ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRIỆU THỊ XUYẾN

QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ NHÀ TƢ TƢỞNG

VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX VỀ PHẬT GIÁO

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Hoà Hới

HÀ NỘI - 2016

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................................... 4

1.Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 4

2.Tình hình nghiên cứu ................................................................................... 6

3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 11

4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 11

5.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .............................................. 12

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ..................................................................... 12

7.Kết cấu của luận văn .................................................................................. 12

NỘI DUNG ..................................................................................................... 14

CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH

QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT SỐ NHÀ

TƢ TƢỞNG TIÊU BIỂU) .............................................................................. 14

1.1. Hoàn cảnh, lịch sử - xã hội cho sự hình thành quan niệm về Phật giáo đầu thế kỷ XX . 14

1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới và khu vực cuối thế kỷ XIX đầu thế

kỷ XX ......................................................................................................... 14

1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. ......... 19

1.2. Tiền đề hình thành quan niệm về Phật giáo ở các nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XXError! Bookmark not defined.

1.2.1. Tư tưởng khoan dung và nhập thế của Phật giáo Việt Nam truyền thốngError! Bookmark not defined.

1.2.2. Tư tưởng khai sáng và Mác xít về Tôn giáoError! Bookmark not defined.

1.2.3. Vài nét khái quát về phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu

thế kỷ XX .......................................................... Error! Bookmark not defined.

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO CỦA MỘT SỐ

NHÀ TƢ TƢỞNG VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XXError! Bookmark not defined.

2.1.1. Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Phan Bội ChâuError! Bookmark not defined.

2.1.2 Một số nội dung trong quan niệm của Phan Bội Châu về Phật giáoError! Bookmark not defined.

2.1. Quan niệm của Phan Bội Châu về Phật giáoError! Bookmark not defined.

2.2.1 Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Huỳnh Thúc KhángError! Bookmark not defined.

2.2.2 Một số nội dung trong quan niệm của Huỳnh Thúc Kháng về Phật giáoError! Bookmark not defined.

2.2 Quan niệm của Huỳnh Thúc Kháng về Phật giáoError! Bookmark not defined.

2.3.1 Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn An NinhError! Bookmark not defined.

2.3.2 Một số nội dung trong quan niệm của Nguyễn An Ninh về Phật giáoError! Bookmark not defined.

2.3 Quan niệm của Nguyễn An Ninh về Phật giáoError! Bookmark not defined.

2.4 Giá trị và hạn chế của những quan niệm của các nhà tƣ tƣởng Việt

Nam đầu thế kỷ XX về Phật giáo ................. Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN ......................................................... Error! Bookmark not defined.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 22

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử các bƣớc chuyển về tƣ tƣởng của mỗi quốc gia, dân tộc bao giờ cũng phản

ánh sát tiến trình hình thành và phát triển của xã hội ấy. Dựa trên những điều kiện

kinh tế, chính trị, xã hội nhất định và gắn liền với tên tuổi của các nhà tƣ tƣởng tiêu

biểu của các quốc gia dân tộc ấy, thể hiện sự chuyển biến của các nội dung tƣ

tƣởng qua từng giai đoạn. Phật giáo là một tôn giáo bên ngoài đã du nhập và hội

nhập với văn hóa Việt Nam. Việt Nam là một dân tộc văn hiến, đã viết lên biết bao

trang sử hào hùng trong sự nghiệp chống xâm lăng, bảo vệ độc lập dân tộc, xây

dựng và phát triển đất nƣớc, nhƣng cũng phải trải qua không biết bao nhiêu những

giai đoạn thăng trầm, thịnh suy, gắn liền với các bƣớc chuyển mang tính bƣớc

ngoặt. Tƣ tƣởng về Phật giáo gắn với số phận dân tộc nên cũng trải qua các giai

đoạn thăng trầm nhƣ vậy. Bƣớc ngoặt trong quan niệm, tƣ tƣởng về Phật giáo đầu

thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng rất cần đƣợc tìm hiểu sâu.

Có thể nói, bƣớc chuyển tƣ tƣởng Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX là sự phản ánh bƣớc chuyển mới của điều kiện tồn tại xã hội, kinh tế, chính trị,

văn hóa Việt Nam, nội dung của nó mang tính đặc trƣng cho bƣớc chuyển yêu cầu

thực tiễn xã hội và tƣ duy con ngƣời Việt Nam thời kỳ này. Nhƣng đồng thời nó

cũng là kết quả phản ánh tích cực của hiện thực logic phát triển của lịch sử tƣ

tƣởng trƣớc nó, đến lƣợt nó lại là động lực góp phần thúc đẩy phát triển cho lịch sử

tƣ tƣởng Việt Nam giai đoạn tiếp theo. Trong khoảng đầu thế kỷ XX lịch sử Việt

Nam cận hiện đại này, các bƣớc chuyển về tƣ tƣởng đƣợc thực hiện bởi hai thế hệ:

các nhà nho Duy tân và các nhà trí thức Tân học yêu nƣớc, mà cả cuộc đời và sự

nghiệp của họ luôn hƣớng về mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân, phục vụ đất

4

nƣớc. Chính nhờ nỗ lực của họ đạt đƣợc các bƣớc chuyển tƣ tƣởng nhận thức lịch

sử đó trong đó có lịch sử Phật giáo mà dòng chảy của lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam

luôn đƣợc bổ sung những màu sắc mới về nội dung và phong phú về hình thức,

theo hƣớng tích cực, tiến bộ. Trong bƣớc chuyển tƣ tƣởng từ truyền thống đến hiện

đại có một nội dung phong phú của các nhà tƣ tƣởng là các trí thức yêu nƣớc Việt

Nam đó là quan niệm về Phật giáo cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thể hiện tập

trung qua một số nhân vật tiêu biểu nhƣ: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,

Nguyễn An Ninh… Tƣ tƣởng của họ về Phật giáo có một nội dung mới mẻ, khá

nhạy cảm và tinh tế thể hiện sự chuyển biến trong nhận thức của các ông về lĩnh

vực tôn giáo nói chung, về Phật Giáo nói riêng. Chủ đề đó trƣớc đây điều kiện

chƣa cho phép nên còn ít đƣợc chú ý. Chúng tôi thấy rằng trong các công trình

trƣớc đây, các nội dung tƣ tƣởng quan niệm về Phật giáo đó có vai trò quan trọng.

Những thành quả nhận thức đó góp phần làm giàu tƣ tƣởng, là cầu nối cho sự

truyền bá và phát triển thắng lợi của tƣ tƣởng cách mạng vào Việt Nam giai đoạn

tiếp theo, vì vậy rất cần đƣợc tiếp tục đi sâu làm rõ.

Điểm cần lƣu ý trong di sản để lại của các nhà tƣ tƣởng tiêu biểu nhƣ: Phan Bội

Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, chủ đề tƣ tƣởng chủ yếu đều xuất

phát từ yêu cầu bức thiết phải xây dựng đƣờng lối giải phóng dân tộc, với tấm lòng

yêu nƣớc thƣơng dân sâu sắc và sự khao khát nền độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc

cho nhân dân, từ đó, họ đã trở lại tiếp thu những thành quả tƣ tƣởng về Phật giáo

trong giai đoạn trƣớc và mở rộng hơn, tiếp thu các yếu tố tƣ tƣởng khai sáng mới

mẻ về lĩnh vực tôn giáo nói chung, của Phật giáo nói riêng…Mặt khác, do sự

chuyển biến mạnh mẽ của thời cuộc, của tôn giáo Việt Nam cùng với sự tác động

của những luồng tƣ tƣởng mới lạ của khu vực và trên thế giới, hòa chung bối cảnh

sự du nhập và ra đời của nhiều tôn giáo có mang yếu tố Phật giáo, nhƣng đã có sự

pha trộn, phối hợp khác trƣớc với các yếu tố mới nhƣ Cao Đài, Hòa Hảo và những

5

tôn giáo mới khác. Chúng đã làm nên cơ sở để các ông đƣa ra những quan niệm về

tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng. Trong các quan niệm này của các nhà tƣ

tƣởng vẫn còn có những biểu hiện ảnh hƣởng pha tạp theo nhiều xu trào khác nhau.

Trƣớc thực trạng đó, nảy sinh yêu cầu xuất hiện các phong trào chấn hƣng Phật

giáo ở nhiều nƣớc Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản…và làm nảy sinh công cuộc

chấn hƣng Phật giáo khắp cả ba miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam với mong muốn

làm thay đổi diện mạo vai trò Phật giáo nƣớc nhà. Đó là cơ sở xuất hiện quan niệm

của các nhà tƣ tƣởng Việt Nam về Phật giáo đáp ứng phần nào yêu cầu xã hội, yêu

cầu chấn hƣng Phật giáo Việt Nam đã trở thành một yêu cầu bức thiết. Tuy nhiên,

cho tới nay những nghiên cứu hệ thống về vấn đề này còn chƣa tƣơng xứng. Trong

số các nhà tƣ tƣởng Việt Nam có các quan niệm về tôn giáo nói chung và về Phật

giáo nói riêng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tiêu biểu nhất phải nhắc tới: Phan

Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh…là các nhà tƣ tƣởng rất tiêu biểu

đánh dấu bƣớc chuyển rất quan trọng trong giai đoạn này. Nghiên cứu quá trình

chuyển biến quan niệm của các nhà trí thức đó về Phật giáo trong thời kỳ này có

những nội dung, có những bài học ý nghĩa quan trọng, nhằm làm đầy đủ hơn hiểu

biết về bƣớc chuyển lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam. Vì những lý do nhƣ vậy chúng tôi

lựa chọn tìm hiểu vấn đề: “Quan niệm của một số nhà tư tưởng Việt Nam đầu thế

kỷ XX về Phật giáo” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.

2.Tình hình nghiên cứu

Cho tới nay đã có nhiều bộ sách khá dày dặn viết về lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam

thời cận đại trong đó ít nhiều đã ghi nhận vị trí và nội dung quan trọng của tƣ

tƣởng của các nhà trí thức Nho học Duy tân và Tây học về nhiều lĩnh vực nhƣ kinh

tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…Tuy nhiên, điểm lại cho tới nay, đặc biệt là các

công trình nghiên cứu tập trung về quan niệm của các nhà trí thức đó về tôn giáo

nói chung và Phật giáo nói riêng cũng đã có trực tiếp hay gián tiếp tuy còn chƣa

6

nhiều, chƣa đầy đủ. Vì muốn làm đầy đủ thêm diện mạo nội dung tƣ tƣởng của họ

nhất là những quan niệm về Phật giáo của các nhà tƣ tƣởng tiêu biểu thời kỳ này,

nên trong luận văn của mình, chúng tôi cố gắng gạn đục khơi trong, tìm hiểu từ các

nguồn tƣ liệu văn học, sử học, báo chí học… để tiếp tục kế thừa đi sâu lý giải hệ

thống hóa về các điều kiện, tiền đề cho tiến trình biến đổi, phát triển trong nhận

thức của họ cũng nhƣ một số nội dung cơ bản trong quan niệm của các nhà tƣ

tƣởng Việt Nam giai đoạn cận hiện đại về lĩnh vực Phật giáo.

Có thể nói rằng, việc đi vào nghiên cứu chủ đề: “Quan niệm của một số nhà tư

tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX về Phật giáo”, chúng tôi không phải là ngƣời đầu tiên

nghiên cứu vấn đề này. Trong bƣớc đầu tìm hiểu tƣ liệu, chúng tôi nhận thấy vấn đề

này ít nhiều trực tiếp và gián tiếp đã đƣợc đề cập đến trong các bộ Lịch sử tƣ tƣởng

Việt Nam, công trình nghiên cứu chung về quá trình chuyển biến tƣ tƣởng các nhà

tƣ tƣởng trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Qua các công trình đó có

sự lý giải có ảnh hƣởng trực tiếp và gián tiếp tới sự hình thành và một số nội dung tƣ

tƣởng về Phật giáo thời kỳ này. Nhƣng nhìn chung, chƣa đầy đủ và hệ thống chúng

tôi thống kê và phân loại thấy có thể chia các công trình chính đó thành ba nhóm

sau:

Nhóm thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu từ góc độ khoa học lịch sử. Trong

các công trình đó có nhắc tới bƣớc chuyển tƣ tƣởng chung từ tƣ tƣởng trung đại

sang cận đại thời kỳ này trong tổng thể giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế

kỷ XX một số tiêu biểu nhất đó là tác phẩm: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, (Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, 1988) của tác giả Nguyễn Tài Thƣ; Việt Nam Phật giáo

sử luận, (Nhà xuất bản Văn học,1994) của tác giả Nguyễn Lang; Sự phát triển của

tư tưởng Việt Nam (Từ thế kỉ XIX đến cách mạng tháng Tám), (Nhà xuất bản Chính

trị Quốc gia, Hà Nội, 1997) của tác giá Trần Văn Giàu. Trực tiếp chủ yếu nghiên

cứu về sự chuyển biến, bƣớc phát triển của lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam trong giai

7

đoạn này còn có công trình: Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX, (Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của tập thể tác giả do

Trƣơng Văn Chung, Doãn Chính đồng chủ biên; Đại cương lịch sử Việt Nam, Toàn

tập, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2005 của Trƣơng Hữu Quýnh, Đinh Xuân

Lâm, Lê Mậu Hãn (chủ biên); Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục,

Hà Nội, 2006 của Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên); Quá trình chuyển biến tư tưởng

chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua các nhân vật tiêu biểu (Nhà

chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007) của tác giả Doãn Chính và Phạm Đào Thịnh

đồng chủ biên. Bên cạnh đó còn có công trình nghiên cứu: Phật giáo Việt Nam (từ

khởi nguyên đến 1981), (Nhà xuất bản Văn học, 2012) của tác giả Bồ đề Tân

Thanh – Nguyễn Đại Đồng. Và công trình nghiên cứu gần đây: Quá trình chuyển

biến tư tưởng của Nho sĩ Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản

Chính Trị quốc gia – sự thật 2012) của Trần Thị Hạnh; Lịch sử tư tưởng triết học

Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản Chính Trị quốc

gia, Hà Nội, 2013) của tập thể tác giá do Doãn Chính chủ biên;

Nhóm thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu cụ thể về từng nhà tƣ tƣởng, về từng

nội dung tƣ tƣởng của họ, tƣ tƣởng đó liên quan đến tƣ tƣởng của họ về tôn giáo

nói chung, Phật giáo nói riêng. Đáng chú ý trong đó nổi bật có các công trình nhƣ:

Nguyễn An Ninh dấu ấn để lại (Nhà xuất bản Văn học, 1996) của Lê Minh Quốc;

Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 1997) của tập thể tác giả Đại học khoa học xã hội và nhân văn

Hà Nội, do Đinh Xuân Lâm (chủ biên); Phan Bội Châu về một số vấn đề văn hóa –

xã hội - chính trị (Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 2000) của Chƣơng Thâu; Tôn

giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam, (Nhà xuất bản Khoa

Học Xã Hội, Hà Nội, 2004) của tác giả Nguyễn Hồng Dƣơng; Nghiên cứu Phan

Bội Châu (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); Tư tưởng triết học và

8

chính trị của Phan Bội Châu (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006) của

Nguyễn Văn Hòa; Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn (Nhà xuất bản văn

học, Hà Nội, 2006) của Nguyễn Q.Thắng; Phan Bội Châu trong dòng thời đại

(Bình luận và hồi ức) (Nhà xuất bản Nghệ An, 2007); Nghiên cứu tôn giáo - Nhân

vật và sự kiện, (Nhà xuất bản Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, 2009) của

tác giả Đỗ Quang Hƣng; Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX nhân vật và sự kiện, (Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013) của Lê Tâm Đắc – Nguyễn Đại Đồng

… Nhìn chung trong các công trình này đã khảo cứu về các cuộc đời, sự nghiệp

nhân vật Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng vv… đã đƣợc các

nhà nghiên cứu đề cập dƣới nhiều góc độ nhƣ cuộc đời, di khảo tƣ tƣởng, giá trị

lịch sử của tƣ tƣởng chính trị - xã hội. Trong đó các nhà nghiên cứu tập trung hệ

thống hóa tƣ tƣởng chính trị, xã hội, đi sâu phân tích những quan điểm tiến bộ,

tinh thần sáng tạo đi tìm con đƣờng cứu nƣớc giải phóng dân tộc, nêu lên những

hạn chế, những bài học lịch sử trong tƣ tƣởng đối với cách mạng Việt Nam. Điểm

cần quan tâm là các sách chỉ mới dừng lại ở nhận định chung khi nói về quan niệm

của họ về Phật giáo đầu thế kỷ XX.

Nhóm thứ ba, đó là các công trình tiếp cận từ góc độ lịch sử tƣ tƣởng nghiên cứu

tƣ tƣởng về tôn giáo trong các nhà tƣ tƣởng nói trên, nghiên cứu đánh giá từng

mặt, từng nội dung và giá trị lịch sử của các nhà tƣ tƣởng cuối thế kỷ XIX đầu thế

kỷ XX trong trong các luận văn, luận án và trong các tạp chí nhƣ tạp chí Triết học,

tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo. Thêm vào đó có các luận án, luận văn trong đó tìm

hiểu về tƣ tƣởng về tôn giáo ở Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An

Ninh có các công trình sau: Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học của Nguyễn

Khắc Sâm, với đề tài: Tìm hiểu tư tưởng của Phan Bội Châu về tôn giáo, tín

ngưỡng. Trong luận văn này đã bƣớc đầu hệ thống hóa và phân tích những nội

dung tƣ tƣởng về tôn giáo, tín ngƣỡng nói chúng của Phan Bội Châu, phân tích ý

9

nghĩa, hạn chế của những tƣ tƣởng đó với tiến trình phát triển của lịch sử tƣ tƣởng

Việt Nam; Luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành Triết học của Trần Thị Hạnh,

với tên đề tài: Tư tưởng yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng; Trong đó có gián tiếp

nêu tƣ tƣởng về Phật giáo của ông. Luận văn Thạc sĩ Triết học của Lê Thị Mận,

với đề tài là: Tư tưởng Nguyễn An Ninh về văn hóa, chính trị, tôn giáo. Trong

chƣơng 2 mục 2.3 tác giả đã trình bày một số nét tƣ tƣởng của Nguyễn An Ninh về

tôn giáo nói chung và quan niệm Phật giáo nói riêng.

Ngoài ra còn thêm các bài báo đăng ở các tạp chí, đáng chú ý có các công trình

sau: Phan Bội Châu với công cuộc vận động đồng bào Thiên chúa giáo ở đầu thế

kỷ XX, của tác giả Đặng Huy Vận, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 104-

1967); Bài Nguyễn An Ninh trong tiến trình tư tưởng Việt Nam, của tác giả Lê Sỹ

Thắng đăng trên tạp chí Triết học (số 1 – 1991); Tìm hiểu về Phan Bội Châu và

vấn đề đoàn kết lương giáo chống Pháp đầu thế kỷ XX, của tác giả Phạm Hồng

Tung đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (số 6-1999); tác giả Lê Ngọc Thông có

bài viết Quan niệm của Phan Bội Châu về tôn giáo, đăng trên tạp chí nghiên cứu

tôn giáo (số 1- 2001); Nguyễn An Ninh và tôn giáo, của tác giả Đỗ Quang Hƣng

đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (số 11- 2003); Tìm hiểu sự tiếp nhận tư

tưởng Mácxit về tôn giáo của Nguyễn An Ninh qua tác phẩm “Phê Bình Phật

Giáo” của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo (số 1 –

2004); Tư tưởng Phan Bội Châu về Phật giáo thời kỳ ở Huế,của tác giả Đỗ Thị

Hòa Hới và Nguyễn Khắc Sâm đăng trên tạp chí Khuông Việt (số 7 – 2009) trong

đó đề cập đến tƣ tƣởng của ông về Phật giáo; Bài Quan niệm của Phan Bội Châu

về giá trị của Phật giáo của tác giả Đỗ Thị Hòa Hới đăng trong sách Kỷ yếu Hội

thảo Khoa học về giá trị của các tôn giáo, nhà xuất bản Viện nghiên cứu Tôn giáo,

Hà Nội, 2016.

Tóm lại, nhìn chung tuy đã có bức tranh tổng quan chung qua các bộ sử lớn nhỏ,

10

những công trình nghiên cứu chung về tƣ tƣởng của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc

Kháng và Nguyễn An Ninh, song có lẽ đến nay vẫn còn ít có công trình nào đi sâu

trình bày, phân tích một cách hệ thống chủ đề: “Quan niệm của một số nhà tư

tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XX về Phật giáo” nên trong luận văn chúng tôi lựa chọn

kế thừa và đi sâu nghiên cứu vấn đề đó. Nhờ có kế thừa và tiếp thu kết quả của

những ngƣời đi trƣớc, trong giới hạn khuôn khổ của luận văn thạc sĩ triết học này,

chúng tôi hy vọng sẽ cố gắng tiếp cận từ góc độ chuyên ngành triết học và kết hợp

cách tiếp cận liên ngành: Triết học văn hóa, triết học giá trị nhằm làm rõ lý giải thêm

về điều kiện, tiền đề, một số đóng góp nội dung tƣ tƣởng về Phật giáo đầu thế kỷ

XX qua một số nhà tƣ tƣởng tiêu biểu, những nội dung đó mà đến nay nếu biết chắt

lọc, chúng ta có thể rút ra đƣợc những giá trị, bài học bổ ích cho sự nghiệp đổi mới.

3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: Quan niệm về Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX, qua

một số nhà tƣ tƣởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh.

Phạm vi nghiên cứu: Hệ thống hóa, phân tích làm rõ những cơ sở điều kiện, tiền

đề, nội dung quan niệm về Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX qua một số nhà tƣ tƣởng

tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, thể hiện qua cuộc

đời và thơ văn của họ.

4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Tiếp cận từ góc độ triết học luận văn chú ý hệ thống hóa,

phân tích làm rõ cơ sở hình thành và nội dung quan niệm của một số nhà tƣ tƣởng về

Phật giáo đầu thế kỷ XX: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. Để

thực hiện mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ:

11

Có ba nhiệm vụ nghiên cứu:

- Phân tích những điều kiện lịch sử - xã hội khách quan, chủ quan và các tiền đề tƣ

tƣởng cho sự hình thành quan niệm về Phật giáo đầu thế kỷ XX, qua một số nhà tƣ

tƣởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh.

- Hệ thống hóa làm rõ những nội dung quan niệm về Phật giáo đầu thế kỷ XX, qua

một số nhà tƣ tƣởng tiêu biểu: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An

Ninh.

- Phân tích chỉ ra một số giá trị và hạn chế trong nội dung quan niệm về Phật giáo

của một số nhà tƣ tƣởng đầu thế kỷ XX: Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,

Nguyễn An Ninh cho tiến trình lịch sử dân tộc nói chung, lịch sử Phật giáo nói

riêng.

5.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng những quan điểm

cơ bản của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã

hội con ngƣời, và vai trò của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức

xã hội.

Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp luận duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử, các phƣơng pháp nghiên cứu thống nhất logic và

lịch sử, thống nhất phân tích và tổng hợp, ngoài ra còn sử dụng phƣơng pháp liên

ngành nhƣ triết học văn hóa, triết học tôn giáo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp thêm vào việc nhận thức đầy đủ hơn

các tiền đề, tƣ tƣởng và khía cạnh nội dung lịch sử tƣ tƣởng về tôn giáo, Phật giáo

Việt Nam giai đoạn này. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những ai quan

tâm nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam giai đoạn lịch sử này

12

7.Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn

13

gồm có hai chƣơng, sáu tiết.

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH

QUAN NIỆM VỀ PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỶ XX (QUA MỘT SỐ NHÀ TƢ

TƢỞNG TIÊU BIỂU)

1.1. Hoàn cảnh, lịch sử - xã hội cho sự hình thành quan niệm về Phật

giáo đầu thế kỷ XX

1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới và khu vực cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới có nhiều chuyển biến to lớn chuẩn bị cho

một bƣớc ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại, đó là: Chủ nghĩa tƣ bản từ

giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền – chủ nghĩa đế quốc,

mở rộng thị trƣờng, xâm lƣợc các nƣớc khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh;

công cuộc duy tân của Nhật Bản, cuộc vận động cải cách ở Trung Quốc dẫn đến

cách mạng Tân Hợi năm (1911)…

Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tƣ bản phƣơng Tây đã phát triển mạnh mẽ chuyển

từ chủ nghĩa tƣ bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển mạnh

mẽ của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa ở các nƣớc tƣ bản phát triển đã làm tăng thêm

nhu cầu tìm kiếm thuộc địa để cung cấp nguyên liệu và thị trƣờng tiêu thụ hàng

hóa. Để mở rộng thị trƣờng chủ nghĩa tƣ bản đã tiến hành xâm lƣợc các nƣớc

phƣơng Đông, do đó tạo nên sự biến đổi to lớn tác động trực tiếp đến đời sống xã

hội mọi mặt của Việt Nam và khu vực.

Về kinh tế, chủ nghĩa tƣ bản tạo ra lực lƣợng sản xuất lớn, làm cho diện mạo của

đời sống xã hội phƣơng Tây và thế giới thay đổi. Do sự phát triển không đồng đều

của chủ nghĩa tƣ bản đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1900 –

14

1903 , sau đó là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tiếp đến cuộc khủng hoảng

kinh tế 1929-1930. Chính thực trạng đó đã đòi hỏi các nƣớc tƣ bản phải mở rộng

thị trƣờng bằng cách xâm lƣợc và áp bức các dân tộc phƣơng Đông, trong đó có

Việt Nam ngày một ngặt nghèo.

Về chính trị tại chính quốc vào năm 1789, giai cấp tƣ sản Pháp thực hiện cuộc cách

mạng xã hội triệt để lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Từ

đây tạo nên bƣớc chuyển từ chế độ quân chủ sang dân chủ, từ quân quyền sang

pháp quyền. Nhờ đó, đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng của giai cấp công nhân,

đặc biệt ở các nƣớc Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nga. Đội ngũ công nhân ở các nƣớc này

tăng lên hàng triệu ngƣời, trở thành lực lƣợng xã hội rất quan trọng. Trong xã hội

tƣ bản chủ nghĩa, mâu thuẫn cơ bản nhất là giữa tƣ sản và vô sản. Sau thất bại của

Công xã Pari (năm 1871) phong trào công nhân tiếp tục đƣợc củng cố, tập hợp lực

lƣợng và đƣợc sự dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác. Sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa

Mác, giúp phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhiều tổ chức

Đảng Vô sản, Đảng Xã hội theo xu hƣớng tiến bộ cách mạng ra đời, nhằm tổ chức

và lãnh đạo phong trào công nhân chống lại chủ nghĩa tƣ bản. Cho nên, khi các

nƣớc tƣ bản mở rộng xâm lƣợc các nƣớc phƣơng Đông, trong đó có Việt Nam, thì

cùng với sự su nhập của nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa tiếp theo những năm 20 của

thế kỷ XX là sự du nhập các trào lƣu tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản và vô sản vào nƣớc ta

tạo ra sự chuyển biến hệ tƣ tƣởng từ hệ tƣ tƣởng truyền thống có tính chất chế độ

quân chủ sang hệ tƣ tƣởng có tính chất Dân chủ tƣ sản, xây dựng đƣờng lối cứu

nƣớc theo hƣớng Dân chủ tƣ sản, tiếp theo các nhà lãnh đạo phong trào yêu nƣớc

nhƣ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh sẽ

bƣớc đầu tiếp cận với tƣ tƣởng Mácxít.

Về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giai đoạn này là thời kỳ Tây Âu nở rộ nhiều thành

tựu khoa học kỹ thuật, ở các nƣớc tƣ bản phát triển, tạo điều kiện cho con ngƣời

15

nâng cao nhận thức duy lý, khoa học của con ngƣời, nâng cao kiến thức hiểu biết

về tự nhiên xã hội sâu sắc hơn, làm suy giảm vai trò của tôn giáo.

Song, sự trớ trêu là do nhu cầu truyền đạo mà các đoàn truyền giáo đã cấu kết với

đoàn quân thực dân. Các cuộc xâm chiếm thuộc địa, tìm kiếm thị trƣờng châu Á đã

đi cùng với việc truyền giáo đƣợc các nƣớc Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào

Nha tiến hành từ thế kỷ XVII, nhƣng phải đến thế kỷ XIX mới thực sự trở nên gay

gắt. Đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nƣớc châu Á đều tự biến thành các nƣớc

thuộc địa và phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc phƣơng Tây. Duy chỉ có Nhật Bản là

một nƣớc châu Á thoát khỏi số phận là nƣớc thuộc địa, do Nhật Bản đã thực hiện

thành công cuộc cải cách Minh Trị năm 1868. Cho nên Nhật đã giữ vững đƣợc độc

lập dân tộc, đƣa đất nƣớc phát triển theo hƣớng tƣ bản chủ nghĩa, và trở thành đế

quốc Châu Á trẻ đánh bại Nga, và đã chiếm Triều Tiên, Lƣu Cầu và xâm lƣợc

Trung Quốc.

Ở Trung Quốc đến cuối thế kỷ XIX tuy có những nỗ lực duy tân nhƣng vẫn còn là

một nƣớc phong kiến với chế độ quân chủ, có nhiều nét giống Việt Nam. Giai đoạn

này Trung Quốc đứng trƣớc nguy cơ bị thực dân xâm lƣợc; các lãnh địa của Anh,

Pháp, Mỹ, Nhật Bản mọc lên ở Trung Quốc. Từ năm (1839-1842), Anh mở cuộc

chiến tranh tấn công Trung Quốc buộc triều đình Mãn Thanh phải ký hòa ƣớc Nam

Kinh (29 – 8 – 1842) gồm bốn nội dung chính chấp nhận mọi điều kiện do thực dân

Anh đƣa ra. Bên cạnh đó Anh xâm chiếm Ba Tƣ, xâm chiếm Malayxia, Myanma,

biến toàn bộ Ấn Độ thành thuộc địa, thế lực của Anh ở châu Á vô cùng to lớn, đã

nhiều lần o ép Thái Lan.

Theo sau đế quốc Anh, Mỹ buộc Trung Quốc ký hiệp ƣớc Vọng Hạ (7 – 1884)

với mục đích chia sẻ thị trƣờng tiêu thụ. Đế quốc Pháp buộc Trung Quốc ký

hiệp ƣớc Hoàng Phố (10 – 1884), dành quyền tự do thƣơng mại truyền đạo, để

mở đƣờng xâm lƣợc Trung Quốc. Ngoài ra Trung Quốc còn buộc phải ký nhiều

16

điều ƣớc bất bình đẳng với các nƣớc tƣ bản khác nhƣ Bỉ, Bồ Đào Nha, Thuỵ

Điển… các hiệp ƣớc đó đã đẩy Trung Quốc vào tình trạng phụ thuộc, không giữ

đƣợc chủ quyền toàn vẹn.

Tại khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia từ thế kỷ XVI đã bị Hà Lan thống trị,

Philippin thì bị Mỹ và Tây Ban Nha xâu xé, Xiêm (Thái Lan) thì bị biến thành

vùng đệm. Còn khu vực Đông Dƣơng gồm Việt Nam, Lào và Campuchia thì cuối

thế kỷ XIX bị thực dân Pháp thôn tính.

Trƣớc xu thế bành trƣớng xâm lƣợc của chủ nghĩa tƣ bản phƣơng Tây, nhiệm vụ

cấp bách nhất đối với các nƣớc Châu Á là bằng mọi cách đấu tranh để bảo vệ độc

lập dân tộc. Ngay từ đầu các nƣớc châu Á đã sớm nhận ra âm mƣu xâm lƣợc của

các nƣớc xâm lƣợc của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây thông qua hoạt động ráo riết

của các nhà buôn và các phái đoàn truyền giáo. Song triều đình phong kiến bảo

thủ, phƣơng thức duy nhất để chống lại nguy cơ bị thôn tính ở các nƣớc Châu Á

lúc này đều là kiên quyết thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”, hòng ngăn chặn

sự xâm lƣợc của phƣơng Tây. Tuy nhiên, trƣớc thời cuộc mới đó đây chỉ là biện

pháp thụ động và lạc hậu. Thực tế giải pháp này không đem lại kết cục tích cực, tốt

đẹp. Mà chống lại sự xâm lƣợc của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây thì con đƣờng tự

cƣờng canh tân, canh tân để tự cƣờng là hợp lý. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ

XIX ở Trung Quốc đã xuất hiện phong trào “Dƣơng Vụ Vận Động” do một số ít

quan lại trong triều đình Mãn Thanh khởi xƣớng với nội dung chủ yếu là vận động

học tập phƣơng Tây nêu khẩu hiệu tự cƣờng nhƣng không đƣợc triều đình hƣởng

ứng. Tiếp đó phong trào Mậu Tuất duy tân 1898 nổ ra với những đại biểu kiệt xuất

nhƣ Khang Hữu Vi, Lƣơng Khải Siêu, Đàm Tự Đồng… mở đƣờng cho canh tân

mọi mặt nhất là chủ trƣơng kinh tế phát triển chống lại sự bảo thủ, lạc hậu của triều

đình Mãn Thanh, chống lại sự can thiệp ngày càng sâu sắc của các nƣớc phƣơng

Tây, đỉnh cao của phong trào này là cuộc chính biến Mậu Tuất (1898) do phái cấp

17

tiến chủ trƣơng đƣợc vua Quang Tự ủng hộ, cuộc chính biến này chỉ kéo dài đƣợc

103 ngày thì thất bại. Đến cuối thế kỷ XIX, Trung Quốc bị các nƣớc đế quốc xâu

xé tàn phá nặng nề. Năm 1901, triều đình Mãn Thanh ký hiệp ƣớc Thiên Tân với 8

nƣớc phƣơng Tây, từ đây Trung Quốc chính thức trở thành một nƣớc thuộc địa nửa

phong kiến.

Chủ nghĩa đế quốc còn sử dụng tấm màn che là sự truyền giáo để tiến hành các

cuộc chiến trang xâm lƣợc các quốc gia các dân tộc phƣơng Đông nhỏ yếu, biến

các quốc gia, dân tộc đó thành thuộc địa và thực hiện đàn áp, bóc lột hết sức tàn

bạo. Điều đó đặt ra cho các dân tộc, các quốc gia phƣơng Đông vấn đề hàng đầu là

tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc và ý thức về sự bảo vệ các tín ngƣỡng, tôn

giáo truyền thống lâu đời. Kháng chiến chống xâm lƣợc của chủ nghĩa thực dân đã

làm cho các dân tộc, các quốc gia bị xâm lƣợc đứng trƣớc những vấn đề hết sức

mới mẻ, trong đó có vấn đề nhận thức về tôn giáo trong đó có nhận thức về Phật

giáo. Đặc biệt là sự tác động rất lớn đến tƣ tƣởng hệ nói chung và tƣ tƣởng về Phật

giáo nói riêng. Ngay ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan, khi xuất hiện

nguy cơ bị chủ nghĩa đế quốc xâm lƣợc, các nƣớc phong kiến phƣơng Đông hết

sức lúng túng trƣớc những vấn đề sống còn của quốc gia, hết sức lung túng vấn đề

giữ gìn bản sắc văn hóa, tôn giáo. Trƣớc thực tiễn đó, buộc các nhà tƣ tƣởng càng

phải suy tƣ toàn cảnh giải thích tác động những hiện tƣợng lịch sử mới nảy sinh

đến Phật giáo. Hệ tƣ tƣởng cũ không đáp ứng đƣợc yêu cầu của lịch sử, giai cấp

cầm quyền thì bế tắc về con đƣờng cách mạng của dân tộc. Trƣớc tình hình đó xuất

hiện một nhu cầu cấp bách là cần có hệ tƣ tƣởng mới chấn hƣng các di sản Phật

giáo cho phù hợp với yêu cầu trên. Cho nên, có thể nói khái quát sự bành trƣớng

của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây là một trong những yếu tố vật chất góp phần

thúc đẩy nhanh quá trình chuyển biến tƣ tƣởng ở các nƣớc phƣơng Đông nói chung,

Việt Nam nói riêng. Từ tƣ tƣởng phong kiến, tiếp thu “Tân thƣ”, “Tân văn” các nhà

nho Duy tân đã chuyển biến sang tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản, tiếp theo dấu chân họ có

18

các trí thức Tân học nhƣ Nguyễn An Ninh. Và tiếp theo họ bƣớc đầu tiếp cận với hệ

tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác – Lênin bƣớc chuyển nhận thức đó cũng thể hiện ở nội

dung, quan điểm của học về Phật giáo. Điều đó đƣợc thể hiện qua các nhà tƣ tƣởng

tiểu biểu nhƣ: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An

Ninh… Nằm trong bƣớc chuyển chung đó của lịch sử dân tộc, các quan niệm về

Phật giáo của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh cũng có

những đóng góp, giá trị, đặt cầu nối chuyển biến tiếp theo đáp ứng những yêu cầu

mới của lịch sử dân tộc, đƣa cách mạng tới thành công.

1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Từ cuối thế kỷ XIX, phong trào Cần Vƣơng vũ trang khởi nghĩa chống Pháp từ

Nam chí Bắc sau khi Hàm Nghi xuất bôn và phát hịch Cần Vƣơng đã tàn lụi dần,

đƣợc đánh dấu mốc với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hƣơng Sơn (1896). Về căn

bản thực dân Pháp đã hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự,

và trong bối cảnh đó có thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng

cũng nhƣ Đông Dƣơng nói chung một cách quy mô. Pháp đƣa Pôn Đume (Paul

Doumer) sang làm toàn quyền Đông Dƣơng mở ra một giai đoạn mới khai thác

thuộc địa lần thứ nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp ở xứ này.

Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành thủ đoạn độc quyền kinh tế và đặc biệt chú ý coi

trọng thủ đoạn bóc lột theo kiểu thời kỳ trung cổ. Đó là chế độ thuế khóa vô cùng

nặng nề và hết sức vô lý. Toàn bộ chính sách kinh tế của thực dân Pháp dẫn tới kết

quả tất yếu đó là bòn rút sức ngƣời sức của bản địa, biến nền kinh tế Việt Nam què

quặt phải dựa vào nền kinh tế chính quốc, và không phát triển toàn diện đƣợc, nhân

dân Việt Nam bị bần cùng hóa, vô sản hóa.

Về công nghiệp, các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp nhẹ và chế biến

nông sản, khoáng sản, quặng đƣợc hình thành và ngày càng phát triển. Sự phát triển

của các ngành công nghiệp đã tạo nên sự phân hóa xã hội, đó là sự xuất hiện giai cấp

19

công nhân, sau đó là giai cấp tƣ sản, sự phát triển tầng lớp thợ thủ công, tiểu thƣơng,

tiểu chủ. Đồng thời cũng làm thay đổi tƣ duy, nếp sống, phong cách làm việc của

ngƣời lao động, các quan hệ kinh tế xã hội, những yếu tố này tác động rất lớn đến ý

thức, tƣ tƣởng của ngƣời Việt Nam.

Về tiểu thủ công nghiệp, là ngành kinh tế phụ, nhƣ dệt vải, đan lát, chế biến nông

sản, chế biến hải sản ngày càng phát triển rộng rãi nhƣng không vƣơn lên đƣợc.

Những ngành nghề này có tác dụng hỗ trợ cho kinh tế nông nghiệp, công nghiệp,

nhƣng vẫn nằm trong tính chất khuôn khổ phƣơng thức sản xuất phong kiến, mặc

dù có phát triển nhƣng chƣa đủ sức để phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu

và sự chèn ép, phụ thuộc.

Về thƣơng nghiệp, trong chế độ phong kiến nhà Nguyễn thực hiện chính sách “bế

quan tỏa cảng” nên chậm phát triển. Khi thực dân Pháp xâm lƣợc, một mặt hàng

rào ấy bị xóa bỏ, thƣơng nghiệp, ngoại thƣơng do Pháp nắm bắt đầu phát triển, tạo

điều kiện tốt cho nƣớc ta giao lƣu ra bên ngoài, tiếp cận với các nền văn minh thế

giới, song cản trở sự ra đời của giai cấp tƣ sản dân tộc.

Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ là

sự đan xen, tồn tại của các yếu tố cả nền kinh tế truyền thống mang tính chất phong

kiến với các yếu tố của nền kinh tế phụ thuộc mang tính chất thuộc địa tƣ bản chủ

nghĩa. Các quan hệ sản xuất phong kiến bị thu hẹp, phá vỡ tính thuần nhất của sản

xuất nông nghiệp truyền thống, thay vào đó là sự phát triển của các nhà máy công

nhiệp, hầm mỏ, đồn điền…các cơ sở vật chất mới ra đời tuy mang tính lệ thuộc.

Những yếu tố vật chất đó đã trở thành mảnh đất màu mỡ, mới mẻ, tạo điều kiện cho

các trào lƣu tƣ tƣởng mới ở bên ngoài xâm nhập vào nƣớc ta cũng nhƣ làm biến đổi

ý thức tƣ tƣởng của quần chúng nhân dân Việt Nam trong tiến trình phát triển tƣ

tƣởng của nó. Tính chất đan xen tồn tại hai phƣơng thức sản xuất tại thuộc địa đã

làm cho hệ tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,

20

Nguyễn An Ninh, cũng tồn tại đan xen các yếu tố truyền thống với hiện đại, không

thuần nhất khi nhận định về đời sống Phật giáo tƣ tƣởng, các ông cũng có tính đan

xen.

Về chính trị, để đảm bảo cho nền chính trị của chúng, thực dân Pháp đã không thủ

tiêu lợi ích của giai cấp phong kiến – địa chủ bản xứ, mà trái lại tìm cách dung

dƣỡng nó, biến nó thành bộ máy bù nhìn tay sai, cơ sở xã hội vừng chắc cho sự

thống trị của chúng ở thuộc địa; đồng thời Pháp đã câu kết với giai cấp địa chủ quý

tộc phong kiến Việt Nam thi hành chính sách kinh tế thực dân rất thâm độc, rất bảo

thủ, đó là tiếp tục duy trì phƣơng thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết

lập một cách hạn chế các yếu tố của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa tại

thuộc địa. Cho nên tính chất xã hội Việt Nam giai đoạn này là chế độ thuộc địa nửa

phong kiến.

Thực dân Pháp nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam đã thi hành chính

sách “chia để trị”. Nam kỳ là đất thuộc địa trực thuộc cai trị của Pháp, không liên

quan đến chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Tại Trung kỳ thực dân Pháp duy trì

“chính phủ Nam triều”, về thực chất “triều đình Huế không có quyền hành gì ngoài

“quyền” vâng lệnh Pháp để đàn áp nhân dân. “Nam triều” là cái danh nghĩa cho

Pháp tiêu diệt các cuộc khởi nghĩa chống thực dân; Hơn là một danh nghĩa, Nam

triều cung cấp lính tráng cho sự tàn sát đó, hết sức thẳng tay và có ý đồ. Vua nào

không phục tùng Pháp (Thành Thái, Duy Tân) thì bị Pháp đày đi phƣơng xa. “Sự

tồn tại của triều đình Huế biểu hiện một cuộc đồng minh giữa thực dân và các lực

lƣợng phong kiến chống phong trào giải phóng dân tộc, chống mọi sự tiến bộ dân

chủ” [21, tr.17-18].

Tại Bắc kỳ, thực dân Pháp thực hiện chủ trƣơng “nửa bảo hộ”, đứng đầu Bắc kỳ là

Thống sứ ngƣời Pháp, và Hội đồng bảo hộ giúp việc. Nhƣ vậy, có thể nói thực chất

quyền hành chính trị ở ba kỳ đã chuyển sang tay bộ máy chính quyền bảo hộ của

21

thực dân Pháp. Sự thống trị của thực dân Pháp từ kinh tế, chính trị, dần dần đến các

lĩnh vực khác nhƣ văn hóa, xã hội, giáo dục, đời sống tôn giáo... và tất yếu là thống

trị toàn bộ xã hội Việt Nam.

Về văn hóa, từ đầu thế kỷ XVI, năm 1533, nền văn minh phƣơng Tây qua con

đƣờng truyền giáo bắt đầu du nhập vào nƣớc ta. Đến đầu thế kỷ XX thực dân Pháp

chủ trƣơng dùng Công giáo gia tăng ảnh hƣởng văn hóa phƣơng Tây tại Bắc kỳ,

viện Hàn lâm đƣợc thành lập, gồm các nhà khoa bảng Việt Nam và một số ngƣời

Pháp. Viện này đƣợc lập ra với mục đích là nhằm truyền bá văn minh Pháp, đồng

thời giúp cho ngƣời Pháp “hiểu” đƣợc văn hóa Việt Nam. Cùng với việc truyền bá

tiếng Pháp, chữ quốc ngữ cũng đƣợc truyền bá rộng rãi nhằm gia tăng ảnh hƣởng

văn hóa phƣơng Tây. Nhƣng những nhà nho Duy tân đã hiểu đƣợc đây là điều rất

thuận lợi cho việc truyền bá tƣ tƣởng và phát triển học thuật, để Việt Nam có thể

tiến bộ, tự cƣờng, tự lực, giải phóng đất nƣớc nên đã tích cực phổ biến. Bên cạnh

việc xuất hiện DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NxbThành phố Hồ Chí

Minh, Hồ Chí Minh.

2. Quốc Anh (1975), Mối quan hệ giữa các khuynh hướng chính trị tiểu tư sản

với phong trào công nhân trong phong trào giải phóng dân tộc trước 1930,

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 160, Hà Nội.

3. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 1, (2000) ,Nxb Thuận Hóa, Huế.

4. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 2, (2000) ,Nxb Thuận Hóa, Huế.

5. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 4, (2000) ,Nxb Thuận Hóa, Huế.

6. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 7, (2000) ,Nxb Thuận Hóa, Huế.

7. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 8, (2000) ,Nxb Thuận Hóa, Huế.

8. Phan Bội Châu, Toàn tập, tập 9, (2000) ,Nxb Thuận Hóa, Huế.

9. Doãn Chính (chủ biên) (2004), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb

22

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Doãn Chính - Phạm Đào Thịnh (2007), Quá trình chuyển biến tư tưởng chính

trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua các nhân vật tiêu biểu, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Doãn Chính (chủ biên) (2013), Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kỳ

dựng nước đến đầu thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Trƣơng Văn Chung, Doãn Chính (đồng chủ biên) (2005), Bước chuyển tư tưởngViệt

Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Hồng Dƣơng(2004), Tôn giáo trong mối quan hệ văn hóa và phát triển

ở Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.

14. Nguyễn Hồng Dƣơng (chủ biên) (2014), Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn

giáo ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề lý luận cơ bản, Nxb Văn hóa –

Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.

15. Lê Tâm Đắc (2011), Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam

(1924 – 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16. Lê Tâm Đắc – Nguyễn Đại Đồng (2013), Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX nhân

vật và sự kiện, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Nguyễn Đại Đồng – Nguyễn Thị Minh (2008), Phong trào chấn hưng Phật

giáo (Tư liệu báo chí 1927-1945), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

18. Tô Bửu Giám (2003), Tư tưởng và hoạt động cách mạng của nhà yêu nước

Nguyễn An Ninh, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 5, Hà Nội.

19. Hà Huy Giáp (1989), Sự tiến hoá liên tục của Nguyễn An Ninh- một lãnh tụ

cách mạng hùng biện, Nxb TP Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

20. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam (Từ thế kỉ XIX đến

cách mạng tháng Tám), tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

21. Trần Văn Giàu (1997), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam (Từ thế kỉ XIX đến

23

cách mạng tháng Tám), tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

23. Trần Thị Hạnh (2012), Quá trình chuyển biến tư tưởng của Nho sĩ Việt Nam trong

30 năm đầu thế kỷ XX, Nxb Chính Trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.

24. Nguyễn Hùng Hậu(1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Nguyễn Hùng Hậu, Doãn Chính, Vũ Văn Gầu (2002), Đại cương tư tưởng triết

học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

26. Nguyễn Hùng Hậu, Doãn Chính, Vũ Văn Gầu (2002),Đại cương lịch sử tư

tưởng triết học Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

27. Đỗ Lan Hiền (2011), Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng

thuận xã hội – trường hợp Việt Nam, Nbx Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

28. Hoàng Văn Hiển (2000), Vấn đề tiếp thu văn hoá phương Tây của Trung Quốc

và Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3,

Hà Nội.

29. Đỗ Thị Hòa Hới (1995), Bước đầu tìm hiểu một số đặc điểm của ý thức cộng

đồng và ý thức độc lập tự chủ trong lịch sử tư tưởng dân tộc, Tạp chí Triết học,

Hà Nội.

30. Đỗ Thị Hòa Hới (1996), Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

31. Đỗ Thị Hòa Hới (1997), Mấy đặc điểm tư tưởng của các nhà nho duy tân Việt

Nam đầu thế kỷ XX qua tìm hiểu cái nhìn phương Tây của họ, Tạp chí Triết

học, Hà Nội.

32. Đỗ Thị Hòa Hới (2001), Nguyễn An Ninh cuộc đời và tư tưởng, trong sách

24

“Những người đi qua hai thế kỉ”, Nxb Lao động, Hà Nội.

33. Đỗ Thị Hoà Hới (2004), Tìm hiểu sự tiếp nhận tư tưởng Mácxít về tôn giáo của

Nguyễn An Ninh qua tác phẩm Phê bình Phật giáo, Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, số 1, Hà Nội.

34. Đỗ Thị Hòa Hới (2005), Ảnh hưởng triết học phương Tây trong quan niệm của

Phan Bội Châu về con người, Tạp chí Triết học, Hà Nội.

35. Đỗ Thị Hòa Hới, Nguyễn Khắc Sâm (2009) Tư tưởng Phan Bội Châu về Phật

giáo thời kỳ ở Huế, Tạp chí Khuông Việt, số 7, Hà Nội.

36. Đỗ Quang Hƣng (2000), Tiếp xúc văn hoá Đông- Tây ở Việt Nam: Sự biến đổi

những giá trị văn hoá và tôn giáo, Bài viết trong Hội thảo Việt Nam trong thế

kỉ XX, Hà Nội.

37. Đỗ Quang Hƣng (2000), Vài suy nghĩ về vấn đề tôn giáo ở Nam Bộ thời cận

đại, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, Hà Nội.

38. Đỗ Quang Hƣng (2003), Nguyễn An Ninh và tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, số 11(150), Hà Nội.

39. Đỗ Quang Hƣng (2005), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam: Lý luận

và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đỗ Quang Hƣng (2009), Nghiên cứu tôn giáo - Nhân vật và sự kiện, Nxb Tổng

hợp TP.Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

41. Đỗ Quang Hƣng (Chủ biên) (2001), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

42. Trần Đình Hƣợu (2001), Các bài giảng về tư tưởng Phương Đông, Nxb Đại

học quốc gia, Hà Nội.

43. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX

đầu thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

45. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb

25

Giáo dục, Hà Nội.

46. Lê Thị Lan (1993), Vài nét về nghiên cứu tư tưởng Việt Nam thế kỉ XIX từ

những năm 80 đến nay, Tạp chí Triết học, số 1, Hà Nội.

47. Lê Thị Lan (2002), Tư tưởng cải cách ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

48. Nguyễn Lang (2012), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Phƣơng Đông, Hà Nội.

49. C.Mác – Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

50. C.Mác – Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

51. Đặng Thai Mai (1958), Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

52. Hà Thúc Minh (1986), Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Uỷ

ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội.

53. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6 (1936-1939),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

56. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2006), Tám quyển sách quý, Nxb Tôn giáo, Hà

Nội.

57. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (1998), Cơ cấu xã hội trong quá trình phát

triển của lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2006), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

59. Đại học KHXH&NV Hà Nội (2006), Tư tưởng triết học Việt Nam trong bối

cảnh du nhập các tư tưởng Đông- Tây nửa đầu thế kỉ XX (Kỷ yếu hội thảo

quốc tế, Hà Nội ngày17 tháng 11 năm 2005), Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

60. Trần Thị Kim Oanh (2011), Quan hệ giữa công giáo và khoa học triết học – in

trong: Một số vấn đề triết học tôn giáo hiện nay, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

61. Trƣơng Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2005), Đại

26

cương lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

62. Bùi Thanh Quất (1999), Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Lê Minh Quốc (1996), Nguyễn An Ninh dấu ấn để lại, Nxb Văn học, Hà Nội.

64. Nguyễn Đức Sự (2000), Quan niệm về tôn giáo và thần linh trong các phong

trào yêu nước và duy tân ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, số 2, Hà Nội.

65. Lê Đình Thám (1934), Hiện trạng Phật học ở xứ ta, Nguyệt San Viên Âm, số

3, Huế.

66. Lê Sỹ Thắng (1976), Về tính giai cấp trong hệ tư tưởng của các nhà Nho Việt

Nam yêu nước hồi đầu thế kỉ XX, Tạp chí Triết học, số 5, Hà Nội.

67. Lê Sỹ Thắng (1991), Nguyễn An Ninh trong tiến trình tư tưởng Việt Nam, Tạp

chí Triết học, số 1, Hà Nội.

68. Nguyễn Q.Thắng (2006), Huỳnh Thúc Kháng con người và thơ văn, Nxb Văn

học, Hà Nội.

69. Chƣơng Thâu, Bùi Đăng Duy, Nguyễn Đức Sự (1967), Tư tưởng chính trị, tư

tưởng triết học Phan Bội Châu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội

70. Chƣơng Thâu (1982), Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa

đầu thế kỷ XX, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

71. Chƣơng Thâu (1989), Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

72. Chƣơng Thâu (1991), Ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp đối với một số

nhà Nho Việt Nam yêu nước và tiến bộ đầu thế kỷ XX, Tạp chí Nghiên cứu lịch

sử, Hà Nội.

73. Chƣơng Thâu (1997), Chính sách của thực dân Pháp đối với ảnh hưởng của

tân thư ở Việt Nam, tạp chí nghiên cứu lịch sử , Hà Nội.

74. Chƣơng Thâu (2000), Phan Bội Châu về một số vấn đề văn hóa – xã hội -

chính trị, Nxb Thuận Hóa, Huế.

75. Chƣơng Thâu (2004), Nghiên cứu Phan Bội Châu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

27

Nội.

76. Chƣơng Thâu (2005), 100 phong trào Đông Du và Phan Bội Châu, Nxb Nghệ

An, Nghệ An.

77. Chƣơng Thâu (2007), Góp phần tìm hiểu Nho giáo, Nho sĩ trí thức Việt Nam

trước năm 1945, Nxb Văn hóa - thông tin và Viện văn hóa, Hà Nội.

78. Chƣơng Thâu (Sƣu tầm và biên soạn) (2007), Phan Bội Châu trong dòng thời

đại, Nxb Nghệ An, Nghệ An.

79. Chƣơng Thâu – Trần Ngọc Vƣơng (2006), Phan Bội Châu – về tác giả và tác

phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

80. Chƣơng Thâu – Phạm Ngô Minh (sƣu tầm và biên soạn) (2010), Huỳnh Thúc

Kháng Tuyển tập, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

81. Lê Ngọc Thông (2001), Quan niệm của Phan Bội Châu về tôn giáo, Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, Hà Nội.

82. Lê Ngọc Thông (2003), Thế giới quan Phan Bội Châu, Nxb lao động, Hà Nội.

83. Nguyễn Tài Thƣ (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam,tập 1,Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

84. Nguyễn Tài Thƣ (chủ biên) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối

với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Nguyễn Quốc Tuấn (2007), Suy nghĩ về sự kiện thống nhất Phật giáo 1891,

Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, Hà Nội.

86. Phạm Hồng Tung (1999), Tìm hiểu về Phan Bội Châu và vấn đề đoán kết lương giáo

chống Pháp đầu thế kỷ XX, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội.

87. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

88. Nguyễn Hữu Vui (1993), Tôn giáo và đạo đức – Nhìn từ mặt triết học, Tạp chí

Triết học, số 4, Hà Nội.

89. Nguyễn Hữu Vui, Trƣơng Hải Cƣờng (2001), Tập bài giảng Tôn giáo học, Nxb

28

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

90. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2009), Nguyễn An Ninh – Tác phẩm, Nxb

Văn học, Hà Nội.

91. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2009), Nguyễn An Ninh – qua hồi ức của

những người thân, Nxb Văn học, Hà Nội.

92. Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây (2005), Phong trào Đông Du và Phan

Bội Châu, Nxb Nghệ An, Nghệ An.

93. Ủy bạn Trung ƣơng mặt trận tổ quốc Việt Nam (1997), Hội Khoa học lịch sử,

29

Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, Hà Nội.