

Tại bản kết luận định giá số 12/HĐĐG ngày 29/6/2018 của Hội đồng

định giá trong tố tụng hình sự kết luận 1.901 kg dây cáp điện có giá trị thực tế

tại ngày 10/3/2018 là 34.218.000 đồng (ba mươi bốn triệu hai trăm mười tám

ngàn đồng), tương đương 18.000đ/1kg dây cáp điện.

Nhưng trước đó Hội đồng định giá định giá theo khấu hao tài sản và cho

rằng 1.901kg dây điện có giá trị 0đồng. Vì đã hết khấu hao. Nếu với kết quả

định giá này thì hành vi trộm cắp dây điện của Phạm Viết Hiệp và đồng bọn

không phạm tội trộm cắp.

29

Ngoài ra trong Thông tư 02 có hướng dẫn:

- Những trường hợp có đủ căn cứ chứng minh ý thức chủ quan của người

thực hiện hành vi trộm cắp là chiếm đoạt tài sản cụ thể có giá trị nhất định thì

lấy giá trị đó làm căn cứ truy cứu TNHS. Nhưng trên thực tế việc chứng minh

ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi trộm cắp là rất khó khăn, bởi

người phạm tội luôn có ý thức chối tội, khai lợi cho mình, nếu chỉ căn cứ vào

lời khai nhận tội để truy cứu thì khi phản cung thì sẽ không đủ cơ sở buộc tội.

Nếu không có tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh người có hành vi

trộm cắp đã thực hiện trộm cắp tài sản cụ thể nào, thì không thể truy cứu

TNHS.

Ví dụ: Vụ Đinh văn Hói có hành trộm cắp sợi dây chuyền màu vàng

của chị Lâm thị Huệ, bị bắt quả tang. Khi giám định là vàng giả, giá trị

500.000đ. Lúc đầu Hói khai nhận tưởng vàng thật nên lấy, nhưng sau Hói

khai đã biết là vàng giả nhưng thấy đẹp nên lấy. Vụ án phải đình chỉ điều tra

vụ án.

- Trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm

phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá

trị tài sản bị xâm phạm (trị giá bao nhiêu cũng được), thì lấy giá thị trường

của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm phạm để

xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm

phạm. Trên thực tế khi áp dụng trường hợp này cũng có vướng mắc.

Ví vụ: Vụ án Đinh Văn Khiết.

Khoảng 22 giờ ngày 09/9/2015, nhân lúc đêm khuya, trời tối Đinh Văn

Khiết đột nhập vào nhà bà Đinh Thị Dung, trú tại thôn Tà Vay – xã Sơn Long

– Sơn Tây – Quảng Ngãi, để trộm cắp tài sản. Vì trước đó Khiết đã nhìn thấy

bà Dung lấy tiền trong 01 (một) thùng gỗ để ở góc nhà, nên Khiết đã vào ôm

thùng gỗ đó ra bờ suối cách nhà bà Dung 80m, dùng chân tay cạy nắp thùng

30

để chiếm đoạt tài sản có trong đó (Vì nếu cạy trong nhà sẽ gây tiếng ồn, bị

phát hiện). Trong thùng gỗ có: Tiền là 27.000.000 vnđ và 02 sợi dây chuyền,

03 chiếc nhẫn và 01 vòng đeo tay bằng vàng, có tổng giá trị là 58.056.500đ

(năm mươi tám triệu không trăm năm sáu ngàn năm trăm đồng). Tuy nhiên

Đinh Văn Khiết chỉ phát hiện thấy tiền, nên Khiết chỉ chiếm đoạt số tiền là

27.000.000đ, còn số vàng có trong thùng gỗ, Khiết không thấy và Cơ quan

điều tra đã thu giữ trả lại cho chủ sở hữu.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2016/HSST ngày 27 tháng 01 năm

2016, Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây đã nhận định: Hành vi của Khiết đã

dịch chuyển thùng gỗ ra khỏi nhà bà Dung (khỏi nơi bảo quản) nên hành vi

phạm tội của Khiết đã hoàn thành và phải chịu trách nhiệm hình sự đối với

toàn bộ giá trị tài sản có trong thùng (bao gồm cả tiền và vàng), với tổng giá

trị 58.056.500đ (năm mươi tám triệu không trăm năm sáu ngàn năm trăm

đồng). Đồng thời đã viện dẫn quy định tại phần II, điểm 3 của Thông tư liên

tịch số 02/2001/TTLT của Tòa án NDTC- VKSNDTC- Bộ Công an- Bộ Tư

Pháp ngày 25/12/2001 để cho rằng hành vi phạm tội của Đinh Văn Khiết

thuộc trường hợp quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 138 BLHS ,tuyên: Bị

cáo Đinh Văn Khiết phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm e, khoản 2

điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46; điều 33; điều 69 và khoản 1 điều

74 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Đinh Văn Khiết 18 ( mười tám) tháng tù.

Theo quan điểm của CQĐT và VKS thì không thống với bản án, Vì:

Thứ nhất: Theo quy định tại phần II, điểm 3 của Thông tư liên tịch số

02/2001/TTLT : Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh người có

hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan

tâm đến giá trị tài sản ( giá trị bao nhiêu cũng được) thì lấy giá trị thị trường

của tài sản bị xâm hại... để xem xét việc truy cứu... Nhưng trong vụ án này bị

cáo không có ý định xâm phạm đến những chiếc nhẫn, dây chuyền và lách

31

đeo tay vì bị cáo chưa nhìn thấy và không hề biết trong Thùng gỗ của bà

Dung có vàng, bị cáo chỉ nhìn thấy tiền, đối tượng trộm chính trong ý thức

chủ quan của bị cáo là tiền ở trong thùng gỗ và trên thực tế bị cáo cũng không

chiếm đoạt số vàng trang sức này. Điều này chứng tỏ số vàng có trong thùng

gỗ là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo, bị cáo không hề hay biết, không

có ý định xâm phạm đến. Bị cáo chỉ chiếm đoạt số tiền trong Thùng gỗ là 27

triệu đồng. Vì vậy không thể lấy toàn bộ giá trị tài sản có trong Thùng gỗ để

làm căn cứ định khung hình phạt cho bị cáo như bản án. Quy định tại phần II,

điểm 3 của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT nêu trên chỉ áp dụng trong

trường hợp bị cáo đã có ý định xâm phạm đến 1 tài sản(vật) cụ thể nào đó, vi

dụ như xe Hon da... mà không quan tâm giá trị của xe là bao nhiêu.

Thứ hai: Đây là tội phạm có cấu thành vật chất, số vàng trong thùng gỗ

bị cáo chưa chiếm đoạt được thì không thể nói là tội phạm đã hoàn thành. Tội

phạm chỉ hoàn thành khi chiếm đoạt được tài sản.

Trong vụ án này HĐXX đã vận dụng hướng dẫn của Thông tư 02/2001

là không đúng.

Mặt khác đối với những trường hợp trị giá tài sản nhỏ hơn 2.000.000đ

thì cũng xảy ra nhiều bật cập sau:

- Khi áp dụng tình tiết a): “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”. Theo quy định của Luật xử lý vi phạm

hành chính năm 2012, tại khoản 2 điều 2 quy định: Xử phạt vi phạm hành

chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện

pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm

hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Như

vậy đối với trường hợp đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính là giáo dục

tại xã phường về hành vi trộm cắp mà còn vi phạm thì có bị coi là phạm tội

hay không.

32

Ví dụ: Vụ án Đinh Văn Thơi trộm điện thoại trị giá 1.000.000đ, sau khi

đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại UBND xã Sơn Dung… Nhưng không bị

khởi tố để xử lý về tội trộm cắp. Theo quan điểm của tác giả đây là trường

hợp bỏ lọt tội. Vì biện pháp giáo dục tại xã phường là một biện pháp xử lý

hành chính có tính chất nặng hơn là xử phạt cảnh cáo, thể hiện ở việc quy

định thời gian được xem như chưa bị xử lý hành chính là 2 năm, còn ở biện

pháp xử phạt cảnh cáo là 6 tháng [Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính].

- Khi áp dụng tình tiết c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an

toàn xã hội. và tình tiết d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người

bị hại và gia đình họ; tại khoản 1 điều 173 của BLHS năm 2015, cũng gặp

nhiều vướng mắc đó là chưa có văn bản hướng dẫn, giải thích chính thống về

hai tình tiết này.

Ví dụ: Vụ án Đinh Văn Quê cùng đồng bọn đột nhập vào phòng khuyến

nông huyện phá két chiếm đoạt 600.000đ. Hay vụ Đinh Văn Thái trộm cắp xe

Honda của anh Đinh Văn Rin, chiếc xe là phương tiện anh Rin dùng đi mua

gom phế liệu…

Ngoài ra nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt nhỏ hơn 2.000.000đ nhưng

thuộc trong các trường hợp: Phạm tội có tổ chức; có tính chất chuyên

nghiệp;Tái phạm nguy hiểm; dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung

để tẩu thoát; Tài sản là bảo vật quốc gia; lợi dụng thiên tai; lợi dụng hoàn

cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp; có phạm tội trộm cắp hay không, nếu

có thì truy tố khoản nào. Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất, bởi

theo quy định của điều luật thì có 2 quan điểm:

- Quan điểm 1: Ngoài việc xác định trị giá của tài sản bị chiếm đoạt

(quan hệ sở hữu) còn phải xác định, thiệt hại về tinh thần, tính nguy hiểm của

hành vi cho xã hội. Bởi tội trộm cắp ngoài khách thể bị xâm hại là quyền sở

hữu còn các khách thể khác bị xâm hại như an ninh trật tự, an toàn xã hội;…

33

Vì vậy nếu trị giá nhỏ hơn 2.000.000đ mà gây ảnh hưởng xấu đến an ninh thì

phạm tội theo khoản 1 điều 173; nếu hành hung để tẩu thoát, hoặc dùng thủ

đoạn xảo quyệt, nguy hiểm thì phải áp dụng khoản 2 hoặc khoản 3 tương ứng.

- Quan điểm 2: Đây là tình tiết định khung. Bởi vậy buộc phải đủ yếu tố

cấu thành cơ bản ( Trị giá TS bị chiếm đoạt phải từ 2.000.000đ trở lên, nếu

dưới thì phải buộc có 1 trong 5 tình tiết quy định tại các điểm a, b, c,d, đ của

khoản 1 điều 173). Các tình tiết trên không phải là tình tiết theo quy định tại

khoản 1 nên chưa đủ cấu thành cơ bản thì không phạm tội.

Từ đó cho thấy kỷ thuật lập pháp nói chung và việc xây dựng quy định

của tội trộm cắp vẫn còn chưa chặt chẽ, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và

phải cần những văn bản giải thích hướng dẫn.

2.2.2.2. Định tội danh theo cấu thành tăng nặng

Định tội danh theo cấu thành tăng nặng là việc chủ thể định tội danh xác

định hành vi phạm tội cụ thể đã có đủ những tình tiết định khung tăng nặng

quy định trong điều luật. Đây là những trường hợp phạm tội có tính nguy

hiểm cho xã hội và mức độ hậu quả của tội phạm cao hơn so với cấu thành cơ

bản. Đối với tội trộm cắp tài sản thì cấu thành tăng nặng được quy định ở

khoản 2, 3 và 4 của điều 138 BLHS 1999 và điều 173 BLHS năm 2015.

Tại khoản 2 điều 138 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường

hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: “ Phạm tội có tổ chức; Có

tính chất chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm; Dùng thủ đoạn xảo quyệt,

nguy hiểm; Hành hung để tẩu thoát ; Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ

50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; Gây hậu quả nghiêm trọng. Tại

khoản 3 điều 138 BLHS quy định: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm

triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Tại khoản 4 điều 138 BLHS quy định: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ

năm trăm triệu đồng trở lên; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

34

Đối với điều 173 BLHS thì bỏ các tình tiết: Gây hậu quả nghiêm trọng;

Gây hậu quả rất nghiêm trọng; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nhưng

thêm các tình tiết: Tài sản là bảo vật quốc gia; Lợi dụng thiên tai, dịch

bệnh;Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp”.

Thực tế định tội danh theo cấu thành tăng nặng trên địa bàn huyện Sơn

Tây là ít xảy ra, chủ yếu là định tội theo cấu thành cơ bản. Một số trường hợp

theo cấu thành tăng nặng là rơi vào các trường hợp có các tình tiết: Tái phạm

nguy hiểm; có tính chuyên nghiệp; giá trị tài sản trên năm mươi triệu đồng.

Ví dụ: Vụ án Lê Hùng Thiên ( tái phạm nguy hiểm)

Lê Hùng Thiên sinh năm 1980, là một thanh niên có sức khoẻ, đầy đủ

khả năng nhận thức và điều kiển hành vi của mình, có trình độ học vấn nhất

định (đã tốt nghiệp lớp 12). Tuy nhiên vì lười nhát lao động, lại muốn có tiền

tiêu xài cá nhân nên đã có nhiều lần chiếm đoạt tài sản của người khác. Bị

Tòa án huyện Sơn Hà xử phạt 12 tháng tù, với tình tiết tái phạm về hành vi

trộm cắp tài sản. Khoảng 17h00 ngày 21/08/2007 Lê Hùng Thiên đang ngồi

chơi, uống rượu trước nhà của mình cùng với Đinh Văn Trong thì có Biện

Trung Nghĩa (Sn: 1988 ) là bạn của Thiên từ Tập Đoàn 21 – Ra Bâng – Sơn

Dung – Sơn Tây, trên đường xuống Thành Phố Quảng Ngãi để sửa máy gạo

của gia đình, do xuống tối nên Nghĩa ghé vào nhà Thiên ở lại để ngày mai đi

). Sau khi Nghĩa thay quần áo xong thì ra ngồi chơi và uống rượu với Thiên

và Trong. Sau đó Biện Trung Nghĩa và Lê Hùng Thiên cùng rủ nhau đi đánh

bi da, khi đi ngang qua quán sửa xe của anh Sắt thì gặp Tín và Duy là bạn của

Nghĩa, nên cùng rủ nhau ra quán bà Xoan tại ngã ba trung tâm huyện Sơn Tây

để uống rượu. Tại đây Thiên, Nghĩa, Tín, Duy uống hết khoảng 1 lít rượu thì

nghỉ và cùng rủ nhau đi hát Karaoke tại quán Diễm Ca ở xóm Trường Nội Trú

– Huy Măng – Sơn Dung – Sơn Tây . Đến khoảng hơn 23h00 thì nghỉ, Nghĩa

về nhà Thiên và cả hai lên giường ngủ chung. Đến khoảng 6h30 ngày

35

22/8/2007, Biện Trung Nghĩa thức dậy phát hiện mình bị mất một sợi dây

chuyền bằng vàng tây trọng lượng hơn 1chỉ và một ví da (bóp đựng tiền) bên

trong có khoảng hơn 400.000đ . Nghĩa nói với Thiên và cùng Thiên tham gia

tìm kiếm, tìm một lúc thì Thiên và Nghĩa nhìn thấy mặt sợi dây chuyền hình

ông phật của Nghĩa nằm trên giường, và một số giấy tờ cá nhân như giấy

chứng minh nhân dân v.v…, sau khi tìm một lúc nữa cũng không thấy, Nghĩa

chạy xe ra quán sửa xe anh Sắt gặp Duy để hỏi thử Duy có thấy tài sản của

mình không, nhưng Duy nói không thấy nên Nghĩa quay về nhà Thiên tìm

tiếp nhưng vẫn không thấy gì nên Biện Trung Nghĩa ra báo cho Công An

huyện Sơn Tây để điều tra xác minh.

Cơ Quan CSĐT Công An huyện Sơn Tây đã tiến hành xác minh, qua đấu

tranh khai thác với Lê Hùng Thiên thì Thiên đã khai nhận: Sau khi ngủ cùng

Biện Trung Nghĩa đến khoảng 2h00 sáng ngày 22/08/2007, do mắc tiểu nên

Lê Hùng Thiên dậy bật điện nhà dưới và đi tiểu, khi đi vệ sinh xong bước vô

gần đến giường thì Lê Hùng Thiên nhìn thấy chiếc ví da của Biện Trung

Nghĩa bọc trong túi quần bị ló ra ngoài, nên Thiên nảy sinh ý định lấy cắp.

Lợi dụng lúc Biện Trung Nghĩa đang ngủ say, Thiên dùng tay phải kéo chiếc

bóp từ trong túi của Nghĩa ra và lục lấy hết tổng cộng số tiền của Nghĩa là

426.000đ ( bốn trăm hai mươi sáu ngàn đồng). Trong lúc lấy tiền Thiên vô ý

làm rơi giấy tờ trong bóp ra, sợ lộ nên Thiên lượm lên bỏ ở mép giường nơi

Thiên và Nghĩa ngủ, còn bóp da Thiên bỏ qua khe ván nhà mình, ở giữa

đường luồng của hai nhà, nhà Thiên và nhà hàng xóm. Số tiền Thiên lấy được

Thiên cầm xuống nhà bếp bỏ vào một cái xô nhựa màu xanh lam rồi đậy nắp

lại, sau đó Thiên tiếp tục đi ngủ như không có chuyện gì xảy ra. Đến khoảng

hơn 6h00 sáng, ông Lê Văn Thống (cha của Thiên) hiện đang ở trên Tập

Đoàn 21 – Ra Bâng – Sơn Dung – Sơn Tây gọi điện về cho bà Thọ ở gần nhà

Thiên nhờ bàThọ qua kêu Thiên dậy để lo vệ sinh cho mẹ của Thiên. Khi

36

nghe bà Thọ gọi thì Lê Hùng Thiên dậy lúc bước xuống giường, Thiên nhìn

thấy sợi dây chuyền của Biện Trung Nghĩa bị đứt rơi xuống giường ngay phía

sau lưng Nghĩa, nhìn thấy Biện Trung Nghĩa vẫn còn ngủ say, Lê Hùng Thiên

lại nảy sinh ý định trộm cắp nên Thiên đã lấy luôn sợi dây chuyền này của

Nghĩa và đưa xuống bếp bỏ vào cái xô nhựa mà Thiên đã bỏ tiền trộm cắp của

Nghĩa trước đó.

Số tiền 426.000đ ( bốn trăm hai mươi sáu ngàn đồng ) Lê Hùng Thiên

đã rủ một số bạn của mình là Đinh Văn Trong, Đinh Văn Lúc và Đinh Văn

Tiết đều trú tại Sơn Dung – Sơn Tây uống rượu, hát karaôkê và sử dụng hết

vào tối ngày 22/08/2007. Còn lại sợ dây chuyền chưa kịp tiêu thụ, Thiên đã

giao nộp lại cho cơ quan điều tra. Qua kiểm tra và kết quả định giá của Hội

đồng định giá đã xác định: Sợi dây chuyền mà Lê Hùng Thiên giao nộp là:

loại vàng tây, vàng 6 tuổi 8, có trọng lượng 1 chỉ 4 phân 2 li. Giá trị thực tế

tính vào ngày 22/08/2007 là 810.000đ/1 chỉ. Như vậy sợi dây chuyền có giá

trị là : 1.150.000đ. Sợi dây chuyền này Biện Trung Nghĩa xác nhận là của

mình và Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nghĩa.

Tại bản án sơ thẩm hình sự số 02/2008 ngày 02/01/2008 của TAND

huyện Sơn Tây đã áp dụng điểm b, p điều 46; điểm c khoản 2 điều 138 và

điều 33 BLHS xử phạt bị cáo Thiên 24 tháng tù.

Đối với bản án này HĐXX của Tòa án huyện Sơn Tây đã phân tích đầy

đủ các tình tiết của vụ án cũng như đối chiếu các quy định của pháp luật để

định tội danh theo khoản 2 điều 138 BLHS là đúng.

Ví dụ 2: Vụ án Đinh Văn Khiết ( Xác định giá trị tài sản chiếm đoạt sai,

thiếu căn cứ).

Khoảng 22 giờ ngày 09/9/2015, nhân lúc đêm khuya, trời tối Đinh Văn

Khiết đột nhập vào nhà bà Đinh Thị Dung, trú tại thôn Tà Vay – xã Sơn Long

– Sơn Tây – Quảng Ngãi, để trộm cắp tài sản. Vì trước đó Khiết đã nhìn thấy

37

bà Dung lấy tiền trong 01 (một) thùng gỗ để ở góc nhà, nên Khiết đã vào ôm

thùng gỗ đó ra bờ suối cách nhà bà Dung 80m, dùng chân tay cạy nắp thùng

để chiếm đoạt tài sản có trong đó (Vì nếu cạy trong nhà sẽ gây tiếng ồn, bị

phát hiện). Sauk hi cậy được nắp thùng gỗ thì Khiết dùng pin điện thoại lục

thấy tiền và lấy đem về nhà đào lỗ cất dấu. Sáng hôm sau bà Dung báo công

an. Qua công tác khám nghiệm hiện trường thấy trong thùng gỗ có 02 sợi dây

chuyền, 03 chiếc nhẫn và 01 vòng đeo tay bằng vàng, có tổng giá trị là

31.056.500đ Cơ quan điều tra đã thu giữ trả lại cho chủ sở hữu.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2016/HSST ngày 27 tháng 01 năm

2016, Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây đã tuyên: Bị cáo Đinh Văn Khiết phạm

tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm e, khoản 2 điều 138; điểm p khoản 1,

khoản 2 điều 46; điều 33; điều 69 và khoản 1 điều 74 của Bộ luật hình sự: Xử

phạt Đinh Văn Khiết 18 ( mười tám) tháng tù.

Đối với vụ án này HĐXX đã xác định toàn bộ số tài sản trong thùng gỗ

bao gồm tiền 27.000.000đ và vàng giá trị 31.056.500đ, tổng cộng là

58.056.500đ là giá trị tài sản mà bị cáo Khiết đã chiếm đoạt; việc Khiết dịch

chuyển thùng gỗ ra khỏi nhà là coi như đã chiếm đoạt được và tội phạm đã

hoàn thành. Nên đã áp dụng tình tiết định khung tăng nặng để xét xử và áp

dụng hình phạt. Việc xác định của HĐXX như trên là không đúng và không

có cở sở. Bởi: Số vàng trong thùng nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo, khi

dịch chuyển thùng gỗ ra khỏi nhà, đồng thời số vàng này thực tế bị cáo không

chiếm đoạt. Mặt khác về chứng cứ chứng minh không đầy đủ, vẫn có thể

người bị hại bỏ thêm vào thùng sau khi phát hiện, vì theo bị cáo đã lục nhưng

chỉ thấy tiền, không thấy vàng. Hơn nữa đây là tội có cấu thành vật chất nên

tội phạm hoàn thành khi bị cáo đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng trong vụ án

này bị cáo không hề hay biết có vàng trong thùng. Vì vậy khi định tội danh

đối với tội trộm cắp cần chú ý chứng minh được bị cáo đã chiếm đoạt được

38

cái gì, trị giá bao nhiêu. Nếu không có cơ sở để chứng minh thì không thể

buộc tội bị cáo.

2.2.2.3. Định tội danh trong trường hợp đặc biệt.

- Định tội danh trong trường hợp đồng phạm. Đây là những vụ án có

đồng phạm. Nếu có sự cấu kết chặt chẽ thì thuộc trường hợp phạm tội có tổ

chức, nếu chỉ là đồng phạm giản đơn thì những người đồng phạm có thể bao

gồm: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Về

nguyên tắc các đồng phạm phải chịu TNHS về tội đã thực hiện. Khi định tội

danh trong trường hợp có đồng phạm đòi hỏi chủ thể định tội danh phải tôn

trọng các nguyên tắc như chịu trách nhiệm chung; nguyên tắc chịu trách

nhiệm độc lập hay nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Tại khoản 4

điều 17 BLHS quy định: “ Người đồng phạm không chịu trách nhiệm hình sự

về hành vi vượt quá của người thực hành”. Vì trên thực tế những hành vi vượt

quá của người thực hành có thể cấu thành một tội phạm độc lập khác hoặc là

thuộc khung tăng nặng, mà những người đồng phạm khác không thống nhất,

không cùng chung ý chí phạm tội.

Ví dụ: Phạm Viết Hiệp cùng đồng bọn phạm tội trộm cắp

Trong quá trình thi công điện cho trụ sở Công an huyện Sơn Tây Phạm

Viết Hiệp sinh năm 1992, trú tại thôn Thọ Trung, xã Tịnh Thọ, huyện Sơn

Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi đã để ý đường điện 6KV của Công ty cổ phần thủy

điện ĐăkĐrinh chạy dọc theo tỉnh lộ 623 địa phận xã Sơn Tân, huyện Sơn

Tây, tỉnh Quảng Ngãi ngừng hoạt động, Phạm Viết Hiệp nảy sinh ý định cắt

trộm số dây điện này để bán lấy tiền vì vậy Hiệp đã rủ Lý Công Toàn, sinh

năm: 1978, trú tại xã Tịnh Ấn Đông, Tp Quảng Ngãi và Huỳnh Việt, sinh

năm: 1991, trú tại xã Tịnh An, Tp Quảng Ngãi cùng tham gia với mình thì

Toàn và Việt đồng ý.

Sáng ngày 03/3/2018, Phạm Viết Hiệp điều khiển xe mô tô biển số kiểm

39

soát (BSKS) 76D1 – 123.10 rủ theo Lý Công Toàn và Huỳnh Việt điều khiển

xe mô tô BSKS 76U1-178.60 mang theo một túi đựng đồ nghề điện cùng

nhau lên thôn Ra Nhua, xã Sơn Tân, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi để thực

hiện việc cắt trộm đường dây điện 6KV của Công ty cổ phần Thủy điện

ĐăkĐrinh. Khi đến nơi, quan sát không có người trông coi, quản lý Hiệp trực

tiếp chỉ đạo cho Toàn, Việt thay phiên nhau leo lên trụ điện cắt trộm dây điện.

Cụ thể Toàn, Việt đeo dây an toàn thay nhau sử dụng cây kim loại (dạng đai

ốc) xỏ vào lỗ trụ điện để leo lên trụ (từ trụ C20 – C23 của đường dây 6KV)

rồi dùng kìm cộng lực và kìm bấm tay để cắt dây điện, Hiệp ở dưới trụ cắt

nhỏ từ 15 – 20m các đoạn dây mà Toàn và Việt đã bấm rơi xuống, các bị cáo

làm xong đến khoảng 12 giờ 00 phút thì nghỉ ngơi và ăn trưa. Trong lúc nghỉ

trưa Hiệp đã gọi điện thoại cho ông Nguyễn Thọ sinh năm 1977 trú tại xã

Tịnh Thọ làm nghề chở thuê bằng xe ba gác máy để liên hệ lên chở số dây

điện đem đi tiêu thụ. Sau khi nghỉ ngơi, buổi chiều cùng ngày các bị cáo tiếp

tục thực hiện việc cắt trộm đường dây 6KV từ trụ C20 – C19’. Sau đó cùng

nhau bê số dây điện đã cắt trộm lên xe ba gác máy của Ông Nguyễn Thọ. Đến

16 giờ 30 phút, các bị cáo vận chuyển số tài sản trộm cắp về Thị trấn Di Lăng,

huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi vì chưa biết ở đâu mua dây điện phế liệu nên

Toàn đã gọi điện hỏi thăm ông Lý Đình Vũ sinh năm 1983 trú tại Thôn Tan

Via, xã Sơn Dung, huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi, sau khi được Vũ chỉ nơi

bán các bị cáo đã đem số dây điện trộm được bán cho tiệm phế liệu của ông

Võ Đình Thịnh với số tiền 13.610.000 đồng (mười ba triệu sáu trăm mười

ngàn đồng) tương đương với 648 kg dây cáp điện.

Ngày 04/3/2018, Phạm Viết Hiệp bận việc đột xuất không trực tiếp tham

gia nhưng đã chỉ đạo Toàn và Việt lên lại vị trí hôm ngày 03/3/2018 để thực

hiện việc cắt trộm đường dây 6KV. Các bị cáo Toàn, Việt đã thay phiên nhau

lên trụ C19’ – C17 cắt, cuộn thành từng đoạn và cùng với ông Nguyễn Thọ vận

40

chuyển về Thị trấn Di Lăng và Phạm Viết Hiệp đã chờ sẵn rồi cùng đến bán

cho tiệm phế liệu của Ông Võ Đinh Thịnh lấy số tiền là 6.500.000 đồng (sáu

triệu năm trăm ngàn đồng) tương đương 309 kg dây cáp điện.

Trong hai ngày 03 và 04/3/2018 các bị cáo Phạm Viết Hiệp, Lý Công

Toàn, Huỳnh Việt đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tổng cộng 2.214m

tương đương với 957 kg dây cáp điện loại AC70, bán với tổng số tiền là

20.110.000 đồng (hai mươi triệu một trăm mười ngàn đồng) số tiền này các bị

cáo chia như sau: Toàn và Việt mỗi người 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng)

trả tiền công chở cho Nguyễn Thọ 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm ngàn

đồng), còn lại Hiệp giữ lại phần mình và chi trả tiền ăn nhậu nghỉ ngơi. Đồng

thời Hiệp, Toàn, Việt bàn bạc thống nhất ngày 10/3/2018 sẽ tiếp tục lên Sơn

Tây để cắt trộm dây điện.

Khoảng 11 giờ ngày 10/3/2018, Hiệp, Toàn, Việt lên xã Sơn Tân, huyện

Sơn Tây tiến hành cắt trộm đường dây 6KV của công ty cổ phần Thủy điện

Đăk Đrinh. Các bị cáo đã dùng kìm cộng lực và kìm tay cắt từ trụ C7 – C6,

cuộn tròn gởi lại nhà ông Đinh Văn Điềm trú ở thôn Ra Nhua, xã Sơn Tân.

Ngày 11/3/2018, ông Điềm tưởng là thợ điện nhờ giữ hộ nên đồng ý giữ và

đòi 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng). Sau khi gửi xong các bị cáo tiếp tục

quan sát trạm biến áp gần nhà máy Thủy điện ĐăkĐrinh và biết được đường

dây 35KV cũng đang ngừng sử dụng nên Hiệp, Toàn, Việt thống nhất hôm

sau sẽ tiếp tục cắt trộm đường dây 35 KV.

Sáng ngày 11/3/2018 Hiệp gọi điện cho Nguyễn Thọ lên xã Sơn Tân để

vận chuyển số dây điện trộm cắp được. Sau đó khoảng 08 giờ 30 phút Hiệp,

Toàn, Việt lên xã Sơn Tân tiếp tục việc cắt trộm đường dây 6KV từ trụ C5-

C8, cuộn tròn và nghỉ trưa, đến chiều cả bọn đã thực hiện việc cắt trộm 495m

dây cáp điện loại AC95 từ trụ C96 – C98 của đường dây 35KV. Sau khi thực

hiện xong việc cắt trộm và thu gom số dây cắt được trong hai ngày 10,

41

11/3/2018 Hiệp, Toàn, Việt cùng Thọ vận chuyển về Thi trấn Di Lăng, huyện

Sơn Hà bán cho tiệm phế liệu của ông Võ Đình Thịnh với tổng số tiền là

17.930.000 đồng (mười bảy triệu chín trăm ba mươi ngàn đồng) tương đương

với 854 kg dây cáp điện để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Số tiền này các bị cáo

chia nhau như sau: trả tiền chở cho ông Thọ 1.200.000 đồng (một triệu hai

trăm ngàn đồng) chia cho Toàn 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm ngàn

đồng) chia cho Việt 3.000.000 đồng (ba triệu đồng), còn lại hiệp giữ phần

mình và trả tiền chi phí ăn nhậu, ngủ nghỉ chung.

Tại bản kết luận định giá số 12/HĐĐG ngày 29/6/2018 của Hội đồng

định giá trong tố tụng hình sự kết luận 1.901 kg dây cáp điện có giá trị thực tế

tại ngày 10/3/2018 là 34.218.000 đồng (ba mươi bốn triệu hai trăm mười tám

ngàn đồng), tương đương 18.000đ/1kg dây cáp điện.

Bản cáo trạng số 403/QĐ-VKS ngày 31/8/2018 của Viện kiểm sát nhân

dân huyện Sơn Tây truy tố các bị cáo Phạm Viết Hiệp, Lý Công Toàn, Huỳnh

Việt ra trước Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây về tội “Trộm cắp tài sản” theo

khoản 1 Điều 173 BLHS. Bản án Bản án số: 01/2018/HS-ST, Ngày 09-10-

2018 Tuyên bố các bị cáo Phạm Viết Hiệp, Lý Công Toàn, Huỳnh Việt phạm

tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm b, s

khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. Xử phạt bị cáo

Phạm Viết Hiệp 10 (mười) tháng tù; Xử phạt bị cáo Lý Công Toàn 07 (bảy)

tháng tù. Xử phạt bị cáo Huỳnh Việt 07 (bảy) tháng tù.

- Định tội trong trường hợp phạm nhiều tội.

Về nguyên tắc một hành vi không thể bị xét xử về 2 tội danh khác nhau.

Trên thực tế để thực hiện một tội phạm, người phạm tội có thể phải thực hiện

nhiều hành vi, nếu những hành vi này đủ yếu tố cấu thành một tội độc lập thì

phải chịu trách nhiệm về cả hai tội. Ví dụ để giết người A đã mua súng về nhà

cất và sau đó dùng để giết người, thì A phải chịu TNHS về hai tội mua bán

42

hoặc sử dụng trái phép vũ khí quân dụng và tội giết người.

Đối với tội trộm cắp chỉ có một hành vi khách quan duy nhất đó là chiếm

đoạt tài sản của người khác một cách lén lút. Nếu sử dụng vũ lực để chiếm

đoạt tài sản thì không phải trộm cắp mà có thể là Cướp hoặc cướp giật. Trên

thực tế có những vụ “ Đầu trộm đuôi cướp”, tức là khi thực hiện hành vi trộm

bị phát hiện, người phạm tội đã có những hành vi chống trả làm chuyển biến

tội danh. Nếu chưa chiếm đoạt được tài sản mà có hành vi dùng vũ lực để

chiếm được tài sản là phải định tội là tội cướp. Ví dụ: A lợi dụng đêm tối vào

nhà của B để trộm tài sản, nhưng bị B phát hiện, A đã dùng dao khống chế lấy

tài sản. Còn trường hợp khi đã chiếm đoạt được tài sản mà hành hung để tẩu

thoát thì chỉ áp dụng tình tiết định khung, nếu hành vi chống trả này đủ yếu tố

cấu thành tội độc lập khác thì phải chịu TNHS thêm tội đó. Ví dụ chống trả

gây thương tích từ 11% trở lên. Những nội dung này đã được hướng dẫn tại

tiểu mục 6.1 và 6.2, mục I, thông tư số 02/2001/TTLT. Và trên thực tiển tại

Sơn Tây không gặp vướng mắc gì nên tác giả không phân tích sâu.

2.3. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản tại huyện Sơn

Tây, tỉnh Quảng Ngãi

2.3.1. Khái quát lý luận về quyết định hình phạt

2.3.1.1. Khái niệm

Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình

sự của Tòa án có thẩm quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam (mà ở đây được giao cho Hội đồng xét xử) thực hiện sau khi đã xác định

được tội danh và tùy từng trường hợp để quyết định khung hình phạt, loại

hình phạt (bao gồm hình phạt chính và có thể có hình phạt bổ sung), mức hình

phạt cụ thể cho người phạm tội trong phạm vi của khung hình phạt do pháp

luật quy định; phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

và nhân thân người phạm tội. Trong khoa học pháp lý hình sự đến nay đã có

43

nhiều tác giả đưa ra khái niệm về quyết định hình phạt. Trong đó tác giả đồng

ý với khái niệm : “ Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình

phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung với mức

độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội”

Có một số quan điểm cho rằng “Miễn trách nhiệm hình sự” cũng thuộc

về giai đoạn quyết định hình phạt, bởi miễn TNHS là không buộc người phạm

tội phải chịu TNHS về tội họ đã phạm, miễn trách nhiệm hình sự được thực

hiện sau khi xác định xong tội danh, thuộc về giai đoạn đầu của việc xác định

chế tài hình sự đối với người phạm tội. Cho nên coi miễn TNHS thuộc về

quyết định hình phạt. Nhưng trên thực tế hiện nay việc miễn TNHS vẫn được

các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát áp dụng.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung đi sâu phân

tích việc quyết định hình phạt của Tòa án (Hội đồng xét xử) vì theo qui định

của pháp luật thì chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử và áp dụng hình phạt đối

với người phạm tội. Luật Hiến pháp 2013 quy định TAND là cơ quan xét xử

của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Điều 102) [30].

Điều 30 BLHS 2015, quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế

nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án

quyết định áp dụng…” [5, tr.22].

2.3.1.2. Đặc điểm của Quyết định hình phạt

Từ khái niệm và phân tích trên cho thấy quyết định hình phạt có các đặc

điểm sau:

- Quyết định hình phạt là một dạng hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận

thức của con người cụ thể;

- Quyết định hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Hội

đồng xét xử thực hiện trên thực tế, để quyết định một mức hình phạt hoặc có

thể miễn TNHS, miễn hình phạt đối với bị cáo, dựa trên cở sở các quy định

44

của pháp luật;

- Quyết định hình phạt mang tính tùy nghi cao, thể hiện trong việc lựa

chọn loại hình phạt áp dụng, mức hình phạt,…

2.3.1.3. Mục đính của Quyết định hình phạt

Theo quy định tại điều 31 BLHS: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị

người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo

pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo

dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và

đấu tranh chống tội phạm”. Một số nhà khoa học pháp lý hiện nay cho rằng

mục đích của Hình phạt là nhằm bảo vệ công lý, công bằng xã hội và phòng

ngừa tội phạm. Cũng có quan điểm cho rằng trừng trị là mục đích của hình

phạt bởi vì để bảo vệ lợi ích thì người phạm tội phải bị trừng trị. Nhưng cũng

có quan điểm cho rằng trừng trị và cải tạo là nội dung của hình phạt chứ

không phải là mục đích của hình phạt. Theo tác giả cũng đồng tình với quan

điểm này, mục đích là cái chúng ta hướng tới nhằm đạt được khi áp dụng hình

phạt. Như vậy mục đích hình phạt là để pháp luật được tôn trọng, phòng ngừa

và đấu tranh với tội phạm, nhằm loại bỏ tội phạm ra khỏi xã hội. Còn trừng trị

và cải tạo người phạm tội là nội dung của hình phạt. Nếu chúng ta áp dụng

trừng trị và cải tạo có hiệu quả thì sẽ đạt được mục đích của hình phạt và

ngược lại. Như vậy có thể nói mục đích của quyết định hình phạt là không chỉ

nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý

thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội

mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng

ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

2.3.1.4. Căn cứ Quyết định hình phạt

Căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội đòi hỏi phải công

bằng, nhân đạo phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm đã

45

thực hiện. Các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 50 BLHS

năm 2015: “1.Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào các quy định của

Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.

2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền…. Tòa án căn cứ vào tình hình tài

sản, khả năng thi hành của người phạm tội” .

+ Các quy định của BLHS: Trước hết Tòa án phải căn cứ vào các quy

định của BLHS để lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng cho người

phạm tội. Vấn đề đặt ra ở đây là các quy định của BLHS là những quy định

nào, tác giả cho rằng các quy định của BLHS bao gồm: Các quy định của

BLHS liên quan đến quyết định hình phạt bao gồm: Những quy định về từng

loại hình phạt (Điều 32,33), những quy định về tăng nặng, giảm nhẹ, những

quy định về quyết định hình phạt,… Đây là những căn cứ pháp lý, giúp Tòa

án có quyết định hình phạt chính xác trong thực tế.

+ Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: là tính

nguy hiểm của tất cả các tội phạm cùng loại so với các tội phạm khác loại;

Còn mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được hiểu là tính nguy hiểm

của một tội phạm cụ thể so với các tội phạm khác cùng loại. [16, tr.129]

+ Nhân thân người phạm tội: là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của

người phạm tội, gắn liền với người phạm tội như: tuổi, nghề nghiệp, trình độ

văn hóa, hoàn cảnh gia đình, kinh tế, tiền án, tiền sự,... Những đặc điểm này

nó cũng thể hiện tính nguy hiểm của hành vi và khả năng cải tạo, giáo dục họ.

Vì vậy luật quy định cũng là một căn cứ cần xem xét không bỏ qua.

+ Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS: Các tình tiết giảm nhẹ, tăng

nặng TNHS được quy định tại Điều 51 và Điều 52 BLHS. Khi quyết định

hình phạt bắt buộc phải xem xét cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm TNHS

vì đây là một trong các tình tiết để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của

46

hành vi.

2.3.1.5. Các nguyên tắc quyết định hình phạt:

Xuất phát từ đặc điểm của quyết định hình phạt, cho thấy việc quyết định

hình phạt là một hoạt động rất quan trọng, ảnh hưởng đến cả quá trình đấu

tranh phòng chống tội phạm, thể hiện ở mục đích và ý nghĩa của việc quyết

định hình phạt. Vì vậy quyết định hình phạt cũng phải tuân theo các nguyên

tắc nhất định, nếu không sẽ dễ dẫn đến sai phạm và tùy nghi. Các nguyên tắc

quyết định hình phạt, bao gồm:

+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Thể hiện ở các nội dung sau:

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải tuân thủ các quy định của Bộ

luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: Về bản chất thì hình phạt

không có tính nhân đạo. Tính nhân đạo trong hình phạt là nguyên tắc nhân

đạo trong BLHS quy định. Tại Điều 3 BLHS 2015 quy định, nguyên tắc xử lý

tội phạm: “…khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác

người đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách

nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn

năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”, [5, tr.7].

Vì vậy khi quyết định hình phạt thì phải bảo đảm nguyên tắc này. Phải tôn

trọng và bảo vệ quyền con người.

+ Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt: Cá thể hóa hình phạt trong áp dụng

PLHS là áp dụng hình phạt phù hợp đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể,

từng vụ án cụ thể. Tức khi quyết định hình phạt thì HĐXX phải cân nhắc các

tình tiết lien quan đến mỗi cá nhân người phạm tội, bảo đảm hình phạt phải

tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân

người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS.

+ Nguyên tắc công bằng: Được hiểu là khi quyết định hình phạt phải

47

phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,

không phân biệt giới tính, dân tộc, địa vị kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng, thành

phần xuất thân… Ngoài ra nguyên tắc này còn đòi hỏi phải được thể hiện ở

công bằng trên toàn lãnh thổ. Tuy nhiên chúng ta phải hiểu rằng không có

công bằng tuyệt đối và nguyên tắc này còn chịu ảnh hưởng của các nguyên

tắc khác.

2.3.1.3. Ý nghĩa của Quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt đúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm trên thực tiễn, bởi:

- Quyết định hình phạt đúng sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để đạt được

mục đích của hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả của hình phạt và bảo

đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa;

- Quyết định hình phạt đúng, chính xác là điều kiện đảm bảo tính khả thi

của hệ thống hình phạt, từ đó sẽ tác động đến ý thức pháp luật của mỗi người

để họ thấy được hành vi sai trái của mình để thực hiện pháp luật cho đúng;

- Quyết định hình phạt đúng là bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật,

làm cho hình phạt trở thành công cụ hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm;

Tóm lại khi quyết định hình phạt đòi hỏi Thẩm phán áp dụng phải có tư

duy phân tích tổng hợp các quy định của pháp luật với các tình tiết khác có

liên quan thì mới có hình phạt thích đáng với hành vi phạm tội. Không được

48

vì mục đích phòng ngừa chung mà xử lý nặng cho người phạm tội.

2.3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản tại huyện

Sơn Tây

Bảng 2.2: Bảng thống kê về hình phạt tội Trộm cắp Tài sản được xét xử sơ

thẩm trong giai đoạn từ 2013 – 2018 trên địa bàn huyện Sơn Tây

Phạt tù từ 6 tháng Kháng Giám đến 03 năm Số bị KHÁNG nghị đốc Năm cáo CÁO phúc Phạt tù Hưởng thẩm thẩm giam án treo

05 06 01 2013 11

01 06 2014 07

03 2015 3

01 02 2016 3

01 03 2017 4

02 06 02 2018 8

10 26 03 0 0 Tổng 36

Nghiên cứu thực tiễn hoạt động quyết định hình phạt giai đoạn 2013 -

2018 trên địa bàn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi cho thấy số vụ án về tội

trộm cắp tài sản mà Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây đã đưa ra xét xử là 30vụ

với 36 bị cáo. Tất cả những vụ án trên đều được cơ quan tiến hành tố tụng

huyện Sơn Tây xác định đúng người, đúng tội. Không có vụ án nào Tòa án

tuyên không phạm tội. Việc quyết định hình phạt của Tòa án là tương đối

chính xác theo quy định của pháp luật và phù hợp với tính chất hậu quả của

hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Tòa án nhân dân huyện Sơn Tây

đã áp dụng đầy đủ các quy định của BLHS, BLTTHS và các văn bản hướng

dẫn của cơ quan có thẩm quyền nhất là các NQ của HĐTP Tòa án Tối Cao và

49

những Thông tư liên tịch, đồng thời, trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà Tòa án quyết định hình phạt

chính xác, tương xứng với hành vi, thủ đoạn phạm tội của từng bị cáo. Hầu

hết những vụ án hình sự, trong đó có những vụ án trộm cắp tài sản được đưa

ra xét xử kịp thời, đảm bảo tính ren đe, giáo dục phòng ngừa.

Trên cơ sở thống kê số liệu xét xử về tội trộm cắp tài sản cho thấy, hình

phạt được áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện

Sơn Tây chủ yêu là hình phạt tù từ 3 năm trở xuống với 36 bị cáo, trong đó

được hưởng án treo chiếm tỉ lệ cao; không có trường hợp nào được miễn hình

phạt. Số vụ án bị kháng cáo chiếm tỉ lệ thấp, không có án bị kháng nghị phúc

thẩm hay giám đốc thẩm. Tỉ lệ án bị cấp phúc thẩm sửa không nhiều, chủ yếu

theo hướng giảm nhẹ hình phạt, hoặc cho hưởng án treo. Nguyên nhân do các

bị cáo đa số là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa lạc hậu, phạm tội lần

đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tuy nhiên qua đó cho thấy việc quyết

định hình phạt của Tòa án huyện Sơn Tây tương đối chính xác, phù hợp với

tính chất, hậu quả của hành vi, các thẩm phán đã vận dụng đúng các nguyên

tắc và các căn cứ của quyết định hình phạt để thực hiện việc quyết định hình

phạt, từ đó đã đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị

cáo, đảm bảo tác dụng tuyên truyền, giáo dục và cải tạo người phạm tội.

2.3.2.1. Quyết định hình phạt tội trộm cắp theo khoản 1.

Khoản 1 là cấu thành cơ bản của tội trộm cắp, có mức hình phạt: “ Phạt

cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến 3 năm”.

Thực tế trên địa bàn huyện Sơn Tây, tội trộm cắp tài sản tập trung ở khoản 1

điều 138 BLHS năm 1999 và khoản 1 điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi

2017. Việc áp dụng pháp luật trọng việc quyết định hình phạt của HĐXX Tòa

án Sơn Tây là tương đối chính xác. Bởi HĐXX đã xem xét, đánh giá đầy đủ

các tình tiết của vụ án từ đó đánh giá được đúng tính chất mức độ nguy hiểm

50

cho xã hội của hành vi. Đồng thời đã cân nhắc đến nhân thân của người phạm

tội ( chủ yếu là người dân tộc thiểu số, sự hiểu biết pháp luật không nhiều, có

tính bồng bột, phạm tội lần đầu) Nên mức hình phạt của các bản án đã tuyên

luôn được đồng tình ủng hộ của người dân, không có án bị kháng cáo, kháng

nghị theo hướng phúc thẩm.

Ví dụ: Bản án số: 09/2015/HSST, Ngày 19 tháng 11 năm 2015

Vào khoảng 17 giờ 00 phút, sau khi Đinh Văn Trình đi phát rẫy về nhà,

Trình đến nhà chị Phạm Thị Thủy lấy tiền công phụ hồ của mình rồi đi uống

rượu tại nhà Đinh Văn Hía. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày Trình đến quán chị

Trinh mua nợ 01 thùng bia Dung quất để mang lên Thủy điện Đăk Rin nhậu

cùng bạn bè. Khi mua nợ được bia, Trình về nhà lấy xe máy chở bia đi, nhưng

trên đường về thấy tại sân nhà chị Đinh Thị Đép 02 chiếc xe mô tô dựng sát

nhau và không có người trông coi, trời tối, điện tắt, lợi dụng lúc đêm khuya

mọi người đi ngủ, Trình lén lấy 01chiếc xe mô tô BKS 76N1 – 01381 của chị

Đinh Thị Bây, dắt ra ngoài lấy chìa khóa trong người mở khóa, điều khiển xe

chạy đến nhà chị Trinh chở bia lên Thủy điện Đăk Rin (chìa khóa xe máy này

là của chị Đinh Thị Bẻ cho bị cáo mượn xe máy sử dụng trước đó, nhưng khi

trả xe bị cáo chưa trả chìa khóa cho chị bẻ). Trên đường đi đến cầu sông

Rinh (cầu cũ), Trình thấy một nhóm thanh niên đang nhậu dưới bờ sông,

tưởng có người quen Trình đem bia xuống cùng nhậu, nhưng người lạ không

quen nên tham gia uống một ly rồi bỏ đi ngủ tại bãi đất gần đó. Đến khoảng

03 giờ ngày 10/4/2015 Trình thức dậy điều khiển xe về lại xã Sơn Tinh nhưng

đến xã Sơn Màu xe hết xăng, Trình gửi xe lại nhà chị Đinh Thị Dố rồi đến

nhà chú mình Đinh Văn Banh ngủ, đến 15 giờ cùng ngày đón xe xin về nhà.

Về đến nhà Trình nghe cơ quan CSĐT Công an huyện Sơn Tây đang tiến

hành điều tra vụ việc, sợ bị phát hiện Trình bỏ trốn khỏi địa phương đi làm ăn

nơi khác.Theo kết luận số: 02/HĐĐGTS ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Hội

51

đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Tây, thống nhất định

giá 01 chiếc xe mô tô BKS 76N1- 01381, tại thời điểm bị cáo Trình trộm cắp

có giá trị 13.230.000đ (Mười ba triệu hai trăm ba chục ngàn đồng).Tại bản

cáo trạng số 81/QĐ - VKS ngày 23/10/2015 của Viện kiểm sát nhân dân

huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo Đinh Văn Trình về tội

“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa,

đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong phần

tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đinh Văn Trình về tội

“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự; đồng thời đề

nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1Điều 46 và

Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt đối với bị cáo Đinh Văn Trình từ 08

(tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ý kiến của trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo: Đồng ý quan điểm

của Kiểm sát viên trong bản luận tội về tội danh bị cáo phạm tội “Trộm cắp

tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều

tình tiêt giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo chấp nhận chịu

bồi thường số tiền theo yêu cầu của người bị hại, người bị hại cũng xin giảm

nhẹ hình phạt cho bị cáo, người bào chữa xuất trình giấy chứng nhận mẹ bị

cáo là bệnh binh. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm b, p khoản

1, 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào

kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ,

ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại, người bào chữa và những

người tham gia tố tụng khác.

Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Đinh Văn Trình phạm tội “Trộm cắp tài

sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự như cáo trạng Viện

kiểm sát nhân dân huyện Sơn Tây đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội

52

và đúng pháp luật.

Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử

thấy rằng: Bị cáo Đinh Văn Trình là công dân đã trưởng thành, có đầy đủ

năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định, nhận thức và điều

khiển được hành vi của chính mình. Năm 2000 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi xử phạt bị cáo 08 (Tám) năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em” và bị

cáo đã chấp hành xong bản án, được xóa án tích, lẽ ra bị cáo lấy đó làm bài

học, sửa chữa lỗi lầm, lương thiện làm ăn để trở thành công dân tốt, có ích

cho xã hội, nhưng vì lười lao động, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và muốn có xe

để đi nên bị cáo đã trộm cắp chiếc xe của chị Đinh Thị Bây để vụ lợi cá nhân.

là thể hiện sự ngoan cố, bất chấp xem thường pháp luật. Hành vi của bị cáo là

nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản của công dân, gây

mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Hội đồng xét xử cần phải áp dụng hình

phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm để giáo dục, răn

đe bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đồng thời góp phần nâng cao ý

thức bảo vệ tài sản trong nhân dân. Song, xét bị cáo là người dân tộc thiểu số,

khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có mẹ là bệnh

binh, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự được quy định tại điểm p khoản 1,2 Điều 46 và Điều 33 của Bộ luật

hình sự nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét lời đề nghị của

vị đại diện Viện kiểm sát về áp dụng điều luật và hình phạt đã nêu. Hội đồng

xét xử xét cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, giảm nhẹ

hình phạt cho bị cáo với mức hình phạt thấp hơn so với mức hình phạt khởi

điểm của Kiểm sát viên đề nghị cũng đủ có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo.

Đối với ý kiến của người bào chữa đã đề nghị. Hội đồng xét xử xét bị cáo

Đinh Văn Trình, thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội này chưa

quá hai năm. Do vậy chưa đủ điều kiện để cho bị cáo được hưởng án treo theo

53

quy định tại điểm b1 khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết 01 ngày 06/11/2013 của

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên không chấp nhận. Đối với

chị Bây tại phiên tòa chị yêu cầu bị cáo Trình phải trả số tiền 280.000đ là số

tiền chị đã sửa chữa xe máy BKS 76N1- 01381 do bị cáo trộm cắp đi bị hư

hỏng và tại phiên tòa bị cáo Trình thỏa thuận chấp nhận chịu trả số tiền này

cho chị Đinh Thị Bây. Sự thỏa thuận của các bên là hoàn toàn tự nguyện đúng

pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận

đó của các bên. HĐXX đã Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1, 2

Điều 46, Điều 33 của BLHS: Xử phạt bị cáo Đinh Văn Trình 07 (bảy) tháng

tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày

12/8/2015.

Qua bản án trên cho chúng ta thấy HĐXX đã áp dụng đầy đủ các quy

định của pháp luật lien quan trong việc quyết định áp dụng hình phạt; xem xét

các ý kiến của KSV, người bào chữa, người bị hại,… để quyết định một hình

phạt chính xác, phù hợp với hành vi của bị cáo.

Ví dụ 2: Bản án số: 01/2015/HSST, Ngày 22 tháng 01 năm 2015

Sáng ngày 17/10/2014, bị cáo Võ Duy Thanh điều khiển xe máy BSKS

76V6 - 3840 chạy từ huyện Sơn Hà đến xã Sơn Lập, huyện Sơn Tây để tìm

người đi hái trái cà phê cho chị của mình là Võ Thị Mai ở tỉnh Đăk Lăk.

Khi đến thôn Tà Ngàm, xã Sơn Lập, bị cáo vào nhà Đinh Thị Thoan

nhưng không có chị Thoan ở nhà mà chỉ có mẹ chị Thoan là bà Đinh Thị

Hoanh đang trông giữ 02 con của chị Thoan. Thanh hỏi: “ nhà đi đâu hết rồi”,

bà Hoanh trả lời: “con tôi đi làm hết rồi” sau đó bị cáo Thanh hỏi mua 01 gói

thuốc lá Ngựa đen, bà Hoanh đến tủ kính trong nhà lấy thuốc lá bán cho

Thanh thì Thanh đi theo sau đứng ở phía sau lưng của bà Hoanh. Lúc này,

Thanh phát hiện trong tủ kính ở tầng trên cùng có 02 ví da (01 cái màu vàng

và 01 cái màu đen) nên bị cáo nẩy sinh ý định trộm cắp. Lợi dụng lúc bà

54

Hoanh lấy thuốc để bán, bị cáo thò tay vào trong tủ kính lấy 01 cái ví da màu

vàng và mở ra xem thấy trong ví có nhiều tờ tiền Polime mệnh giá 500.000đ

và 100.000đ; bị cáo đã lấy 5.000.000đ (Năm triệu đồng) gồm có 10 tờ tiền

Polime mệnh giá 500.000đ bỏ vào trong túi quần, bị cáo chưa kịp để ví lại vị

trí cũ thì bị bà Hoanh đã phát hiện bị cáo đang cầm ví của chị Thoan trên tay,

bà Hoanh nói: “ví đó của người ta không được đụng vào”, nghe vậy bị cáo để

ví lại trong tủ và lúc này bị cáo lại nhìn thấy trên đầu tủ kính có một điện

thoại di động, nhãn hiệu Coocel, màu vàng trắng đang sạc pin, bị cáo tiếp tục

lén lấy chiếc điện thoại di động này bỏ vào túi quần, vừa lúc đó bà Hoanh bán

cho bị cáo Thanh 01 gói thuốc lá ngựa đen trị giá 10.000đ/gói. Sau khi đã

mua thuốc lá xong, bị cáo điều khiển xe máy BSKS 76V6 - 3840 đi về nhà ở

TDP Kà Đáo, thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà. Khi sự việc xảy ra, bà Hoanh

kể lại chị Đinh Thị Thoan nghe và chị Thoan phát hiện biết mình bị mất 01

điện thoại di động và số tiền 5.000.000đ nên chị Thoan báo cho Công an

huyện Sơn Tây biết để điều tra xử lý. Khi nhận được tin báo, Công an huyện

Sơn Tây đã triển khai phối hợp các lực lượng Công an các xã tiến hành điều

tra, chốt chặn các tuyến đường trên địa bàn huyện. Đến khoảng 11 giờ cùng

ngày, tại thôn Tà Vinh, xã Sơn Màu, huyện Sơn Tây, tổ công tác của Công an

huyện đã phát hiện bị cáo Thanh đang điều khiển xe máy BSKS 76V6-3840

từ xã Sơn Tinh về xã Sơn Màu. Khi phát hiện thấy tổ công tác, bị cáo đã bỏ

lại xe máy BSKS 76V6 - 3840, chạy trốn vào rừng. Công an huyện Sơn Tây

đã lập biên bản tạm giữ xe máy BSKS 76V6 - 3840 và 01 điện thoại di động

hiệu Coocel trong cốp xe, đưa về Công an huyện để điều tra xử lý vụ việc.

Ngày 18/10/2014 bị cáo Thanh ra đầu thú trước Công an huyện Sơn Tây về

hành vi phạm tội của mình và đã giao nộp 5.000.000đ (Năm triệu đồng) cho

cơ quan cảnh sát điều tra.Theo kết luận số: 08/HĐĐGTS ngày 12 tháng 12

năm 2014 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sơn Tây,

55

thống nhất định giá 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Coocel, màu vàng

trắng, tại thời điểm bị cáo Thanh trộm cắp có giá trị 292.500đ (hai trăm chín

mươi hai ngàn năm trăm đồng). Như vậy, tổng giá trị tài sản của Chị Thoan bị

cáo Thanh trộm cắp là : 5.292.500đ (Năm triệu hai trăm chín mươi hai ngàn

năm trăm đồng ). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn

Tây, tỉnh Quảng Ngãi trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố

bị cáo Võ Duy Thanh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của

Bộ luật hình sự; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều

138, điểm b, h, p khoản 1 Điều 46, Điều 47, điều 60 của Bộ luật hình sự, xử

phạt đối với bị cáo bị cáo Võ Duy Thanh 4 tháng tù cho hưởng án treo. HĐ

XX đã nhận định hành vi của bị cáo là táo bạo, cần phải xử nghiêm khắc để

làm gương.

HĐXX đã áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46,

Điều 33 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Võ Duy Thanh 6 tháng tù. Thời

hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Đối với bản án này nhận thấy HĐXX đã chưa xét xét đầy đủ các quy

định của BLHS như điều 60 về cho hưởng án treo, điều 47 về áp dụng hình

phạt dưới mức thấp nhất khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Đồng thời vì mục

đích chung là phòng ngừa tội phạm. Dẫn đến đã quyết định áp dụng một hình

phạt nặng cho bị cáo.

2.3.2.2. quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp theo cấu thành tăng

nặng.

Cấu thành tăng nặng của tội trộm cắp được quy định tại các khoản 2, 3

và 4 của điều 138 BLHS 1999( điều 173 BLHS 2015). Thực tiển trên địa bàn

huyện Sơn Tây việc quyết định hình phạt theo cấu thành tăng nặng chủ yếu là

khoản 2 điều 138. Không có vụ nào ở khoản 3 hoặc 4. Ở cấu thành này thì

56

hình phạt có tính nghiêm khắc hơn, quy định mức hình phạt: “Phạt tù từ hai

năm đến bảy năm”. Đây là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy HĐXX cũng rất

thận trọng trong việc quyết định hình phạt.

Ví dụ: Vụ án Đinh Văn Thới

Đinh Văn Thới sinh năm 1992 là một công dân có đầy đủ năng lực trách

nhiệm hình sự, đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp tập trung giáo dưỡng về

hành vi trộm cắp, lẽ ra bị can phải ý thức làm ăn lương thiện, phấn đấu trở

thành công dân tốt cho xã hội. Nhưng Từ ngày 19 tháng 5 đến ngày 20 tháng

6 năm 2009, liên tiếp thực hiện hành vi trộm cắp 05 chiếc xe máy tại Sơn

Dung – Sơn Tây và đến ngày 23 tháng 6 năm 2009 bị Công an huyện Sơn Tây

bắt khẩn cấp. Ngày 26 tháng 6 năm 2009 bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can về

tội Trộm cắp tài sản. Tổng giá trị của 05 chiếc xe máy là 52.200.000 đ.

Tại bản cáo trạng số 04/2009 đã truy tố bị can Đinh Văn Thới về tội

“Trộm cắp tài sản”, quy định tại điểm e khoản 2 điều 138 Bộ luật hình sự của

Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản án hình sự sơ thẩm số

04/2009/HSST ngày 28/9/2009 đã áp dụng điểm e khoản 2 điều 138; điểm g,

p khoản 1 điều 46; điều 47; điều 74 BLHS xử phạt bi cáo với mức án 9 tháng

tù.

Xét bản án chúng ta thấy, mặc dù bị cáo có nhân thân không tốt , đã

phạm tội nhiều lần, tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là trên năm mươi

triệu đồng, phạm vào khoản 2 điều 138, có mức hình phạt là từ hai năm đến 7

năm tù. Song HĐXX đã chú ý đến các quy định khác như điều 47; điều 74 về

nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội để quyết định một

hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Bảo đảm tính giáo dục và

nhân đạo.

2.3.2.3. Quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt

- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Đây là những vụ án

57

có đồng phạm, về nguyên tắc thì chúng ta cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ

bản trong quyết định hình phạt, đặc biệt chú ý đến nguyên tắc cá thể hóa trách

nhiệm hình sự. Theo quy định của điều 58 BLHS: “ Khi quyết định hình phạt

đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng

phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng đồng phạm; các tình

tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng

phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.”.

Chế định đồng phạm được quy định tại điều 17 BLHS 2015. Vì vậy khi

đã xác định được vụ án có đồng phạm thì đòi hỏi cơ quan điều tra phải chứng

minh làm rõ vai trò của từng đồng phạm để có thể áp dụng hình phạt thích

đáng. Tại điểm c khoản 1 điều 3 BLHS quy định người chủ mưu cầm đầu, chỉ

huy cần phải nghiêm trị. Vì đây là những người đồng phạm có vai trò quan

trọng và nguy hiểm.

Trên thực tế có rất nhiều hình thức đồng phạm: Đồng phạm giản đơn;

đồng phạm phức tạp; đồng phạm có thông mưu trước; phạm tội có tổ chức.

Tuy nhiên trên địa bàn huyện Sơn Tây những vụ án có đồng phạm là đồng

phạm giản đơn cùng thực hành, hoặc có phân công vai trò nhưng cũng thuộc

giản đơn chứ không có sự cấu kết chặt chẽ như trường hợp phạm tội có tổ

chức. Mặt khác khi quyết định hình phạt cũng cần chú ý đến mức độ tham

gia, thái độ tham gia,…của từng người đồng phạm.

Ví dụ: Vụ án : Phạm Viết Hiệp cùng đồng bọn phạm tội trộm cắp đã nêu

ở phần định tội danh. HĐXX đã xác định vai trò, tính chất mức độ tham gia

của mỗi bị cáo, áp dụng những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ riêng cho từng bị

cáo. Vì vậy đã có hình phạt tương thích với hành vi của mỗi bị cáo.

Ví dụ 2:

Khoảng 19 giờ 30 ngày 16/8/2018 Đinh Văn Khô, sinh năm 1997 trú tại

thôn Huy Em, xã Sơn Mùa, huyện Sơn Tây cùng Đinh Văn Mỳ, sinh ngày

58

04/4/2003, Đinh Văn Tăng, sinh năm 2000 trú tại thôn Ra Nhua, xã Sơn Tân

cùng tụ tập, ăn nhậu tại nhà của Đinh Văn Trái, sinh năm 1994, trú tại thôn

Huy Em, xã Sơn Mùa. Trong khi đang ngồi nhậu, Đinh Văn Khô nảy sinh ý

định đi rút trộm xăng xe mô tô tại Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Sơn

Tây (gọi tắt Phòng TC-KH) để đổ vào xe mô tô của Đinh Văn Tăng đi chơi,

Khô rủ Mỳ cùng tham gia thì Mỳ đồng ý. Khô nói với Mỳ “đi mua không”,

Mỳ nói “đi thì đi” (“đi mua” là tiếng lóng, các đối tượng cùng ngầm hiểu với

nhau là đi trộm cắp tài sản). Sau đó, Khô đi tìm một số vỏ chai nhựa, loại chai

nước giải khát hiệu Chánh Thắng ở xung quanh nhà Trái rồi mượn xe mô tô

Biển kiểm soát (BKS) 76U1 – 007.62 của Đinh Văn Tăng chở Mỳ đi. Khi đến

ngã ba gần trụ sở Phòng TC-KH, Khô bảo Mỳ đứng ngoài trông xe, Khô một

mình trèo hàng rào đi đến hành lang phía bên trái Phòng TC – KH (từ ngoài

cổng vào). Tại đây, Khô thấy xe mô tô BKS 76B1 – 1147 (xe công vụ do

Phòng TC-KH quản lý) đang dựng ở hành lang. Khô đi tới dùng tay rút ống

dẫn xăng ra cho chảy vào được khoảng nửa lít xăng thì dừng lại. Lúc này,

Khô phát hiện cửa ra vào gần nơi để xe mô tô không khóa, nên nảy sinh ý

định đột nhập vào bên trong để trộm cắp tài sản. Khô mở cửa đi vào phòng

đầu tiên bên tay phải của mình (đây là phòng văn thư – lưu trữ). Khô quan sát

xung quanh nhưng không thấy có tài sản có thể lấy được nên đi qua phòng

khác. Khô đi đến phòng làm việc cạnh cửa chính của trụ sở Phòng TC-KH.

Khô mở cửa đi vào bên trong thấy có một số bàn ghế và nhiều tài liệu. Khô đi

đến ngồi vào 01 chiếc ghế dựa, cạnh 01 cái bàn làm việc phía góc bên trái của

phòng. Tiếp đó, Khô cúi người xuống, dùng tay mở cửa hộc bàn làm việc

(cửa tủ không khóa) rồi dùng tay mò vào trong lục lọi, tìm kiếm tài sản để lấy.

Khô sờ trúng một túi nilon, khi mở túi nilon này ra Khô cầm trúng một “sấp

giống như tiền” nên lấy ra khỏi hộc bàn xem. Nhờ có ánh đèn ngoài đường

chiếu vào, Khô nhìn thấy đó là một sấp tiền gồm nhiều tờ tiền Việt Nam, bằng

59

Polime có mệnh giá 20.000đ (Hai mươi ngàn đồng), Khô lấy sấp tiền này bỏ

vào túi quần dài trước. Khô tiếp tục thò tay vào túi nilon lấy ra các sấp tiền

khác có mệnh giá 10.000đ (Mười ngàn đồng), 50.000đ (Năm mươi ngàn

đồng), 100.000đ (Một trăm ngàn đồng) và tám tờ tiền VNĐ có mệnh giá

200.000đ (Hai trăm ngàn đồng). Toàn bộ số tiền này là tiền cá nhân của chị

Đinh Thị Yến. Mặc dù biết bên trong vẫn còn tiền nhưng Khô quyết định

không lấy nữa và bỏ toàn bộ số tiền lấy được vào túi quần và đi ra ngoài.

Khi thấy Khô ra, Mỳ hỏi “Cái gì đó, tiền hả?”, Khô trả lời “Ừ, về nhà thằng

Trái đi”. Khi về tại nhà Đinh Văn Trái, Khô rủ Mỳ và Đinh Văn Tăng cùng

xuống huyện Sơn Hà chơi thì Tăng và Mỳ đồng ý. Đinh Văn Tăng sử dụng xe

mô tô của mình chở Khô, Mỳ xuống tại nhà nghỉ Cô Mai tại TT. Di Lăng,

huyện Sơn Hà chơi. Tại đây, Khô đưa số tiền đã lấy được ra cùng Mỳ, Tăng

đếm được 12.400.000 đ (mười hai triệu bốn trăm ngàn đồng), Đinh Văn Tăng

dùng điện thoại của mình, chụp ảnh số tiền này và đăng lên mạng xã hội

Facebook. Số tiền này Khô đã cùng bạn bè ăn nhậu mua sắm hết.

Khoảng 20 giờ ngày 18/8/2018, Trong lúc ngồi nhậu tại nhà anh Gió,

Khô, Mỳ cùng bàn bạc về việc quay lại Trụ sở Phòng TC–KH huyện để trộm

cắp tài sản. Trên đường đi, Khô bàn bạc với Mỳ, khi đột nhập vào Phòng TC-

KH, phát hiện tiền hoặc tài sản khác có giá trị, có thể lấy thì đều lấy hết. Đến

nơi, Khô dựng xe bên ngoài đường, nhìn xung quanh không có người, Khô và

Mỳ trèo rào vào bên trong, Khô, Mỳ đi đến cửa sổ phía bên trái của tầng 1

(gần cửa chính), cùng nhau dùng tay giật mạnh cửa sổ này làm gãy chốt bên

trong, mở được cửa sổ và trèo vào bên trong. Tiếp đó, Khô, Mỳ đi đến phòng

làm việc, nơi lần trước Khô vào lấy tiền để tìm kiếm tài sản. Đinh Văn Mỳ đi

đến bàn làm việc ở vị trí đối diện với cửa phòng (Đây là bàn làm việc của chị

Huỳnh Thị Mỹ Châu, sinh năm 1984, là Kế toán trưởng Phòng TC-KH). Mỳ

dùng tay giật mạnh hộc cửa bàn làm việc, làm cửa bung ra, rồi dùng tay mò

60

vào bên trong lục tìm và lấy ra lần lượt hai sấp tiền VNĐ có mệnh giá

10.000đ (mười ngàn đồng), một sấp tiền VNĐ có mệnh giá 20.000đ (hai mươi

ngàn đồng). Mỳ bỏ toàn bộ số tiền lấy được vào túi quần. Lúc này, Khô đang

dùng tay mở cửa két sắt của Phòng TC-KH phía góc tường, cạnh vị trí nơi Mỳ

lấy tiền nhưng không mở được. Khô dùng tay bẻ mạnh, làm tay cầm cửa két

sắt bị gãy nên cả hai đi ra khỏi phòng, đóng cửa lại. Trên đường đi về, khi đến

đoạn đường gần cổng vào Ban chỉ huy quân sự huyện Sơn Tây, Mỳ lấy toàn

bộ số tiền đã lấy được, đưa cho Khô giữ. Sau đó, Khô rủ Mỳ, Tăng, Minh,

Nga đến Thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà chơi.

Trong quá trình điều tra bị can đã nhận thức được hành vi của mình là

sai trái, thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đây là căn

cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị can theo quy định tại điểm s khoản 1

Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, bị can đã có 02 lần thực hiện hành vi phạm tội

Trộm cắp tài sản, trong đó mỗi lần đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo

quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS. Do đó, bị can phải chịu tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội từ 02 lần trở lên” quy định tại điểm g

khoản 1 Điều 52 BLHS. Ngoài ra, qua kết quả điều tra đã xác định: Sau khi

thực hiện hành vi phạm tội lần thứ nhất trót lọt, bị can tiếp tục nảy sinh ý định

thực hiện lần thứ hai, đồng thời rủ rê, lôi kéo Đinh Văn Mỳ cùng tham gia

phạm tội. Tại thời điểm cùng với Khô thực hiện hành vi trộm cắp này, Đinh

Văn Mỳ chưa đủ 18 tuổi. Vì vậy, bị can phải chịu tình tiết tăng nặng “Xúi dục

người dưới 18 tuổi phạm tội” theo quy định điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật

Hình sự. .

- Chị Đinh Thị Yến khai báo bị mất tổng số tiền 13.160.000 đ (Mười ba

triệu một trăm sáu mươi ngàn đồng). Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định

Đinh Văn Khô chỉ chiếm đoạt 12.400.000 đ (Mười hai triệu bốn trăm ngàn

đồng) trong hộc bàn của chị Yến. Chị Yến yêu cầu bị can phải bồi thường số

61

tiền bị can đã chiếm đoạt của chị Yến là 12.400.000 đ.

- Chị Huỳnh Thị Mỹ Châu khai nhận bị mất tổng số tiền 61.934.000 đ

(Sáu mươi mốt triệu chín trăm ba mươi bốn ngàn đồng). Trong quá trình điều

tra chỉ chứng minh được Đinh Văn Mỳ và Đinh Văn Khô chiếm đoạt

6.000.000 đ (Sáu triệu đồng) tại hộc bàn làm việc của chị Châu. Chị Châu yêu

cầu các đối tượng đã chiếm đoạt tiền của chị, phải có trách nhiệm hoàn trả lại

số tiền đã chiếm đoạt.

- Đối với Đinh Văn Mỳ sinh ngày 04/04/2003, tính đến thời điểm phạm

tội (tháng 8/2018), Mỳ chưa đủ 16 tuổi. Do đó căn cứ quy định tại khoản 2

Điều 12 Bộ luật Hình sự Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự

(TNHS) đối với Đinh Văn Mỳ.

- Đối với Đinh Văn Tăng: Đinh Văn Tăng giao xe mô tô BKS 76U1 –

007.62 của mình cho Đinh Văn Khô và Đinh Văn Mỳ mượn. Sau đó, Khô,

Mỳ sử dụng để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản; bản thân Tăng có cùng

tham gia tiêu xài số tiền Khô, Mỳ trộm cắp được. Tuy nhiên, Tăng không biết

Khô, Mỳ mượn xe mô tô của mình để trộm cắp tài sản, không biết được số

tiền Khô, Mỳ có được là tiền trộm cắp. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập

xử lý.

- Đối với Đinh Văn Nga, Đinh Văn Minh và một số đối tượng khác cùng

tham gia ăn nhậu từ số tiền Đinh Văn Khô, Đinh Văn Mỳ đã trộm cắp được.

Tuy nhiên, Nga và Minh và những đối tượng này không biết về hành vi trộm

cắp của Khô, Mỳ nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Tại bản án sô 04/2019/HSST ngày 28/3/2019. HĐXX đã phân tích và áp

dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt đối với

bị cáo Khô, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều

52 BLHS; khoản 1 điều 173 BLHS để xử phạt bị cáo 14 tháng tù.

Ngoài ra bản án cũng xem xét đánh giá đối với những người đồng phạm

62

khác. Việc không truy cứu TNHS đối với Đinh Văn Mỳ là có cơ sở và đúng

pháp luật.

- Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.

Đây là trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác

nhau, mỗi hành vi cấu thành một tội độc lập, được Tòa án đưa ra xét xử cùng

một lần. Quyết định hình phạt trong trường hợp này cần phải tuân theo quy

định của pháp luật. Tại điều 55 BLHS quy định: “ Khi xét xử cùng 01 lần một

người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng

hợp hình phạt theo quy định sau đây: 1. Đối với hình phạt chính:a) Nếu các

hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời

hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt

chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ,

30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn; b) Nếu các hình phạt đã tuyên là cải

tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được

chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ

được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo

quy định tại điểm a khoản 1 Điều này; c) Nếu hình phạt nặng nhất trong số

các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung

thân;d) Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình

thì hình phạt chung là tử hình;đ) Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình

phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;e) Trục

xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác; 2. Đối với hình phạt bổ

sung: a) Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được

quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó;

riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình

phạt chung; b) Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án

63

phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.”

Trên thực tế hoạt động xét xử của Tòa án huyện Sơn Tây rất ít gặp

trường hợp này. Tuy nhiên HĐXX vẫn quyết định hình phạt đảm bảo đúng

theo quy định của pháp luật

Ví dụ: Bản án số 01/2010/HSST ngày 19/3/2010 của Tòa án nhân dân

huyện Sơn Tây, xét xử đối với Đinh Văn Thới và Lê Hùng Thiên về tội trộm

cắp tài sản và trốn khỏi nơi giam.

Tóm tắt nội dung: Lê Hùng Thiên và Đinh Văn Thới là những công dân

có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức và điều khiển

hành vi của mình. Nhưng vì lười nhác lao động, thích chơi bời lêu lỗng nên

đã đi vào con đường phạm tội, cả 2 đều đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản.

Năm 2007 Lê Hùng Thiên đã bị phạt 09 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản,

sau khi chấp hành xong hình phạt về địa phương thì ngày 21/9/2009 lại tiếp

tục phạm tội trộm cắp chiếc xe máy của anh Trương Đình Thanh. Đinh Văn

Thới cũng đã được đưa đi giáo dưỡng vì hành vi trộm cắp, sau khi chấp hành

xong thời gian giáo dưỡng trở về địa phương, Đinh Văn Thới tiếp tục phạm

tội trộm cắp và bị xử phạt 09 tháng tù giam. Trong thời gian Lê Hùng Thiên

bị tạm giam để điều tra về hành vi trộm cắp, Đinh Văn Thới bị tạm giam chờ

thi hành án về tội trộm cắp, thì ngày 24/10/2009 Đinh Văn Thới và Lê Hùng

Thiên đã dùng lưỡi Rìu đục phá tường phòng tạm giam số 01 nhà tạm giữ

thuộc công an huyện Sơn Tây để trốn khỏi nơi giam .Sau khi trốn khỏi nơi

giam ra ngoài, Đinh Văn Thới và Lê Hùng Thiên đã cùng nhau tiếp tục trộm

cắp 02 chiếc xe máy của Anh Nguyễn Thanh Hùng và Võ Thanh Chương và

sau đó Đinh Văn Thới cũng đã tiếp tục trộm cắp 02 chiếc xe máy của anh

Đinh Văn Riêu và Đinh Xuân Tuyên.

HĐXX đã áp dụng: khoản 1 điều 138; khoản 1 điểu 311; điểm p khoản 1

điều 46; điểm g khoản 1 điều 48 BLHS xử phạt Lê Hùng Thiên 18 tháng tù về

64

tội trộm cắp, 30 tháng tù về tội trốn khỏi nơi giam và căn cứ điều 50 BLHS

tổng hợp hình phạt chung là 4 năm tù. Áp dụng khoản 1 điều 138; khoản 1

điểu 311; điểm p khoản 1 điều 46; điểm g khoản 1 điều 48; điều 68, 69, 74,

BLHS xử phạt bị cáo Đinh Văn Thới 15 tháng tù về tội trộm cắp, 22 tháng tù

về tội trốn khỏi nơi giam, áp dụng điều 50 để tổng hợp hình phạt chung là 3

năm 01 tháng tù; và áp dụng điều 51 BLHS tổng hợp với phần hình phạt 05

tháng của bản án trước chưa chấp hành, buộc bị cáo phải chấp hình phạt

chung của 2 bản án là 03 năm 6 tháng tù.

Qua bản án trên cho thấy HĐXX đã vận dụng đầy đủ các quy định của

pháp luật trong việc quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt.

2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định

của Bộ luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

2.4.1. Về việc định tội danh

- Xác định giá trị tài sản

Như phân tích ở trên, trị giá của Tài sản bị chiếm đoạt có ý nghĩa rất

quan trọng trong việc xác định một hành vi trộm cắp TS nào đó có phải là tội

phạm hay không, nếu phạm tội thì là thuộc trường hợp tặng nặng hay không.

Hiện nay việc xác định trị giá tài sản đang giao cho HĐ định giá TS trong tố

tụng hình sự, do UBND địa phương thành lập. Nhưng chưa có những quy

định cụ thể để ràng buộc trách nhiệm của các thành viên HĐ định giá, cũng

như những căn cứ khoa học cho việc xác định giá. Dẫn đến tùy tiện trong việc

xác định giá trị của tài sản bị chiếm đoạt, ảnh hưởng đến kết quả xử lý tội

phạm.

- Thời điểm hoàn thành( thời điểm chiếm đoạt được tài sản)

Việc xác định thời điểm được coi là đã chiếm đoạt được tài sản cũng rất

quan trọng trong việc định tội danh và áp dụng hình phạt. Vì nguyên tắc thì

tội phạm hoàn thành bao giờ cũng có hậu quả nguy hiểm hơn, chính sách xử

65

lý cũng phải nghiêm khắc hơn. Hiện nay chưa có văn bản nào quy định hoặc

hướng dẫn về vấn đề này. Theo khoa học pháp lý chỉ nêu chung chung: Tùy

vào loại tài sản và vị trí để tài sản mà thời điểm xác định chiếm đoạt được tài

sản có thể xác định khác nhau. Chính vì vậy mà có sự không thống nhất trong

quá trình áp dụng pháp luật.

Ví dụ: Đối vụ án Đinh Văn Khiết nêu trên. Bị cáo Khiết ôm thùng gỗ ra

khỏi nhà ( nơi cất giữ) để lục lấy tài sản, bị cáo chỉ thấy tiền và lấy, còn vàng

thì bị cáo không thấy và không lấy vẫn còn trong thùng gỗ. Vậy đối với cái

thùng gỗ thì tội phạm hoàn thành kể từ khi đem ra khỏi nhà, còn số vàng cũng

đã được bị cáo đem ra khỏi nhà, nhưng nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo,

bị cáo cũng không chiếm đoạt. Vậy số vàng đó có được coi là đã chiếm đoạt

được hay chưa để xác định giai đoạn phạm tội cho đúng.

- Đánh giá mặt chủ quan thông qua hành vi (MKQ)

Ý thức chủ quan của tội phạm, ngoài lời khai nhận tội của bị can, còn

phải được chứng minh thông qua các tình tiết thuộc mặt khách quan của tội

phạm. Tuy nhiên có nhiều vụ án các tình tiết khách quan không chứng minh

được ý thức chủ quan, dẫn đến khó xử lý.

Ví dụ: Vụ Đinh Văn Hậu, khi đi dự đám cưới về, Hậu vào chỗ để xe

Honda mở khóa và dắt một chiếc xe máy của anh Đinh Văn Trái cũng đi ăn

cưới cùng. Khi dắt xe ra Hậu mở khóa điện và điều kiển về nhà mình ngủ.

Sáng hôm sau anh Hậu báo công an và tìm phát hiện xe đang ở nhà của Hậu.

Hậu khai là tưởng xe của Hậu nên dắt nhầm. Ở vụ án này đã không đủ chứng

cứ chứng minh ý thức chiếm đoạt của Hậu nên hành vi của Hậu không xử lý

theo tội trộm cắp được.

2.4.2. Về áp dụng hình phạt

- Về áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ

Theo quy định tại khoản 1 điều 173 BLHS thì có mức hình phạt là: Cải

66

tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Như vậy

người phạm tội có thể bị áp dụng một trong hai loại hình phạt là cải tạo không

giam giữ hoặc bị phạt tù. Tùy vào tính nguy hiểm của hành vi và nhân thân

của bị cáo mà HĐXX có thể quyết định áp dụng loại hình phạt nào cho đạt

được mục đích của hình phạt. Nhưng trên thực tế HĐXX vẫn thường không

áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ mà áp dụng hình phạt tù là chủ yếu.

Nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì hạ xuống dưới mức thấp nhất của hình

phạt tù là 3 hoặc 4 tháng tù. Sở dĩ như vậy vì hiện nay chưa có hướng dẫn

trong việc áp dụng hình phạt, mà điều luật thì quy định mức hình phạt quá

dài, hoặc trong điều luật quy định hình phạt gồm nhiều loại.

- Quyết định hình phạt khác nhẹ hơn

Tại khoản 1 điều138 BLHS năm 1999 thì có mức hình phạt là: Cải tạo

không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Hình phạt

cải tạo không giam giữ có tính chất ít nghiêm khắc hơn hình phạt tù. Trong

điều luật có quy định cả 2 loại hình phạt như khoản 1 điều 138 thì, mức thấp

nhất của khung hình phạt này là cải tạo không giam giữ. Nhưng trên thực tế

HĐXX áp dụng điều áp dụng điều 47 lại xử phạt bị cáo 4 tháng tù. Điều này

cũng là một vấn đề tranh cải trên địa bàn huyện Sơn Tây, cần được giải thích

hướng dẫn.

- Về cho hưởng án treo (theo điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 và

điều 65 BLHS năm 2015)

Luật hình sự quy định: “Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào

nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không

cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định

thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong

thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.”. Đây là điều

luật mang tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời để giảm bớt số

67

lượng người chấp hành án tại các cơ sở cải tại. Tuy nhiên trên thực tế vì nhiều

lý do, án treo đã bị lạm dụng một cách tùy tiện. Đồng thời Tòa án cũng có

những quy định hạn chế cho hưởng án treo. Điều này là vi phạm pháp luật,

ảnh hưởng đến quyền lợi của những người được hưởng án treo khi họ đủ điều

kiện theo luật định.

Kết luận Chương 2

Trong chương 2, tác giả đã đưa ra và phân tích những nội dung thuộc về

mặt lý luận trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt theo qui

định của pháp luật hình sự Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu thực trạng việc

áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản tại Tòa án nhân dân huyện

Sơn Tây - tỉnh Quảng Ngãi. Qua đó cho thấy thực tiễn hoạt động định tội

danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện

Sơn Tây đã được Tòa án (HĐXX) thực hiện tương đối tốt. Đã áp dụng đầy đủ

các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật TTHS và các văn bản hướng dẫn

liên quan để định tội danh và quyết định hình phạt. Tỉ lệ án bị kháng cáo ít, án

kháng nghị không có; việc cải sửa của cấp phúc thẩm cũng ít. Tuy nhiên bên

cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập trong

việc định tội danh và áp dụng hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản. Những

tồn tại, bất cập, hạn chế này đã được thể hiện trong luận văn thông qua các vụ

án cụ thể. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó chủ yếu là do cách

nhận thức, hiểu các quy định của Pháp luật nói chung và pháp luật về tội trộm

cắp nói riêng chưa được thống nhất; hiểu sai tinh thần của điều luật, dẫn đến

việc áp dụng quy định của pháp luật để định tội danh và quyết định hình phạt

chưa chính xác. Do đó, đòi hỏi phải có những giải pháp để đảm bảo pháp luật

68

được áp dụng một cách thống nhất.

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

3.1. Yêu cầu áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

về tội trộm cắp tài sản

3.1.1. Yêu cầu của việc bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự

Quyền con người, hay còn gọi là nhân quyền, đó là những quyền tự

nhiên vốn có của một con người, là một giá trị cơ bản và quan trọng của nhân

loại. Từ khi sinh ra ai cũng đều có quyền con người. Chẳng hạn quyền được

sống, quyền được tự do đi lại, quyền bất khả xâm hại về sức khỏe, quyền

được sở hữu về tài sản hợp pháp,… Nhưng để bảo đảm quyền con người được

tôn trọng thì đòi hỏi phải có những quy định của pháp luật. Trước đây pháp

luật chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, quyền con người bị giới hạn

trong chừng mực nhất định. Ngày nay quyền con người đã được các quốc gia

trên thế giới tôn trọng và bảo vệ. Đó là thành quả của sự phát triển lịch sử

loài người, ở đâu quyền con người được tôn trọng càng nhiều thì ở đó thể hiện

sự dân chủ văn minh.

Ở Việt Nam, kể từ khi giành độc lập năm 1945, việc phổ biến và giáo

dục nhân quyền ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, khuyến khích.

Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ

Chí Minh đọc ngày 2/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên

phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người đã

được ghi nhận trong các bản Hiến pháp nước ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến

pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp

69

năm 2013.

Trong Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992, Ban Bí thư Trung ương

Đảng đã khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu

dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế

giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên

nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”.

Hiến pháp 2013 đã dành cả một chương (Chương II: Quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) để quy định cụ thể và toàn diện hơn

các quyền của con người; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (từ Điều 14

đến Điều 49). Điều 14 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân

sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo

Hiến pháp và pháp luật”. Điều 16 quy định:1. Mọi người đều bình đẳng trước

pháp luật; 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự,

kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều 20 quy định:1. Mọi người có quyền bất khả xâm

phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân

phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối

xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2.

Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định

hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả

tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.

Như vậy, Pháp luật là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực

hiện bảo vệ quyền con người. Chính vì vậy khi áp dụng pháp luật để định tội

danh hay áp dụng hình phạt chúng ta cần tôn trọng các quy định của pháp luật

về quyền con người, không nên tùy tiện xúc phạm hay tước bỏ các quyền

khác khi không bị pháp luật hạn chế. Mặt khác quyền sở hữu về tài sản hợp

70

pháp là một trong những quyền cơ bản của công dân, được pháp luật bảo hộ

cho nên chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ. Mọi hành vi phạm tội trộm cắp

phải được xử lý nghiêm minh.

3.1.2. Yêu cầu của việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân; Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng

pháp luật, do Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo; là nhà nước trong đó pháp

luật là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền đã được Đảng và nhà nước xem là

mục tiêu quan trọng trong công cuộc đổi mới. Đến nay hệ thống pháp luật đã

được hoàn thiện dần, đáp ứng những yêu cầu trước mắt;

Xuất phát từ yêu cầu này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải đảm

bảo áp dụng đúng pháp luật, trong đó có tội trộm cắp Tài sản. Muốn vậy thì

phải tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan CSĐT, VKSND, Tòa

án và một số cơ quan tiến hành tố tụng khác.

3.1.3. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp hình sự

Công cuộc cải cách tư pháp hình sự, là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm được ghi nhận trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX

về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo kết luận số 92/KL-TW

ngày 12/3/2104 : “Tuy nhiên, việc chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cải

cách tư pháp vẫn còn chậm, chưa theo đúng lộ trình của Chiến lược cải

cách tư pháp. Một số nhiệm vụ khi triển khai thực hiện có ý kiến khác nhau,

nhưng chưa được nghiên cứu, kết luận kịp thời. Việc nghiên cứu, xác định

chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cơ chế phân bổ ngân sách và việc đổi

mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, chính sách

đãi ngộ đối với cán bộ của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp vẫn còn

71

chậm. Vẫn còn một số cán bộ tư pháp phẩm chất chính trị, ý thức trách

nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu

cầu. Tình trạng một bộ phận cán bộ tư pháp nhũng nhiễu, tiêu cực chưa

giảm, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào chất lượng hoạt động tư

pháp.”

Để khắc phục tình trạng này thì việc áp dụng pháp luật đúng của các cơ

quan có thẩm, các cá nhân có thẩm quyền là một yêu cầu cần thiết. Nhằm

cũng cố niềm tin của Nhân dân vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà

nước nói chung và hệ thống pháp luật nói riêng.

3.1.4. Yêu cầu của hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, vấn đề quan hệ quốc tế về

lĩnh vực tư pháp nói riêng là hết sức cần thiết. Vì đây là cơ sở để cơ quan thực

thi pháp luật các nước tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong việc truy tố,

xét xử các vụ án hình sự nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội

phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, trong đó có loại tội

trộm cắp tài sản; đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân mỗi nước. Đặc biệt là những năm gần đây, tình hình tội phạm có yếu tố

nước ngoài, xuyên quốc gia diễn biến phức tạp: mua bán người, giết người,

mua bán trái phép chất ma túy, tham nhũng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,... nên

số lượng các yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của các nước gửi đến Việt

Nam thực hiện, cũng như yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của các cơ

quan tiến hành tố tụng Việt Nam gửi đi nước ngoài thực hiện ngày càng

nhiều. Đáng chú ý nổi lên một số yêu cầu liên quan đến tội phạm sử dụng

công nghệ cao để chiếm đoạt tài sản; tài sản tham nhũng, trộm cắp thường

được các đối tượng tẩu tán ra nước ngoài, chuyển đổi hình thức sở hữu thành

nguồn gốc hợp... Vì vậy yêu cầu của việc áp dụng đúng pháp luật để giải

quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài, đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm

72

xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, triển khai và thực hiện có hiệu quả

các quy định mới về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự của Bộ luật hình sự

năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và các đạo luật tư pháp mới là điều cần

thiết trong thời đại ngày nay.

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt

nam về tội trộm cắp tài sản

3.2.1. Tăng cường nhận thức đúng về áp dụng pháp luật

Định tội danh và quyết định hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật

của những con người cụ thể, là hoạt động thực tiễn, thông qua nhận thức, tư

duy của chủ thể áp dụng pháp luật. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và

PL về tội “Trộm cắp tài sản”sẽ tạo điều kiện cho hoạt động áp dụng PL được

thực hiện chính xác và có hiệu quả; đảm bảo tính thống nhất và tính pháp chế

trong việc áp dụng PL.

Tuy các BLHS của Việt Nam chưa đưa ra được khái niệm về tội “Trộm

cắp tài sản” nhưng thực tiễn cho thấy, chúng ta có thể nhận thức rõ được đâu

là tội “Trộm cắp tài sản”, các dấu hiệu đặc trưng của nó, để phân biệt với các

hành vi phạm tội khác. Bởi BLHS hiện hành đã cụ thể hóa cấu thành cơ bản,

cấu thành tăng nặng của tội “Trộm cắp tài sản”. Đòi hỏi các cơ quan tiến hành

tố tụng, những người tiến hành tố tụng phải có nhận thức chính xác, đầy đủ,

khách quan những quy định này thì mới đảm bảo tính thống nhất và công

bằng trong quá trình định áp dụng PL về tội “Trộm cắp tài sản”.

Muốn nhận thức đúng, đòi hỏi các chủ thể phải tăng cường học hỏi,

nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan.

3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật

Tội trộm cắp tài sản đã được BLHS năm 2015 ( sửa đổi bổ sung năm

2017) . Nhưng qua thực tiễn áp dụng vẫn còn những bất cập vướng mắc nêu

trên, nhất là hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn, vẫn còn áp dụng hướng dẫn

73

tại TTLT số 02/2001. Một số tình tiết mới chưa có hướng dẫn. Mặt khác xu

hướng phát triển của xã hội ngày càng đi lên, các quan hệ xã hội mới cũng

theo đó phát sinh. Vì vậy, một trong những giải pháp thường xuyên và lâu dài

là phải tiến hành bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật,

bảo đảm các quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, dễ thực hiện. Hoàn thiện hệ

thống văn bản PL phòng, chống tội “Trộm cắp tài sản” cũng là nhu cầu bức

xúc để nhằm ngăn chặn và đẩy lùi loại tội phạm này, góp phần ổn định tình

hình trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ quyền con người.

Chính vì lẽ đó, học viên kiến nghị Hội đồng thẩm phán TAND tối cao

cùng những cơ quan tiến hành tố tụng khác, trước hết sớm ban hành văn bản

hướng dẫn, giải thích đối với tội trộm cắp tài sản, vì một số nội dung mới của

điều luật chưa được giải thích, hướng dẫn thống nhất để áp dụng như: “gây

ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; Tài sản là phương tiện

kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật”.

Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu phần lý luận và thực tiển áp dụng pháp

luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sơn Tây. Tác giả luận văn

kiến nghị sửa đổi điều 173 BLHS như sau:

- Tại khoản 1 điều 173: Cần sửa đổi bổ sung điểm a như sau: “a) Đã bị

xử lý vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;”

Quy định như vậy mới đầy đủ vì xử lý vi phạm hành chính bao gồm cả xử lý

kỷ luật, xử phạt, hoặc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.

- Tại khoản 2: Cần sửa như sau:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02

năm đến 07 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000

đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000

74

đồng mà thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức; Có tính chất

chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm; Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

Hành hung để tẩu thoát;

c) Tài sản là bảo vật quốc gia;

- Tại khoản 3: Cần sữa như sau:

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07

năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 50.000.000đồng đến dưới

200.000.000 đồng mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm b

khoản 2 điều này;

c)Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

- Tại khoản 4: Cần sửa như sau:

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12

năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 điều

này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Quy định như vậy thì sẽ đảm bảo tính công bằng hơn. Bởi trị giá tài sản

bị chiếm đoạt là một căn cứ để xem xét, phân chia khung hình phạt và các

tình tiết như: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm;

Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; Hành hung để tẩu thoát; Cũng là một

trong những tình tiết xem xét tính nguy hiểm của hành vi để định khung tăng

75

nặng. Chính vì vậy nếu trị giá tài sản ít hơn mức định khung liền kề mà có

thêm một trong các tình tiết định khung thì phải áp dụng khung tăng nặng

bằng với trị giá tài sản định khung.

3.2.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản

Thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ đối với

công tác điều tra, truy tố , xét xử đối với các vụ án phức tạp, lựa chọn là án lệ

để bổ sung kiến thức kinh nghiệm cho đội ngủ cán bộ tư pháp . Nâng cao

trình độ và kinh nghiệm giải quyết đối với án trộm cắp tài sản..

Các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp cần quan tâm thường xuyên đến

việc đúc rút kinh nghiệm về các hoạt động nghiệp vụ thụ lý giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với tội phạm nói

chung trong đó có “Trộm cắp tài sản”. Hàng năm mỗi ngành phải tổ chức các

lớp tập huấn chuyên sâu về công tác điều tra, truy tố, xét xử. Trên cơ sở tổng

kết, rút kinh nghiệm những ưu điểm và hạn chế trong thực tiễn công tác này

để rút ra những bài học kinh nghiệm để bỗi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ

ĐTV, KSV và TP.

3.2.4. Nâng cao khả năng, năng lực, trình độ, kỹ năng của cán bộ áp

dụng pháp luật (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát

viên), của Luật sư, giám định viên.

Nâng cao nghiệp vụ và khả năng nhận thức và kinh nghiệm của ĐTV,

KSV và TP trong việc áp dụng pháp luật nói chung và đối với tội trộm cắp nói

riêng là một đòi hỏi cần thiết. Nhất là đối với một huyện núi Sơn Tây, trình độ

và kinh nghiệm của đội ngủ ĐTV, KSV, TP vẫn còn hạn chế . Số lượng án

xảy ra hàng năm ít. Vì vậy cần phải tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao

chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng trong từng hoạt động điều tra, truy tố và xét

xử để đảm bảo mọi tội phạm đều phải được điều tra và xử lý kịp thời, nghiêm

76

minh, đúng quy định của PL.

Đi đôi với việc nâng cao trình độ năng lực thì cũng cần nâng cao bản

lĩnh nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm trong đấu tranh phòng chống tội phạm

của các cá nhân có thẩm quyền. Cần tiếp tục quán triệt việc học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

3.2.5. Nâng cao ý thức xã hội

Nâng cao nhận thức của người dân trong việc đấu tranh phòng chống tội

phạm trong đó có tội phạm “Trộm cắp tài sản” là một trong những điều kiện

quan trọng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng, điều tra nhanh chóng xác

minh, tìm ra sự thật của vụ án, truy tố đúng người, đúng tội, tránh oan sai,

đồng thời, góp phần ngăn ngừa tội phạm trong xã hội.

Để nâng cao ý thức của mọi người dân thì: Công tác tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục PL cần được thực hiện một cách bài bản, đồng bộ, bằng nhiều

hình thức, từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, trong đó, tuyên truyền giáo

dục PL trong nhà trường cần được quan tâm và thực hiện một cách nghiêm

túc, linh hoạt; đẩy mạnh tuyên truyền PL trên các phương tiện thông tin đại

chúng, lồng ghép trong các cuộc họp của tổ dân phố, các cuộc họp của chi bộ,

đoàn thể…tạo một phong trào nâng cao ý thức pháp luật và ý thức đấu tranh,

phòng chống tội phạm trong toàn dân. Mặt khác trong quá trình xét xử thì Tòa

án cũng nên tăng cường công tác xét xử lưu động, qua đó nêu cao tinh thần

cảnh giác của mọi người.

3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất cho cơ quan áp dụng pháp luật

Trên cơ sở định hướng chung về cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp

được các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đề cập là: Tăng cường cơ

sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan, cán bộ tư pháp, bổ trợ tư

pháp theo hướng hiện đại, không để lạc hậu hơn so với phương tiện hoạt động

của bọn tội phạm. Trong việc xây dựng, trang bị cần đón đầu, tiếp cận ngay

77

với những trang bị, phương tiện hiện đại trong điều kiện cho phép; BCA-

VKSND tối cao- TAND tối cao cần hoạch định những bước đi phù hợp để

bảo đảm cơ sở vật chất về trụ sở, trang thiết bị phục vụ hoạt động của của các

cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương, cụ thể là: Từng bước xây dựng đầy

đủ trụ sở làm việc đảm bảo khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi phục vụ tốt

cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; Trang bị đầy đủ các phương tiện làm

việc ĐTV, KSV và TP, đặc biệt là phương tiện phục vụ cho công tác đấu

tranh phòng chống tội phạm như phương tiện đi lại, trang thiết bị kỹ thuật

phục vụ công tác như: Camera, máy ảnh, máy in, các dụng cụ bảo hộ, bồi

dưỡng độc hại...nhằm động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ tư

pháp; Từng bước áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của điều tra,

truy tố, xét xử.

Từ thực tiễn giải quyết các vụ án “Trộm cắp tài sản”trên địa bàn huyện

Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi cho thấy, diễn biến tình hình tội trộm cắp ngày

càng phức tạp, và táo bạo, tội phạm ngày càng sử dụng những phương thức,

thủ đoạn tinh vi,… Trong khi đó cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phục

vụ hỗ trợ công tác điều tra truy tố và xét xử; phục vụ việc xác minh, thu thập

chứng cứ, tài liệu…còn nhiều hạn chế và lạc hậu. Vì vậy tăng cường cơ sở vật

chất, thiết bị cho các cơ quan tiến hành tố tụng là điều cần thiết.

3.2.7. Tăng cường phối hợp trong hoạt động áp dụng pháp luật của

các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

Mặc dù hiện nay các cơ quan tiến hành tố tụng đã có những quy chế phối

hợp liên ngành từ trung ương đến cơ sở trong việc điều tra, xét xử các vụ án

hình sự. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy, có một số trường hợp khi tiến hành

điều tra và xử lý các vụ án nói chung, án trộm cắp tài sản nói riêng, CQĐT

vẫn chưa thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp với VKSND, chẳng hạn: Không

nghiêm túc thực hiện các yêu cầu trong xử lý tố giác, tin báo về tội trộm cắp;

78

Có những vụ việc, CQĐT không tiến hành biện pháp như khám nghiệm hiện

trường hoặc có tổ chức khám nghiệm nhưng lại không thông báo cho VKSND

biết để thực hiện kiểm sát nên đã không đảm bảo thủ tục pháp lý; không thu

thập kịp thời các dấu vết, vật chứng,… Hoặc trong việc đánh giá chứng cứ

giữa VKS và Tòa án, nếu có sự không đồng nhất cần phải có cuộc họp bàn

bạc, trao đổi để đi đến thống nhất. Tránh quyền anh quyền tôi dẫn đến phải trả

điều tra bổ sung hoặc án oan sai.

Kết luận Chương 3

Từ những nội dung về lý luận và thực tiễn được phân tích, đánh giá ở

chương 1 và chương 2, trong phạm vi chương 3 này, tác giả đã đưa ra các yêu

cầu và giải pháp nhằm áp dụng đúng pháp luật về tội trộm cắp tài sản, nhằm

đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Sơn

Tây nói riêng. Đồng thời, tác giả đưa ra một số đề xuất hoàn thiện quy định

của pháp luật hình sự, cũng như kiến nghị các giải pháp trước mắt nhằm áp

dụng pháp luật được thống nhất. Bảo đảm phán quyết của Tòa án đưa ra đúng

79

người, đúng tội, đúng pháp luật.

KẾT LUẬN

Qua thực tiễn nghiên cứu đề tài “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật Việt

Nam từ thực tiễn huyện Sơn Tây - tỉnh Quảng Ngãi”, cho thấy :

Thứ nhất: Về quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản chưa rõ ràng,

chưa chặt chẽ, dẫn đến việc nhận thức và áp dụng pháp luật của các cơ quan

tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chưa thống nhất, mặc dù hiện nay

đã được sửa đổi bổ sung, nhưng vẫn cần những văn bản giải thích.

Thứ hai: Về thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản vẫn

còn bộc lộ một số sơ hở, hạn chế đó là việc thu thập tài liệu, chứng cứ của

ĐTV đôi lúc còn chậm trễ, thiếu sót, chủ quan dẫn đến không đủ căn cứ buộc

tội; về trình độ nhận thức của cán bộ công chức của các cơ quan tố tụng chưa

đồng đều;

Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả đấu tranh đối với loại

tội trộm cắp tài sản trên địa bàn chưa cao. Từ đó tác giả đã đưa ra những giải

pháp cũng như các kiến nghị sửa đổi bổ sung hoàn thiện các quy định của

pháp luật về tội trộm cắp tài sản. Nhằm góp phần đấu tranh có hiệu quả đối

80

với loại tội phạm này ./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật dân sự năm 2005.

2. Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Bộ luật hình sự năm 1985.

4. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

5. Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

6. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

7. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

8. Bộ tư pháp (1999), Số chuyên đề về luật hình sự của một số nước trên thế

giới, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 6.

9. Nguyễn Mai Bộ (2010), Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật hình

sự, tập III, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

11. Trần Mạnh Hà (2006), Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số dấu

hiệu đặc trưng, Tạp chí nghề luật, số 5/2006.

12. Nguyễn Ngọc Hòa - Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb

Tư Pháp.

13. Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành tội phạm - Lý luận và thực tiễn,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

14. Đinh Thế Hưng - Trần Văn Biên (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình

sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi, bổ

sung năm 2009, - Viện Nhà nước và pháp luật - Chương XIV: Các tội xâm

phạm sở hữu, Nxb Lao động

15. Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm

2012 của Quốc hội.

16. Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm

phán - Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong

phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999.

17. Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ

luật hình sự.

18. Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ

luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm

thời hạn chấp hành hình phạt.

19. Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật

hình sự về án treo.

20. Hồ Trọng Ngũ (2009), Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự

pháp nhân trong sửa đổi BLHS năm 1999, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

Hà Nội.

21. Cao Thị Oanh - chủ biên (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất

chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

22. Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên), Bình luận Bộ luật hình sự

năm 2015, Nxb Lao Động, Hà Nội.

23. Cao Thị Oanh (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

24. Pháp lệnh số 149-LCT ngày 21 tháng 10 năm 1970 trừng trị các tội xâm

phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.

25. Pháp lệnh số 150-LCT ngày 21 tháng 10 năm 1970 trừng trị các tội xâm

phạm tài sản riêng của công dân.

26. Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng 7 năm 2002 về việc

xử lý vi phạm hành chính.

27. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành

chính số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02 tháng 4 năm 2008 của Ủy ban

thường vụ Quốc hội.

28. Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm - tập

2, Nxb TP.HCM.

29. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm, tập

II: Các tội xâm phạm sở hữu, NXB tổng hợp TP.Hồ Chí Minh.

30. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội;

31. Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 47 ngày 10 tháng 10 năm

1945.

32. Sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 12-SL ngày 12

tháng 3 năm 1948 phạt tội ăn cắp lấy trộm các vật dụng của nhà binh

trong thời bình và trong thời kỳ chiến tranh.

33. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP

ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân 83

tối cao - Bộ công an - Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999.

34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(tập 2), Nxb Công an nhân dân.

35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

37. Trường Đại học Luật Nà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

38. Nguyễn Văn Trượng (2008), Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội

trộm cắp tài sản, Tạp chí TAND, số 3.

39. Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (phần các tội

phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội

phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

41. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

42. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.1: Bảng thống kê các vụ án về tội trộm cắp tài sản và các vụ án hình

sự khác được xét xử trong giai đoạn từ 1994 – 2018 trên địa bàn.

Tội Trộm cắp TS Tội hình sự khác Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

1994

1995 01 01

1996 02 02

1997 02 02

1998 03 05

1999 02 06 12 06

2000 01 04 08 01

2001 01 04 04 01

2002 02 04 08 01

2003 02 02 02 02

2004 01 03 06 01

2005 02 0 0 05

2006 02 05 09 04

2007 02 03 05 02

2008 02 05 07 06

2009 03 07 10 06

2010 05 11 16 07

2011 02 07 13 03

2012 09 18 35 13

2013 10 11 14 11

Tội Trộm cắp TS Tội hình sự khác Năm Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

07 06 09 2014 04

03 10 10 2015 03

03 08 10 2016 02

04 07 06 2017 04

08 12 13 2018 07

Tổng cộng

Biểu đồ 2.2: Số vụ án về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sơn

Tây, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2013 – 2018.

Nguồn:VKSND, TAND Huyện Sơn Tây, Quảng Ngãi: Số liệu thống kê kết quả

điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự từ năm 2013 đến năm 2018