BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM TRẦN CHÂU NGỌC
LUẬN VĂN THẠC SỸ
UĐỀ TÀIU:
TRUYEÄN CÖÔØI TIEÁNG VIEÄT NHÌN TÖØ LYÙ THUYEÁT HOÄI THOAÏI
TP. HỒ CHÍ MINH - 2011
0BMỤC LỤC
7TMỤC LỤC7T ............................................................................................................................ 2
7TMỞ ĐẦU7T .............................................................................................................................. 5
7T1. Lí do chọn đề tài7T................................................................................................................................... 5
7T2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề7T .................................................................................................................... 5
7T3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu7T ............................................................................ 8
7T4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn cứ liệu7T ........................................................................................... 9
7T5. Đóng góp của luận văn7T ....................................................................................................................... 10
7T6. Cấu trúc của luận văn7T ......................................................................................................................... 10
7TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT7T .................................................................................. 12
7T1.1.Khái niệm hội thoại7T .......................................................................................................................... 12
7T1.2.Một số vấn đề chung về hội thoại7T ..................................................................................................... 12
7T1.2.1.Đặc điểm hội thoại7T .................................................................................................................... 13
7T1.2.2.Vận động hội thoại7T .................................................................................................................... 14
7T1.2.3.Qui tắc hội thoại7T........................................................................................................................ 14
7T1.3.Cấu trúc hội thoại7T ............................................................................................................................. 15
7T1.3.1.Cuộc thoại7T................................................................................................................................. 16
7T1.3.2.Đoạn thoại7T ................................................................................................................................ 17
7T1.3.3.Cặp trao đáp (cặp thoại)7T ............................................................................................................ 17
7T1.3.3.1.Cấu trúc7T ............................................................................................................................. 17
7T1.3.3.2.Tính chất 7T ........................................................................................................................... 18
7T1.3.4.Tham thoại7T ................................................................................................................................ 19
7T1.3.5.Hành vi ngôn ngữ7T ..................................................................................................................... 20
7T1.4.Phương châm hội thoại7T ..................................................................................................................... 21
7T1.4.1.Phương châm hội thoại và ngữ cảnh giao tiếp7T ........................................................................... 22
7T1.4.2.Các phương châm hội thoại7T ....................................................................................................... 23
7T1.4.2.1.Phương châm về lượng7T ...................................................................................................... 23
7T1.4.2.2.Phương châm về chất 7T......................................................................................................... 24
7T1.4.2.3.Phương châm về cách thức7T ................................................................................................ 26
7T1.4.2.4.Phương châm về quan hệ7T ................................................................................................... 27
7T1.4.3.Những trường hợp vi phạm phương châm hội thoại7T................................................................... 29
7T1.4.3.1.Sự vi phạm không cố ý7T ...................................................................................................... 29
7T1.4.3.2.Sự vi phạm cố ý7T ................................................................................................................. 31
7TCHƯƠNG 2: CẤU TRÚC HỘI THOẠI TRONG TRUYỆN CƯỜI 7T ............................... 33
7T2.1.Đặc điểm của cuộc thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam7T .......................................................... 33
7T2.1.1.Hình thức hội thoại trong các cuộc thoại7T ................................................................................... 38
7T2.1.2.Cấu trúc của các cuộc thoại7T ....................................................................................................... 45
7T2.2.Đặc điểm của cặp thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam7T ............................................................ 53
7T2.2.1.Cặp thoại một tham thoại7T .......................................................................................................... 57
7T2.2.2.Cặp thoại hai tham thoại7T ........................................................................................................... 59
7T2.2.3.Cặp thoại phức tạp7T .................................................................................................................... 60
7T2.3.Đặc điểm của tham thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam 7T .......................................................... 62
7T2.3.1.Đặc điểm của tham thoại dẫn nhập7T ............................................................................................ 63
7T2.3.2.Đặc điểm của tham thoại hồi đáp7T .............................................................................................. 65
7T2.3.3.Đặc điểm của tham thoại hồi đáp – dẫn nhập7T ............................................................................. 66
7T2.4.Đặc điểm của hành vi ngôn ngữ trong Tiếng cười dân gian Việt Nam7T ............................................... 67
7T2.4.1.Các hành vi ngôn ngữ theo cách nói trực tiếp trong Tiếng cười dân gian Việt Nam7T ................... 68
7T2.4.1.1.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời dẫn nhập7T.................. 68
7T2.4.1.2.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời hồi đáp7T .................... 69
7T2.4.1.3.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời hồi đáp – dẫn nhập7T .. 70
7T2.4.2.Các hành vi ngôn ngữ theo cách nói gián tiếp trong Tiếng cười dân gian Việt Nam7T ................... 71
7T2.4.2.1.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời dẫn nhập7T ................. 71
7T2.4.2.2.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời hồi đáp7T .................... 73
7T2.4.2.3.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời hồi đáp – dẫn nhập7T .. 74
7TCHƯƠNG 3: VI PHẠM PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI – YẾU TỐ TẠO NÊN
7T3.1.Sự vi phạm phương châm về lượng7T .................................................................................................. 76
TIẾNG CƯỜI TRONG TRUYỆN CƯỜI 7T......................................................................... 76
7T3.2.Sự vi phạm phương châm về chất 7T ..................................................................................................... 80
7T3.3.Sự vi phạm phương châm về cách thức7T ............................................................................................. 87
7T3.4.Sự vi phạm phương châm về quan hệ7T ............................................................................................... 92
7TKẾT LUẬN7T ........................................................................................................................ 99
7TTÀI LIỆU THAM KHẢO7T ............................................................................................... 101
7TTÀI LIỆU TRÍCH DẪN7T .................................................................................................. 104
1BMỞ ĐẦU
8B1. Lí do chọn đề tài
Dụng học (pragmatics) là một bộ môn kí hiệu học đã được Ch. Morris đề xướng từ
những năm 30 của thế kỉ XX nhưng mãi đến những năm 70 thì việc nghiên cứu về dụng học
mới phát triển một cách mạnh mẽ.
Ngữ dụng học (linguistic pragmatics) là một bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu cách sử
dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, tức là sử dụng ngôn ngữ trong những ngữ cảnh cụ thể để đạt
được những mục đích giao tiếp cụ thể. Đây là một bộ môn mới, có cách tiếp cận ngôn ngữ
một cách toàn diện nên việc tìm hiểu bộ môn này trở thành nhu cầu cần thiết đối với những
ai quan tâm đến tiếng Việt.
Hội thoại là một bộ phận của ngữ dụng học được dùng trong hoạt động giao tiếp.
Trong giao tiếp có những cấu trúc phức tạp, có những qui định tuy không được nói ra thành
lời nhưng những người tham gia giao tiếp cần phải tuân thủ, nếu không thì dù câu nói không
mắc lỗi (về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) giao tiếp cũng sẽ không thành công.
Là một thể loại của văn học, truyện cười sử dụng một cách triệt để hình thức hội thoại.
Và thông thường, khi tiếp xúc với truyện cười, chúng ta cảm thấy tức cười và bật lên tiếng
cười. Nhưng nhiều lúc để trả lời vì sao chúng ta lại cười, các yếu tố gây cười, điều gì làm
nên tiếng cười…thì không nhiều người có thể lý giải được. Do đó, thiết nghĩ nên có những
công trình nghiên cứu về truyện cười, cung cấp những kiến thức cơ bản về ngôn ngữ học để
có thể lý giải được một câu chuyện cười.
Xuất phát từ những điều vừa nêu, chúng tôi chọn đề tài Truyện cười tiếng Việt nhìn
từ lý thuyết hội thoại làm đề tài nghiên cứu. Vì phạm vi của đề tài khá rộng, và giới hạn chỉ
dừng lại ở cấp độ luận văn nên chúng tôi chỉ xin đi vào một số vấn đề trọng tâm mà chúng
9B2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
tôi cho rằng đó là những yếu tố cơ bản và cần thiết để nghiên cứu truyện cười.
Truyện cười ra đời từ rất sớm và khó có thể khẳng định mốc thời gian đánh dấu sự ra
đời của nó. Nhưng có thể khẳng định một điều rằng, truyện cười ra đời từ khi con người có
nhu cầu trao đổi tư tưởng tình cảm với nhau, nảy sinh trong quá trình giao tiếp và phục vụ
cho nhu cầu giao tiếp.
Điểm qua các tài liệu có liên quan đến truyện cười, chúng tôi nhận thấy có khá ít công
trình nghiên cứu về chúng. Phần lớn là những công trình có tính chất sưu tập, tuyển chọn và
biên soạn lại theo một khuynh hướng nào đó (dưới dạng các tuyển tập).
Một số tài liệu có bàn về truyện cười dưới góc nhìn văn học, nhưng cũng chỉ mang
tính chất điểm qua, nêu lên. Như: Văn học dân gian Việt Nam Đinh Gia Khánh chủ biên, Văn
học dân gian Việt Nam của Hoàng Tiến Tựu, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn
học dân gian của Đỗ Bình Trị, Tổng tập văn học dân gian của người Việt do Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam biên soạn, Tiếng cười dân gian Việt Nam của Trương Chính – Phong
Châu...Chẳng hạn:
1) Trong quyển Văn học dân gian Việt Nam [29], các tác giả đã đi vào tìm hiểu tiếng
cười trong truyện cười (tiếng cười hài hước đơn giản và tiếng cười hài hước có ý nghĩa xã
hội), nội dung truyện cười (đấu tranh xã hội, chống lại mọi hành động, thái độ có hại cho xã
hội...), nghệ thuật truyện cười (phóng đại, kịch tính)...
2) Trong lời nói đầu của cuốn Tiếng cười dân gian Việt Nam [70] Trương Chính –
Phong Châu cũng đã nêu lên những đặc diểm khái quát về truyện cười: ý nghĩa xã hội của
tiếng cười (tiếng cười là vũ khí đả kích tố cáo đối với cái xấu), đối tượng của tiếng cười (vua
chúa, quan lại, địa chủ, thần linh…), biện pháp gây cười (phóng đại, kịch tính), gạn đục khơi
trong (giáo dục tư tưởng)…Trong đó tác giả giới thiệu hai biện pháp chính để gây cười là
phóng đại (phóng đại về sự việc, thói hư tật xấu của nhân vật, khai thác những hiện tượng
trái lẽ tự nhiên, tạo mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức để gây cười); tạo kịch tính (kịch
tính được tạo nên do sự thay đổi bất ngờ của hoàn cảnh, chính yếu tố bất ngờ đã tạo nên
tiếng cười).
3) Với Các phương thức lạ hóa trong nghệ thuật biểu đạt truyện cười [36], tác giả
Triều Nguyên cho rằng phương thức, thủ pháp góp phần tạo nên tiếng cười gọi chung là lạ
hóa. Có ba phương thức lạ hóa thường gặp trong truyện cười, đó là lạ hóa theo lối phóng đại,
lạ hóa theo lối tạo sự việc bất ngờ, lạ hóa theo lối dựng hoàn cảnh thực tế.
4) Trong Tiếng cười Việt Nam [48], Văn Tân nêu ra và phân tích một số yếu tố gây
cười: phương pháp phóng đại, cái tục, tính kịch, tiếu lâm không có kết luận, tính hiện thực,
hình thức ngắn ngủi.
5) Còn trong Truyện tiếu lâm [42], tác giả Nguyễn Hồng Phong nhận thấy có bốn đặc
điểm tạo nên tiếng cười: sự khai thác triệt để các mâu thuẫn trái tự nhiên, sự sắp đặt các
mâu thuẫn trong thế tương phản để gây cười, phương pháp nói ngoa – phóng đại, lối nói
thắt nút.
Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, chúng tôi nhận thấy một số bài nghiên cứu về truyện
cười của các tác giả Trịnh Sâm, Trần Hoàng, Vũ Ngọc Khánh, Bùi Khắc Viện…là trong số
hiếm hoi các tác giả đề cập đến vấn đề này. Có thể điểm qua:
1) Trong Nghệ thuật tổ chức văn bản trong truyện cười bác Ba Phi [44], tác giả Trịnh
Sâm đã đã xem xét văn bản như một chỉnh thể trong hoạt động giao tiếp và tiến hành mô
hình hóa chúng. Tác giả chỉ ra một số thủ pháp nghệ thuật về tổ chức văn bản. Qua khảo sát
56 truyện cười bác Ba Phi tác giả tìm ra được những cấu trúc trong tổ chức văn bản: cấu trúc
tuyến tính, cấu trúc đảo trình tự, cấu trúc song hành, cấu trúc hỗn hợp; và các thủ pháp tổ
chức văn bản: thủ pháp tăng tiến, thủ pháp khuếch đại, thủ pháp chuẩn bị ngữ cảnh. Tác giả
tập trung vào phân tích, thể hiện hai loại cấu trúc đó là cấu trúc tuyến tính và cấu trúc đảo
trật tự.
2) Tác giả Trần Hoàng với Những sắc thái độc đáo của tiếng cười dân gian Nam Bộ
qua truyện kể Ba Phi [24] đã rút ra một số biện pháp gây cười là ngoa dụ (cường điệu, phúng
dụ, khoa trương) và một số biện pháp tu từ văn bản (phương thức mở rộng), giọng điệu
mang tính khẩu ngữ của người Nam Bộ (qua việc sử dụng các từ địa phương, từ xưng hô,
quán ngữ, thành ngữ…). Mặc dù tác giả chỉ giới hạn một số biện pháp gây cười trong truyện
cười Bác Ba Phi, nhưng có thể nói đây là những biện pháp gây cười, tạo nên tiếng cười trong
cuộc sống nói chung.
3) Vũ Ngọc Khánh với Hành trình đi vào xứ sở cười [30] đã nêu ra ba phương thức
chính gây cười trong tiếng Việt là: Biến hóa ngôn ngữ để gây cười (chơi chữ, nói lái, nói
tục), cưỡng chế logic để gây cười (lối nói phóng đại, gài bẫy, tạo bất ngờ, đưa ra một câu
chuyện phi lí để gây cười) và tạo trò đùa – mẫu nhân vật để gây cười (đây là cách gây cười
phổ biến nhất). Tác giả thể hiện nhận định của mình qua một số truyện cười tiêu biểu.
4) Trong Hiện tượng mơ hồ trong nghệ thuật gây cười [7], tác giả Nguyễn Đức Dân
cho rằng “Hiện tượng mơ hồ chẳng những được dùng trong những mẩu chuyện cười, những
nụ cười ngắn gọn, nó còn được dùng để xây dựng những truyện cười. Những truyện cười của
các tác giả Việt Nam thường dựa trên những hiện tượng mơ hồ về từ ngữ”.
5) Bùi Khắc Viện với Tiếng cười trong phong cách ngôn ngữ của Bác qua tác phẩm
bằng tiếng Việt [61] cho rằng có hai loại biện pháp gây cười: ngôn ngữ học và phi ngôn ngữ
học. Biện pháp ngôn ngữ học là biện pháp đặc thù nhằm khai thác những đặc điểm riêng của
ngôn ngữ để gây cười. Tác giả nêu ra một số biện pháp gây cười như: chơi chữ, tương
phản...Biện pháp phi ngôn ngữ học gồm các thao tác: lựa chọn, sắp xếp các chi tiết...
6) Trong Hàm ý hội thoại trong các truyện cười dân gian: Khoe của và Hai kiểu áo
[65], tác giả Nguyễn Hoàng Yến cho rằng từ góc nhìn dụng học, sự khai thác hàm ý trong
các truyện này nhằm mục đích làm rõ thêm đặc tính của truyện cười. Hàm ý hội thoại là yếu
tố quan trọng tạo nên tiếng cười. Tác giả thống kê có 98% truyện cười có hội thoại (thống kê
qua Tiếng cười dân gian Việt Nam của Trương Chính - Phong Châu).
Đặc biệt, theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì có rất ít những công trình nghiên cứu về
truyện cười dưới góc nhìn ngôn ngữ học ở cấp độ luận văn, luận án. Cụ thể, đã có công trình
nghiên cứu về: Đặc điểm ngữ dụng của truyện cười dân gian Việt Nam [34]; Một số phương
thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt [47], tác giả đã tiến hành khảo sát truyện
cười và trên cơ sở đó nêu ra 26 phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt:
phương thức chơi chữ, phương thức so sánh, phương thức tỉnh lược...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều nặng về sưu tầm, diễn giải cảm tính dưới
góc nhìn văn hóa dân gian, có những sự diễn giải nhìn từ ngôn ngữ học nhưng rất ít và chủ
10B3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
yếu nghiên cứu đặc điểm của văn bản hay một số phương thức tạo nên tiếng cười.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những văn bản có tổ chức ngôn từ theo một hình
thức nào đó có thể gây nên tiếng cười. Do đó, truyện cười được hiểu theo nghĩa rất rộng – từ
truyện cười dân gian cho đến hiện đại đều là đối tượng nghiên cứu của đề tài này. Tuy nhiên,
do danh mục truyện cười được biên tập, xuất bản khá lớn nên chúng tôi chỉ xin khảo sát ở
một số tác phẩm tiêu biểu (chúng tôi sẽ trình bày cụ thể trong mục phương pháp nghiên cứu
và nguồn cứ liệu) mà chúng tôi cho rằng chúng thể hiện rõ nét những vấn đề cần trình bày.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Với hướng nghiên cứu như trên, luận văn nhằm hướng đến mục đích là nghiên cứu hội
thoại truyện cười nhằm chỉ ra các đặc điểm hội thoại dưới góc nhìn ngữ dụng học. Đồng thời
luận văn cung cấp cho người tiếp nhận cách thức vận dụng những kiến thức ngôn ngữ học để
có thể giải mã, giải thích về truyện cười và các yếu tố tạo nên tiếng cười.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Xác định cơ sở lí luận về ngữ dụng học đối với việc nghiên cứu hội thoại nói chung,
hướng tới việc nghiên cứu hội thoại trong thể loại văn học, cụ thể là truyện cười. Đi vào tìm
hiểu các khái niệm có liên quan: cấu trúc hội thoại, phương châm và việc vi phạm phương
châm hội thoại...
- Trên cơ sở lý thuyết đã xác định, tiến hành tập hợp, xử lí tư liệu về hội thoại trong
truyện cười và phân loại theo các tiêu chí đề ra.
- Miêu tả, phân tích các đặc điểm của hội thoại trong truyện cười. Chỉ ra các đặc điểm
của hội thoại nói chung, hiệu quả trong giao tiếp nói riêng.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Từ góc nhìn lý thuyết hội thoại, chúng tôi nhận thấy có thể nghiên cứu truyện cười từ
nhiều khía cạnh (những yếu tố chi phối vận động hội thoại, sự thể hiện các qui tắc hội thoại,
cấu trúc hội thoại, sự thể hiện các quan hệ liên cá nhân, phép lịch sự...). Nhưng trong phạm
vi luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn tìm hiểu ở một số khía cạnh sau:
- Cấu trúc hội thoại trong truyện cười.
- Các phương châm hội thoại trong truyện cười.
11B4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn cứ liệu
- Việc vi phạm phương châm hội thoại trong truyện cười.
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này chúng tôi sử dụng tích hợp một số phương pháp sau:
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này dùng để miêu tả các ngữ liệu được thể hiện
dưới dạng hội thoại, qua đó tìm ra những đặc điểm cụ thể của vấn đề cần trình bày.
- Phương pháp thống kê – phân loại: Phương pháp này nhằm tiến hành thống kê các
ngữ liệu và từ đó phân loại theo các tiêu chí đã đề ra.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Trên cơ sở nguồn ngữ liệu đã thống kê, phương
pháp này được sử dụng để phân tích ngữ liệu theo từng nội dung cụ thể và sau đó tổng hợp
lại các kết quả đã phân tích.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng: Trong quá trình miêu tả, phân tích
ngữ liệu, chúng tôi tiến hành xem xét chúng một cách toàn diện, đặt trong ngữ cảnh cụ thể.
4.2. Nguồn cứ liệu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các nguồn cứ liệu trích dẫn sau:
1) Minh Anh (2005), Truyện cười đó đây, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà Nội
2) Vương Mộng Bưu (2001), Truyện cười dí dỏm thông minh, Nxb Văn hóa – Thông
tin Hà Nội
3) Trương Chính, Phong Châu (2004), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
4) Trần Thúy Hằng (2001), Truyện cười đó đây, Nxb Thanh Niên
5) Thanh Thanh (2004), Tiếu lâm khôi hài, Nxb Thanh Niên
6) Trần Mạnh Thường (2000), Truyện cười Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà
12B5. Đóng góp của luận văn
Nội
Nếu đạt được mục đích – nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra luận văn có thể sẽ có những
đóng góp sau:
- Về lí luận, luận văn sẽ góp phần làm rõ những đặc điểm của truyện cười nhìn từ lý
thuyết hội thoại, đồng thời trên cứ liệu truyện cười, làm rõ những đặc điểm của lý thuyết hội
thoại trong giao tiếp tiếng Việt.
- Về thực tiễn, luận văn sẽ là nguồn tư liệu góp phần vào việc giảng dạy tiếng Việt
trong nhà trường: vận dụng lý thuyết hội thoại – đặc biệt là các phương châm hội thoại nhằm
13B6. Cấu trúc của luận văn
đạt hiệu quả trong hoạt động giao tiếp.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của luận văn
chia làm ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Trong chương 1, luận văn trình bày những vấn đề chung về lý thuyết hội thoại làm cơ
sở định hướng nghiên cứu hội thoại trong thể loại truyện cười tiếng Việt. Cụ thể, những nội
dung được thể hiện là: một số vấn đề chung về hội thoại (khái niệm, đặc điểm, vận động, qui
tắc), cấu trúc hội thoại (cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại, tham thoại, hành vi ngôn ngữ),
phương châm hội thoại (phương châm lượng, phương châm chất, phương châm cách thức,
phương châm quan hệ) và việc vi phạm phương châm hội thoại.
- Chương 2: Cấu trúc hội thoại trong truyện cười
Trong chương 2, luận văn miêu tả đặc điểm của các thành phần trong cấu trúc hội
thoại. Dựa vào những thống kê trên cơ sở khảo sát ngữ liệu trong Tiếng cười dân gian Việt
Nam [70], luận văn rút ra những đặc điểm trong cấu trúc của cuộc thoại, cặp thoại, tham
thoại, hành vi ngôn ngữ được thể hiện.
- Chương 3: Vi phạm phương châm hội thoại – yếu tố tạo nên tiếng cười trong truyện
cười
Trong chương 3, từ những vấn đề lí luận chung của phương châm hội thoại (cụ thể là
bốn phương châm: phương châm về lượng, phương châm về chất, phương châm về cách
thức, phương châm về quan hệ) luận văn miêu tả, phân tích những trường hợp vi phạm
phương châm hội thoại – phương thức tạo nên tiếng cười trong truyện cười.
2BCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
14B1.1.Khái niệm hội thoại
Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức
ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác nhau của ngôn ngữ đều được giải thích dựa vào
hình thức hoạt động căn bản này. Do đó, có khá nhiều tác giả đề cập đến khái niệm này.
Bàn về hội thoại, Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường
xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở cho mọi hoạt động ngôn ngữ
khác” [3, tr. 201].
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Hội thoại là sử dụng một ngôn ngữ để nói chuyện với
nhau” [39, tr. 461].
Sách Tiếng Việt 12 thì cho rằng: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời (bằng
miệng) giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo
đích được đặt ra” [1, tr. 3].
Hồ Lê lại cho rằng hội thoại được gắn với hành vi phát ngôn: “Phát ngôn hội thoại là
kết quả của một hành vi phát ngôn được kích thích bởi một sự kiện hiện thực kể cả hội thoại
hoặc xung đột tâm lí của người phát ngôn, có liên quan đến những người có khả năng trực
tiếp tham gia hội thoại, nó tác động và khiến anh ta phải dùng lời để phản ứng lại và hướng
lời nói của mình vào những người có khả năng trực tiếp tham gia vào hội thoại ấy, trên cơ sở
của một kiến thức về cấu trúc câu và về cách xử lí mối quan hệ giữa phát ngôn và ngữ huống
và của một dự cảm về hiệu quả của lời nói ấy đối với người thụ ngôn hội thoại trực tiếp” [31,
tr. 180].
Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Trong giao tiếp nhiều chiều, bên này nói, bên kia nghe
và phản hồi trở lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe trở thành bên nói và bên
nói trở thành bên nghe. Đó là hội thoại” [9, tr. 76].
Còn Đỗ Thị Kim Liên thì quan niệm: “Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn
ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa
họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích
15B1.2.Một số vấn đề chung về hội thoại
nhất định” [33, tr. 18].
Khi mới ra đời, hội thoại được xã hội học, xã hội ngôn ngữ học, dân tộc ngôn ngữ học
Mỹ nghiên cứu. Từ năm 1970, hội thoại trở thành đối tượng nghiên cứu chính thức của một
phân ngành ngôn ngữ học Mỹ – phân ngành phân tích hội thoại (conversation analysis). Sau
đó phân tích hội thoại được tiếp nhận ở Anh với tên gọi phân tích diễn ngôn (discourse
analysis)…Cho đến nay, hội thoại được đề cập đến trong ngôn ngữ học của hầu hết các quốc
gia trên thế giới.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, một số tác giả như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức
Dân, Hoàng Phê, Lê Đông, Cao Xuân Hạo, Trần Thị Thìn, Nguyễn Văn Hiệp, Hoàng Tuệ,
Hồ Lê…đã công bố những công trình có liên quan đến vấn đề hội thoại. Có thể nói, những
tác giả này là những người đi tiên phong trong việc giới thiệu một hướng nghiên cứu mới
26B1.2.1.Đặc điểm hội thoại
vào Việt Nam đó là dụng học – lý thuyết hội thoại.
Trong ngữ dụng học các cuộc hội thoại được phân biệt ở một số mặt như sau:
- Đặc điểm của thoại trường (không gian, thời gian) nơi diễn ra cuộc thoại. Thoại
trường có thể mang tính công cộng như: trong cuộc mít tinh, lớp học, câu lạc bộ, hội thảo,
cửa hiệu, ngoài chợ, trong tiệm ăn, quán giải khát... hay riêng tư: trong phòng khách giữa
chủ và khách, trong phòng riêng của gia đình… Thoại trường không phải chỉ là không gian,
thời gian mà có thể gắn với khả năng có mặt của những người thứ ba vào cuộc hội thoại đang
diễn ra. Một cuộc hội thoại vốn được coi là riêng tư giữa hai người, nhưng nếu bỗng xuất
hiện thêm những người thứ ba, dù là khách quan, dù không xen vào cuộc hội thoại thì điều
đó ít hay nhiều vẫn ảnh hưởng đến nội dung và hình thức của cuộc thoại.
- Các cuộc thoại còn khác nhau ở số lượng người tham gia. Căn cứ vào số lượng người
tham gia có thể có song thoại (hai người tham gia hội thoại); tam thoại (ba người tham gia
hội thoại); đa thoại (nhiều người – trên ba người tham gia hội thoại). Nhưng dạng cơ bản của
hội thoại là dạng song thoại, tức là dạng diễn ra giữa hai nhân vật đối đáp (đối thoại).
- Cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại cũng rất khác nhau tùy theo
các cuộc thoại. Đó là tính chủ động hay bị động của các đối tác (còn gọi là “đối ngôn”); sự
có mặt hay vắng mặt của vai nghe trong hội thoại.
- Cuộc thoại còn khác nhau ở tính có đích hay không có đích. Những cuộc hội thoại
trong thương thuyết, ngoại giao, hội thảo khoa học...thường có chủ đích, chủ đề được xác
định rõ ràng. Trong khi đó những cuộc chuyện trò tán gẫu thường là không có đích.
- Hội thoại còn mang tính có hình thức hay không có hình thức cố định. Những cuộc
hội nghị thương thảo thường có hình thức tổ chức khá chặt chẽ, trang trọng đến mức thành
nghi lễ. Những chuyện trò đời thường không cần một hình thức tổ chức cố định và chặt chẽ
nào cả.
- Cuối cùng là vấn đề ngữ vực. Do tính có hình thức hay không có hình thức mà các
cuộc hội thoại có thể diễn ra ở một trong ba ngữ vực (trường (field), thức (mood), không khí
27B1.2.2.Vận động hội thoại
(tenor)).
Trong bất cứ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao lời, trao đáp và
tương tác.
- Vận động đầu tiên xuất hiện trong một cuộc hội thoại là vận động mà Sp1 (người
nói) nói lượt lời của mình ra và hướng lượt lời của mình vào Sp2 (người nghe) làm
cho Sp2 nhận biết lượt lời đó là dành cho Sp2.
- Sau khi tiếp nhận phát ngôn của Sp1, Sp2 đưa ra phát ngôn để thể hiện quan điểm, ý
kiến, tình cảm của mình để đáp lại lời trao từ Sp1, và cuộc thoại chính thức được bắt đầu.
Đây được gọi là vận động trao đáp.
- Trong quá trình hội thoại, các đối ngôn sẽ có ảnh hưởng lẫn nhau, tác động đến
cách ứng xử của nhau. Đây được xem là vận động tương tác xảy ra trong hội thoại. Trước
khi hội thoại giữa các đối ngôn tồn tại một khoảng cách nhất định về sự hiểu biết lẫn nhau,
về tâm lí, tình cảm…Sau khi hội thoại, nếu những khoảng cách ấy được thu hẹp lại, rút
ngắn lại, khi ấy có thể nói đã có một cuộc hội thoại tích cực. Ngược lại, khoảng cách ấy
vẫn giữ nguyên hoặc mở rộng ra, khi ấy cuộc thoại có thể bị xem là tiêu cực. Tương tác là
một kiểu quan hệ xã hội giữa người với người. Có một hoạt động xã hội thì có sự tương
28B1.2.3.Qui tắc hội thoại
tác. Tương tác bằng lời là một kiểu tương tác, là hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Để một cuộc thoại có thể diễn tiến bình thường, các đối ngôn trong cuộc thoại phải
tuân thủ những quy tắc nhất định khi tham gia hội thoại. Qua nghiên cứu thực tế, chuyên
gia ngữ dụng học C. K. Orecchioni người Pháp đã đề ra một số quy tắc cụ thể như sau: quy
tắc điều hành luân phiên lượt lời, quy tắc quan hệ liên cá nhân trong hội thoại (Orecchioni
dẫn theo [3, tr. 225]).
Khi tham gia hội thoại, các đối ngôn phải ý thức rõ ràng về các vai trò nói và nghe
của nhau. A đóng vai trò nói thì B sẽ đóng vai trò nghe, và sau khi nhận ra dấu hiệu thể
hiện hết vai của A, thì B sẽ tiếp nhận vai trò của A để tiến trình hội thoại không bị gián
đoạn. Các lượt lời nói có thể được một người điều chỉnh hoặc do các đối ngôn tự thương
lượng ngầm với nhau. Đó chính là quy tắc được gọi là quy tắc điều hành luân phiên lượt
lời.
Trong hội thoại, còn có quy tắc điều hành nội dung của hội thoại, chủ yếu quy định
về quan hệ nội dung giữa các phát ngôn được đưa ra trong quá trình hội thoại. Theo quy
tắc này, một cuộc hội thoại không phải là sự lắp ghép ngẫu nhiên tùy tiện các phát ngôn,
các hành vi ngôn ngữ. Nguyên tắc liên kết không chỉ chi phối các diễn ngôn đơn thoại mà
chi phối cả những lời tạo thành một cuộc thoại. Tính liên kết hội thoại thể hiện bên
trong một phát ngôn, giữa các phát ngôn, giữa các hành động ở lời, giữa các đơn vị hội
thoại…
Trước đó, Grice cũng đã từng xuất phát từ quy luật trong hội thoại mà đề ra
nguyên tắc cộng tác hội t h o ạ i và các phương châm hội thoại. Nội dung chủ yếu của
nguyên tắc cộng tác hội thoại được P. Grice đề xuất là: Hãy làm cho phần đóng góp của
anh đúng như nó được đòi hỏi ở giai đoạn mà nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương
hướng của cuộc hội thoại mà anh đã chấp nhận tham gia vào (Grice (1967) dẫn theo [3, tr.
229]).
Trong hội thoại, ngoài quan hệ trao đổi thông tin (miêu tả, trần thuật – những thông
tin được đánh giá theo tiêu chí đúng sai logic) còn có quan hệ được gọi là liên cá nhân
(quan hệ giữa các vai trong giao tiếp). Liên quan trực tiếp tới quan hệ liên cá nhân là vấn
16B1.3.Cấu trúc hội thoại
đề lịch sự trong giao tiếp.
Chịu ảnh hưởng của lí thuyết phân tích diễn ngôn, lí thuyết hội thoại Thụy Sĩ – Pháp
cho rằng hội thoại là một tổ chức có tôn ti như tổ chức của một đơn vị cú pháp. Các đơn vị
cấu trúc hội thoại từ lớn đến nhỏ là: cuộc thoại (conversation), đoạn thoại (sequence), cặp
trao đáp (exchange), tham thoại (intervention), hành vi ngôn ngữ (speech act).
Có thể hình dung cấu trúc hội thoại bằng sơ đồ:
cuộc thoại
đoạn thoại 1 đoạn thoại 2 đoạn thoại n
cặp thoại 1 cặp thoại 2 cặp thoại n
tham thoại 1 tham thoại 2 tham thoại n
29B1.3.1.Cuộc thoại
hành vi 1 hành vi 2 hành vi n
Nói tới hội thoại là nói tới cuộc thoại. Cuộc thoại là một lần nói chuyện, trao đổi giữa
những cá nhân (ít nhất là hai cá nhân) trong một hoàn cảnh xã hội nào đó. Theo C. K.
Orecchioni: Để có một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện cần và đủ là có một nhóm nhân vật
có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong một khung thời gian – không gian có thể thay
đổi nhưng không đứt quãng, nói về một vấn đề có thể thay đổi nhưng không đứt quãng
(Orecchioni dẫn theo [3, tr. 313]). Cuộc thoại ngắn là những cuộc thoại chỉ chứa một cặp
câu, như: chào – chào, hỏi – đáp, đề nghị – đồng ý, ra lệnh – nhận lệnh…
Ví dụ:
(1) A: - Chào anh.
B: - Chào.
(2) A: - Dạo này bác có khỏe không?
B: - Tôi khỏe.
Cuộc thoại dài là những thương lượng về một hợp đồng kinh doanh, sản xuất hay hợp
tác văn hóa, nghệ thuật, khoa học, những cuộc đàm phán giữa hai quốc gia về kinh tế, chính
trị, biên giới…
Trong một cuộc nói chuyện, người ta có thể trao đổi hết vấn đề này sang vấn đề khác.
Nhưng bao giờ cũng có lúc bắt đầu và lúc kết thúc. Chúng làm nên ranh giới của một cuộc
thoại. Lúc bắt đầu được gọi là mở thoại, luôn do một bên chủ động. Lúc kết thúc cũng do
một bên chủ động đề ra, gọi là kết thoại.
Giữa phần mở thoại và phần kết thoại là phần trung tâm của cuộc thoại: phần thân
thoại. Như vậy, cấu trúc khái quát của một cuộc thoại sẽ là: MỞ THOẠI – THÂN THOẠI –
KẾT THOẠI.
Cấu trúc một cuộc thoại về cơ bản là vậy, nhưng cũng có thể miêu tả cấu trúc cuộc
thoại theo một sơ đồ khác. Chẳng hạn, Ventola cho rằng cấu trúc khái quát của một cuộc
thoại trong tiếng Anh là: “Chào – giới thiệu – nêu vấn đề nội dung chính – chuẩn bị kết thúc
– (chào) từ biệt”. Như vậy phần mở thoại bao gồm ba nội dung: chào – giới thiệu – nêu vấn
đề (Ventola (1979) dẫn theo [9, tr. 85]).
Thông thường người ta nhận thấy được các dấu hiệu định ranh giới cuộc thoại như:
dấu hiệu mở đầu (chào hỏi), dấu hiệu kết thúc (những câu hỏi: còn gì nữa không nhỉ, thế
thôi nhé…). Nhưng dù vậy, những dấu hiệu như thế vẫn không thể xem là bắt buộc, đặc
biệt với những cuộc thoại với những người thân quen. Việc xác định ranh giới cuộc thoại
30B1.3.2.Đoạn thoại
chưa thật dứt khoát và ít nhiều mang tính võ đoán.
Đoạn thoại được quan niệm là một đơn vị hội thoại do một số cặp trao đáp liên kết
chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng. Về ngữ nghĩa, đó là đơn vị có sự liên
kết nhờ chủ đề: có một chủ đề duy nhất. Còn về ngữ dụng, đó là đơn vị có tính duy nhất
về đích hội thoại. Có những loại đoạn thoại sau: mở thoại; thân thoại; kết thoại.
Đoạn mở thoại và kết thoại có cấu trúc tương đối đơn giản và ổn định, dễ nhận ra hơn
đoạn thân thoại, do đoạn thân thoại có thể có dung lượng lớn và có cấu trúc phức tạp.
Tổ chức của đoạn thoại mở đầu và kết thúc phần lớn được nghi thức hoá và lệ thuộc
rất nhiều vào yếu tố như: các kiểu cuộc thoại, hoàn cảnh giao tiếp, sự hiểu biết về nhau của
31B1.3.3.Cặp trao đáp (cặp thoại)
47B1.3.3.1.Cấu trúc
các đối ngôn…
Cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất của một cuộc thoại do các tham thoại tạo
nên. Có thể căn cứ vào số lượng các tham thoại để phân loại các cặp thoại.
- Cặp thoại một tham thoại: hình thành khi người nghe im lặng, không có hành động gì
cả, lúc đó ta có cặp thoại được gọi là “hẫng”. Đó là tham thoại Sp1 không được Sp2 hưởng ứng
hồi đáp bằng một hành vi tương ứng.
- Cặp thoại hai tham thoại: là dạng thường gặp nhất trong hội thoại. Trong cặp thoại
hai tham thoại, mỗi tham thoại thường ứng với một chức năng cụ thể: tham thoại thứ
nhất được gọi là “tham thoại dẫn nhập”, tham thoại thứ hai được gọi là “tham thoại hồi
đáp”. Đây là dạng cấu trúc đơn giản nhất của cặp thoại trong trong hiện thực giao tiếp.
- Cặp thoại phức tạp: là cặp thoại có nhiều tham thoại tham gia, hoặc có thể có ít
tham thoại nhưng lại có nhiều hành vi ngôn ngữ, trong quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Cặp
thoại phức tạp bao gồm các dạng:
Dạng thứ nhất: Loại cặp thoại có nhiều tham thoại dẫn nhập, nhưng chỉ có một
tham thoại hồi đáp.
Dạng thứ hai: Loại cặp thoại có một tham thoại dẫn nhập, với nhiều tham thoại hồi
đáp.
48B1.3.3.2.Tính chất
Dạng thứ ba: Loại cặp thoại phức tạp do có nhiều tham thoại tham gia ở cả hai phía.
- Cặp thoại chủ hướng/cặp thoại phụ thuộc
Cặp thoại chủ hướng là cặp chủ đạo giữ vai trò trung tâm, chứa nội dung chính
của đoạn thoại. Trong đoạn thoại, ngoài cặp thoại chủ hướng ra, còn có thể có nhiều cặp
thoại không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào một cặp thoại khác, cụ thể là phụ thuộc vào
một trong các tham thoại của cặp thoại phụ thuộc, gọi là cặp thoại phụ thuộc. Tính chất
phụ thuộc của cặp thoại này thể hiện ở không mang đích hay chủ đề chung, mà chỉ có
chức năng bổ trợ, giải thích thêm về những khía cạnh hay chi tiết nào đó của tham thoại
trong cặp thoại chủ hướng. Cặp thoại phụ thuộc thường gặp là hai loại cặp thoại: cặp thoại
củng cố và cặp thoại sửa chữa.
- Cặp thoại tích cực/tiêu cực
Khi xác định tính chất của cặp thoại thường phải dựa vào tính chất của tham thoại
mà chủ yếu là tham thoại hồi đáp. Khi tham thoại hồi đáp tích cực (thỏa mãn đích dẫn
nhập), thì ta c ó c ặ p thoại tích cực; khi tham thoại hồi đáp tiêu cực (nghịch hướng
đích dẫn nhập), thì ta có cặp thoại tiêu cực.
Theo lẽ thường, khi có được cặp thoại tích cực thì các đối ngôn thoả mãn và có thể
kết thúc cuộc thoại ở đó. Nhưng với cặp thoại tiêu cực lại xảy ra khả năng sau: cuộc thoại
vẫn kết thúc nhưng kết thúc trong tình trạng không thoả mãn, kết thúc trong bất đồng, bất
hòa hay thất bại của người dẫn nhập, vì vậy sẽ xảy ra sự tái dẫn nhập, với hi vọng của
người nói muốn xoay chuyển từ tình thế tiêu cực sang tích cực, mong đạt được sự đồng
thuận.
Cặp thoại tích cực: ra lệnh – tuân lệnh; yêu cầu – chấp nhận; khen tặng – tiếp nhận;
mời – nhận lời; hỏi – trả lời; nhận định – tán thành; phê bình – tiếp thu…
Cặp thoại tiêu cực: mời – từ chối; khen tặng – khước từ; yêu cầu – từ chối; hỏi – hỏi
lại, trả lời không thuận theo sự chờ đợi; mắng – cãi; phê bình – phủ nhận; chất vấn – thanh
32B1.3.4.Tham thoại
minh…
Tham thoại là phần đóng góp của từng nhân vật hội thoại vào một cặp thoại nhất
định [3, tr. 316]. Cần có sự phân biệt giữa tham thoại với lượt lời. Một lượt lời có thể
chứa nhiều tham thoại mà cũng có thể nhỏ hơn tham thoại.
Ví dụ:
(1) – Chào!
(2) – Chào!
(3) – Anh khỏe không?
(4) – Cảm ơn. Bình thường. Anh đi đâu về?
(5) – Tôi vừa đi Cửu Long về.
(6) – Vĩnh Long chứ.
(1) và (2) là một cặp thoại chào gồm hai tham thoại đối xứng. (3) và (4) là một cặp
thoại, trong đó (3) là một lượt lời gồm một tham thoại hỏi (lượt lời bằng với tham thoại).
(4) là một lượt lời gồm ba tham thoại: một tham thoại cảm ơn, một tham thoại hồi đáp và
một tham thoại hỏi lại (lượt lời lớn hơn tham thoại). Còn ở (5) và (6), (6) có tính chất điều
chỉnh, bổ sung lại phát ngôn (5) chứ chưa phải là một lượt lời độc lập (lượt lời nhỏ hơn
tham thoại).
Tham thoại là đơn vị dùng để cấu tạo nên cặp thoại. Mỗi tham thoại có thể nằm
trong quan hệ trao đáp theo những hướng khác nhau: Nó vừa là tham thoại hồi đáp cho
cặp thoại này, lại vừa đóng vai trò dẫn nhập cho một cặp thoại khác, từ đó sẽ tạo ra các
kiểu dạng cấu trúc khác nhau. Nói khác đi, mỗi tham thoại thực hiện chức năng dẫn
nhập hoặc hồi đáp nhưng cũng có khi kiêm nhiệm đồng thời hai chức năng, khi đó gọi là
tham thoại có chức năng kép.
Về tổ chức nội tại, một tham thoại do một hoặc một số hành vi ngôn ngữ tạo nên.
Trong đó có ít nhất một hành vi chủ hướng làm nòng cốt và có thể có thêm một hoặc một
số hành vi phụ thuộc. Hành vi chủ hướng đảm nhiệm vai trò quyết định mục đích giao tiếp
của tham thoại chứa nó, đồng thời tham gia kết hợp với hành vi chủ hướng nằm ở tham
thoại khác để tạo nên cặp kế cận. Hành vi phụ thuộc có vai trò làm rõ lí do hoặc bổ
sung nghĩa cho hành động chủ hướng trong quá trình hội thoại. Khi tham thoại chỉ có một
hành vi thì ranh giới tham thoại sẽ trùng với ranh giới hành vi.
Trong tham thoại, hành vi chủ hướng có chức năng trụ cột, quyết định hướng của
tham thoại và quyết định hành vi đáp thích hợp của người đối thoại. Còn hành vi phụ
thuộc thì có nhiều chức năng khác nhau như: củng cố, giải thích, biện minh, đánh
giá…nhằm hỗ trợ cho hành vi chủ hướng. Ngoài ra, trong tham thoại còn có những thành
phần mở rộng. Những thành phần này không đóng góp lớn cho nội dung ngữ nghĩa của
tham thoại mà chỉ thuần tuý là những hành vi có chức năng ngữ dụng, chỉ có chức năng
duy trì quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.
Dựa vào vai trò, vị trí của tham thoại có thể phân loại tham thoại thành một số loại
sau:
- Tham thoại dẫn nhập là tham thoại có chức năng mở đầu cho một cặp thoại.
- Tham thoại hồi đáp là tham thoại có chức năng phản hồi tham thoại dẫn nhập.
Tham thoại hồi đáp có thể đóng vai trò kết thúc cặp thoại, vì thế còn gọi là tham thoại
hồi đáp – dẫn nhập. Mỗi tham thoại đều có thể nằm trong quan hệ cặp thoại với tham thoại
trước và sau nó, nghĩa là tham gia trực tiếp tạo nên hai cặp thoại, trừ tham thoại đầu tiên
33B1.3.5.Hành vi ngôn ngữ
và cuối cùng thường chỉ tham gia vào một cặp thoại.
Xét trong quan hệ hội thoại, các hành vi ngôn ngữ có thể chia thành hai nhóm:
những hành vi có hiệu lực ở lời và những hành vi liên hành vi. Những hành vi có hiệu lực
ở lời tức là những hành vi có hiệu lực thay đổi quyền lực và trách nhiệm của người hội
thoại, theo cách hiểu của O. Ducrot (Ducrot dẫn theo [3, tr. 319), là những hành vi xét
trong quan hệ giữa các tham thoại của các nhân vật hội thoại với nhau. Khi thực hiện một
hành vi có hiệu lực ở lời trong một tham thoại, người nói có trách nhiệm đối với phát ngôn
của mình và có quyền đòi hỏi người đối thoại phải hồi đáp lại bằng một hành vi ở lời tương
ứng, ví dụ: hỏi / trả lời; cầu khiến / đáp ứng… Những quyền lực và trách nhiệm đó làm cho
các hành vi ngôn ngữ có tính chất như các quy ước pháp lí và những đối ngôn có những tư
cách pháp nhân nhất định.
Cùng một phát ngôn nhưng có thể ẩn chứa nhiều hành vi có hiệu lực ở lời khác nhau.
Chúng tôi xin đề cập đến hai hành vi có hiệu ở lời là: hành vi ngôn ngữ ở lời trực tiếp và
hành vi ngôn ngữ ở lời gián tiếp.
- Hành vi ngôn ngữ ở lời trực tiếp: hành vi ngôn ngữ ở lời trực tiếp là hành vi ngôn
ngữ được thực hiện ở những phát ngôn có quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức
năng.
Ví dụ: Căn cứ vào mục đích phát ngôn, câu tiếng Việt được chia thành bốn loại: câu
trần thuật, câu cầu khiến, câu hỏi, câu cảm thán. Mỗi kiểu câu ứng với cấu trúc, chức năng
riêng. Chẳng hạn, dùng hình thức hỏi để biểu hiện hành vi hỏi: Anh đi đâu về? Em tên gì?
Mấy giờ rồi?...; dùng hình thức cầu khiến để biểu thị hành vi yêu cầu, ra lệnh: Hãy đứng
lên, Mọi người trật tự, Nhanh chân lên...
- Hành vi ngôn ngữ ở lời gián tiếp: hành vi ngôn ngữ ở lời gián tiếp là hành vi ngôn
ngữ được thực hiện thông qua sự suy luận, dựa vào hoàn cảnh, ngữ cảnh, vào thông tin cơ
bản đã có được, vào lẽ thường và vào khả năng suy luận của người nghe.
Ví dụ: Một phát ngôn trần thuật không dùng để nhận định mà dùng để cầu khiến:
Hôm nay thời tiết oi bức quá (trong trường hợp người phát ngôn muốn đề nghị “Mình đi bơi
đi”). Hay một câu hỏi được dùng để yêu cầu: Bạn có bút xóa không? (trong trường hợp
17B1.4.Phương châm hội thoại
người phát ngôn muốn yêu cầu “Bạn cho mình mượn bút xóa”).
H. P. Grice là tác giả của khái niệm này. Những phác thảo đầu tiên của nguyên lý cộng
tác được tác giả nêu trong các bài giảng tại đại học Havard (1967). Đến năm 1975 tập hợp
những bài giảng được xuất bản trong cuốn Logic và hội thoại (Logic and Conversation). Từ
năm 1978 đến 1981, Grice đã có những thuyết minh và bổ sung cho nguyên tắc của mình
trong một số bài báo.
Nguyên lý cộng tác gồm một nguyên lý khái quát bao trùm và bốn phạm trù theo tinh
thần các phạm trù của Kant (Kant dẫn theo [3, tr. 230]). Mỗi phạm trù tương ứng với một
phương châm, mỗi phương châm lại gồm một số phương châm nhỏ (tiểu phương châm). Có
thể khái quát nội dung của bốn phương châm như sau:
Phương châm về lượng:
- Hãy làm cho phần đóng góp của anh có lượng thông tin đúng như nó được đòi hỏi
(của đích đang diễn ra của từng phần của hội thoại).
- Đừng làm cho phần đóng góp của anh có lượng thông tin lớn hơn đòi hỏi.
Phương châm về chất:
- Đừng nói điều mà anh tin rằng không đúng.
- Đừng nói điều mà anh không có bằng chứng xác thực.
Phương châm cách thức:
- Tránh lối nói tối nghĩa.
- Tránh lối nói mập mờ.
- Hãy nói ngắn gọn.
- Hãy nói có trật tự.
Phương châm quan hệ:
34B1.4.1.Phương châm hội thoại và ngữ cảnh giao tiếp
- Hãy nói cho đúng chỗ.
Muốn biết một câu nói ra phản ánh một sự tình cụ thể nào, có đúng hay không, phải
biết sở chỉ của các thành tố của nó. Muốn xác định sở chỉ của các thành tố cũng như sở chỉ
của câu phải đặt vào tình huống phát ra nó. Do đó ngữ cảnh ảnh hưởng lớn và có vai trò
quyết định đến việc giải thích các phát ngôn.
Trong hoạt động giao tiếp cần lưu ý đến ngữ cảnh, tình huống giao tiếp. Một câu nói
có thể thích hợp trong tình huống này nhưng không thích hợp trong một tình huống khác. Do
đó, muốn xác định một câu nói có tuân thủ phương châm hội thoại hay không và để giao tiếp
được thành công, người nói không chỉ phải nắm vững các phương châm hội thoại mà còn
phải xét nó trong mối quan hệ với ngữ cảnh, tình huống giao tiếp. Chẳng hạn, xét các ví dụ
sau:
(1) Việt Nam chiến thắng.
(2) Chúng tôi đã cố gắng hết sức.
Ở (1), nếu đặt trong ngữ cảnh Việt Nam đang tham gia giải thể thao quốc tế và giành
được chiến thắng thì lại khác với việc Việt Nam giành chiến thắng trong vụ kiện với Hiệp
hội cá da trơn của Mỹ. Còn ở (2), nếu đặt câu nói trong ngữ cảnh ở một bệnh viện thì hoàn
toàn khác với ngữ cảnh của lời giải thích cho thất bại của Việt Nam tại Suzuki AFF Cup
2010.
35B1.4.2.Các phương châm hội thoại
Để hoạt động giao tiếp đạt được hiệu quả cao thì những người tham gia cần phải tuân
49B1.4.2.1.Phương châm về lượng
thủ các phương châm hội thoại mà Grice đề ra.
Nguyên tắc cộng tác hội thoại có dạng tổng quát như sau: Hãy làm cho phần đóng góp
của anh, chị (vào cuộc hội thoại) đúng như nó được đòi hỏi ở giai đoạn (của cuộc thoại) mà
nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương hướng của cuộc thoại mà anh chị đã chấp nhận
tham gia vào (Grice dẫn theo [3, tr. 229]). Và yêu cầu phương châm về lượng là hãy làm cho
phần đóng góp của mình có lượng tin đúng như đòi hỏi của đích đang diễn ra của từng phần
của cuộc hội thoại.
Ví dụ:
A: Anh đi đâu vậy?
B: Tôi đi ra chợ.
Trong lượt lời B – người đáp đã cung cấp lượng tin đúng như đòi hỏi của A đang diễn
ra cuộc thoại giữa hai người. Và như vậy cuộc thoại trên đã tuân thủ phương châm về lượng.
Grice đã minh họa một cách rất cụ thể phương châm về lượng của ông như sau: Nếu ai
đó giúp tôi sửa xe, tôi mong đợi sự đóng góp của người đó phù hợp không hơn không kém
với điều tôi đang chờ. Nếu tôi cần bốn cái vít thì người đó đưa cho tôi không phải sáu, cũng
không phải hai cái vít (Grice dẫn theo [3, 231]). Qua lời minh họa trên ta thấy nội dung của
phương châm lượng khi thực hiện trong giao tiếp là cần nói có nội dung đủ, không thừa,
không thiếu. Mọi sự thừa thải về thông tin có thể làm cho những người tham gia hội thoại
nghĩ rằng nó được tạo ra vì một lí do nào đó không liên quan tới cuộc thoại đang diễn ra.
Tìm hiểu hai mẩu đối thoại sau để thấy rõ sự tuân thủ phương châm này:
(1) A: Này, cậu có biết bơi không?
B: Biết chứ, thậm chí còn bơi giỏi nữa.
A: Thế cậu học bơi ở đâu?
B: Chẳng lẽ cậu không biết à? Dĩ nhiên là ở dưới nước chứ còn ở đâu.
[49, tr. 8]
(2) Cảnh sát hỏi một phạm nhân:
- Vì sao anh phải vào đây?
- Thế mà cũng hỏi, vì họ không cho tôi ở ngoài kia nữa.
[6, tr. 14]
Xét ví dụ (1), câu trả lời của B không mang đầy đủ nội dung mà A cần biết. Một câu
nói ra trong giao tiếp bao giờ cũng truyền tải một nội dung nào đó, nhưng trong câu nói của
B lại là nội dung thừa, không cần thiết vì trong nghĩa của “bơi” đã có “ở dưới nước”. Cho
nên, muốn tuân thủ phương châm về lượng, B chỉ cần trả lời đúng điều A đòi hỏi như “Học
bơi ở trường” hay “Học bơi với bố”…
Trong ví dụ (2), câu trả lời của phạm nhân có nội dung lượng tin nhiều hơn điều mà nó
được đòi hỏi dù ý trả lời đúng đích của người hỏi. Đối thoại này là mẩu chuyện gây cười,
nhân vật không trả lời ngay điều được hỏi, nói nhiều hơn những gì cần nói. Để tuân thủ
phương châm về lượng, phạm nhân chỉ cần đáp “Thế mà cũng hỏi” là đủ.
Một đòi hỏi nữa không kém phần quan trọng của phương châm về lượng là trong giao
tiếp người nói cần nói cho đúng nội dung, lượng tin đúng với mục đích hội thoại.
Ví dụ:
A: Thế em đã có mấy cháu rồi?
B: Em được hai cháu. Một trai một gái. Đứa lớn 8 tuổi đang học lớp 3. Đứa nhỏ 5 tuổi
đang chuẩn bị vào lớp 1. Hai cháu xinh và ngoan lắm.
Câu trả lời của B đã nêu lên lượng thông tin nhiều hơn điều mà A cần biết. B chỉ cần
trả lời “Em được hai cháu” là tuân thủ phương châm về lượng vì lượng thông tin được cung
50B1.4.2.2.Phương châm về chất
cấp như thế đúng là với yêu cầu, mục đích của người hỏi.
Nội dung phương châm về chất yêu cầu là: Hãy nói sao cho có nội dung đáng nói.
Đừng nói nhiều hơn cái nội dung đáng nói (Grice dẫn theo [3, tr. 230]). Nhưng muốn giao
tiếp hiệu quả thì nội dung của lời nói còn phải đúng, phải có tính xác thực.
Phương châm về chất chi phối trực tiếp đến nội dung hội thoại. Yêu cầu của phương
châm này là khi giao tiếp đừng nói những điều mà mình tin là không đúng. Grice phát biểu:
Tôi trông đợi sự giúp đỡ thật sự chứ không phải một sự giúp đỡ vờ vẫn. Nếu tôi cần đường
để làm một chiếc bánh ga tô thì người đó đưa tôi đường chứ không phải đưa tôi muối. Nếu
tôi cần một chiếc thìa thì tôi mong anh ta đưa cho tôi một chiếc thìa chứ không phải một cái
cặp chả (Grice dẫn theo [3, 231]).
Ví dụ:
(1) Anh: Mẹ đâu rồi em?
Em: Mẹ qua nhà dì Tư hoặc đi chợ thì phải. Em cũng chỉ đoán như vậy.
Câu trả lời của em là rõ ràng, nói đúng điều có liên quan, cung cấp lượng thông tin
đúng như đòi hỏi là tuân thủ phương châm hội thoại. Việc em trả lời có thể mẹ qua nhà dì Tư
hay đi chợ là vì em chưa tin chắc điều nói ra là đúng.
(2) Hai cán bộ xã cùng trò chuyện với nhau về tiến độ thi công nạo vét kênh nội đồng
của xã:
A: Anh tin rằng xã mình sẽ thực hiện đúng với tiến độ đề ra hay không?
B: Việc này còn tùy thuộc vào ý thức và tinh thần trách nhiệm của người dân nữa. Tôi
chưa thể nói trước được.
Câu trả lời của B đúng với đòi hỏi của A. Nhưng câu trả lời của B có nội dung chưa
thỏa mãn câu hỏi của A bởi vì B không thể nói ra điều mà mình chưa có cơ sở chắc chắn để
khẳng định là có kịp hoàn thành tiến độ hay không. Câu trả lời đã cho thấy B tuân thủ
phương châm về chất trong giao tiếp.
Phạm trù chất đòi hỏi lời nói trong giao tiếp phải chính xác, đúng sự thật ở những
người cùng tham gia hội thoại. Đừng nói điều mà mình không có cơ sở, không có bằng
chứng xác thực. Quan sát mẩu chuyện cười sau:
Hai anh chàng qua một khu vườn trồng bí. Một anh thấy quả bí to kêu lên:
- Chà, quả bí kia to thật.
Anh bạn có tính nói khoác, cười bảo:
- Lấy gì làm to. Tôi đã từng thấy một quả bí to bằng cái nhà đằng kia kìa.
Anh kia nói ngay:
- Lấy gì làm to. Tôi trông thấy một cái nồi đồng to bằng cái đình làng ta.
[49, tr. 9]
Mẩu đối thoại cho thấy cả hai người cùng nói về những điều không có thật, không ai
tin vì thiếu bằng chứng xác thực, vi phạm phương châm về chất.
Quan sát một số ví dụ sau:
(1) Nếu không biết chắc là tuần sau lớp có kiểm tra định kì hay không thì chúng ta
không thể nói: Tuần sau lớp sẽ kiểm tra định kì.
(2) Nếu không biết chắc vì sao thầy không đến lớp thì chúng ta không thể nói: Thầy
không đến lớp vì ốm.
Hai câu nói trên tuy chứa đựng lượng tin thông báo rõ ràng nhưng không có cơ sở xác
thực. Câu nói chỉ thông qua ý nghĩ phán đoán, không căn cứ vào thực tế là sự việc có thật
hay không có thật. Điều này dẫn đến việc không tuân thủ phương châm.
Trong nhiều trường hợp, vì một lý do nào đó, người nói đưa ra một nhận định hay
truyền đạt một thông tin, nhưng bản thân người nói chưa chắc chắn về thông tin đó. Để đảm
bảo tuân thủ phương châm về chất, người nói phải dùng những cách diễn đạt như kiểu: tôi
được biết, tôi tin rằng, theo tôi nghĩ, tôi tin là, tôi nghe nói, theo tôi nghĩ…nhằm báo cho
người nghe biết tính xác thực của nhận định hay thông tin mình đưa ra chưa chắc chắn, chưa
có bằng chứng xác thực. Chẳng hạn:
(1) Nếu không biết chắc là tuần sau lớp có kiểm tra định kì hay không thì chúng ta có
thể nói: Tôi tin rằng tuần sau lớp sẽ kiểm tra định kì.
(2) Nếu không biết chắc vì sao thầy không đến lớp thì chúng ta không thể nói: Tôi
nghĩ là thầy không đến lớp vì thầy ốm.
Việc tuân thủ phương châm về chất sẽ giúp chúng ta đạt kết quả trong giao tiếp, cách
51B1.4.2.3.Phương châm về cách thức
tiếp nhận và truyền đạt thông tin chính xác, có sức thuyết phục cao.
Yêu cầu của phương châm cách thức là tránh lối nói tối nghĩa, lối nói mập mờ. Trong
quá trình giao tiếp, nội dung thông tin của người nói mơ hồ hay tối nghĩa sẽ làm cho giao
tiếp không đạt kết quả như mong muốn. Quan sát ví dụ sau:
(1) Anh: Em thi đến ngày nào mới xong?
Em: Em thi đến thứ 6 là xong rồi.
(2) Chủ nhà ra đón khách:
- Thật quí hóa quá, thế lần này các cậu đến chơi có lâu không?
- Đến khi nào cậu gác chân lên thì về.
- Nhanh thế thôi ư! Hẳn là công việc kinh doanh gấp lắm!!!
[6, tr. 19]
Ở ví dụ (1), người em không chỉ trả lời xác thực, đúng như đòi hỏi về điều có liên
quan mà còn trả lời rõ ràng câu hỏi của người anh. Cuộc thoại tuân thủ phương châm cách
thức.
Ở ví dụ (2), câu nói mơ hồ, tối nghĩa không tuân thủ phương châm. Cách nói này
thường mang theo một hàm ý nào đó mà chỉ người trong cuộc mới hiểu.
Yêu cầu của phương châm cách thức là hãy nói ngắn gọn, nói có trật tự, tránh dài
dòng. Trong số các phương châm hội thoại thì phương châm cách thức có nội dung quen
thuộc hơn vì nó có liên quan đến những yêu cầu về diễn đạt trong giao tiếp hàng ngày.
Phương châm cách thức giúp chúng ta hiểu rõ cuộc thoại chỉ đạt hiệu quả khi những người
cùng tham gia chú ý đến cách nói ngắn gọn, mạch lạc, không nói câu có nội dung tối nghĩa,
nhiều nghĩa. So sánh hai ví dụ sau:
(1) Hai người bạn trò chuyện với nhau:
- Khi nào cậu tốt nghiệp.
- Năm sau.
(2) Cuộc trò chuyện giữa hai người bạn:
- Dạo này làm ăn thế nào?
- Kinh tế khủng hoảng, mua bán khó khăn, vật giá leo thang, ra đường ngập nước,
đụng phải hố tử thần. Làm với chả ăn.
Hình thức câu trả lời ở ví dụ (1) ngắn gọn mà đủ ý, đáp ứng đúng yêu cầu của người
hỏi, giúp hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả. Ngược lại, ví dụ (2) dài dòng, không mạch lạc,
không đi vào chủ đích của người hỏi.
Có những cách nói giúp cho hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả tối ưu (ví dụ (1)), nhưng
cũng có những cách nói làm người nghe khó tiếp nhận hoặc tiếp nhận một cách miễn cưỡng
(ví dụ (2)). Do đó, khi giao tiếp, bên cạnh cách nói ngắn gọn, mạch lạc, cần chú ý cách nói
có trật tự, trình tự.
Để tuân thủ phương châm cách thức, người nói cần nắm vững các qui tắc ngữ âm, ngữ
pháp và có vốn từ vựng phong phú. Đây là phương châm có ảnh hưởng lớn đối với quá trình
52B1.4.2.4.Phương châm về quan hệ
học tập cũng như hoạt động giao tiếp hàng ngày.
Là một phương châm quan trọng của hội thoại, phương châm về quan hệ đòi hỏi người
tham gia hội thoại phải nói vào đề, nhất là khi trả lời các câu hỏi. Grice đã minh họa về
phương châm quan hệ: Tôi trông đợi một sự giúp đỡ của người giúp tôi đúng vào điều tôi
đang cần ở thời điểm cụ thể của việc tôi đang làm. Nếu tôi đang nhào bột làm bánh mì thì tôi
không mong người giúp tôi đưa cho tôi cuốn sách hướng dẫn làm bánh hoặc cây xiên thịt
(Grice dẫn theo [3, tr. 231]).
Câu nói trên cho thấy việc tuân thủ phương châm quan hệ trong hội thoại là cần nói
cho đúng chỗ, nói những gì liên quan đến điều đang nói.
Ví dụ:
Thấy A đang loay hoay tìm gì đó, B đi ngang qua và dừng lại trước mặt A
A: Tôi tìm mua bản đồ thành phố.
B: Tới ngã ba cách đây 100 mét có cửa hàng sách.
Nghe câu nói của B, A hiểu rằng gần đây có hiệu sách và mình có thể tìm mua được
bản đồ ở đó. Câu nói của B đã tuân thủ phương châm quan hệ.
Trong giao tiếp, khi người tham gia hội thoại không đi thẳng vào vấn đề hoặc tự dưng
nói ra ngoài đề là do họ cố tình không nói thẳng vào đề hoặc không chú ý lời của người nói.
Ví dụ:
Một nữ bệnh nhân lo lắng hỏi bác sĩ về tình hình sức khỏe của mình:
- Bác sĩ, ca mổ của tôi thế nào ?
- Hừm…Hiện giờ tôi chỉ có thể nói cho bà biết rằng bà sống sót sau tai nạn là một kì
tích.
Câu trả lời của bác sĩ dường như không có liên quan gì đến câu hỏi của nữ bệnh nhân.
Nhưng thật ra, câu trả lời đã đáp ứng được mục đích của người hỏi. Đây là cách trả lời bình
thường, tự nhiên trong giao tiếp hàng ngày do người nghe có thể hiểu câu trả lời theo nghĩa
hàm ẩn của câu nói. Qua câu trả lời của bác sĩ nữ bệnh nhân hiểu được là ca mổ của mình đã
thành công trên cả sự mong đợi. Cách diễn đạt trên cho thấy phương châm quan hệ được
tuân thủ vì chúng nói đúng vào vấn đề liên quan.
Muốn biết một câu nói có tuân thủ phương châm quan hệ hay không, chúng ta cần
hiểu được nghĩa hàm ẩn bên trong câu nói. Quan sát một số ví dụ sau:
(1) A: Mấy giờ rồi ?
B: Có hẹn à ?
(2) Cô gái: Anh ơi, xe em lại hỏng nữa rồi.
Chàng trai: Sáng mai anh đợi em ở đầu hẻm.
Câu trả lời trong hai ví dụ trên dường như không liên quan đến nội dung cần hỏi
nhưng người hỏi vẫn có thể hiểu được vì người trả lời đã tuân thủ phương châm quan hệ.
Trong giao tiếp hàng ngày thì cách nói như trên rất phổ biến, nó yêu cầu người nghe tiếp
nhận thông tin không chỉ thông qua nghĩa tường minh của câu nói mà còn phải qua suy luận
mới có thể hiểu được. Chẳng hạn, A nói “Mấy giờ rồi ?” thì B hiểu là A có việc bận và cần
phải đi. Hay qua lời của chàng trai, cô gái có thể hiểu là chàng trai đã hiểu ý mình và sẵn
36B1.4.3.Những trường hợp vi phạm phương châm hội thoại
sàng giúp đỡ.
Phương châm hội thoại là vấn đề của ngữ dụng học. Do đó, muốn xác định một phát
ngôn có tuân thủ phương châm hội thoại hay không cần xét nó trong mối quan hệ với tình
huống giao tiếp cụ thể. Có thể một câu nói được coi là tuân thủ phương châm hội thoại trong
tình huống này nhưng lại không tuân thủ phương châm hội thoại trong tình huống khác.
Phương châm hội thoại không có tính bắt buộc như những qui tắc ngữ pháp, đó không phải
là những qui định mà mọi người nhất thiết phải tuân theo trong bất kì tình huống giao tiếp
nào. Nhiều trường hợp để đạt được hiệu quả giao tiếp, người nói phải nói tránh sự thật, nói
53B1.4.3.1.Sự vi phạm không cố ý
đánh trống lảng, nói vòng vo…
Trong những tình huống giao tiếp sử dụng tổng hợp nhiều phương châm hội thoại sẽ
dẫn đến tình trạng các phương châm hội thoại không hòa hợp được với nhau. Điều này dẫn
đến tình trạng vì phải tôn trọng phương châm này mà vi phạm phương châm khác.
Ví dụ:
Vợ: Anh có thấy điện thoại của em đâu không ?
Chồng: Hình như nó trên salon thì phải.
Quan sát cuộc thoại trên ta thấy câu trả lời của người chồng đã vi phạm phương châm
lượng vì không cung cấp đủ thông tin như người vợ mong muốn. Ở đây, người chồng đã tôn
trọng phương châm chất, không nói điều mà mình không có bằng chứng xác thực.
Có trường hợp, tuy không cố ý tôn trọng phương châm nào nhưng vẫn vi phạm
phương châm lượng do cách lặp lại hoàn toàn trong câu nói.
Ví dụ:
- Tình yêu là tình yêu.
- Cuộc sống là cuộc sống.
- Đàn bà là đàn bà.
Ý nghĩa của câu nói không cung cấp thêm thông tin gì mới nhưng sự lặp lại cấu trúc
trong câu nhằm diễn đạt khái niệm và người nghe có thể hiểu được hàm ý của người nói qua
cách lặp đó. Đây là sự vi phạm cố ý phương châm lượng. Những kết cấu theo lối này thường
ẩn chứa hàm ý bên trong.
Ví dụ:
A: Tay Cán dạo này thế nào?
B: Thì Cán vẫn là Cán thôi!
[9, tr. 132]
Câu trả lời của B đã vi phạm phương châm về lượng, không cung cấp thêm thông tin
gì mới. Tuy nhiên qua câu trả lời này A có thể hiểu hàm ý của B là: cái tay Cán của ngày
hôm nay không có gì khác với tay Cán trước đây, tính cách chẳng có gì thay đổi hết.
Sự vi phạm phương châm còn do người nói vụng về, vô tình vi phạm phương châm.
Ví dụ:
Chàng và nàng ngồi tâm sự dưới bóng cây cổ thụ. Nàng thỏ thẻ:
- Anh nhìn kìa, trên cành cây có đôi chim đang âu yếm nhau tình tứ quá. Sao anh cứ
ngồi thẩn thờ mãi vậy ?
- Biết làm sao bây giờ, anh không mang theo súng.
[6, tr. 56]
Xét về nghĩa hiển ngôn thì câu đáp của chàng trai không tuân thủ phương châm quan
hệ, thể hiện sự thiếu quan tâm của người nói. Khi cô gái nói “Sao anh cứ ngồi thẩn thờ mãi
vậy ?” thì chàng trai hiểu đó không đơn giản là một thông báo mà là lời yêu cầu. Đã vậy,
chàng trai còn thờ ơ đáp “Biết làm sao bây giờ”. Trường hợp này, sự vi phạm không cố ý
phương châm quan hệ là do người nói vô tình, vụng về trong câu nói.
Trong hội thoại, sự vi phạm không cố ý phương châm hội thoại còn xuất phát từ
những câu nói không thuộc chủ ý của người nói.
Ví dụ:
Đến giờ cơm, con dâu hỏi mẹ chồng:
- Mẹ đói chưa ? Con vào dọn cơm.
Mẹ chồng vốn bị lảng tai, nghe không rõ, đáp:
- Đang xem ti vi.
Do bị lảng tai nên mẹ chồng không nghe rõ câu hỏi của con dâu nên trả lời không liên
quan đến điều người con dâu hỏi. Rõ ràng mẹ chồng đã vi phạm phương châm quan hệ,
nhưng đây là sự vi phạm không cố ý, không thuộc chủ ý của người nói – do bị lảng tai.
54B1.4.3.2.Sự vi phạm cố ý
Sự cố tình vi phạm phương châm hội thoại được xem như là một chiến lược giao tiếp.
Tức là những người tham gia hội thoại sử dụng công cụ ngôn ngữ để thể hiện điều mình
muốn nói, tạo nên hàm ý hoặc để tác động và cũng có thể gây mơ hồ. Ở đây, người nói muốn
gây sự chú ý, hướng người nghe hiểu câu nói theo một ý nghĩa hàm ẩn nào đó.
Ví dụ:
Người phụ nữ: À. Ông thanh tra đấy à. Tôi đang chờ ông gọi đây. Tôi muốn bố trí…
Viên thanh tra: Không biết bà có vui lòng dùng bữa với tôi không ?
[6, tr. 61]
Lời đáp của viên thanh tra xét về nghĩa tường minh không có liên quan gì đến lời của
người phụ nữ. Chỉ có nghĩa hàm ẩn được suy ra từ sự cố ý vi phạm phương châm quan hệ
mới đảm bảo cho cuộc giao tiếp đạt được mục đích. Từ câu đáp của viên thanh tra có thể suy
luận: giữa chúng ta có chuyện cần bàn, nhưng phải giữ bí mật, tôi muốn mời bà ăn tối để nói
rõ hơn và an toàn hơn…Ở đây, sự cố ý vi phạm phương châm làm nảy sinh nghĩa hàm ẩn
trong cuộc thoại.
Trong quá trình hội thoại, người nói có ý định ngầm là tạo ra một hiệu quả như mong
muốn từ sự vi phạm cố ý một phương châm nào đó. Đây là sự vi phạm có chủ ý để đạt được
hiệu quả ngữ dụng.
Ví dụ:
Khi gặp một khách hàng nghi ngờ về chất lượng của sản phẩm, người bán hàng nói:
- Hãy dùng sản phẩm này đi! Dùng rồi mới biết hay, dở cô ạ!
Câu nói của người bán hàng mập mờ, cố ý vi phạm phương châm cách thức vói mục
đích là làm an tâm khách hàng để bán được hàng.
Sự vi phạm phương châm nào đó một cách cố ý có thể xảy ra ngay từ lượt lời mở
thoại. Điều này làm cho cuộc thoại lệch mục tiêu mà người thứ nhất đặt ra. Đây là một trong
những biện pháp tác động để gây cười từ nghĩa hàm ẩn trong những câu chuyện cười.
Ví dụ:
- Thế ở cơ quan cháu có bao nhiêu người làm việc ?
Đứa cháu suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Khoảng phân nửa trong số họ ạ.
[6, tr. 62]
Bản thân câu hỏi đã vi phạm phương châm về lượng. Câu hỏi “…bao nhiêu người làm
việc…” trở thành thừa nếu người hỏi chỉ muốn hỏi cơ quan có bao nhiêu người. Câu hỏi này
cũng trở thành câu mơ hồ, vi phạm phương châm cách thức. Người dựng chuyện đã cho
người nghe trả lời theo hướng khác và tác động gây cười được tạo ra từ sự vi phạm cố ý các
61BTiểu kết
phương châm trên.
Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, hội thoại là phương tiện phổ biến nhất. Hội
thoại được sử dụng một cách phong phú, đa dạng trong những hoàn cảnh khác nhau nhằm
đạt được những hiệu quả giao tiếp nhất định.
Nghiên cứu hội thoại nói chung, nghiên cứu hội thoại trong một thể loại văn học cụ
thể nói riêng không thể không đề cập đến những khái niệm cơ bản trong cấu trúc hội thoại:
cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại, tham thoại, hành vi ngôn ngữ với những đặc điểm và chức
năng của chúng. Gắn liền với cấu trúc hội thoại là những nguyên lí hội thoại, mà ở đây
chúng tôi đề cập đến nguyên lí cộng tác với bốn phương châm cơ bản: phương châm về
lượng, phương châm về chất, phương châm về quan hệ, phương châm về cách thức.
Những vấn đề lí thuyết hội thoại chúng tôi trình bày nhằm xác lập cơ sở để nghiên cứu
hội thoại trong thể loại truyện cười tiếng Việt. Tiếp cận vấn đề ở góc nhìn hội thoại từ đó qui
chiếu vào truyện cười tiếng Việt, chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu cấu trúc hội thoại cũng như
các phương châm hội thoại được thể hiện thông qua thể loại văn học này.
3BCHƯƠNG 2: CẤU TRÚC HỘI THOẠI TRONG TRUYỆN CƯỜI
Theo Đỗ Hữu Châu, có ba trường phái có quan điểm khác nhau về cấu trúc hội thoại:
trường phái phân tích hội thoại ở Mỹ (conversation analysis); trường phái phân tích diễn
ngôn ở Anh (discourse analysis); và trường phái lí thuyết hội thoại ở Thụy Sĩ – Pháp
(Genève) [3, tr. 290].
Như đã trình bày ở phần chương 1, chúng tôi chọn trường phái lí thuyết hội thoại
Thụy Sĩ – Pháp làm cơ sở lí thuyết để tiến hành xác lập những nội dung trong cấu trúc hội
thoại cần thể hiện trong chương 2 này. Cụ thể, các đơn vị trong cấu trúc hội lần lượt là:
- Cuộc thoại (conversation)
- Đoạn thoại (sequence)
- Cặp trao đáp (exchange)
- Tham thoại (intervention)
- Hành vi ngôn ngữ (speech act)
Trong đó ba đơn vị đầu là ba đơn vị có tính chất lưỡng thoại – hình thành do vận động
trao đáp của các nhân vật hội thoại; hai đơn vị sau là hai đơn vị có tính chất đơn thoại – do
một người nói ra.
Khảo sát, phân tích cấu trúc hội thoại trong truyện cười tiếng Việt là một vấn đề khó,
đòi hỏi nhiều thời gian và tâm sức của người thực hiện. Do giới hạn về thời gian và phạm vi
tư liệu khảo sát rộng lớn, để tránh sự lan man, dàn trải trong cách thể hiện vấn đề, chúng tôi
xin được phép sử dụng tư liệu trong phạm vi quyển Tiếng cười dân gian Việt Nam [70] làm
18B2.1.Đặc điểm của cuộc thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
tư liệu chính trong quá trình phân tích.
Tiếng cười dân gian Việt Nam gồm năm chương: Truyện cười; Truyện ngụ ngôn; Ca
dao trào phúng; Vè trào phúng; Hề chèo, tuồng đồ. Riêng chương Truyện cười bao gồm gồm
sáu nội dung: I. Truyện cười; II. Truyện Trạng Lợn; III. Truyện Trạng Quỳnh; IV. Truyện
Xiển Bột; V. Truyện Ông Ó; VI. Truyện Ba Phi.
Ở đây, trong nội dung chương này, chúng tôi xin giới hạn phạm vi khảo sát ở mục I
(Truyện cười) của chương I (Truyện cười) trong Tiếng cười dân gian Việt Nam. Mặc dù
phạm vi khảo sát chỉ dừng lại ở đó nhưng để tiện cho quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi
xin được phép sử dụng cách gọi chung là Tiếng cười dân gian Việt Nam.
Dưới đây là kết quả khảo sát căn cứ vào giới hạn phạm vi tư liệu nêu trên:
STT
Bảng 2.1. Bảng liệt kê các cuộc thoại khảo sát trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
Tên truyện cười
Kiện trời Diêm vương thèm ăn thịt Đi tu phải tội Xin đại vương đình lại cho một đêm Bẩm chó cả Bẩm toàn gạo muối
Trung thần nghĩa sĩ cả Cứ bảo tuổi sửu có được không?
Trả ơn con lợn
Tri kỷ
Tài nói láo Thi nói khoác
Thơ con voi
Thích xu nịnh
Cuộc thoại 1 Cuộc thoại 1 2 Cuộc thoại 2 3 Cuộc thoại 3 4 Cuộc thoại 4 5 Cuộc thoại 5 6 Cuộc thoại 6 7 Cuộc thoại 7 Mất trộm bò 8 Cuộc thoại 8 9 Cuộc thoại 9 10 Cuộc thoại 10 Quan lớn mua vàng 11 Cuộc thoại 11 12 Cuộc thoại 12 Hai kiểu áo 13 Cuộc thoại 13 Đánh quân ngũ sách 14 Cuộc thoại 14 Dân giần quan 15 Cuộc thoại 15 16 Cuộc thoại 16 Quan đối với chó Thần bia trả nghĩa 17 Cuộc thoại 17 18 Cuộc thoại 18 Quan sợ ai 19 Cuộc thoại 19 Quan thị và quan võ xỏ nhau 20 Cuộc thoại 20 Diệu kế 21 Cuộc thoại 21 Yết thị 22 Cuộc thoại 22 Bức thư lạ 23 Cuộc thoại 23 Bố mày! Đã chết với tao chưa? 24 Cuộc thoại 24 25 Cuộc thoại 25 26 Cuộc thoại 26 Có con giun đất 27 Cuộc thoại 27 Rắm của con 28 Cuộc thoại 28 Giàn hoa lý sắp đổ 29 Cuộc thoại 29 Quan sắp đánh bố 30 Cuộc thoại 30 Nhưng nó phải bằng hai mày 31 Cuộc thoại 31 32 Cuộc thoại 32 Đổ mồ hôi mực 33 Cuộc thoại 33 Vụt vào đầu còn phải hỏi 34 Cuộc thoại 34 Xin làm bố để trả nợ 35 Cuộc thoại 35 Chiếm hết chỗ 36 Cuộc thoại 36 Đâu dám làm khổ lây đến ông 37 Cuộc thoại 37 38 Cuộc thoại 38 Uống thuốc độc không chết 39 Cuộc thoại 39 Dạy con 40 Cuộc thoại 40 Nghe qua thì biết 41 Cuộc thoại 41 Chốc nữa tao sang 42 Cuộc thoại 42 Ba anh đầy tớ Trang 51 – 53 53 – 54 54 – 55 55 – 56 56 – 57 57 57 – 58 58 – 59 59 – 60 60 – 61 61 61 – 62 62 63 63 – 65 65 – 66 66 – 67 67 – 68 68 – 69 69 69 – 70 71 – 72 73 74 – 75 75 – 76 76 – 77 77 77 – 78 78 – 79 79 – 80 80 80 – 81 81 – 82 82 82 – 83 83 84 84 – 85 85 – 86 86 87 87 – 88
Tiếc da cọp
Thỉnh sao được
Thành hoàng lấy mất chữ
Tài ăn cứt chó
Tam đại con gà
Thầy đồ ăn vụng chè Thầy đồ liếm mật Thái cực sinh lưỡng nghi
Trò hơn thầy Lấy đâu ra mà rặn
43 Cuộc thoại 43 Nói có đầu có đuôi 44 Cuộc thoại 44 Tại ông không hỏi 45 Cuộc thoại 45 May mà không đi giày 46 Cuộc thoại 46 Nhà giàu keo bẩn 47 Cuộc thoại 47 Sao phí quá thế Thà chết còn hơn 48 Cuộc thoại 48 49 Cuộc thoại 49 Con nói hợp ý ta 50 Cuộc thoại 50 51 Cuộc thoại 51 Cá gỗ 52 Cuộc thoại 52 53 Cuộc thoại 53 Vắt cổ chày ra nước 54 Cuộc thoại 54 Chó đá 55 Cuộc thoại 55 Cưỡi ngỗng mà về 56 Cuộc thoại 56 Nhà giàu kén rể 57 Cuộc thoại 57 58 Cuộc thoại 58 Kén rể lười 59 Cuộc thoại 59 Vừa buồn cười vừa sợ 60 Cuộc thoại 60 61 Cuộc thoại 61 Cây bất ở bể đông 62 Cuộc thoại 62 Ngưu là con bò tót 63 Cuộc thoại 63 64 Cuộc thoại 64 Người chết nhầm thì có 65 Cuộc thoại 65 Vẫn chi hai quan 66 Cuộc thoại 66 Đôi câu đối chọi 67 Cuộc thoại 67 68 Cuộc thoại 68 69 Cuộc thoại 69 70 Cuộc thoại 70 Bánh tao đâu 71 Cuộc thoại 71 Đã có thầy giữ nhà hộ 72 Cuộc thoại 72 Hỏi đường lên trời 73 Cuộc thoại 73 Về bảo thằng thầy mày đừng có nói dối 74 Cuộc thoại 74 Kiêng chữ 75 Cuộc thoại 75 Văn hay 76 Cuộc thoại 76 Đậu phụ mắm tôm 77 Cuộc thoại 77 Chó thui 78 Cuộc thoại 78 Chỉ tiêu những chữ lẻ 79 Cuộc thoại 79 Ngửi văn 80 Cuộc thoại 80 Rắm quí 81 Cuộc thoại 81 Còn phải học gì nữa 82 Cuộc thoại 82 83 Cuộc thoại 83 84 Cuộc thoại 84 Mua kính 85 Cuộc thoại 85 Nam mô chuỳnh Thơ cái chuông 86 Cuộc thoại 86 Tức cảnh sinh tình 87 Cuộc thoại 87 Thơ vịnh con chó 88 Cuộc thoại 88 88 – 89 89 – 90 91 91 – 92 92 92 – 93 93 – 94 94 94 95 95 – 96 96 – 97 97 98 – 99 99 – 101 101 – 102 102 – 103 104 – 105 106 106 – 107 107 – 108 109 109 – 111 112 113 114 – 115 115 - 116 116 - 117 117 - 118 118 – 119 119 – 120 121 122 – 123 123 124 125 125 – 126 126 – 127 127 127 – 128 128 129 – 130 130 – 131 132 – 134 134 – 135 135 – 136
Trời sinh ra thế
Sao đã vội chết
Thầy lang và thầy bói xỏ nhau
89 Cuộc thoại 89 Ghen 90 Cuộc thoại 90 91 Cuộc thoại 91 Bốc thuốc theo sách 92 Cuộc thoại 92 93 Cuộc thoại 93 Xin mời thầy nội khoa 94 Cuộc thoại 94 Chỉ có một con ma 95 Cuộc thoại 95 Chữa ma ra người 96 Cuộc thoại 96 Chọn người gầy mà chữa 97 Cuộc thoại 97 Mánh khóe 98 Cuộc thoại 98 99 Cuộc thoại 99 Nhà có động 100 Cuộc thoại 100 Hỏi khách qua đường 101 Cuộc thoại 101 Tín chủ Nguyễn Thị Thẹo 102 Cuộc thoại 102 Tra chui vào 103 Cuộc thoại 103 Phù thủy sợ ma 104 Cuộc thoại 104 Tại thầy địa lí 105 Cuộc thoại 105 Con thanh tịnh 106 Cuộc thoại 106 Đậu phụ cắn 107 Cuộc thoại 107 Giấu đầu hở đuôi 108 Cuộc thoại 108 Sát sinh, tội nặng lắm 109 Cuộc thoại 109 Khuyến giáo 110 Cuộc thoại 110 Con vịt hai chân 111 Cuộc thoại 111 Chiêm bao thấy chết một ngàn năm 112 Cuộc thoại 112 Thối quá, thối thật 113 Cuộc thoại 113 Nhân đức 114 Cuộc thoại 114 Không phải mất công 115 Cuộc thoại 115 Ai nuôi tôi 116 Cuộc thoại 116 Con rắn vuông 117 Cuộc thoại 117 Nói khoác gặp nhau 118 Cuộc thoại 118 Chuyện lạ phương xa 119 Cuộc thoại 119 Thế có ghê không 120 Cuộc thoại 120 Mắt tinh, tai tinh 121 Cuộc thoại 121 Đón lên tỉnh rồi 122 Cuộc thoại 122 Xem tiền tiên 123 Cuộc thoại 123 Nói chữ 124 Cuộc thoại 124 Tửu sắc 125 Cuộc thoại 125 Nhất bên trọng, nhất bên khinh 126 Cuộc thoại 126 Thừa một con thì có 127 Cuộc thoại 127 Còn gì bằng 128 Cuộc thoại 128 Buôn vịt trời 129 Cuộc thoại 129 Đặt lờ trên ngọn cây 130 Cuộc thoại 130 Máy móc 131 Cuộc thoại 131 Mất rồi 132 Cuộc thoại 132 Bắt được sợi dây 133 Cuộc thoại 133 Vừa cả 134 Cuộc thoại 134 Sợ sét bà 136 – 137 137 – 138 139 140 141 141 – 142 142 143 143 144 – 145 145 – 146 146 146 – 147 148 148 – 149 149 – 150 151 152 – 153 153 153 – 154 154 158 158 – 159 159 – 160 160 161 162 163 164 – 165 165 – 166 168 168 – 169 169 – 170 170 – 171 171 – 172 172 – 173 173 – 175 175 176 – 177 177 – 179 179 179 – 180 181 – 182 182 182 – 183 184
135 Cuộc thoại 135 Thế thì không mất 136 Cuộc thoại 136 Cha nào con nấy 137 Cuộc thoại 137 Vẽ mặt khi vay tiền 138 Cuộc thoại 138 Thầy trừ chồn 139 Cuộc thoại 139 Kêu trước lên là vừa 140 Cuộc thoại 140 Sợ chó 141 Cuộc thoại 141 Da mặt dày 142 Cuộc thoại 142 Khoe của 143 Cuộc thoại 143 Nói chuyện thiên văn 144 Cuộc thoại 144 Có nhẽ đâu ra thế 145 Cuộc thoại 145 Tính hay quên 146 Cuộc thoại 146 Tam đại gàn 147 Cuộc thoại 147 Đổi giày 148 Cuộc thoại 148 Có nuôi được không 149 Cuộc thoại 149 Khen đồ cổ 150 Cuộc thoại 150 Trứng vịt muối 151 Cuộc thoại 151 Nghe lời vợ dặn 152 Cuộc thoại 152 Không phải thịt lợn sề 153 Cuộc thoại 153 Tiếng đàn bầu 154 Cuộc thoại 154 Thầy quên mặt nhà con rồi hay sao? 155 Cuộc thoại 155 Trả thù 156 Cuộc thoại 156 Cắn răng mà chịu 157 Cuộc thoại 157 Ăn ở ra làm sao? 158 Cuộc thoại 158 Tay ải tay ai? 159 Cuộc thoại 159 Bán kẹo 160 Cuộc thoại 160 Trâu chui lọt 161 Cuộc thoại 161 Túng không nuôi nổi con vịt 162 Cuộc thoại 162 Sợ vỡ mật 163 Cuộc thoại 163 Sợ chết cứng 164 Cuộc thoại 164 Giở miếng cọp vồ 165 Cuộc thoại 165 Chẳng phải tay ông 166 Cuộc thoại 166 Ăn mất rồi 167 Cuộc thoại 167 Chiêm bao thấy gì mà cười 168 Cuộc thoại 168 Người ta đã sợ thì để người ta sợ chứ! 169 Cuộc thoại 169 Trả lời vắn tắt 170 Cuộc thoại 170 Ăn cổ với ai? 171 Cuộc thoại 171 May mà ông cầm tinh con cầy 172 Cuộc thoại 172 Để chúng khỏi lạc đàn 173 Cuộc thoại 173 To hơn cái nồi này 174 Cuộc thoại 174 Người ta không bán nữa 175 Cuộc thoại 175 Uống rượu bằng cái chén con mà chết hóc 176 Cuộc thoại 176 Tâm đầu ý hợp 177 Cuộc thoại 177 Chẳng có con nào nhỏ cả 178 Cuộc thoại 178 Hâm nước mắm 179 Cuộc thoại 179 Làm theo bố vợ 180 Cuộc thoại 180 Ăn vụng gặp nhau 184 185 185 185 – 186 188 188 – 189 189 – 190 190 190 – 191 191 – 192 192 – 193 194 – 195 195 196 196 – 197 197 198 198 – 199 199 – 200 200 – 201 201 – 202 202 202 – 203 203 – 204 204 – 205 205 – 206 206 – 207 207 – 208 208 – 209 209 209 – 210 210 – 211 211 211 – 212 213 – 214 214 215 215 – 216 216 216 – 217 217 – 218 218 218 - 219 220 – 221 222 – 223 224 – 225
Trong quá trình thống kê – phân loại ngữ liệu, chúng tôi sử dụng 185/215 truyện cười trong
Tiếng cười dân gian Việt Nam làm đối tượng khảo sát. Mỗi truyện cười tương ứng với một cuộc
thoại (185 cuộc thoại) và trên cơ sở những cuộc thoại đó, luận văn tiến hành miêu tả, phân tích để
rút ra những đặc điểm trong cấu trúc hội thoại.
181 Cuộc thoại 181 Tôi mừng quá 182 Cuộc thoại 182 Trứng ngót 183 Cuộc thoại 183 Ước ăn dồi chó 184 Cuộc thoại 184 Tự tử bằng bún, rượu 185 Cuộc thoại 185 Nói gở 225 226 226 – 227 227 – 228 228 – 229
Về đặc điểm của cuộc thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam, luận văn đi vào miêu
tả, phân tích hai nội dung là hình thức hội thoại trong các cuộc thoại và cấu trúc của các cuộc
37B2.1.1.Hình thức hội thoại trong các cuộc thoại
thoại.
Khảo sát các cuộc thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam và phân loại các cuộc
thoại theo các hình thức hội thoại, chúng tôi có bảng thống kê sau:
Bảng 2.2. Bảng thống kê hình thức hội thoại của các cuộc thoại trong Tiếng cười dân
gian Việt Nam
Song thoại Tam thoại Đa thoại
Hình thức hội thoại Cuộc thoại Cuộc thoại 1 Cuộc thoại 2 Cuộc thoại 3 Cuộc thoại 4 Cuộc thoại 5 Cuộc thoại 6 Cuộc thoại 7 Cuộc thoại 8 Cuộc thoại 9 Cuộc thoại 10 Cuộc thoại 11 Cuộc thoại 12 Cuộc thoại 13 Cuộc thoại 14 Cuộc thoại 15 Cuộc thoại 16 Cuộc thoại 17 Cuộc thoại 18 Cuộc thoại 19 Cuộc thoại 20 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 21 Cuộc thoại 22 Cuộc thoại 23 Cuộc thoại 24 Cuộc thoại 25 Cuộc thoại 26 Cuộc thoại 27 Cuộc thoại 28 Cuộc thoại 29 Cuộc thoại 30 Cuộc thoại 31 Cuộc thoại 32 Cuộc thoại 33 Cuộc thoại 34 Cuộc thoại 35 Cuộc thoại 36 Cuộc thoại 37 Cuộc thoại 38 Cuộc thoại 39 Cuộc thoại 40 Cuộc thoại 41 Cuộc thoại 42 Cuộc thoại 43 Cuộc thoại 44 Cuộc thoại 45 Cuộc thoại 46 Cuộc thoại 47 Cuộc thoại 48 Cuộc thoại 49 Cuộc thoại 50 Cuộc thoại 51 Cuộc thoại 52 Cuộc thoại 53 Cuộc thoại 54 Cuộc thoại 55 Cuộc thoại 56 Cuộc thoại 57 Cuộc thoại 58 Cuộc thoại 59 Cuộc thoại 60 Cuộc thoại 61 Cuộc thoại 62 Cuộc thoại 63 Cuộc thoại 64 Cuộc thoại 65 Cuộc thoại 66 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 67 Cuộc thoại 68 Cuộc thoại 69 Cuộc thoại 70 Cuộc thoại 71 Cuộc thoại 72 Cuộc thoại 73 Cuộc thoại 74 Cuộc thoại 75 Cuộc thoại 76 Cuộc thoại 77 Cuộc thoại 78 Cuộc thoại 79 Cuộc thoại 80 Cuộc thoại 81 Cuộc thoại 82 Cuộc thoại 83 Cuộc thoại 84 Cuộc thoại 85 Cuộc thoại 86 Cuộc thoại 87 Cuộc thoại 88 Cuộc thoại 89 Cuộc thoại 90 Cuộc thoại 91 Cuộc thoại 92 Cuộc thoại 93 Cuộc thoại 94 Cuộc thoại 95 Cuộc thoại 96 Cuộc thoại 97 Cuộc thoại 98 Cuộc thoại 99 Cuộc thoại 100 Cuộc thoại 101 Cuộc thoại 102 Cuộc thoại 103 Cuộc thoại 104 Cuộc thoại 105 Cuộc thoại 106 Cuộc thoại 107 Cuộc thoại 108 Cuộc thoại 109 Cuộc thoại 110 Cuộc thoại 111 Cuộc thoại 112 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 113 Cuộc thoại 114 Cuộc thoại 115 Cuộc thoại 116 Cuộc thoại 117 Cuộc thoại 118 Cuộc thoại 119 Cuộc thoại 120 Cuộc thoại 121 Cuộc thoại 122 Cuộc thoại 123 Cuộc thoại 124 Cuộc thoại 125 Cuộc thoại 126 Cuộc thoại 127 Cuộc thoại 128 Cuộc thoại 129 Cuộc thoại 130 Cuộc thoại 131 Cuộc thoại 132 Cuộc thoại 133 Cuộc thoại 134 Cuộc thoại 135 Cuộc thoại 136 Cuộc thoại 137 Cuộc thoại 138 Cuộc thoại 139 Cuộc thoại 140 Cuộc thoại 141 Cuộc thoại 142 Cuộc thoại 143 Cuộc thoại 144 Cuộc thoại 145 Cuộc thoại 146 Cuộc thoại 147 Cuộc thoại 148 Cuộc thoại 149 Cuộc thoại 150 Cuộc thoại 151 Cuộc thoại 152 Cuộc thoại 153 Cuộc thoại 154 Cuộc thoại 155 Cuộc thoại 156 Cuộc thoại 157 Cuộc thoại 158 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 159 Cuộc thoại 160 Cuộc thoại 161 Cuộc thoại 162 Cuộc thoại 163 Cuộc thoại 164 Cuộc thoại 165 Cuộc thoại 166 Cuộc thoại 167 Cuộc thoại 168 Cuộc thoại 169 Cuộc thoại 170 Cuộc thoại 171 Cuộc thoại 172 Cuộc thoại 173 Cuộc thoại 174 Cuộc thoại 175 Cuộc thoại 176 Cuộc thoại 177 Cuộc thoại 178 Cuộc thoại 179 Cuộc thoại 180 Cuộc thoại 181 Cuộc thoại 182 Cuộc thoại 183 Cuộc thoại 184 Cuộc thoại 185 Tổng số
+ + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + 136/185 73,51% + + + + 37/185 20% + 12/185 6,49%
Nhìn vào số liệu thống kê có thể nhận thấy hình thức hội thoại trong Tiếng cười dân
gian Việt Nam chủ yếu là hình thức song thoại (73,51%), kế đến là tam thoại (20%) và cuối
cùng là đa thoại chiếm tỉ lệ thấp nhất (6,49%).
Hình thức song thoại – hội thoại chỉ gồm có hai người là hình thức hội thoại cơ bản
nhất, quan trọng nhất. Có những cuộc thoại lúc đầu chỉ là sự giao tiếp giữa hai nhân vật,
nhưng theo diễn tiến của câu chuyện có thể xuất hiện thêm nhân vật thứ ba, thứ tư…làm cho
các hình thức hội thoại cũng có sự biến hóa linh hoạt từ song thoại sang tam thoại và thậm
chí là đa thoại.
Ví dụ, cuộc thoại chuyển từ song thoại sang tam thoại:
Ví dụ (1):
Hai vợ chồng nhà kia, cứ tối đến, rang một mẻ ngô đựng vào rá, để giữa giường hai vợ
chồng nằm hai bên. Mỗi lần anh chồng thò tay vào rá bốc ngô ăn, nắm phải tay vợ, thì lại
hỏi:
- Tay ải tay ai?
Chị vợ đáp:
- Tay ẻm tay em.
Chị vợ nắm phải tay chồng, cũng hỏi:
- Tay ải tay ai?
Anh chồng đáp lại:
- Tay ảnh tay anh.
Có thằng kẻ trộm đứng rình ngoài nhà, đến quá nửa đêm vẫn nghe hai vợ chồng còn
“ẻm em, ảnh anh” mãi, giận lắm, bèn lẻn đến, thò tay vào bốc ngô ăn.
Chị vợ nắm phải tay nó, hỏi:
- Tay ải tay ai?
Nó liền trả lời:
- Tay ổng tay ông.
Rồi bỏ chạy.
[70, tr. 203]
Ví dụ (2):
Một anh nhà giàu keo bẩn, không hề thiết khách bao giờ. Một hôm, có kẻ thấy người ở
nhà anh ta đem rổ bát ra cầu ao rửa, mới hỏi đùa:
- Nhà hôm nay mời khách đấy à?
Người ở nói:
- Ối chà! Ông chủ tôi mà mời khách, thì có họa đến ngày chết!
Anh ta đi qua đấy, nghe thấy người ở nói vậy liền dừng lại mắng:
- Mày biết khi chết tao có mời ai hay không mà mày dám hẹn trước như thế!
[70, tr. 91]
Hai ví dụ trên cho thấy cuộc thoại có sự biến đổi từ hình thức song thoại sang tam
thoại. Cụ thể, ở ví dụ (1), cuộc thoại ban đầu chỉ giới hạn ở hai vợ chồng rồi có sự xen ngang
của nhân vật thứ ba là tên trộm. Còn ở ví dụ (2) là sự xuất hiện bất ngờ của người chủ bên
cạnh câu chuyện đang diễn ra giữa người hàng xóm và anh đầy tớ.
Tương tự ở tam thoại – hình thức hội thoại có ba người tham gia cũng có những diễn
tiến như vậy. Lúc đầu là sự giao tiếp giữa ba nhân vật, về sau có sự hiện diện thêm của nhân
vật thứ tư, thứ năm…làm cho hội thoại chuyển sang hình thức đa thoại.
Ví dụ (3), cuộc thoại chuyển từ hình thức tam thoại sang đa thoại:
Xưa, có ba anh học trò, một hôm ăn canh lươn thấy ngon, tấm tắc khen mãi. Rồi sính
chữ, ba anh bàn với nhau:
- Lươn là giống quý thế mà xưa nay chưa có chữ gì đặt tên cho nó cả. Hay là ba anh
em ta nghĩ đặt cho nó một cái tên chữ thật hay, họa sau này thiên hạ chép vào sử sách chăng!
Một anh liền nói:
- Con lươn vốn ở dưới nước, đặt cho nó chữ có “ba chấm thủy”.
Anh thứ hai nói tiếp:
- Nó thường hay chui dưới bùn, vậy phải đặt cho nó chữ gì có bộ “thổ nữa”.
Anh thứ ba:
- Nó có cái đuôi cong cong, tôi nghĩ thêm cho nó một chữ cong cong như chữ “tư”.
Đặt xong, ba anh liền ghép lại thành ra chữ “pháp” nhưng cả ba không biết chữ gì.
Ba anh lại bàn với nhau:
- Chữ đủ nét rồi, nhưng phải đặt âm gì nghe cho nó giòn một tí thì thiên hạ mới chịu
theo.
Bàn tán mãi, cuối cùng ba anh đặt cho cái chữ ấy âm là “chuỳnh”. Con lươn quí hóa
bây giờ có chữ viết là “pháp” lại có âm đọc là “chuỳnh”. Nghĩa sâu xa, âm đọc nghe kêu, ba
anh đắc chí cười.
Bỗng có nhà sư đi qua, thấy ba người cười thích chí, mới ghé vào hỏi.
Ba anh liền đem câu chuyện kể lại cho nhà sư nghe. Nghe xong, nhà sư trông vẻ khổ
não lắm.
Ba anh lấy làm ngạc nhiên hỏi.
Nhà sư đáp:
- Bần tăng ăn mày cửa Phật hơn ba mươi năm nay, vẫn tụng niệm rằng: “Nam mô
pháp, Phật pháp tinh thông…” mà thôi. Bây giờ nghe các thầy dạy…cho mới biết không
phải là “Nam mô pháp, Phật pháp tinh thông…” mà là “Nam mô chuỳnh, Phật chuỳnh tinh
thông…”. Vậy thì “A di đà phật! Nam mô phật, nam mô chuỳnh, nam mô lươn, nam mô
tăng. Phật chuỳnh tinh thông, phật lươn tinh thông…”. Thế thì tôi cũng chết mất…
[70, tr. 130]
Cuộc thoại trên mở đầu với ba nhân vật (tam thoại). Trong lúc ba anh cao hứng làm
được bài thơ thì có nhà sư đi ngang qua tham gia vào cuộc thoại. Không xét đến khía cạnh
nội dung của cuộc thoại, sự góp mặt của nhà sư vào cuộc thoại đã làm cho cuộc thoại chuyển
từ hình thức tam thoại sang đa thoại.
Nhận xét:
- Do diễn biến của cuộc thoại khá phức tạp nên không thể sớm xác định được hình
thức của cuộc thoại thông qua một số tham thoại mà cần phải theo dõi nội dung của câu
chuyện đến đoạn kết. Có rất nhiều cuộc thoại đã biến đổi hình thức với sự xen ngang của một
hay một số nhân vật nào đó, và sự xuất hiện của những nhân vật này phần nhiều gây bất ngờ
cho người trong cuộc và cả người đọc. Có rất nhiều truyện cười được tổ chức với kết cấu
tương tự, sự xuất hiện “đường đột” của một nhân vật mới chính là yếu tố tạo nên tiếng cười
trong truyện cười (như một số truyện vừa dẫn trên). Tất nhiên, ở đây không phải cuộc hội
thoại nào cũng có sự biến đổi về hình thức và không phải truyện cười nào cũng được gây
cười từ sự xuất hiện bất ngờ của một nhân vật nào đó.
- Số lượng nhân vật cũng phần nào chi phối dung lượng cuộc thoại, tức là cuộc thoại
dài khi có nhiều nhân vật và ít nhân vật khi cuộc thoại ngắn. Tuy nhiên, nhận định này không
phải luôn đúng, độ dài ngắn của cuộc thoại còn phụ thuộc vào sự chủ động hay bị động của
nhân vật tham gia giao tiếp. Có cuộc thoại nhiều nhân vật tham gia nhưng lại là cuộc thoại
ngắn do sự thụ động của nhân vật và có cuộc thoại dù chỉ là song thoại nhưng lại là cuộc
thoại dài do sự chủ động của đôi bên. Đặt phạm vi khảo sát trong Tiếng cười dân gian Việt
Nam, chúng tôi nhận thấy cả hai nhận định về vấn đề này đều đúng, tức là dung lượng cuộc
thoại hoặc phụ thuộc hoặc không phụ thuộc vào số lượng nhân vật tham gia giao tiếp. Qua
bảng thống kê các hình thức hội thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam, có thể thấy phần
lớn là sự trao đổi giữa hai nhân vật (song thoại). Điều này có thể xuất phát từ yêu cầu thể loại
là cần ngắn gọn, tạo yếu tố bất ngờ của truyện cười nhưng đồng thời cũng là sự “thoái thác”
của truyện cười vào lời dẫn chuyện. Có không ít lời trao đáp, suy nghĩ của nhân vật được ẩn
38B2.1.2.Cấu trúc của các cuộc thoại
đi bằng lời kể mà không diễn đạt bằng lời thoại.
Một cuộc thoại thông thường có cấu trúc gồm ba phần: đoạn mở thoại, đoạn thân thoại
và đoạn kết thoại. Đây là cấu trúc lí tưởng nhất, do đó không phải bất kì cuộc thoại nào cũng
có sự xuất hiện đầy đủ của ba thành phần này. Qua khảo sát các cuộc thoại trong Tiếng cười
dân gian Việt Nam, có thể nhận thấy sự xuất hiện của nhiều cuộc thoại không có đầy đủ ba
thành phần. Và những cuộc thoại này thường tồn tại ở một số dạng:
Cuộc thoại chỉ có một lượt lời.
Ví dụ (4):
Có hai anh kết nghĩa đèn sách. Một anh gặp may thi đỗ, ra làm quan, liền trở mặt. Bạn
đến thăm nhiều lần, lần nào cũng cho lính ra bảo, khi ngài giấc, ngài ngơi, khi thì bận công
việc công không tiếp. Năm bảy phen như thế, anh này giận lắm.
Một hôm, anh ta mua một con lợn, quay vàng, để lên mâm bưng tới. Lính lệ vào bẩm,
một lát trở ra, niềm nở mời vào.
Vào đến nơi, quan chào hỏi vồn vã rồi sai lính lệ mang trầu ra mời. Anh ta cầm lấy
miếng trầu, đút vào miệng con lợn, vái nó mấy vái mà rằng:
- Tao trả ơn mày! Nhờ mày tao mới lại lọt vào đến cửa quan để nhìn lại mặt bạn cũ!
[70, tr. 61]
Quan sát ví dụ (4), ta thấy cuộc thoại có ít nhất là sự tham gia của hai nhân vật (vị
quan và người bạn đèn sách). Tuy nhiên, xét về cấu trúc, bên cạnh lời của người dẫn chuyện,
cuộc thoại trên chỉ có duy nhất một lượt lời của người bạn đèn sách mà thôi.
Cuộc thoại chỉ gồm một cặp thoại.
Ví dụ (5):
Một ông sư hổ mang, sai tiêu đi mua thịt cầy về nhắm rượu, dặn có ai hỏi thì không
được nói. Chú tiểu mua gói thịt cầy về tới cổng chùa, chẳng may gặp phải một vị khách vãng
cảnh chùa. Khách hỏi:
- Chú có gói gì thế?
Chú tiểu sực nhớ lời sư dặn, bèn nói:
- Tôi đố ông biết đấy! Ông mà đoán đúng tôi xin thưởng ông gói thịt cầy này!...
[70, tr. 153]
Cuộc thoại trên gồm hai nhân vật, mỗi nhân vật đóng góp một lượt lời vào cuộc thoại
tạo nên duy nhất một cặp thoại. Trong hội thoại, cuộc thoại như vậy gọi là cuộc thoại chỉ
gồm một cặp thoại.
Cuộc thoại gồm hai đoạn thoại, trong đó:
- Cuộc thoại gồm phần mở thoại và thân thoại mà không có phần kết thoại.
Ví dụ (6):
Có một anh nhà giàu mà hà tiện, đãi khách trọng thể đến đâu, đi chợ cũng chỉ năm hào
trở lên. Một lần, anh ta mắc bệnh nặng, không chịu mất tiền uống thuốc, chỉ sắm có một con
gà và mấy tờ giấy vàng bạc, rồi rước thầy cúng đến cúng. Thầy cúng chán ngán, liền thỉnh
hết thần ngoài Huế đến thần bên Xiêm. Anh ta lấy làm lạ hỏi:
- Sao thầy không thỉnh thần sở tại mà lại thỉnh các thần ở xa như vậy?
Thầy cúng trả lời:
- Các vị thần ở gần đều biết tính ông rồi, thỉnh sao được…
[70, tr. 95]
Anh hà tiện mở đầu cuộc thoại bằng hành vi hỏi, thầy cúng trả lời rồi bỏ lửng. Cuộc
thoại dừng lại ở đó, phần kết thoại không xuất hiện. Kết cấu bỏ lửng mang tính chất gợi mở,
khơi gợi sự suy nghĩ của người đọc.
- Cuộc thoại gồm phần thân thoại và kết thoại mà không có phần mở thoại. Phần mở
thoại được lồng vào lời của người dẫn chuyện.
Ví dụ (7):
Ngày xưa có một ông sư và một con đĩ chết xuống âm phủ. Vua Diêm vương đem ra
tra hỏi, nếu ai không có tội thì tha, lại cho hóa làm kiếp người, nếu ai có tội thì bắt bỏ ngục
hay bắt đầu thai làm súc vật. Khi Diêm vương hỏi con đĩ, con đĩ tâu:
- Lúc tôi còn sống, tôi chỉ mua vui cho người ta, ai buồn bực điều gì, đến tôi thì quên
hết.
Hỏi ông sư, ông sư tâu:
- Lúc tôi còn sống, tôi chỉ cứu nhân độ thế. Hễ ai ốm đau, tôi làm chay tụng niệm cho
họ khỏi chết.
Vua Diêm vương phán:
- À, thằng này là không vừa, chỉ ăn không nói có, dối trên lừa dưới. Ai đến số chết thì
ta mới sai quỷ sứ đi bắt, thế mà nó dám cầu nguyện cho họ khỏi chết, cưỡng lại mệnh ta,
khoe khoang với người đời lên mặt cứu nhân độ thế. Quỷ sứ đâu! Đem giam vào ngục, rồi
sau này sẽ cho làm kiếp chó!
Và con đĩ:
- Còn con kia chỉ mua vui cho người ta, xét ra không có tội gì cho lên làm kiếp người!
Ông sư tức quá, phàn nàn:
- Đi tu phải tội, làm đĩ lại được phúc!
[70, tr. 54]
Như là một đặc điểm của thể loại truyện nói chung, Tiếng cười dân gian Việt Nam
luôn có sự xuất hiện của lời người dẫn chuyện. Lời trần thuật của người dẫn chuyện nêu lên
bối cảnh diễn ra câu chuyện, đồng thời hóa thân vào nhân vật, nói thay lời nhân vật. Cụ thể,
ở ví dụ trên, lời người dẫn chuyện đã làm thay nhiệm vụ mở thoại cho nhân vật, làm cho
cuộc thoại không có phần mở thoại.
Sau đây là bảng thống kê cấu trúc của các cuộc thoại trong Tiếng cười dân gian Việt
Nam:
Bảng 2.3. Bảng thống kê tần số xuất hiện của các thành phần cuộc thoại trong Tiếng
cười dân gian Việt Nam
Thành phần cuộc thoại Cuộc thoại Cuộc thoại 1 Cuộc thoại 2 Cuộc thoại 3 Cuộc thoại 4 Cuộc thoại 5 Cuộc thoại 6 Cuộc thoại 7 Cuộc thoại 8 Cuộc thoại 9 Cuộc thoại 10 Cuộc thoại 11 Cuộc thoại 12 Cuộc thoại 13 Cuộc thoại 14 Cuộc thoại 15 Cuộc thoại 16 Cuộc thoại 17 Cuộc thoại 18 Cuộc thoại 19 Cuộc thoại 20 Cuộc thoại 21 Cuộc thoại 22 Cuộc thoại 23 Cuộc thoại 24 Cuộc thoại 25 Cuộc thoại 26 Cuộc thoại 27 Cuộc thoại 28 Cuộc thoại 29 Cuộc thoại 30 Cuộc thoại 31 Mở thoại + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + Thân thoại + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + Kết thoại + + + + + + + +
Cuộc thoại 32 Cuộc thoại 33 Cuộc thoại 34 Cuộc thoại 35 Cuộc thoại 36 Cuộc thoại 37 Cuộc thoại 38 Cuộc thoại 39 Cuộc thoại 40 Cuộc thoại 41 Cuộc thoại 42 Cuộc thoại 43 Cuộc thoại 44 Cuộc thoại 45 Cuộc thoại 46 Cuộc thoại 47 Cuộc thoại 48 Cuộc thoại 49 Cuộc thoại 50 Cuộc thoại 51 Cuộc thoại 52 Cuộc thoại 53 Cuộc thoại 54 Cuộc thoại 55 Cuộc thoại 56 Cuộc thoại 57 Cuộc thoại 58 Cuộc thoại 59 Cuộc thoại 60 Cuộc thoại 61 Cuộc thoại 62 Cuộc thoại 63 Cuộc thoại 64 Cuộc thoại 65 Cuộc thoại 66 Cuộc thoại 67 Cuộc thoại 68 Cuộc thoại 69 Cuộc thoại 70 Cuộc thoại 71 Cuộc thoại 72 Cuộc thoại 73 Cuộc thoại 74 Cuộc thoại 75 Cuộc thoại 76 Cuộc thoại 77 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 78 Cuộc thoại 79 Cuộc thoại 80 Cuộc thoại 81 Cuộc thoại 82 Cuộc thoại 83 Cuộc thoại 84 Cuộc thoại 85 Cuộc thoại 86 Cuộc thoại 87 Cuộc thoại 88 Cuộc thoại 89 Cuộc thoại 90 Cuộc thoại 91 Cuộc thoại 92 Cuộc thoại 93 Cuộc thoại 94 Cuộc thoại 95 Cuộc thoại 96 Cuộc thoại 97 Cuộc thoại 98 Cuộc thoại 99 Cuộc thoại 100 Cuộc thoại 101 Cuộc thoại 102 Cuộc thoại 103 Cuộc thoại 104 Cuộc thoại 105 Cuộc thoại 106 Cuộc thoại 107 Cuộc thoại 108 Cuộc thoại 109 Cuộc thoại 110 Cuộc thoại 111 Cuộc thoại 112 Cuộc thoại 113 Cuộc thoại 114 Cuộc thoại 115 Cuộc thoại 116 Cuộc thoại 117 Cuộc thoại 118 Cuộc thoại 119 Cuộc thoại 120 Cuộc thoại 121 Cuộc thoại 122 Cuộc thoại 123 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 124 Cuộc thoại 125 Cuộc thoại 126 Cuộc thoại 127 Cuộc thoại 128 Cuộc thoại 129 Cuộc thoại 130 Cuộc thoại 131 Cuộc thoại 132 Cuộc thoại 133 Cuộc thoại 134 Cuộc thoại 135 Cuộc thoại 136 Cuộc thoại 137 Cuộc thoại 138 Cuộc thoại 139 Cuộc thoại 140 Cuộc thoại 141 Cuộc thoại 142 Cuộc thoại 143 Cuộc thoại 144 Cuộc thoại 145 Cuộc thoại 146 Cuộc thoại 147 Cuộc thoại 148 Cuộc thoại 149 Cuộc thoại 150 Cuộc thoại 151 Cuộc thoại 152 Cuộc thoại 153 Cuộc thoại 154 Cuộc thoại 155 Cuộc thoại 156 Cuộc thoại 157 Cuộc thoại 158 Cuộc thoại 159 Cuộc thoại 160 Cuộc thoại 161 Cuộc thoại 162 Cuộc thoại 163 Cuộc thoại 164 Cuộc thoại 165 Cuộc thoại 166 Cuộc thoại 167 Cuộc thoại 168 Cuộc thoại 169 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 170 Cuộc thoại 171 Cuộc thoại 172 Cuộc thoại 173 Cuộc thoại 174 Cuộc thoại 175 Cuộc thoại 176 Cuộc thoại 177 Cuộc thoại 178 Cuộc thoại 179 Cuộc thoại 180 Cuộc thoại 181 Cuộc thoại 182 Cuộc thoại 183 Cuộc thoại 184 Cuộc thoại 185 Tổng số
+ + + + + + + + + + + + + + + 161/185 87% + + + + + + + + + + + + + + + + 185/185 100% + + + + + 54/185 29,2%
Như đã trình bày ở phần cơ sở lí thuyết và trong nhiều tài liệu ngôn ngữ học về cấu
trúc hội thoại thì việc xác định các thành phần trong cuộc thoại cũng như ranh giới giữa các
phần ấy cũng chỉ tương đối và ít nhiều mang tính chất võ đoán. Trong quá trình khảo sát,
thống kê chúng tôi mong muốn thể hiện được kết quả một cách chính xác nhất. Từ kết quả
khảo sát, chúng tôi xin nêu một số nhận xét sau:
- Trong tất cả các cuộc thoại ngoài sự luôn luôn có mặt của thân thoại thì phần mở
thoại cũng có tần số xuất hiện tương đối lớn (87%). Cuối cùng chiếm tỉ lệ thấp nhất đó là
phần kết thoại (29,2%).
- Tất cả các cuộc thoại đều có phần mở thoại. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát thì
phần mở thoại chỉ chiếm 87%. Nguyên nhân là phần mở thoại phần lớn được thể hiện thông
qua ngôn ngữ hội thoại của nhân vật và phần còn lại thì được thể hiện bằng ngôn ngữ trần
thuật thông qua lời người dẫn chuyện.
- Phần thân thoại có kết cấu đa dạng: đơn giản có, phức tạp có. Có nhiều phần thân
thoại không chỉ có một mà gồm nhiều đoạn thoại liên kết với nhau.
- Phần kết thoại chiếm tỉ lệ thấp nhất. Điều này có thể giải thích là cũng như phần mở
thoại thì phần kết thoại có trường hợp kết thúc bằng lời của người dẫn chuyện; một lí do nữa
là do tính chất của thể loại – tạo kết thúc bất ngờ để gây nên sự bất ngờ và vì thế tạo nên
tiếng cười cho người đọc.
- Trong các cuộc thoại không đầy đủ các thành phần chủ yếu chỉ gặp một nhân vật nói,
người nói nêu lên lượt lời của mình, còn người nghe chỉ tiếp nhận mà không có sự phản hồi
lại. Trong tình huống giao tiếp này người nghe ở vai dưới hoặc trong hoàn cảnh có vị thế
19B2.2.Đặc điểm của cặp thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
thấp.
Cấu trúc hội thoại đi từ đơn vị lớn đến đơn vị nhỏ lần lượt là cuộc thoại – đoạn thoại –
cặp thoại – tham thoại – hành vi ngôn ngữ. Tuy nhiên do số lượng đoạn thoại là đối tượng
khảo sát rất lớn và có thể hiện qua phần 2.1 nên chúng tôi không thể hiện đặc điểm của đoạn
thoại mà trực tiếp đi vào phần đặc điểm của cặp thoại.
Quan sát bảng thống kê số lượng cặp thoại của các cuộc thoại trong Tiếng cười dân
gian Việt Nam sau:
Bảng 2.4. Bảng thống kê số lượng cặp thoại của các cuộc thoại trong Tiếng cười dân
gian Việt Nam
5 8 10 11 12 13 1 2 3 4 6 7 9 Số cặp thoại Cuộc thoại
Cuộc thoại 1 Cuộc thoại 2 Cuộc thoại 3 Cuộc thoại 4 Cuộc thoại 5 Cuộc thoại 6 Cuộc thoại 7 Cuộc thoại 8 Cuộc thoại 9 Cuộc thoại 10 Cuộc thoại 11 Cuộc thoại 12 Cuộc thoại 13 Cuộc thoại 14 Cuộc thoại 15 Cuộc thoại 16 Cuộc thoại 17 Cuộc thoại 18 Cuộc thoại 19 Cuộc thoại 20 Cuộc thoại 21 Cuộc thoại 22 Cuộc thoại 23 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 24 Cuộc thoại 25 Cuộc thoại 26 Cuộc thoại 27 Cuộc thoại 28 Cuộc thoại 29 Cuộc thoại 30 Cuộc thoại 31 Cuộc thoại 32 Cuộc thoại 33 Cuộc thoại 34 Cuộc thoại 35 Cuộc thoại 36 Cuộc thoại 37 Cuộc thoại 38 Cuộc thoại 39 Cuộc thoại 40 Cuộc thoại 41 Cuộc thoại 42 Cuộc thoại 43 Cuộc thoại 44 Cuộc thoại 45 Cuộc thoại 46 Cuộc thoại 47 Cuộc thoại 48 Cuộc thoại 49 Cuộc thoại 50 Cuộc thoại 51 Cuộc thoại 52 Cuộc thoại 53 Cuộc thoại 54 Cuộc thoại 55 Cuộc thoại 56 Cuộc thoại 57 Cuộc thoại 58 Cuộc thoại 59 Cuộc thoại 60 Cuộc thoại 61 Cuộc thoại 62 Cuộc thoại 63 Cuộc thoại 64 Cuộc thoại 65 Cuộc thoại 66 Cuộc thoại 67 Cuộc thoại 68 Cuộc thoại 69 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 70 Cuộc thoại 71 Cuộc thoại 72 Cuộc thoại 73 Cuộc thoại 74 Cuộc thoại 75 Cuộc thoại 76 Cuộc thoại 77 Cuộc thoại 78 Cuộc thoại 79 Cuộc thoại 80 Cuộc thoại 81 Cuộc thoại 82 Cuộc thoại 83 Cuộc thoại 84 Cuộc thoại 85 Cuộc thoại 86 Cuộc thoại 87 Cuộc thoại 88 Cuộc thoại 89 Cuộc thoại 90 Cuộc thoại 91 Cuộc thoại 92 Cuộc thoại 93 Cuộc thoại 94 Cuộc thoại 95 Cuộc thoại 96 Cuộc thoại 97 Cuộc thoại 98 Cuộc thoại 99 Cuộc thoại 100 Cuộc thoại 101 Cuộc thoại 102 Cuộc thoại 103 Cuộc thoại 104 Cuộc thoại 105 Cuộc thoại 106 Cuộc thoại 107 Cuộc thoại 108 Cuộc thoại 109 Cuộc thoại 110 Cuộc thoại 111 Cuộc thoại 112 Cuộc thoại 113 Cuộc thoại 114 Cuộc thoại 115 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 116 Cuộc thoại 117 Cuộc thoại 118 Cuộc thoại 119 Cuộc thoại 120 Cuộc thoại 121 Cuộc thoại 122 Cuộc thoại 123 Cuộc thoại 124 Cuộc thoại 125 Cuộc thoại 126 Cuộc thoại 127 Cuộc thoại 128 Cuộc thoại 129 Cuộc thoại 130 Cuộc thoại 131 Cuộc thoại 132 Cuộc thoại 133 Cuộc thoại 134 Cuộc thoại 135 Cuộc thoại 136 Cuộc thoại 137 Cuộc thoại 138 Cuộc thoại 139 Cuộc thoại 140 Cuộc thoại 141 Cuộc thoại 142 Cuộc thoại 143 Cuộc thoại 144 Cuộc thoại 145 Cuộc thoại 146 Cuộc thoại 147 Cuộc thoại 148 Cuộc thoại 149 Cuộc thoại 150 Cuộc thoại 151 Cuộc thoại 152 Cuộc thoại 153 Cuộc thoại 154 Cuộc thoại 155 Cuộc thoại 156 Cuộc thoại 157 Cuộc thoại 158 Cuộc thoại 159 Cuộc thoại 160 Cuộc thoại 161 + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + +
Cuộc thoại 162 Cuộc thoại 163 Cuộc thoại 164 Cuộc thoại 165 Cuộc thoại 166 Cuộc thoại 167 Cuộc thoại 168 Cuộc thoại 169 Cuộc thoại 170 Cuộc thoại 171 Cuộc thoại 172 Cuộc thoại 173 Cuộc thoại 174 Cuộc thoại 175 Cuộc thoại 176 Cuộc thoại 177 Cuộc thoại 178 Cuộc thoại 179 Cuộc thoại 180 Cuộc thoại 181 Cuộc thoại 182 Cuộc thoại 183 Cuộc thoại 184 Cuộc thoại 185 Tổng số 11 6% 0 0% 0 0% + + + + + + + 43 23, 2% + + + + + + + + + + 67 36,2 % + + + + 32 17,3 % + + 16 8,7 % + 8 4,4 % 3 1,6 % 2 1,1 % 1 0,5 % 1 0,5 % 1 0,5 %
Quan sát bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy trong Tiếng cười dân gian Việt Nam,
cuộc thoại chứa tối thiểu là một cặp thoại, tối đa là 13 cặp thoại. Cuộc thoại có chứa hai cặp
thoại chiếm tỉ lệ cao nhất (36,2%), kế đến là cuộc thoại có chứa một cặp thoại (23,2%) và
cuộc thoại có chứa ba cặp thoại (17,3%). Các cặp thoại còn lại không xuất hiện hoặc có số
lượng rất hạn chế.
Nếu qui ước cuộc thoại chứa tối đa hai cặp thoại là cuộc thoại ngắn thì các cuộc thoại
trong Tiếng cười dân gian Việt Nam chủ yếu là ngắn (59,4%). Điều này có thể giải thích là
do tính chất của thể loại truyện cười – thường ngắn gọn và kết thúc bất ngờ để tạo nên tiếng
39B2.2.1.Cặp thoại một tham thoại
cười. Đi sâu vào cấu trúc của từng cặp thoại, có thể rút ra một số nhận định sau:
Đó là trường hợp Sp1 không được Sp2 hưởng ứng hồi đáp bằng một hành vi tương
ứng. Trường hợp này gọi là những cặp thoại “hẫng”.
Ví dụ (8):
Một lão già hà tiện bị cọp bắt, thằng con định giương súng bắn. Lão thấy vậy vội kêu
lên:
- Nhằm vào chân nó mà bắn, kẻo bắn trúng mình nó thì hỏng tấm da, bán không còn
được giá nữa.
[70, tr. 94]
Không biết lúc đó người con nghĩ gì và sẽ hành động như thế nào, nhưng câu chuyện
kết thúc ngay chỗ đó thì rõ ràng đây là một cặp thoại “hẫng”. Người con hoàn toàn không
đáp trả câu nói của người cha bằng một hành vi tương ứng.
Trong truyện cười cặp thoại một tham thoại còn xuất hiện khi người nói biết đích xác
lời mình nói ra sẽ không có hồi đáp, nhưng vẫn nói nhằm để đạt được mục đích là bày tỏ tình
cảm, thái độ của bản thân.
Ví dụ (9):
Hai anh em nhà nọ bố mẹ chết, để lại một gia tài kha khá. Người em chăm chỉ làm ăn,
nhưng người anh thì lười biếng, nghiện rượu, nghiện chè, đủ thứ, cuối cùng nghiện cả thuốc
phiện, rước bàn đèn về nhà. Người em khuyên can mãi, vẫn không nghe, nhà cửa, ruộng
nương bán dần, cuối cùng chỉ còn con trâu, định bán nốt. Người em nghĩ mãi mới tìm ra một
kế để làm cho anh tỉnh ngộ. Hôm ấy, định thả con trâu cho ăn cỏ, nhưng anh ta không tháo
cửa chuồng, cứ đứng ngoài quát. Con trâu loay hoay mãi.
Người anh nằm trong bàn đèn, thấy chướng mắt liền nói:
- Không mở cửa chồng, trâu to thế kia ra làm sao được!
Bây giờ người em mới năn nỉ:
- Anh ơi, cơ nghiệp nhà ta, to gấp mấy lần con trâu cũng chui lọt lỗ xe điếu, huống hồ
cửa chuồng này to gấp vạn lần, nó chui không lọt hay sao?
Nghe câu nói thấm thía, người anh lấy làm suy nghĩ rồi ôm lấy em khóc nức nở. Từ đó
mới tu tỉnh dần.
[70, tr. 205]
Lấy cớ thả trâu nhưng không tháo cửa chuồng, người em muốn bày tỏ suy nghĩ của
mình với người anh. Ở đây, mặc dù không có sự hồi đáp của người anh nhưng người em đã
thực hiện được điều mình muốn bày tỏ.
Ngoài ra, cặp thoại một tham thoại còn bị chi phối bởi quan hệ vị thế của người tham
gia giao tiếp. Những người ở vai giao tiếp cao thường lấn lướt những người ở giai giao tiếp
thấp hơn, vì thế dẫn đến những cuộc thoại chỉ có tham thoại của người nói mà thiếu đi tham
thoại hồi đáp của người nghe. Trong Tiếng cười dân gian Việt Nam có khá nhiều cuộc thoại
diễn ra như vậy. Cuộc thoại giữa thầy đồ và thằng bé sau đây là một minh họa.
Ví dụ (10):
Có nhà giàu nọ chỉ có một cậu con trai, nên rất cưng. Muốn cho con đi học, lại sợ con
ra trường, các đứa trẻ khác bắt nạt, bố mẹ thằng bé kiếm một ông thầy đồ về tận nhà kèm.
Chẳng may gặp phải thầy đồ hay ăn dỗ trẻ. Một hôm, mẹ thằng bé đi chợ mua cho con
một chiếc bánh đa đường rất ngon. Thằng bé cứ ôm cái bánh mà chần chừ, tiếc chưa ăn.
Thầy đồ trông thấy, gọi:
- Đem bánh lại đây thầy tập nghĩa cho, nghe!
Thằng bé đem lại. Thầy để bánh lên bàn nói:
- Ngôi thái cực là vậy.
Rồi thầy bẻ chiếc bánh ra làm hai, nói:
- Thế này là thái cực sinh lưỡng nghi.
Xong lại bẻ chiếc bánh ra làm bốn, nói:
- Lưỡng nghi lại sinh ra tứ tượng.
Đoạn, thầy bỏ bánh vào mồm vừa nhai vội vàng, vừa nói:
- Tứ tượng biến hóa vô cùng.
Thằng bé trố mắt nhìn, rồi lăn đùng ra khóc, giẫy chân đành đạch.
[70, tr. 115]
Thằng bé đủ thông minh để hiểu được hành động của thầy đồ, nhưng trong cuộc thoại
này có thể nhận thấy không có bất kì sự hồi đáp nào từ thằng bé. Chính vị thế giao tiếp (thầy
40B2.2.2.Cặp thoại hai tham thoại
– trò) đã ngăn cản lời nói, hành động “thiếu tế nhị” của thằng bé.
Đây là dạng cấu trúc cơ bản và thường gặp nhất trong hội thoại. Và trong Tiếng cười
dân gian Việt Nam những cặp thoại chứa hai tham thoại chiếm số lượng lớn.
Ví dụ (11):
Một người giàu nói với một người nghèo:
- Tao giàu có nghìn vàng, sao mày không xu nịnh tao?
Người kia nói:
- Ông có nghìn vàng, việc gì đến tôi mà tôi phải xu nịnh ông?
Người giàu bảo:
- Tao chia mày một nửa, mày xu nịnh tao nhé.
Người kia nói:
- Thế thì tôi cũng giàu bằng ông rồi, việc gì tôi phải xu nịnh?
Người giàu lại nói:
- Tao cho mày cả, hẳn mày phải xu nịnh tao chứ!
Người kia bảo:
- Lúc đó thì ông phải xu nịnh tôi mới phải!
[70, tr. 84]
Các cặp thoại trong cuộc thoại trên diễn tiến một cách điều đặn, một tham thoại dẫn
nhập rồi một tham thoại hồi đáp cho đến lúc chấm dứt cuộc thoại. Đây là dạng cặp thoại hai
tham thoại phổ biến nhất.
Về nguyên tắc, cặp thoại phải có ít nhất hai tham thoại của hai nhân vật. Tuy nhiên, ở
những trường hợp một trong hai tham thoại cấu trúc nên cặp thoại được thực hiện bằng
những hành vi kèm hoặc vật lí được xem là cặp thoại bình thường.
Ví dụ (12):
Một anh cửu phẩm có tính mê cờ bạc nhưng lại sợ vợ. Một hôm, đánh bạc thua, ông ta
cởi giầy cắp vào nách, rón rén đi qua sân vào nhà. Chị vợ đang cầm sào gẩy rơm trông thấy
thế liền giơ luôn gậy lên vụt chồng.
Ông cửu cuống quá, giơ tay đỡ gậy, mồm kêu rối rít:
- Ơ! Mẹ mày! Làm cái gì thế này? Làm cái gì thế này?
…
[70, tr. 81]
Hành động của chị vợ được xem như là một hành động vật lí tác động vào anh chồng.
Và khi anh chồng phản ứng lại hành động của chị vợ bằng lời đã tạo nên một cặp thoại bình
41B2.2.3.Cặp thoại phức tạp
thường.
Đây là dạng cặp thoại có nhiều tham thoại tham gia. Trong Tiếng cười dân gian Việt
Nam có thể qui các cặp thoại phức tạp ra một số dạng sau:
- Dạng 1: Cặp thoại có một tham thoại dẫn nhập, nhiều tham thoại hồi đáp
Ví dụ (13):
Có anh học trò, thầy ra cho đối một vế câu đối khó quá. Anh ta nghĩ đã hai ngày ba
đêm mà vẫn không ra, cứ hết đứng lại ngồi, thở vắn than dài.
Vợ thấy thế thương hại mới hỏi:
- Tôi hỏi thế này thì không phải, chứ làm câu đối có khó bằng tôi rặn đẻ không anh?
Chồng phì cười đáp:
- Trời ơi! Mình thật ngớ ngẩn quá! Đẻ thì còn có con ở trong bụng, rặn mãi nó phải
ra, chứ làm câu đối, chữ đã không có lấy đâu ra mà rặn?
[70, tr. 128]
Cặp thoại ở ví dụ trên gồm hai lượt lời: lượt lời thứ nhất (dẫn nhập) gồm một tham
thoại hỏi; lượt lời thứ hai (hồi đáp) gồm ba tham thoại (than gọi, trách cứ, hồi đáp). Đây là
cặp thoại có một tham thoại dẫn nhập, nhiều tham thoại hồi đáp.
- Dạng 2: Cặp thoại phức tạp do lời dẫn nhập có nhiều tham thoại
Ví dụ (14):
Một anh đi nhầm giày, chiếc cao, chiếc thấp. Ra đường, thấy bước đi khó khăn, anh ta
phàn nàn:
- Quái lạ! Chân mình hôm nay sao lại bên dài, bên ngắn thế này? Hay là đường cái
khấp khểnh?
Có kẻ qua đường nghe thấy, bảo:
- Không phải, ông đi nhầm giày, chiếc cao, chiếc thấp đấy.
…
[70, tr. 195]
Khác với ví dụ (13), ví dụ (14) có lời dẫn nhập là một lượt lời gồm nhiều tham thoại.
Cụ thể, lời dẫn nhập có đến ba tham thoại (một tham thoại thể hiện sự ngạc nhiên và hai
tham thoại hỏi).
- Dạng 3: Cặp thoại phức tạp có nhiều tham thoại tham gia ở cả hai phía
Ví dụ (15):
Cũng lại hai anh nói khoác gặp nhau. Một anh nói:
- Đời tớ gặp rất nhiều chuyện nguy hiểm! Một lần tớ vào rừng gặp một con hổ dữ, tay
không đánh với nó hàng nửa ngày. Nhưng rồi cuối cùng tớ bị con hổ xé ra từng mảnh nhỏ.
Thế có ghê không?
Anh kia nói:
- Chưa ghê bằng tớ! Một lần tớ gặp con trăn. Nó đớp được hai chân tớ nuốt gần hết,
tớ giang thẳng hai cánh tay ra ngáng lại. Nhưng đến phút cuối cùng, vừa đau vừa mỏi, tớ
đành buông xuôi hai tay cho nó nuốt tụt vào bụng rồi gọi người làng ra cứu.
[70, tr. 168]
Quan sát (15), ta thấy có sự xuất hiện của nhiều tham thoại ở cả lời dẫn nhập lẫn lời
hồi đáp (mỗi lượt lời có chứa bốn tham thoại). Cặp thoại như vậy được gọi là cặp thoại có
nhiều tham thoại tham gia ở cả hai phía.
Tất nhiên đây là ba dạng cặp thoại phức tạp mang tính phổ quát mà trong quá trình
khảo sát chúng tôi rút ra được, còn trong trong thực tế sử dụng hoặc trong một số trường hợp
đặc biệt thì có thể còn một số trường hợp khác. Nhưng chung qui lại, đây là ba dạng chủ yếu
20B2.3.Đặc điểm của tham thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
và thường gặp nhất của cấu trúc cặp thoại phức tạp trong Tiếng cười dân gian Việt Nam.
Trong cấu trúc hội thoại, tham thoại là đơn vị đơn thoại. Qua khảo sát tham thoại trong
Tiếng cười dân gian Việt Nam, tổng kết được 896 tham thoại (tham thoại dẫn nhập, tham
thoại hồi đáp, tham thoại hồi đáp – dẫn nhập). Sau đây là bảng tổng kết số lượng tham thoại
có được:
Bảng 2.5. Bảng thống kê số lượng tham thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
Tên tham thoại
STT 1 2 3 Tham thoại dẫn nhập Tham thoại hồi đáp Tham thoại hồi đáp – dẫn nhập Tổng số Số lượng 401 458 37 896 Tỉ lệ 44,8% 51,1% 4,1% 100%
Căn cứ vào số liệu thống kê, tham thoại hồi đáp chiếm tỉ lệ cao nhất (51,1%), kế đến là
tham thoại dẫn nhập (44,8%) và cuối cùng là tham thoại hồi đáp – dẫn nhập chiếm tỉ lệ thấp
nhất (4,1%). Trong giao tiếp thông thường, về nguyên tắc, khi có lời dẫn nhập thì sẽ có lời
hồi đáp cho lời dẫn nhập đó. Tuy nhiên, như đã trình bày ở nội dung trên là có khi lời dẫn
nhập được thay thế bằng lời của người dẫn chuyện, hay lời hồi đáp có cấu trúc “hẫng” nên có
sự chênh lệch giữa tham thoại dẫn nhập và tham thoại hồi đáp (Đó là chưa kể đến những
trường hợp lời dẫn nhập chứa một tham thoại trong khi lời hồi đáp lại chứa nhiều tham thoại
(hoặc ngược lại)).
Có thể nêu đặc điểm của các loại tham thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam như
sau:
42B2.3.1.Đặc điểm của tham thoại dẫn nhập
Trong Tiếng cười dân gian Việt Nam có 401 tham thoại dẫn nhập trên tổng số 896
tham thoại.
Bảng 2.6. Bảng thống kê tham thoại dẫn nhập trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
STT Chức năng
1 Hỏi 2 Đề nghị - cầu khiến Thông tin 3 4 Bày tỏ 5 Khẳng định Tổng số Số lượng 228 60 55 39 19 401 Tỉ lệ 56,9% 15% 13,7% 9,7% 4,7% 100%
Nhìn vào bảng thống kê, có thể nhận thấy trong Tiếng cười dân gian Việt Nam, tham
thoại dẫn nhập được sử dụng nhiều nhất và chiếm tỉ lệ áp đảo là tham thoại có chức năng hỏi
(56,9%), kế đến là tham thoại đề nghị – cầu khiến (15%), tham thoại thông tin (13,7%); tham
thoại bày tỏ (9,7%) và tham thoại khẳng định (4,7%) chiếm tỉ lệ thấp nhất.
Tham thoại dẫn nhập có chức năng hỏi chiếm tỉ lệ cao nhất đồng nghĩa với việc hành
vi hỏi được sử dụng nhiều nhất. Điều này có thể giải thích là do tính chất của truyện cười
thường chuyển tải nội dung thông qua những câu hỏi và khai thác triệt để kết cấu hỏi – đáp,
hỏi – trả lời, hỏi – hỏi lại để tạo nên tiếng cười.
Ví dụ (16):
Một tên trộm bị bắt quả tang ăn trộm trâu. Người đóng gông giải lên huyện. Giữa
đường, có người hỏi:
- Anh mắc tội gì mà nặng thế?
Nó trả lời, vẻ tội nghiệp:
- Tôi đi đường bắt được sợi dây, thế mà bị đóng gông như thế này đấy!
Người kia ngạc nhiên hỏi:
- Chẳng lẽ chỉ bắt được có sợi dây mà bị đóng gông giải lên huyện?
Tên ăn trộm nói:
- Bởi vì đầu sợi dây có buộc một vật.
- Vật gì lạ vậy?
Nó nói:
- Con trâu.
[70, tr. 182]
Ví dụ (16) là một điển hình cho thể loại truyện cười – sử dụng hình thức hỏi để chuyển
tải nội dung. Thông qua câu trả lời có vẻ “ngớ ngẩn”, trái với lẽ thường cho những câu hỏi,
tiếng cười được chuyển tải đến người tiếp nhận.
Tham thoại có chức năng đề nghị – cầu khiến đứng ở ví trí thứ hai. Hành vi đề nghị –
cầu khiến thường được dùng ở người có vai giao tiếp, vị thế giao tiếp cao với đối tượng giao
tiếp có vai, vị thế thấp hơn. Trong Tiếng cười dân gian Việt Nam, loại tham thoại này thường
do quan lại, thầy đồ sử dụng.
Ví dụ (17):
Một hôm quan huyện Thạch Thành qua bến đò Thạch gặp một thằng bé cắp sách đi
học. Thằng bé nhìn quan, vẻ lơ láo. Quan gọi lại bảo:
- Mày đã cắp sách đi học, hẳn phải biết đối, bây giờ tao ra cho một vế, nếu mày đối
được thì có thưởng mà không đối được thì tao sẽ đánh đòn về tội vô lễ, nghe.
…
[70, tr. 65]
Tiếng cười dân gian Việt Nam thường đề cập đến những đối tượng như quan lại, thầy
đồ, thầy thuốc…nhằm mục đích phê phán, đả kích. Tìm hiểu cấu trúc hình thức của truyện
cười không đề cập đến vấn đề nội dung. Tuy nhiên, những nhân vật với vị thế giao tiếp khác
nhau đã chi phối đến cấu trúc hình thức của truyện cười. Cụ thể, trong ví dụ trên, với vị thế
giao tiếp cao, quan huyện Thạch Thành dùng lời cầu khiến bắt buộc thằng bé phải tuân theo.
Chính những nhân vật có vị thế giao tiếp như vậy nên trong Tiếng cười dân gian Việt Nam,
tham thoại có chức năng đề nghị – cầu khiến chiếm số lượng đáng kể.
Còn tham thoại có chức năng thông tin được sử dụng với mục đích đưa ra thông tin
ban đầu và những người tham gia sẽ kiểm định lại mức độ chính xác và bàn luận về thông tin
đó.
Ví dụ (18):
Anh chàng có tính hay nói khoác. Một hôm đi chơi về bảo với vợ:
- Này mình ạ, hôm nay tôi vào rừng, thấy một con rắn…Ôi chao là to!…Bề ngang đến
hai mươi thước, bề dài đến một trăm hai mươi thước ấy!
Vợ biết tính chồng, muốn trêu một mẻ, liền bĩu môi bảo:
- Làm gì có thứ rắn dài như thế?
…
[70, tr. 162]
Người chồng đưa ra thông tin ban đầu, người vợ kiểm định lại mức độ chính xác của
thông tin đó. Rồi những lời đối đáp giữa hai vợ chồng về thông tin ban đầu đưa ra làm cho
người tiếp nhận “phát hiện” những điều trái khoáy, không hợp lẽ. Tiếng cười được phát ra từ
43B2.3.2.Đặc điểm của tham thoại hồi đáp
những tham thoại có chức năng thông tin là như vậy.
Tham thoại hồi đáp có chức năng phản hồi lại tham thoại dẫn nhập. Điều quan trọng là
mức độ hồi đáp đó có đáp ứng được những yêu cầu mà tham thoại dẫn nhập nêu ra hay
không. Do đó, sự hồi đáp sẽ mang hai tính chất: hồi đáp tích cực và hồi đáp tiêu cực.
Bảng 2.7. Bảng thống kê tham thoại hồi đáp trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
STT Tính chất hồi đáp
1 Hồi đáp tích cực 2 Hồi đáp tiêu cực Tổng số Số lượng 202 256 458 Tỉ lệ 44,1% 55,9% 100%
Trong tham thoại hồi đáp, sự hồi đáp tích cực là dấu hiệu của sự chấm dứt hội thoại.
Sự hồi đáp này có thể là: yêu cầu – chấp thuận; khen tặng – tiếp nhận; mời – nhận lời; nhận
định – tán thành; hỏi – trả lời thuận theo sự chờ đợi…
Ví dụ (19):
Một anh háu ăn, nhưng sợ vợ. Được một hôm vợ đi chợ vắng, anh ta liền lấy củ khoai
ra, lùi vào bếp, khoai gần chín thì vợ về. Thấy vợ vào đến cửa bếp, anh ta hoảng, giắt củ
khoai vào cạp quần.
Khoai nóng quá, anh ta đứng không yên, cứ phải thót bụng lại, nghiêng bên này bên
kia, nhảy lên nhảy xuống cho đỡ nóng.
Chị vợ thấy bộ điệu tức cười, liền hỏi:
- Làm gì mà nhảy cỡn lên như vậy?
Anh chồng cười nhăn nhở:
- Thấy mình về, tôi mừng quá!
[70, tr. 225]
Câu chuyện trên đã kết thúc một cách ngắn gọn bởi câu trả lời thông minh, đủ ý của
anh chồng. Sự hồi đáp mang tính tích cực của anh chồng đã đáp ứng được yêu cầu mà người
vợ đặt ra nên cuộc thoại chỉ dừng lại ở đó.
Ngược lại, sự hồi đáp tiêu cực lại là dấu hiệu của sự tiến triển hội thoại. Sự hồi đáp
này có thể là: yêu cầu – từ chối; khen tặng – khước từ; mời – từ chối; nhận định – không tán
thành; hỏi – trả lời không thuận theo sự chờ đợi…
Ví dụ (20):
Một anh tính hay nịnh kẻ quyền quý. Một hôm đến nhà ông quan nọ, nói nịnh:
- Hôm qua con nằm chiêm bao thấy ngài sống một ngàn năm, mừng quá, sang báo tin
ngài rõ.
Ông quan nghe xong có vẻ buồn, nói:
- Sách nói chiêm bao thấy sống là chết, thấy chết là sống, vì người ta thức là thuộc
“dương” mà ngủ thì thuộc “âm”, âm dương trái nhau, anh chiêm bao như thế thì tôi khó
lòng toàn vẹn được.
Anh kia nghe, sợ quá, vội nói chữa:
- Bẩm vâng, đúng như thế đấy ạ! Con nói lộn, chứ thực là chiêm bao thấy thầy chết
một ngàn năm cơ ạ!
[70, tr. 158]
Cuộc thoại trên sẽ chấm dứt nếu không có sự phản hồi tích cực của ông quan trước
thông tin của anh thích xu nịnh. Nhưng ở đây, ông quan đã có sự hồi đáp mang tính tiêu cực
44B2.3.3.Đặc điểm của tham thoại hồi đáp – dẫn nhập
làm cho cuộc thoại kéo dài hơn qua phần nói chữa của anh thích xu nịnh.
Như đã trình bày ở phần lí thuyết, mỗi tham thoại có thể kiêm nhiệm nhiều chức năng
– vừa là tham thoại hồi đáp cho cặp thoại này, vừa đóng vai trò dẫn nhập cho cặp thoại khác.
Vì thế, những tham thoại loại này được gọi là tham thoại hồi đáp – dẫn nhập (tham thoại có
chức năng kép). Trong Tiếng cười dân gian Việt Nam có 37/896 cặp thoại như vậy.
Ví dụ (21):
Một anh có râu, một anh không râu ngồi nói chuyện với nhau. Anh không râu muốn
chế anh có râu, mới hỏi xỏ:
- Đố anh biết trong thế gian cái gì cứng nhất nào?
Anh có râu đáp:
- Đá với sắt chứ gì?
Anh không râu lắc đầu:
- Không phải. Đá đập cũng phải vỡ, sắt nung cũng phải mềm.
…
[70, tr. 189]
Tham thoại “Đá với sắt chứ gì?” chính là tham thoại hồi đáp – dẫn nhập. Nó đã thực
hiện vai trò là sự hồi đáp cho câu hỏi của anh không râu và đồng thời dẫn nhập để anh không
râu đưa ra đáp án của mình.
Trong Tiếng cười dân gian Việt Nam, khi một lượt lời chứa nhiều tham thoại thì tham
thoại hồi đáp – dẫn nhập có chức năng đa dạng và cấu trúc của lượt lời vì thế cũng phức tạp
hơn.
Ví dụ (22):
Hai ông đồ rủ nhau vào hàng đánh chén. Nhìn vào đĩa đậu phụ trên mâm, một ông nói:
- Tôi ra một câu, ông đối được cho thông thì tôi chịu tiền cả, đối không thông thì ông
chịu tiền cả.
Ông kia bằng lòng.
- (1a) “Nướng đậu phụ cho cha ăn”. (1b) Đối đi!
Ông kia ngẫm nghĩ một lát, rồi đọc:
- (2a) “Sắc ích mẫu cho mẹ uống”. (2b) Ông trả tiền nhé!
Ông ra câu đối hơi hoảng. Nhưng rồi ông ta trấn tĩnh được, thong thả nói:
- (3a) Đối sát đấy. (3b) Phụ là cha đối với mẫu là mẹ, uống đối với ăn. (3c) Có điều
thông thì chưa thông.
- (4) Thông là thế nào nữa?
- Đậu phụ không có mắm tôm thì ăn với gì? Ăn với ích mẫu được ư?
- Đối thế này mới thông: “Lấy mắm tôm cho mẹ chấm”. Ông trả tiền cả chứ!
[70, tr. 123]
Chỉ đề cập đến đối tượng cần khảo sát, trong ví dụ trên, phân tích từ trên xuống, trong
một lượt lời có nhiều tham thoại thì (1a) và (1b) là tham thoại dẫn nhập. (2a) là tham thoại
hồi đáp cho (1b), (2b) là tham thoại dẫn nhập. Tương tự, (3a) và (3b) là những tham thoại hồi
đáp cho (2b), (3c) là tham thoại dẫn nhập. Còn (4) chứa tham thoại hồi đáp – dẫn nhập đơn
21B2.4.Đặc điểm của hành vi ngôn ngữ trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
giản.
Xét trong mối quan hệ giữa mục đích diễn đạt và hình thức diễn đạt có thể chia hành
vi ngôn ngữ ra thành hai loại: hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp. Hai
loại hành vi này phân biệt nhau ở đích ở lời mà chúng hướng đến. Trong mục 2.4 này, chúng
tôi tiến hành phân loại và miêu tả đặc điểm của hai loại hành vi ngôn ngữ vừa nêu được thể
hiện trong Tiếng cười dân gian Việt Nam.
Có thể nhận thấy sự xuất hiện của hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ
gián tiếp trong cả lời dẫn nhập, lời hồi đáp và lời hồi đáp – dẫn nhập.
45B2.4.1.Các hành vi ngôn ngữ theo cách nói trực tiếp trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
Hành vi ngôn ngữ trực tiếp là những hành vi được thực hiện đúng với điều kiện sử
dụng, với đích ở lời. Có thể nói hành vi ngôn ngữ trực tiếp gắn liền với nghĩa tường minh.
55B2.4.1.1.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời dẫn nhập
Hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời dẫn nhập của Tiếng
cười dân gian Việt Nam phổ biến nhất là hành vi hỏi. Bên cạnh đó là các hành vi yêu cầu, đề
nghị, khuyên bảo…
Ví dụ (23):
Một thầy đồ ngồi dạy học ở nhà nọ. Vợ chủ nhà chết, chủ nhà nhờ thầy làm cho một
bài văn tế. Thầy liền sao ngay bài văn tế bố mình cho chủ nhà. Lúc đọc lên, mọi người cười
ầm. Nhà chủ trách thầy:
- Sao thầy lại nhầm như thế?
Thầy trừng mắt cãi:
- Văn tế thì nhầm sao được! Họa chăng người nhà ông chết nhầm thì có!
[70, tr. 109]
Lời dẫn nhập có khi chỉ có một hành vi ngôn ngữ trực tiếp (hành vi hỏi) như ví dụ
(23). Nhưng cũng có khi chứa nhiều hơn hai hành vi ngôn ngữ trực tiếp.
Ví dụ (24):
Một lão nhà giàu có anh đầy tớ tính rất bộp chộp, thấy gì nói ấy, gặp đâu nói đó, chẳng
có đầu có đuôi gì cả. Lão mới gọi anh ta bảo:
- Mày ăn nói chẳng có đầu có đuôi gì cả, người ta cười cả tao lẫn mày. Từ rày nói cái
gì thì phải nói cho có đầu có đuôi nghe không?
Anh đầy tớ vâng vâng dạ dạ.
…
[70, tr. 88]
Cuộc thoại ở ví dụ… lời dẫn nhập chỉ có một hành vi ngôn ngữ trực tiếp (hành vi hỏi
“Sao thầy lại nhầm như thế?”). Trong khi đó, ở ví dụ…, lời dẫn nhập có đến hai hành vi
ngôn ngữ trực tiếp (hành vi nhận xét “Mày ăn nói chẳng có đầu có đuôi gì cả, người ta cười
cả tao lẫn mày” và hành vi yêu cầu “Từ rày nói cái gì thì phải nói cho có đầu có đuôi nghe
56B2.4.1.2.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời hồi đáp
không?”).
Trong Tiếng cười dân gian Việt Nam, các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách
nói trực tiếp trong lời dẫn nhập chủ yếu là các hành vi thông báo, giải thích, xác nhận, khẳng
định…
Ví dụ (25):
Một anh lúc sống công nợ nhiều quá, lúc chết xuống âm phủ, vua Diêm vương tra sổ
thấy chưa trả hết mới bắt hóa kiếp trâu kéo cày trả nợ.
Anh ta liền kêu rằng:
- Làm kiếp trâu cũng không xong, trừ phi làm bố chúng nó mới trả hết nợ chúng nó
được.
Vua phán hỏi:
- Thế nghĩa làm sao?
Anh ta trả lời:
- Làm kiếp trâu thì có hạn, làm bố chúng nó phải lo lắng cho chúng nó cả đời người,
lúc chết có nghìn, có vạn cũng để lại cho chúng nó cả, lại còn một nỗi, chúng nó bóp đầu
nặng họng, nghịch ngợm trêu chọc người ta, người ta cứ gọi thằng bố chúng nó ra, người ta
chửi.
[70, tr. 82]
Ví dụ (26):
Một ông lang xưa nay vẫn khoe chữa bệnh giỏi, ngày nọ có một ông lão đột ngột lại
hỏi:
- Lão nghe thầy chữa bệnh thần lắm, thầy đã chữa khỏi được mấy đám rồi?
Ông lang quả quyết đáp:
- Bao nhiêu đám mà nghe lời tôi là chữa khỏi hết.
[70, tr. 140]
Trong ví dụ trên, mỗi lời hồi đáp chứa một hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Nếu ở ví dụ
(25) lời hồi đáp chứa hành vi giải thích “Làm kiếp trâu thì có hạn, làm bố chúng nó phải lo
lắng cho chúng nó cả đời người, lúc chết có nghìn, có vạn cũng để lại cho chúng nó cả, lại
còn một nỗi, chúng nó bóp đầu nặng họng, nghịch ngợm trêu chọc người ta, người ta cứ gọi
thằng bố chúng nó ra, người ta chửi.” thì ở ví dụ (26) lời hồi đáp chứa hành vi khẳng định
“Bao nhiêu đám mà nghe lời tôi là chữa khỏi hết.”
57B2.4.1.3.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời hồi đáp – dẫn nhập
Hành vi ngôn ngữ trực tiếp trong lời hồi đáp – dẫn nhập thường là sự kết hợp của hai
hành vi trực tiếp trở lên. Đó có thể là hành vi trả lời – hỏi, chấp nhận – đề nghị…
Ví dụ (27):
Một người ăn cỗ vừa nhanh, vừa tục, cứ gắp lấy gắp để, nhai nhồm nhoàm. Những
người ngồi cùng mâm thấy thế hỏi:
- Ông tuổi gì?
Anh ta nói:
- Tôi tuổi tuất… Nhưng đang ăn, các ông hỏi tuổi làm gì?
Người kia nói:
- Ổ, để chúng tôi đề phòng.
…
[70, tr. 215]
Lời thoại trả lời của anh tham ăn “Tôi tuổi tuất… Nhưng đang ăn, các ông hỏi tuổi
làm gì?” có chứa hai hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Hành vi trả lời “Tôi tuổi tuất…” và hành vi
hỏi “Nhưng đang ăn, các ông hỏi tuổi làm gì?” đóng vai trò dẫn nhập cho những lời thoại
sau.
Ví dụ (28):
Một người đánh cá đem cá vào chợ bán. Có nhà sư trông thấy, bảo:
- Ngày nào ngươi cũng sát sinh, tội nặng lắm! Để nhà chùa làm lễ sám hối cho, có
bằng lòng không?
Người đánh cá hỏi:
- Sám hối thì phải thế nào?
Sư bảo:
- Bán rẻ cá cho nhà chùa để nhà chùa phóng sinh, thả xuống ao.
Người bán cá nói:
- Vâng! Nhưng xin nhà chùa cho mỗi con năm tiền chứ kém không được.
Sư nói:
- Nam mô phật! Sao đắt thế! Xưa nay nhà chùa vẫn mua cá rán ở hàng cơm cũng chỉ
có ba tiền một con, nữa là cá chưa rán.
[70, tr. 153]
Trong lời thoại của người bán cá “Vâng! Nhưng xin nhà chùa cho mỗi con năm tiền
chứ kém không được.” có chứa hai hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Cụ thể, hành vi đầu tiên
“Vâng!” là hành vi trả lời, chấp nhận lời đề nghị của nhà sư; hành vi thứ hai là hành vi đề
nghị “Nhưng xin nhà chùa cho mỗi con năm tiền chứ kém không được.” có vai trò dẫn nhập
cho lời thoại kế kiếp – một sự hồi đáp từ phía nhà sư.
46B2.4.2.Các hành vi ngôn ngữ theo cách nói gián tiếp trong Tiếng cười dân gian Việt Nam
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp chính là kết quả của hoạt động suy ý từ hành vi ngôn ngữ
trực tiếp mà Sp1 nêu lên. Muốn nhận biết hành vi ngôn ngữ gián tiếp thì trước hết phải nhận
biết được hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Chính vì lẽ đó mà hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành
vi ngôn ngữ gián tiếp luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Có thể gọi hành vi ngôn ngữ gián tiếp là hành vi trong đó người nói thực hiện hành vi
ngôn ngữ này nhưng đích ở lời lại là một hành vi ngôn ngữ khác. Trong giao tiếp, đặc biệt là
trong thể loại văn học có tính chất gây cười như Tiếng cười dân gian Việt Nam thì việc sử
dụng các hành vi ngôn ngữ gián tiếp được xem như là cơ chế gây cười.
58B2.4.2.1.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời dẫn nhập
Cũng như lời dẫn nhập trong cách nói trực tiếp, lời dẫn nhập trong cách nói gián tiếp
chủ yếu được thể hiện thông qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp hỏi.
Ví dụ (29):
Sư cụ xơi thịt cầy vụng ở trong phòng. Chú tiểu biết, hỏi:
- Bạch cụ, cụ xơi gì trong ấy ạ?
Sư cụ đáp:
- Tao ăn đậu phụ.
…
[70, tr. 152]
Chú tiểu vốn biết rõ sư cụ đang ăn thịt cầy, nhưng vẫn cố tình hỏi “Bạch cụ, cụ xơi gì
trong ấy ạ?” (hành vi ngôn ngữ trực tiếp) nhằm để thông báo cho sư cụ biết là mình biết
hành động của sư cụ và muốn chế giễu hành động đó (hành vi ngôn ngữ gián tiếp).
Ví dụ (30):
Cô chủ và con sen đi đò. Con sen ăn trầu thế nào nhỡ tay đánh rơi cái ống vôi bạc của
cô chủ xuống sông. Sợ cô chủ mắng, nó mới lập mưu hỏi:
- Thưa cô, cái gì mà biết nó ở đâu rồi thì có cho là mất được không ạ?
Cô chủ vô tình trả lời:
- Sao lại hỏi lẩn thẩn thế? Đã biết nó ở đâu rồi còn gọi là mất thế nào được.
Con sen nhanh nhảu:
- Thế thì cái ống vôi của cô không mất. Con biết nó nằm dưới đáy sông, con vừa đánh
rơi xuống đấy.
[70, tr. 184]
Câu hỏi “Thưa cô, cái gì mà biết nó ở đâu rồi thì có cho là mất được không ạ?” của
con sen tưởng chừng như là một câu hỏi ngớ ngẩn. Nhưng đằng sau hành vi ngôn ngữ trực
tiếp hỏi đó lại là sự rào đón hết sức khéo léo.
Ngoài hành vi hỏi, trong Tiếng cười dân gian Việt Nam còn có một số trường hợp lời
dẫn nhập trong hành vi ngôn ngữ gián tiếp được thể hiện thông qua hành vi ngôn ngữ trực
tiếp thông báo, cảm ơn, miêu tả…
Ví dụ (31):
Có hai anh kết nghĩa đèn sách. Một anh gặp may thi đỗ, ra làm quan, liền trở mặt. Bạn
đến thăm nhiều lần, lần nào cũng cho lính ra bảo, khi thì ngài giấc, ngài ngơi, khi thì ngài
bận công việc công không tiếp. Năm bảy phen như thế, anh này giận lắm.
Một hôm, anh ta mua một con lợn, quay vàng, để lên mâm bưng tới. Lính lệ vào bẩm,
một lát trở ra, niềm nở mời vào.
Vào đến nơi, quan chào hỏi vồn vã rồi sai lính lệ mang trầu ra mời. Anh ta cầm miếng
trầu, đút vào miệng con lợn, vái nó mấy vái mà rằng:
- Tao trả ơn mày! Nhờ mày tao mới lại lọt vào cửa quan để nhìn lại mặt bạn cũ.
[70, tr. 61]
Câu nói của người bạn cũ “Tao trả ơn mày! Nhờ mày tao mới lại lọt vào cửa quan để
nhìn lại mặt bạn cũ.” có hành vi ngôn ngữ trực tiếp là lời cảm ơn, nhưng sau đó lại chứa
59B2.4.2.2.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời hồi đáp
đựng hành vi ngôn ngữ gián tiếp là lời trách móc, mỉa mai sự thay đổi của người bạn.
Hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong lời hồi đáp có khi là hành vi chê trách, mỉa mai
thông qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp giải thích. Do đặc điểm của truyện cười nên trong
Tiếng cười dân gian Việt Nam những lối nói có chứa hành vi ngôn ngữ gián tiếp mỉa mai,
chê trách, châm biếm…khá phổ biến.
Ví dụ (32):
Có một anh nhà giàu mà hà tiện, đãi khách trọng thể đến đâu, đi chợ cũng chỉ năm hào
trở lên. Một lần, anh ta mắc bệnh nặng, không chịu mất tiền uống thuốc, chỉ sắm một con gà
và mấy tờ giấy bạc rồi rước thầy đến cúng. Thầy cúng chán ngán, liền thỉnh hết thần ngoài
Huế đến thần bên Xiêm. Anh ta lấy làm lạ:
- Sao thầy không thỉnh thần sở tại mà lại thỉnh các thần ở xa như vậy?
Thầy cúng trả lời:
- Các vị thần ở gần đều biết tính ông rồi, thỉnh sao được…
[70, tr. 95]
Để giải đáp cho thắc mắc của anh hà tiện, thầy cúng đã dùng hành vi giải thích “Các
vị thần ở gần đều biết tính ông rồi, thỉnh sao được…”, nhưng phía sau lời giải thích lại ẩn
chứa hành vi ngôn ngữ gián tiếp là mỉa mai tính xấu của anh hà tiện.
Cũng là những hành vi ngôn ngữ gián tiếp nhằm thể hiện sự châm biếm, đả kích qua
hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Chẳng hạn, hành vi ra lệnh.
Ví dụ (33):
Lính huyện đi tuần đêm, bắt được đám tổ tôm. Sáng hôm sau đem lên công đường để
tâng công.
Quan chưa biết việc gì, cứ bảo nọc ra đánh. Lính cầm roi hỏi:
- Bẩm quan đánh bao nhiêu ạ?
Quan đang dở ngủ dở thức mơ màng đến quân bài đánh cho cụ thượng ù lúc gà gáy,
bảo:
- Đánh quân ngũ sách!
[70, tr. 62]
Trong cuộc thoại trên, thông qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp là ra lệnh cho anh lính
“Đánh quân ngũ sách!” cho ta thấy rõ quan là người như thế nào. Thói hư tật xấu của quan,
ý đồ của tác giả, tiếng cười của người đọc được thể hiện thông qua hành vi ngôn ngữ gián
tiếp.
60B2.4.2.3.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời hồi đáp – dẫn nhập
Tương tự với lời dẫn nhập, hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong lời thoại hồi đáp – dẫn
nhập cũng chủ yếu được thể hiện thông qua hành vi ngôn ngữ trực tiếp hỏi.
Ví dụ (34):
Anh chàng kia có tính hay nói khoác. Một hôm đi chơi về bảo với vợ:
- Này mình ạ, hôm nay tôi vào rừng, thấy một con rắn…Ôi chao là to!... Bề ngang đến
hai mươi thước, bề dài đến một trăm hai mươi thước ấy!
Vợ biết tính chồng, muốn trêu một mẻ, liền bĩu môi bảo:
- Làm gì có con rắn dài như thế?
- Mình không tin à? Chẳng một trăm hai mươi thước thì cũng một trăm thước.
…
[70, tr. 162]
Cả hai lời thoại của vợ và chồng đều là những lời hồi đáp – dẫn nhập. Tuy nhiên, chỉ
có lời thoại của người vợ mới ẩn chứa hành vi ngôn ngữ gián tiếp. Thông qua hành vi ngôn
ngữ trực tiếp là hỏi “Làm gì có con rắn dài như thế?”, người vợ đã bày tỏ sự ngờ vực với
thông tin người chồng đưa ra và đồng thời thể hiện ý châm chọc.
62BTiểu kết
Tiến hành khảo sát và phân tích các đặc điểm của cấu trúc hội thoại trong một thể loại
văn học như truyện cười chính là chỉ ra mối quan hệ giữa các hình thức ngôn ngữ và việc sử
dụng các hình thức ấy trong thực tế giao tiếp. Có thể rút ra một số đặc điểm hội thoại đáng
lưu ý trong Tiếng cười dân gian Việt Nam:
- Về cuộc thoại, đa số là những cuộc thoại ngắn, sử dụng phổ biến là hình thức song
thoại. Phần mở thoại có khi được thể hiện bằng lời dẫn của tác giả. Phần kết thoại có trường
hợp không xuất hiện do yêu cầu của thể loại (kết thúc bất ngờ để tạo suy nghĩ, tiếng cười từ
người tiếp nhận).
- Về cặp thoại, phổ biến nhất là cặp thoại một tham thoại và cặp thoại hai tham thoại,
cặp thoại phức tạp chiếm số lượng hạn chế.
- Về tham thoại, số lượng tham thoại dẫn nhập và tham thoại hồi đáp khá cân bằng,
tham thoại dẫn nhập chủ yếu sử dụng hành vi hỏi, tham thoại hồi đáp đôi khi vắng mặt để tạo
nên cấu trúc “hẫng” để tạo bất ngờ cho người đọc, có tham thoại kiêm nhiệm cả chức năng
hồi đáp – dẫn nhập.
- Về hành vi ngôn ngữ, trên cơ sở đích ở lời luận văn nêu lên hành vi ngôn ngữ trực
tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp, mỗi loại hành vi ngôn ngữ đều gắn với những lời thoại
dẫn nhập, hồi đáp và hồi đáp – dẫn nhập…
Phân tích đặc điểm cấu trúc hội thoại trong một thể loại văn học cụ thể là một việc làm
lí thú, gắn với thực tiễn. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có một số vấn đề cần đắn đo
suy nghĩ trong việc xác định ranh giới, tiêu chí nhận diện nhằm xác lập một cách rạch ròi các
thành phần trong cấu trúc hội thoại. Thiết nghĩ có thời gian và dung lượng cho phép thì đây
là vấn đề cần đào sâu, làm rõ.
4BCHƯƠNG 3: VI PHẠM PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI – YẾU TỐ TẠO NÊN TIẾNG CƯỜI TRONG TRUYỆN CƯỜI
Để hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả cao những người tham gia cần tuân thủ các
phương châm hội thoại đề ra. Tuy nhiên, trong thực tế giao tiếp vì nhiều lí do, để đạt được
mục đích giao tiếp của mình, các nhân vật giao tiếp không tuân thủ các phương châm hội
thoại. Sự vi phạm này đã mang đến những hiệu quả giao tiếp nhất định. Chúng tôi sẽ minh
họa cụ thể vấn đề này vào truyện cười tiếng Việt. Chính sự vi phạm phương châm hội thoại
22B3.1.Sự vi phạm phương châm về lượng
là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên tiếng cười trong truyện cười.
Phương châm về lượng đòi hỏi trong quá trình đối thoại các chủ thể tham gia hoạt
động giao tiếp truyền đạt lượng tin vừa đủ (không thừa, không thiếu). Thông tin thừa, đi lệch
so với đề tài trong quá trình hội thoại một cách có chủ ý sẽ phục vụ cho một lí do nào đó của
người tham gia hội thoại. Cụ thể nhất, tiếng cười trong truyện cười được xây dựng từ sự
không tuân thủ phương châm này.
Ví dụ (1):
Có anh tính hay khoe của. Một hôm, may được cái áo mới, liền đem ra mặc, rồi đứng
hóng ở cửa đợi có ai qua người ta khen. Đứng đợi mãi từ sáng đến chiều, chả thấy ai hỏi cả,
anh ta ức lắm.
Đang lúc tức tối, chợt thấy một anh chàng cũng hay khoe, tất tưởi chạy đến hỏi to:
- Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?
Anh kia liền giơ ngay vạt áo ra , bảo:
- Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả.
[70, tr. 190]
Qua ví dụ trên ta thấy, rõ ràng để đạt được mục đích khoe của của mình hai chàng trai
trên đã cố tình cung cấp thêm một lượng thông tin thừa. Chẳng hạn, chàng trai thứ nhất chỉ
cần hỏi “Bác có thấy con lợn của tôi chạy qua đây không?” và người kia chỉ cần trả lời “tôi
chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả” là được. Tuy nhiên, nhờ sự dư thừa thông tin này
mà ta mới phát hiện ra tiếng cười đầy ẩn ý phía sau.
Ví dụ (2):
Một lão nhà giàu có anh đầy tớ tính rất bộp chộp, thấy gì nói ấy, gặp đâu nói đó,
chẳng có đầu đuôi gì cả. Lão mới gọi anh ta bảo:
- Mày ăn nói chẳng có đầu có đuôi gì cả, người ta cười cả tao lẫn mày. Từ rày nói cái
gì thì phải nói cho có đầu có đuôi nghe không?
Anh đầy tớ vâng vâng dạ dạ.
Một hôm lão mặc quần áo sắp sửa đi chơi, đang ngồi hút thuốc thì thấy anh đầy tớ
đứng chấp tay trịnh trọng nói:
- Thưa ông, con tằm nó nhả tơ, người ta mang tơ bán cho người Tàu, người Tàu đem
dệt thành tơ rồi bán sang ta. Ông đi mua the về may thành áo. Hôm nay ông mặc áo, ông hút
thuốc. Tàn thuốc nó rơi vào áo ông, và áo ông đang cháy.
Lão giật mình nhìn xuống thì áo đã cháy to bằng bàn tay rồi.
[70, tr. 88]
Tuân thủ mệnh lệnh của ông chủ một cách cứng nhắc – nói có đầu có đuôi, anh đầy tớ
đã nêu lên lượng tin quá thừa so với những gì cần nói. Trong tình huống khẩn cấp như trên
anh đầy tớ chỉ cần nói “Thưa ông, áo ông đang cháy” là được. Nếu xét về hiệu quả giao tiếp
thì anh đầy tớ đã thất bại do truyền đạt thông tin quá chậm, nhưng chính thất bại ấy lại mang
đến tiếng cười.
Trong quá trình tham gia hội thoại, ngoài việc cung cấp thừa lượng thông tin thì việc
cung cấp thiếu thông tin cũng dẫn đến hệ quả tương tự.
Ví dụ (3):
(1) Một văn nhân đang ngồi cặm cụi viết bài. Bà vợ đến bên cạnh, nói:
- Ông lấy giấy khổ to mà viết có hơn không?
Văn nhân lấy làm đắc chí, cho là vợ khen tài văn chương của mình, ý tứ dồi dào, giấy
khổ nhỏ không đủ chép. Nhưng cũng hỏi lại:
- Mình nói vậy là thế nào?
Bà vợ thông thả nói:
- Ông chẳng tính toán gì cả! Giấy khổ to bỏ đi còn gói hàng chứ giấy khổ nhỏ thì làm
gì được.
[70, tr. 122]
Trong giao tiếp, khi người nói không cung cấp đủ thông tin, để hiểu được nội dung
được truyền đạt người nghe phải tiến hành thao tác suy luận và do đó sẽ dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau. Ở ví dụ trên, câu nói của người vợ không cung cấp đủ thông tin nên dẫn đến
việc người chồng hiểu không đúng với nội dung cần truyền đạt của người vợ. Và tiếng cười
vì thế được tạo nên.
Ví dụ (4):
Có người mời cụ Bá đến nhà chơi. Lúc đi, cụ cho anh đầy tớ theo hầu. Thấy cụ Bá đến
nơi, chủ nhà ân cần hỏi han:
- Đường xa, cụ đi mệt, tôi lấy làm ngại quá!
Cụ Bá sĩ diện, bảo:
- Không, từ nhà sang đây, đi xe cũng không mệt nhọc gì.
Anh đầy tớ nhìn cụ, rồi như tiếc rẻ, nói:
- Giá như lúc bấy giờ cụ trả thêm cho nó một vài xu thì ta đến đây từ sớm kia rồi!
Cụ Bá nghe nói, sầm mặt lại. Chủ nhà thì cứ tủm tỉm cười. Lúc về nhà cụ Bá mắng
anh đầy tớ:
- Ai bảo mầy chõ mồm vào? Từ giờ trở đi hễ không hỏi mà mở mồm thì chết với tao.
Anh đầy tớ biết mình lỡ lời, sợ quá, vâng vâng, dạ dạ.
Một hôm, cụ Bá làm cỗ mời khách. Mọi người đến đầy đủ, chỉ thiếu một ông, chờ mãi
chẳng thấy. Sợ khách chờ lâu, cụ sai anh đầy tớ mời lượt nữa. Anh ta đi một chốc rồi về,
lẳng lặng xuống bếp, không nói gì cả.
Cụ Bá đợi mãi, không thấy, sốt ruột, tưởng anh đầy tớ chưa đi mời, lại gọi lên hỏi:
- Mày đã đi chưa?
- Dạ, đã đi rồi ạ!
Cụ Bá tưởng ông kia sắp đến, lại ngồi vào trò chuyện với khách.
Cỗ bàn đều nguội cả mà vẫn không thấy ông khách đến, cụ Bá bực mình lại gọi đầy tớ
lên hỏi:
- Mày đến, ông ấy bảo thế nào?
- Dạ, ông ấy xin kiếu vì bị cảm ạ!
Cụ Bá nổi giận mắng:
- Thế, sao không nói từ nảy để mọi người khỏi phải chờ?
- Con không dám nói, tại ông không hỏi ạ!
[70, tr. 89]
Bị ông chủ la mắng vì nói nhiều, anh đầy tớ đã rút kinh nghiệm và kiên quyết nếu ông
chủ không hỏi thì không nói. Tuy nhiên, trong tình huống giao tiếp này anh đầy tớ đã quá
cứng nhắc, rút kinh nghiệm và áp dụng rập khuôn. Việc không cung cấp thông tin hoặc cung
cấp thông tin không đầy đủ của anh đầy tớ đã dẫn đến hậu quả tai hại là để mọi người phải
chờ đợi một người không đến được. Như vậy, anh lính đã vi phạm phương châm về lượng –
do không cung cấp đủ lượng tin cần thiết.
Phương châm về lượng đòi hỏi trong giao tiếp phải nói có nội dung. Tuy nhiên, trong
quá trình giao tiếp phương châm này đã không được tuân thủ. Sự vi phạm phương châm
lượng thể hiện trong những cách nói có nội dung chưa rõ ràng, chưa đáp ứng được yêu cầu
đòi hỏi.
Ví dụ (5):
Một lão trọc phú đang ngồi tiếp khách, chợt có người vào đưa giấy, và đứng đợi trả
lời. Lão kia vốn dốt đặc, nhưng sĩ diện với khách, làm ra mặt biết chữ, giả vờ mở giấy ra
xem, rồi trả lời:
- Cứ về đi, chốc nữa tao sang.
Tên người nhà kia gãi đầu, gãi tai bẩm:
- Ông chủ sai con mượn con ngựa đem về ngay chứ không phải mời ông sang đâu ạ!...
[70, tr. 87]
Do không biết chữ, không nắm được nội dung, nhưng vì sĩ diện lão trọc phú đã có sự
phản hồi không đúng với nội dung giao tiếp. Lời đáp của lão trọc phú không đúng với yêu
cầu đòi hỏi, không đi vào nội dung của vấn đề đang bàn. Anh đầy tớ đã có động tác điều
chỉnh lại cho đúng với nội dung. Và điều đó tạo nên tiếng cười nơi người tiếp nhận.
Ví dụ (6):
Lính huyện đi tuần đêm, bắt được đám tổ tôm. Sáng hôm sau đem lên công đường để
tâng công.
Quan chưa biết việc gì, cứ bảo nọc ra mà đánh. Lính cầm roi hỏi:
- Bẩm quan đánh bao nhiêu a?
Quan đang dở ngủ dở thức mơ màng đến quân bài đánh cho cụ thượng ù lúc gà gáy,
bảo:
- Đánh quân ngũ sách!
[70, tr. 62]
Chưa rõ những gì anh lính nói thì quan huyện đã vội vàng “bảo nọc ra mà đánh”. Cho
đến khi anh lính hỏi “đánh bao nhiêu” thì mới rõ quan huyện không nói đúng nội dung.
Không bàn luận về khía cạnh châm biếm đả kích của câu chuyện trên, câu trả lời của vị quan
huyện đã đi chệch so với đề tài. Trong hoạt động giao tiếp, cách nói có nội dung chưa rõ
ràng, không có nội dung như vậy đã vi phạm phương châm về lượng.
Phương châm về lượng không được tuân thủ do câu chuyện nói thừa thông tin, thiếu
thông tin, câu nói có nội dung không rõ ràng đã trở thành những yếu tố xây dựng nên tiếng
cười trong truyện cười. Nói khác đi, sự vi phạm phương châm về lượng là yếu tố luôn được
23B3.2.Sự vi phạm phương châm về chất
khai thác một cách triệt để trong truyện cười, trong các câu chuyện hài hước.
Phương châm về chất đòi hỏi trong giao tiếp không nên nói điều mà mình tin là không
đúng, không có bằng chứng xác thực. Do đó, trong thực tế giao tiếp, việc vi phạm phương
châm về chất chiếm số lượng không nhỏ, đặc biệt là trong truyện cười.
Ví dụ (7):
Anh chàng kia có tính hay nói khoác. Một hôm đi chơi về bảo với vợ:
- Này mình ạ, hôm nay tôi vào rừng, thấy một con rắn…Ôi chao là to!...Bề ngang đến
hai mươi thước, bề dài đến một trăm hai mươi thước ấy!
Vợ biết tính chồng, muốn trêu một mẻ, liền bĩu môi bảo:
- Làm gì có thứ rắn dài như thế?
- Mình không tin à? Chẳng một trăm hai mươi thước thì cũng một trăm thước.
- Một trăm thước cũng không có.
Muốn cho vợ tin, anh ta bảo:
- Thật mà! Không đủ một trăm thước cũng đến tám mươi thước.
Vợ vẫn lắc đầu:
- Tám mươi thước cũng chẳng có.
Chồng vẫn gân cổ cãi:
- Thật đấy mà! Không tám mươi thì cũng sáu mươi.
Vợ lại cau mặt:
- Sáu mươi vẫn còn dài.
Chồng lại cố ra vẻ thật thà:
- Không đến sáu mươi thước thật, nhưng ít nhất cũng bốn mươi thước.
Vợ càng làm già:
- Bốn mươi thước cũng không đến.
Chồng đành rút xuống lần nữa:
- Ừ thôi, tôi nói thật nhé! Quả tôi nom thấy con rắn dài đúng hai mươi thước không
kém một tấc, một phân nào!
Lúc này vợ mới bò lăn ra cười:
- Bề ngang hai mươi thước, bề dài hai mươi thước đúng. Thì ra con rắn vuông bốn góc
à?...
[70, tr. 162]
Anh chồng có tính hay nói khoác đã nói ra những điều mà khi mới nghe đã tức cười và
không thể tin đó là sự thật. Đi sâu vào câu chuyện, với sự dẫn dắt của người vợ, câu chuyện
khó tin của anh chồng đã dần dần bị lật tẩy. Câu chuyện cho thấy anh chồng đã vi phạm
phương châm chất khi nói không đúng sự thật.
Ví dụ (8):
Có một anh đi làm ăn xa, lâu ngày về làng, bà con đến thăm, hỏi anh ta đi xa thế hẳn
biết nhiều chuyện lạ, xin kể cho nghe. Anh nọ được dịp nói khoác:
- Tôi thấy nhiều cái lạ lắm, nhưng lạ nhất là thấy có một chiếc thuyền dài không lấy gì
mà đo cho xiết. Có người thuở hai mươi tổi đứng ở đằng mũi bắt đầu đi ra đằng lái, đi đến
giữa cột bườm thì đã già, râu tóc bạc phơ, cứ thế đi, đến chết vẫn chưa tới lái.
Trong làng cũng có một anh nói khoác nổi tiếng, nghe vậy liền kể ngay một câu
chuyện:
- Như thế lấy gì làm lạ! Tôi từng đi thấy một cây cao ghê gớm. Có một con chim đậu
trên cành cây ấy, đánh rơi một hạt đa. Hạt đa rơi xuống lưng chừng gặp mưa, gặp bụi rồi
nẩy mầm, đâm rễ thành cây đa. Cây đa lớn lên, sinh hoa, kết quả, lại nẩy ra hàng đàn cây đa
cháu. Cứ thế mãi cho đến khi rơi tới đất thì đã bảy đời tất cả.
Anh đi xa về nghe thế, gân cổ lên cãi:
- Làm gì có cây đa cao thế! Chả ai tin được.
Anh kia cười ranh mãnh:
- Ấy không có cây như thế thì lấy đâu ra gỗ mà đóng chiếc thuyền của anh.
[70, 164]
Lời đối đáp giữa hai nhân vật trong câu chuyện trên đã mang đến tiếng cười sảng
khoái cho người tiếp nhận. Rõ ràng câu chuyện kể rất hay, rất có duyên nhưng lại không có
bằng chứng xác thực cho những điều họ nói. Ở đây phương châm lượng đã không được tuân
thủ. Tiếng cười được tạo ra từ sự khó tin với câu chuyện của hai chàng trai.
Trong giao tiếp, có một số lối nói mang tính ngẫu nhiên, nói quá xa sự thật, nói không
có căn cứ một cách cố ý vì một lí do nào đó. Những cách nói như vậy đã vi phạm phương
châm về chất.
Ví dụ (9):
Một hôm được nghỉ, bốn quan họp nhau đánh chén, nhân lúc cao hứng mở cuộc thi
nói khoác.
Quan thứ nhất nói:
- Tôi còn nhớ, ngày tôi trọng nhậm ở huyện nọ tôi được trông thấy một con trâu to
lắm, nó liếm một cái mất cả một sào mạ!
Quan thứ hai nói:
- Thế đã lấy gì làm lạ. Tôi còn trông thấy một sợi dây thừng to gấp mười cái cột đình
làng này!
Quan thứ nhất biết ông kia nói lỡm mình, bèn chịu thua, và giục quan thứ ba lên tiếng.
Quan thứ ba nói:
- Tôi từng trông thấy một chiếc cầu dài lắm, đứng đầu này không thể nào trông thấy
đầu kia. Chỉ biết rằng có hai bố con nhà nọ, kẻ ở bờ bên này, người ở bờ bên kia mà chẳng
bao giờ gặp nhau được. Lúc ông bố chết, ngươi con nghe tin, vội vả sang đưa đám ma,
nhưng khi đi qua cầu sang đến nơi thì đã đoạn tang được ba năm rồi.
Đến lượt quan thứ tư:
- Thế kể cũng đã ghê đấy. Nhưng tôi còn lại trông thấy một cái cây cao khiếp lắm! Cứ
biết rằng trứng chim ở ngọn cây rơi xuống mới đến nửa chừng, chim đã nở đủ lông đủ cánh
và đã bay đi mất rồi.
Quan thứ ba hiểu ý, cây ấy dùng để làm cái cầu mình nói, đành chịu thua.
Bốn quan đắc chí, vỗ đùi cười ha hả.
Bỗng có tiếng thét thật to làm các quan giật bắn người:
- Đồ nói láo! Lính đâu? Trói cổ chúng nó lại cho ta!
Các quan sợ run cầm cập, ngơ ngác nhìn trước nhìn sau xem ai, thì té ra là tên lính
hầu. Lúc ấy, các quan mới lên giọng:
- Thằng kia, mày định trói ai thế?
- Bẩm quan, con thấy các quan thi nhau nói khoác thì con cũng nói khoác chơi đấy ạ!
[70, tr. 75]
Để đạt được mục đích là chiến thắng trong cuộc thi, các quan đã vận dụng hết trí
tưởng tượng và đưa ra những câu chuyện không thể có trong hiện thực, không có căn cứ để
xác định. Còn anh lính cũng nói điều mà bản thân không thể thực hiện được (ra lệnh bắt trói
các quan). Như vậy, cả bốn vị quan và anh lính đều vi phạm phương châm về chất. Lí do của
sự vi phạm phương châm này chính là phương thức tạo nên tiếng cười.
Không mang tính phổ biến như những cách nói nêu trên, việc sử dụng những câu
trùng ngôn, rỗng về thông tin dẫn đến vi phạm phương châm về chất thường hiếm gặp trong
truyện cười.
Ví dụ (10):
Có cậu học trò trí nhớ kém quá, học chữ Viên là tròn, đọc luôn mồm mà vẫn quên
nghĩa. Hỏi mãi sợ thầy gắt, cậu bèn lấy đất nặn một viên tròn để dễ nhớ.
Vừa học, cậu vừa gõ nhịp chân:
- Viên là tròn, viên là tròn.
Học một lúc, cậu ta quên và đọc:
- Tròn là viên, tròn là tròn.
Lầm lẫn quá, cậu vội cầu cứu đến viên đất để nhớ. Nhìn viên đất cậu đã giẫm bẹt từ
bao giờ, cậu đọc:
- Bẹt là bẹt, bẹt là bẹt.
Thầy quất cho một roi mây vào đít và nhắc. Cậu ta mới đọc đúng:
- Viên là tròn, viên là tròn.
[70, tr. 129]
Cậu học trò đã ghi nhớ bằng cách lặp đi lặp lại nội dung cần ghi nhớ. Đến khi không
còn nhớ nữa và viên đất bị biến dạng thì cậu đã sử dụng từ ngữ có kết cấu trùng ngôn. Kết
cấu trùng ngôn thường rỗng về thông tin do không mang đến những thông tin gì mới. Xét về
phương châm hội thoại thì cậu học trò đã vi phạm phương châm về chất.
Phần lớn truyện cười sử dụng lối nói phóng đại làm biện pháp gây cười chủ yếu. Xét
về góc nhìn hội thoại, lối nói phóng đại khó thuyết phục người nghe do sử dụng những lời
nói với nội dung không có tính xác thực. Và điều này dẫn đến vi phạm phương châm về chất.
Nhưng chính việc không tuân thủ phương châm này đã tạo nên giá trị – tiếng cười – cho
truyện cười.
Ví dụ (11):
Trên một chiếc rượu, bốn cụ đã ngà ngà say liền đem chuyện lạ phương xa ra tán với
nhau.
Cụ thứ nhất bắt đầu:
- Một bận tôi đi qua sông Bồ Đề, thấy một con trâu to lù lù như quả núi, đứng bên này
sông vươn cổ sang bên kia sông ăn hết ba mẫu lúa.
Cụ thứ hai tủm tỉm tiếp lời:
- Thế thì đã lấy gì làm lạ. Tôi từng thấy một cây mây to và dài bằng dãy núi Trường
Sơn.
Cụ thứ nhất nói kháy:
- Chắc hẳn thân cây phải to bằng cái đình làng, cụ nhỉ?
Cụ thứ hai đáp:
- Hẳn chứ lị! Không thì thừng nào chão nào xỏ được vừa mũi con trâu cụ kể?
Cụ thứ ba vội ngắt lời:
- Thế mà các cụ đã cho là lạ à? Tôi còn thấy một cái cây, chao ôi! Nó có đâu mà cao
thế! Tưởng chọc thủng trời, đi vòng quanh gốc cây một vòng phải mất nửa tháng.
Hai cụ kia cãi:
- Vô lí, vô lí!
Cụ thứ ba gắt:
- Chứ không thì lấy cọc đâu mà buộc được dây xỏ mũi trâu của hai cụ?
Cụ thứ tư nói giọng lè nhè:
- Các cụ đều có lí cả, cãi nhau làm gì…Tuy thế mà cũng chưa lạ lắm. Tôi còn thấy
một cái trống to vô cùng, đánh một tiếng vang chuyển một phương trời…
Ba cụ kia nhao nhao hỏi:
- Trống ấy to bằng ngần nào mà kêu to thế?
- Ấy, các cụ cứ lượng ra mà đoán khắc biết, lột da con trâu đứng bên sông Bồ Đề làm
mặt trống, lấy gỗ cây cao chọc thủng trời làm tang trống, còn cây mây to dài suốt dãy
Trường Sơn làm đai trống.
Biết cụ này nói xỏ, ba cụ kia hỏi lại:
- Thế này khí không phải, chứ cái trống ấy của cụ thì treo vào đâu mà đánh nhỉ?
Cụ thứ tư đang luống cuống chưa tìm ra câu trả lời, may sao có người hầu rượu ngay
sau lưng vội đỡ lời:
- Bẩm, xin các cụ cho con nói.
Các cụ quay nhìn người ở, rồi gật gù nói:
- Được, cho cứ nói.
Người ở gãi tai, thưa:
- Bẩm, cái trống ấy treo trên cái cầu mà hai bố con con đã đi qua. Bẩm, đứng trên cầu
mà nhìn xuống, con trâu vươn cổ qua sông Bồ Đề chỉ bằng con rận, cây mây dài suốt dãy
Trường Sơn bằng một sợi tóc, còn cái câu cao chọc trời thì không bằng cây nấm…Chao ôi!
Bố con mải nhìn chóng mặt quá lộn cổ xuống sông. Con khóc sướt mướt, về để tang ba năm,
khi đoạn tang đi qua vẫn thấy bố con còn lơ lửng giữa trời chứ chưa rơi xuống nước.
[70, tr. 165]
Câu chuyện kể của các vị quan đầy đủ về nội dung nhưng lại mang những chi tiết khó
tin, xa rời thực tế. Lối nói phóng đại ấy được xem là cách thức để tạo nên tiếng cười trong
các câu chuyện cười. Tuy nhiên, xét về lí thuyết hội thoại thì cách nói phóng đại đi kèm với
những tình tiết khó tin, thiếu tính xác thực, không thuyết phục được người nghe dẫn đến vi
phạm phương châm về chất.
Sự vi phạm phương châm về chất còn được thể hiện qua việc những người tham gia
hội thoại nói những điều có nội dung trái khoáy, không hợp với lẽ tự nhiên.
Ví dụ (12):
Một anh ngồi nói chuyện với bạn, dám nói khoác rằng:
- Nhà tôi có một con trâu đi mỗi ngày một nghìn dặm, một con gà gáy đủ năm canh,
một con chó sủa ra chữ.
Bạn bảo là nói láo, anh ta liền thách:
- Mai bác cứ sang chơi bên nhà xem có thật không!
Về nhà, anh ta vặt đầu, vặt tai âu sầu nghĩ ngợi. Vợ thấy hỏi. Anh ta đem câu chuyện
thuật lại, rồi than thở:
- Mai hắn sang đây, thì nên làm thế nào?
Vợ bảo:
- Được, để tôi liệu. Mai cứ tránh mặt đi.
Trưa mai, bạn sang thật, thấy chỉ có một mình chị vợ ở nhà, mới hỏi:
- Bác giai có ở nhà không?
Người vợ đáp:
- Ấy, nhà tôi cưỡi con trâu nghìn dặm đi đâu từ sáng đến giờ chưa về.
Bạn hỏi:
- Thế bác giai nói có con gà gáy năm canh, tôi muốn nghe nó gáy có được không?
Người vợ đáp:
- Nó ở trong chuồng, nhưng gà gáy ban đêm chớ có gáy ban ngày bao giờ! Đêm bác
sang đây, thức đủ năm canh, sẽ được nghe nó gáy.
Bạn hỏi:
- Thế bác giai nói có con chó sủa ra chữ nữa đâu?
Người vợ đáp:
- Hoài của! Giá bác sang sớm một tí nữa thì được xem. Người ta vừa mới đón nó lên
tỉnh dạy học rồi!
[70, tr. 169]
Anh chồng đã vi phạm phương châm về chất khi nói những điều trái khoáy, không
hợp với lẽ tự nhiên. Đã vậy, để chữa thẹn cho chồng, người vợ còn hưởng ứng và tiếp tay với
chồng để tiếp tục lừa người bạn. Như vậy, cả hai vợ chồng đều không tuân thủ phương châm
hội thoại.
Ví dụ (13):
Một tên trộm bị bắt quả tang ăn trộm trâu. Người ta đóng gông giải lên huyện. Giữa
đường có người hỏi:
- Anh mắc tội gì mà nặng thế?
Nó trả lời, vẻ tội nghiệp:
- Tôi đi đường bắt được sợi dây, thế mà bị đóng gông như thế này đấy!
Người kia ngạc nhiên hỏi:
- Chẳng lẽ chỉ bắt được có sợi dây mà bị đóng gông giải huyện?
Tên trộm nói:
- Bởi vì sợi dây có buộc một vật.
- Vật gì lạ vậy?
Nó nói:
- Con trâu.
[70, tr. 182]
Để biện hộ cho hành động của mình, tên trộm đã nói lên điều rất vô lí. Như vậy, tên
trộn đã vi phạm phương châm về chất. Và tiếng cười được phát ra chính từ việc không tuân
thủ phương châm này.
Không tuân thủ phương châm về chất là một phương thức quan trọng trong việc xây
dựng truyện cười, thường gặp nhất là ở truyện cười dân gian. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hội
thoại nói chung, muốn đạt được hiệu quả cao trong hoạt động giao tiếp thì người tham gia
24B3.3.Sự vi phạm phương châm về cách thức
nên tránh những cách diễn đạt nêu trên.
Trong quá trình giao tiếp, sự không tuân thủ phương châm cách thức xảy ra khi lời nói
của người tham gia hội thoại có nội dung tối nghĩa, mập mờ có thể hiểu nhiều nghĩa. Tuy
nhiên, trong truyện cười, cách nói này lại mang đến một hiệu quả khác.
Ví dụ (14):
Nhà vua vi hành gặp một ông lão đang cày ngoài đồng. Nhà vua dừng lại hỏi thăm về
ruộng nương, lúa má, rồi lân la hỏi đến chính sự, tư cách quan trong địa hạt thế nào.
Ông lão nói:
- Ối chà! Các quan ở đây đều là những bậc trung thần nghĩa sĩ cả.
Nhà vua hỏi:
- Làm sao mà lão biết?
Ông lão đáp:
- Tôi xem hát xưa nay, thấy những vai nịnh như Đổng Trác, Tào Tháo đều mặt trắng
mà các quan ở đây, tôi chưa thấy ông nào mặt trắng như thế bao giờ! Ông nào cũng mặt mũi
hồng hào béo tốt cả!
[70, tr. 58]
Câu trả lời của ông lão “…Ông nào cũng mặt mũi hồng hào béo tốt cả!” rất mập mờ
và có thể hiểu theo nhiều nghĩa. Trong giao tiếp bình thường, cách nói như vậy hàm chứ
nhiều ẩn ý. Xét về giá trị nội dung thì nó mang ý nghĩa châm biếm, đả kích đối với bon quan
lại. Tuy nhiên, với vấn đề đang xét – lĩnh vực hội thoại trong truyện cười, cách nói trên đã
không tuân thủ phương châm về cách thức và hàm chứa tiếng cười trong đó.
Ví dụ (15):
Một thầy đề sợ vợ, một lần bị vợ cào cấu cho sứt cả mặt, khi đến công đường, quan
huyện thấy mới hỏi:
- Sao mặt thầy lại xây xát cả ra thế?
Thầy đề thưa:
- Bẩm chiều hôm qua con ngồi chơi hóng mát, cái giàn hoa lý nó đổ xuống, suýt nữa
thì khốn.
Quan không tin hỏi lại:
- Thầy dối tôi. Chắc hôm qua vợ thầy lại cào cho thầy đấy chứ gì! Thầy cứ nói thật đi,
rồi tôi sai mấy tên lệ ra lôi cổ vào đây. Cái giống đàn bà phải trị thẳng tay, không thì được
đằng chân lân đằng đầu cho mà xem.
Không ngờ, quan bà đứng trong tư thất nghe thấy quan ông nói vậy giận lắm, hầm
hầm bước ra. Quan ông thấy bóng quan bà líu cả lưỡi lại, bảo thầy đề:
- Thôi…thầy…tạm lui…Giàn hoa lý nhà tôi cũng sắp đổ!
[70, tr. 77]
Do hiểu ý nhau và cùng trong “hoàn cảnh” nên khi thầy đề nói ra câu nói mơ hồ
“…giàn hoa lý nó đổ xuống…” thì quan huyện hiểu ngay. Và ngược lại khi quan huyện phán
“Giàn hoa lý nhà tôi cũng sắp đổ!” thì thầy đề cũng đã hiểu chuyện. Xét về hiệu quả giao
tiếp thì cuộc thoại giữa quan huyện và thầy đề thành công vì cả hai đều hiểu được ý nghĩa
cần truyền đạt của đối phương. Tuy nhiên, xét về phương châm hội thoại thì cuộc thoại trên
đã không tuân thủ phương châm về cách thức do người tham gia hội thoại đã nói những câu
nói có nội dung mập mờ, tối nghĩa.
Trong giao tiếp, việc sử dụng câu nói rút gọn giúp cho hoạt động giao tiếp diễn ra đơn
giản, tiết kiệm thời gian mà vẫn đạt được hiệu quả giao tiếp. Tuy nhiên, trong thực tế giao
tiếp việc sử dụng lạm dụng những câu nói ngắn làm cho người tiếp nhận hiểu mơ hồ, tối
nghĩa làm cho hoạt động giao tiếp không đạt hiệu quả như mong muốn. Và trong truyện
cười, việc sử dụng những câu nói rút gọn là một yếu tố tạo nên tiếng cười thích thú, sảng
khoái.
Ví dụ (16):
Một người sắp đi chơi xa, dặn con:
- Ở nhà có ai hỏi, thì bảo bố đi chơi vắng nhé!
Sợ con mải chơi quên mất, lại cẩn thận lấy bút viết vào giấy rồi bảo:
- Có ai hỏi, thì con cứ đưa giấy này.
Con cầm giấy bỏ vào túi áo. Cả ngày chẳng thấy ai hỏi. Tối đến, sẵn có ngọn đèn, nó
lấy giấy ra xem, chẳng may vô ý để giấy cháy mất.
Hôm sau, có người đến chơi, hỏi:
- Thầy cháu có nhà không?
Nó ngẩn ngơ hồi lâu, sực nhớ ra, sờ vào túi không thấy giấy, liền nói:
- Mất rồi!
Khách giật mình hỏi:
- Mất bao giờ?
- Tối hôm qua.
- Sao mà mất?
- Cháy…
[70, tr. 181]
Cuộc thoại trên diễn ra như những cuộc thoại bình thường khác – nghĩa là có sự thông
tin qua lại giữa những người tham gia giao tiếp. Tuy nhiên, mỗi chủ thể giao tiếp lại nhằm
vào một đối tượng khác. Cụ thể là người khách nói về bố của đứa con, trong khi đó đứa con
lại nghĩ đến tờ giấy của bố để lại. Sự thật thì người bố không mất (cháy) mà chính tờ giấy
người bố để lại đã cháy. Đứa con qua những câu nói rút gọn đã không tuân thủ phương châm
về cách thức dẫn đến sự hiểu lầm của người khách. Và tiếng cười được phát ra từ những câu
nói rút gọn ấy.
Phương châm về cách thức đòi hỏi người tham gia hội thoại trình bày vấn đề một cách
ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc sao để người tiếp nhận có thể hiểu được. Do đó, trong giao tiếp
cần tránh những cách nói dài dòng, thừa thông tin không cần thiết.
Ví dụ (17):
Một bà đi chợ nghĩ: “Nếu mình nói là vợ ông thuế vụ thì mấy cô bán hàng sẽ phải
giảm giá”.
Rồi bà làm theo ý mình, trong khi mua cá:
- Cô bán hàng, cho tôi loại cá này. Tôi là vợ ông thuế vụ đây.
- Sao? – Cô gái tròn mắt – Từ sáng đến giờ đã có sáu người nhận là vợ ông ta rồi đấy.
[72, tr. 371]
Không xét đến yếu tố gây cười trong câu trả lời của cô bán hàng, trong bản thân câu
nói của bà vợ ông thuế vụ đã không tuân thủ phương châm về cách thức. Để đạt được mục
đích là mua hàng với giá rẻ, bà vợ đã cố tình nói dài dòng, thừa lượng tin: “Cô bán hàng,
cho tôi loại cá này. Tôi là vợ ông thuế vụ đây.” thay vì chỉ cần nói: “Cô bán hàng, cho tôi
loại cá này.” là được. Chính cách nói dong dài của bà vợ đã tạo tiền đề cho phát ngôn gây
cười của cô bán hàng.
Ví dụ (18):
Có một ông về quê trông nom vườn ruộng để vợ con ở tỉnh buôn bán. Một hôm, có
bác tá điền ra chơi thăm bà chủ và các cô cậu. Bà chủ bèn cho ăn uống tử tế rồi hỏi chuyện:
- Ở nhà, dạo này vẫn vô sự chứ? Quan lớn có nhắn gì không?
- Bẩm không đấy ạ. Quan lớn không nói gì cả ạ. Có một chuyện lạ là con chó săn của
quan chết mất rồi.
- Tội nghiệp! Thế nó bị bệnh gì mà chết chóng thế? Vừa mới hôm nào…
- Bẩm, nó chết bỏng ạ. Chết bỏng ở cạnh chuồng ngựa.
- Thế ngựa có sao không?
- Chết cháy tiệt cả ạ. Mấy con bò, trâu và cả đàn lợn cũng bị thui cả một lượt.
Đến đây thì bà chủ đã nóng ruột quá sức rồi. Những bao nhiêu là súc vật đã chết kia
mà. Bà hỏi dồn dập:
- Chết chửa! Chết chửa! Tại sao lại cháy thế? Có đứa nào nó thù hằn nó đốt phải
không? Anh nói tôi nghe mau lên!
- Bẩm, bà để từ từ con nói ạ. Tại một cái tàn lửa ở trên nhà bay xuống.
- Sao? Cả nhà cũng bị cháy nữa ư?
- Vâng!
- Nhưng làm sao mà cháy?
Anh tá điền gãi đầu gãi tai một lúc rồi chậm rãi thưa:
- Bẩm, tại cướp hôm qua nó vào nó đốt.
- Nó có lấy được gì không?
- Lấy hết ạ. Và nó còn lại giết người nữa.
- Trời ơi! Quan nhà có việc gì không?
- Nó đâm quan lớn lòi bụng và chết ngay rồi ạ!
[72, tr. 62]
Mặc dù không đi quá xa vấn đề đang nói, nhưng rõ ràng những câu trả lời của bác tá
điền khá dài dòng. Thay vì với câu hỏi đầu tiên của bà chủ: “Ở nhà, dạo này vẫn vô sự chứ?
Quan lớn có nhắn gì không?” thì bác tá điền chỉ cần trả lời thẳng vào vấn đề là: Nhà bị trộm.
Quan lớn bị đâm chết rồi là được rồi hãy trình bày diễn biến một cách chi tiết sau. Cuộc
thoại này cho thấy bác tá điền đã vi phạm phương châm về cách thức khi trình bày vấn đề
một cách dài dòng (đặc biệt là trong tình thế nguy cấp trên) không cần thiết. Người tiếp nhận
sẽ cảm thấy bất ngờ trước câu trả lời kết thúc cuộc thoại của bác tá điền. Tuy nhiên, nhìn lại
từ đầu đến cuối câu chuyện, người đọc không khỏi bật cười với chính cách trình bày vấn đề
một cách dài dòng này của bác tá điền.
Ý nghĩa hàm ẩn liên quan đến ngữ cảnh, tình huống giao tiếp, gắn liền với lẽ thường,
tri thức nền của bản thân người tham gia hội thoại. Chính sự vi phạm phương châm cách
thức làm nảy sinh những câu nói hàm ẩn. Và trong truyện cười bên cạnh ý nghĩa hiển ngôn
thì ý nghĩa hàm ẩn đóng vai trò đặc biệt quan trọng và chiếm tỉ lệ cao trong việc tạo nên
tiếng cười.
Ví dụ (19):
Một anh tính keo kiệt, ngày nọ có khách đến chơi gà vịt đầy vườn nhưng anh ta vẫn cứ
phàn nàn:
- Chẳng mấy khi bác đến chơi mà lại không có thức gì thiết đãi tử tế, thật lấy làm ân
hận quá!
Khách mới bảo:
- Tôi có con ngựa đấy, bác đem làm thịt, anh em ta cùng đánh chén cho vui.
Chủ hỏi:
- Thế nhưng đường xa, bác về bộ thế nào được?
Khách đáp:
- Khó gì việc ấy! Rồi bác xem trong đàn ngỗng của bác có con nào lớn, bác cho tôi
mượn một con cưỡi về cũng được!
[70, tr. 97]
Câu chuyện trên cho thấy nghĩa hàm ẩn được xuất phát từ tri thức nền là ngỗng không
thể làm phương tiện di chuyển như ngựa được. Rõ ràng câu trả lời của người khách có vấn
đề, và tính có vấn đề đó lại hàm chứa nghĩa hàm ẩn. Chính câu trả lời đầy ẩn ý của người
khách đã lột tả hết sự keo kiệt của vị chủ nhà và tiếng cười được xuất phát từ câu nói ấy. Xét
trong lĩnh vực hội thoại, cách nói hàm ẩn như vậy đã không tuân thủ phương châm về cách
thức.
Ví dụ (20):
Một người trông thấy ông bạn hàng xóm ngồi trong vườn rau cạnh nhà đang ăn cơm
một mình. Bác ta ngạc nhiên hỏi:
- Sao bác lại ngồi ăn ở đây mà không mang vào trong nhà?
Ông bạn hàng xóm ngập ngừng một chút rồi nói:
- Trong nhà khói quá. Ống khói nhà tôi bị tắc.
- Tai hại quá. Ta vào xem đi, tôi sẽ sửa giúp bác.
Miệng nói là ông làm, ông ta bước vô mở cửa. Đúng lúc ấy một cái chổi giáng ngay
xuống đầu ông ta và một giọng đàn bà tru tréo lên:
- Lão già đốn mạt! Xéo ngay đi, không bà giết sống bây giờ.
Bác nông dân chạy tuốt ra khỏi nhà và đến bên ông bạn mình, bác đặt tay lên vay bạn
và nói:
- Không hề gì ông bạn ơi. Ống khói nhà tôi thỉnh thoảng cũng bị tắc thế đấy.
[72, tr. 373]
Ông hàng xóm trả lời câu hỏi của người bạn một cách hàm ẩn: “…Ống khói nhà tôi bị
tắc.” và ông bạn thì hiểu theo đúng nghĩa đen của câu nói. Tuy nhiên, khi “tham gia” vào
ngữ cảnh giao tiếp cụ thể thì ông bạn đã hiểu câu nói hàm ẩn của người hàng xóm và đáp trả
lại với một câu nói hàm ẩn tương tự: “…Ống khói nhà tôi thỉnh thoảng cũng bị tắc thế đấy.”
Trong hội thoại, những cách nói dài dòng, không rõ ràng, rành mạch như trên là những
biểu hiện của việc không tuân thủ phương châm về cách thức. Chính sự vi phạm phương
châm này làm cho hiệu quả giao tiếp, mối quan hệ giữa những người tham gia hội thoại
không được như mong muốn. Tuy nhiên, với một thể loại văn học như truyện cười, việc khai
thác những yếu tố vi phạm phương châm cách thức chính là thủ pháp cơ bản trong tạo nên
25B3.4.Sự vi phạm phương châm về quan hệ
tiếng cười.
Yêu cầu của phương châm về quan hệ là cần nói cho đúng chỗ, nói những gì liên quan
đến điều đang nói. Do đó, trong hội thoại, việc không tuân thủ phương châm về quan hệ xảy
ra khi những người tham gia nói những câu nói có nội dung chệch so với đề tài, nói những
điều không liên quan, dính líu đến câu chuyện đang diễn ra. Quan sát một số truyện cười ta
thấy không ít tác giả đã sáng tác nên những câu chuyện mà tiếng cười được khai thác từ
những sự vi phạm phương châm về quan hệ như vừa nêu.
Ví dụ (21):
Mẹ chồng và con dâu nhà kia chẳng may đều góa bụa.
Mẹ chồng dặn con dâu:
- Số mẹ con mình rủi ro, thôi thì cắn răng mà chịu!
Không bao lâu, mẹ chồng có tư tình, con dâu nhắc lại lời dặn ấy, thì mẹ chồng trả lời:
- Mẹ dặn là dặn con, chứ mẹ còn răng đâu nữa mà cắn.
[70, tr. 202]
Câu nói của mẹ chồng thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ với người con dâu và cũng như là
lời nhắc nhở chung cho cả hai: “Số mẹ con mình rủi ro, thôi thì cắn răng mà chịu!”. Tuy
nhiên, khi diễn tiến của cuộc sống thay đổi bà mẹ chồng đã nhanh chóng làm chệch đi nội
dung câu nói, làm cho đề tài chuyển sang một hướng khác: “Mẹ dặn là dặn con, chứ mẹ còn
răng đâu nữa mà cắn.” Với những lời biện hộ đó bà mẹ chồng đã chống chế được sự bắt bẻ
của cô con dâu đồng thời mang lại tiếng cười cho độc giả.
Ví dụ (22):
Có một anh chàng ngốc đến nỗi tí gì cũng không biết, đi đâu vợ cũng phải dạy trước
dạy sau, cả từ cách ăn đến cách nói. Vì vậy, người làng gọi anh ta là Ngốc và lâu dần quên
hẳn tên thật của anh ta.
Một hôm, Ngốc ra tỉnh thăm người bà con. Vợ gọi lại dặn:
- Ra đến nơi người ta có hỏi: “Anh Ngốc ra chơi đó phải không?” thì bảo “Vâng,
chính tôi là Ngốc đây ạ!”. Người ta hỏi: “Anh đi với ai?”, thì bảo “Có một mình thôi ạ!”.
Nếu có hỏi: “Anh hãy ở chơi dăm ba hôm” thì đáp: “Tôi ở nhà chỉ mong như thế, nay được
thỏa lòng ao ước, thật còn gì bằng!”.
Ngốc ra đi, nhẩm mãi mấy lời vợ dặn, sợ nhỡ quên lời nào thì người ta chê cười chết.
Ra đến chợ, thấy một đám đông, anh ta len vào xem. Thì ra đó là một vụ giết người,
kẻ bất hạnh nằm đấy mà hung thủ đã tẩu thoát mất rồi.
Khi nhà chức trách đến làm biên bản, mọi người vội tránh xa, sợ vạ lây, chỉ một mình
Ngốc sấn vào xem. Quan giữ lấy hỏi:
- Anh có biết ai giết không?
Sực nhớ đến lời vợ dặn, Ngốc nói luôn:
- Vâng, chính tôi là Ngốc đây ạ!
- Một mình anh hay có ai nữa không?
Ngốc lại bình tĩnh nói:
- Có một mình tôi thôi ạ!
Quan nghe nói bèn quát lính:
- Trói cổ thằng này, giải đi.
Ngốc nghĩ nên nói nốt câu thứ ba cho đủ lời vợ dặn, liền tiếp:
- Tôi ở nhà chỉ mong như thế, nay được thỏa lòng ao ước, thật còn gì bằng!
[70, tr. 176]
Quan sát cuộc thoại trên, thoạt tưởng chàng Ngốc đã đối đáp một cách trôi chảy những
câu hỏi của nhà chức trách. Tuy nhiên, nhìn kĩ vào những lời vợ dặn ta thấy cuộc thoại trên
đúng là “ông nói gà bà nói vịt” như dân gian thường gọi. Rõ ràng những câu trả lời của
chàng Ngốc không liên quan hay dính líu gì với câu chuyện đang diễn ra. Với những câu trả
lời của mình chàng Ngốc đã vô tình chuốc họa vào thân, và chính sự ngây ngô ấy đã mang
đến tiếng cười cho người đọc.
Trong quá trình hội thoại, việc vi phạm phương châm về quan hệ còn nảy sinh do
những người tham gia phát ngôn không đúng chỗ, không phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
Trong một số mẩu truyện cười, việc không tuân thủ phương châm về quan hệ được xem như
là phương thức chủ yếu tạo nên tiếng cười.
Ví dụ (23):
Một cô gái tóc vàng bước vào thư viện, nhìn xung quanh, và xếp hàng vào chờ trước
quầy đăng kí. Đến lượt mình, cô gái tóc vàng lớn tiếng nói:
- Cho tôi một cái bánh hamburger với nhiều thịt rán và một ly coca lớn nữa.
Người thủ thư ngạc nhiên nhìn vào cô gái tóc vàng thì thầm nói:
- Thưa cô, đây là thư viện.
Gật đầu tỏ vẻ hiểu ý, cô gái tóc vàng thì thầm nói nhỏ:
- Cho tôi một cái bánh hamburger với nhiều thịt rán và một ly coca lớn…
[68, tr. 34]
Cuộc thoại trên cho thấy cô gái có hai sự nhầm lẫn: sự nhầm lẫn thứ nhất là vào thư
viện nhưng lại gọi thức ăn và nước uống; sự nhầm lẫn thứ hai là khi người thủ thư nhắc và
nhấn mạnh “đây là thư viện” thì cô gái cho là người thủ thư yêu cầu mình nên nói nhỏ tiếng
lại. Căn cứ vào ngữ cảnh giao tiếp – trong thư viện – ta thấy cô gái đã không tuân thủ
phương châm về quan hệ do phát ngôn không đúng chỗ, không phù hợp với hoàn cảnh giao
tiếp. Và tiếng cười được tạo ra từ chính sự nhầm lẫn này của cô gái.
Ví dụ (24):
Trên chuyến xe, cô gái đang đọc quyển tự điển dày cộm. Chàng thanh niên kế bên
chăm chú nhìn vào. Cô gái nhỏ nhẹ nói:
- Anh có biết “lịch sự” là gì không?
Chàng thanh niên giằng ngay lấy quyển sách:
- Đưa đây tôi tra cho, vậy mà nảy giờ không nói.
[71, tr. 135]
Quan sát cuộc thoại trên ta thấy không biết chàng thanh niên vô tình hay cố ý “mất
lịch sự” trong lúc cô gái đang đọc sách và khi bị cho là không lịch sự (theo ý cô gái) thì lại
cho là cô gái cần tra ý nghĩa của từ “lịch sự”: “Đưa đây tôi tra cho, vậy mà nảy giờ không
nói”. Lẽ ra chàng trai nên nói xin lỗi và lặng lẽ về chỗ của mình. Rõ ràng chàng trai đã phát
ngôn không phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
Ví dụ (25):
Một anh chàng thật thà có ông bố vợ rất thích chơi đồ cổ. Chị vợ thường dặn chồng:
- Thầy thích chơi đồ cổ lắm, anh có sang bên ấy, hễ thấy cái gì, cũng cứ khen là cổ cho
thầy vừa lòng…
Một hôm sang chơi, thấy ông bố vợ mang bộ đồ trà ra, anh ta vội khen:
- Ái chà! Nhà có bộ chén cổ thật!
Ông bố vợ khoái lắm.
Anh chàng rể lại khen vung lên:
- Cái ấm cũng cổ, cái khay cũng cổ, cổ tất.
Ông bố vợ càng khoái.
Vừa lúc ấy, mẹ vợ đi ra, bụng chửa vượt mặt. Thấy vậy anh chàng rể vội khen:
- Ái chà! Cái bụng của mẹ mới thật cổ!
[70, tr. 196]
Cuộc thoại giữa chàng rể và bố vợ lẽ ra đã rất thành công khi chàng rể đã đánh đúng
vào tâm lí bố vợ. Tuy nhiên, sự cố xảy ra ở phát ngôn kết thúc câu chuyện: “Ái chà! Cái
bụng của mẹ mới thật cổ!” của chàng rể. Chàng rể đã không tuân thủ phương châm về quan
hệ khi phát ngôn không phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Tiếng cười được phát ra từ sự
nhầm lẫn tai hại của chàng rể.
Ngoài ra, trong quá trình giao tiếp vì một lí do nào đó mà người nói không muốn đi
vào vấn đề mà nói lảng, nói tránh ra để kết thúc nội dung mà đối phương đang đề cập đến.
Những cuộc thoại tương tự đã không tuân thủ phương châm về quan hệ. Quan sát một số
mẩu chuyện cười sau:
Ví dụ (26):
Có hai anh tính hay sợ vợ, lại cùng là láng giềng với nhau. Một hôm, vợ anh nọ đi
vắng, ở nhà trời mưa, có cái váy vợ phơi ở sân, anh ta quên mất, để mưa ướt cả. Khi vợ về,
vợ mắng cho một trận nên thân.
Anh bên cạnh thấy thế mới lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp, chẳng phải tay ông!...
Chẳng may, vợ anh ta nghe tiếng, chạy đến trợn mắt hỏi dồn:
- Phải tay ông thì ông làm gì hử?...Ông làm cái gì hử?...
Anh này luống cuống:
- Phải tay ông thì ông…cất trước lúc trời chưa mưa chứ còn làm gì nữa!
[70, tr. 209]
Quan sát diễn biến của cuộc thoại, chúng ta có thể nhận thấy hàm ý mà anh chồng nêu
trong câu nói: “Mẹ kiếp, chẳng phải tay ông!...”. Tuy nhiên, khi bị vợ dồn ép thì anh chồng
đã nhanh trí nói lảng ra thành câu nói được lòng cô vợ: “Phải tay ông thì ông…cất trước lúc
trời chưa mưa chứ còn làm gì nữa!”. Trong hội thoại, cách nói như người chồng là không
tuân thủ phương châm về quan hệ khi nói tránh nội dung đang nói. Và trong mẩu chuyện
trên, câu nói của người chồng đã mang đến tiếng cười cho độc giả.
Ví dụ (27):
Một anh háu ăn, nhưng sợ vợ. Được một hôm vợ đi chợ vắng, anh ta liền lấy khoai ra,
lùi vào bếp, khoai gần chín thì vợ về. Thấy vợ vào đến cửa bếp, anh ta hốt hoảng, giắt củ
khoai vào cạp quần.
Khoai nóng quá, anh ta đứng không yên, cứ phải thót bụng lại, nghiêng bên này bên
kia, nhảy lên nhảy xuống cho đỡ nóng.
Chị vợ thấy bộ điệu tức cười, liền hỏi:
- Làm gì mà nhảy cỡn lên như vậy?
Anh chồng cười nhăn nhở:
- Thấy mình về, tôi mừng quá!
[70, tr. 225]
Lẽ ra với câu hỏi của người vợ: “Làm gì mà nhảy cỡn lên như vậy?” nếu trả lời theo
đúng ngữ cảnh và diễn tiến của câu chuyện thì anh chồng nên trả lời đúng sự thật lí do mà
mình hành động như vậy. Đằng này, người chồng muốn nói tránh, che giấu sự thật nên đã
đáp lại: “Thấy mình về, tôi mừng quá!”. Câu trả lời thông minh của người chồng đã tạo nên
tiếng cười cho người tiếp nhận.
Trong hội thoại, những cách nói chệch đề tài, “ông nói gà bà nói vịt”, không phù hợp
với ngữ cảnh giao tiếp…sẽ dẫn đến việc vi phạm phương châm về quan hệ. Những lỗi vi
phạm này sẽ làm cho cuộc thoại không đạt được hiệu quả như mong muốn, hạn chế hoạt
động giao tiếp. Tuy nhiên, trong truyện cười thì việc không tuân thủ phương châm về quan
hệ lại là một phương thức quan trọng trong việc sáng tác nên truyện cười.
63BTiểu kết
Việc vi phạm phương châm hội thoại để tạo nên tiếng cười trong truyện cười là một
vấn đề không quá mới mẻ nhưng vẫn còn ít công trình nghiên cứu về chúng. Ngữ dụng học
nói chung, phương châm hội thoại nói riêng có liên quan đến nhiều khoa học chuyên ngành
khác như: triết học, tâm lí học, logic học…Truyện cười, đặc biệt là truyện cười dân gian thì
lại liên quan nhiều đến những vấn đề của cuộc sống, tâm lí cộng đồng, đặc trưng văn hóa, lẽ
thường trong tâm thức con người…
Từ những vấn đề lí luận chung của phương châm hội thoại (cụ thể là bốn phương
châm: phương châm về lượng, phương châm về chất, phương châm về cách thức, phương
châm về quan hệ) chúng tôi qui chiếu vào truyện cười tiếng Việt để làm rõ những yếu tố tạo
nên tiếng cười. Các tiêu chí trong từng phương châm mà Grice đề ra là rất cụ thể và có ranh
giới rõ ràng, nhưng trong thực tế sử dụng lại có sự chồng chéo và có nhiều trường hợp hầu
như không thể phân biệt rạch ròi giữa các phương châm. Chẳng hạn, phương châm về lượng
có một số điểm trùng với phương châm về quan hệ, phương châm về chất có một số nội
dung trùng với phương châm cách thức…
Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, việc sử dụng các phương châm hội thoại khá
phổ biến. Tuân thủ phương châm hội thoại sẽ giúp hoạt động giao tiếp đạt hiệu quả. Ngược
lại, vi phạm phương châm hội thoại sẽ hạn chế hoạt động giao tiếp. Tuy nhiên, qua việc phân
tích, miêu tả một số truyện cười thì yếu tố cơ bản của tiếng cười lại xuất phát từ việc không
tuân thủ phương châm hội thoại.
5BKẾT LUẬN
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, hội thoại là phương tiện phổ biến nhất, nó được thể
hiện một cách phong phú nhằm đáp ứng cho nhiều mục đích giao tiếp khác nhau, trong
những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
Nghiên cứu hội thoại, đặc biệt là nghiên cứu hội thoại trong một thể loại văn học cụ
thể như truyện cười là một đề tài có tính chất mở và mang đến nhiều sự lí thú trong quá trình
thực hiện. Chúng thể hiện sự đối đáp đa dạng giữa người nói và người nghe, sự kết hợp
nhuần nhuyễn trong hoạt động giao tiếp của các nhân vật trong tác phẩm. Với luận văn này
chúng tôi muốn mang đến một góc nhìn mới trong việc phân tích truyện cười, lí giải các yếu
tố mang đến tiếng cười – góc nhìn của lí thuyết hội thoại. Trong quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn này, chúng tôi nhận thấy:
1. Những điều mà chúng tôi đã làm được:
- Tổng hợp một số công trình nghiên cứu của các tác giả về truyện cười ở bình diện
ngôn ngữ học và văn học.
- Trình bày có hệ thống những lí thuyết về ngữ dụng học làm cơ sở để để định hướng
trong quá trình thực hiện luận văn, chủ yếu đi vào những nội dung: khái lược về hội thoại,
nguyên lí hội thoại – nguyên lí cộng tác (phương châm chất, phương châm lượng, phương
châm cách thức, phương châm quan hệ), cấu trúc hội thoại (cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại,
hành vi ngôn ngữ).
- Tiến hành khảo sát, phân loại ngữ liệu và đưa ra những số liệu thống kê làm cơ sở
cho việc miêu tả, phân tích đặc điểm của các đơn vị trong cấu trúc hội thoại. Luận văn chỉ ra
mối liên hệ giữa những hình thức ngôn ngữ và các đối ngôn sử dụng những hình thức ấy. Có
thể rút ra một số đặc điểm hội thoại đáng lưu ý trong Tiếng cười dân gian Việt Nam: Về cuộc
thoại, chủ yếu là những cuộc thoại ngắn, sử dụng phổ biến là hình thức song thoại, phần mở
thoại có khi được thể hiện bằng lời dẫn của tác giả, phần kết thoại có trường hợp không xuất
hiện do yêu cầu của thể loại. Về cặp thoại, phổ biến nhất là cặp thoại một tham thoại và cặp
thoại hai tham thoại, cặp thoại phức tạp chiếm số lượng hạn chế. Về tham thoại, tham thoại
dẫn nhập chủ yếu sử dụng hành vi hỏi, tham thoại hồi đáp đôi khi vắng mặt để tạo nên cấu
trúc “hẫng” để tạo bất ngờ cho người đọc, có tham thoại kiêm nhiệm cả chức năng hồi đáp –
dẫn nhập. Về hành vi ngôn ngữ, luận văn đề cập đến hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi
ngôn ngữ gián tiếp, mỗi loại hành vi ngôn ngữ đều gắn với những lời thoại dẫn nhập, hồi đáp
và hồi đáp – dẫn nhập…
- Trên cơ sở cấu trúc hội thoại, luận văn miêu tả cấu trúc cơ bản của một câu chuyện
cười từ đó xác định những thành phần thường trực và những thành phần không thường trực,
những yếu tố làm cơ sở cho việc xác lập nội dung trong phân tích hội thoại.
- Miêu tả, phân tích các phương châm hội thoại liên quan đến các hình thức diễn đạt
trong truyện cười. So sánh sự tuân thủ và không tuân thủ các phương châm, từ đó nêu rõ sự
vi phạm về phương châm trong từng tình huống giao tiếp cụ thể. Chính sự vi phạm phương
châm hội thoại là một trong những phương thức cơ bản tạo nên tiếng cười.
- Chỉ ra tầm quan trọng của các phương châm hội thoại trong thực tế giao tiếp, nhất là
trong điều kiện tiếng Việt này càng phát triển, vốn từ ngữ ngày càng phong phú như hiện
nay. Việc tuân thủ các phương châm hội thoại sẽ tạo nên những tác dụng lớn lao, mà cái đích
cuối cùng là hiệu quả trong hoạt động giao tiếp. Sự tương tác giữa các cá nhân giao tiếp chỉ
đạt được mục đích khi các phương châm hội thoại được tôn trọng.
- Làm phong phú thêm cách tiếp cận của lí thuyết hội thoại khi đi vào tìm hiểu, phân
tích một thể loại văn học.
2. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan và chủ quan mà luận văn không tránh
khỏi những hạn chế. Chẳng hạn, luận văn có những nội dung chỉ dừng lại ở mức độ giới
thiệu và phân tích mang tính chất gợi mở chứ chưa đưa ra được những nhận định khái quát.
Hi vọng trong tương lai gần, chúng tôi sẽ trở lại tiếp tục nghiên cứu đề tài một cách sâu hơn,
đồng thời khắc phục những hạn chế trong hiện tại.
3. Sau luận văn này vẫn còn nhiều nội dung cần đi sâu vào tìm hiểu như: vấn đề lập
luận và hàm ý, các hình thức liên kết của cặp thoại, những tín hiệu kết thúc lượt lời, diễn
ngôn và văn hóa... Tuy có những vấn đề đã được nghiên cứu, nhưng nếu có điều kiện, người
viết mong muốn đi sâu vào nghiên cứu một nội dung nào đó trong những vấn đề trên.
4. Chúng tôi hi vọng luận văn này sẽ là tài liệu hữu ích cho những ai muốn học tập,
nghiên cứu và truyện cười, về hội thoại, đặc biệt là ứng dụng vào việc dạy học tiếng Việt
trong nhà trường phổ thông.
6BTÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo (1992), TIếng Việt 12, Nxb Giáo dục.
2) Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
3) Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học (T2) – Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục.
4) Nguyễn Thị Phương Chi (2003), “Một số cơ sở của chiến lược từ chối”, Ngôn ngữ, Số
8, tr. 18 – 28.
5) Hoàng Dũng – Bùi Mạnh Hùng (2007), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học Sư
phạm Tp. Hồ Chí Minh.
Lương Ngọc Danh (2004), Những hình thức diễn đạt trong tiếng Việt có liên quan đến 6)
phương châm hội thoại (khóa luận tốt nghiệp), Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ
Chí Minh.
7) Nguyễn Đức Dân (1987), “Hiện tượng mơ hồ trong nghệ thuật gây cười”, Người Hà
Nội, Số 51.
8) Nguyễn Đức Dân (1996), Logic và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
9) Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục.
10) Nguyễn Đức Dân (2003), Nỗi oan thì, là, mà, Nxb Trẻ.
11) Nguyễn Đức Dân (2003), “Những nghịch lí ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ, Số 4, tr. 1 – 13.
12) Nguyễn Thị Đan (1994), Bước đầu tìm hiểu cấu trúc hội thoại, cuộc thoại, đoạn thoại
(luận văn thạc sĩ), Trường Đại học Sư phạm I, Hà Nội.
13) Lê Đông (1994), “Vai trò của thông tin tiền giả định trong cấu trúc ngữ nghĩa – ngữ
dụng của câu hỏi”, Ngôn ngữ, Số 2, tr. 41 – 47.
14) Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
15) Nguyễn Thiện Giáp (1998), Cơ sở ngôn ngữ học, Nxb Khoa học Xã hội.
16) Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
17) Nguyễn Thiện Giáp (1999), Phân tích hội thoại, Nxb Khoa học Xã hội.
18) Nguyễn Thị Ngọc Hân (2006), Đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực
tiếp trong tiếng Việt giao tiếp (luận văn thạc sĩ), Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ
Chí Minh.
19) Dương Tuyết Hạnh (1999), Cấu trúc tham thoại (luận văn thạc sĩ), Trường Đại học Sư
phạm I, Hà Nội.
20) Nguyễn Thị Hai (2001), “Hành động từ chối trong tiếng Việt hội thoại”, Ngôn ngữ, Số
1, tr. 1 – 12.
21) Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb Giáo dục.
22) Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt – mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa,
Nxb Giáo dục.
23) Phạm Thị Hằng (2003), “Yếu tố ngôn ngữ với việc biểu đạt cái cười trong ca dao
người Việt”, Ngữ học trẻ, tr. 23 – 28.
24) Trần Hoàng (2002), “Những sắc thái độc đáo của tiếng cười dân gian Nam Bộ qua
truyện kể Ba Phi”, Ngôn ngữ, Số 8, tr. 8 – 15.
25) Nguyễn Thị Thu Hương (2003), “Hiệu lực tại lời của câu hỏi có – không trong tiếng
Anh và tiếng Việt”, Ngôn ngữ và đời sống, tr. 37 – 38.
26) Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội – những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa
học xã hội.
27) Nguyễn Văn Khang (2003), “Ngôn ngữ tự nhiên và vấn đề chuyển mã trong giao tiếp
hội thoại (trên cơ sở tư liệu trạng thái đa ngữ ở xã hội Việt Nam)”, Ngôn ngữ, Số
1, tr. 13 – 25.
28) Nguyễn Đăng Khánh (2008), Lối nói vòng trong giao tiếp tiếng Việt (luận án tiến sĩ),
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
29) Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2002), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
30) Vũ Ngọc Khánh (2003), Hành trình vào xứ sở cười, Nxb Giáo dục.
31) Hồ Lê (1993), Cú pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
32) Hồ Lê (1996), “Hành vi lời nói xin lỗi trong tiếng Việt”, Ngữ học trẻ, tr. 192 – 195.
33) Đỗ Thị Kim Liên (1999), Ngữ nghĩa lời hội thoại, Nxb Giáo dục.
34) Từ Thị Thu Mai (1997), Đặc điểm ngữ dụng của truyện cười dân gian Việt Nam (luận
văn thạc sĩ), Đại học Sư phạm Huế.
35) Hoàng Thị Huỳnh Ngân (2008), Bước đầu tìm hiểu lời thoại trong văn xuôi Vi Hồng
(luận văn thạc sĩ), Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
36) Triều Nguyên (1999), “Các phương thức lạ hóa trong nghệ thuật biểu đạt truyện
cười”, Tạp chí Sông Hương.
37) Bùi Mạnh Nhị - Nguyễn Tấn Phát (1989), Truyện cười dân gian Nam Bộ, Nxb Tp. Hồ
Chí Minh.
38) D. Numan (1997), Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch, Dẫn nhập phân tích diễn ngôn,
Nxb Giáo dục.
39) Hoàng Phê (chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
40) Đào Nguyên Phúc (2003), “Biểu thức rào đón trong hành vi ngôn ngữ xin phép tiếng
Việt trên cơ sở lí thuyết về phương châm hội thoại của P. Grice”, Ngôn ngữ, Số 6,
tr. 24 – 29.
41) Đào Nguyên Phúc (2004), “Một số chiến lược lịch sự trong hội thoại Việt ngữ có sử
dụng hành vi ngôn ngữ xin phép”, Ngôn ngữ, Số 10, tr. 49 – 57.
42) Nguyễn Hồng Phong (1957), Truyện tiếu lâm, Nxb Văn Sử Địa.
43) F. de Saussure (1977), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã hội.
44) Trịnh Sâm (2000), “Nghệ thuật tổ chức văn bản trong truyện cười bác Ba Phi”, Ngôn
ngữ, Số 12.
45) Trịnh Sâm (2004), Đi tìm bản sắc tiếng Việt, Nxb Trẻ.
46) Chu Thị Thanh Tâm (1995), “Ngữ pháp hội thoại và việc nghiên cứu đề tài diễn
ngôn”, Ngôn ngữ, Số 4, tr. 52 – 58.
47) Đoàn Thị Tâm (2006), Một số phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt
(luận văn thạc sĩ), Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
48) Văn Tân (1957), Tiếng cười Việt Nam, Nxb Văn Sử Điạ.
49) Tập thể tác giả (2004), Ngữ văn 9 (Tập 1), Nxb Giáo dục.
50) Tập thể tác giả (2008), Ngữ văn 10 (Tập 1), Nxb Giáo dục.
51) Phạm Văn Tình (2000), “Tỉnh lược yếu tố trong cấu trúc – một thủ pháp trong các
truyện cười”, Ngôn ngữ, Số 4, tr. 7 – 10.
52) Phạm Văn Thấu (1997), “Hiệu lực ở lời gián tiếp – cơ chế và sự biểu hiện”, Ngôn
ngữ, Số 1, tr. 22 – 29.
53) Trần Ngọc Thêm (2000), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
54) Trần Ngọc Thêm (2003), “Ngữ dụng học và văn hóa ngôn ngữ học”, Ngữ học trẻ, tr. 7
– 13.
55) Huỳnh Văn Thông (1996), “Tìm hiểu một vài vấn đề kết thúc lượt lời trong hội thoại
Tiếng Việt”, Ngôn ngữ, Số 4, tr. 64 – 70.
56) Nguyễn Thị Thuận (1999), “Phương tiện dụng học (hành động ngôn ngữ) của các
động từ tình thái “nên”, “cần”, “phải””, Ngôn ngữ, Số 1, tr. 60 – 77.
57) Phan Văn Tứ (1996), Chuyện vui ngữ nghĩa, Nxb Văn hóa Thông tin.
58) Lê Định Tường (2002), “Hoàn cảnh cầu khiến trong hội thoại”, Ngữ học trẻ, Số 10, tr.
259 – 264.
59) Trịnh Thanh Trà (2002), “Hành vi điều khiển trong lời nói hàm ẩn”, Ngôn ngữ và đời
sống, Số 4, tr. 8 – 11.
60) Trịnh Thanh Trà (2002), “Các tham thoại hồi đáp cho các tham thoại điều khiển”, Ngữ
học trẻ, tr. 251 – 254.
61) Bùi Khắc Viện (1980), “Tiếng cười trong phong cách ngôn ngữ của Bác qua tác phẩm
bằng tiếng Việt”, Ngôn ngữ, Số 2, tr. 1 – 8.
62) Mai Thị Hảo Yến (2000), “Lí thuyết hội thoại và những đặc điểm của thoại dẫn”,
Ngôn ngữ, Số 8, tr. 33 – 40.
63) Nguyễn Thị Hoàng Yến (2002), “Hành vi chê gián tiếp dưới dạng các tham thoại
trong hội thoại”, Ngữ học trẻ, tr. 273 – 278.
64) Nguyễn Thị Hoàng Yến (2003), “Thử tìm hiểu một số chức năng sử dụng của hành vi
chê trong hội thoại”, Ngữ học trẻ, tr. 178 – 180.
65) Nguyễn Thị Hoàng Yến (2006), “Hàm ý hội thoại trong các truyện cười dân gian:
Khoe của và Hai kiểu áo”, Ngôn ngữ & Đời sống, Số 3, tr. 5 – 7.
66) George Yule (1997) – Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch, Dụng học – Một số
dẫn luận Nghiên cứu Ngôn ngữ của Đại học Tổng hợp Oxford, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
67) Nguyễn Như Ý – Chủ biên (1998), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb
Giáo dục.
7BTÀI LIỆU TRÍCH DẪN
68) Minh Anh (2005), Truyện cười đó đây, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà Nội.
69) Vương Mộng Bưu (2001), Truyện cười dí dỏm thông minh, Nxb Văn hóa – Thông tin
Hà Nội.
70) Trương Chính, Phong Châu (2006), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb Lao động –
Xã hội.
71) Trần Thúy Hằng (2001), Truyện cười đó đây, Nxb Thanh Niên.
72) Thanh Thanh (2004), Tiếu lâm khôi hài, Nxb Thanh Niên.
Trần Mạnh Thường (2000), Truyện cười Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà Nội.