BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Hoàng Kim Oanh

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số

: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS. NGUYỄN THỊ THANH XU ÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS – TS Nguyễn Thị Thanh Xuân,

người đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và

hoàn thành bản luận văn này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam,

ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học – trường Đại học Sư phạm thành phố

Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.

Tôi cũng xin được gửi lời cám ơn tự đáy lòng tới Ban giám hiệu nhà trường, trường

Trung học phổ thông Vũng Tàu – Thành phố Vũng Tàu, tới gia đình và những người bạn thân

thiết đã động viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa học.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 8 năm 2008.

Hoàng Kim Oanh

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Từ khi ra đời cho đến nay, truyện ngắn đã có những bước phát triển đáng kể, gặt hái được

nhiều thành tựu quan trọng và tạo dựng được một vị trí vững chắc bên cạnh các thể loại văn học

khác. Gọn, cơ động, dễ dàng công bố trên báo chí, khởi đi từ một tình huống, một khoảnh khắc

mà có thể hé lộ cả một số phận, một tính cách của một con người cùng một trạng thái nhân sinh

- truyện ngắn quả thật là một món ăn tinh thần hấp dẫn và có tầm phổ biến rộng rãi.

Nói đến truyện ngắn Việt Nam đương đại, không thể không nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp -

người đã góp phần làm cho đời sống văn học thời kì đổi mới trở nên sôi nổi và khởi sắc hơn

bao giờ hết. Tràn đầy tinh thần cách tân, Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng một cách tối đa khả

năng của ngôn ngữ và đặc trưng của thể loại để biểu đạt một cách cao nhất ý tưởng, tình cảm

của mình. Chính vì sự mới mẻ ấy mà từ khi xuất hiện đến nay, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên

dư luận. Ý kiến về truyện ngắn của ông, dù khen hay chê, tất thảy đều mạnh mẽ, quyết liệt và

thậm chí trái ngược nhau như nước với lửa. Thời gian trôi qua, những xúc cảm nóng bỏng về

những gì ông viết ở người đọc chuyển dần sang sự nghiền ngẫm kĩ lưỡng. Nhiều người bắt đầu

đi sâu tìm hiểu, phân tích, đánh giá tài năng văn chương của ông một cách khách quan hơn qua

những trang viết thận trọng.

Sau đúng hai mươi năm xuất hiện trên văn đàn, ngày 9 tháng 7 năm 2007, đại sứ Pháp tại

Việt Nam đã tổ chức trọng thể buổi lễ trao tặng huân chương Văn học nghệ thuật của Pháp cho

Nguyễn Huy Thiệp. Huân chương này là một phần thưởng đầy vinh dự cho Nguyễn Huy Thiệp,

điều không phải bất kì nhà văn nào cũng có thể đạt được. Nó cũng còn là một minh chứng cho

tầm ảnh hưởng rộng lớn của tác phẩm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp đối với độc giả trên

thế giới.

Đó là những lí do chính thôi thúc chúng tôi lựa chọn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề

tài nghiên cứu cho bản luận văn này.

2. Lịch sử vấn đề

Xuất hiện vào những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, Nguyễn Huy Thiệp đã

khuấy động cả một bầu không khí sinh hoạt văn hoá, văn nghệ nước nhà. Tác phẩm của ông,

với những hiệu ứng mà nó gây nên, đã góp phần phá vỡ thế bình ổn của văn học dân tộc trong

suốt hai cuộc kháng chiến, đồng thời tạo nên sự chuyển nhịp, tăng tốc cho những bước đi vốn

bình thường, chậm rãi của lí luận và phê bình văn học đương đại Việt Nam. Các ý kiến xung

quanh “hiện tượng” Nguyễn Huy Thiệp trong vòng hơn hai thập kỉ qua phải tính đến con số

hàng trăm và chắc hẳn con số này ngày càng một nhiều thêm.

Tháng 1 năm 1987, “Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát”, tác phẩm đầu tay

của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng, song - tác phẩm này chưa gây được tiếng vang trong

dư luận. Phải đến khi “Tướng về hưu” trình làng trên báo Văn nghệ số 24 ra ngày 20 tháng 6

năm 1987, và đặc biệt từ sau khi chùm truyện “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ” liên tiếp ra

mắt bạn đọc từ tháng 4 năm 1988, dư luận về tác phẩm của ông mới trở nên sôi nổi, tạo thành

hai xu hướng: khẳng định và phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo.

Chủ yếu tập trung vào chùm truyện “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết”, những người phê

phán Nguyễn Huy Thiệp thường có cách làm khá giống nhau. Hoặc đối chiếu các hình tượng

hư cấu trong trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp với các nhân vật lịch sử, văn hoá đã trở

nên khá quen thuộc, hoặc đồng nhất văn học với lịch sử, từ đó họ đi đến kết luận: những hình

tượng Quang Trung, Gia Long, Nguyễn Du… trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp là sự xuyên

tạc, bóp méo lịch sử. Nhà sử học Tạ Ngọc Liễn, lúc thì cảnh báo: “Chúng ta phải nhắc nhở anh

cần định hướng lại một cách chín chắn hơn khi ngồi trước trang giấy, đặc biệt, cần kiểm tra lại

vốn tri thức văn hoá, vốn hiểu biết lịch sử trong hành trang anh đang có nếu như anh vẫn tiếp

tục các đề tài lịch sử” [42, tr. 170] lúc thì chỉ trích khá gay gắt, rằng Nguyễn Huy Thiệp là

người có “nhận thức phiến diện”, “trình độ học vấn chưa đầy đủ” [42, tr. 176],

cách viết của ông là “xúc phạm danh dự dân tộc” … Từ góc nhìn lịch sử, Tạ Ngọc Liễn yêu

cầu Nguyễn Huy Thiệp: “không được hư cấu xuyên tạc một cách tuỳ tiện, giống như không ai

được phá hoại các di tích lịch sử đã được xếp hạng” [42, tr. 471]. Cùng một cách nhìn thiếu

thiện cảm với chùm truyện về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thúy Ái đã giật

một cái “title” khá ấn tượng cho một bài viết của mình “Viết như thế cũng là một cách bắn

súng lục vào quá khứ” [42, tr. 203]. Một vài người khác còn quả quyết rằng Nguyễn Huy

Thiệp thiếu cái tâm trong sáng của người cầm bút.

Ở xu hướng khẳng định Nguyễn Huy Thiệp, người phê bình thường đưa ra các lập luận xác

đáng, dựa trên cơ sở phân tích thấu đáo những đóng góp của nhà văn trên cả hai phương diện tư

tưởng và nghệ thuật. Đặc biệt, nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: trong những sáng tác của

Nguyễn Huy Thiệp, những cách tân nghệ thuật là rất cần thiết cho một khuynh hướng văn học

mới. Năm 2001, trong lời tựa cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (cuốn sách tập hợp khá nhiều bài

viết về Nguyễn Huy Thiệp), Phạm Xuân Nguyên khẳng định: “…một hướng kết tinh đầy ấn

tượng của thời kì đổi mới văn học là sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Hiện tượng Nguyễn Huy

Thiệp – đó là thành quả của đổi mới”. [42, tr. 5]

Lại Nguyên Ân là một trong những người đầu tiên bênh vực Nguyễn Huy Thiệp. Phản bác

lại các ý kiến phê phán đã nói ở trên, ông viết : “đọc văn phải khác với đọc lịch sử”, và mạnh

dạn đưa ra quan điểm riêng của mình: “qua những Kiếm sắc, Vàng lửa. Tôi nghĩ là anh có điểm

nhấn riêng, theo kiểu văn học” [42, tr. 186, 187]. Văn Tâm khẳng định: “không thể đọc truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp (những sáng tạo thẩm mỹ) bằng đôi mắt sử ký giáo khoa thư như nhà

nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn đã làm” [42, tr. 287]. Nguyễn Văn Lưu cho rằng: Nguyễn Huy Thiệp

không hề “bôi đen” hay “xuyên tạc lịch sử”. Anh chỉ viết theo cách cảm, cách nghĩ của riêng

mình. Nguyễn Huy Thiệp chỉ mượn lịch sử để bộc lộ “thái độ đối với hiện tại” [42, tr.311].

Nguyễn Văn Bổng cũng quả quyết “anh không định qua các nhân vật ấy đánh giá lại lịch sử,

đánh giá lại bản thân các nhân vật. Anh chỉ mượn các nhân vật và hoàn cảnh lịch sử để nói

chuyện khác” [42, tr. 148]. Các ý kiến của Lê Xuân Giang, Trịnh Bá Đĩnh cũng có những phát

hiện khá lí thú về hình tượng nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp, họ chứng minh rằng thông qua

việc xây dựng hình tượng nhân vật, Nguyễn Huy Thiệp nhằm đối thoại với bạn đọc. Như vậy,

trong sáng tác của mình, Nguyễn Huy Thiệp không đi chệch ra khỏi những vấn đề liên quan

đến con người. Và ở các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử, những gì nhà văn thể hiện cũng

không nằm ngoài mục đích ấy.

Trước những vấn đề về đời sống xã hội mà Nguyễn Huy Thiệp đặt ra trong các tác phẩm,

Mai Ngữ khẳng định: tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã “gây bất ngờ, sửng sốt cho người

đọc, khiến mọi người phải suy nghĩ nghiêm túc về thực trạng xã hội hiện nay, về sức mạnh và

khả năng của văn học” [42, tr. 418]. Đi vào khảo sát một tác phẩm cụ thể, Vũ Đức

Phúc nhận thấy: với “Tướng về hưu”, “thực trạng xã hội thể hiện qua thái độ lạnh lùng của

nhà văn như một liều thuốc đắng thức tỉnh con người”. Hoàng Ngọc Hiến bổ sung cho luận

điểm trên bằng những nhận xét cô đọng, thấu đáo: “Dẫu là kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy

Thiệp trước sau vẫn viết về cuộc sống ngày hôm nay” [42, tr. 6]. Trước những sự thật, những

xấu xa được phơi bày trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Đông La thẳng thắn đánh giá:

“Nguyễn Huy Thiệp đã xé toạc cái khách sáo của con người ở chốn đông đúc ấy để viết về cái

lõi tâm lí, cái tâm lí thật, cái tôi của con người. Từ cái cao cả đến cái thấp hèn, từ phù du ảo

huyền đến thông thục. Đó là những ao ước, khát khao, những toan tính mưu mô, kể cả những

ham muốn bản năng…Nhiều khi anh đẩy đến tận cùng khiến người đọc phải e ngại” [42, tr.

132]. Bằng tấm lòng trân trọng và thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến

đồng cảm sâu sắc với những trăn trở, xót xa của nhà văn khi phải đặt bút phơi bày phần khuất

tối trong mỗi con người “nói về sự đốn mạt, hèn kém của con người, câu văn Nguyễn Huy Hiệp

thường man mác cảm giác tê tái. Đằng sau cảm giác này là nỗi đau nhân tình. Một nỗi đau âm

thầm, lặng lẽ nhưng sâu sắc…Ngòi bút trào phúng của Nguyễn Huy Thiệp vừa trào phúng vừa

xót xa”. [42, tr. 14]

Những truyện ngắn lấy cảm hứng từ huyền thoại được công luận tán thưởng hoàn toàn.

Nguyễn Vy Khanh có những phát hiện về thi liệu dân gian trong tác phẩm của Nguyễn Huy

Thiệp: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ

dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá. Truyện và thơ của ông hay xen những đoạn thơ

mà tác giả coi như là một phương tiện diễn tả dễ dàng hơn văn truyện”. [42, tr. 380]

Về chất thơ trong các truyện ngắn và việc Nguyễn Huy Thiệp hay lồng thơ vào trong mỗi

sáng tác, T.N.Filimonova đã có hẳn một bài viết dài 15 trang. Ở đó, nhà nghiên cứu người Nga

này khẳng định: khi sử dụng thủ pháp này, Nguyễn Huy Thiệp đã “làm cho văn của anh trở nên

rất đặc biệt, dễ nhận ra” và đưa ra nhận xét “Hầu như mỗi truyện ngắn của anh đều hiện diện

vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ … yếu tố dân gian trong tác phẩm

của anh là một đề tài rộng lớn” [42, tr. 156]. Theo ông, việc Nguyễn Huy Thiệp sử dụng các

yếu tố dân gian và hiện đại hoá, cách điệu hoá chúng không gì khác hơn là để “nêu bật được

những vấn đề vĩnh cửu về cái thiện và cái ác, về số phận đang dằn vặt con người hiện đại”.

[42, tr. 164]

Về cách viết của Nguyễn Huy Thiệp, tiến sĩ sử học người Úc – Greg Lockhart đã nhận xét:

“cách viết của Nguyễn Huy Thiệp là cách viết của một nghệ sĩ khách quan đứng ở ngoài truyện

nhìn vào. Anh ấy không bị vướng chân vào đời sống nhân vật, vừa nói về đời sống vĩ đại của

vua Gia Long, vừa nói về đời sống của một đồ tể, của một bác sĩ phá thai, thậm chí vừa nói đến

một người Tây, thì số phận con người tự bộc lộ chỉ qua lời khái quát và hành động của nó” [42,

tr. 112]. Để lí giải vì sao lại chọn dịch tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh, ông

khẳng định: tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp không chỉ là đóng góp cho văn học Việt Nam mà

“cũng là đóng góp cho văn học thế giới”, sở dĩ như vậy “chính là vì tính chất nhân bản của

chúng”. [42, tr. 115]

Một điều thật thú vị cần phải nói thêm rằng, ngay cả những người từng lên án chỉ trích gay

gắt ông vẫn không thể không thừa nhận tài năng của cây bút truyện ngắn độc đáo này. Bên cạnh

những lời phê phán Nguyễn Huy Thiệp, nhà sử học Tạ Ngọc Liễn viết: “mặc dầu mới xuất

hiện, song anh đã sớm chứng tỏ được mình là một nhà văn có bản sắc riêng, mới mẻ, bạo dạn,

súc tích gây được chú ý thật sự của độc giả”. [42, tr. 170]

Cùng với các bài viết đã được công bố rộng rãi trên sách báo mà những người yêu mến

Nguyễn Huy Thiệp biết tới, còn một số lượng khá lớn các bài viết được đưa lên mạng internet

rải rác trong khoảng hơn chục năm gần đây. Những tác phẩm đã từng một thời gây bao sóng gió

trên văn đàn cũng được nhìn nhận, đánh giá lại một cách bình tĩnh hơn. Khuê Các (trong

“Nhân đọc “Vàng Lửa” - nguồn Talawas năm 2005) khẳng định: “Truyện ngắn “Vàng Lửa”

của Nguyễn Huy Thiệp có ba mảng, chính xác hơn là cuộc đời của ba nhân vật: Gia Long,

Nguyễn Du và Phăng. Nguyễn Huy Thiệp không hề viết tiểu sử của ba nhân vật ấy, nhưng

thông qua họ, Thiệp muốn đi sâu vào các chủ đề: Quyền lực, quyền lợi và vai trò của trí thức

nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng trong lịch sử nhân loại”. Bài “Triết lí văn chương trên

trang viết Nguyễn Huy Thiệp” trên Evăn cho rằng“Bởi không như Nam Cao, cuối cuộc hành

trình đó, Nguyễn Huy Thiệp không đưa ra bất kỳ một chân lý nào. Cái ông đem đến cho người

đọc lại là một sự hoài nghi về chân lý”. Trong “Đọc lại “Sang sông” (Evan ngày 21.1.2005) có

đoạn “Mười một con người, mười một gương mặt mờ nhạt. Theo tiêu chí của chủ nghĩa hiện

thực truyền thống, đó là những nhân vật không đạt yêu cầu cả khái quát hóa lẫn cá biệt hóa.

Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đâu có miêu tả nhân vật. Người trên đò là một tập hợp đủ các thành

phần nam phụ lão ấu, quân tử tiểu nhân, thiện và ác... Rõ ràng chuyến đò là sự mã hóa chúng

sinh hữu tình trôi lăn theo bánh xe sinh tử luân hồi… Nói tóm lại, đó là chúng sinh thời mở

cửa, thời kinh tế thị trường”. Nếu nhiều độc giả khó tính chê Nguyễn Huy Thiệp rằng: trong

truyện ngắn này ông đã đưa ra một hình mẫu nhân vật tên tướng cướp phi thực tế thì tác giả bài

viết trên lại có cách lí giải khác: Nguyễn Huy Thiệp đã “phá vỡ mô hình, ném vào giữa thế gian

một "tên cướp lương thiện" hoang dã, chưa qua một lò đúc sẵn nào. Nguyễn Huy Thiệp chỉ đưa

ra những mảnh vụn về thế giới nhân sinh. Người đọc mặc tình sắp xếp, lựa chọn, suy ngẫm.

Tên cướp là một mảnh vụn đó. Cho dù hắn là kẻ xấu, ta sẽ chẳng thể có căn cơ nào để đào thải

hắn ra khỏi thế giới loài người, cái thế giới mà Nho giáo đã dứt khoát khẳng định “nhân chi sơ

tính bản thiện”.

Soi sáng tác phẩm của một số nhà văn bằng lí thuyết văn học hậu hiện đại, tác giả La Khắc

Hoà khẳng định: “Có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài

những câu chuyện thể hiện tâm trạng và cảm quan hậu hiện đại”. Không chỉ vậy, ông còn có

những phát hiện xác đáng: “Khó tìm thấy nhân vật chính diện trong sáng tác của Nguyễn Huy

Thiệp và Phạm Thị Hoài. Đọc truyện ngắn, truyện dài của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy

Thiệp ta thường nghe thấy một giọng điệu kể chuyện lạnh lùng, khinh bạc, thậm chí tàn nhẫn…

“Cuộc đời vô nghĩa” là tứ truyện chi phối mạch vận động của câu chữ, hình ảnh trong sáng tác

của Nguyễn Huy Thiệp.” [20]. Và hơn thế nữa, ông cho rằng, cùng với Phạm Thị Hoài, Nguyễn

Huy Thiệp là người khởi xướng ra một xu thế mới trong kĩ thuật viết truyện ngắn: “khi Nguyễn

Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài xuất hiện, ta thấy có những dấu hiệu về một cuộc chia tay với

nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó... Khi sự hồ nghi tồn tại

đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến nguyên tắc lạ hoá làm nền

tảng cấu trúc hình tượng”. Nguyễn Thị Minh Thái cũng đánh giá rất cao thủ pháp “lạ hoá”

trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp: “Tiếng Việt được viết lạ chưa từng thấy. Cung cách

tưởng tượng và phản ánh hiện thực cuộc sống người Việt được “lạ hoá” một cách hiện đại

cũng chưa từng thấy” “Nguyễn Huy Thiệp kể một cách trầm tĩnh, ém nhẹm một cái buồn nhân

thế dưới cái nhìn “Dân chủ hoá”. Dường như nhà văn này thật kinh hãi sự giáo huấn thô lậu,

lộ liễu và chỉ muốn khơi dậy, đánh thức sự bất ổn trong người đọc” [68]. Châu Minh Hùng

cũng tìm thấy ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp những điểm cách tân độc đáo: “Đến Nguyễn

Huy Thiệp, hình thức đa thanh như một tổ chức nghệ thuật mới được phát huy một cách triệt

để. Nguyễn Huy Thiệp tạo ra nhiều tiếng nói của nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau bên

ngoài môi trường xã hội để tạo ra cuộc đối thoại không khoan nhượng giữa các nhân vật”. [24]

Trên đây, chúng tôi đã điểm qua một số ý kiến khen chê có thể được coi là khá tiêu biểu về

sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Mặc dù mỗi bài có những phát hiện và cách lí giải riêng nhưng tựu

trung lại, đa số các ý kiến đó đều gặp nhau ở chỗ thừa nhận: Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng

văn chương lớn, đáng để chúng ta quan tâm. Tất cả những ý kiến trên có tính chất định hướng,

gợi mở, giúp cho chúng tôi có điều kiện để hiểu hơn về văn chương cũng như con người

Nguyễn Huy Thiệp.

Một số các khoá luận, tiểu luận, luận văn tốt nghiệp đại học, sau đại học cũng chọn tác phẩm

của Nguyễn Huy Thiệp để nghiên cứu.

Trong quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi đã có trong tay một số tiểu luận, luận văn nghiên

cứu về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tiểu luận “Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp” [76], bước đầu đưa ra những kiến giải về một số yếu tố nghệ thuật cụ thể trong sáng tác

Nguyễn Huy Thiệp như: không gian và thời gian nghệ thuật cùng các ý kiến xung quanh truyện

ngắn của ông … Luận văn tốt nghiệp đại học “Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp từ hiệu quả nghệ

thuật đến thủ pháp nghệ thuật”, đã tiến hành khảo sát những hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm

văn học Nguyễn Huy Thiệp thông qua những thủ pháp nghệ thuật mà ông sử dụng trong tác

phẩm. Luận văn thạc sĩ khoa học “Chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” [23], đi

sâu vào nghiên cứu chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng như các phương thức

nghệ thuật nhà văn đã sử dụng để tạo nên chất thơ ấy.

Các công trình nghiên cứu khoa học này đã ít nhiều đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu và bước

đầu đưa ra được những lí giải khá sâu sắc về một số phương diện cụ thể trong sáng tác Nguyễn

Huy Thiệp. Tuy nhiên, để hiểu một cách đầy đủ hơn về Nguyễn Huy Thiệp nhằm xác định các

đóng góp của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại, chúng ta cần có một cái nhìn toàn diện,

đa chiều hơn. Và, có lẽ để có những cơ sở khách quan và chính xác, chúng ta cần đi sâu tìm

hiểu những đặc trưng chủ yếu trong nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn tài năng này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nguyễn Huy Thiệp viết được nhiều thể loại: Truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết, tiểu luận phê

bình, trong đó, thể loại làm nên tên tuổi của ông là truyện ngắn. Ở thể loại này, Nguyễn Huy

Thiệp có tất cả 42 truyện. Trong đó, có những chùm truyện gồm nhiều truyện nhỏ: “Những

ngọn gió Hua Tát” (gồm 10 truyện nhỏ), “Con gái Thủy thần” (gồm 3 truyện), “Chút thoáng

Xuân Hương” (gồm 3 truyện), chùm “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết”… Trong khuôn khổ

đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, trong tương

quan so sánh với truyện ngắn của một số nhà văn khác, để từ đó rút ra những đặc trưng cơ bản

của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để triển khai đề tài Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi đã vận dụng

những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này giúp chúng tôi tiếp cận và khảo sát

trực tiếp văn bản và đưa ra những luận điểm khái quát của luận văn.

Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Xem xét các yếu tố tạo nên cấu trúc tác phẩm, tìm ra

nguyên tắc chi phối sự hình thành của chúng. Từ đó, rút ra kết luận về nguyên tắc chi phối việc

sáng tạo toàn bộ cấu trúc tác phẩm.

Phương pháp so sánh - đối chiếu: Là phương pháp chính, nhằm làm nổi bật sự khác biệt

của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp so với các nhà văn khác trên các phương diện: cảm hứng

nghệ thuật, phương pháp sáng tác, nghệ thuật biểu hiện…

Những phương pháp này sẽ được chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình

nghiên cứu.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Với đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ tiếp cận được những khía cạnh cơ bản nhất đã làm

nên đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, để từ đó có thể xác định những đóng góp của

nhà văn trong lịch sử truyện ngắn nói riêng, trong đời sống văn học nói chung, cũng như chỉ ra

được sự thống nhất trong quan điểm nghệ thuật và thực tiễn sáng tác của ông.

5. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm có 154 trang, ngoài phần Mở đầu (12 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham

khảo (6 trang) - Phần nội dung chính của luận văn (gồm có 133 trang) chia 3 chương:

Chương 1: Truyện ngắn và khái quát về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Trong chương này, chúng tôi trình bày những đặc trưng của truyện ngắn và giới thiệu khái

quát về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

Chương 2: Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Từ nhân vật, chúng tôi tiếp cận các phương diện và đặc điểm nội dung trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp.

Chương 3: Các đặc trưng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Chương này nhằm trả lời câu hỏi: Nguyễn Huy Thiệp đã viết như thế nào, nét mới lạ và độc

đáo của Nguyễn Huy Thiệp nằm ở đâu.

Chương 1:

TRUYỆN NGẮN VÀ KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY

THIỆP

1.1. Truyện ngắn

1.1.1. Khái niệm

Thoát thai từ thể truyện thời trung đại, khái niệm và thể loại truyện ngắn lại chỉ được xác

lập trong nền văn học hiện đại vào khoảng cuối thế kỉ XIX, cùng với báo chí.

Như tên gọi, có thể xác định truyện ngắn là một truyện kể có dung lượng ngắn, cốt truyện

tập trung vào một biến cố gọn và đơn giản, diễn ra trong một phạm vi không gian và thời gian

nhỏ, với một số ít nhân vật.

So với tiểu thuyết, những tài liệu lý thuyết về truyện ngắn không nhiều và các định nghĩa về

khái niệm này cũng tương đối thống nhất.

Một trong những xác định súc tích và khá chuẩn về truyện ngắn là định nghĩa của Lại

Nguyên Ân: “Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các

phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; tác

phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không

nghỉ”. [53, tr.1846 - 1847]

Có chung tính chất là tự sự, ranh giới giữa truyện ngắn và tiểu thuyết khá mong manh.

Nhiều người ghi nhận hiện tượng này: truyện ngắn “ít nhiều mang những đặc tính của tư duy

tiểu thuyết” (Lại Nguyên Ân), là “một bộ phận của tiểu thuyết” (Bùi Việt Thắng), hay là “một

dạng tiểu thuyết đặc biệt” (Vương Trí Nhàn).

Các nhà văn, với trải nghiệm thực tế của mình, đã đưa ra những cảm nhận cụ thể và một số

đúc kết đa dạng. Pautopxki đã phát biểu: “Truyện ngắn là truyện viết ngắn gọn, trong đó cái

không bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái

không bình thường” [44, tr 105]. Aimatov chú ý đến đặc trưng lao động nghệ thuật: “Truyện

ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc, các

phương tiện phải được tính toán một cách kinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một việc vô

cùng tinh tế. Xoay xoả trên một mảnh đất chật hẹp, đó chính là chỗ để cho truyện ngắn phân

biệt với các thể tài khác”. [44, tr. 146]. Nhấn mạnh đến chi tiết, Nguyễn Công Hoan cho

rằng “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [71, tr.

186].

Xuất phát từ những quan niệm tương đối thống nhất về truyện ngắn, chúng ta có thể nêu

ra một số đặc trưng cơ bản của thể loại này.

1.1.2. Đặc trưng truyện ngắn

1.1.2.1. Đặc trưng đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là dung lượng nhỏ. Thế nào là

nhỏ? Có thể nói, dung lượng thông thường của một truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50

trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mini”, hoặc “truyện ngắn trong lòng

bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Những

cách gọi này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) trung thiên tiểu

thuyết (truyện vừa) trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ

đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Tuy nhiên tính chất nhỏ của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung

lượng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Do tính chất ngắn

gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu đặc biệt.

Về “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào

mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và

hay” (Bùi Việt Thắng). Nguyên tắc chưng cất của truyện ngắn không cho phép“dồn ép” hoặc

“nhồi nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như thế,

thành truyện ngắn. Nếu ta đem cắt tỉa, gọt đẽo một tiểu thuyết vài ba trăm trang xuống chỉ còn

vài chục trang thì cái thành phẩm đặc biệt này cũng không phải và không thể trở thành một

truyện ngắn. Như vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và chặt chẽ. Sekhov,

một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví: Truyện ngắn cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó

tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa. Khác với truyện dài và truyện vừa, truyện

ngắn phải là “một lát cắt gọn ghẽ”, “toàn truyện là một cái vòng khép kín không dài quá, không

ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”. [69, tr. 122]

Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống động tự nhiên, truyện ngắn

“phải lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung, giống như cái tiêu điểm của

thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt cháy đám bùi nhùi” [2]. Các tác giả truyện

ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ

nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người. Ám ảnh và đầy ấn tượng cũng là một trong

những cách thức chiếm lĩnh hiện thực và hấp dẫn người đọc của truyện ngắn.

Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén và sức công

phá cao. Chỉ cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ

của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi,

suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại mãi không chán” [71, tr. 148]. Đỗ Chu cũng có cùng ý kiến như

vậy, ông cho rằng: “một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt”

bởi vì “sức chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Lỗ Tấn thì lại cho rằng: truyện

ngắn có thể và cần phải trở thành “tòa đại lầu” để chứa đựng cả tinh thần của thời đại nhờ

phương thức biểu hiện qua một con mắt mà truyền đạt được cả tinh thần con người vốn có của

nó. Bằng sự trải nghiệm trong cuộc đời cầm bút của mình, Thomas Mann khẳng định: Truyện

ngắn tuy bé nhỏ, nhưng “những cái bé nhỏ đó cũng có sức chứa nội tại lớn lao, cũng có thể

bao quát được toàn bộ đời sống, có thể đạt được kích thước anh hùng ca và có được tác dụng

nghệ thuật chẳng khác gì một sáng tác đồ sộ khác”[59].

Về tính chất thưởng thức, truyện ngắn khác tiểu thuyết ở chỗ, độc giả có thể đọc nó trong

một hơi không nghỉ: “Truyện ngắn là một tác phẩm tuỳ dài tuỳ ngắn, người ta có thể đọc trong

mười phút hoặc một giờ” [44, tr. 157].

Tính nhanh nhạy, cập nhật cũng là một đặc trưng của truyện ngắn. Là một thể loại dân

chủ, truyện ngắn gần gũi với đời sống hằng ngày. Với đặc thù ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, truyện

ngắn thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Ở

truyện ngắn, người viết không được dông dài, độ căng của tác phẩm phải “như mũi tên mà dây

cung đã bật, phải bay vụt về tới đích không thể có một phần nghìn dây trù trừ” [71, tr. 162].

Để đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải “nhạy bén trước những đổi thay của

cuộc sống [44, tr. 146], truyện ngắn cần bắt nhịp nhanh với cuộc sống thời hiện tại. Truyện

ngắn là thể loại thích hợp giúp nhà văn tìm hiểu về những vấn đề mới đang được đặt ra trong

cuộc sống. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết trở về khái quát một giai đoạn đã qua, nhưng

truyện ngắn thì không thể làm thế. Truyện ngắn phải trực tiếp đả động đến điều mọi người đang

suy nghĩ trong cuộc sống ngày hôm nay, cho dù chất liệu sử dụng trong tác phẩm là những điều

xưa cũ.

1.1.2.2. Truyện ngắn là thể loại văn xuôi tự sự. Trên phương diện này, truyện ngắn gần

với tiểu thuyết và các thể loại truyện kể dân gian như: truyện cổ tích, thần thoại, truyện cười …

và khác với tùy bút, thơ ca. Từ đặc trưng lớn có tính bao trùm này, có thể rút ra những nét riêng

của truyện ngắn như sau:

Cốt truyện: là yếu tố hết sức quan trọng của thể tự sự nói chung và truyện ngắn nói

riêng. Song, khác với tiểu thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường tự giới hạn về thời gian,

không gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo cả một hay nhiều số phận nhân vật, và

tái hiện một bức tranh xã hội rộng lớn rậm rạp với những mâu thuẫn, xung đột và diễn biến thì

truyện ngắn, tập trung vào một khoảnh khắc, trong đó xây dựng một tình huống truyện.

Trong những bài giảng của mình về Mỹ học Hégel nói: “Tình huống là một trạng thái có tính

chất riêng biệt và trở thành được quy định. Ở trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần

biểu lộ nội dung, là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự hiểu biết nghệ thuật…”

[71, tr. 202]. Liên hệ với truyện ngắn, chúng ta thấy tình huống là điểm giao cắt của nhiều yếu

tố cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật tức thì hiện ra và vấn đề đột nhiên được phơi

mở. Các nhà văn, nhà nghiên cứu ở Việt Nam đôi khi đồng nhất khái niệm tình huống với tình

thế. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm

viết … đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong một

nửa … tình thế truyện không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái cớ

hết sức chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật nương tựa

vào nhau để thực hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả, ví như một cây cọc vững chắc để cho

cây bí leo lên mà ra hoa trái …”. [8, tr. 114]

Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại là một “mặt cắt

của dòng đời”. Nếu tiểu thuyết “diễn tả một quá trình vận động của cuộc sống” thì truyện

ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm

trạng nhân vật”, nếu tiểu thuyết “mở ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một

điểm”. [71, tr. 73]

Về cách thức tiếp cận cuộc sống, truyện ngắn cũng có những khác biệt, nó “khái quát

cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối cái vĩnh cửu”. [69, tr.

149]

Ý kiến trên được triển khai kỹ và sinh động hơn: “Tiểu thuyết thường vươn tới cái toàn

thể, truyện ngắn lại hay hướng về cái đơn nhất. Nếu ví tiểu thuyết như một căn phòng ấm áp thì

truyện ngắn có lẽ chỉ nên là một ngọn lửa nhiệt lượng tập trung thật mạnh ở nhiệt độ cao. Nếu

tiểu thuyết là một con người với đầy đủ phục sức, đường nét … thì truyện ngắn chỉ nên là một

đôi mắt nhưng đây là cửa sổ tâm hồn - hoặc thậm chí là một cái ngước mắt, một ánh mắt vừa

có sức cuốn hút mà độ sâu thẳm lại không thể lường được”. [71, tr. 378]

Nhiều nhà văn đã ra sức tìm một khoảnh khắc đích đáng cho truyện ngắn của mình. Nó

có giá trị như một một điểm xoáy, một phút giao cắt, trong đó nhân vật có thể phơi mở, bộc lộ

trọn vẹn tính cách. Truyện ngắn Lặng lẽ Sapa của Nguyễn Thành Long, Kịch câm của Phan

Thị Vàng Anh, Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp là những truyện ngắn có chứa đựng những

khoảnh khắc như vậy.

Về tính chất, điều đặc biệt ở truyện ngắn là cốt truyện của nó nhiều khi rất rõ nét,

rất li kì, hấp dẫn nhưng cũng có khi không có, hoặc mờ nhạt. Thạch Lam là một nhà văn có

nhiều tác phẩm có cốt truyện mơ hồ, “truyện mà không có chuyện” như thế.

Vậy có yếu tố nào khác khiến cho truyện ngắn vẫn được chấp nhận khi thiếu vắng cốt

truyện? Có lẽ, yếu tố đó chính là chi tiết.

Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không

khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về điều này, nhà

văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay

cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện

ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã”. [49, tr.33]

Cũng nhấn mạnh chi tiết, nhà văn Vũ Thị Thường cho rằng: “viết truyện dài như làm một

căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm

tranh khắc gỗ” [44, tr. 128].

Như vậy, vai trò của chi tiết trong truyện ngắn là hết sức quan trọng. Không chỉ vậy,

nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh” [71,

tr. 84]. Văn học của chúng ta, có nhiều tác giả, nhiều tác phẩm đã lựa chọn được những chi tiết

như thế: chi tiết Hoàng và vợ đọc Tam Quốc vào mỗi đêm trước khi ngủ, trang trọng như một

thứ lễ nghi, chi tiết Hoàng vỗ đùi khen Tào Tháo “Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên

sư anh Tào Tháo…” trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Chi tiết kết thúc truyện ngắn

Oẳn tà roằn của Nguyễn Công Hoan cũng thật độc đáo, ấn tượng: “Bắc nhìn kĩ cái tóc cái mặt,

cái mũi con …Rồi giở bọc ra ngắm thằng bé … Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ

lui ra, thở dài một cái rõ dài, nét mặt thất vọng. Té ra thằng bé con chàng nước da lại đen như

cái cột nhà cháy. Vậy nó không phải con Rồng cháu Tiên. Nó giống Oẳn tà roằn, không biết

chống gậy” …

Bên cạnh việc sử dụng các chi tiết đắt giá, cách kết thúc tác phẩm cũng có một vai trò

rất lớn trong việc tạo nên sự hấp dẫn của cốt truyện. Nhà văn Nga, D. Phuốcmanôp đã nói: “sức

mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn cuối”. Và như vậy, ta có thể hiểu rằng: với

truyện ngắn, tư tưởng tác phẩm thường thể hiện đột ngột và có thể chỉ thể hiện trong mấy dòng

cuối cùng của văn bản. O Henri là một nhà văn được nhiều độc giả trên thế giới yêu thích một

phần cũng là vì nghệ thuật kết thúc tác phẩm của ông rất độc đáo, ấn tượng.

Theo dòng lịch sử, đã có sự thay đổi đáng kể trong cách kết thúc tác phẩm của truyện

ngắn Việt Nam, từ kết thúc đóng, chuyển sang kết thúc mở. Hơn thế nữa, để nới rộng biên độ

cho độ mở của đoạn kết và kéo người đọc vào quá trình đồng sáng tạo, một số cây viết truyện

ngắn hiện đại lão luyện còn tạo ra một khoảng trống tự do ở cuối truyện. Nguyễn Huy Thiệp là

nhà văn sử dụng hữu hiệu sức mạnh biểu đạt của những khoảng trống này (Chúng tôi sẽ còn đề

cập đến nét độc đáo này ở phần sau của luận văn). Lối kết thúc mở có giá trị tạo nên dư ba, tạo

nên sức ám ảnh cho người đọc, cũng là cách làm cho tác phẩm có sức sống lâu bền với thời

gian.

Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng có những nét đặc

thù riêng. Theo Nguyễn Minh Châu, “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn

là cái mặt cắt của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết một

công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật tinh xảo

- kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo, dồn nén tư tưởng

vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [8, tr. 251]. Nhiệm vụ của kết cấu là

phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ

các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất.

Gọn, cơ động, kết cấu trong truyện ngắn thường đa dạng: kết cấu theo trình tự thời gian,

kết cấu bằng cách đi thẳng vào giữa truyện, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu tâm lí …

Nam Cao là một trong số các nhà văn hiện đại tìm ra được những cách kết cấu tác phẩm rất đặc

trưng, ấn tượng: kết cấu tâm lí. Hiện nay, trong thực tế sáng tác truyện ngắn, nhiều nhà văn tự

tìm ra cho mình những kiểu kết cấu phá cách độc đáo, không trùng lặp và cũng rất khó gọi tên

như Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp …

Nhân vật là một phương diện rất quan trọng của truyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc sắc,

bao giờ các tác giả cũng xây dựng được những nhân vật điển hình: AQ (AQ chính truyện - Lỗ

Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao), tướng Thuấn (Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp),

Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - Nguyễn Minh Châu…). Nếu tiểu thuyết theo

dõi, mô tả tỉ mỉ sự thăng trầm của số phận con người thì truyện ngắn chỉ tập trung ống kính vào

một vài khoảnh khắc của đời người. Do ngắn, gọn, truyện ngắn thường “không có mấy nhân

vật” [44, tr. 125], “một hoặc hai nhân vật chính, kèm theo đôi ba nhân vật phụ lướt đậm nhạt

mà diện xuất hiện chỉ cần có mặt với đôi đường nét mờ chìm như cảnh núi, cảnh sông” [44, tr.

26]. Là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, truyện ngắn thường hướng tới việc “thể hiện một bước

ngoặt, một trường hợp, một trạng thái nhân vật” [71, tr. 73]. Bởi “phân tích một nỗi lòng, một

cảnh ngộ, một sự việc, phân tích một hiện tượng, một lời nói, một bức ảnh thì rất có thể viết từ

đầu đến cuối bằng một thái độ, bằng tâm tình của mình và viết ngắn được. Và cũng chỉ có thể

viết ngắn thôi. Điểm này cũng là điểm mà truyện ngắn khác với truyện dài. Khi viết truyện dài

tác giả chỉ có thể gửi tâm tình của mình vào từng nhân vật, trong từng sự kiện”. [44, tr. 121]

Nếu tiểu thuyết ngày càng có xu hướng là đa thanh, mỗi nhân vật được nhà văn phú cho

một giọng tương ứng, thì với truyện ngắn, tính chất này không phải là một yêu cầu tiên quyết.

Tuy vậy, vẫn có những truyện ngắn dung nạp nhiều giọng điệu. Lúc bấy giờ, người ta nói nhà

văn ấy viết truyện ngắn bằng tư duy tiểu thuyết, hay nói khác đi, đó là hiện tượng giao thoa về

thể loại, rất dễ thấy trong kỷ nguyên hiện đại và hậu hiện đại.

1.2. Khái quát về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

1.2.1. Vài nét về Nguyễn Huy Thiệp và hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp

Sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thanh Trì, Hà Nội, Nguyễn Huy Thiệp từng có một

tuổi thơ vất vả. Ông đã cùng gia đình lưu lạc khắp nhiều vùng nông thôn của đồng bằng Bắc

Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên … Sau khi tốt nghiệp Khoa Sử, trường Đại học Sư

phạm Hà Nội, Nguyễn Huy Thiệp đã có 10 năm giảng dạy ở miền núi Tây Bắc. Năm 1980, ông

trở về Hà Nội, làm việc tại công ty Sách Giáo khoa thuộc Sở giáo dục Hà Nội. Hiện nay ông

sống cùng gia đình tại Hà Nội. Ngoài công việc sáng tác, Nguyễn Huy Thiệp còn thử sức trong

nhiều công việc và ngành nghề khác nhau, gần đây nhất ông chuyển sang kinh doanh, với nhà

hàng Hoa Ban.

Nửa sau thập niên tám mươi, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Đất nước ta có sự

chuyển biến tích cực ở hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nghị quyết 05 của Hội nghị Ban

chấp hành trung ương Đảng, trong khi yêu cầu cụ thể hoá đường lối đổi mới trong lĩnh vực văn

hoá văn nghệ: “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lí văn học nghệ thuật và văn hoá,

phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới”

đã thúc đẩy việc đổi mới tư duy và dân chủ hoá xã hội. Không khí này nhanh chóng ảnh hưởng

mạnh mẽ và trực tiếp đến tinh thần của Đại hội nhà văn được tổ chức ngay sau đó. Nền văn học

của chúng ta thực sự đã có những bước chuyển mình đáng kể. Chưa bao giờ văn học lại trở nên

khởi sắc trong cả giới sáng tác lẫn phê bình như vậy. Trong số những tác phẩm văn học đã góp

phần thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới, có thể kể đến Nguyễn Mạnh Tuấn với

Đứng trước biển, Cù lao Tràm, Lê Lựu với Thời xa vắng, Dương Thu Hương với Bên kia bờ

ảo vọng, Ma Văn Kháng với Mùa lá rụng trong vườn, Nguyễn Minh Châu với Chiếc thuyền

ngoài xa… Sự xuất hiện của các tác giả và các các phẩm trên đã ghi dấu những chuyển biến hết

sức tích cực trong đời sống văn học nước nhà. Qua các tác phẩm, ta thấy cái nhìn của nhà văn

về thế giới và con người trở nên phong phú đa dạng phức tạp hơn rất nhiều. Đồng thời, các nhà

văn đã bước đầu có ý thức tìm tòi thể nghiệm những cách nhìn mới, cách đánh giá mới, những

đổi mới trong thủ pháp nghệ thuật.

Xuất hiện trên văn đàn Việt Nam đúng vào lúc Đảng và nhà nước chủ trương “Cởi trói cho

văn học nghệ thuật”, Nguyễn Huy Thiệp có điều kiện để thể nghiệm một lối đi riêng cùng với

những cách tân hiện đại trong mỗi trang viết của mình. Những tác phẩm của ông đã lập tức gây

được tiếng vang lớn và ông nhanh chóng trở thành một hiện tượng độc đáo trong đời sống văn

học đang từng bước khởi sắc của nước nhà. Người ta chờ đón tác phẩm của ông trong sự háo

hức, và ông từng bước khẳng định tài năng cũng như phong cách văn xuôi đặc biệt của mình

trong sự tiếp nhận đa dạng: khen, chê, khẳng định, phủ định. Tác phẩm của ông đem đến cho

độc giả những cách lí giải mới về cuộc sống, khiến họ có thể chạm sâu vào đời sống thực tế,

hiểu hơn về bản chất của nó cũng như những trạng thái nhân sinh trong buổi đầu của thời kì đổi

mới. Với hơn 40 truyện ngắn, 3 tiểu thuyết, hơn gần 10 vở kịch cùng với nhiều bài phê bình văn

học … Nguyễn Huy Thiệp quả đã đóng góp nhiều cho văn học Việt Nam. Song, thể loại làm

nên tên tuổi và mang lại cho ông một phong cách nghệ thuật độc đáo chính là truyện ngắn.

1.2.2. Quan niệm về văn chương trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Trong các bài phê bình đã được công bố hoặc trong các bài phỏng vấn, Nguyễn Huy

Thiệp có nhiều dịp bày tỏ những quan niệm của mình về văn chương. Song, trong khuôn khổ

của đề tài luận văn, chúng tôi chỉ tiến hành tìm hiểu những quan niệm văn chương ông gửi gắm

trong những truyện ngắn. Đến với những trang viết của Nguyễn Huy Thiệp, người đọc có thể ít

nhiều nhận ra những quan niệm về văn chương mà ông ngầm kí thác trong đó. Không thành

những tuyên ngôn, Nguyễn Huy Thiệp cứ lặng lẽ, bình thản để cho nhân vật của mình bàn luận

về văn chương nhiều hơn là việc chính ông tự đưa ra những lời phát biểu trực tiếp.

Ở giai đoạn văn học 1930 – 1945 trước đây, độc giả đã quen với những quan niệm sắc

sảo, súc tích của Nam Cao về văn chương qua mảng đề tài viết về người trí thức. Những truyện

ngắn tập trung thể hiện rõ nét nhất những quan niệm văn chương của Nam Cao là Sống mòn,

Giăng sáng, Đời thừa. Những lời phát biểu hùng hồn của ông đã hằn tạc vào sâu trong trí nhớ

người đọc để trở thành những tuyên ngôn bất hủ “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa

dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ

những kiếp lầm than”. [7, tr. 105]

Với Nguyễn Huy Thiệp, tất cả không đơn giản và rành mạch như vậy. Trong truyện

ngắn của mình, nhà văn để cho nhân vật phát ngôn về văn chương, và tất cả làm nên những cái

nhìn từ nhiều lăng kính khác nhau, không đơn nhất mà đa dạng, phức tạp: “văn chương có

nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống, có thứ văn chương sửa mình, có thứ

văn chương trốn đời, trốn việc, lại có thứ văn chương làm loạn” (Giọt máu) có lúc văn chương

“là thứ bỉ ổi nhất” (Chút thoáng Xuân Hương), nhưng cũng có khi lại “có cái gì từa tựa lẽ

phải” (Giọt máu). Để nhân vật đối thoại với nhau như vậy về văn chương, dường như Nguyễn

Huy Thiệp muốn nói rằng, văn chương là một thế giới đầy bí ẩn để con người phải lặn ngụp

trong hành trình tìm kiếm, có khi là đi tìm suốt cả cuộc đời. Nhưng đặc biệt, có lẽ ông muốn

bình thường hóa văn chương bằng cách nhìn, cách nói suồng sã. Khác Nam Cao, Nguyễn Huy

Thiệp không mớm cho người đọc một chân lí nào, ngay cả khi sách đã được gấp lại. Cái ông

đem đến cho người đọc chính là sự hoài nghi về chân lí. Và với những độc giả đã quen với tâm

thế đón chờ chân lí, người ta sẽ trở nên lạ lẫm trước trang văn của ông. Vì vậy, thậm chí có

người còn vội vàng kết cho ông biết bao nhiêu thứ tội. Muốn hiểu rõ về tác phẩm của Nguyễn

Huy Thiệp, ta nên phân tích kỹ các quan niệm văn chương trên trang viết của ông.

Quan niệm về văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, trước hết được nhà văn kí thác qua

những phát ngôn của các nhân vật. Trong truyện Chút thoáng Xuân Hương, tri huyện Thặng

từng ngạo mạn tuyên bố: “Hách chứ … không hách để văn chương các chú làm loạn à? Văn

chương là miếng đất nghịch”. Theo Thặng, văn chương có thể “làm loạn” – nó làm loạn trong

tiềm thức của con người – một cuộc nổi loạn mà không có một thế lực nào có thể dập tắt được.

Nghĩa là bản thân nó hàm chứa một sức mạnh ghê gớm. Những con người đầy quyền uy như

Thặng dù bề ngoài luôn tỏ ra cứng rắn nhưng thật ra hắn cũng rất khiếp sợ. Cái “hách” ấy suy

cho cùng là một sự lên gân để Thặng che dấu nỗi sợ mà thôi. Cùng chung suy nghĩ và tâm trạng

với tri huyện Thặng, Nguyễn Phúc Ánh trong Kiếm sắc cũng đã từng giảng giải về văn chương,

chữ nghĩa trong một nỗi ghét sợ vô hình: “Ta cứ ghét bọn chữ nghĩa thôi. Chữ nghĩa chúng nó

thối lắm, nguỵ biện, xảo trá, tinh vi … hành tung chúng ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o như dòi chồ,

hèn mọn cả. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu

chúng nó, ta mệt lắm”. Nói là “ chẳng lo” nhưng lại muốn “rửa đầu óc chúng nó”, tức là Ánh

cũng rất sợ, sợ sức mạnh vô hình của văn chương cũng như sợ những kẻ có khả năng sở hữu

thứ “vũ khí” lợi hại này. Vì lo không trị được những kẻ sai khiến được văn chương nên Ánh đã

cho Lân - một tay chân tin cẩn nhất - đi chiêu mộ các danh sĩ Bắc Hà. Trong truyện Quan âm

chỉ lộ, Nguyễn Huy Thiệp lại để cho các nhân vật của mình bàn luận về văn chương với nhau.

Anh Lai - vụ trưởng một vụ, trong một cuộc chuyện trò chuyện với một nhà văn đàn em đã nói:

“Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ làm cho người ta dằn vặt lòng mình? Chú có

quyền gì? Ai cho chú cái quyền năng ấy? Tư cách chú tôi gạt sang một bên. Tôi không hiểu vì

sao mọi người lại vị nể một người như chú? Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không

phải! Nghiêm cẩn ư? Cũng không phải nốt. Tôi chỉ nhận ra ở chú dục vọng hão huyền và khả

năng đánh thức cái dục vọng ghê gớm ấy ở mỗi người. Điều đó là tốt ư? Không phải? Xấu ư?

Không phải! Từ bản chất tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú”. Trong

mạch đối thoại mà người đọc ngỡ như đang xem một lời độc thoại, hay nói đúng hơn, đoạn văn

trên là sự đối thoại của nhân vật với chính mình. Hầu như tất cả mọi vấn đề được nêu ra đều tồn

tại ở dạng câu hỏi. Hỏi nhà văn, nhưng chính anh Lai lại trả lời. Và qua những lời anh Lai nói,

người đọc có thể hiểu: văn chương là thứ có thể làm ta “dằn vặt”, không những vậy, nó còn

“có khả năng đánh thức cái dục vọng ghê gớm ở mỗi người”. Vậy điều đó tốt hay xấu? Nên

hay không? Chính anh Lai hay chính chúng ta cũng sẽ phải hoài nghi. Phải chăng vai trò của

văn chương đang nằm trong một ranh giới rất mỏng manh giữa nhân văn và giả dối, giữa việc

nói lên sự thật và thoá mạ con người.

Xen lẫn với những lời phát biểu của các nhân vật về văn chương là những lời tác giả xen

vào câu chuyện, như một thứ “trữ tình ngoại đề”. Cuối truyện Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp

không kìm được, đã nói chõ vào: “công việc viết văn vốn rất nhọc nhằn, phức tạp, lại buồn tẻ

nữa”. Câu nói ấy cho thấy Nguyễn Huy Thiệp ý thức sâu sắc về nghề văn, và ông thường

xuyên tự vấn. Vì thế, mỗi trang viết của ông như một sự trăn đi trở lại, như một sự dằn vặt

chính mình: “Ở trường đại học tôi đã thuyết giảng về sự vô minh của con người và thế giới,

lòng khao khát của cá nhân tôi với cuộc sống mà thượng đế đã ban cho. Giờ nhớ lại những

điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí dối trá” (Quan âm chỉ lộ). Từng mang

khuôn mặt của một kẻ kiêu ngạo, cô đơn, Nguyễn Huy Thiệp đã ý thức được nỗi cô đơn tột

cùng trong sáng tạo. Viết văn không chỉ là một công việc khiến nhà văn đối mặt với sự nhàm

chán, “buồn tẻ” mà còn hơn thế nữa. Trong truyện ngắn Giọt máu, ông đã từng thốt lên đau

đớn: “thằng bé mơ hồ hiểu rằng học đòi văn chương là nó bước vào một cõi mà ở đấy, nó

không thể nương tựa vào bất cứ thứ gì, ngoài bản thân nó”. Không được nương tựa vào bất cứ

thứ gì đồng nghĩa với việc nhà văn phải đối diện với “một khối cô đơn khổng lồ”. Nguyễn Huy

Thiệp cô đơn trong sáng tạo, cô đơn để sáng tạo. Ông chấp nhận sự cô đơn để được là mình.

Chấp nhận cô đơn, dấn thân vào một cuộc “hành xác” tự nguyện, để tìm ra nghĩa lí của

cuộc đời nhưng cũng có lúc chính Nguyễn Huy Thiệp lại chua chát nhận ra sự bất lực của ngôn

từ (một phương tiện đặc thù của văn chương) trước việc thể hiện những nỗi đau nhân thế:

“Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ

Sự bất lực của hình thức biểu đạt

Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất

Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất

Những số phận hiu hắt đầy mặt đất

Bao tháng ngày trôi đi

Bao kiếp người trôi đi

Sự khéo léo của ngôn từ nào kể được.

(Thương nhớ đồng quê)

Là một nhà văn chân chính, Nguyễn Huy Thiệp rong ruổi kiếm tìm gần như cả cuộc đời

mình trên cánh đồng chữ nghĩa. Tuy vậy, ít khi ông đưa ra những phát biểu có tính chất rạch

ròi. Dưới đây là một trong số những định nghĩa hiếm hoi và khác thường của Nguyễn Huy

Thiệp: “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và

hoa. Đó là chí thánh” (Giọt máu). Với lời phát biểu này, nhiều người đã phê phán Nguyễn Huy

Thiệp, cho rằng ông đã mất đi cái tâm của một người cầm bút, đã nhẫn tâm nhấn văn chương –

một thứ vốn được coi là rất cao quý, đẹp đẽ – xuống bùn. Nhưng, hơn bao giờ hết, với quan

niệm ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự dấn thân, đã bất chấp hết, không chỉ “ngập” trong bùn

ông còn còn “sục tung” thứ bùn đen ấy lên để tìm ra nghĩa lí của cuộc đời. Từ “bùn” chuyển

thành “bướm và hoa” là một sự lột xác đầy phiêu lưu, mạo hiểm. Nguyễn Huy Thiệp đã tự

nguyện chấp nhận sự thực đau đớn này để làm tròn thiên chức cao cả của một người cầm bút có

lương tâm và trách nhiệm.

Như vậy, những quan niệm về văn chương trên trang viết Nguyễn Huy Thiệp, dù được kí

thác qua phát ngôn của nhân vật, hay là chính những phát ngôn trực tiếp của tác giả, dù bề

ngoài có vẻ thiếu nhất quán thì sâu bên trong mạch nguồn của nó vẫn có sự thống nhất. Văn

chương mà Nguyễn Huy Thiệp đã lựa chọn là thứ văn chương dấn thân. Và đến với thứ văn

chương đặc biệt này người đọc cũng rất cần có những ứng xử tương đồng.

1.2.3 . Hệ thống đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Đề tài là một khái niệm có nội hàm rất rộng, tuy nhiên về bản chất chúng ta có thể hiểu: đề

tài là “khái niệm chỉ các loại hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng

tác văn học … là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm”. [51, tr. 110]

Đề tài có mối quan hệ hữu cơ với cảm hứng nghệ thuật. Cuộc đời muôn mặt, khi nhà văn

đặc biệt quan tâm một phương diện nào đó, một khu vực nào đó, và thể hiện nó theo cách nhìn

nào đó: điều ấy tùy thuộc rất nhiều vào cảm hứng nghệ thuật. Cảm hứng nghệ thuật là một trạng

thái tình cảm ở cường độ đặc biệt, kết tinh thành tư tưởng và xu hướng, nó thúc đẩy nhà văn

cầm bút và làm ấm nóng trang viết: “Đó là trạng thái phấn hứng cao độ của nhà văn do việc

chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt

nguồn từ lí tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại xã hội” . [60, tr. 141]

Trạng thái ấy luôn biến động, chi phối nội dung và thủ pháp của nhà văn.

Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã thể hiện nhiều phương diện của đời sống, nhiều khuôn

mặt của con người, với những cảm xúc khác nhau, chính vì vậy “các loại hiện tượng đời sống”

và các dạng cảm hứng trong tác phẩm của ông cũng hết sức phong phú, đa dạng. Dựa vào nội

dung tác phẩm, chúng tôi tạm chia truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thành 3 mảng đề tài

chính và 3 cảm hứng tương ứng: đề tài miền núi- nông thôn và cảm hứng trữ tình, đề tài thành

thị và cảm hứng phê phán, đề tài lịch sử và cảm hứng tự vấn.

1.2.3.1. Đề tài miền núi – nông thôn và cảm hứng trữ tình

Nguyễn Huy Thiệp đã từng sống ở vùng cao Tây Bắc trong suốt mười năm kể từ sau khi

tốt nghiệp đại học. Trong khoảng thời gian đó ông có điều kiện sống gần gũi với người dân

miền núi, được tiếp xúc với kho tàng văn học dân gian và trí tuệ dân gian. Đó là những nguồn

tư liệu phong phú, hữu ích góp phần làm nên những thành công lớn cho Nguyễn Huy Thiệp khi

ông hoàn thiện chùm truyện Những ngọn gió Hua tát - những truyện ngắn đầu tay được phôi

thai từ những năm tháng ông còn là một chàng thanh niên trai trẻ mới bước vào độ tuổi hai

mươi.

Chưa từng đặt chân đến Hua Tát, song, qua lời giới thiệu của tác giả người đọc có thể

hình dung một cách khá cụ thể về nó. Hua Tát là một địa danh có thực nằm ở Vùng núi Tây

Bắc Việt Nam, là “một bản nhỏ người Thái đen nằm cách chân đèo Chiềng Đông chừng dặm

đường”. Với vị thế nằm gọn trong một thung lũng hẹp và dài xung quanh có núi cao bao bọc,

với một hồ nước nhỏ không bao giờ cạn, quanh hồ rất nhiều hoa cúc vàng, vùng đất này hiện

lên rất sống động, nên thơ. Nguyễn Huy Thiệp dành cho Hua Tát những dòng miêu tả đầy sức

gợi: “Thung lũng hoa Hua Tát ít nắng. Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàng

bạc nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhoà nhoà. Đây là thứ không khí huyền

thoại”. Với cách miêu tả và giới thiệu của tác giả, dù là một địa danh có thực nhưng Hua Tát lại

nhuốm đậm không khí cổ tích và huyền thoại. Dường như chừng ấy chưa đủ để người đọc hiểu

nhiều về Hua Tát, tác giả còn khẳng định “Ở Hua Tát, những truyện cổ như những bông hoa

dại màu vàng nhạt, bé như khuy áo điểm đâu đó quanh rào trong các ngõ nhỏ. Đàn ông ngậm

hoa này trong miệng uống rượu không bao giờ say. Nó cũng giống như những viên đá cuội

trắng, có gân đỏ, mảnh như sợi chỉ nằm kín đáo nơi lòng suối. Phụ nữ thích những viên sỏi

này. Họ nhặt nó về ủ trong áo lót đủ một trăm ngày. Khi làm đệm cho chồng, họ giấu viên sỏi

ấy vào trong. Có lời nguyền rằng, người chồng nằm trên đệm ấy sẽ không bao giờ mơ tưởng

đến người phụ nữ khác”. Có một điều rất lạ với người miền xuôi nhưng lại trở thành một tục lệ

của dân bản – đến với Hua Tát, dù bạn là ai, nhưng nếu là người “công minh chính trực” bạn sẽ

được chủ nhà kể cho “nghe một câu chuyện cổ”. Chuyện cổ nhưng mà rất gần chúng ta, những

con người hiện đại. Những câu chuyện tác giả kể chứa đầy những huyền thoại, những yếu tố bí

ẩn, hoang đường song chính nó lại “nói nhiều đến nỗi đau khổ của con người” và cũng chính

vì vậy nó làm “nảy nở trong ta sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tính người” nhờ chính

sự thấu hiểu của ta về những đau khổ và khát vọng của con người. Đến với Những ngọn gió

Hua tát ta không trực tiếp gặp gỡ với những con người hôm nay, mà được đến với những con

người trong cổ tích. Những con người ấy tuy không còn nữa nhưng linh hồn của họ “vẫn bay

thấp thoáng trên các khau cút nhà sàn”, vẫn thì thầm trong gió về cuộc đời mình và về một

thời quá khứ xa xưa của dân bản Hua Tát.

Chùm truyện gồm tất cả mười truyện nhỏ, mỗi truyện kể về một cuộc đời, một số phận,

và tất cả đều có một sức hấp dẫn, lôi cuốn kì diệu. Trong chùm truyện, mỗi nhân vật có một

cuộc đời riêng và mỗi cuộc đời đó lại gắn liền với một sự kiện quan trọng, quan trọng đến mức

có thể đưa số phận họ rẽ sang một hướng khác. Hầu hết các nhân vật trong chùm truyện đều là

những nhân vật có tên tuổi rõ ràng. Song, điều giống nhau ở các nhân vật này chính là những

điều kì dị khác người ở họ. Các cô gái trong chùm truyện hoặc là rất xinh đẹp “da trắng như

trứng gà bóc, tóc mượt và dài, môi đỏ như son” nhưng lại bị liệt hai chân “suốt năm suốt tháng

nằm một chỗ” như Pùa (Trái tim hổ). Hoặc có một ma lực đặc biệt để hút hồn hết cánh đàn ông

trong bản như nàng Bua với “đôi hông to khoẻ, thân hình chắc lẳn, bộ ngực nở nang mềm

mại… lúc nào cũng tươi cười tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng người”, nhưng cô cũng chính

là mẹ của chín đứa con mà không có ai – ngay cả cô – biết đích xác ai là bố của chúng. Người

phụ nữ có ma lực ấy bị dân bản rủa thầm là “quỷ dữ”. Hoặc vừa xinh đẹp vừa đức hạnh “ít có

người bì kịp” cùng với một trí tuệ thông minh sắc sảo như Hà Thị E, con gái của trưởng bản Hà

Văn Nó trong Tiệc xòe vui nhất. Song cũng có khi trái ngược hoàn toàn, xấu xí “gày gò bé nhỏ

… sống thui thủi như con chim cút” như nàng Sinh trong câu chuyện cùng tên. Hoặc câm lặng

đến kì cục như người vợ của lão thợ săn nhập cư trong Con thú lớn nhất: “ lúc nào cũng âm

thầm, im lặng suốt ngày không hề thấy nói một tiếng”…

Các nhân vật nam giới trong chùm truyện viết về miền núi này cũng là những con người

kì lạ, khác thường. Hoặc dị dạng về hình hài như chàng Khó (Trái tim hổ) “Chàng bị đậu mùa,

mặt rỗ chằng chịt… hai tay dài chấm đầu gối, đôi chân khẳng khiu, lúc nào đi cũng như chạy”.

Hoặc có một vẻ bề ngoài phong độ và tráng kiện đến bất ngờ như ông Pành trong Đất quên. Dù

đã hơn tám mươi tuổi “nhưng hàm răng của ông vẫn còn đều tăm tắp như răng chàng trai

mười bảy tuổi. Cối đá giã gạo, ông dùng một tay cử lên như bỡn. Ông làm bằng ba người khác.

Uống rượu cũng vậy, sức ông có thể chấp nổi muôn người”. Với độ tuổi ấy ông Pành vẫn có cơ

hội được “ngợp trong cảm giác huyền diệu” và bất chấp mọi lời bỡn cợt của dân bản để đến

cầu hôn cô Muôn - một cô gái trẻ, xinh đẹp ở bản Mường Lưm. Hay chàng Sạ trong câu chuyện

cùng tên lại tạo dấu ấn trong lòng người đọc bởi cá tính ương nghạnh khác người của mình, để

đến nỗi biệt danh “thằng điên”, “thằng rồ”, “kẻ khùng” trở thành tên gọi thân thuộc nhất mà

dân bản dành cho chàng. Hay nhân vật Lù trong Nạn dịch lại có một khả năng chơi bài siêu

phàm đến nỗi “các tay cờ bạn ngờ ông hẳn có bùa chú”.

Sống với núi rừng, nghề đi săn trở thành một trong những nghề kiếm sống chủ lực của

dân bản. Những người thợ săn hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp cũng có những

khả năng đặc biệt, khác thường. Người thợ săn ngụ cư trong Con thú lớn nhất là một “tay thợ

săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít có chim

chóc hoặc thú rừng nào thoát chết”. Hoàng Văn Nhân trong Sói trả thù lại là một người luôn

“cầm chịch trong các mùa săn”, “không biết sợ là gì”…

Cuộc sống của dân bản Hua tát hiện lên với rất nhiều thăng trầm, trải qua nhiều trạng

thái, hoàn cảnh khác nhau. Có những lúc cuộc sống ấy bị đe dọa bởi những nạn dịch, những thế

lực thiên nhiên: như nạn sâu đen, dịch tả, động rừng, hạn hán … Song cũng có lúc cuộc sống lại

được gợi ra thật thú vị, hấp dẫn qua những sinh hoạt văn hoá mang đậm bản sắc riêng mà

không phải vùng miền nào cũng có: Tiệc xoè, lễ kén rể, lễ cưới …

Người dân miền núi sống gần gũi chan hoà với thiên nhiên. Thiên nhiên tạo cho họ cuộc

sống, đem đến cho họ kế sinh nhai. Song, cũng chính họ - những con người của núi rừng - là

những kẻ góp phần huỷ hoại thiên nhiên nhiều nhất. Lão thợ săn ngụ cư trong Con thú lớn

nhất trở thành nỗi khiếp đảm sợ hãi của chim muông, thú rừng. Sau nhà lão “lông chim, xương

thú chất thành đống”. Không những vậy, người ta còn quả quyết đã có lần nhìn thấy hắn bắn

chết một con chim công đang say sưa với vũ điệu của tình yêu. Hoàng Văn Nhân cùng phường

thợ săn quyết tâm triệt hạ gần hết bầy sói, trong đó có con sói mẹ cố gắng tìm mọi cách thoát

thân để trở về bảo vệ bầy sói con… Kết cục, chính những kẻ ác tâm, tàn phá huỷ diệt môi

trường ấy đã gánh chịu sự trả thù như một báo ứng tất yếu. Lão thợ săn ngụ cư cuối cùng tự tay

bắn chết người vợ và bắn chết chính mình. Đứa con trai duy nhất của Hoàng Văn Nhân – trong

ngày lễ cúng ma đã bị chính con sói con duy nhất còn lại trong đàn sói bị bố nó tiêu diệt ngày

nào trả thù. Con sói trả thù mới khủng khiếp làm sao: “nó cắn, cào, nhay, nhá, nó rứt từ cổ

thằng San ra từng mảnh thịt, từng sợi gân và dây chằng bê bết máu” (Sói trả thù).

Một điều nữa cũng hết sức đáng quan tâm là trong chùm truyện về đề tài miền núi này,

các nhân vật bao giờ cũng được tác giả đặt vào các sự kiện trọng đại để họ có thể bộc lộ, tính

cách, phẩm chất. Trước những sự kiện đó nhân vật có 2 cách ứng xử. Hoặc là cố gắng chinh

phục, vượt qua thử thách, cố gắng để đạt mục đích của mình. Chàng Khó trong Trái tim hổ

cũng đi săn nhưng “không phải để lấy bùa phép may mắn” mà để chàng “lấy thuốc về chữa

cho Pùa”. Lão thợ săn trong Con thú lớn nhất “suốt đời lão chỉ săn được những con chim, con

thú bình thường … chưa bao giờ lão săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt” và lão rất khổ tâm,

dằn vặt về điều đó. Lão mơ ước săn được một con thú thật lớn. Hà Thị E, cô gái thông minh,

sắc sảo trong Tiệc xòe vui nhất, vì mong muốn lấy được tấm chồng có “đức tính quý nhất” nên

đã cùng cha và dân bản mất công tổ chức rất nhiều cuộc kén rể. Ông Pành (Đất quên) muốn

chặt được cây lim to nhất ở đỉnh Phu Luông để chứng tỏ tình yêu say đắm với Muôn. Sạ mang

trong mình “niềm ham muốn và những khát vọng mãnh liệt”, chàng đã làm những trò tinh quái

mục đích để đạt những khát vọng nhưng mọi người không hiểu, chàng rơi vào “nỗi cô đơn

khủng khiếp” và chàng quyết tâm bỏ Hua Tát ra đi với mong muốn “lập nên sự tích phi

thường”. Kết quả trên con đường chinh phục khát vọng, hầu như họ đều đạt được hoặc gần đạt

tới được mục đích, khát vọng của mình: Chàng Khó giết được con hổ, lão thợ săn giết được con

thú lớn nhất trong đời mình, cô Hà Thị E lấy được người chồng có đức tính quý nhất và hiếm

nhất, lão Pành đã lên đến đỉnh Phu Luông và bập được nhát rìu đầu tiên vào gốc cây lim, Sạ trở

thành những tấm gương cho những người phụ nữ dạy dỗ chồng mình, chàng còn trở thành niềm

tự hào của dân làng. Hoặc, cách thứ hai, các nhân vật gặp được may mắn gặp được những sự

trợ giúp thần kì và trở nên giàu có hoặc hạnh phúc. Nàng Bua sau khi đào được hũ vàng, cuộc

đời của nàng và lũ con thay đổi hẳn, họ trở thành những người giàu có nhất bản, nhất mường.

Cánh đàn ông lần lượt nhận lại con mình nhưng Bua không đồng ý. Nàng lấy một người thợ săn

hiền lành và đã rơi những giọt nước mắt hạnh phúc trong đêm tân hôn. Người thợ săn trong Sói

trả thù may mắn có được một cậu con trai “đẹp như tiên đồng” với người vợ thứ ba và trong

cuộc săn chó sói ông đã thành công khi săn được con sói cái đầu đàn rất tinh ranh mưu mẹo,

thậm chí còn bắt được con sói con về nuôi. Ông Pành khi gặp người con gái đã chợt nhận ra

“đây chính là điều ông vẫn hằng khao khát mong tìm. Hơn cả tính yêu, hơn cả những người

phụ nữ mà ông đã gặp, cảm giác này như là hạnh phúc”. Mao vô tình tìm thấy chiếc tù và bị

bỏ quên trên gác bếp, anh rúc lên một hồi, xua đi hết sạch bầy sâu đen, tìm lại cuộc sống bình

yên, hạnh phúc cho bản làng. Nhân vật Lù cũng may mắn thắng bạc, kịp quay về và dùng số

tiền đó đi tìm thầy thuốc chữa bệnh cho vợ. Nàng Sinh có được một sức mạnh diệu kì, đã nâng

được hòn đá thiêng và hạnh phúc bên người chồng mà dân bản nghe đồn là hoàng đế. Những

điều may mắn, kì diệu trong đời đã đưa những con người này (hoặc cả dân bản) đến hạnh phúc.

Chùm truyện viết về đề tài miền núi đưa người đọc về với thế giới của những câu chuyện

cổ tích thấm đẫm chất hoang đường kì ảo. Song không chỉ vậy, người đọc vẫn thấy ở đó hiện

lên thấp thoáng hình bóng của cuộc sống thực tại từ những cuộc đời và số phận của những nhân

vật cổ tích được kể lại bởi người dân của bản Hua Tát. Những câu truyện mang dáng dấp cổ

tích ấy giúp ta thấu hiểu hơn về những ước mơ, khát vọng của con người cũng như những quy

luật bất biến, vĩnh hằng của cuộc sống…

Từng tự hào “Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn” (Những bài học nông thôn)

cùng với một tuổi thơ từng cùng gia đình lưu lạc khắp nhiều vùng nông thôn của đồng bằng

Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên … Nguyễn Huy Thiệp đã tích luỹ được rất

nhiều hành trang quý báu để có thể viết nhiều, viết hay về những miền đất dung dị mà chân chất

tình người này. Nếu trong những truyện viết về thành thị, Nguyễn Huy Thiệp gieo vào lòng độc

giả cảm giác nặng nề, ngột ngạt thì đến với những truyện ngắn như: Chảy đi sông ơi, Con gái

thuỷ thần, Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu cắt cỏ … người đọc

lại có thể tìm thấy cảm giác êm đềm, da diết, được thấy lòng mình lắng lại với những cảm xúc

rất ngọt ngào, thi vị.

Nhân vật trong mảng đề tài về nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp cũng hết sức đa dạng.

Cả những nhân vật có tên lẫn nhân vật không tên, từ người già đến em nhỏ, từ những người

nông dân chân chất đến những trí thức ở nông thôn … với biết bao công việc nhà nông quen

thuộc, từ cấy cày, gặt hái đến lột giang đan mũ, xẻ đá ong, đóng gạch … có cả những hoạt động

vui chơi giải trí đã trở thành những nét văn hóa truyền thống ở nông thôn như: chơi vật, đua

thuyền … Viết về nông thôn, Nguyễn Huy Thiệp không đi vào khai thác mối quan hệ gia đình

cũng như sự tha hoá trong nhân cách của con người như ở mảng đề tài viết về thành thị. Bởi vì,

dường như mặt trái của thời kì đổi mới cùng với lối sống thực dụng còn chưa ảnh hưởng nhiều

đến đời sống thanh bình êm ả của những người sinh ra và lớn lên ở nông thôn. Trong những

truyện ngắn viết về mảng đề tài này, ông chú ý đi sâu khai thác đời sống nội tâm tinh tế cùng

với những khát vọng của con người.

Điều đầu tiên có thể nhận thấy: trong thực tế cuộc sống cũng như trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp, con người ở nông thôn có tâm hồn trong sáng bởi họ luôn sống gần gũi,

giao hòa với thiên nhiên. Đây cũng là nguyên nhân để lí giải vì sao trong những tác phẩm viết

về nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều đoạn văn tả cảnh thiên nhiên thấm đẫm xúc cảm

của nhà văn đến vậy – những trang viết mà ta hoàn toàn thấy vắng bóng trong những tác phẩm

ông viết về thành thị.

Gắn bó và trở thành ấn tượng đậm nét nhất trong kí ức tuổi thơ của những người từng

sinh ra và lớn lên ở nông thôn là dòng sông quê thơ mộng. Điều này cũng không ngoại lệ với

Nguyễn Huy Thiệp. Con sông quê trở thành hình ảnh đậm nét nhất trong tâm trí tác giả khi viết

về những tháng ngày thơ ấu, khi nhớ về cuộc sống ở nông thôn. Rất nhiều đoạn văn mượt mà

cảm xúc trong truyện ngắn của ông gắn liền với hình ảnh dòng sông, bến nước. Có khi là cảnh

một bến sông thật nên thơ, vắng lặng với những chi tiết rất đỗi gợi cảm, ẩn chứa bao nhiêu tâm

tình của một chàng trai đa cảm: “Con sông bến nước mơ màng và buồn cô liêu, nửa như chờ

đợi, nửa như hờn dỗi. Mùa hoa, trên ngọn cây gạo màu đỏ xao xuyến lạ lùng … Bến đò tĩnh

lặng rất ít những người qua lại. Mùa đông có cả những con sáo lông đen, chân vàng đậu trên

sợi thép níu đò căng từ gốc gạo sang phía bên kia sông. Chúng nghiêng nghiêng đầu xuống

dòng nước chảy thao thiết líu ra líu ríu. Chiều xuống, tiếng chuông nhà thờ ở giữa bến Cốc lan

trên mặt sông mang mang vô tận. Con sông tựa như giật mình phút chốc sau đó lại lặng im

trôi, giống như một người hiểu biết tất cả nhưng đang mải mê suy nghĩ, chẳng cần mà cũng

chẳng thèm biết đến xung quanh” (Chảy đi sông ơi). Đến một con sông quê thẹn thùng, e ấp

như người thôn nữ vào mỗi buổi tinh sương thức dậy. Con sông có linh hồn, tâm trạng cứ sống

mãi trong miền kí ức thiêng liêng của nhà văn: “Sương mù giăng giăng trên mặt sông. Khi ánh

nắng lên, sương tan ra, sương tan ra rồi bay lên như khói như mây. Mặt sông lộ rõ, ngái ngủ và

thẹn thùng” (Con gái thuỷ thần). Phải gắn bó tha thiết lắm với làng quê, Nguyễn Huy Thiệp

mới có được thể tìm thấy những chi tiết chân thật, sống động, gợi hồn quê đến bất ngờ. Hãy

xem ông tả một con đường quê dưới cái nắng gay gắt của mùa hè: “nắng gắt lắm, ngoài trời có

lẽ phải đến bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa” (Thương

nhớ đồng quê). Hay cảnh một chân ruộng sau kì gặt chỉ còn trơ lại gốc rạ, toả ra một mùi

hương đất nồng nàn – bình dị: “cánh đồng đã gặt hết còn trơ gốc rạ. Phía chân trời mây cuồn

cuộn rực hồng một màu lửa. Mặt ruộng nứt nẻ. Cả cánh đồng hực lên mùi hương đất nồng

nàn”. Từng theo chân những người dân chài trong lần ra khơi đánh cá, ấn tượng đậm nét trong

lòng tác giả là “mùi khói thơm nồng và mùi cá nướng thơm ngậy lan trong không khi ban mai

trong sạch” (Chảy đi sông ơi).

Trong những truyện ngắn viết về nông thôn, ta có thể gặp những chàng trai với tâm hồn

thật nhiều mơ mộng. Họ theo đuổi những giấc mơ, những huyền thoại, như theo đuổi chính

những khát vọng sống mãnh liệt của đời mình. Nhân vật “tôi” (Chảy đi sông ơi), từng nuôi

trong tâm hồn mình câu chuyện về con trâu đen bằng một niềm tin thơ trẻ, thiêng liêng. Tuổi

thơ của cậu gắn với bến Cốc và gắn với huyền thoại đó. Cậu luôn ước mong một ngày kia được

gặp con trâu đen, được hưởng điều kì diệu, để “có sức mạnh phi thường, bơi lặn dưới nước giỏi

như tôm cá”. Trên hành trình thực hiện giấc mơ ấy cậu đã trải qua bao nhiêu vất vả, cay đắng,

thậm chí có lần suýt mất mạng. Hình ảnh con trâu đen là biểu tượng cho vẻ đẹp, sự thanh tao,

sự huyền diệu tuyệt vời của cuộc sống. Nhân vật “tôi” đã đốt cháy lòng mình bằng khát vọng

hướng đến sự cao đẹp đó.

Nhân vật Chương trong chùm chuyện Con gái thuỷ thần cũng là một thanh niên đầy mơ

mộng. Mặc dù cuộc sống của Chương trôi đi trong sự lặp lại buồn tẻ, quẩn quanh hết làm ruộng

lại đào đá ong, lột giang đan mũ … song trong tâm trí anh lại luôn bị ám ảnh huyền thoại về Mẹ

Cả. Để rồi một ngày kia, không cưỡng lại được sức vẫy gọi diệu kì của nó, anh đã chấp nhận

dấn thân vào những cuộc hành trình rong ruổi kiếm tìm. Mong muốn của anh là đi tìm bằng

được tìm Mẹ Cả, tìm Gianna Đoàn Thị Phượng. Nhưng rốt cục anh chỉ có thể thấy những phân

mảnh bé nhỏ của Mẹ cả hiện lên thấp thoáng, nửa thực nửa mơ. Có lúc huyền thoại ấy hiện lên

qua “tấm lưng trần dẻo dai loáng nước quẫy ở trước mặt loang loáng dưới trăng, thật kinh dị

nhưng đẹp lắm” của một cô bé trong cái đêm anh đuổi theo những đứa trẻ bẻ trộm mía. Có lúc

anh mơ hồ nhận ra bóng hình và tâm hồn Mẹ Cả trong những người phụ nữ anh đã vô tình gặp

gỡ trong đời: cô giáo Phượng trong lớp học nghiệp vụ, cô Phượng con ông trùm xứ đạo, cuối

cùng là cô Phượng chủ nhà nơi Chương làm thuê …nhưng tất cả đều không phải là Mẹ Cả,

không phải là Gianna Đoàn Thị Phượng. Trên con đường tìm kiếm ấy Chương đã phải vật lộn

với cuộc sống, và đó cũng là cơ hội để anh được cọ xát với thế giới phong phú bên ngoài, thoát

khỏi cuộc sống quẩn quanh, tù túng, trì trệ của làng quê mình. Kết thúc những cuộc hành trình

tìm kiếm, anh vẫn chưa thể nào đạt được mục đích của đời mình. Thiên truyện khép lại nhưng

người đọc vẫn bị ám ảnh mãi bởi chính sự day dứt của Chương “Con gái Thủy thần! Nàng ở

đâu? Nàng ở chỗ nào?Vì cái gì? Bởi lẽ gì? Để tôi mượn màu son phấn ra đi…”. Nhân vật “tôi”

hay nhân vật Chương – những con người giàu mơ mộng sẵn sàng dấn thân vào cuộc kiếm tìm

trong cô đơn, lặng lẽ. Tìm kiếm suốt một thời thơ ấu và cũng có khi là sự tìm kiếm suốt cả cuộc

đời. Thời gian trôi qua, nhân vật “tôi” đã quên đi con trâu đen huyền thoại khi phải đối diện với

những bộn bề lo toan của cuộc sống, còn Chương – anh sẽ tiếp tục rong ruổi ra đi với hành trình

tới biển. Đó là niềm khát khao tột bậc của con người, của nghệ thuật, luôn mong muốn vươn tới

sự hoàn mỹ, vươn tới cái đẹp. Muốn vượt khỏi dòng sông, bến nước nhỏ bé, chật hẹp để ra với

biển lớn, cho dù phải chịu nhiều đắng cay phũ phàng.

Nông thôn, hay chính những con người ở nông thôn là một trường học lớn, một người

thầy lớn có thể dạy dỗ ta bao nhiêu điều thú vị. Hiếu – chàng trai thị thành (nhân vật xưng “tôi”

trong Những bài học nông thôn) về nghỉ hè tại một vùng quê đã học được từ nông thôn rất

nhiều điều bổ ích. Bài học đầu tiên mà Hiếu có được đó là sự tôn trọng tôn ti trật tự, sự phân

biệt nam nữ trong bữa cơm đầu tiên ở nhà người bạn học. Bài học thứ hai là niềm vui sống hoà

mình với thiên nhiên để có được một tâm hồn trong trẻo, khoáng đạt qua cuộc chơi thả diều với

ông Ba Đình. Chính những khoảnh khắc đó, cuộc sống đã tràn ngập vào tâm hồn anh, tạo ra

một cảm giác “dịu dàng mà bí ẩn” để anh quên đi tất cả xô bồ, ngột ngạt của cuộc sống hiện

tại. Bài học thứ ba là những suy tư thật đơn giản thật thà về cuộc sống, về hạnh phúc gia đình

của chị Hiên. Bài học thứ tư, một bài học khó hiểu đậm chất triết lí của thầy giáo Triệu về văn

chương, về chính trị về ảnh hưởng của cuộc sống đô thị đến cuộc sống ở nông thôn. Những bài

học nông thôn mà Hiếu học được chính là những bài học đầu tiên về cuộc sống để cậu học sinh

ấy tự tin hơn khi bước vào đời.

Những truyện viết về nông thôn không cày xới tâm hồn người đọc bằng cảm giác ghê rợn

hay đau nhói, tái tê như những trang viết về cuộc sống và con người thành thị, nhưng vẫn gieo

vào lòng người đọc cảm giác buồn man mác. Tiếp xúc với những tác phẩm này, người đọc cảm

thấy yêu hơn, gắn bó hơn với những miền quê lam lũ khó nghèo. Hiểu được vẻ đẹp tâm hồn của

những chàng trai quê cùng với những khát khao cháy bỏng của họ.

Cảm hứng trữ tình là một dạng thức cảm hứng nghệ thuật đặc trưng của thơ ca và có cả

trong văn xuôi. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là truyện ngắn viết về miền núi và

nông thôn, tràn ngập cảm hứng trữ tình.

Rất dễ nhận ra, cảm hứng trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp xuất phát từ sự

chiêm nghiệm, quan sát của tác giả về vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn con người. Ông hân

hoan ngợi ca cái mỹ lệ của núi rừng hoang sơ và mải miết đi tìm cái bản chất thuần phác mà

minh triết của những con người cách xa cái gọi là văn minh thị thành. Cảnh sắc và huyền thoại

quyện nhau trong chuỗi truyện miền núi. Đó là một thiên nhiên gợi cảm, đầy sức sống của rừng

xuân: “Cây cối đều nhú lộc non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt”. Nổi bật trên sắc xanh óng ả của

rừng xuân là màu trắng của hoa tử huyền, loài hoa “cứ ba chục năm mới nở một lần…màu

trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm, người ta vẫm gọi hoa này là muối của rừng” (Muối của rừng).

Một khung cảnh thiên nhiên huyền bí của rừng đêm: “Đêm trong rừng mênh mông và hư ảo

lắm. Tiếng côn trùng rỉ rắc. Mùi hương rừng nồng nàn” (Mưa Nhã Nam). Và đây là vẻ huyền

ảo bảng lảng không khí cổ tích của một không gian sống động, gợi cảm dưới ngòi bút miêu tả

tinh tế của tác giả: “Bản Hua Tát ở trong thung lũng hẹp và dài, ba bề bốn bên là núi cao bao

bọc, cuối thung lũng có hồ nước nhỏ, nước gần như không bao giờ cạn. Xung quanh hồ, khi thu

đến, hoa cúc dại nở vàng đến nhức mắt” (Những ngọn gió Hua Tát)… Vẻ đẹp của thiên nhiên

còn là cái bình dị mộc mạc của làng quê thanh bình trải dài những cánh đồng, thửa ruộng. Khi

là một cánh đồng lúa đang thì con gái: “Lúa lên đòng nên có mùi thơm ngào ngạt. Trời nắng,

thứ nắng đầu mùa hạ, không khô mà dịu” (Chăn trâu cắt cỏ), khi là cảnh trí sau vụ gặt của nhà

nông: “Phía chân trời, mây cuồn cuộn rực hồng một màu lửa. Mặt ruộng nứt nẻ. Cả cánh đồng

hực lên mùi hương đất nồng nàn” (Những bài học nông thôn). Là cảnh vật về đêm nơi thôn dã

trông như một bức tranh thủy mặc dưới ánh trăng: “Ánh trăng soi rõ mồn một, trông thấy cả

những rễ mía trông hơi giống đầu rẽ si đâm tua tủa ở các đốt cây. Rặng mía hắt bóng thẫm đen

chạy dài trên mặt cát đã bị gió làm cho khô se đi nên rất mịn. Thỉnh thoảng gió đùa rào rào

trong các bãi mía nghe lạnh cả người” (Con gái thủy thần).

Nếu vẻ đẹp ban sơ, tinh khiết của thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đem

đến cho người đọc những khoảnh khắc thư thái cho tâm hồn thì vẻ đẹp của tâm hồn con người

sẽ làm ta tin tưởng vào những điều tốt đẹp giữa cuộc đời nhiều ô trọc. Chị Thắm trong Chảy đi

sông ơi là một người phụ nữ dịu dàng, nhân hậu. Chính chị đã cứu sống nhân vật “tôi” trong cái

đêm cậu theo trùm Thịnh đi đánh cá và bất ngờ bị hất ngã xuống sông. Hiểu rất rõ về bản chất

cũng như tâm tính của những người như trùm Thịnh, đội Tảo … nhưng cái nhìn của chị với họ

vẫn rất bao dung: “ Đừng trách họ thế … Có ai yêu thương họ đâu … Họ đói mà ngu muội

lắm”. Chị Thục trong Những người thợ xẻ cũng là một người phụ nữ hiền lành, tốt bụng như

vậy. Chị luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người trong mọi hoàn cảnh: Tìm việc cho toán thợ xẻ xa lạ,

chăm sóc Ngọc ân cần, chu đáo khi anh bị ốm đau… Lòng tốt của chị khiến cho một kẻ lưu

manh đểu giả như Bường cũng phải nể phục. Những gì chị làm đều là việc nghĩa và với Bường,

anh ta cũng không thể quên “khắc cốt ghi xương”: “nghĩa này phải trả đây”. Tấm lòng của

thầy giáo Triệu cùng với hành động xả thân cứu người của anh trong Những bài học nông thôn

khiến trái tim tác giả bật lên thành những vần thơ cảm động:

“Ng ười ta phải cám ơn anh

người thầy giáo nông thôn

Anh là người khai hóa vĩ đại của nhân dân tôi

Đ ây mới là kiến thức tinh khiết…”

Không chỉ xuất hiện ở những người đã trưởng thành, bản tính nhân hậu còn có cả trong

tâm hồn những đứa trẻ. Cái Thu trong Tâm hồn mẹ vốn là một đứa bé ngay từ thủa ấu thơ đã

mang trong lòng bản tính dịu dàng và bản năng làm mẹ. Điều ấy trở thành điểm tựa tâm hồn

nâng đỡ chú bé Đăng trong những tháng ngày thiếu hơi ấm, tình thương của mẹ.

Cảm hứng trữ tình trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn tỏa ra từ những trang viết

về tình yêu nam nữ - một thứ tình cảm vô cùng tuyệt diệu của con người. Trong truyện Trái tim

hổ, chàng Khó dị dạng say đắm nàng Pùa tật nguyền, “đêm đêm, họ thấy Khó đứng dưới chân

sàn nhà Pùa nhìn lên như kẻ si tình”. Với sự thôi thúc mãnh liệt của trái tim yêu, chàng Khó đã

bí mật đi giết con hổ dữ để lấy trái tim nó làm thuốc chữa bệnh cho Pùa. Truyện tình kể trong

đêm mưa kể về mối tình tha thiết của một tên thổ phỉ tên là Bạc Sinh Kì với Muôn, một cô gái

vùng cao xinh đẹp. Chỉ có tình yêu của Muôn mới đủ sức làm dịu bản tính hung hãn của Sinh

Kì, “chỉ khi nào ánh mắt của y gặp ánh mắt của Muôn nó mới dịu đi đôi chút, nó mới có vẻ như

ánh mắt người”. Chỉ có tình yêu của Muôn mới làm trái tim kẻ phong trần, bụi bặm ấy cất lên

tiếng hát:

“ Pò mệ ơi! Bố mẹ ơi…

Pò mệ sinh con từ hang núi

Nơi ấy có gió lạnh lắm

Đêm mưa nhiều gió lạnh lắm…”

1.2.3.2. Đề tài thành thị và cảm hứng phê phán

Thành thị là nơi Nguyễn Huy Thiệp từng sống thời trai trẻ, cũng là nơi ông trở về sau

hơn mười năm gắn bó với đại ngàn. Mười năm là khoảng thời gian không thật dài so với cuộc

đời mỗi người, song mười năm xa cuộc sống thị thành trong “buổi giao thời”, nay trở về

Nguyễn Huy Thiệp nhận thấy biết bao đổi thay.

Cuộc sống của con người trong những năm đầu của thời kì đổi mới cùng với những trạng

thái nhân sinh phức tạp hiện lên trong mỗi trang viết của Nguyễn Huy Thiệp khiến người đọc

cảm thấy ngỡ ngàng, thậm chí choáng váng, hồ nghi. Nguyễn Huy Thiệp có nhiều tác phẩm viết

về đề tài này, song tiêu biểu hơn cả có thể kể đến Tướng về hưu, Không có vua, Huyền thoại

phố phường…

Từng nói: “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành

bướm và hoa, đấy là chí thánh”, Nguyễn Huy Thiệp đã làm như thế. Nhà văn đã đi tìm, tìm

trong những cái nhếch nhác, nham nhở, đồi bại, xấu xa, hèn kém, đốn mạt … tựu trung lại là

tìm trong “bùn” để có thể giúp người đọc hiểu thấu bản chất phức tạp của cuộc sống.

Đến với những tác phẩm viết về đề tài thành thị, người đọc dễ dàng nhận ra nhận ra thứ

bùn sền sệt, và đặc quánh mà nhà văn đã không ngần ngại “ngập” mình trong đó để rồi “sục

tung lên” phơi bày trước mắt mọi người những thực trạng nhức nhối. Nhân vật trong mảng đề

tài này của Nguyễn Huy Thiệp hết sức đa dạng, và sự đa dạng ấy tồn tại ngay trong bản thân

từng tác phẩm. Từ: tướng lĩnh, kĩ sư, bác sĩ, người làm thuê, cô gái lỡ làng, thằng tù … (Tướng

về hưu), đến: chuyên viên bộ, sinh viên, thợ sửa xe đạp, thợ cắt tóc, tên đồ tể hay người phụ nữ

nội trợ quẩn quanh nơi xó bếp (Không có vua), và đây nữa: chuyên viên của một vụ, nhân viên

xưởng phim truyện, cô học sinh trượt đại học, bà chủ tiệm vàng (Huyền thoại phố phường) …

với rất nhiều mối quan hệ phức tạp: cha - con, mẹ - con, anh - em, ông - cháu, họ hàng, thông

gia, nhân tình nhân ngãi … Trong những truyện ngắn dựng lại được “sơ đồ của tiểu thuyết” ấy,

với sự tỉnh lược hầu như tuyệt đối những câu, những đoạn văn miêu tả ngoại cảnh, thiên

nhiên… con người hiện lên chân thật, sống động thậm chí còn có phần thật hơn ở ngoài đời.

Nếu trước đây, trong các tác phẩm của giai đoạn văn học trước đó chúng ta bắt gặp

những mối quan hệ gia đình hết sức đặc biệt trong các sáng tác của Nguyên Ngọc, Nguyễn Thi,

Anh Đức … Các thành viên trong gia đình gắn kết với nhau chặt chẽ, sẵn sàng hi sinh cho nhau

để cùng hi sinh cho đất nước. Người đọc từng cảm thấy khâm phục pha lẫn hãnh diện tự hào

trước sự đồng cam cộng khổ của những cặp vợ chồng cùng tham gia kháng chiến “Tôi chia lửa

cho đồng chí chồng rút đó nghen” (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi) … Thì trong xã hội thị

thành, khi cơ chế bao cấp đã bị thay thế bằng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa, mối quan hệ gia đình cùng với những cách ứng xử của các thành viên với nhau lại là dấu

hiệu rõ rệt của sự xuống cấp trong đạo đức. Cả trong Tướng về hưu, Không có vua hay Huyền

thoại phố phường, người đọc đều có thể nhận thấy những mối quan hệ gia đình lỏng lẻo. Các

nhân vật không có sự gắn kết cần thiết để tạo thành một tế bào vững chắc cho xã hội. Vợ với

chồng sống cảnh “đồng sàng dị mộng” bên nhau như Thuần và Thuỷ trong Tướng về hưu.

Mặc dù tự nhận “quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm” song đó chỉ là vẻ bề ngoài, thực

chất giữa họ không thể có nổi một tiếng nói chung. Thuần chỉ biết “vùi đầu vào công trình

nghiên cứu điện phân”, với bản tính “cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng”, anh như đứng bên

ngoài tất cả mọi sự kiện xảy ra trong gia đình mình. Mọi công việc lớn nhỏ trong nhà đều do

một tay Thuỷ lo liệu, đều do một mình cô ấy quyết hết. Từ chuyện chi tiêu nhỏ nhặt hàng ngày

trong gia đình đến cả những sự kiện trọng đại như ma chay, hiếu hỉ. Lúc vợ chồng lục đục, giận

vợ, Thuần chỉ biết “dắt xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kì hết xăng” … Cũng

có khi mối quan hệ vợ chồng xây dựng trên quyền hành, bạo lực và sự chịu đựng mỏi mòn như

Sinh và Cấn (Không có vua). Họ lấy nhau vì đã từng có tình yêu nhưng cuộc sống vợ chồng

trong cái đại gia đình hổ lốn đã làm cho tình yêu phai nhạt. Cấn sẵn sàng tát vợ đến “nảy đom

đóm mắt” và sẽ còn tiếp tục đánh vợ không tiếc tay nếu không có sự can ngăn kịp thời của

người em trai. Sinh thì chấp nhận hiện thực phũ phàng ấy với bản tính nhịn nhục của người phụ

nữ …

Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong đời sống của các gia đình ở thị thành cũng có

thật nhiều điều đáng nói. Một ông Tướng cả đời chinh chiến ngoài trận mạc, những năm tháng

cuối đời trở về sống với gia đình lại không thể tìm được tình cảm yêu thương, gần gũi từ đứa

con trai độc nhất của mình. Đứa con mà ông đã cố gắng tạo dựng cho nó tất cả - từ nhà cửa đến

nghề nghiệp, tương lai. Sống trong ngôi nhà của mình, với con cháu của mình, ông phải cay

đắng thốt lên “Sao tôi cứ như kẻ lạc loài”. Trước đứa con dâu thực dụng, toan tính cùng những

hành động mất cả tính người của nó, ông cũng chỉ còn biết khóc và nếu có quyết liệt hơn đó

cũng chỉ là hành động“cầm phích đá ném vào đàn chó bécgiê”. Khi con dâu hú hí với nhân tình

ngay trong nhà, thằng con trai thì bạc nhược bưng tai, che mắt, ông cũng chỉ còn biết “lắc đầu,

bỏ đi lên gác”… Không chỉ như vậy, quan hệ cha con trong gia đình lão Kiền (Không có vua)

mới thật là khủng khiếp. Cha - con không ai coi ai ra gì, tất cả đều “cá mè một lứa”. Cha luôn

mắng mỏ, dè bỉu con bằng những lời lẽ độc địa, ráo hoảnh tình thương yêu. Với Đoài, lão Kiền

bảo: “Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi. Chữ tác chữ tộ không biết , chỉ giỏi đục

khoét”. Với Khảm, lão mắng: “Đồ ruồi nhặng! Học với hành! Người ta dạy dỗ mày cũng phí

cơm toi”, với Cấn lão buông ra lời khen nhưng lại còn đau quá chửi “Cái nghề cạo đầu ngoáy

tai của mày, nhục thì nhục nhưng hái ra tiền”. Vợ mất sớm, lão không tái giá để dốc sức lo cho

con cái nhưng rồi cũng chính lão, một hôm thấy con dâu tắm, không kìm chế được mình, lão

bèn bắc ghế nhìn trộm. Đáp lại một cách tương xứng, khi bố ốm nặng, con cái họp gia đình để

cùng biểu quyết : “ai đồng ý bố chết giơ tay”. Và khi bố chết thì họ mừng rỡ thốt lên: “thật

may quá. Bây giờ tôi đi mua quan tài”… Quan hệ giữa hai mẹ con bà Thiều trong Huyền thoại

phố phường cũng rất “đặc biệt”. Sẵn sàng bỏ ra cả đống tiền tổ chức sinh nhật cho con gái

nhằm khoe khoang với mọi người về sự giàu sang cũng như sự cưng chiều với con cái, nhưng

vì chiếc nhẫn vàng một chỉ mà bà sẵn sàng “tát một cái bất ngờ làm cô con gái ngã lạng” ngay

trước mặt rất nhiều bạn bè, khách khứa…

Mối quan hệ anh em trong các gia đình ở thành thị cũng được Nguyễn Huy Thiệp mổ xẻ.

Không thấm nhuần tư tưởng đạo lí “chị ngã em nâng”, “anh em như thể tay chân” của ông bà

ta xưa, những kẻ cùng huyết thống trong xã hội thị thành đối xử với nhau cũng hết sức kì cục.

Anh em cắt tóc cho nhau cũng thanh toán tiền sòng phẳng như người dưng, làm mai làm mối

cho nhau cũng phải ghi giấy biên nhận trả công cẩn thận. Em chồng suốt ngày nhăm nhe tán

tỉnh chị dâu … Chứng kiến những cảnh tượng, những mối quan hệ như thế, người đọc không

chỉ tức giận mà còn thấy đau đớn. Đau đớn vì sự băng hoại đạo đức, nhân cách trong những gia

đình hiện đại ở thành thị.

Đọc xong mỗi câu truyện, trong lòng bạn đọc hẳn còn lại nỗi day dứt, trăn trở khôn nguôi

về con người, về nhân tình thế thái. Ngòi bút của nhà văn bật lên những trang viết như cào cứa

vào trái tim người đọc khiến nó rỉ máu. Thông qua những tác phẩm trên, Nguyễn Huy Thiệp đã

phản ánh mặt trái của xã hội hiện đại khi bước vào thời kì đổi mới, khi con người ta được trở về

với trạng thái bình thường nhất của cuộc sống. Và ở đấy, ông đã nhìn thấy, đã phơi bày trước

mắt chúng ta một cách rất cụ thể, rõ ràng, hiện thực về một xã hội mất ổn định, đang bị tha hoá

trong đạo đức, nhân phẩm con người. Một xã hội mà con người đối xử với nhau bằng những

toan tính thực dụng. Những giá trị tình cảm tốt đẹp đều được cân đo đong đếm bằng vật chất, bị

vật chất chi phối, quyết định. Trong điều kiện sống như vậy, con người rất khó giữ được lương

tâm, nhân phẩm. Những vấn đề, những hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp đề cập tới trong các tác

phẩm của mình hoàn toàn không phải là cá biệt. Chỉ cần chịu khó để ý một chút ta sẽ thấy nó

xuất hiện nhan nhản trong cuộc sống thành thị hiện nay.

Có thể nói, khi viết về thành thị, trong Nguyễn Huy Thiệp chừng như cồn nên một nỗi

đắng cay. Ông như muốn lột trần, lộn trái mọi sự. Ngòi bút của ông trở nên cay nghiệt, lạnh

lùng: cảm hứng phê phán tuôn trào từ đấy.

Tướng về hưu mở đầu cho cảm hứng này. Chọn cách kể dửng dưng, nhát gừng về bi

kịch một anh hùng (tướng Thuấn), nhưng tác giả lại đặt lời kể ấy vào miệng nhân vật người

con, với cách làm này Nguyễn Huy Thiệp đã gây sốc cho mọi người. Gần như cả cuộc đời gắn

liền với súng đạn, trận mạc, thiếu tướng Thuấn lại trở nên “lạc loài” giữa cuộc sống đời

thường, cuối cùng ông đã phải tìm đến với cái chết. Không chỉ vậy, truyện còn đề cập đến sự

tha hóa của con người trước lối sống thực dụng, dưới sức mạnh ghê gớm của đồng tiền. Để trục

lợi, Thủy không từ cả việc xay thai nhi làm thức ăn cho chó béc giê, lạnh lùng tính toán sòng

phẳng cả với những người thân của mình. Lối sống thực dụng, quá đề cao đồng tiền còn tác

động đến rất nhiều người khác. Từ lão Bổng cộc cằn đến thằng con trai vũ phu cùng đám bạn

làm chung trong hợp tác xã xe bò. Bài hát “Ừ ê cái con gà quay. Ta đi lang tang khắp miền

giang hồ. Tìm nơi nào có tiền. Tiền ơi mau vào túi ta. Ừ … ê cái con gà rù” vang lên trong đám

cưới thằng Tuân chính là tiêu chí sống cả rất nhiều con người, là mục đích kiếm tìm của rất

nhiều người.

Nếu Tướng về hưu là cái trí thức nề nếp phi nhân thì Không có vua lại là cái bình dân

nhếch nhác, vô văn hóa. Cả hai truyện ngắn này đều được nhà văn viết cùng bút pháp. Cũng

cách kể nhát gừng, cũng giọng văn tưng tửng ấy, Nguyễn Huy Thiệp khắc họa một gia đình thị

dân nghèo. Cảm hứng phê phán tràn ngập truyện. Người đọc cảm thấy ngộp thở vì cái không

khí chung đụng, cảm thấy buồn nôn vì cái trâng tráo của con người. Nhưng nếu trong Tướng về

hưu đối tượng bị phê phán là phụ nữ (Thủy), thì trong Không có vua, ngược lại, đối tượng phê

phán của tác giả chủ yếu là đàn ông. Bảy thành viên trong gia đình là bảy số phận khác nhau.

Một người cha đã từng trải qua cảnh sống “gà trống nuôi con”, bị cuộc sống khốn khó làm cho

trở nên cau có, nghiệt ngã. Cô con dâu lạc vào một gia đình không tôn ti trật tự đã phải chịu

đựng biết bao điều cay đắng, xót xa. Một kẻ chuyên ăn cắp lòng và thịt lợn từ lò mổ trở thành

“tâm phúc” của cả nhà. Một chàng sinh viên nghèo tay trắng thì bị coi như là “đồ ruồi nhặng”.

Một quan chức của ngành giáo dục cuối cùng lại trở thành kẻ “chỉ giỏi đục khoét”, đánh mất

hết cả nhân tính khi luôn tìm mọi cách gạ gẫm, tán tỉnh, chiếm đoạt chị dâu.

Trong Huyền thoại phố phường, nhà văn đi vào thể hiện số phận đầy bi kịch của một trí

thức trẻ. Mặc dù ba mươi tuổi “đã khẳng định được tài năng”, song, chàng trai trẻ này lại

không cưỡng nổi trước sức cám dỗ của đồng tiền. Đồng tiền đã biến Hạnh trở thành con người

nhỏ nhen, ti tiện. Với hàng loạt những mưu mô và thủ đoạn bỉ ổi để chiếm đoạt tờ vé số của mẹ

con bà Thiều, kết cục cuối cùng của Hạnh là chuyển từ một chỗ ở “chỉ kê vừa cái giường một”

đến “viện tâm thần”. Phải chăng, đây chính là một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ cho những kẻ coi

đồng tiền là mục đích sống cao nhất của mình. Hạnh chỉ là một điển hình tiêu biểu cho lối sống

thực dụng đang nhan nhản chốn thị thành.

Nhận xét về mảng truyện ngắn được viết ra từ cảm hứng phê phán, Trần Duy Thanh viết:

“ngòi bút lạnh lùng của Nguyễn Huy Thiệp cứ thản nhiên phơi ra trên mặt giấy bao nhiêu điều

xấu xa, nhơ nhuốc, bỉ ổi của người đời. Anh không chỉ “lật áo” của nhân vật mà thật sự đã lôi

tuột những thứ che đậy để nói ra những điều vừa đau đớn, vừa chua xót nhưng thương lắm …

Nguyễn Huy Thiệp dường như vẫn thiên về miêu tả những cảnh đời nhiều cay đắng, khốn cùng,

bệ rạc về tiền nong vì mong muốn trục lợi bằng một cái nhìn thông minh và sắc lạnh” [42, tr.

88]. Với trách nhiệm của một người cầm bút, Nguyễn Huy Thiệp không ngần ngại “lật áo” cho

người “xem lưng”, không những vậy, ông còn làm điều đó với một vẻ bề ngoài lạnh lùng, khinh

bạc. Trước cách làm ấy, nhiều độc giả cho Nguyễn Huy Thiệp là người “nhẫn tâm”, hay thiếu

mất cái tâm trong sáng của người cầm bút. Song nếu để ý nghiền ngẫm, ta sẽ thấy, đằng sau tất

cả những gì ông viết, sự xót đau luôn dâng ngập lòng ông. Vì vậy, dù động chạm đến những

tiêu cực đang từng ngày, từng giờ hiện hữu trong xã hội, ông vẫn không làm ta tuyệt vọng, nhất

là không làm ta tuyệt vọng về con người. Ngay cả khi phanh phui những cái ác, cái xấu tồn tại

trong bản chất con người ông vẫn tìm ra những điều thật nhân bản. Các nhân vật mà ông xây

dựng vì vậy không chỉ là những điển hình một chiều, đen – trắng rõ ràng, minh bạch. Tính cách

của họ thường bao hàm những thái cực đối lập. Người đọc sẽ thấy một ông Tướng về hưu, bất

lực, cô đơn trước thực tại nhưng vẫn giữ nhân cách trong sáng. Lão Bổng tuy lỗ mãng, coi tiền

hơn tất cả nhưng vẫn sung sướng đến bật khóc hu hu khi được gọi “là người”. Cô Thủy lạnh

lùng đến tàn nhẫn kia nhưng cũng là người biết điều, biết người. Cô cũng đã từng có lúc òa

khóc thú tội với chồng: “Em thật có lỗi với anh, với con”. Đoài (Không có vua) dù ti tiện và

đểu cáng nhưng cũng còn là kẻ biết nghĩ đến bổn phận, trách nhiệm: “ Ngày kia giỗ mẹ. Anh

Cấn bảo chú Khiêm mai kiếm cho được cân thịt ngon ngon. Em đưa chị Sinh một trăm rồi đấy”

. Và Sinh, người phụ nữ nhịn nhục, chịu đựng tột cùng trong một gia đình đã mất hết tôn ti trật

tự vẫn luôn vươn lên để sống tốt hơn, để có thể đem tình yêu thương của mình cảm hoá mọi

người – đó phải chăng cũng chính là mong muốn cháy bỏng của chính tác giả Nguyễn Huy

Thiệp?

Tiếp xúc với nhiều truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, hẳn trong lòng người đọc sẽ bật ra

những câu hỏi: Con người là gì? Bản chất của con người ra sao? Đáng tin cậy hay thất vọng về

con người? Và chắc hẳn cuối cùng, chúng ta vẫn muốn tin vào tính thiện, dù còn lại thật nhỏ bé

nhưng cũng không bị triệt tiêu hoàn toàn trong con người.

1.2.3.3. Đề tài lịch sử - văn hoá và cảm hứng tự vấn

Được gợi cảm hứng từ lịch sử, văn hóa dân tộc, Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng trong

truyện ngắn của mình những nhân vật mà tên tuổi của họ đã hằn sâu vào đời sống tâm linh và

văn hoá của rất nhiều người. Đó là Nguyễn Trãi, Quang Trung, Gia Long, Hoàng Hoa Thám,

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương … Những nhân vật này vì được nhìn từ góc độ

khác đã trở nên rất thực và rất đời. Họ “cựa quậy” trong trí tưởng tượng của Nguyễn Huy Thiệp

và thách thức ông bứt phá người đọc ra khỏi quan niệm cố hữu. Cũng vì vậy, không ít người

cho rằng Nguyễn Huy Thiệp đã “làm cho diện mạo lịch sử méo mó đi”, đã “xúc phạm tới danh

dự dân tộc” (Tạ Ngọc Liễn), ông “có cái tâm không trong sáng” và có thái độ “vô chính phủ

về lịch sử” (Đỗ Văn Khang ), “sự vay mượn của Nguyễn Huy Thiệp không nghiêm túc, thậm

chí quá trớn, đối đãi với lịch sử như sự đùa tếu” (Nguyễn Văn Lưu).

Tuy nhiên, rất cần phải có cái nhìn toàn diện và thấu triệt hơn về các tác phẩm được viết

từ cảm hứng lịch sử - văn hóa như: Kiếm Sắc, Vàng lửa, Phẩm Tiết, Mưa Nhã Nam, Nguyễn

Thị Lộ, Chút thoáng Xuân Hương, Thương cả cho đời bạc…

Trong Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn nhận và thể hiện một nhân vật Nguyễn Ánh

hoàn toàn trái ngược với cách nghĩ, cách cảm truyền thống. Cho dù có tài mưu lược, bản tính

lại kiêu ngạo, hiếu thắng nhưng cuối cùng ông vẫn là một con người bình thường bằng xương

bằng thịt. Cảm động sâu xa trước nhan sắc và giọng hát của Vinh Hoa nhưng Ánh không thể có

được nàng. Ánh không được sống đúng là mình, không được làm những điều mình muốn bởi

Ánh ở ngôi vị đế vương, chỉ được phép cao cả, không được phép thấp hèn. Có những lúc, lòng

Ánh chỉ mong ước được là “người thường” để mặc lòng yêu ghét. Nỗi khao khát Vinh Hoa

thiêu đốt lòng Ánh đến nỗi trên đường hành quân ra Bắc mà Ánh cứ nghe " văng vẳng tiếng hát

ca nữ bên tai”.

Trong Vàng lửa, Gia Long hiện lên qua cách nhìn nhận của một người ngoại quốc. Dưới

cái nhìn ấy, Gia Long mặc dù là người “đóng trò rất giỏi trong triều đình”, nhưng lại là “một

khối cô đơn khổng lồ”, trên chính đỉnh cao danh vọng mà mình khổ công để tạo dựng.

Ở Phẩm tiết, tác giả không xây dựng hình tượng vua Quang Trung ở tư thế bách chiến

bách thắng với hình ảnh chiếc áo bào đen sạm màu khói súng, mà tái hiện hình ảnh Quang

Trung hết sức đời thường với những cung bậc tâm trạng hết sức phong phú, đa dạng. Có những

lúc nóng giận khi đối diện với những gian ngoan lọc lõi của người đời, lúc thất vọng khi không

sở hữu được thể xác của một cô gái đẹp, có lúc lại rất bình dị chân thực: “Vì dẹp loạn mà ra, để

rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết

con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không”.

Ở truyện Mưa Nhã Nam, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng xây dựng một nhân vật

Hoàng Hoa Thám chủ yếu ở khía cạnh sống đời thường. Trong những cuộc chuyện trò với bạn

bè về chuyện cái ăn cái mặc, chuyện dựng vợ gả chồng, chuyện thơ phú, văn chương… tất cả

không liên quan gì đến việc đánh Pháp. Tác giả cũng không ngần ngại giới thiệu với người đọc

những sở thích rất bình dị của Đề Thám: ông thích uống rượu sắn với lòng lợn luộc chấm mắm

tôm chanh kèm với rau húng. Rất nhiều lúc người anh hùng Yên Thế này được Nguyễn Huy

Thiệp cho lặn sâu xuống đáy tâm tư để chiêm nghiệm, ngẫm nghĩ về cuộc đời. Không ít lúc Đề

Thám đã òa khóc. Ông khóc “cho mình, cho người, cho tất cả những hữu hạn của chính mình

của mỗi người” , ông yếu mềm và nhu nhược như “một anh bán bánh đa mật ở chợ Kế, một

viên công chức quèn, một anh chàng thợ bạc vụng về, một ông giáo nghèo”…

Các nhà văn, nhà thơ – các nhân vật văn hóa cũng là đối tượng gợi cảm hứng mãnh liệt

đối với Nguyễn Huy Thiệp, song trong tác phẩm của mình ông cũng thể hiện cách nhìn nhận về

họ khác hẳn. Thi hào Nguyễn Du trong sự hình dung của người đời hẳn phải là người hào hoa,

lịch lãm. Song trái ngược hẳn, trong truyện ngắn Vàng lửa, ta lại bắt gặp “một con người bé

nhỏ, mặt nhàu nát vì đau khổ” nhưng lại là “đại diện cho nhân dân ở phần u uất nhất, trữ tình

nhất nhưng cũng đáng thương nhất”. Trong Chút thoáng Xuân Hương cũng xuất hiện một

Xuân Hương khác hẳn: dịu dàng, nữ tính và trở thành hiện thân của vẻ đẹp thiên tính nữ.

Như vậy, qua cách xây dựng các nhân vật trên ta thấy, Nguyễn Huy Thiệp không hề “bôi

đen” hay “xuyên tạc lịch sử”. Ông chỉ viết theo cách cảm, cách nghĩ riêng của mình. Nguyễn

Huy Thiệp chỉ mượn lịch sử để “bộc lộ thái độ đối với hiện tại” (Nguyễn Văn Lưu) Và “anh

không định qua các nhân vật ấy, đánh giá lại lịch sử, đánh giá lại bản thân các nhân vật ấy.

Ông chỉ mượn các nhân vật và hoàn cảnh lịch sử để nói chuyện khác” (Nguyễn Văn Bổng). Và

quả thực, với sự rút ngắn về khoảng cách, những nhân vật lịch sử trong trang văn Nguyễn Huy

Thiệp dường như đã trút bỏ bộ quần áo đế vương để gần gũi hơn, người hơn.

Có thể nói, với đề tài lịch sử - văn hóa, Nguyễn Huy Thiệp đã như muốn khoan sâu vào

tầng vỉa di sản quá khứ, để tìm ra bản chất dân tộc. Chọn loại chất liệu này, Nguyễn Huy Thiệp

thể hiện được một tầm vóc khác : ấy là một người nghệ sĩ có khả năng chiêm nghiệm và đặt lại

vấn đề về cộng đồng. Cảm hứng tự vấn - tự vấn cá nhân và tự vấn cộng đồng - chan chứa nơi

đây, điều này cũng đã từng tạo ra một cú sốc khác trong công luận.

Trong cảm hứng ấy, Nguyễn Huy Thiệp đặc biệt chú ý mối quan hệ giữa cái cơ chế xã

hội và con người cá nhân. Dường như ông muốn đi tìm một hằng số, một quán tính, hay là một

vô thức cộng đồng , trong tâm lý dân tộc, nó làm thành những rãnh hằn, những vết lầy, mà qua

bao thế kỷ, mỗi lần bánh xe lịch sử lăn qua, lại phải trượt sa vào đấy.

Nguyễn Huy Thiệp cũng quan tâm đến số phận của những con người ưu tú trong cơn lốc

lịch sử : mỹ nhân, thi nhân, danh tướng … tất thảy đều tâm huyết mà cô đơn, bất hạnh. Hình

như ông muốn nói rằng cái không gian văn hoá của xã hội chúng ta còn chật chội quá, những gì

ngoại hạng đều bị loại trừ.

Ngoài ra, Nguyễn Huy Thiệp còn muốn vén mở, xua tan những đám sương mù đã từ lâu

phủ vây trên các thần tượng. Tinh thần hiện đại của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng nằm

ở đây : thái độ xoá bỏ huyền thoại, hay phương thức diễu nhại, giải thiêng ... cũng là những

cách thức để lay động cộng đồng thức tỉnh, đối diện với thực tại của đất nước và dân tộc.

Chương 2: NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN HUY THIỆP

2.1. Các kiểu loại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Con người luôn luôn là đối tượng trung tâm của rất nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau,

trong đó có văn học. Từ xa xưa, trong thế giới của những câu chuyện thần thoại, ngụ ngôn – dù

con người không trực tiếp xuất hiện nhưng các thể loại truyện kể dân gian ấy vẫn nói về con

người, vẫn hướng về con người. Theo thời gian, văn học nghệ thuật càng phát triển thì việc đề

cập tới con người và tất cả những gì liên quan đến con người càng được chú trọng.

Lịch sử phát triển của nhân loại luôn là những bước đi liên tục, trong đó có tư duy của

con người. Ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn, con người lại có những cách quan niệm khác nhau về

chính mình và về đồng loại. Văn học Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn Việt Nam – qua nhiều

bước thăng trầm, đã có rất nhiều cách quan niệm khác nhau về con người. Mỗi nhà văn là

những thế giới riêng, luôn tiếp nhận những ảnh hưởng khác nhau dội đến từ cuộc sống bên

ngoài, do đó, quan niệm nghệ thuật nói chung – và quan niệm nghệ thuật về con người nói

riêng – của họ là hết sức phong phú đa dạng. Quan niệm này sẽ chi phối toàn bộ công việc sáng

tạo của nhà văn, nên dù việc tìm hiểu nó không hề đơn giản, chúng ta cũng cần phải xác định rõ

khi muốn tiếp cận các tác phẩm văn học của nhà văn ấy.

Từ sau đổi mới, nền văn học của chúng ta phát triển mạnh mẽ. Các nhà văn đã mạnh dạn

hơn khi bày tỏ quan điểm riêng của mình. Cách nhìn nhận và quan niệm về con người cũng có

những chuyển biến đáng kể. Trong thời chiến tranh, người ta lấy việc chọn lựa lí tưởng và hành

động cách mạng làm thước đo giá trị, phẩm chất của con người. Ở giai đoạn ấy, ta thường thấy

con người hiện lên với lí tưởng cộng sản, hành động quả cảm, khát vọng được xả thân vì tổ

quốc. Giờ đây, chiến tranh chỉ còn trong kí ức, con người được trở về với cuộc sống đời

thường, với những bộn bề lo toan cho cuộc sống thường nhật, cùng quá trình đấu tranh với

chính bản thân để tự hoàn thiện… Đây là thời điểm con người sẽ bộc lộ những phần thật nhất

trong bản chất người của mình. Những con người “hôm qua”, những anh hùng, hay những con

người thuộc về cộng đồng, về số đông, đã nhường chỗ cho những con người “hôm nay” hiện

lên với tư cách cá nhân, với tất cả sự phức tạp của cuộc mưu sinh khốc liệt và những cạnh tranh

của xã hội thuộc cơ chế thị trường. Thực tế đó đòi hỏi văn học phải chuyển đổi, cả về quan

niệm nghệ thuật, nội dung và cách viết.

Nguyễn Minh Châu – nhà văn đi tiên phong trong công cuộc đổi mới của nền văn học

nước nhà – đã bày tỏ quan niệm nghệ thuật về con người của mình, bằng việc đưa ra một thế

giới nhân vật với những cách gọi tên bước đầu gây nhiều bỡ ngỡ cho người đọc: con người đuổi

bắt ảo ảnh, con người đi tìm thế giới xung quanh và đi tìm cái tính chất tạp đa muôn màu muôn

vẻ của vũ trụ, của thế giới bao quanh con người và ngay ở trong nội tâm con người. Hòa trong

dòng chảy của khuynh hướng đổi mới, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng chứa đựng những

quan niệm hết sức mới mẻ, bất ngờ về con người. Quan niệm nghệ thuật ấy được bộc lộ qua các

kiểu loại nhân vật cụ thể: con người tha hoá – con người kiếm tìm – con người cô đơn.

2.1.1. Con người tha hoá

Có thể nói, kiểu nhân vật tha hoá xuất hiện từ rất lâu trong văn học thế giới. Ở phương

Tây, loại nhân vật này gắn với những tên tuổi lừng danh như Stendhal, Balzac, Puskin,

Chékhov… Ở Việt Nam, giai đoạn văn học 1930 – 1945, kiểu nhân vật này cũng đã xuất hiện

khá nhiều trong khuynh hướng văn học hiện thực phê phán, với các tác phẩm của Nguyễn Công

Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… Đến giai đoạn 1945 – 1975, do chịu sự chi phối của những

điều kiện lịch sử đặc biệt, các nhà văn ít xây dựng loại nhân vật này. Sau 1975, khi chiến tranh

kết thúc, đời sống con người trở về với trạng thái bình ổn. Từ đó, con người thoát khỏi thời kì

mà “ý thức cộng đồng” là kim chỉ nam cho những nghĩ suy, tình cảm, hành động. Khi có dịp

tĩnh tâm nhìn lại mình, đối diện với mình cũng là lúc con người phải bước vào một cuộc chiến

mới - thầm lặng nhưng lại vô cùng dai dẳng, khốc liệt. Ở đó họ nhận ra những phần tốt đẹp và

cả phần khuất tối trong tâm hồn mình và trong tâm hồn người khác. Những tác động mạnh mẽ

từ cuộc sống xã hội nhiều khi đã làm con người không còn giữ được những bản tính tốt đẹp của

mình, làm họ mất đi tính người, tình người.

Tinh tế, nhạy cảm và hết sức thẳng thắn – Nguyễn Huy Thiệp đã nhận thấy và nêu ra

những phần xấu xa, bần tiện ấy trong mỗi con người. Trong phần lớn truyện ngắn của ông,

người đọc dễ dàng bắt gặp loại nhân vật tha hoá như vậy. Không tô vẽ để nhân vật trở nên đẹp

đẽ hay chắp cánh cho con người bay cao hoá thân thành những thiên thần, Nguyễn Huy Thiệp

để cho họ sống với tận cùng bản chất của chính mình.

“Tha hoá” là một thuật ngữ triết học, dùng để nói lên hiện tượng một người bị biến

thành người khác, đánh mất đi cái tôi bản nguyên tốt đẹp vốn có của mình, dưới tác động của

môi trường. Nhân vật tha hoá xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, làm

thành hệ thống, với những cấp độ sắc thái đậm nhạt khác nhau, từ những nguyên nhân đa dạng.

Những suy nghĩ, hành động, những toan tính của họ nhiều lúc khiến người đọc không

khỏi kinh hãi, bàng hoàng, xót xa. Ở một vài truyện, nhà văn đã đi vào lí giải quá trình tha hoá

của nhân vật: Hạnh (Huyền thoại phố phường), Phong (Giọt máu)… Song, nhiều hơn cả, ông

đặt các nhân vật vào trong hoàn cảnh đã tha hoá: Thuỷ, ông Bổng (Tướng về hưu), Đoài, lão

Kiền (Không có vua), Bường (Những người thợ xẻ), người cha (Tội ác và trừng phạt)… Sự

tha hoá ở con người diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, có khi mới chỉ bắt đầu, có khi đã lún sâu,

thậm chí có khi sự tha hoá đã diễn ra hoàn toàn trong tận cùng bản chất con người và không còn

nguy cơ cứu vãn.

Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tha hoá của con người trong truyện ngắn Nguyễn

Huy Thiệp có một điểm khác biệt rất lớn với truyện ngắn của các nhà văn hiện thực trước đó

như: Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Nếu trong tác phẩm của các nhà văn đó,

con người thường trở nên tha hoá chủ yếu là vì thiếu thốn đói nghèo, quẫn bách: Tư cách mõ,

Sống mòn, Đời thừa, Bà lão loà… Thì sự tha hoá ở con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Hoặc là do tâm lí vụ lợi, lối sống thực dụng,

sùng bái vật chất. Hoặc là do con người không kìm chế được những dục vọng bản năng. Hoặc

có khi sự tha hoá xuất hiện ngay trong sự mông muội, u tối về nhận thức của chính con người.

Một trong những nguyên nhân đầu tiên khiến con người trở nên tha hoá là do lối sống và

tâm lí vụ lợi. Tâm lí đó khiến cho con người trở nên ích kỉ, lạnh lùng và tàn nhẫn. Vật chất, tiền

bạc, quyền lực, tự nó không thể làm nên hạnh phúc cho con người. Song, điều tưởng chừng như

giản đơn này không phải ai cũng thấu hiểu. Rất nhiều những kẻ trí thức, được ăn học đàng

hoàng đến nơi đến chốn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp cũng không hiểu. Thuỷ trong

Tướng về hưu là một ví dụ. Là một bác sĩ sản khoa, công việc thường làm của Thuỷ là đón đỡ

những sinh linh bé nhỏ ngay từ khi chúng mới chào đời. Là một người mẹ của hai cô con gái bé

bỏng, Thuỷ từng cưu mang trong mình những mầm sống. Vậy mà cũng chính Thuỷ lại mang

những bào thai bị rũ bỏ ở bệnh viện về nhà xay nhuyễn làm thức ăn cho chó Bec-giê. Việc làm

ấy của Thuỷ khiến cho nhiều người đọc không khỏi ghê tởm và căm phẫn. Theo dõi hết câu

truyện, tìm hiểu về tính cách, hành vi của nhân vật này, ta còn nhận ra rất nhiều điều bất ngờ.

Phụ nữ vốn là người dễ xúc động, yếu lòng trước những bất trắc, biến cố của cuộc sống, nhưng

Thuỷ lại hoàn toàn không như vậy. Trước giờ phút lâm chung của người mẹ chồng, Thuỷ vẫn

có thể phát ngôn một cách rạch ròi, vô cảm “Đừng khóc”, “Đừng đổ sâm”. Khi mọi người còn

đang bối rối trước việc tang ma, Thuỷ lại hỉ hả, hãnh diện khoe với chồng: “Ba mươi hai mâm.

Anh phục em tính sát không?”

Một nhân vật khác trong truyện này cũng bị lối sống thực dụng làm cho trở thành tha hoá

đó là nhân vật ông Bổng. Vốn là một gã “đánh xe bò thuê”, lại là kẻ “lỗ mãng”, ông Bổng

không mảy may xúc động, thương xót trước cái chết của chị dâu. Điều ông ta quan tâm hơn cả

là những toan tính vật chất. Hãy nghe lời ông Bổng nói với đứa cháu ruột của mình ngay trong

đám tang của mẹ nó: “Mất mẹ bộ sa lông. Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ

bốc mộ, cho chú bộ ván”. Không chỉ vậy, ông ta còn tranh thủ thời gian ngồi canh quan tài

người chết để chơi bài tam cúc ăn tiền cùng mấy người đô tuỳ. Khi nào được “kết tốt đen”, ông

Bổng lại hí hửng chạy vào vái quan tài “Lạy chị, chị phù hộ để em vét thật nhẵn túi chúng nó”.

Trong một hoàn cảnh đặc biệt như thế, vậy mà ông Bổng cũng vẫn chỉ biết nghĩ đến tiền và

mong kiếm được thật nhiều tiền bằng những cách thức chẳng lấy gì làm sạch sẽ.

Cô Diệu trong truyện ngắn Cún cũng là một kẻ thực dụng, tha hoá đến đáng khinh. Lúc

còn phát tài, sung sướng, không coi Cún là người, Diệu chỉ coi nó như “một ngôi sao Hoá lộc”

mang lại cho cô may mắn trong một ngày buôn bán. Cô thường bỏ tiền ra thuê Cún làm người

đón đường mỗi lần cô gánh hàng ra chợ “ Này thằng hình nhân mặt đẹp! Cho mày một hào,

sáng mai mày ra đón cửa cho tao … Hôm nào đi chợ gặp mày là người thiên hạ xô vào mua

bán như tranh như cướp”. Đến lúc thất cơ lỡ vận, mất trắng cả tình lẫn tiền thì với cô Diệu,

Cún và mấy chỉ vàng của nó lại trở thành “đấng phúc tinh”, là nguồn vốn giúp cô lấy lại những

gì đã mất. Khi tận mắt nhìn thấy mấy chỉ vàng trong tay Cún, “cô Diệu bỗng giật thót mình …

Cô thấy lạnh toát sống lưng. Chân tay cô run bần bật”. Sau khi tìm hết cách để thử, biết đó là

vàng thật, Diệu “tái mặt đi, cô cười, cô đấm thùm thụp vào người của Cún”. Lúc ấy, trong đầu

Diệu lập tức nảy ra ý định hiến thân cho Cún để đổi lấy mấy chỉ vàng “Mày hãy cho tao ba cái

nhẫn này … Mày muốn gì tao cũng nghe mày”. Và khi thủ tục trao đổi đã kết thúc, Diệu trơ

tráo tuyên bố “Thế là chẳng có nợ nần gì nhé!”.

Bường trong Những người thợ xẻ cũng là một con người hiện lên với rất nhiều hành

động và quan niệm sống của một kẻ đã lặn xuống tận cùng của vũng bùn tha hoá. Từng là lính

trong một đơn vị đặc quân thuỷ, nhưng rời quân ngũ, Bường nhanh chóng bị ném vào tù vì tội

“ăn trộm phân đạm”. Nhà tù không phải là nơi giúp Bường “cải tà quy chính”, để hắn trở về

với những phẩm chất tốt đẹp đã được trui rèn trong quân đội. Ra tù, Bường mở ngay một quán

thịt chó làm kế mưu sinh. Những tưởng Bường đã trở nên lương thiện, nhưng không, thói lưu

manh của Bường vẫn tiếp tục được phát huy. Kể từ khi quán thịt chó của Bường mở cửa, ở

trong làng, nhiều nhà “bị mất trộm chó một cách hết sức thần tình”. Khi lên rừng làm nghề xẻ

gỗ thuê, để trục lợi, Bường không từ bất cứ thủ đoạn nào, kể cả lừa lọc, ức hiếp. Kế sách của

Bường là: “Kéo cưa lừa xẻ”, tuyên ngôn sống của Bường là: “Tiền làm được hết”. Càng toan

tính, thực dụng, tình người trong trái tim Bường càng trở nên cạn kiệt. Người đọc không khỏi

ngạc nhiên khi nghe Bường tính toán việc chặt phần chân đã bị hoại tử của thằng em họ y như

người ta chặt một cái chân gà: “Bác Chỉnh cầm hộ em con dao, đặt vào đây. Em lấy chày táng

cho một phát, đứt ngay”. Cũng vì tiền, Bường sẵn sàng dở thói côn đồ, dao búa với người chủ

đã thuê mình xẻ gỗ, người đã tạo công ăn việc làm cho chính mình và cả toán thợ xẻ: “Bác

không trả tiền như tôi thoả thuận, tôi mời bác xơi nhát dao này. Đùa với ai thì đùa, đừng đùa

với Đặng Xuân Bường”. Lối sống thực dụng đã biến Bường thành một kẻ mát hết nhân cách,

nhỏ nhen ti tiện và đầy tráo trở.

Cùng với tâm lí vụ lợi ấy, nhân vật Hạnh trong Huyền thoại phố phường để lại dấu ấn

đậm nét trong tâm trí người đọc bởi quá trình tha hoá khủng khiếp của mình. Huyền thoại phố

phường là một trong số ít tác phẩm mà ở đó, Nguyễn Huy Thiệp đi sâu vào miêu tả quá trình

tha hoá của nhân vật. Xuất thân từ nghèo túng, mặc dù phải toan tính chi li từng chút cho cuộc

sống, thậm chí phải dành giật với miếng cơm manh áo hàng ngày, nhưng Hạnh đã từng nuôi

trong lòng khát vọng sau này trở thành “một người xuất chúng”. Hắn từng mong muốn sẽ toàn

tâm, toàn ý “làm việc” và sáng tạo” nếu cuộc đời này không bắt hắn phải loay hoay, vất vả

kiếm tiền. Người đọc hẳn đã mừng cho Hạnh, bởi hắn đã cho người ta nghĩ rằng: nghèo túng

không thể bóp chết những ước mơ, khát vọng đẹp đẽ của con người. Nhưng rồi, cũng chính

Hạnh đã khiến người đọc phải bất ngờ thất vọng khi phải chứng kiến những toan tính, những

việc làm của y. Từng sống trong cảnh bần hàn túng thiếu, hơn ai hết, Hạnh hiểu được giá trị và

tầm quan trọng của đồng tiền. Song, không chỉ vậy, Hạnh còn coi đồng tiền là mục đích sống

cao nhất của mình. Lên thành thị, tiếp xúc với môi trường mới, cuộc sống mới, Hạnh nung nấu

khát vọng trở thành người giàu có vì theo Hạnh: “Tài năng mà nghèo thì buồn ghê lắm. Nếu đã

tài năng thì phải thực giàu”. Một dịp may tình cờ đưa Hạnh làm quen với gia đình bà Thiều,

xác định rằng đây là một cơ hội tốt để thoát khỏi sự trói buộc của nghèo túng để vươn tới sự

giàu có, để có thể trở thành “triệu phú”, Hạnh cố tìm mọi cách để lấy lòng các thành viên trong

gia đình. Hắn sẵn sàng “xắn tay áo, đưa tay mò dọc theo cái rãnh đầy bùn lõng bõng nước bẩn,

thậm chí còn có cả cục phân người” để mò tìm cái nhẫn vàng mà cô con gái bà Thiều đã sơ ý

đánh rơi trong lúc vặt lông gà. Không dừng lại ở đó, để có thể đánh tráo tờ vé số mà hắn tin

chắc sẽ trúng giải độc đắc đang nằm trong tay mẹ con bà Thiều, hắn đã không ngần ngại tìm

cách ngủ với người đàn bà đáng tuổi mẹ mình … Sức mạnh của đồng tiền đã làm Hạnh loá mắt,

hắn sẵn sàng bán rẻ danh dự, nhân phẩm của chính mình.

Tâm lí bất chấp tất cả để đạt được mục đích của mình ở Hạnh, khiến người đọc nhớ đến

lão Thiến (Anh lính Tony D – Lê Minh Khuê). Sự tha hoá ở nhân vật này được bộc lộ một cách

ti tiện, trần trụi. Với suy nghĩ:“Thành thị vẫn hơn nhà quê”, lão sẵn sàng bán căn nhà thoáng

mát, rộng rãi ở quê, dắt vàng đầy người mon men đặt chân vào chốn thị thành. Hắn sống “giả

nghèo giả khổ”, “chui rúc trong cái hốc chưa đầy mười tám mét vuông”, lúc nào cũng nồng

nặc “mùi nhà xí”, “mùi chuột chết” mà vẫn thấy “thỏa thuê sung sướng”. Lão chén một bữa

“tám bát cơm gạo mốc” ăn cùng với thứ “mắm muối đầu gà, ruột cá nhặt nhạnh ở chợ chiều”.

Món ăn làm cả xóm phải “nín thở” vì nó quá “nặng mùi”, song với lão - nó vẫn rất “hợp khẩu

vị” bởi nó rẻ tiền. Suốt ngày lão chỉ chăm chăm xem ai có gì hở ra là hắn “thó”, từ “cái quần

lót đàn bà” đến “cái bô trẻ con”, để rồi gom tất cả lại, thỉnh thoảng vận chuyển về quê đổi cho

người làng lấy “nắm khoai sọ, nắm đỗ”. Đầu óc thực dụng luôn đặt lợi ích vật chất lên đầu,

luôn quy mọi thứ thành tiền đã biến lão Thiến thành một con vật – người bẩn thỉu.

Một nguyên nhân nữa dẫn con người đến tình trạng tha hoá là do con người không kìm

chế được cái dục vọng mang tính chất bản năng của mình. Trong Tội ác và trừng phạt, người

đọc không khỏi bàng hoàng trước việc người cha thú tính đã cưỡng hiếp chính đứa con gái ruột

của mình khi chỉ có hai người đi với nhau trên một đoạn đường vắng. Bường trong Những

người thợ xẻ , một kẻ “đểu cáng và độc ác” cũng tìm mọi cách cưỡng hiếp, chiếm đoạt Quy -

cô con gái mười bảy tuổi của ông Thuyết – phó giám đốc nông trường. Một bác sĩ trẻ “được ăn

học tử tế” nhưng vì không kìm chế nổi dục vọng đã chiếm đoạt “một cách tàn bạo và điên

cuồng” một cô gái ở bản Hoan trong đêm trăng rồi ngay sau đó tìm cách “quất ngựa truy

phong” rũ bỏ trách nhiệm trong truyện ngắn Thổ cẩm. Sự tha hoá do nguyên nhân này không

chỉ tồn tại ở bản thân mỗi cá nhân con người mà con lan rộng trong phạm vi gia đình: Lão Kiền

(Không có vua), một lão già bỉ ổi, do không chế ngự nổi bản năng, đã bắc ghế rình trộm con

dâu tắm. Đoài – con trai lão cũng luôn tìm mọi cách phờ phỉnh, chiếm đoạt chị dâu của mình.

Không chỉ dừng lại ở đó, sự tha hoá do con người không kiềm chế được bản năng, thú tính còn

kéo dài từ đời này sang đời khác trong cả một dòng họ. Nhân vật Chiểu trong Giọt máu là một

kẻ ăn chơi vô độ, ỷ thế lộng hành. Muộn con, hắn đi chùa cầu tự nhưng rồi lại nghe lời xúi bẩy

chiếm đoạt cả ni cô Huệ Liên, biến ni cô thành vợ ba của mình. Phong, con trai của Chiểu cũng

là một kẻ phong tình không kém. Hắn sẵn sàng bỏ tiền mua đứt sự trinh trắng của một đứa con

gái mới 15 tuổi đầu mà không chút băn khoăn, day dứt. Không những vậy, hắn còn dùng mưu

mô chước quỷ để đẩy ông Tân Dân - bạn làm ăn vào tù để ở ngoài hắn mặc sức chiếm đoạt vợ

của người ta. Năm mươi tuổi nhưng Phong vẫn “say hoa đắm nguyệt”, tìm cách cưỡng ép, doạ

nạt, buộc cô Chiêm phải về làm vợ bé bằng những lời lẽ bỉ ổi: “Thân lừa ưa nặng, ông cho hỏi

han tử tế không xong thì cả họ mày khốn nạn.

Ngoài ra, con người tha hoá cũng còn vì họ mông muội, u tối từ trong nhận thức, trong

vô thức. Lão thợ săn trong Con thú lớn nhất là kẻ gieo rắc cái chết, gây kinh hoàng khiếp đảm

cho chim muông, thú rừng, thậm chí dân bản cũng sợ hãi mà tránh xa hắn. Với đôi mắt “đục và

sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo” hắn cứ vô cảm hết ngày này sang tháng

khác huỷ diệt sự sống, huỷ diệt vẻ đẹp của thiên nhiên. Chính hắn đã lạnh lùng giương súng bắn

chết một con chim công đẹp rực rỡ đang say sưa trong vũ điệu của tình yêu. Tàn nhẫn hơn, hắn

còn lấy xác người vợ do chính tay hắn bắn chết làm mồi nhử để “con thú lớn nhất đời mình”…

Thiên nhiên đã cho hắn sự sống nhưng chính hắn lại coi việc tàn phá nó như một việc làm hiển

nhiên, như một việc tất yếu phải xảy ra như vậy. Lão thợ săn Hoàng Văn Nhân trong Sói trả

thù cũng là một kẻ tương tự như thế. Lão đã cùng phường thợ săn tìm mọi cách tiêu diệt hết

đàn sói - kể cả con sói mẹ đã già đang cố gắng chống trả quyết liệt để bảo vệ bầy con nhỏ của

mình. Lão nhẫn tâm “lia cả vào lưng con xói một chùm đạn ghém”, hắn giết sói mẹ và bắt cả

sói con về nhà nuôi. Trong truyện ngắn Chảy đi sông ơi, những người đánh cá đêm là những kẻ

“đói mà ngu muội”. Cách mà họ đối xử với nhau, lời nói của họ với nhau cũng không hề có

một chút tình người “Nhảy xuống! Tảo nhe răng, hàm răng nhọn hoắt quát lên hung dữ - ông

cho mái chèo vào gáy bây giờ”. Hay “Quăng nó xuống sông cho Hà Bá bắt”… Cũng vì ngu

muội, tuân thủ một cách máy móc theo những quy ước sai lầm mà họ bỏ mặc người ta trong

cơn hoạn nạn. Vì những người dân chài không bao giờ cứu người chết đuối, nên chị Thắm, một

con người nhân hậu, dịu dàng, đã từng cứu bao nhiêu kẻ chết đuối bị chết oan … Sự ngu muội

không chỉ là nguyên nhân gây tội ác mà có khi làm cho tội ác của con người thêm man rợ, kinh

hoàng: “Ở Thanh Hoá vài ba năm trước đây đã có một gã con trai dùng cuốc bổ vào gáy bố đẻ

ra hắn. Hắn đã róc thịt ông cụ ra để nấu cám lợn, còn xương thì vứt xuống sông”, “Ban đầu

cháu định bổ vào mặt ông ta, nhưng cháu sợ lưỡi rìu trượt theo sống mũi không chết được …

cháu nhằm vào giữa trán … cháu biết chỗ ấy có xương rất cứng, nên cháu lấy sức để bổ thật

mạnh. Óc hắn bắn lên tung toé như bã đậu” (Tội ác và trừng phạt)…

Viết về sự tha hoá của con người, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp luôn tỏ ra lạnh lùng, tỉnh

táo. Sự phơi bày cái xấu, cái ác của ông nhiều khi thẳng thắn đến mức làm người đọc cảm thấy

e ngại. Tuy nhiên, khi làm việc ấy, nhà văn muốn ngầm gửi đi thông điệp: mong mỏi con người

hãy giữ gìn bản tính tốt đẹp của mình, hãy giúp cho con người thoát ra khỏi sự mông muội, tăm

tối, hãy giữ lấy nhân phẩm của mình và những người sống quanh mình trước sức mạnh ghê

gớm của đồng tiền cũng như lối sống sùng bái vật chất hiện thời.

2.1.2. Nhân vật kiếm tìm

Có thể nói rằng, kiếm tìm là một hoạt động mang tính chất đặc thù của con người. Nhờ

kiếm tìm, con người không dừng lại với đời sống cỏ cây mà luôn vươn đến những khát vọng,

hoài bão để ngày một hoàn thiện mình. Nếu các vĩ nhân đi kiếm tìm những điều lớn lao cho

nhân loại, để lại tên tuổi mình trong cõi nhân gian, thì những con người bình thường cũng luôn

theo đuổi những mục đích kiếm tìm của riêng mình, có khi đó là tình yêu, hạnh phúc song cũng

có khi là danh vọng tiền bạc … Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta có thể thấy rất

nhiều những nhân vật kiếm tìm như vậy, làm thành một hệ thống, với các thành phần, sắc thái

đa dạng, và những mục tiêu khác nhau…

Nhân vật kiếm tìm trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khá phong phú, đa dạng cả về

tuổi tác lẫn địa vị. Có khi chỉ là một đứa trẻ con dấn thân vào một cuộc kiếm tìm để trốn chạy

khỏi cảm giác “cô đơn, côi cút”, tìm kiếm một tâm hồn mẹ để nương tựa tinh thần như chú bé

Đăng (Tâm hồn mẹ). Có khi đó là một chàng học sinh tìm về nông thôn để được đến với một

thế giới khác xa với chốn thị thành quen thuộc và nhàm chán trong kì nghỉ hè như Hiếu

(Những bài học nông thôn). Có khi là một sinh viên đại học chưa vượt qua được kì thi tốt

nghiệp, không chịu nổi cảm giác thất bại đã từ giã gia đình, từ giã làng quê và giảng đường đại

học “theo chân một toán thợ xẻ lên miền ngược kiếm ăn” (Những người thợ xẻ). Đó cũng có

khi là những chàng thanh niên trẻ tuổi rong ruổi trong hành trình kiếm tìm của riêng mình. Đi

tìm Mẹ Cả như Chương (Con gái thuỷ thần) hay đi tìm con trâu đen huyền thoại như nhân vật

“tôi” (Chảy đi sông ơi), là chàng Khó (Trái tim hổ) quyết tâm truy tìm và tiêu diệt con hổ dữ

để lấy quả tim của nó để chữa bệnh cho người con gái chàng yêu. Hay một diễn viên tạm rời xa

ánh đèn sân khấu tìm về sống ở nông thôn để tìm nguồn cảm xúc cho vai diễn sắp tới (Chút

thoáng Xuân Hương). Có khi người kiếm tìm còn là một người đàn ông luống tuổi trong một

hành trình đặc biệt trở về với thiên nhiên để tìm vận may trong công việc đi săn – Ông Diểu

(Muối của rừng). Có khi lại là một ông già gần đất xa trời vẫn sôi sục kiếm tìm hạnh phúc tình

yêu – ông Pành (Đất quên)…

Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những nhân vật kiếm tìm thường tạo nên một mô

típ “người ra đi”. Họ luôn di chuyển trong một không gian không giới hạn. Trong họ luôn ôm

ấp trong lòng một niềm tin, một khao khát. Niềm tin và khát khao ấy mạnh mẽ, mãnh liệt đến

mức đôi khi làm họ bất chấp tất cả để dấn thân và những cuộc phiêu lưu đầy những khó khăn

gian khổ. Cuối những hành trình tìm kiếm ấy cũng có khi sự tìm kiếm của họ được đáp đền

song cũng có khi chỉ là một con số không vô nghĩa.

Cậu bé Đăng (Tâm hồn mẹ) luôn tin rằng người ta có một tâm hồn, tâm hồn ấy giống

như cây đàn, “khi có ngọn gió thổi đến thì nó rung lên khe khẽ”. Mồ côi từ tấm bé, Đăng khát

khao đi tìm tâm hồn mẹ. Với trí óc ngây thơ và non nớt của mình, cậu bé hình dung ra tâm hồn

mẹ: mẹ sẽ tắm gội cho nó thật nhẹ nhàng, âu yếm, sẽ không bắt nó ăn những gì mà nó không

thích… Chỉ có mẹ là người hiểu và yêu nó nhất trên đời này. Cuối cùng nó đã tìm thấy “thiên

chức người mẹ” ở Thu - người bạn gái nhỏ cùng lớp với mình, nó đã được nghe thấy những

tiếng vọng từ tâm hồn mẹ.

Hiếu trong Những bài học nông thôn đã về với nông thôn, về với một vùng quê yên

bình để được tìm thấy những cảm xúc mới mẻ, thiêng liêng, để hiểu hơn về ý nghĩa cuộc đời

trong những điều thật bình thường giản dị. Hiếu đã ngộ ra được biết bao điều đáng quý về bản

thân, về cuộc đời, những điều này thiết thực biết bao nhiêu với lứa tuổi đầy nhạy cảm và biến

đổi của mình: “Tôi nhận ra thế giới bao la vô cùng vô tận, bản thân tôi, sự sống và cái chết đều

là bé nhỏ và không có ý nghĩa gì”.

Anh diễn viên đóng vai Chiêu Hổ trong Chút thoáng Xuân Hương vốn là người không

ưa những vẻ đẹp khuôn sáo, phù phiếm. Thất vọng trước những thước phim mà ở đó “người ta

đắp điếm cho nhiều nhân vật những tư tưởng cao siêu đáng ngờ”, anh đã quyết định một

chuyến đi thâm nhập thực tế. Cuộc gặp gỡ với người thiếu phụ trên bến Tầm Xuân đã giúp anh

cảm nhận được vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng của những con người bình dị, giúp anh nhận ra

chân lí: “cuộc sống thật buồn nhưng nó giản dị và đẹp. Giúp anh thắp lại niềm tin yêu vào cuộc

đời để “sống cho nhanh lên, có ích” cho đời.

Ngọc trong Những người thợ xẻ lại luôn trăn trở và day dứt kiếm tìm một người tri âm

tri kỉ, người có thể sẻ chia với anh ta mọi điều trong cuộc sống. Từng thất bại trong tình yêu và

vẫn chưa nguôi ngoai niềm đau khổ, trong lòng Ngọc ám ảnh một câu hỏi lớn “Một triệu người

tôi gặp trong đời có ai là máu của máu tôi? Là thịt của tôi? Có ai sẽ sống vì tôi và chết vì

tôi?”.

Nhân vật “tôi” (Chảy đi sông ơi) trong cuộc kiếm tìm con trâu đen huyền thoại đã phải

trải qua nhiều vất vả khó khăn. Từ chỗ “mặc kệ sách vở và những lời khuyên của mẹ” để ra đi

vào mỗi buổi tối. Đến mức phải năn nỉ đến “rã bọt mép”, sẵn sàng giúp việc không công mới

có cơ hội được đi theo những chiếc thuyền đánh cá đêm. Cũng có khi phải đối mặt với tột cùng

nỗi sợ hãi vì những câu chuyện hoang đường, ghê rợn mà cánh dân chài thường kể. Thậm chí

có lần phải vật lộn cả với cái chết “Nước sặc vào miệng khiến tôi ngạt thở. Một nỗi hoảng hốt

lạnh buốt lướt trong tim óc”. Dù không tìm thấy con trâu đen huyền thoại, nhưng nhân vật “tôi”

đã tìm thấy một trái tim đôn hậu, nhân ái của một người phụ nữ bình dị làm nghề chèo đò trên

bến sông quê, đã được thắp sáng trong tâm hồn những khát khao hướng về cái đẹp.

Nhân vật Chương (Con gái thuỷ thần) trong cuộc hành trình đi tìm Mẹ cả đã phiêu dạt

nhiều nơi, gặp gỡ với nhiều người, trải qua biết bao nhiêu nhọc nhằn, cay đắng. Anh đã phải xẻ

đất, đóng gạch, làm việc ròng rã suốt gần nửa năm trời cho một bà lão để cuối cùng được trả

công bằng một đôi hoa tai bằng … vàng giả. Không một xu dính túi, đã có lúc anh phải đối diện

với nỗi đói khát tột cùng cào cấu gan ruột “Tôi đói như một con hắc tinh tinh. Tôi đói như một

con lợn rừng. Tôi đói như một con vật ở địa ngục”. Thậm chí sự dày vò của nỗi đói khát suýt

xui khiến anh làm điều ác:“tôi rút dao ra và quyết sẽ đâm chết người đầu tiên đi qua ở trước

mặt tôi lúc này để lấy một nghìn đồng đủ ăn bát phở”. Vì khát vọng tìm kiếm, có lúc nhân vật

tôi đối mặt với những thử thách hiểm nguy đến tính mạng. Anh nhận lời tu sửa bức tượng Chúa

trên đỉnh gác chuông cho một nhà thờ xóm đạo và bị té ngã xuống đất… Song, điều lớn lao anh

nhận được từ sau mỗi chuyến đi là sự nhận thức được giá trị của bản thân mình, anh biết trong

mình “cũng có đôi điều giá trị” mặc dù cũng còn đó “không ít rác rưởi thối tha”. Anh đã vượt

khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt ở làng quê để ra đi hoà mình vào những chân trời rộng lớn, để

ý thức được rằng “những khao khát của tôi nhấc tôi lên khỏi mặt đất”, để anh có thể thoát khỏi

kiếp sống mòn mỏi trì trệ như bao nhiêu người dân quê lam lũ của mình.

Các nhân vật kiếm tìm trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết đều là những

con người ra đi, họ ra đi là để thực hiện những khát khao vươn tới những điều lớn lao đẹp đẽ

hoặc chí ít cũng là để tìm kiếm những điều mà bản thân họ chưa từng có trong đời. Viết về

những con người kiếm tìm, ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp thường toát lên sự đồng tình, trân

trọng. Trong nhiều tác phẩm, các nhân vật kiếm tìm thường xưng “tôi”. Phải chăng đó chính là

sự hoá thân của tác giả trên hành trình kiếm tìm. Cuộc hành trình ấy không chỉ mang ý nghĩa cá

nhân mà nó là những cuộc kiếm tìm hướng về cái đẹp, cái cao cả trong cuộc đời này.

2.1.3. Nhân vật cô đơn - lạc loài

Bên cạnh những nhân vật tha hoá xuất hiện nhan nhản trong rất nhiều truyện ngắn của

Nguyễn Huy Thiệp, những nhân vật kiếm tìm hạnh phúc tình yêu, người đọc còn tìm thấy rất

nhiều những nhân vật cô đơn - lạc loài.

Họ cô đơn bởi nhiều lí do và một trong những lí do quan trọng nhất là vì họ quá khác biệt

so với thế giới xung quanh. Sự khác biệt đó biểu hiện ở hầu hết mọi phương diện: từ ngoại

hình, tính cách, phẩm chất, nhận thức, đến tư tưởng và quan niệm sống.

Ông Thuấn trong truyện ngắn Tướng về hưu là một con người cô đơn như thế. Nhập ngũ

từ năm hai mươi tuổi, năm bảy mươi tuổi về hưu“với hàm thiếu tướng” cả đời ông “gắn với

súng đạn, chiến tranh”. Trở về gia đình sau khi cống hiến gần hết cuộc đời cho đất nước,

những tưởng ông sẽ tìm được những năm tháng cuối đời êm ả trong một căn biệt thự sang trọng

giữa lòng thủ đô. Nhưng tất cả lại không diễn ra như vậy. Người vợ hiền tận tuỵ một đời hi sinh

cho chồng con của ông nay đã lú lẫn, không còn đủ tỉnh táo để nhận biết và bầu bạn với ông.

Đứa con trai độc nhất lại bạc nhược, an phận, đến mức dường như không có khả năng sẻ chia

thấu hiểu. Đứa con dâu thì thực dụng toan tính đến lạnh lùng. Những đứa cháu nội lại bận rộn

với bài vở và sống với ông bằng khoảng cách của nhiều thế hệ. Những người ăn kẻ ở thì hoặc

cục mịch quê mùa, hoặc cả tin ngờ nghệch … Không một ai có thể giúp ông thích nghi với cuộc

sống xô bồ phức tạp, nghiệt ngã đầy ắp sự cạnh tranh và toan tính. Cuộc sống đời thường hoàn

toàn khác xa với môi trường quân đội, khác xa với lẽ sống “quân bình” của ông. Chính nếp

quen sinh hoạt vừa được định hình ít lâu của con người thành thị đã biến ông trở thành người

lạc lõng. Nếu cảnh tượng lố lăng dung tục trong đám cưới đứa cháu họ “một sự ô hợp thản

nhiên lếu láo rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa” làm ông “kinh hãi đau đớn” thì việc

cô con dâu xay thai nhi làm thức ăn cho chó Béc-giê làm ông đau xót đến quặn lòng:“Khốn

nạn! Tao không cần sự giàu có này”. Để rồi, cuối cùng, sau bao nhiêu năm chinh chiến ngoài

mặt trận, trở về nhà, ông quằn quại, cay đắng thốt lên “Sao tôi cứ như lạc loài”. Chính vì khối

cô đơn khổng lồ không ai có thể chia sẻ, và cũng vì không thể hoà mình trong cuộc sống hiện

tại, ông đã phải tìm đến với cái chết trong môi trường quân ngũ – môi trường đã gắn bó máu

thịt với cuộc đời và số phận ông.

Không chỉ riêng ông Tướng về hưu, con trai ông – kĩ sư Thuần – cũng không thoát khỏi

nỗi cô đơn. Không chỉ vậy, anh còn nhận thấy: cô đơn là thực trạng phổ biến với tất thảy mọi

người: “Tôi thấy tôi cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa”.

Ông giáo Chi (Sống dễ lắm) là một người cô đơn do quá khác biệt với mọi người về cách

sống và phương thức làm việc. Đồng nghiệp không ai có thể thấu hiểu và chấp nhận khi ông

“Không có tài liệu! Không có sách vở! Không có chương trình! Mình trần, thân trụi”, không

cần đến những thuyết giáo khô khan, không bằng những vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ, ông

chỉ truyền cho lớp giáo viên trẻ ở vùng cao một triết lí sống hồn hậu:“ Tất cả là do tự nhiên

điều chỉnh hết! … Mình cứ sống thôi! Sống dễ lắm! Cứ nhìn vào mắt bọn trẻ con mà sống…”.

Cuối cùng những ý tưởng khác người, khác đời khiến ông mất việc. Người đọc thấy lòng mình

se lại khi chứng kiến cảnh ông giáo “ngậm ngùi xếp đồ đạc vào chiếc ba lô bạc màu ngày

trước”. Vốn tâm huyết với nghề nghiệp của mình giờ đấy ông “thấy lòng mình tan nát. Ông

đành thôi việc về quê…”. Và những ngày tháng tiếp theo ông Chi sống cô đơn, “chỉ loanh

quanh nơi vườn nhà” với ước mơ siêu thoát. Ông ước: mình “có thể bay lên trời được! Như

những ngọn gió” hoặc bay đến những nơi mà ở đó “không có một bóng người nào”.

Có những nỗi cô đơn của con người xuất phát từ những nguyên nhân cực kì vô lí. Hãy

nghe nhân vật “tôi” trong Quan âm chỉ lộ xót xa chia sẻ “Tôi không có nhiều người thân, nhiều

bạn bè. Tôi đã trót rào quanh tôi bằng hàng rào danh tiếng, đấy không phải là do ý thức của tôi

chủ định, rất nhiều các thói đời xô đẩy khiến tôi lâm vào tình cảnh trớ trêu như thế. Nhiều khi,

tôi rất cô đơn ngay giữa nhà mình. Những bạn bè cũ cũng ngại gặp tôi, tôi cố gắng phá đi mặc

cảm tự ti vì không thành đạt ở trong lòng họ mà không phá được”. Nhưng đó lại là điều rất

thực, con người có thể bị đẩy vào nỗi cô đơn do tiếng tăm của chính mình.

Nhân vật “khách” trong truyện Thiên văn cũng chính là một nghệ sĩ đơn độc trên con

thuyền số phận. Không người lái, không mái chèo, nghĩa là không thể dựa vào ai, người khách

ấy buộc phải qua sông “một mình trên đò giữa mưa bão”. Người khách ấy phi thường hay khác

thường? Bản chất cùa vấn đề không thật quan trọng, song cái đáng nói ở đây là chính điều đó

đã khiến anh ta cô đơn trên những bước đường trôi dạt, phiêu lãng của mình. Ông Diểu trong

chuyến đi săn đặc biệt vào cuối mùa xuân, Ra đi chỉ có một mình, trở về cũng chỉ một mình

như thế giữa bạt ngàn hoa tử huyền nhiều không kể xiết. “Ông cứ trần truồng như thế, cô đơn

như thế mà đi” (Muối của rừng).

Còn có rất nhiều nhân vật cô đơn khác nữa trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Họ cô

đơn vì họ không bằng lòng với chính mình, luôn khát khao vượt ra ngoài giới hạn nhỏ bé để

đến với một chân trời rộng lớn hơn, xa vời hơn. Chương trong Con gái thủy thần một mình

đơn thương độc mã trên hành trình kiếm tìm trước sự vẫy gọi của những khát vọng về cái đẹp,

về hạnh phúc. Anh cứ mải miết đi tìm Mẹ Cả và chắc rằng trong cuộc hành trình này anh vẫn

mãi cô đơn “không có tiền bạc công danh, không có gia đình để yêu thương lo nghĩ, không có

bạn bè” chỉ có “nỗi cô đơn và sự bất lực của mi nào ai thấy được ngoài mi”. Nhân vật “tôi”

trong Chảy đi sông ơi cũng có tâm trạng cô đơn và lạc loài như thế sau bao nhiêu năm anh rời

xa quê hương, lãng quên đi những khát khao, mơ ước tuổi ấu thơ. Trước bến đò xưa, trước sự

trỗi dậy mạnh mẽ của hồi ức xưa, anh không khỏi thảng thốt, bàng hoàng: “Tôi muốn gào lên

chua xót. Tôi bỗng nhiên thấy cuộc sống hiện giờ của tôi vô nghĩa xiết bao. Con trâu đen, con

trâu đen trong thời thơ ấu của tôi nay ở đâu rồi?”.

Không chỉ viết về sự lạc lõng, cô đơn của con người hiện tại, Nguyễn Huy Thiệp còn trở

về với quá khứ tìm về với nỗi cô đơn của những con người trong huyền thoại, sử sách hay trong

thế giới của những câu chuyện cổ. Nếu hậu thế thường biết đến Nguyễn Trãi với tư cách một

nhà quân sự, chính trị, ngoại giao tài ba lỗi lạc thì Nguyễn Huy Thiệp còn phát hiện ở trong con

người ấy những mặc cảm lạc loài, lạc thời. Nguyễn Trãi từ nhỏ đã nhận thấy mình “như khoai

giữa ngô, như lạc giữa vừng”, khác biệt rất lớn với mọi người. Đến lúc trưởng thành ông vẫn

tiếp tục sống âm thầm “gần như không có bạn, không có tri âm tri kỉ. Dưới một bề ngoài bình

thản rụt rè, Nguyễn Trãi dấu mình trong vỏ ốc” (Nguyễn Thị Lộ). Chỉ có Thị Lộ là người thấu

hiểu được những tâm tư, tình cảm, có thể bầu bạn sẻ chia được với ông. Và cả khi len lỏi trong

những ngóc ngách tâm tư của Nguyễn Trãi, bà vẫn nhận thấy “ông cô đơn giữa đời như một

hành tinh, một ngọn gió”.

Đề Thám vốn được mệnh danh “Hùm thiêng Yên Thế” trong sử sách, nhưng trong truyện

Mưa Nhã Nam của Nguyễn Huy Thiệp chúng ta có thể có thêm một cách nhìn khác về ông.

Bên cạnh “một người anh hùng”, Đề Thám còn là “một người nhu nhược”. Trong truyện, Đề

Thám đã nhiều lần khóc. Không thể khóc trước người thân, ông khóc trong cái mênh mông hư

ảo của núi rừng – một hành động tưởng chừng như trái ngược với bản lĩnh của người anh hùng.

Song, cũng chính khi ấy, Đề Thám thấm thía nỗi cô đơn, ý thức được sự bất lực của bản thân

mình vì chính ông “không thể vượt qua lằn ranh bổn phận, nghĩa vụ, cương toả”.

Dù đã đạt đến tột đỉnh của vinh quang và quyền lực nhưng Nguyễn Ánh trong Kiếm sắc

cũng vẫn rất cô đơn. Không những vậy, ông còn là “một khối cô đơn khổng lồ”. Chính vinh

quang và quyền lực đã buộc chặt ông vào danh dự, nghĩa vụ, bổn phận, “chỉ được quyền cao

cả, không được quyền đê tiện”. Những ràng buộc này khiến ông không được sống đúng là

mình, đúng với mình và sống như mình mong muốn. Đấy cũng chính là nỗi cô đơn, là nỗi khổ

của một bậc Đế vương.

Xuân Hương trong cái nhìn của Nguyễn Huy Thiệp cũng là một người phụ nữ cô đơn.

Phải chăng vì bà quá mạnh mẽ, sống có dũng khí, luôn đứng cao hơn cõi đời trần tục nên những

người đàn ông đến với bà thường nhìn bà với cái nhìn ngưỡng mộ, nể phục. Và với điều đó, họ

đã vô tình làm rộng thêm, sâu thêm thêm nỗi cô đơn vốn thường trực trong lòng bà. Khi ông Tri

phủ Vĩnh Tường qua đời, chỉ còn lại một mình trong cuộc đời rộng lớn, ít ai thấu hiểu bà giờ

đây đang lặn sâu vào tột cùng nỗi niềm riêng, bà “đang nức nở khóc cho nỗi cô đơn mênh mông

của cõi đời” (Chút thoáng Xuân Hương)..

Tú Xương trong Thương cả cho đời bạc cũng là một con người cô đơn. Thơ ông mọi

người đều biết, nhưng con người ông không phải ai cũng thấu hiểu. Bề ngoài luôn cười cợt, chế

diễu, nhưng đó chính là cách ông thường làm để che dấu con người thật của mình. Sâu thẳm

trong lòng ông là một nỗi cô đơn đến tái tê gan ruột bởi ông dường như cũng rất ý thức được

rằng mình đã trở thành xa lạ giữa cuộc đời này. Ông là kẻ “thức” duy nhất trong khi thiên hạ

tất cả đều say ngủ: “Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả. Tội gì mà thức một mình ta”. Tú Xương

mãi khắc khoải mong chờ một tiếng vọng tri âm – đó là điều Nguyễn Huy Thiệp đã nhận thấy

rất rõ.

Những vĩ nhân cô đơn, những anh hùng cô đơn, những nghệ sĩ cô đơn và những con

người bình thường có thể cũng cô đơn. Song, không chỉ vậy, trong truỵên ngắn Nguyễn Huy

Thiệp người đọc còn có thể bắt gặp những con người cô đơn vì chính hình hài dị dạng của

mình.

Chàng Khó trong Trái tim hổ cô đơn vì trót mang khuôn mặt “rỗ chằng chịt” vì bệnh

đậu mùa nên phải sống “thui thủi, đi con đường riêng, ăn uống thế nào không ai biết được”.

Nàng Sinh trong truyện ngắn cùng tên cũng vì xấu xí gày gò bé nhỏ nên phải chịu kiếp sống cô

độc “thui thủi như con chim cút”. Nhân vật Cún (Cún) phải gánh chịu một nỗi cô đơn đến cùng

cực vì hình hài dị dạng của mình. Không chỉ bị ruồng rẫy, vứt bỏ từ lúc mới chào đời, Cún lớn

lên trong sự hắt hủi ghẻ lạnh của người đời, cuối cùng trở thành một thứ công cụ kiếm tiền của

một ông lão ăn xin. Khiếm khuyết về thể xác, cô đơn tột cùng trong cuộc sống, nhưng Cún lại

có một tâm hồn nhạy cảm, Cún khao khát được yêu, được làm một con người bình thường.

Viết về những con người cô đơn phải chăng Nguyễn Huy Thiệp mong muốn con người

hãy xích lại gần nhau, vượt qua tất thảy mọi thù hằn ngăn cách để được sống một cách thực sự

có ý nghĩa. Sự cô đơn của con người trong cuộc đời có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác

nhau và đó cũng không phải là một trạng thái tinh thần chỉ dành riêng cho người tốt, song có

một điều chắc chắn rằng: khi con người ta cô đơn cũng chính là lúc họ đang tìm về với chính

đời sống nội tâm để ý thức hơn về chính bản thân mình. Và cái thiện cũng nảy mầm từ đó.

2.2. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Nhân vật là “công cụ khái quát hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực hoá quan

niệm nghệ thuật về con người dưới một hình thức biểu đạt tương ứng” [64, tr. 365]. Nói cách

khác, nhân vật chính là sự kết tinh của các mối quan hệ đời sống được phản ánh trong tác phẩm.

Với vai trò là một phương diện không thể thiếu được trong mỗi sáng tác văn học, nhân vật còn

là nơi tập trung “mọi giá trị tư tưởng nghệ thuật”, thể hiện đặc điểm cũng như cá tính sáng tạo

của nhà văn. Thông qua nhân vật, nhà văn vừa miêu tả thế giới một cách hình tượng vừa thể

hiện quan niệm của mình về hiện thực cuộc sống. Mỗi nhân vật hiện lên trên trang viết là sự

tổng hợp của nhiều yếu tố, phương diện khác nhau như: ngoại hình, tâm lí, hành động, ngôn

ngữ … Và người đọc, khi muốn tìm hiểu, khám phá về nhân vật cũng không thể bỏ qua việc

khảo sát những phương diện, những yếu tố này. Thế giới nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp cũng

được xây dựng trên nền tảng của các yếu tố và phương diện quen thuộc và mang tính chất

“công thức”, “khuôn mẫu” ấy.

Tiếp cận với tác phẩm văn học trước tiên là tiếp cận với thế giới nhân vật. Trong đó, một

trong những phương diện được coi là trực quan và dễ gây ấn tượng nhất là ngoại hình nhân vật.

Ngoại hình là toàn bộ những đặc điểm về hình dáng, diện mạo, trang phục, cử chỉ, tác phong…

của nhân vật. Sự thể hiện sinh động ngoại hình sẽ góp phần bộc lộ tính cách nhân vật.

Trong cuộc đời cầm bút của mình, mỗi nhà văn tên tuổi thường tạo ra được những nhân

vật có ngoại hình gây ấn tượng với người đọc. Và người đọc khi nhớ về nhân vật là người ta

thường nhớ ngay đến những đặc điểm ngoại hình. Nghĩ đến nàng Kiều của Nguyễn Du ta nhớ

ngay đến vẻ đẹp của một bậc kiệt sắc giai nhân khiến cho “hoa ghen”, “liễu hờn”, nhớ đến Từ

Hải là nhớ đến dung mạo của một người anh hùng chọc trời khuấy nước “Râu hùm hàm én mày

ngài. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” … Nhớ đến Chí Phèo của Nam Cao làm sao ta

có thể quên được cái diện mạo khác thường của một kẻ bị cuộc đời bất công làm cho lưu manh

hoá “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt

gườm gườm trông gớm chết”. Ma Văn Kháng cũng là một trong số những nhà văn hiện đại rất

quan tâm đến diện mạo nhân vật, đặc biệt là trên phương diện tướng hình của con người. Nếu

đã từng một lần đọc Vệ sĩ của quan Châu chắc hẳn người đọc bị gây ấn tượng mạnh mẽ bởi

ngoại hình đặc biệt của nhân vật Khun: “Thấp, lùn, hai chân đã cái cao cái thấp lại còn khuệnh

khoạng vòng kiềng. Một mắt lép, một tai không vành. Cả cái mặt cũng nham nhở như cái đầu

lâu bị khoét, gặm dở dang, vì chỗ nào cũng có vết sẹo, vết xây xước, vết dao chém. Cái sọ

người gớm guốc ấy cuối cùng lọt thỏm vào đám tóc, râu, lông lá rậm bù, hôi rình” …

Mỗi nhà văn khai thác các yếu tố ngoại hình của nhân vật với những chủ đích riêng của

mình. Miêu tả ngoại hình của Kiều, Nguyễn Du ngầm dự báo về một tương lai đầy bất trắc

cũng như số phận đầy đau khổ của nàng. Miêu tả ngoại hình của Chí Phèo, Nam Cao muốn

khẳng định: giờ đây, dưới hình hài của một con quỷ dữ, cuộc đời Chí Phèo sẽ gắn liền với tội ác

và sự tác oai, tác quái gây hại cho dân làng. Miêu tả ngoại hình của Khun, Ma Văn Kháng

nhằm xoáy sâu vào cái tính cách và hành động khác người, khác đời của một tên tay sai tận tuỵ

bán mình cho quỷ sứ.

Không giống với các nhà văn khác, Nguyễn Huy Thiệp không chú tâm đi sâu vào khắc

hoạ, miêu tả ngoại hình nhân vật bằng những đường nét rậm rạp. Dường như ông chỉ cho người

đọc hình dung về nhân vật qua những chi tiết thật sự sắc cạnh, tiêu biểu. Với những chi tiết ấy,

thế giới nhân vật trong tác phẩm của ông hiện lên trong tâm trí người đọc hết sức ấn tượng.

Người đọc không thể quên một bộ mặt “đen mà như da ở bìu dái, lông mày rậm, răng vẩu mà

vàng như răng chó” của ông Thuyết trong Những người thợ xẻ. Một lão thuyền chài “béo lẳn

và đen trùi trũi … đôi mắt lờ đờ như là mắt cá” trong Chảy đi sông ơi. Một lão thợ săn độc ác

với vóc người “cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt lão đục và sâu hoắm,

phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo”(Con thú lớn nhất). Một bà cụ già in hằn dấu vết của

tuổi tác và thời gian “Bà cụ cười móm mém để lộ hai hàm lợi không còn một cái răng

nào”(Mưa Nhã Nam)…

Với nhiều nhà văn, bao giờ nhân vật chính cũng là đối tượng họ chú ý khai thác nhiều

yếu tố ngoại hình để làm nổi bật tính cách nhân vật. Song, với Nguyễn Huy Thiệp, thì đấy

không phải là điều ông quan tâm. Ở nhiều tác phẩm, có những nhân vật chính xuất hiện trong

suốt chiều dài của tác phẩm nhưng ông cũng không miêu tả ngoại hình – dù chỉ là một chi tiết

nhỏ: Thuỷ, ông Tướng, (Tướng về hưu), lão Kiền, Cẩn, Đoài, Khảm (Không có vua)… Đối

tượng được nhà văn ưu tiên chú ý hơn cả khi khắc hoạ những chi tiết ngoại hình là những nhân

vật dị hình và những người phụ nữ vốn sẵn mang vẻ đẹp “thiên tính nữ”. Trong nhiều truyện

ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, ta có thể bắt gặp rất nhiều những nhân vật dị hình. Dường như

những nhân vật ấy gánh chịu sự thua thiệt này ngay từ lúc chào đời. Tên lâm tặc trong truyện

Thổ cẩm: “Chột mắt, thọt chân, người dị hơm … vẻ mặt gườm gườm và đôi mắt lác kinh

người”. Tốn (Không có vua) với dáng “người teo tóp dị dạng”. Chàng Khó (Trái tim hổ):

“Hai tay dài chấm đầu gối, đôi chân khẳng khiu, lúc nào đi cũng như chạy”. Chú Hoạt có “cái

chân thọt chỉ bé như một thân cây sắn nhỡ” (Chú Hoạt tôi). Ghê người hơn là nhân vật Hạnh

(Giọt máu) có “Cái đầu to tướng ở trước ngực, cái chân què vắt đằng sau” và nhân vật Cún

trong truyện ngắn cùng tên với hình thù kì dị “Đầu nó to tướng, hai chân tay mềm oặt như

chẳng có xương, chỉ hơi lệch tâm là người nó ngã kềnh ra đất”…

Trong nhiều truyện ngắn của mình, Nam Cao đã tạo ra một số nhân vật nữ có ngoại hình

xấu xí đến kinh dị. Người đọc chắc chẳng thể nào quên Thị Nở - người đàn bà xấu đến mức

“ma chê quỷ hờn” với khuôn mặt “thực sự là một sự mỉa mai của hoá công: nó ngắn đến nỗi

người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má lại hóp vào mới thật là tai hại,

nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều

hơn người ta tưởng, trên cổ người …” trong truyện ngắn Chí Phèo. Hay mụ Lợi trong Lang

rận với “khuôn mặt béo trục béo tròn, mặt rỗ như tổ ong bầu, mắt trắng, môi thâm, mà đen…”.

Hay như nhân vật Nhi trong Nửa đêm với “cái mặt chỉ thịt là thịt, nẫn lên những thịt. Hai má

phị, cái mũi to mà lỗ thì lại nhỏ, gần như đặc, mắt không còn chỗ để phô ra, cái mí mắt đủ dầy

như một cái môi, và cái môi thì lại dày như … không có gì dày đến thế”. Với ngòi bút có vẻ

như lạnh lùng, Nam Cao cứ ném ra liên tiếp những chi tiết ngoại hình để tạo ra một thế giới

những nhân vật xấu xí. Song, có một điều thật đáng quý ở Nam Cao, là khi đi vào miêu tả ngoại

hình những con người gánh chịu những trớ trêu, bất công của tạo hoá ấy, ông đã làm nổi bật

những phẩm chất thuần hậu ở họ. Dù bị biến dạng về ngoại hình, nhưng họ vẫn là những con

người chịu thương chịu khó hoặc là những con người có đời sống tình cảm phong phú hoặc có

những hành động việc làm tốt đẹp có thể cứu rỗi đồng loại.

Không dày đặc như Nam Cao, Ma Văn Kháng cũng đã tạo ra trong tác phẩm của mình

một số nhân vật người phụ nữ có những nét ngoại hình tương tự. Đó là nhân vật Đào trong

Phép lạ ngày thường với vóc người “xơ xác như thân cây sậy khô… mặt trũng, mà hóp, mắt lỗ

đáo chân tay teo tóp… cơ thể lúc nào cũng suy kiệt, giống như cái chuồng ọp ẹp không nhấc

nổi nỗi đau buồn, cơn cáu giận, sự rối rắm lúc nào cũng ăm ắp trong người”.

Nếu trong trang viết của Nam Cao và Ma văn Kháng có những nhân vật nữ xấu xí, và khi

viết về những nhân vật này, hai ông thường khá mạnh tay thì trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp ta thấy rất ít (hầu như không có những nhân vật như vậy). Nếu điểm nhấn ngoại hình

nhân vật nữ của Nam Cao và ma văn Kháng là khuôn mặt, và được đặc tả với các chi tiết rậm

rạp, theo mức độ ngày càng tăng tiến: hoặc đầy thịt, hoặc thiếu bề ngang, với những so sánh táo

bạo, nặng nề … nhìn chung là miêu tả cái ngoại hình thiên về bản năng, thì Nguyễn Huy Thiệp

hoàn toàn trái ngược. Dường như cái nghiệt ngã, ác cảm Nguyễn Huy Thiệp đã dành hết cho

nhân vật đàn ông. Ngòi bút của ông như bay lên hân hoan, khi được miêu tả vẻ đẹp ngoại hình

của người phụ nữ. Cũng là miêu tả khuôn mặt, nhưng Nguyễn Huy Thiệp luôn chú ý các đường

nét khá truyền thống: làn da, đôi mắt, đôi môi, chiếc cổ ... Nói chung là Nguyễn Huy Thiệp

ngợi ca cái thanh thoát, hồn hậu của con người.

Khi thì là nước da “trắng hồng” cùng với “khuôn mặt dễ ưa” của Quy (Những người

thợ xẻ). Khi thì là vẻ đẹp của một làn môi mọng và đôi mắt sáng trong của M (Mưa) “môi cô ta

lúc nào cũng thắm đỏ. Đáy mắt cô ta xanh như vỏ trứng chim sáo”. Vẻ đẹp đó còn ở “cái ngấn

cổ trắng ngần” của Hương (Chút thoáng Xuân Hương), ở cái “mơn mởn như lộc mùa xuân”

của Vinh Hoa (Phẩm tiết), là vẻ đẹp “rực rỡ như một đoá quỳnh trong đêm” của Nhi (Cánh

buồm nâu thủa ấy), là cái ma lực hấp dẫn hầu hết cánh đàn ông trong bản Hua Tát toát ra từ

“đôi hông to khoẻ, thân hình chắc lẳn, bộ ngực nở nang mềm mại… lúc nào cũng tươi cười

tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng người”của nàng Bua trong truyện ngắn cùng tên…Ở các

nhân vật nữ khác trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nếu họ không được đẹp một cách cuốn

hút thì cũng phải có những nét ngoại hình ưa nhìn và dễ dây ấn tượng. “Mái tóc xoăn, da nâu,

nồng nàn như lửa” ở một cô thiếu nữ người Chăm (Chuyện ông Móng) hoặc có nụ cười “rất

hiền lành đôn hậu” của cô gái làm nghề bán chim (Chuyện bà Móng). Nếu thảng có nhân vật

phụ nữ nào không đẹp về ngoại hình thì những điều ấy chẳng qua xuất phát từ cuộc sống khó

khăn vất vả của họ mà thôi. Kiểu nhân vật phụ nữ ấy cũng hiếm khi xuất hiện trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp. Đó là người đàn bà không tên “mới có một con mà tóc đã bơ phờ, hông và

chân đã lệch cả đi vì phải làm quá nhiều việc nặng” (Đưa sáo sang sông).

Bằng việc miêu tả ngoại hình, Nguyễn Huy Thiệp bày tỏ tình cảm của mình với nhân vật

cũng như bộc lộ tính cách nhân vật. Những nhân vật có ngoại hình xấu xí ghê rợn như lão

Thuyết, lão Tảo, gã thợ săn chính là cái xấu xí ghê rợn của những kẻ tha hoá, mất hết tính

người hoặc chí ít cũng nhiễm lối sống thực dụng và đang dần trở nên tha hoá. Những nhân vật

đó thường nhận được sự ghê tởm từ chính tác giả và người đọc. Những nhân vật dị hình thì

thường được bù đắp bằng một thế giới tâm hồn phong phú, nhạy cảm hơn người. Những nhân

vật có ngoại hình đẹp đẽ thường là những tâm hồn giản dị bao dung…Tuy nhiên, xét một cách

tuyệt đối thì đó cũng chưa hẳn là một quy luật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

2.2.1. Hành động

Hành động là toàn bộ những việc làm cụ thể của nhân vật trong giao tiếp cũng như trong

các quan hệ ứng xử của con người với con người, với môi trường tự nhiên và xã hội. Bên cạnh

đặc điểm về ngoại hình, thì hành động là một yếu tố không thể thiếu trong việc thể hiện tính

cách nhân vật. Ngoài ra, hành động cũng là một phương diện quan trọng trong toàn bộ quá

trình, diễn biến của cốt truyện.

Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy: hầu hết nhân vật của ông

đều là những nhân vật hành động. Những nỗi niềm, tình cảm, tâm tư nhân vật dường như đều

dấu kín và người ta chỉ có thể hiểu về chúng thông qua những hành động và lời nói của nhân

vật.

Bằng tài năng và nghệ thuật viết truyện ngắn lão luyện, Nguyễn Huy Thiệp tạo ra một thế

giới những câu truyện hấp dẫn người đọc dù ở đó ngôn ngữ kể thường lấn lướt ngôn ngữ tả,

bình. Thậm chí, trong nhiều tác phẩm lời kể cũng được tác giả giản lược một cách tối đa chỉ để

lại những hành động nối tiếp nhau của nhân vật trong một chuỗi những hành động tưởng chừng

không bao giờ dứt: “Ở giữa chợ thằng Bột đã vứt cái đòn gánh đi… Nó đang xô đổ sạp vải của

bà cả Phượng. Nó giật lấy cái ghế băng bằng gỗ nghiến vẫn dùng để ngồi… Nó cười khanh

khách. Nó vung cái ghế vù vù trên đầu…” (Đưa sáo sang sông). “Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con.

Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt”, “ Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám …tôi lặng

đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó bécgiê…” (Tướng về hưu). “Ông Diểu

thấy nóng bừng mặt. Ông bỏ mũ và áo bông ra đặt dưới lùm cây. Ông để cả nắm cơm xuống

đất. Ông từ từ dịch chuyển sang chỗ đất trũng thấp hơn…” (Muối của rừng). “Tôi cầm liềm.

Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. lại bước sang

trái. Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi” (Thương nhớ đồng quê)…

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất phong phú vì vậy hành động

của nhân vật cũng hết sức đa dạng. Có những hành động xấu xa, thấp hèn nhưng cũng có những

hành động đẹp đẽ, cao thượng.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hành động xấu xa và thấp hèn của con người. Có khi nó

xuất hiện ở dạng bản năng, trong tình trạng vô thức, song cũng nhiều khi do con người không

kiềm chế được những dục vọng thấp hèn. Dù ở bất cứ lí do nào, những hành động đó cũng chứa

đựng trong nó sự sa sút đạo đức, nhân phẩm và ở mức độ cao hơn, nó đồng hành với tội ác.

Người đọc chưa kịp xoá đi nỗi ác cảm về nhân vật Hạnh (Huyền thoại phố phường) khi

chứng kiến cảnh hắn “xắn tay áo, đưa tay mò dọc theo cái rãnh đầy bùn lõng bõng nước bẩn,

thậm chí còn có cả cục phân người” để mò tìm chiếc nhẫn vàng ở đầu tác phẩm thì đến cuối tác

phẩm, hành động của Hạnh làm người đọc càng cảm thấy khinh bỉ và phẫn nộ. Từ những lời

cợt nhả Hạnh buông ra với một người đàn bà đáng tuổi mẹ mình “Cô độc đáo trên toàn cơ thể

… trông cô hấp dẫn như một thiếu nữ đương thì” đến hành động bỉ ổi của hắn: “Hạnh chồm

dậy và xô ngã người đàn bà xuống đi-văng … Hạnh thở khò khè, y hỏi bằng một giọng gần như

van lơn: “Chiếc vé xổ số đâu rồi?”

Trong truyện Không có vua, trước sự hiện diện của Sinh trong nhà, hành động của hai bố

con lão Kiền cũng thật đê tiện. Ông bố thì “loay hoay dưới bếp, nghe tiếng dội nước ở trong

buồng tắm, thở dài, bỏ lên nhà. Đi được vài bước, lão Kiền quay lại, vào trong bếp, bắc chiếc

chế đẩu, trèo lên, nín thở ngó sang buồng tắm. Trong buồng, Sinh đứng khoả thân”. Thằng con

trai, thẳng em chồng “trời đánh” thì cố tình tìm cách ve vãn, chiếm đoạt chị dâu. Hết táo tợn

“đưa tay chạm vào lưng Sinh”, ỡm ờ cợt nhả “Người chị tôi sao cứ mềm như bún” đến hành

động “xán lại, hôn chút lên má Sinh”.

Về bản chất, con người là một động vật cao cấp có ý thức, biết suy xét những hành động,

việc làm của mình. Trong con người cũng luôn tiềm tàng bản tính tốt đẹp cũng như sự cao

thượng. Một trong những nguyên nhân khiến điều đó tồn tại là do con người biết yêu, có tình

yêu. Tình yêu khiến người ta trở nên cao thượng đẹp đẽ hơn. Biểu hiện của tình yêu trong thế

giới tình cảm con người cũng hết sức phong phú, đa dạng, nhiều cung bậc. Có khi là tình yêu

dành cho những đấng sinh thành, là tình cảm anh em máu mủ ruột rà, là tình yêu lứa đôi, tình

yêu quê hương làng xóm, rộng lớn hơn cả là tình yêu đồng loại. Vì tình yêu con người sẵn sàng

quên đi những nỗi vất vả, nhọc nhằn thậm chí cả sự hiểm nguy để mang lại niềm vui, hạnh

phúc, thậm chí để bảo vệ tính mạng của người khác. Chàng Khó (Trái tim hổ) quyết tâm giết

chết con hổ dữ để lấy trái tim làm thuốc chữa bệnh cho Pùa. Để làm điều đó, Khó đã bất chấp

mọi nguy hiểm, thậm chí cả sự đe doạ tính mạng. Săn hổ vốn đã là một công việc khó khăn với

những phường săn khoẻ mạnh, thạo nghề, đằng này Khó lại tàn tật, dị dạng, lại chỉ có một

mình. Khó đã làm mọi người ngạc nhiên bởi kết cục bất ngờ “Gần sáng, người ta tìm thấy Khó

và xác con hổ đã chết. Cả hai lăn xuống vực sâu dưới suối. Khó bị gãy lưng, mặt chàng đầy vết

cào cấu của hổ. Con hổ bị bắn toác đầu. Viên đạn bắn gần xé rách trán hổ xuyên vào tận óc”.

Nhân vật Lù (Nạn dịch) cũng đã có những hành động quên mình vì vợ. Khi nghe tiếng vợ rên

khẽ dưới nấm mộ, ông “nhận ra ngay”, “Gạt sang một bên những nỗi kinh hoàng. Lù cuống

cuồng vội vã bới đất … càng đào sâu, tiếng rên càng rõ. Lù điên cuồng vui sướng. Tay ông toé

máu mà không cảm thấy đau. Cuối cùng ông bật được nắp quan tài, thấy Hếnh còn đang thoi

thóp”. Đào mộ, mang người vợ bị nhiễm bệnh dịch lên, ông đã dùng hết số tiền mình có để

chữa chạy cho vợ dù bất chấp kết cục cuối cùng “ông bị lây bệnh. Cả hai người chết ngay đêm

hôm ấy”. Tình yêu ông dành cho vợ cùng những việc làm cao thượng quên mình của ông đã để

lại cho hậu thế niềm ngưỡng mộ. Ngôi mộ của hai người được “những người già của bản Hua

Tát đặt tên nó là mộ tình chung thuỷ”. Tốn (Không có vua) vốn là một kẻ bị coi là dị dạng vô

tích sự trong gia đình. Người ta quen với những hành động cứ lặp đi lặp lại từ ngày này sang

tháng khác như một cái máy của Tốn song người đọc cũng không khỏi bất ngờ trước những

việc làm của Tốn: “ Tốn hay giúp đỡ Sinh bằng lòng tốt vô bờ bến. Những ý thích nhỏ nhặt của

cô, nó thực hiện với lòng tận tuỵ cầm thú. Nửa đêm, nếu Sinh buột miệng “có ô mai thì thích”

là sẽ có ngay ô mai. Không biết Tốn lấy tiền ở đâu, đi mua lúc nào”. Với một người như Tốn,

những hành động ấy đẹp đẽ biết nhường nào. Nó làm cho Sinh được an ủi, bù đắp về tinh thần

khi phải sống chung và phục dịch cho những kẻ mất hết tính người. Chị Thắm (Chảy đi sông

ơi) là một người phụ nữ đôn hậu, dịu dàng có những hành động hết sức đẹp đẽ cao thượng.

Khác hẳn với những con người “ngu muội” ở làng chài, bất chấp tục lệ “không cứu những ai

chết đuối” của dân chài, chị Thắm sẵn sàng cứu nhân vật “tôi” và rất nhiều những kẻ không

may khác khỏi móng vuốt của Hà Bá. Những lời nói, việc làm đầy ân tình của chị gây xúc động

sâu xa không chỉ với người được cứu sống mà còn với cả người đọc. Chúng ta sẽ nhớ mãi

những lời của chị “Thế là em tỉnh rồi … Em ăn một tí cháo nhé?... Để chị bón cho …”.

Viết về những hành động cao thượng của con người, Nguyễn Huy Thiệp làm người đọc

tin tưởng mạnh mẽ vào bản tính tốt đẹp của con người.

2.2.2. Tâm lí

Nam Cao, Nguyễn Minh Châu là những nhà văn thường cày xới thế giới nội tâm để

khám phá đời sống tâm lí vốn hết sức đa dạng, phức tạp của con người. Trong nhiều truyện

ngắn, các nhà văn này đã xây dựng nên loại hình nhân vật tư tưởng hết sức ấn tượng: Điền

(Giăng sáng), Hộ (Đời thừa), Giáo Thứ (Sống mòn), anh họa sĩ (Bức tranh), Quỳ (Người đàn

bà trên chuyến tàu tốc hành), Lực (Cỏ lau), Lão Khúng (Phiên chợ Giát) … Vốn là một nhà

văn trẻ tuổi sau mê lí tưởng, từng ôm ấp hoài bão viết lên một tác phẩm có thể làm lu mờ hết

các tác phẩm cùng thời, cuối cùng Hộ (Đời thừa) đã bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất. Để kiếm

tiền nuôi vợ con, những tác phẩm nghệ thuật anh viết ra không còn được trau chuốt kĩ lưỡng mà

chỉ là những tác phẩm viết vội vàng, những câu chuyện nhạt nhẽo vô vị. Những lúc đối diện với

chính mình, anh luôn dằn vặt, xót xa. Là một người kể chuyện “toàn năng”, có thể thấu hiểu hết

tất thảy những tâm tư của nhân vật, Nam Cao đã nhìn thấu những đấu tranh nội tâm rất phức tạp

trong lòng Hộ: “Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau khổ hơn cho một kẻ

vẫn khao khát làm được một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm

được gì cả, chỉ lo những áo cơm mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, ruồng

rẫy chúng, hắn hi sinh như người ta vẫn nói ư?...” (Đời thừa). Quỳ trong truyện ngắn Người

đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu là một người phụ nữ cá tính. Cả một

thời thanh xuân cô cống hiến cho đất nước. Giã từ tuổi trẻ cùng những năm tháng cháy bỏng

nơi Trường Sơn, Quỳ không nguôi day dứt, đối thoại, chất vấn và phán xét chính bản thân mình

“Tôi thật ngu dại với người đàn ông đáng quý nhất trong số những người đáng quý ấy. Tôi đã

không coi họ là những con người đang sống giữa cuộc đời mà lại đòi hỏi nơi họ một thánh

nhân. Tôi đã đi tìm một cái tuyệt đối không bao giờ có. Cái sai lầm trong quan niệm của Quỳ

cũng là cái sai lầm của một thời trẻ tuổi nông nổi, đôi khi những sai lầm ấy ám ảnh con người ta

suốt cả cuộc đời. Ma Văn Kháng cũng đi sâu vào việc miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật -

đặc biệt là tâm lí các nhân vật nữ trong một số tác phẩm truyện ngắn: Phép lạ thường ngày,

Một chốn nương thân, Người xa lạ …Đào (Phép lạ thường ngày) có một đời sống tâm lí

phức tạp, phức tạp đến nỗi chính cô nhiều lúc không hiểu nổi mình. Vốn hiền hậu, biết điều

nhưng bỗng một kia cô trở thành kẻ hư hỗn với mẹ chồng, so bì, tị nạnh, gây sự với người khác

một cách hết sức vô lí. Chỉ đến khi mẹ chồng bỏ đi cô mới bàng hoàng tỉnh ngộ. Thấu hiểu tận

cùng tâm tư nhân vật, nhà văn đã ghi lại những xúc cảm của cô “Từ trong hai hốc mắt đang

trân trân vô cảm của chị vừa tiết ra một làn nước mắt nhớt nhát. Người phụ nữ trẻ đã kiệt lực,

không còn đủ sức để bộc lộ tình cảm của mình … mặt chị tái xám … Rồi trong lúc không còn

hơi sức nữa, chị mấp máy môi, thốt ra từng tiếng rời rạc, đứt nối: Anh xin lỗi bà hộ em. Em

không muốn thế. Không bao giờ em muốn thế. Mà sao bỗng dưng em lại thế. Thật tình không

bao giờ em muốn thế”. Điệp khúc “không muốn thế” cứ lặp đi lặp lại ở Đào như một lời sám

hối. Hơn bao giờ hết, tác giả cho người đọc hiểu rằng: chính cái khốn khó của cuộc sống,

những thúc bách về tiền bạc, sự yếu ớt về thể chất đã biến Đào trở thành một con người khác.

Không giống Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng … Nguyễn Huy Thiệp

thường chú ý nhiều đến việc miêu tả diện mạo, hành động của nhân vật hơn là đi sâu vào khám

phá đời sống tâm lí nhân vật. Không đề cao vai trò của người kể chuyện, Nguyễn Huy Thiệp

luôn tỏ ra là người kém cỏi trong việc thấu hiểu mọi nghĩ suy, trăn trở của nhân vật. Và trong

thế giới nhân vật hết sức phong phú và đa dạng ấy dường như các nhân vật cũng không hiểu nổi

chính họ và những người sống xung quanh mình.

Trong phạm vi gia đình, Tướng về hưu, Không có vua chứa đầy những mối quan hệ:

Quan hệ vợ - chồng, anh - em, cha - con, ông - cháu, họ mạc… Không khăng khít như nó vốn

phải có, những cá nhân trong những gia đình ấy lại tồn tại bên nhau như những cá thể độc lập.

Những tưởng trong một trạng thái bất bình thường như vậy của cuộc sống, các nhân vật phải có

một đời sống nội tâm phức tạp, vậy mà trái ngược hoàn toàn. Một ông Tướng về hưu ngỡ

ngàng, hụt hẫng trước cuộc sống thực tại tưởng sẽ có bao nhiêu cảm xúc nảy sinh, thế giới tâm

tư sẽ ngồn ngộn những suy tư, trăn trở. Nhưng, điều mà người đọc nhận thấy thì hoàn toàn

không phải như vậy. Đời sống tâm lí của ông Tướng về hưu chỉ hiện lên qua một số biểu hiện

có thể coi là khá mờ nhạt được nhìn nhận từ người con: “Cha tôi buồn”, “Cha tôi có vẻ không

vui”, “Cha tôi khóc”, “Cha tôi nghẹn ngào” … Không một dòng độc thoại nội tâm, tâm tư của

nhân vật dường như bị phong kín, người đọc chỉ có thể cảm nhận được qua một vài tín hiệu

“nhấp nháy” mà thôi.

Vợ ngoại tình. Sự thật này tưởng chừng sẽ là một cú sốc lớn khiến cho những kẻ “bị

cắm sừng” thất điên bát đảo, đau đớn, căm giận, tâm hồn họ sẽ bị tổn thương không gì bù đắp

được. Nhưng với Thuần, dường như mọi chuyện không diễn ra như vậy. Không hề thấy anh ta

trăn trở, dày vò, cùng lắm anh ta chỉ:“dắt xe máy ra đường, phóng lang thanh khắp phố cho kì

hết xăng”, rồi cuối cùng “đến ngồi ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực”…

Lọt vào một gia đình không phép tắc, quy củ, nơi mà mọi thành viên trong gia đình hội tụ

rất nhiều điều xấu xa, bỉ ổi, bản thân phải gánh chịu bao nỗi oan ức, trớ trêu nhưng Sinh

(Không có vua) không hề được tác giả Nguyễn Huy Thiệp dành cho những khoảng lặng để một

mình gặp nhấm nỗi đau khổ, bất hạnh. Đời sống tâm lí cũng như những suy tư trăn trở của cô

chỉ đến được với người đọc qua lời trần tình rất thật nhưng cũng rất xót xa của cô ở gần cuối

thiên truyện “Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm”.

Chính vì đời sống tâm lí không hiển hiện rõ rệt trên bề mặt câu chữ, nên nhân vật trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường được đặt trong thời hiện tại, ít nghĩ về quá khứ và cũng

ít có những dự kiến rõ rệt cho tương lai. Cả một tuổi thơ sống trong sự xa cách, thiếu thốn tình

cha con nhưng khi trưởng thành, lấy vợ, sinh con, Thuần (Tướng về hưu) cũng không hề có

những phút giây nhớ lại cảm giác thiệt thòi ấy trong quá khứ. Sống trong gia đình nhà chồng

đầy khổ nhục, ta cũng chẳng thấy Sinh (Không có vua) nuối tiếc hay so sánh thực tại với cuộc

sống son rỗi khi chưa lấy Cấn. Anh chàng bác sĩ (Thổ Cẩm), thời trai trẻ đã trót làm những việc

tày trời, đã cưỡng đoạt một cô gái ở bản Hoan nhưng hầu như trong suốt một thời gian dài sau

đó anh ta không hề mảy may day dứt về hành động của mình…

Sự thể hiện sơ lược đời sống tâm lí nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp cũng là một dụng ý

nghệ thuật trong thủ pháp xây dựng nhân vật của ông. Dù vậy, người đọc vẫn cảm thấy lo ngại

trước thực trạng con người bị tước đoạt quyền được suy tư, trăn trở, được sống trọn vẹn với

những xúc cảm sâu kín trong tâm hồn mình. Nói như vậy không có nghĩa là Nguyễn Huy Thiệp

đã đánh mất khả năng miêu tả nội tâm nhân vật. Ở một số tác phẩm, vẫn có những trang viết

tinh tế đi sâu vào khám phá đời sống tâm lí nhân vật. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu:

Huyền thoại phố phường, Thương Nhớ đồng quê, Những bài học nông thôn, Những người

thợ xẻ, Giọt máu …

Trong Thương nhớ đồng quê, một trong số những tác phẩm nhà văn đi sâu vào miêu tả

đời sống tâm lí của nhân vật chủ yếu là thông qua độc thoại nội tâm. Nhân vật “tôi” trong tác

phẩm là một chú bé mới lớn nhiều suy tư, “mơ mộng”, lại “hay nghĩ”, “thích chơi hoa”, và

luôn ngoan ngoãn chấp nhận mọi sai khiến, nhờ vả từ người khác. Là con trai nhưng “tôi” lại là

người hay quan sát, để ý với những ghi nhận khá tinh tế và rõ ràng về những thói quen, sở thích

hay những đặc điểm riêng của từng người: “mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà

muối. Mẹ tôi không ăn được thịt mỡ”, “dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì

Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay”, “cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng

hơn. Nó hay nói, hay làm nũng”. Trong những dịp hiếm hoi được tách mình khỏi những công

việc đồng áng quen thuộc, nhàm chán, thế giới tâm hồn nhân vật “tôi” lại xao động. Biết bao

nhiêu ý nghĩ, suy tư lại xối xả tuôn chảy trong đầu:

“Tôi nghĩ

Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ

Sự bất lực của hình thức biểu đạt

Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất

Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất

Bao tháng ngày trôi đi

Bao kiếp người trôi đi

Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được

Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này

Nhặt được ánh mặt hoang vắng trong mắt em gái tôi

Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi

Nhặt được niềm hi vọng hão huyền

trong lòng chị dâu tôi

Và nhặt được mùi vị nghèo nàn

trên cánh đồng quê…”

Có những lúc người đọc còn thấy được tâm trạng xót xa, ngậm ngùi của nhân vật trước

những mặc cảm thân phận : “thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê, làm

mướn”. Có những lúc nhận ra một khoảng trống kì lạ, mênh mang không dễ lấp đầy trong lòng

anh trước người, trước cảnh: “Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi trỗng

hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không”. Thậm chí, có những tâm tư và nỗi lòng của nhân vật

rất bí hiểm và khó lí giải đến nỗi khiến những người đối diện không thể hiểu nổi “Tôi cười. Mẹ

tôi chẳng hiểu nụ cười của tôi đâu. Tôi cười như một tên thổ phỉ, cười như một gã nặc nô, cười

như một tên quỷ sứ cười móng chân tay mình sao lại đen dài như thế”. Nhân vật “tôi” cũng đã

trải qua nỗi đau đớn tột cùng khi mất mát người thân, cảm giác ấy được nhà văn ghi lại rất

thống thiết: “Tôi đưa tay lên miệng để bịt âm thanh thổn thức trong cổ cứ thế bật ra. Tôi

thương các em tôi quá. Rất đông những con ruồi bu quanh hai lỗ mũi cái Minh, cái Mị”…

Cũng giống như Thương nhớ đồng quê, Nguyễn Huy Thiệp xây dựng truyện ngắn Con

gái thuỷ thần dựa trên dòng tâm tư của nhân vật. Dõi theo tác phẩm, người đọc có thể thấu hiểu

được đời sống tâm lí cùng với bao trăn trở, day dứt, mơ ước, khát khao của nhân vật Chương.

Từ những lời tự bạch rất đỗi chân tình về bản thân “tôi là một thanh niên nông dân ngu độn,

trong lòng đầy những tình cảm thương người vụn vặt vừa duy tâm, vừa siêu hình, lại tầm

thường nữa” đến những bí mật trong trái tim anh “Trái tim tôi thuộc về nàng, thuộc về Mẹ Cả,

thuộc về Con gái thuỷ thần”. Trong suốt tác phẩm, dõi theo cuộc hành trình đầy gian nan của

Chương, Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều lần ghi lại những trạng thái xúc cảm không ngừng biến

đổi trong đời sống nội tâm của nhân vật. Lúc “chua xót”, “đờ đẫn”, “sửng sốt”, “sung

sướng”, “lúc thẫn thờ buồn bã”, “tái tê cảm giác chua xót”. Để đi tìm Mẹ Cả, nhân vật

Chương phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ, và tất cả những trở ngại ấy không làm

anh chùn bước, càng khó khăn anh càng thêm quyết tâm: “Tôi đi …Tôi muốn xem phía trước có

gì”.

Hạnh (Huyền thoại phố phường), cũng là một nhân vật được Nguyễn Huy Thiệp cũng

dành cho khá nhiều trang viết miêu tả đời sống tâm lí hết sức phức tạp của y. Vốn xuất thân từ

nông thôn, ghê sợ và căm ghét cái nghèo, y luôn “nhìn cuộc sống của bọn người giàu có với

nhiều khát khao, thèm muốn”. Cảnh sống tạm bợ trong một xó xỉnh ở ngoại ô Hà Nội, với ông

chú họ sống bằng phương châm “đã quen phải lèn cho đau”, Hạnh đã tìm mọi cách để “cố

gắng cải thiện tình cảm ruột rà”. Trước cuộc sống thị thành vốn “chứa nhiều cạm bẫy” , Hạnh

“xây dựng cho mình một lối sống khắc kỉ đặc biệt. Hạnh không hút thuốc, không uống rượu,

không phí phạm tiền nong vào các trò cao hứng ngông cuồng”. Từ lần được đích thân “tháp

tùng” mẹ con bà Thiều đi lễ chùa, chúng kiến sự tiêu pha hoang phí của bọn nhà giàu Hạnh trở

nên mất ăn mất ngủ. Từ kết luận: “Bọn người này coi tiền như rác” đến những so sánh: “riêng

tiền xích lô của hai mẹ con bà Thiều cũng đến bạc nghìn. Chỉ riêng khoản chi phí ấy cũng gấp

ba lần số tiền mà Hạnh kiếm được trong tháng” khiến cho Hạnh “rối cả lòng”. Thấy rõ được

buồn chán là căn bệnh của nhà giàu, trong đó có mẹ con bà Thiều, biết được họ sẵn lòng “trả

giá bạc nghìn để mua lấy một niềm vui hoặc một phép lạ” trong lòng y lập tức nảy ra những

tính toán thực tế và y tự nhủ “y rất có thể nhồi vào hai tâm hồn ấy một ngọn lửa nhỏ cho nó

bùng lên” những ham muốn nhiều khi rất vớ vẩn, vô nghĩa. Nghĩ đến chuyện tấm vé số của

Thoa được bà Thiều đem đi xin lộc, cầu xin Thánh thần “đổi tiền âm phủ thành tiền dương”,

lòng Hạnh như lửa đốt “Bảy trăm nghìn! Trời ơi, cả một số tiền lớn lao kinh khủng. Cả một cơ

nghiệp, cả một gia tài. Đấy là sự nghiệp! Đấy là hạnh phúc mà y mong muốn!” Niềm tin vào

một tấm xé số đã được nhận một sự bảo trợ vô hình khiến Hạnh “toát mồ hôi trán. Hạnh có

cảm giác như sốt”, trong giấc ngủ nặng nề y như còn “nghe rõ cả âm thanh loạt soạt của

những tờ giấy bạc” để rồi y bất ngờ bật ra ý tưởng đánh tráo tờ vé số. Quay trở lại nhà bà Thiều

vào hôm sau với ý đồ đen tối ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã khiến đầu óc người đọc căng ra bởi

những việc làm mờ ám của Hạnh. Ra đi, y để ý trau chuốt từ trang phục, đến nơi, y “tiện tay cài

chốt cửa ra vào”, gặp bà Thiều, y buông ra những lời cợt nhả hết sức thớ lợ: “nhớ cô quá!”,

“cô độc đáo trên toàn cơ thể … trông cô hấp dẫn như một thiếu nữ đương thì”. Sán lại gần

người đàn bà đáng tuổi mẹ mình, y nở nụ cười “cầu tài” với “ánh mắt ve vuốt”. Y đang dùng

mọi thủ đoạn để tiến đến gần hơn cái đích của mình và y rơi vào một trạng thái tâm lí hết sức

đặc biệt: “Thần kinh y căng như sợi dây đàn, những sợi gân xanh hai bên thái dương giần

giật”, nhưng chỉ ít giây sau đó ý tung ra “một đòn chí mạng”: y “chồm hẳn dậy và xô ngã

người đàn bà xuống đi văng” rồi sau đó “chồm lên nhặt lấy, nhét chiêc vé xổ số ấy vào người

rồi thong thả lấy chiếc vé của mình ném vào người bà Thiều”… Trong khoảng khắc ngắn ngủi,

đông cứng của thời gian tâm lí, người đọc đã được chứng kiến những hành động cũng như diễn

biến tâm lí hết sức phức tạp của nhân vật Hạnh, để từ đó thấu hiểu đến tận cùng bản chất xấu

xa, đê tiện của một kẻ trí thức đã bị sức mạnh của đồng tiền làm cho trở nên tồi tệ, bỉ ổi.

2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc thù của con người. Nó giúp cho con người có thể

hiểu được những tâm tư tình cảm của nhau, từ đó có thể xây dựng nên một xã hội bền vững,

phát triển. Văn học, với tư cách là một một bộ môn nghệ thuật đặc biệt cũng dùng ngôn ngữ

làm phương tiện biểu đạt. Vì vậy, ngôn ngữ là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc thể hiện

tính cách và cá thể hoá nhân vật. Cũng giống như con người ngoài đời, nhân vật văn học biết

suy nghĩ hành động và nói năng. Ngôn ngữ của nhân vật cũng chính là ngôn ngữ của đời sống,

nó mang đậm dấu ấn cá nhân và phản chiếu mọi mặt trong tư tưởng, tình cảm con người.

Trong văn xuôi, đặc biệt là trong truyện ngắn, ngôn ngữ nhân vật thường tồn tại ở dạng

đối thoại. Qua những lời đối thoại của nhân vật mà chúng ta hiểu được tâm lí, tính cách, bản

chất nhân vật. Cũng như qua đối thoại người đọc có thể dự đoán được diễn biến của cốt truyện.

Sở dĩ như vậy là vì “lời đối thoại gắn liền với việc những người nói hướng vào nhau và tác

động vào nhau. Lời nói con người, trước hết là sự đáp đối với những lời nói của ai đó nói ra

trước đó, và thứ hai nó hướng tới một kẻ xác định (trực diện hay không trực diện)”. [60, tr. 20]

Dựa theo cách quan niệm này, ta thấy, trong hầu hết các truyện ngắn của Nam Cao, các

nhân vật đối thoại hướng vào nhau, tích cực cộng tác với nhau. Chúng ta thử khảo sát một đoạn

đối thoại khá chuẩn mực trong truyện ngắn Chí Phèo:

“… Bá Kiến dõng dạc hỏi:

- Anh chí đi đâu đấy?

Hắn chào to:

- Lạy cụ ạ. Bẩm cụ … Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ! Giọng hắn vẫn lè nhè và tiếng

đã gần như méo mó. Nhưng điệu bộ thì lại như hiền lành. Hắn vừa gãi đầu gãi tai, vừa lải

nhải:

- Bẩm cụ từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế, con có dám nói

gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả đi ở tù sướng quá. Đi ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ

về làng nước, một thước cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ,

cụ lại cho con đi ở tù…

Cụ bá quát, bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh của người.

- Anh này lại say khướt rồi!

Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt, giơ tay lên nửa chừng:

- Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi ở tù mà nếu không được

thì … thì … thưa cụ…

Hắn móc đủ mọi túi , để tìm một cái gì, hắn giơ ra: đó là một con dao nhỏ, nhưng rất sắc. hắn

nghiến răng nói tiếp:

- Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đấm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện.

Rồi hắn cúi xuống, tần mần gọt cạnh cái bàn lim. Cụ bá cười khanh khách - cụ vẫn tự phụ hơn

đời cái cười Tào Tháo ấy - cụ đứng lên vỗ vai hắn mà bảo rằng:

- Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn đâm người cũng không khó gì. Đội Tảo nó

còn nợ tôi năm mươi đồng ấy, anh chịu khó đến đòi cho tôi, đòi được tự nhiên có vườn”.

[7, tr. 38, 39]

Trong đoạn đối thoại trên, hai nhân vật Bá Kiến và Chí Phèo luôn hướng về nhau, nhằm

hiểu biết lẫn nhau trong quá trình giao tiếp. Các nhân vật tích cực đổi vai giao tiếp cho nhau và

nội dung các phát ngôn sau cố gắng làm sáng rõ nội dung của những phát ngôn trước đó.

Không chỉ vậy, nó còn liên kết rất chặt chẽ với những phát ngôn trước đó. Bá Kiến hỏi Chí

Phèo: “đi đâu?”, Chí Phèo - mặc dù đã uống rất nhiều rượu nhưng vẫn trả lời chuẩn xác, rõ

ràng “ Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ”. Khi Chí Phèo nói “Đi ở tù sướng quá…”, Bá

Kiến độp lại ngay: “Anh này lại say khướt rồi!”, lập tức Chí Phèo quả quyết: “Bẩm thật là

không say”. Chí Phèo bảo muốn đâm chết người để được đi ở tù, tức thì Bà Kiến đá sang chân

Chí Phèo món nợ dai dẳng của Đội Tảo mà bấy lâu nay hắn chưa đòi được. Thâm độc, nham

hiểm, Bá Kiến dụ: “Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng ấy, anh chịu khó đến đòi cho tôi, đòi

được tự nhiên có vườn”, để từ đó biến Chí Phèo thành kẻ đâm thuê chém mướn, thành một tên

tay sai đắc lực của mình. Cuối cuộc nói chuyện đó, Chí Phèo đã ngoan ngoãn chấp thuận “bán

linh hồn cho quỷ dữ”. Những lời thoại trong trích đoạn trên còn sử dụng những mô hình cấu

trúc ngữ pháp phức tạp nhằm diễn đạt một cách rõ nhất tư tưởng, tình cảm nhân vật.

Đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hoàn toàn khác biệt. Trong rất nhiều tác

phẩm, hầu như các nhân vật tham gia đối thoại không hướng vào nhau, không quan tâm đến lời

nói của nhau, thậm chí hỏi nhau mà không mong nhận được câu trả lời bởi vì mỗi người dường

như đang đeo đuổi những suy nghĩ của riêng mình. Trong Tướng về hưu, “Ông Chưởng bảo

“Cha anh là người đáng trọng”. Tôi bảo: “Theo nghi lễ quân đội hả chú?”. Đoạn khác: “Ông

Cơ dãy nảy “Chết, cháu đã điện rồi. Mang tiếng chết”. Cha tôi thở dài: “Tôi có tiếng gì mà

mang?”. Lại một đoạn khác: “Cha tôi bảo: “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn

càng nhục”. “Vợ tôi bảo: “Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có Kim

Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết” . Trong Những

người thợ xẻ: “Ông Thuyết đi, còn trơ trọi năm người chúng tôi giữa cánh rừng hoang. Anh

Bường chửi: “Tiên sư đời, khốn nạn chưa! Các con ơi các con, các con đã biết đời là gì

chưa?”. Tôi bảo: “Cái ông Thuyết trông kinh nhỉ!”. Anh Bường bảo: “Làm việc đi chúng mày!

Thằng Biên thằng Biền chuẩn bị cưa! Tao với thằng Ngọc làm lán. Dĩnh ơi, mày đi xung quanh

đây xem có chỗ nào có nước không?”. Trong Không có vua, “Sinh bảo: “Chỗ mỡ lòng hôm

qua đầy kiến, chú làm sao chắt được hết kiến thì làm”. Khảm bảo: “Ở nước mình, mật độ lòng

lợn trên đầu người thì nhà mình nhất. Em đã thử thống kê, một năm anh Khiêm mang về hai

trăm sáu mươi bộ lòng”.

Trong một số truyện khác, lời thoại của các nhân vật không chỉ ít hướng về nhau mà

trong phát ngôn của mình, họ còn cố lồng vào đó những nội dung giao tiếp “lệch tâm” để phục

vụ những ý đồ của riêng mình. Truyện ngắn Không có vua, có đoạn: “Khảm bê mâm, Sinh bảo:

“Thiếu cái gì thì gọi”. Đợi Khảm đi khuất, Đoài bảo: “Thiếu một tí tình thôi, Sinh cho tôi xin

một tí tình”. Sinh bảo: “Nỡm. Lên nhà trên mà bảo hai cô bạn của chú Khảm ấy”. Đoài bảo:

“Hai con ôn vật bằng thế nào được Sinh”. Trong Mưa Nhã Nam cũng có những đoạn đối

thoạn như vậy:

“Đang câu chuyện, Đề Thám hỏi ông Lũy:

- Ông có đủ thịt ăn không?

- Nhờ giời – tay trộm trả lời – không phải lúc nào cũng ăn thịt bò, nhưng thịt gà thịt vịt cũng

ngon.

Đề Thám nói:

- Nếu ông ở chỗ tôi, tay Ba Biều sẽ nện cho ông một trận rồi tống vào trại. Tôi không thích

trộm cắp vặt vãnh.

Ông Lũy bảo:

- Tôi không đến chỗ ông vì thế, tôi biết tôi chẳng ra gì vì vướng nợ đời. Tôi giành công bằng

theo lối trâu bò gà vịt chứ không phải theo lối con người. Chỉ xin ông đừng khinh tôi”

Thậm chí trong nhiều đoạn đối thoại, các nhân vật giao tiếp không hiểu được nhau vì

dường như mọi tâm tư, tình cảm họ cố dấu kín trong lòng: “Quy ngạc nhiên: “Anh học đại học,

sao còn đi làm thợ xẻ?”. Tôi cười, học lối nói của anh Bường, tôi bảo: “Đấy là vì tình đấy, em

ạ. Tình bao giờ cũng lung tung. Người chỉ sót khi nó tuột khỏi tay thôi”. Quy bảo: “Anh nói hay

nhỉ? Em chẳng hiểu gì?”. Tôi bảo: “Em chẳng hiểu gì đâu” (Những người thợ xẻ). Cách thức

đối thoại này không mang các nhân vật xích lại gần nhau, ngược lại càng nới rộng thêm khoảng

cách vốn đã rất khó lấp đầy giữa họ.

Một đặc điểm không khó nhận ra khi khảo sát ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn của

Nguyễn Huy Thiệp, đó là: Các lời thoại của nhân vật thường ngắn ngủi, cộc lốc, rất ít từ đưa

đẩy. Về cấu trúc ngữ pháp, phần nhiều, các lời thoại đều là những câu đơn, thậm chí là những

câu đặc biệt. “Tôi bảo: “Viết hồi kí”. Cha tôi bảo: “Không”. “Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem”.

Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: “Để xem đã”. (Tướng về hưu).

“Sư Thiều hỏi: “Ngon không?”. Quyên bảo: “Ngon”. “Tôi bảo: “Nhà cháu đang gặt”. Dì Lưu

bảo: “Để đấy đã. Gặt ở khoảnh nào?”. Tôi bảo: “Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng” (Thương

nhớ đồng quê). Những lời thoại ngắn ngủi cộc lốc ta cũng thấy trong Sang sông:

“Tên cao gầy rút bao thuốc lá mời nhà thơ. Nhà thơ nhận ra một nốt ruồi ngay tinh mũi

hắn. Anh lắc đầu:

- Cái nốt ruồi kinh quá!

Tên cao gầy trố mắt:

- Sao thế?

- Anh có thể thoắt giết người như bỡn.

Nhà thơ đưa tay cứa ngang cổ mình:

- Như thế này này…

Tên cao gầy bật cười:

- Sao biết?

Nhà thơ lắp bắp, anh không tin chắc điều mình nói nữa:

- Tôi là nhà tiên tri thấu thị.

Chú bé níu lấy tay anh:

- Thế còn cháu thế nào hả chú?

… Anh ngần ngại hỏi:

- Cháu có dám mơ mộng không?

Chú bé gật đầu quả quyết:

- Có!

Nhà thơ mỉm cười:

- Vậy cháu bất hạnh.

Thiếu phụ thở dài. Ông giáo lẩm bẩm:

- Đâu đâu cũng rặt những phường điêu trá”.

Thậm chí, kể cả khi phải nhắc nhở, cảnh báo hoặc nhờ vả nhau người ta cũng rất kiệm

lời: “Chị lái đò bắc tấm ván cầu để hai tên buôn đồ cổ đẩy xe máy lên đò. Tên cao gầy bảo tên

mặc áo ca rô: - “Cẩn thận!”. Đấy là tên này bảo bạn nó cẩn thận ôm cái bọc vải trên tay, trong

ấy có cái bình cổ. – “Giúp với!”. Tên cao gầy nói với người đứng sau. Người ấy là nhà thơ …

Cô gái nói với người yêu “Giúp họ một tay!”… Với kiểu đối thoại cộc lốc này, các nhân vật

dường như bị đánh đồng, không còn phân biệt tôn ti trật tự. Sự kiệm lời của nhân vật khiến

người đọc nghi ngờ về đời sống tình cảm cũng như sự phong phú, sâu sắc trong thế giới tâm

hồn họ.

Dù ngắn gọn, cộc lốc nhưng đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mang tính cá

thể hoá cao độ, thể hiện rõ nét tính cách của nhân vật. Với Thuỷ, một kẻ toan tính thực dụng,

nắm vai trò “nội tướng”, ngôn ngữ của cô bao giờ cũng tồn tại dưới dạnh mệnh lệnh, khô khan,

sắc sảo nhưng ráo hoảnh tình người: “Không để thế được”, “Cha nuôi vẹt xem”, “Sao không

cho vào máy xát? Sao để ông biết?”, “Anh thôi hút thuốc lá Galăng đi”, “Việc gì?”, “Thế bao

giờ đi?”, “Tôi không thích. Thế ông bảo sao?”, “Mẹ già rồi”, “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ”,

“Đừng khóc” … (Tướng về hưu). Là một người cha cay nghiệt suốt ngày cau có, lời nói của

lão Kiền (Không có vua) với con cái thường là những lời chửi rủa, thoá mạ hết sức độc địa:

“Mày ấy à? Công chức gì mặt mày? Lười như hủi. Chữ tác chữ tộ không biết , chỉ giỏi đục

khoét”, “Đồ ruồi nhặng! Học với hành! Người ta dạy dỗ mày cũng phí cơm toi”, “Cái nghề

cạo đầu ngoáy tai của mày, nhục thì nhục nhưng hái ra tiền”… Là một gã trai đê tiện, bỉ ổi, lời

lẽ của Đoài cũng mang những dấu ấn riêng khó nhầm lẫn - nhất là khi lời nói ấy hướng về

những người anh, em của mình. Sau lưng Khiêm, Đoài bảo: “Trước sau cũng vào tù thôi. Cái

thằng ấy tôi đã thấy trước tương lai của nó. Ít ra cũng sáu năm tù. Kể cũng lạ. Một năm nó ăn

cắp đến nửa tấn thịt mà người ta để yên cho nó”, “thật là giờ làm việc của quân dạo tặc” .

Nhưng trước mặt Khiêm, Đoài lại bảo: “Có chút đạm này là đủ hai nghìn calo để làm việc cả

ngày đây. Cũng là nhờ chú Khiêm nhà mình vừa khéo vừa nhanh” … Với Sinh, mọi lời nói của

Đoài trước sau gì cũng không đi chệch quỹ đạo của sự sàm sỡ, chim chuột: “Người chị tôi sao

cứ mềm như bún”, “Thiếu một tí tình thôi. Sinh cho tôi xin một tí tình”, “Tôi nói trước, thế nào

tôi cũng ngủ được với Sinh một lần”…

Trong các tác phẩm của mình, các nhà văn thường ngầm gửi gắm những triết lí về nhân

sinh, về cuộc đời. Nguyễn Huy Thiệp cũng không phải là một ngoại lệ. Nếu Nam Cao thường

đặt những triết lí vào dòng suy tư, xúc cảm của nhân vật, Ma Văn Kháng xen vào giữa lời thoại

những lời bình luận trực tiếp của mình, hoặc nếu thi thoảng có để cho nhân vật triết lí thì các

nhân vật của họ thường là những con người học cao, hiểu rộng. Nguyễn Huy Thiệp thì ngược

lại, những triết lí của ông thường được đặt vào những phát ngôn trực tiếp của nhân vật. Nhân

vật phát ngôn ra những triết lí ấy cũng không chỉ tập trung ở một hạng người, một lớp người

nào đó trong xã hội. Có khi ở những nhân vật có học hành đàng hoàng tử tế: Anh Lai - vụ

trưởng một vụ (Quan âm chỉ lộ), Tri huyện Thặng (Chút thoáng Xuân Hương), đồ Ngoạn

(Giọt máu), ông giáo Quỳ (Thương nhớ đồng quê), anh giáo Triệu (Những bài học nông

thôn), Chị Thục - một cô giáo miền ngược (Những người thợ xẻ), nhân vật “tôi” - một bác sĩ

(Thổ Cẩm) … song cũng nhiều khi những triết lí ấy lại được đặt ở cửa miệng những người ít

học, thô mộc, dân dã: Chị Hiên, bà Lâm (Những bài học nông thôn), Phong (Giọt máu), thậm

chí được trao vào lời của những kẻ phàm phu phục tử, những kẻ tha hoá biến chất ở chốn thị

thành: Đoài, Khiêm (Không có vua), Bường (Những người thợ xẻ), Phượng (Con gái thuỷ

thần), Hạnh (Huyền thoại phố phường) …

Triết lí của nhân vật rất phong phú, đa dạng, gây nhiều ấn tượng với người đọc bằng sự

trải nghiệm của con người. Có khi là những triết lí về văn chương, chữ nghĩa: “Văn chương

phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đó là chí thánh”

(Ông Tân Dân), “Chữ nghĩa nó ghê gớm lắm. Nó là ma đấy. Yếu bóng vía là nó ám mình, nó

làm cho mình thê thảm, đau đớn mới thôi” - Đồ Ngoạn, “Văn chương có nhiều thứ lắm. Có thứ

văn chương hành nghề kiếm sống. Có thứ văn chương sửa mình. Có thứ văn chương trốn đời,

trốn việc. Lại có thứ văn chương làm loạn” – Ông Bình Chi (Giọt máu). Có khi là triết lí về

tình mẫu tử:“Tình mẫu tử là thứ nước mắt chảy ngược vào lòng, nó bào tan nát ruột gan ra

hoặc nó biến thành máu để bắt cơ thể làm việc, buộc phải đẻ ra một sản phẩm vật chất cụ thể

thiết thực, không hề phù phiếm” (Bường – Những người thợ xẻ). Những triết lí về những

nghịch lí của cuộc đời : “tất cả mọi thứ thanh cao hoang tưởng vẫn chết trong cõi dung tục như

thường” (Tri huyện Thặng - Chút thoáng Xuân Hương), Ông khách: “Lửa thử vàng. Vàng thử

đàn bà. Đàn bà thử đàn ông. Đàn ông thủ ma quỷ với thánh thần … Hoá ra ma quỷ hết! Thánh

thần ít lắm …”, “Tiền mà làm gì… Đàn bà chúng tôi sống chỉ vì tình” ( người mẹ - Đời thế mà

vui) : “…đàn bà – đấy toàn là những bộ xương khô … sách báo - đấy toàn là thuốc ngủ… bạn

bè - đấy toàn là yêu quái” (giáo Hội - Chăn trâu cắt cỏ). Có cả những triết lí về sức mạnh của

đồng tiền như triết lí: Tiền “là vua” (Khiêm - Không có vua). Đặc biệt, có rất nhiều những triết

lí trái ngược nhau về đàn bà: “Đàn bà là giống ác quỷ” (Đoài - Không có vua). “Đàn bà không

cần lòng cao thượng, Đàn bà cần cảm thông với vuốt ve, cần giúp đỡ bằng tiền mặt” (thầy giáo

Triệu - Những bài học nông thôn), “đàn bà chỉ thích những tên đàn ông nhăng nhít, dê cụ,

khả ố, đểu cáng…” (Ông đồ Hoạt - Mưa Nhã Nam), “Nước mắt đàn bà! Nước đái bò!”, “Đàn

bà là giống yêu tinh ác độc nên trong lòng nó mới thấy thiếu tình thương” (chú Hảo - Đời thế

mà vui).

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hết sức phong phú, đa dạng, độc

đáo, mang đậm dấu ấn riêng của phong cách sáng tạo của nhà văn. Trong thế giới ấy có cả

những con người của đời sống hiện tại, cả những con người trong cổ tích, huyền thoại, trong

lịch sử …Dù viết về con người trong quá khứ hay trong hiện tại, nhà văn cũng vẫn muốn thông

qua đó để phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống hôm nay. Thông qua thế giới nhân vật,

chúng ta có dịp hiểu sâu hơn cái ngồn ngộn, bộn bề, phức tạp của đời sống nhân sinh, những

tâm tư tình cảm cũng như những khát vọng luôn đi liền với những bi kịch của con người.

Không chỉ vậy, qua thế giới nhân vật ấy, ta còn thấy được sự nhạy cảm, tinh tế, bản lĩnh trung

thực trong trái tim của một nhà văn chân chính - một người luôn nhìn thẳng vào hiện trạng

nhếch nhác, nham nhở đồi bại của cuộc đời để giúp cho con người hiểu rõ hơn về mình, về

đồng loại, tích cực đấu tranh với cái ác, cái xấu để hoàn thiện nhân cách cũng như xây dựng

một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất thảy mọi người.

Chương 3: ĐẶC TRƯNG THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP

Thủ pháp nghệ thuật có thể hiểu là tất cả những biện pháp, phương tiện nghệ thuật được

nhà văn sử dụng để làm nên tác phẩm. Tuân thủ những nguyên tắc sáng tạo của thể loại và thời

đại, mỗi nhà văn cũng đồng thời mang đến những bí quyết, những “ngón nghề” riêng. Tuỳ vào

sở trường, sở đoản của mình, mỗi nhà văn sẽ sử dụng một số các thủ pháp nghệ thuật nào đó

sao cho tác phẩm của họ đạt được hiệu quả nghệ thuật cao nhất. Do đó, thủ pháp nghệ thuật

mang nặng dấu ấn, cá tính sáng tạo và góp phần quan trọng vào việc hình thành phong cách của

nhà văn. Nguyễn Huy Thiệp Là nhà văn có cá tính rõ rệt, có cách viết riêng, tao đáo. Các đặc

trưng nghệ thuật ấy biểu hiện ở nhiều phương diện khác nhau, nhưng đậm nét nhất là các

phương diện: Người kể chuyện, nghệ thuật kết cấu tác phẩm, yếu tố kì ảo và những giấc mơ,

yếu tố thơ …

3.1. Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Người kể chuyện cũng là một phương diện quan trọng trong tác phẩm văn xuôi, đặc biệt

là truyện ngắn. Người kể chuyện chính là cây cầu nối dẫn dắt người đọc đến với tác phẩm, vì

vậy giữa người kể chuyện với người đọc bao giờ cũng có những mối quan hệ nhất định.

Trong văn học trước đây, chúng ta thường thấy giữa người kể chuyện và người đọc có

mối quan hệ một chiều. Trong quan hệ này, người kể có nhiệm vụ dẫn dắt người đọc.

Vì dẫn dắt, người kể chuyện luôn tỏ ra từng trải, sáng suốt hơn người đọc. Đứng ở vị trí

cao hơn, người kể làm công việc dạy dỗ, bảo ban người đọc. Lời của người kể thường toát lên

sự tự tin của người đang ban phát chân lí, người đọc phải chấp nhận đó là lời duy nhất, là lời

cuối cùng, không thể bàn cãi gì thêm. Chẳng hạn, ở cuối các câu chuyện cổ tích, những người

kể chuyện dân gian thường đem đến cho người đọc những đúc rút chân lí: “ở hiền gặp lành,

gieo gió gặt bão”, “tham thì thâm”… Dù nhạt hơn, nhưng những lời bảo ban như vậy vẫn xuất

hiện trong khá nhiều truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975.

Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người kể chuyện có vị trí ngang bằng với độc giả,

cả hai bình đẳng với nhau cả về sự hiểu biết, độ từng trải. Quan hệ giữa người kể chuyện và

người đọc là quan hệ hai chiều, tương tác. Người kể chuyện không coi nhiệm vụ chính là dạy

dỗ, bảo ban người đọc, anh ta chỉ thay người đọc chọn lấy một trong nhiều cách có thể đưa ra

để giải quyết câu chuyện. Trong kiểu quan hệ này, việc người đọc có ý kiến khác, thậm chí trái

ngược với người kể chuyện là điều đã được tác giả tiên liệu từ trước. Người kể chuyện chỉ là

người gợi mở để người đọc tham gia vào cuộc đối thoại, vì vậy người đọc có thể nói lên tiếng

nói của mình, dù đó là tiếng nói đồng tình hay phản đối.

Nếu trong quan hệ một chiều giữa người kể chuyện và độc giả của truyện ngắn truyền

thống, người kể chuyện luôn phải tạo ra được một thứ lực hấp dẫn lôi cuốn người đọc theo sự

khám phá, và cách đánh giá của mình để cuối cùng họ bị thuyết phục, đi tới một sự nhất trí

hoàn toàn với mình thì ở kiểu quan hệ hai chiều trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người

kể chuyện luôn gợi mở ra những vấn đề trong cuộc sống, đòi hỏi người đọc, bằng tất cả hiểu

biết, kinh nghiệm, sự từng trải của mình đưa ra một cách đánh giá riêng, một cách giải quyết

riêng đối với những vấn đề đó. Cũng chính kiểu quan hệ này dẫn đến những thay đổi quan

trọng trong điểm nhìn trần thuật, trong giọng điệu của người kể chuyện và cả trong sự xác tín

của lời người kể chuyện … tất cả những điểm khác biết này tạo ra một hình ảnh người kể

chuyện độc đáo, mới mẻ, khác lạ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.

3.1.1. Người kể chuyện với điểm nhìn ngoại quan

Trong bất cứ câu chuyện nào, người kể chuyện bao giờ cũng phải chọn một vị trí nào đó

để từ đó có thể quan sát, chứng kiến và kể lại câu chuyện. Ở mỗi vị trí của người kể chuyện,

câu chuyện sẽ hiện ra với những góc độ khác nhau. Người kể chuyện trong phần lớn những

truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện với điểm nhìn ngoại quan (điểm nhìn từ bên

ngoài – khác hẳn điểm nhìn nội quan trong các sáng tác của Nam Cao, Nguyễn Minh Châu,

Nguyễn Thị Thu Huệ…). Với điểm nhìn này, người kể thường lùi ra xa nhân vật để tạo ra một

khoảng cách cần thiết. Cũng chính từ khoảng cách đó, anh ta có thể thu nhận được những biểu

hiện bên ngoài của nhân vật như: hành động, cử chỉ, lời nói, diện mạo, trang phục ... Với cách

lựa chọn điểm nhìn này mà Nguyễn Huy Thiệp luôn tỏ ra là người kém cỏi khi nắm bắt và

khám phá thế giới nội tâm của nhân vật.

Người ta vẫn biết tới Nam Cao với tư cách là một “người kể chuyện toàn năng”, ông có

thể “thấu suốt” mọi tâm tư, tình cảm của nhân vật. Không một nhân vật nào có khả năng che

dấu thế giới nội tâm trước con mắt tinh tường của nhà văn, kể cả “con quỷ dữ” của làng Vũ

Đại. Nam Cao đã nhìn thấy sự xúc động sâu xa trong tâm hồn Chí Phèo khi hắn nhận được sự

săn sóc ấm áp tình người của Thị Nở: “Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy

mắt hình như là ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho …hắn

nhìn bát cháo bốc khói mà lòng bâng khuâng … Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời ơi

cháo mới thơm làm sao!”. [7, tr 50]. Cũng từ đó, Nam Cao còn nhìn thấy khát khao lương thiện

trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng Chí: “Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi

người biết bao!”. [7, tr. 50]. Khám phá những truyện ngắn có “người kể chuyện toàn năng”,

người đọc cảm thấy hứng thú trước những bí ẩn nằm sâu trong tâm hồn con người mà người kể

đã phơi bày trước mắt người đọc. Song, cũng chính vì vậy mà họ cũng có cảm giác mình đang

tìm đến với những trang sách để mở, từ đó chỉ còn biết tán thưởng, đồng tình với người kể

chuyện mà thôi.

Khác với Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp đã hạ thấp khả năng của người kể chuyện một

cách tối đa. Không đi sâu vào khám phá và thể hiện những tâm tư, tình cảm trong đáy sâu tâm

hồn nhân vật, nhà văn cho người đọc chứng kiến những biểu hiện bên ngoài để từ đó họ tự đánh

giá, nhận xét về nhân vật. Trong Không có vua, tác giả kể: “Sinh dọn mâm bát. Lão Kiền ngồi

uống nước. Khảm mặc quần áo, quần bò, áo phông, trên áo có ghi dòng chữ “Walt Disney

Productions”. Khảm bảo: “Anh Cấn ơi, anh cho em năm chục”. Cấn bảo: “Tiền đâu mà cho”.

Khảm bảo: “Bố cho con năm chục”. Lão Kiền bảo: “Mày ngồi vá cho tao cái xăm kia kìa, rồi

tao cho tiền”, Khảm nhăn nhó: “Thế thì muộn giờ học còn gì”. Lão Kiền không trả lời, mở tủ

đồ nghề, lúi húi làm việc. Khảm dắt xe ra cửa, nghĩ thế nào lại dựng xe ôm cặp vào nhà. Khảm

mở cửa buồng, trông trước trông sau không thấy ai, mở thùng gạo xúc ba bò rưỡi gạo cho vào

cặp rồi lẻn đi ra.

Sinh cất nồi dưới bếp. Đoài đi theo lấy cơm vào cặp lồng. Đoài đưa tay chạm vào lưng

Sinh, Đoài bảo: “Người chị tôi cứ mềm như bún”. Sinh lùi lại hốt hoảng: “Chết, chú Đoài, sao

lại thế?”. Đoài bảo: “Gớm, đùa một tí đã run bắn người”. Nói xong đi lên nhà.

Tốn xách xô nước, cặm cụi lau sàn, ti tỉ hát: “A ha … không có vua…”.

Có người đến cắt tóc, Cấn hỏi: “Bác cắt tóc kiểu gì? Khách bảo: “Chú cắt thấp cho tôi.

Cẩn thận, tôi mọc cái đầu đanh gần chỗ đỉnh đầu”.

Đoài mặc xong quần áo, dắt xe đi. Đoài đến cửa quay lại bảo Cấn: “Ngày kia giỗ mẹ,

anh Cấn bảo chú Khiêm mai kiếm được cân thịt ngon ngon. Em đưa chị Sinh một trăm rồi

đấy”. Cấn bảo: “Nhớ rồi”.

Trong suốt cả một đạn văn dài như vậy nhưng dường như người kể chuyện không hề có ý

định xoá bớt đi khoảng cách giữa mình với các nhân vật. Do vậy, mà người kể chuyện không

thể thâm nhập sâu vào thế giới bên trong của nhân vật để phơi bày những suy nghĩ, những xúc

cảm thầm kín hay những động cơ thúc đẩy nhân vật hành động. Bằng giọng kể lạnh lùng,

không một chút sắc thái biểu cảm, người kể chuyện để cho các nhân vật hiện lên một cách

khách quan, trung thực nhất trước mắt người đọc. Không được người kể chuyện giải thích hay

chỉ bảo, người đọc sẽ hồi hộp, chăm chú theo dõi diễn biến câu truyện để có thể tự mình lí giải,

suy luận, từ đó tự mỗi người sẽ nắm được những nét bản chất nhất của mỗi nhân vật theo ý

riêng của mình.

Trong nhiều truyện ngắn khác, nhiều khi nhà văn chỉ đem đến cho người đọc một cái tên,

nghề nghiệp hoặc có khi chỉ là quan hệ ngôi thứ trong gia đình của nhân vật: “Nhà Lâm chẳng

có nhiều người. Bà Lâm đã già. Bố mẹ Lâm làm ruộng. Anh trai Lâm đi bộ đội, có vợ là chị

Hiên, chị Hiên mới làm dâu nhà Lâm được nửa năm. Lâm có hai đứa em: cái Khanh mười ba

tuổi, còn thằng Tiến bốn tuổi” (Những bài học nông thôn). Còn tính cách cũng như số phận

của từng nhân vật vẫn còn là điều bí ẩn.

Cũng có khi người kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp là một nhân vật trong chính câu

chuyện mà anh ta kể lại. Song, cả khi ấy, người kể chuyện vẫn cố tình tách ra khỏi chính mình

để đứng ở một vị trí khách quan thuật lại câu chuyện. Trong Tướng về hưu, nhân vật “tôi” kể

về cha mình: “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số

lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi

có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền… Sống với

dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha

tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà. Khoảng năm … cha tôi về làng lấy vợ…Năm

bẩy mươi tuổi cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng”. Kể về bản thân: “Tôi ba mươi bảy tuổi, là

kĩ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thuỷ, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện Sản phụ. Chúng tôi có

hai đứa con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, chỉ ngồi một chỗ”. Vẫn với cách

kể dửng dưng, lạnh lùng cùng những thông tin giống như một bản kê khai lí lịch, người kể

chuyện chỉ làm một việc là cung cấp cho người đọc những thông tin thuần tuý, ngắn ngọn nhất

về nhân vật.

Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta có thể bắt gặp kiểu người kể

chuyện không thích bày tỏ thái độ, quan điểm cũng như cách đánh giá của bản thân. Đó là cách

kể của “một chủ thể khách quan, trung tính, quan sát, kể chuyện với con mắt lạnh lùng, thiếu

những đoạn trữ tình ngoại đề, lời bàn luận, đánh giá xen giữa các sự kiện” [67]. Chính điều

này khiến cho nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp có sức gợi mở rất lớn đối với người đọc. Ở đây

có một sự tương tác hết sức thú vị: khi người kể chuyện hạn chế khả năng của mình lại

chính là lúc anh ta làm tăng thêm sự tích cực trong việc tiếp nhận câu chuyện từ phía

người đọc.

3.1.2. Người kể chuyện không đáng tin cậy

Thông thường, với tư cách giữ vai trò “môi giới” giữa câu chuyện với độc giả, người kể

chuyện phải là người nắm rõ câu chuyện hơn ai hết. Truyện ngắn Một bữa no của Nam Cao kể

về một bà lão bị đói khát hành hạ lâu ngày. Suy nghĩ, tính toán mãi, cùng đường bà quyết định

tìm đến nhà bà phó Thụ - nơi đứa cháu đang ở đợ. Sau khi được ăn một bữa no, trở về nhà, bà

đã bội thực mà chết trong vật vã, đau đớn. Bà lão loà trong truyện ngắn cùng tên của Vũ Trọng

Phụng sau khi bị vợ chồng đứa cháu họ cố tình bỏ quên ngoài đường đê trong cơn mưa giông

đã bị gió thổi bay xuống ruộng, thân xác bà cuối cùng trở thành mồi cho lũ quạ. Sở dĩ có kết

cục bi thảm này là vì đã từ lâu bà lão lòa trở thành món nợ đè nặng thêm đôi vai mòn yếu của

hai vợ chồng bác đánh dậm…

Trong những câu chuyện như thế, người đọc có thể biết rất rõ về diễn biến cũng như kết

thúc của câu chuyện. Song, trong nhiều truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp điều này lại không xảy

ra. Người đọc không biết được kết thúc câu chuyện, thậm chí có khi chính người kể

chuyện cũng không biết câu chuyện cuối cùng được kết thúc như thế nào. Vì vậy, những gì

anh ta kể có khi không chiếm được sự tin cậy hoàn toàn từ phía người đọc.

Trong chùm truyện: Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết, người kể chuyện hoàn toàn khác

biệt với kiểu người kể chuyện truyền thống. Trong Vàng lửa, người kể chuyện không biết gì về

kết cục số phận của đoàn người đi tìm vàng trong câu chuyện anh ta kể bởi vì theo anh ta: “Hồi

kí của người Bồ Đào Nha không viết gì thêm. Tôi, người viết truyện này đã cất công đi tìm các

thư tịch cổ và hỏi han nhiều bậc bô lão: Không có tài liệu gì và cũng không có ai biết gì về

thung lũng Quạ hoặc truyện của những người châu Âu thời vua Gia Long. Mọi cố gắng của tôi

trong nhiều năm nay vô hiệu”. Hoá ra, người kể chuyện không phải là người chứng kiến câu

chuyện, cũng không phải người biết rõ về nó. Anh ta chỉ làm nhiệm vụ thu thập những tư liệu

còn sót lại từ một quyển nhật kí của một người xa lạ. Cuối cùng, vì không biết câu chuyện kết

thúc như thế nào, người kể chuyện đành đưa ra ba kết thúc dự đoán khác nhau để người đọc

dựa vào đó mà đưa ra những phán đoán của riêng mình. Với mỗi phán đoán, người đọc có thể

hoàn chỉnh câu chuyện theo một cách riêng. Các truyện ngắn Người sót lại của rừng cười của

Võ Thị Hảo, Mùa hoa cải bên sông của Nguyễn Quang Thiều cũng là những truyện ngắn mà

trong đó người kể chuyện cũng không biết được kết thúc của câu chuyện như vậy.

Trong chùm truyện “giả lịch sử” này, người kể chuyện còn cố tình sử dụng những chi tiết

mâu thuẫn với nhau một cách khá lộ liễu. Trong Kiếm sắc, có chi tiết Nguyễn Ánh sai người

chém cổ Lân bằng chính thanh kiếm gia truyền – bảo bối của y – vì Lân không hoàn thành

được sứ mệnh chiêu mộ danh sĩ Bắc Hà. Trong truyện có chi tiết: “Lân không nói năng gì, vươn

cổ ra chịu chém… Khi chém đầu, máu phun ra không đỏ mà trắng như nhựa cây, một lúc sau

thì bết lại”. Nhưng đến đoạn kết của truyện lại có thêm một chi tiết hoàn toàn khác: “Ông

Quách Ngọc Minh có nói tổ phụ ông tên là Đặng Phú Lân, có vợ tên là Ngô Thị Vinh Hoa vốn

là một ca nữ, Lân và Hoa trốn vua Gia Long lên Đà Bắc, giả làm người Mường. Về sau lập

trại, sinh con đẻ cái ở đây”. Nếu nhìn bề ngoài thì hai chi tiết trên có vẻ hoàn toàn mâu thuẫn

với nhau. Song, đây lại là một sự sắp xếp có dụng ý của tác giả và đoạn kết này có một vai trò

khá quan trọng trong câu chuyện. Dù được viết ở điểm mốc hiện tại (khi ông Quách Ngọc Minh

cho xem gia phả), nhưng rõ ràng câu chuyện rọi lại quá khứ, và cho thấy toàn bộ những điều đã

được kể ở trên, xét về độ tin cậy, chỉ như một giai thoại, nghĩa là nó được coi như một khả năng

có thể xảy ra trong cuộc sống mà thôi.

Một điều nữa góp phần tạo ra sự thiếu tin cậy ở người kể chuyện trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp là anh ta thường thay thế lời kể của mình bằng những lời đồn đại không

được kiểm chứng về nguồn gốc. Mật độ của những lời đồn đại trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp xuất hiện khá dày đặc. Khi người kể chuyện dừng lời để nhường chỗ cho những lời

đồn đại thì tính chất khẳng định, xác thực của lời kể trở thành mơ hồ, không xác định.

Trong truyện Chảy đi sông ơi, người ta đồn đại về lão trùm Thịnh khá rùng rợn: “Lão mở quán

mì vằn thắn … lão dùng thịt chuột đánh bả thạch tín. Bát mì vằn thắn mang cho chó ăn chó

chết. Người ăn thịt chó cũng lại chết luôn. Quán mở nửa tháng thì lão dẹp tiệm, lão chất rơm

vào trong quán rồi đốt đùng đùng. Có người kể rằng khi lửa bốc cao thì ở trong quán có con

chuột to bằng bắp chân người phóng thẳng ra ngoài cứ cười hềnh hệch”. Mẹ Cả, nhân vật

huyền thoại trong Con gái thuỷ thần cũng xuất hiện dưới dạng những tin đồn. Người thì bảo

nàng là “con thủy thần để lại”, người thì nói sau này “ông từ đền Tía đón về nuôi”, người khác

lại đồn “thím Mòng trên phố chợ đón về nuôi”, có người lại đồn “các xơ trong nhà tu kín đón

về, đặt tên thánh cho Mẹ Cả là Gianna Đoàn Thị Phượng”. Chỉ là lời đồn đại không có thực,

vậy mà Mẹ Cả trở thành đối tượng kiếm tìm suốt cuộc đời Chương. Truyện ngắn Qua sông

cũng kết thúc bằng lời đồn mang đậm những nét hoang đường kì ảo: “Ngày ấy, năm ấy, đồn

rằng có một khách qua sông trên đò một mình, chẳng có chèo, chẳng có sào gì cả, mưa bão rất

lớn mà đò vẫn cập bến. Người ta bảo rằng đó là một thiên thần qua sông. Dấu chân để lại tên

sạp đò rất lớn, cô lái đò ướm chân mình vào đấy về nhà mang thai”. Trong nhiều câu truyện

khác, yếu tố lời đồn cũng góp phần tham dự vào việc thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện.

Truyện ngắn Đất quên cũng xuất hiện lời đồn đại: “Người ta đồn rằng hôm sau ông Pành leo

lên đỉnh núi, bập được nhát rìu đầu tiên vào gốc cây lim thì ông kiệt sức. Ông chết vì bị vỡ

tim”. Lời đồn này kết thúc những nỗ lực của nhân vật trong hành trình chinh phục hạnh phúc.

Hay ở một câu chuyện khác, lời đồn mở ra một trang mới tươi đẹp cho cuộc đời nhân vật:

“Hôm sau, ông khách rời bản Hua Tát ra đi. Người ta đồn rằng về sau Sinh rất sung sướng.

Ông khách là một hoàng đế cải trang vi hành” (Nàng Sinh). Lời đồn đại cũng có khi là lời giải

đáp cho kết cục cuối cùng của số phận nhân vật: “Buổi chiều hôm ấy, xổ số đặc biệt giải bảy

trăm ngàn rơi vào con số 20437, đúng vào chiếc vé xổ số mà Hạnh đã ném trả bà Thiều …

Nghe nói Hạnh đã phát điên. Ông chú họ vốn đạp xích lô đã phải đưa y đi viện tâm

thần…”(Huyền thoại phố phường).

Song hành với sự xuất hiện của những lời đồn đại trong câu chuyện bao giờ cũng là thái

độ nửa tin, nửa ngờ của người đọc, bởi bản thân những lời đồn vốn có sự pha trộn của hai yếu

tố thật - giả. Nguyễn Huy Thiệp đã khéo léo đưa vào trong truyện những lời đồn đại xen giữa

những lời kể, làm giảm độ tin cậy của câu chuyện nhưng lại làm cho các nhân vật, sự kiện có

thể hiện lên ở nhiều góc độ. Với người đọc, chúng tạo ra một sự thú vị riêng gọi mời họ khám

phá, tìm hiểu.

3.1.3. Lời của người kể chuyện

Trong một tác phẩm văn xuôi, hiện tượng người kể chuyện tự tách mình ra khỏi câu

chuyện và trực tiếp đối thoại với độc giả không phải là điều mới mẻ. Văn học châu Âu thế kỉ

XIX đã xuất hiện nhiều trường hợp như vậy. Đó là khi người kể chuyện hướng về người đọc

trong một trích đoạn của tác phẩm Hội chợ phù hoa (Thackơrê): “Mới biết nhờ cái tài khoản ở

nhà băng mà giá trị một bà quý tộc già được tăng thêm bao nhiêu phần! Nếu bà ấy lại là một

người thân trong gia đình (rất có thể mỗi độc giả cũng có hàng nửa tá người thân như vậy đấy)

thì những thói xấu của bà ấy đối với ta cũng trở thành đáng yêu biết bao. Thật là một bà cụ già

nhân hậu, tốt bụng! … Rồi khi bà cụ đến thăm, ta lại có dịp giới thiệu địa vị của bà với bè bạn.

Chúng ta bảo thế này (Mà cũng chí lí): “Ước gì bà Mác Uơtơ kí cho một chữ vào cái ngân

phiếu năm ngàn đồng nhỉ”. Vợ chúng ta thêm: “Năm ngàn thì bà cụ coi mùi gì”. Khi ông

khách hỏi bạn rằng bà Mác Uơtơ phải chăng có họ với gia đình, bạn cứ điềm nhiên như không,

đáp: “Tôi gọi bà cụ bằng cô ruột đấy”. Trong đoạn văn trên, người kể chuyện hướng hẳn về

độc giả để kể về sự kiện: mọi người trong gia đình Crâulê cuống quýt chào đón bà cô giàu có

ngoài tỉnh về chơi. Sự việc ấy, tự thân nó cũng đã bộc lộ khá rõ ràng, nhưng ở đây vẫn có thêm

những lời bàn luận trực tiếp của người kể chuyện. Với cách làm này, Thácơrê cũng như nhiều

nhà văn châu Âu thế kỉ XIX đã góp phần định hướng cách hiểu của độc giả đối với những sáng

tác nghệ thuật của mình. Như vậy, dù người kể chuyện có tiến hành giao tiếp trực tiếp với

người đọc nhưng chẳng qua cũng chỉ là để phát ra các thông điệp mà không có nhu cầu nhận

một sự phản hồi từ phía người đọc. Người kể chuyện vì vậy vẫn đóng vai trò ban phát, dạy dỗ,

chỉ bảo người đọc. Đây không phải là cuộc đối thoại thực sự mà chỉ là độc thoại một hướng.

Không giống với cách làm trên, lời người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp chỉ là những lời mở đầu có tác dụng khơi gợi để người đọc lên tiếng tham gia vào quá

trình đối thoại thực sự. Không hề áp đặt người đọc bằng những ý kiến chủ quan của mình,

người kể chuyện của Nguyễn Huy Thiệp có cách làm riêng:

“Tôi - người viết truyện ngắn này – căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy. Quả

thực, cái kết thúc ấy là tuyệt diệu và cảm động, trí tuệ dân gian đã nhọc lòng làm hết sức mình.

Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đấy là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây phút rốt đời

Trương Chi cũng sẽ văng tục. Nhưng đấy không phải là lỗi ở chàng

Mỵ Nương sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc.

Điều ấy vừa tàn nhẫn, vừa phi lí.

Lẽ đời là thế”.

Viết Trương Chi dựa trên nền của một câu chuyện cổ tích, người kể chuyện của Nguyễn

Huy Thiệp bộc lộ rõ thái độ của mình: anh ta“căm ghét sâu sắc” cái kết thúc truyền thống – cái

kết thúc mà ở đó các tác giả dân gian đã ru ngủ người đọc bằng những “ảo tưởng cổ tích” ngọt

ngào, mùi mẫn. Cùng với thái độ ấy, anh ta đưa ra cách giải quyết câu chuyện của mình “Tôi có

cách kết thúc khác”. Tất cả những điều đó đều xuất phát từ góc độ cá nhân người kể chuyện,

song đó hoàn toàn không phải sự áp đặt mà chỉ là cơ sở để người đọc xem xét, đánh giá về nhân

vật và tác phẩm mà thôi.

Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, giọng điệu của người kể chuyện mang

đầy vẻ thách thức như muốn chọc tức độc giả. Mưa Nhã Nam là một ví dụ: “Tôi không chắc

ông Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám, tức Hùm xám Yên thế trong lịch sử có giống ông Đề

Thám mà tôi kể không? Còn ông Đề Thám như tôi biết (tôi biết rõ ông ta): ông ta là một anh

hùng, cũng là một người nhu nhược”. Giọng điệu này cũng xuất hiện trong Tướng về hưu:

“Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình” … Việc sử dụng

giọng điệu thách thức trong hầu hết các trường hợp xảy ra đối thoại trực tiếp đã tác động đến

người đọc như những lời khiêu khích, đặt người đọc vào tình thế “bị thách đấu”, buộc phải

tham gia vào quá trình đối thoại và buộc phải phát biểu ý kiến của riêng mình.

Không chỉ thách thức người đọc, người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

còn rất nhạy cảm, anh ta thường hướng về người đọc bằng cảm giác như họ đang hiện hữu bằng

xương bằng thịt trước mặt mình:

“Tôi sẽ kể chuyện này cho anh, vì anh, anh bạn ạ, vì đến năm mươi tuổi anh sẽ thành

ông lão.

Tôi sẽ kể câu chuyện này cho chị, vì chị, chị bạn ạ, bởi vì đến bốn mươi tuổi chị sẽ thành

bà lão.

Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng đi, cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc.

Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy chỉ toàn những nhọc nhằn thôi,

không ai kể chuyện cho cô nghe cả”.

Ở Nhã Nam tháng tư có mưa.

Chuyện thế này … Một câu chuyện nhỏ về Hoàng Hoa Thám”.

Người kể chuyện ở đây đặt mình trong cuộc đối thoại với nhiều người khác nhau và

trong sự hình dung của họ, nhân vật mà ông sắp kể cũng sẽ không hiện lên với tính chất của

một hằng số. Anh thanh niên, chị phụ nữ, chàng trai, cô gái… mỗi người sẽ có cách hình dung

khác nhau về nhân vật Đề Thám của ông – nhân vật mà ông đã bật mí trước cùng họ là không

chắc có phải nhân vật đã trở nên quen thuộc trong lịch sử.

Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã có một sự thay đổi lớn trong hình tượng người kể

chuyện. Sự thay đổi đó xuất phát từ một quan điểm mới về người đọc: Người đọc không phải là

một đối tượng thụ động mà là một người đối thoại có hiểu biết cùng tham gia bàn luận, bày tỏ

thái độ của mình để khám phá và chiếm lĩnh đời sống.

3.2. Nghệ thuật kết cấu tác phẩm

“Nhiệm vụ của nhà văn là nhào nặn vốn sống để xây dựng thành những sinh mệnh nghệ

thuật – tái hiện những bức tranh đời sống giàu tính khái quát, nghĩa là phải tổ chức lại chất

liệu sống, bỏ bớt đi những cái thừa, phát triển thêm cái chưa có, nối liền cái xa nhau, tạo thành

một chỉnh thể mang giá trị nghệ thuật” [64, tr 295]. Vì vậy, trước khi bắt đầu sáng tác, bao giờ

nhà văn cũng quan tâm đến việc làm thế nào để tác phẩm trở nên hấp dẫn, ấn tượng, với người

đọc, đồng thời còn phải chuyển tải được tối đa ý đồ nghệ thuật của mình. Để làm được điều đó,

bên cạnh việc chọn đề tài, thể loại, nhân vật …việc lựa chọn một hình thức kết cấu cho tác

phẩm như là một thao tác tất yếu đồng thời nảy sinh. Kết cấu tác phẩm tác phẩm là “toàn bộ tổ

chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự

đặt ra cho mình”, nó không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm. Ở

mỗi thời kì, mỗi thể loại, mỗi cá nhân nhà văn, cách thức tổ chức tác phẩm có những đặc thù

khác nhau. Vì vậy, có thể nói, ở mỗi nhà văn, chúng ta có thể tìm thấy những nét tiêu biểu của

phong cách nghệ thuật qua nhiều thủ pháp nghệ thuật trong đó có nghệ thuật kết cấu tác phẩm.

Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn thu hút được đông đảo dư luận những năm sau đổi mới, điều này

có nhiều nguyên do, song trong đó, cách thức tổ chức kết cấu tác phẩm cũng là một nhân tố

quan trọng. Nhận xét về điều này, có ý kiến cho rằng: Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

“dường như còn rất ít bóng dáng chặt chẽ, khuôn mẫu của truyện ngắn cổ điển…nó có kết cấu

tiểu thuyết, nó lỏng lẻo như chính cái lỏng lẻo của cuộc sống” [42, tr. 137]. Tuy nhiên, nói như

vậy cũng không có nghĩa là Nguyễn Huy Thiệp hoàn toàn chối bỏ kiểu kết cấu truyền thống,

ngược lại, ông đã có ý thức kế thừa một cách tích cực một số đặc điểm trong kiểu kết cấu này

để tạo ra một kiểu kết cấu riêng, độc đáo.

3.2.1. Cách thức mở đầu và kết thúc tác phẩm

Đã trở thành truyền thống, các truyện kể dân gian thường có cách kết cấu theo trình tự

thời gian và điều này được tuân thủ một cách rất chặt chẽ. Cô Tấm (Tấm Cám) xuất hiện trước

mắt người đọc từ thủa còn là một cô bé mồ côi, bị mẹ con mụ dì ghẻ bạc đãi, hãm hại, trải qua

nhiều lần biến hoá, cuối cùng cô trở nên xinh đẹp bội phần, được nhà vua đón về cung và sống

trọn đời hạnh phúc. Chàng Thạch Sanh (Thạch Sanh – Lí Thông) là chàng trai đốn củi mồ côi,

nghèo khó, sống thui thủi bên gốc đa, một ngày kia bị mẹ con Lí Thông lừa gạt, đẩy vào chỗ

chết. Chàng đã dùng sức mạnh giết chết chằn tinh và cứu công chúa, giải thoát cho hoàng tử

con vua Thuỷ Tề. Cuối cùng, chàng được làm vua và sống hạnh phúc… Trong hầu hết các câu

chuyện cổ tích, trật tự này không có sự đảo lộn.

Kiểu kết cấu theo trình tự thời gian vẫn rất phổ biến trong văn thơ trung đại. Truyện Kiều

của Nguyễn Du cũng mở đầu bằng cách giới thiệu rất đầy đủ về thời gian xảy ra câu chuyện,

gia cảnh cũng như bản thân nhân vật:

“ Vào năm Gia Tĩnh triều Minh …

… Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.

Từ đó, ông đi cùng với cuộc đời, số phận nhân vật chính, từ cuộc sống êm đềm hạnh

phúc của nàng Kiều thủa “Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê”, trải qua mười lăm năm lưu lạc

với biết bao thăng trầm khổ nhục, cuối cùng kết thúc trong cảnh đoàn viên.

Khác với truyện kể dân gian và văn tự sự trung đại ở lối kết cấu tuyến tính khép kín, văn

xuôi tự sự hiện đại nói chung và truyện ngắn hiện đại nói riêng mở ra nhiều dạng kết cấu rất

khác nhau. Các nhà văn thường mở đầu tác phẩm khi sự việc đã xảy ra và kết thúc tác phẩm khi

sự việc chưa được giải quyết một cách triệt để. Đọc truyện ngắn của Nam Cao, Nguyễn Minh

Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Hoài … chúng ta thấy rất rõ kiểu kết

cấu này. Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao được mở ra với thời hiện tại, khi Chí Phèo đã bị

nhà tù thực dân vằm nát bộ mặt người, huỷ hoại hết phần thiên lương trong sạch để trả anh về

làng Vũ Đại với hình hài của một “con quỷ dữ”. Nam Cao đã gieo vào lòng người đọc nỗi ám

ảnh thân phận của một kẻ bị tước đoạt nhân tính bằng tiếng chửi đầy tuyệt vọng của Chí ở đầu

truyện cũng như tiếng thét phẫn nộ đòi được quyền lương thiện của con người này trước khi

thiên truyện được khép lại. Truyện không kết thúc ở cái chết của Chí Phèo mà được mở ra với

chi tiết: Thị Nở “ nhìn nhanh xuống bụng”, “đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch

cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại” [7]. Quả thực, với cách kết cấu này, Nam Cao

đã bắt đầu vượt ra khỏi quỹ đạo của kiểu kết thúc truyền thống, kéo người đọc vào quá trình

đồng sáng tạo nghệ thuật với mình.

Trong Bến Quê, Nguyễn Minh Châu lại bắt đầu câu chuyện bằng tâm trạng của một

người đã lâu ngày nằm trên giường bệnh. “Nhĩ nằm im cho vợ chải những nhát lược cuối

cùng” và kết thúc ở chỗ nhân vật ấy “cố gắng thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót

lại để đu mình nhô người ra ngoài”, mong trải lòng với cảnh vật trên bến sông thân thuộc.

Trong Mùa đông ấm áp, Nguyễn Thị Thu Huệ cũng mở đầu bằng thời hiện tại của nhân

vật: “Tôi đứng trên bến phà vừa rời từ Bãi Cháy sang Hồng Gai. Thành phố trên sông huyền ảo

và lung linh lạ thuờng”, để từ đó đưa nhân vật trở về với quá khứ, với mối tình đẹp đẽ tuổi hai

mươi. Đẫm mình trong dòng hoài niệm, nhân vật khắc khoải, xót xa trước thực tại thiếu vắng:

“Anh ở đâu? Sao tôi nhớ anh thế này? Bao nhiêu năm tôi đã sống và hiểu rằng, chẳng bao giờ

tôi gặp được người đàn ông nào thay thế anh trong tâm tưởng của tôi”.

Như vậy, cách mở đầu và kết thúc ở nhiều truyện ngắn hiện đại khác hẳn với cách kết

cấu truyền thống. Ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, điều này lại khác nữa. Là một nhà văn

hiện đại, Nguyễn Huy Thiệp kế thừa một cách rất hợp lí kết cấu của văn chương truyền thống

để tạo ra những nét riêng khó hòa lẫn trong nghệ thuật tự sự của mình.

Có khá nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mở đầu theo công thức truyền thống:

Thương nhớ đồng quê, Con gái thuỷ thần, Giọt máu, Kiếm sắc, Muối của rừng, Không có

vua, Trái tim hổ, Con thú lớn nhất, Nạn dịch, Sói trả thù ... Với cách mở đầu này, người đọc

có thể nắm bắt được lai lịch, xuất thân của nhân vật ngay từ khi mới tiếp xúc với tác phẩm.

Trong những câu chuyện nhỏ của chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát hầu như ở

phần mở đầu câu truyện tác giả thường đưa ra những lời giới thiệu hết sức ngắn ngọn về nhân

vật: “Ngày ấy, ở Hua Tát có một cô gái tên là Pùa. Sắc đẹp của nàng khắp các mường không ai

bì kịp, da trắng như trứng gà bóc, tóc mượt và dài, môi đỏ như son. Chỉ khổ một nỗi là Pùa bị

liệt hai chân, suốt năm suốt tháng nằm một chỗ” (Trái tim hổ). Chính vẻ đẹp mê hồn của Pùa

là nguyên nhân khiến cho bao chàng trai Hua Tát sẵn sàng liều mình đi tìm phương thuốc thần

diệu chữa bệnh cho Pùa – trong đó có chàng Khó. Truyện Con thú lớn nhất giới thiệu về cặp

vợ chồng tay thợ săn ngụ cư “Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường

nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng

đều luống tuổi. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng suốt ngày không hề thấy nói một tiếng.

Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu

hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo”. Bản chất nhân vật đã phần nào hiện ra ngay từ

những nét phác hoạ ban đầu về ngoại hình.

Ở đoạn văn mở đầu truyện ngắn Thương nhớ đồng quê, tác giả viết: “Tôi là Nhâm. Tôi

sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Đi trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh

nhô trên đồng vàng. Xa mờ là vòng cung Đông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi đến đấy

phải năm mươi cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về”. Trong đó, tác giả

cung cấp người đọc rất nhiều thông tin có liên quan đến nhân vật chính: tên, thành phần xuất

thân, địa hình, địa điểm của vùng quê nhân vật. Đồng thời qua cách giới thiệu đầy xúc cảm và

tự hào về bản thân cũng như về quê quán người đọc còn hình dung được sợi dây gắn bó máu

thịt của nhân vật với nơi chôn nhau cắt rốn xiết bao thân thương của mình.

Trong truyện ngắn Con gái thuỷ thần, ngay trong phần mở đầu tác phẩm, Nguyễn Huy

Thiệp đã giới thiệu về lai lịch, xuất xứ của Mẹ Cả: “Chắc nhiều người còn nhớ trận bão mùa

hè năm 1956. Trận bão ấy, ở bãi Nổi trên sông Cái, sét đánh cụt ngọn cây muỗm đại thụ.

Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long quấn chặt lấy nhau vẫy vùng làm đục cả một khúc

sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm, có một đứa bé mới sinh đang nằm. Đứa bé ấy là con thuỷ

thần để lại”. Huyền thoại Mẹ Cả trở thành nỗi ám ảnh thôi thúc Chương kiếm tìm suốt một thời

trai trẻ.

Truyện Giọt máu, có cách mở đầu hơi dài dòng với rậm rà chi tiết: “Nửa đầu thế kỉ

trước, ở Kẻ Noi, huyện Từ Liêm, có ông Phạm Ngọc Liên là bậc đại phú. Ông Liên xây nhà trên

miếng đất đầu làng. Miếng đất này bằng phẳng, rộng ba sào hai thước. Có người đi qua bảo

rằng. “Đất này đẹp, hình bút, phát về văn học. Đã phát về văn học thì nước cạn, tàu ráo, hiếm

con trai”. Ông Liên nghe xong, níu áo người đó bảo: “Tôi bình sinh là dân cày cuốc mong con

cháu sau này có ít chữ nghĩa mở mặt với đời. Hiếm con cháu cũng được, miễn là có đức, thiên

hạ nể trọng”. Song, chính từ những chi tiết này, người đọc không chỉ nắm được lai lịch nhân

vật, lai lịch một dòng họ mà còn hiểu được những khát khao chính đáng của những con người

trong dòng họ này, cũng như hiểu được vì sao họ cố gắng bằng mọi giá thực hiện lời “sấm

truyền” của tiên tổ.

Trong Kiếm sắc, tác giả lại mở đầu bằng hàng loạt các chi tiết về lai lịch của một nhân

vật vốn không có thật trong lịch sử: “Trong số người gần gũi với Thế tổ Nguyễn Phúc Ánh

những năm nhằm mưu phục lại cơ đồ nhà Nguyễn có một hào kiệt mà không sử sách nào nhắc

đến. Người đó là Đặng Phú Lân. Lân quê ở Hưng Hoá, cha là Đặng Phú Bình, trước là thuộc

tướng của Trịnh Bồng. Bình tính ngang tàng, võ công thâm hậu, thấy chúa Trịnh hèn mà cách

xử thế keo kiệt, không xứng với bậc vương giả nên bỏ Trịnh Bồng vào Đàng Trong. Khi Tây

Sơn nổi lên, Bình theo Nguyễn Nhạc, Nguyễn Nhạc không tin Bình, cho Bình là dân Bắc Hà trí

xảo, không trung tín. Nhạc chỉ cho Bình làm một chức quan võ nhỏ ở sơn cước mãi Tây Bình

Thuận, Bình bất đắc chí, suốt ngày uống rượu, nhiều khi say quá, cứ trông về phía trời Bắc mà

khóc hu hu”. Xuất xứ và đặc điểm riêng của thanh kiếm lạ cũng được tác giả giới thiệu ngay

trong phần mở đầu truyện: “Bình có một thanh kiếm gia truyền, sắc như nước, sống kiếm đổ

chì, sức chém khủng khiếp. Trước khi chết, Bình trao thanh kiếm lại cho Lân…”.

Trong truyện Những người thợ xẻ, quá khứ lẫy lừng cùng những thành tích đáng nể của

nhân vật được nhà văn nhắc tới một cách đầy ẩn ý: “Bường là một tay anh chị khét tiếng. Trước

kia Bường đi bộ đội, ở một đơn vị đặc công thuỷ. Năm 1975, anh dây dưa vào một vụ trộm

phân đạm ở huyện, bị tù ba năm. Ra tù, Bường chẳng chịu làm ăn gì, mở một quán rượu thịt

chó nhưng được hơn một năm thì phá sản. Thời gian Bường mở quán, trong làng tôi nhiều nhà

bị mất trộm chó hết sức thần tình… Sau này, vì thua bạc, chán đời, Bường phóng hoả đốt quán.

Ít lâu sau Bường chuyển sang nghề buôn cây… Được hai năm, anh bỏ đi buôn bè trên mạn

ngược. Lần này, Bường về lập một toán thợ xẻ theo anh lên rừng kiếm ăn…”. Tất cả những chi

tiết ấy hợp thành một bức chân dung khá đầy đủ, toàn diện về nhân vật. Nó rất thống nhất, hợp

lí và lô gíc. Nó giúp người đọc chuẩn bị sẵn sàng tâm thế để dõi theo mọi hành vi của nhân vật

trong suốt chiều dài của tác phẩm. Những sự kiện tiếp theo của Bường như: trộm gỗ bán lấy

tiền, đánh nhau với Ngọc, uy hiếp ông Thuyết, giở trò đồi bại với Quy… chẳng qua là những

biểu hiện cụ thể của bản chất “anh chị” trong hắn mà thôi.

Nếu trong văn xuôi truyền thống, người đọc đã rất quen với những kết thúc khép kín,

nghĩa là ở đó người ta không chờ đợi một sự quay ngược hay thay đổi nào nữa của câu chuyện

thì ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp điều này hoàn toàn có thể xảy ra. Mở đầu theo công thức

truyền thống, dẫn đắt người đọc đi từ lai lịch, xuất xứ nhân vật, sự kiện nhưng Nguyễn Huy

Thiệp đã phá bỏ những phán đoán tuân theo quy luật lô gíc thông thường để tạo ra những cách

kết thúc mới, buộc người đọc phải suy nghĩ, trăn trở. Nói cách khác là ông kéo người đọc vào

quá trình đồng sáng tạo thực thụ với mình. Mở đầu theo lối truyền thống, kết thúc theo lối

hiện đại, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trở thành những kết cấu không khép kín. Khảo

sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận thấy ông đã sáng tạo ra nhiều kiểu kết thúc

không khép kín khá độc đáo: kết thúc bỏ lửng, kết thúc với nhân vật chính tiếp tục ra đi,

kết thúc mở ra nhiều kiểu khác nhau trong việc giải quyết các xung đột và số phận nhân

vật, kết thúc đảo ngược so với cổ tích, và thực tế lịch sử…

Cũng giống như một số nhà văn hiện thực khác như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ

Trọng Phụng, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng … trong một số truyện ngắn của mình,

Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng kiểu kết thúc bỏ lửng. Kết thúc khi sự việc chưa hoàn chỉnh,

nhân vật chưa đi hết con đường đời của mình cũng như số phận của nhân vật chưa được ngã

ngũ. Đọc Chí Phèo của Nam Cao, người đọc cũng từng trăn trở: Không biết rồi đây Thị Nở

sinh con trai hay gái? Số phận của đứa bé thế nào? Nó sẽ trở thành người lương thiện hay rồi sẽ

trở thành một kẻ giống như cha nó, hay giống những kẻ du thủ du thực khác đầy rẫy trong các

vùng nông thôn ngột ngạt… Đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người đọc sẽ triền miên

trong cảm giác day dứt tương tự.

Không có vua, một truyện ngắn viết về hiện thực của cuộc sống thành thị được xem là

khá thành công của Nguyễn Huy Thiệp. Trong số rất nhiều nhân vật và sự kiện, Nguyễn Huy

Thiệp chọn ra và dừng lại khá kĩ ở một số các sự việc tiêu biểu của một đại gia đình không còn

tôn ti trật tự, và kết thúc ở “ngày thường”. Trong quỹ thời gian vô cùng , vô tận của dương thế

có biết bao nhiêu ngày là “ngày thường”? Bản chất con người có lẽ cũng dễ được biểu hiện

trong những trạng thái cuộc sống bình thường như vậy. Cuộc sống của một gia đình với biết

bao sự kiện lớn nhỏ đã xảy ra. Có người chết đi, có người được sinh ra, có người tiếp tục con

đường học vấn nhọc nhằn, có người nhăm nhe lập gia đình riêng …Và rốt cục, cuộc sống của

gia đình họ sẽ thế nào? Đoài có buông tha cho Sinh? Cấn có đối xử tử tế hơn với vợ không khi

con gái họ ra đời? Cuộc đời Khảm, Khiêm và Tốn sẽ thế nào? Không ai biết được, kể cả tác giả,

và người đọc sẽ cứ băn khoăn, day dứt mãi với rất nhiều câu hỏi trước kiểu kết thúc bỏ lửng

như vậy của tác phẩm.

Không gay gắt như Không có vua, Chăn trâu cắt cỏ dừng lại ở tâm trạng mơ hồ của cậu

bé tên Năng: “Năng nhìn lên trời cao. Năng không biết mình đang ở đẩu ở đâu? Con trâu đen

gặm cỏ bên cạnh, nhẫn nại bình thản. Nó đang nghĩ gì? Nó đang ở đẩu ở đâu?”. Sau những lần

tiếp xúc, chuyện trò với sự Thịnh, sự Diệu Thuỷ, ông giáo Hội, sau khi tham gia hội tế Thành

hoàng làng, tâm hồn trong sáng, giản đơn của Năng đã “ngộ” được những gì? Nhà văn không

miêu tả hay kết luận cụ thể. Và khoảng trống bỏ ngỏ ấy đánh thức suy nghĩ trong lòng người

đọc. Các truyện ngắn khác như Thương nhớ đồng quê, Sống dẽ lắm, Những người thợ xẻ …

cũng có chung kiểu kết thúc như vậy.

Một kiểu kết thúc khác mà ta có thể gặp trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là kiểu kết

thúc mà cuối cùng nhân vật chính tiếp tục ra đi. Các truyện ngắn: Con gái thuỷ thần, Những

người thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Thiên văn …

Trong Con gái thuỷ thần, điều nung nấu tâm can Chương khiến anh từ bỏ tất cả để ra đi

chính là sự vẫy gọi của huyền thoại Mẹ Cả. Trải qua rất nhiều thời gian tìm kiếm, dường như

Chương chỉ gặp toàn những thất bại. Cũng có lúc anh tưởng mình đã tìm thấy con gái thuỷ

thần, nhưng cuối cùng anh mới vỡ lẽ: Những người phụ nữ tên Phượng mà anh đã gặp chỉ là

những mảnh vụn của nàng mà thôi. Không nản lòng, anh lại tiếp tục một cuộc hành trình mới,

cứ thế, trước mặt anh lúc nào cũng là “dòng sông thao thiết chảy. Sông chảy ra Biển” và “biển

không có thuỷ thần”. Một câu hỏi mãi là niềm nhức nhối dày vò trái tim anh, bất cứ lúc nào

cũng bật ra thống thiết “Con gái thuỷ thần! Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Vì cái gì? Bởi cái

gì? Để tôi mượn màu son phấn ra đi?”. Thời gian của câu chuyện không có điểm dừng như

trong kiểu kết thúc truyền thống, và điều đó mở ra không gian không giới hạn trong hành trình

kiếm tìm của nhân vật và sự tưởng tượng vô hạn trong lòng độc giả về những cuộc hành trình

tiếp theo của nhân vật trên bước đường chinh phục những khát vọng cao đẹp.

Trong Cánh buồm nâu thủa ấy, sự ra đi đường đột của nhân vật Nhi là điểm mốc phá vỡ

cuộc sống yên ổn của gia đình ông Hân, bà Lành. Cũng chính sự biệt tăm biệt tích của cô đã

khiến cho hai kẻ già nua mong ngóng, đau khổ, kiếm tìm và tuyệt vọng. Trở về thăm lại quê

hương sau bao tháng ngày đằng đẵng cách xa, lúc những kẻ sinh thành đã yên nghỉ dưới lớp cỏ

xanh, Nhi cũng không có nổi thời gian để khắc cho cha mẹ một tấm bia mộ. Cô vội vã ra đi, vội

vã thu vén cho cái hạnh phúc riêng của mình. Câu chuyện khép lại với hình ảnh: “ Nhi vào đình

làng gửi tiền công đức rối mấy mẹ con ríu rít xuống thuyền. Cánh buồm nâu quay đầu, lặng lẽ

xuôi dòng tìm đường ra biển”. Người đọc chắc sẽ hụt hẫng nhiều với cách kết thúc câu chuyện

như vậy cũng như rất khó lí giải về tính cách cũng như bản chất nhân vật Nhi.

Không đưa ra cách kết luận duy nhất, không nói lời cuối cùng với bạn đọc, Nguyễn Huy

Thiệp còn sáng tạo ra một kiểu kết thúc khác lạ: đưa ra nhiều khả năng lí giải về số phận

nhân vật cũng như giải quyết các xung đột. Trong đó, Vàng lửa là một truyện điển hình.

Trong Vàng lửa, người kể chuyện với lí do không biết kết thúc câu chuyện thế nào mặc

dù đã cố gắng “cất công đi tìm các thư tịch cổ và hỏi han nhiều bô lão” nên đã “hiến người

đọc ba đoạn kết này để bạn đọc tuỳ ý lựa chọn”:

Đoạn một: Đoàn tìm vàng còn sót lại ba người trong đó có Phăng. Việc khai thác mỏ

vàng được giao cho Phăng phụ trách trong hai năm. Về sau, Phăng bị vua Gia Long đầu độc

chết.

Đoạn hai: Đoàn tìm vàng còn sót lại một mình Phăng. Thoát chết trở về kinh, Phăng

được vua Gia Long ban thưởng rất hậu. Phăng trở về Pháp, mang theo về một người vợ An

Nam, lập một ngân hàng và sống sung sướng đến già.

Đoạn ba: Tất cả đoàn tìm vàng bị lính triểu đình giết chết hết. Mỏ vàng sau này được vua

Gia Long giao cho một người trong hoàng tộc khai thác.

Không chỉ được quyền “tuỳ ý lựa chọn”, qua ba đoạn kết này, người đọc còn có thể nhìn

nhận về nhân vật, sự kiện ở ba điểm nhìn khác nhau. Trong đoạn kết một, cùng với cái chết của

Phăng do vua An Nam đầu độc, Phăng đứng ở vị trí cao với tư cách của một nhà tư tưởng. Ở

đoạn kết hai, Phăng hiện lên với tư cách một tên thực dân đi ăn cắp ở một nước thuộc địa.

Những gì Phăng nói vẫn là lấy tư cách một nhà tư tưởng với sứ mệnh “khai hoá văn minh” cho

nước thuộc địa, điều này khiến y được nhà vua ban thưởng, và như vậy, Phăng đã tự lừa dối

mọi người và lừa dối chính mình. Đoạn kết thứ ba lại mở ra một góc nhìn nhận khác: Phăng và

toàn bộ những nhận xét đánh giá của y về mảnh đất và con người An Nam hoàn toàn chỉ là

những nhận định của người ngoài cuộc. Phăng đã sai khi tưởng rằng mình đã nắm bắt được bản

chất con người. Thực tế phũ phàng đã dội vào Phăng một đòn chí mạng khi Phăng và cả đoàn

tìm vàng bị lính triều đình bao vây và tiêu diệt hết… Đưa ra ba cách kết thúc, tác giả đồng thời

đưa ra nhiều cách nhìn cho người đọc về một tác phẩm từng gây nhiều sóng gió nhất trên văn

đàn thời kì đổi mới.

Trong truyện ngắn Trương Chi, Nguyễn Huy Thiệp lại dũng cảm tạo nên một vụ “va

chạm” quyết liệt với một sáng tác dân gian đã trở nên quen thuộc với nhiều độc giả bằng cách

tạo nên hình ảnh một vàng Trương Chi hoàn toàn khác biệt. Không cam chịu, không theo đuổi

tình yêu một cách tuyệt vọng như chàng Trương Chi trong cổ tích, Trương Chi trong tác phẩm

của Nguyễn Huy Thiệp đầy vẻ thách thức, theo đuổi những điều còn cao cả, tuyệt đối hơn cả

tình yêu. Chàng Trương Chi cổ tích làm ngây ngất, đắm say lòng người bằng những lời ca du

dương, ngọt ngào, bay bổng. Chàng Trương Chi hiện đại lại làm người đọc có vẻ khó chịu với

những tiếng chửi cộc cằn, những bài hát “chỉ toàn “ấy a” với lại “huầy dô” ca ngợi công danh

và tiền bạc một cách thô bỉ. Cách kết thúc của hai câu chuyện cũng hoàn toàn trái ngược nhau.

Trong câu truyện cổ, những giọt nước mắt của Mị Nương rơi thánh thót trong chiếc chén bạch

đàn đã khiến cho hai con người cách xa nhau một trời một vực ấy xích lại gần nhau trong mối

thương cảm thống thiết. Kết thúc câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp, Trương Chi và Mị

Nương – hai người vĩnh viễn thuộc về hai thế giới xa lạ mà ở giữa họ là một khoảng trống

mêng mông không gì phá vỡ nổi, không có cách gì vượt qua được. Tác giả dân gian đã tạo ra

“một ảo tưởng cổ tích” dễ chịu để an ủi chàng Trương Chi cũng như những con người bất hạnh.

Không giống như vậy, Nguyễn Huy Thiệp lại có cách kết thúc của riêng mình: ông để cho hai

nhân vật cuối cùng không gặp được nhau trong mối đồng cảm chung mà mỗi người đều đi đến

tận cùng số phận của mình. Rất bản lĩnh và thẳng thắn, kết thúc câu chuyện, Nguyễn Huy Thiệp

viết: “Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đấy là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây phút rốt đời

Trương Chi cũng sẽ văng tục. Nhưng đấy không phải là lỗi ở chàng. Mỵ Nương sống suốt đời

sung sướng và hạnh phúc. Điều ấy vừa tàn nhẫn, vừa phi lí. Lẽ đời là thế”. Trương Chi là một

câu chuyện cổ đã từng làm thổn thức trái tim bao thế hệ độc giả. Trên cái nền sẵn có ấy,

Nguyễn Huy Thiệp tạo nên một chàng Trương Chi mới làm khuấy động cách cảm thụ quen

thuộc của người đọc. Khi “ảo tưởng cổ tích” bị phá vỡ, rất có thể gây ra cảm giác khó chịu,

song có lẽ cũng chính điều đó khiến người ta có cách suy nghĩ khác về số phận của con người,

cũng như phải trăn trở để biết cách sống sao cho tốt hơn.

Trong những câu truyện được bao phủ bởi một không khí cổ tích – chùm truyện Những

ngọn gió Hua Tát, cách kết thúc tác phẩm của tác giả cũng rất hiện đại. Trong mười truyện thì

chỉ có ba truyện được nhà văn kết thúc theo công thức cổ tích, nghĩa là kết thúc có hậu, đó là

các truyện: Tiệc xoè vui nhất, Chiếc tù và bị bỏ quên, Nàng Sinh. Trong các câu chuyện này

mặc dù phải trải qua thử thách hoặc khó khăn nhưng cuối cùng các nhân vật đều đạt được

nguyện vọng trở nên xinh đẹp hoặc sung sướng, hạnh phúc. Trong bẩy câu chuyện còn lại, hầu

như các nhân vật đều đi đến cái chết hoặc bất hạnh. Chàng Khó (Trái tim hổ) tuy giết chết

được con hổ dữ nhưng cuối cùng chàng cũng chết và trái tim quý giá kia của con hổ cũng bị kẻ

nhanh tay nào đó nẫng mất. Lão thợ săn (Con thú lớn nhất) đã tự tay nã súng vào vợ mình vì

nhầm tưởng vợ là một con công và rồi cuối cùng lão cũng đau đớn kết liễu đời mình bằng một

viên đạn xuyên qua trán. Nàng Bua đã trở nên giàu có sau khi đào được rất nhiều vàng, đã tìm

được người chồng chính danh nhưng rồi cuối cùng nàng đã chết khi sinh ra đứa con với người

chồng ấy trong cảnh chăn êm nệm ấm. Ông Pành (Đất quên) chết vì vỡ tim sau khi cố sức

chinh phục đỉnh Phu Luông. Lù (Nạn dịch) đã dùng hết một tay nải bạc hoa xoè để tìm thầy

thuốc cứu vợ nhưng cuối cùng cả anh và vợ cùng chết. Lão thợ săn Hoàng Văn Nhân (Sói trả

thù), tuy không chết nhưng lại mất đi đứa con trai duy nhất “đẹp như tiên đồng”… Với cách

xây dựng kết thúc như vậy, Nguyễn Huy Thiệp đã đi ngược lại quy luật cổ tích. Ông không ru

ngủ người đọc trong cảm giác ngọt ngào, ông giúp người đọc sực tỉnh sau những huyền thoại để

nhận ra mặt trái của cuộc sống, để gấp trang sách lại rồi mà lòng người đọc chẳng thể nào yên.

Mở đầu theo công thức truyền thống, kết thúc theo lối hiện đại, rất riêng rất độc đáo,

đây hẳn là một trong những nét ấn tượng của nghệ thuật kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp.

3.2.2. Nghệ thuật tổ chức chùm truyện

Bên cạnh những truyện ngắn tồn tại độc lập của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta còn thấy

xuất hiện khá nhiều chùm truyện được tổ chức khá đặc biệt. Có thể kể đến: Những ngọn gió

Hua Tát, Thương nhớ đồng quê, Con gái thuỷ thần, Chút thoáng Xuân Hương. Trong những

tác phẩm này, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên sự gắn kết, thống nhất với nhau giữa các truyện

nhỏ bằng những mối liên hệ đặc biệt, đó là không gian nghệ thuật chung, nhân vật chung, hệ

chủ đề chung … Những ngọn gió Hua Tát gồm mười câu chuyện nhỏ kể về những con người,

những sự việc xảy ra trong một bản nhỏ có tên là Hua Tát. Đây là nơi ở của người Thái Đen

miền núi Tây bắc với không khí huyền thoại bao phủ hết sức đậm đặc. Nơi mà “Những người

sống trong chuyện cổ bây giờ đều không còn nữa… họ đã biến thành đất bụi và tro than cả.

Tuy vậy, linh hồn của họ vẫn bay thấp thoáng trên các khau cút nhà sàn. Như những ngọn

gió”. Mười câu chuyện kể về những nhân vật mà đa số họ trước đây đều là người của bản Hua

Tát: Pùa, Khó, Sạ, Nàng Bua, Nàng Sinh, Hà Thị E, Hà Văn Nó … Rất nhiều sự kiện khác nhau

trong cuộc sống và sinh hoạt của dân bản: săn hổ dữ, kén rể, tiệc xoè, dịch bệnh, thiên

tai…Nhưng tất cả đều có chung một bối cảnh, một không gian huyền thoại. Tuy là những câu

chuyện kể về cuộc sống và con người trong một bản nhỏ nhưng lại là những câu chuyện của

toàn xã hội, toàn nhân loại. Ở đó có sự xung đột giữa Thiện – Ác, Tốt – Xấu, có những khát

vọng hoặc lớn lao hoặc rất đỗi bình dị của con người, mà ẩn sau đó là những quan niệm nhân

sinh hết sức phong phú của tác giả. Trong thế giới nhân vật của chùm truyện, có sự xuất hiện

trở lại của các nhân vật hoặc có những mối liên quan, ràng buộc chặt chẽ giữa những nhân vật.

Nhân vật Hà Văn Nó - với tư cách là trưởng bản - xuất hiện ở hai truyện. Trong Tiệc xoè vui

nhất, là người giám sát việc kén rể của cô con gái thông minh, sắc sảo Hà Thị E, trong Chiếc tù

và bị bỏ quên chính ông lại là người dốc sức lo lắng tìm cách tiêu diệt nạn dịch sâu đen cho dân

bản đến mức “gầy rộc” cả người. Chàng Khó (Trái tim hổ) xuất hiện với tư cách một tráng sĩ

tiêu diệt thú dữ để cứu người đẹp lại xuất hiện trong Nàng Sinh qua lời kể của dân bản: “Ở

Hua Tát, trên đường đi vào rừng ma, có cái miếu nhỏ. Miếu này thờ chàng Khó, người từng

giết chết con hổ dữ thuở nào”. Ông Pành xuất hiện trong Đất quên với khát vọng đi tìm hạnh

phúc có dịp trở lại trong truyện Sạ, với tư cách là “người từng lập nên cả một gia đình đông

đúc có tám người con và gần ba chục đứa cháu”. Nếu ông Pành là một ông già đặc biệt: “hơn

tám mươi tuổi, hàm răng của ông vẫn còn đều tăm tắp như răng của chàng trai mười bảy tuổi.

Cối đá giã gạo, ông dùng một tay cử lên như bỡn. Ông làm bằng ba người khác. Uống rượu

cũng vậy, sức ông có thể chấp nổi muôn người. Tráng đinh trong bản Hua Tát nhìn ông kiêng

nể”, thì Sạ - đứa con trai út của ông cũng là một chàng thanh niên đặc biệt không kém:

“ Từ nhỏ Sạ đã nghịch ngợm và thích phiêu lưu. Suốt đời chàng mơ làm nên sự tích phi thường.

Bỏ qua hết thảy những lời khuyên nhủ, chàng chỉ khăng khăng làm theo ý thích của mình. Uống

rượu ư? Ai có thể uống luôn một lúc hai mươi sừng rượu, hãy đọ với chàng! Săn hoẵng ư? Ai

có thể đuổi theo con hoẵng hơn ba ngày trời để cho con hoẵng đến nỗi phải nằm ra đứt ruột,

hãy đọ với chàng! Ai có thể ném còn được nhanh và khéo hơn chàng? Ai có thể làm cho chiếc

khèn bật ra âm thanh quyến rũ hơn chàng? Và nữa, và ai có thể chinh phục trái tim phụ nữ tài

giỏi hơn chàng?”. Sự hiện diện của một thứ “ngẫu vật thiêng liêng”, một hòn đá chỉ “nhỏ

bằng nắm tay người” nhưng “sâu trong lớp đá có những vân đỏ li ti như mạch máu người” đặt

trên bệ đá trong miếu thờ chàng Khó trong Nàng Sinh như một tín hiệu nghệ thuật thắp sáng

lên trong lòng người bao nhiêu niềm tin vào những điều thánh thiện, tốt đẹp còn hiện diện ở

giữa cuộc đời này. Hòn đá ấy phải chăng là trái tim con hổ dữ đã bị đánh cắp trong cái đêm nó

bị chàng Khó bị hạ gục trong truyện Trái tim hổ? Không một ai trong bản có thể nhấc nổi hòn

đá, và kì lạ thay, chỉ có nàng Sinh – cô gái bé nhỏ gầy gò – có thể “nhấc hòn đá trên tay dễ

dàng như bỡn” để rồi cuối cùng nàng trở nên “xinh đẹp lạ thường” được ra đi và sống hạnh

phúc với một vị Hoàng đế.

Chùm truyện Chút thoáng Xuân Hương gồm ba truyện nhỏ. Sự xuất hiện lặp lại hình

ảnh Xuân Hương dưới nhiều góc độ: bảng lảng cổ tích (Truyện thứ nhất), đứng ngoài “tầm với”

(Truyện thứ hai) hay gần gụi đời thường (Truyện thứ ba), nhưng tất cả đã làm nên một hình

tượng Hồ Xuân Hương biểu trưng cho cái đẹp. Từ đó tác giả đem đến cho người đọc một cách

nhìn, một cách cảm mới về một nữ sĩ tài hoa vốn tạo ra rất nhiều giai thoại trong thời trung đại.

Xuyên suốt chùm truyện (đặc biệt là ở truyện thứ nhất và truyện thứ hai), Xuân Hương hiện lên

trong cái nhìn của Nguyễn Huy Thiệp không phải với bản lĩnh ngang tàng ngông ngạo, kiểu “Ví

đây đổi phận làm trai được – Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu” (Đề đền Sầm Nghi Đống) mà

với vẻ đẹp của thiên chức, nữ tính. Một Xuân Hương chu đáo, tinh tế qua cảm nhận của Tổng

Cóc: “ Tổng Cóc đứng dậy ra trước bàn thờ. Ông hài lòng thấy bàn thờ sạch sẽ. Nải chuối

trứng cuốc bày trên đĩa sơn, một đĩa hoa thơm cạnh bên tinh khiết. Hôm nay mùng Ba tháng

Ba. Chắc là Xuân Hương đã dọn bàn thờ từ sáng sớm”. Một Xuân Hương rất đỗi cô đơn sau

cái chết của ông Phủ Vĩnh Tường, quên đi tất cả, bà “đang nức nở khóc cho nỗi cô đơn mênh

mông của cõi đời”.

Nhân vật chính xuất hiện trong cả ba truyện nhỏ trong chùm truyện Con gái thuỷ thần là

Chương - một thanh niên nông thôn bị ám ảnh bởi huyền thoại về Mẹ Cả. Anh dấn thân vào

những cuộc hành trình tìm kiếm không biết mệt mỏi và hành trình ấy tưởng chừng như còn kéo

dài mãi mãi, kể cả khi thiên truyện đã khép lại. Trong ba câu chuyện, có những lúc Chương

tưởng mình đã tìm được con gái thuỷ thần qua sự hiện diện của những người phụ nữ anh từng

gặp: cô giáo Phượng (Truyện thứ nhất), cô Phượng con ông trùm xứ đạo (Truyện thứ hai) và cô

chủ Phượng (Truyện thứ ba). Song rút cục, anh ngộ ra rằng tất cả đều không phải và mãi mãi

không phải là người anh kiếm tìm. Vượt qua biết bao nhiêu khó khăn vất vả, thậm chí nguy

hiểm đến tính mạng để ra đi, Chương vẫn tin rằng con gái thuỷ thần đang đợi anh, đang vẫy gọi

anh ở một chốn xa xôi nào đó. Đốt lòng Chương là câu hỏi: “Nàng là ai? Nàng ở đâu?”. Và

quyết tâm ra đi để tiếp tục được kiếm tìm: “ Tôi cứ đi, đi mãi … Vì cái gì? Bởi lẽ gì? Để tôi

mượn màu son phấn ra đi?”.

Trong truyện “Thương nhớ đồng quê”, tác giả sử dụng thủ pháp “truyện lồng trong

truyện”, có tới ba câu chuyện nhỏ về ba nhân vật khác nhau: Chuyện về sư Thiều, chuyện về

ông giáo Quỳ, và chuyện chú Phụng. Mặc dù vậy, những nhân vật này lần lượt hiện trong sự

mối liên quan khá mật thiết với nhân vật chính cũng như với toàn bộ câu chuyện.

3.3. Nghệ thuật tạo tình huống

Việc tạo ra những tình huống bất ngờ được coi là thế mạnh trong nghệ thuật tự sự của

Nguyễn Huy Thiệp. Vơi cách làm này ông đã đem lại rất nhiều thành công cùng với hiệu quả

biểu đạt cao cho nhiều thiên truyện ngắn. Nó tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn, kích thích, mời gọi sự

dõi theo của độc giả. Cùng với kiểu đối thoại nhát gừng, giọng kể tưng tửng, khô khan lạnh

lùng, những tình huống bất ngờ trong tác phẩm góp phần tạo nên những thích thú hay sự xúc

động mạnh mẽ nhất ở người đọc trong những khoảnh khắc ít ai ngờ tới.

3.3.1. Bất ngờ của tình huống truyện được tạo ra từ chính vẻ đẹp của tâm hồn con

người

Dõi theo truyện ngắn Chảy đi sông ơi, người đọc chắc hẳn cũng có nhiều phen thót tim

hay rùng mình ghê sợ. Nhân vật “tôi”, vì khát khao tìm kiếm con trâu đen huyền thoại nên đã

tìm mọi cách xin đi theo những chiếc thuyền đánh cá đêm. Trong một không gian huyền ảo

được tỏa soi bằng ánh sáng của “vầng trăng lưỡi liềm”, chú bé mơ mộng ấy đang thả hồn mình

chìm sâu trong những ý tưởng huyễn hoặc, thì bị hất tung khỏi thuyền và chìm dần trong dòng

nước. Việc cầm chắc cái chết tất yếu sẽ xảy ra với chú vì dân vạn chài “có lệ không có ai chết

đuối”. Ở đây tác giả đã đưa vào truyện một tình huống hết sức dữ dội – để nhân vật tự mình vật

lộn giữa sự sống và cái chết một cách tuyệt vọng. Và khi tuyệt vọng nhất thì một bất ngờ lớn đã

xảy ra – chú được chị Thắm, một người phụ nữ dịu dàng, nhân hậu cứu sống. Hành động trái

ngược với tục lệ của dân chài khiến lòng tốt của chị càng được nhân lên gấp bội. Nhưng theo

dõi cuộc trò chuyện với chú bé, người đọc còn có thể phát hiện ra những phẩm chất khác cũng

luôn tỏa sáng ở chị. Khi chú bé trách móc: “Bọn đánh cá đêm ác lắm chị ạ”, người đọc chờ đợi

ở chị Thắm một sự đồng tình, thậm chí còn hơn như thế vì chị hiểu rất rõ về những con người

này. Song, người đọc thật bất ngờ trước câu trả lời của chị: “ Đừng trách họ thế … Có ai yêu

thương họ đâu … Họ đói mà ngu muội lắm …”. Một câu nói giản dị, ngắn gọn nhưng lại hé lộ

biết bao điều thật nhân bản. Không trách những người dân chài, chị Thắm hết sức cảm thông

với họ, bởi chị biết: họ là những con người sống thiếu tình thương, cái xấu, cái ác trong lòng họ

nảy sinh từ đói nghèo, tăm tối. Không chỉ cảm thương, chị còn mong những người dân chài

nhận được sự khoan dung, độ lượng từ chính những nạn nhân của họ. Câu nói của chị như một

ánh chớp làm sáng lòa cả bầu trời đêm, nó xóa đi những ác cảm, oán giận trong lòng chú bé vừa

trở về từ cõi chết. Nó làm người đọc vững tin vào lòng tốt của con người.

Trong truyện ngắn Không có vua, về làm dâu nhà lão Kiền, Sinh đã phải gánh chịu biết

bao nỗi cay đắng xót xa. Ngày lại ngày chị phải tiếp xúc với những bộ mặt lầm lì cau có, những

câu chửi tục tĩu, những toan tính không khi nào chệch ra ngoài địa hạt tiền bạc và những món

lợi trước mắt của bố chồng và anh em chồng. Thậm chí người chồng gần gũi nhất cũng không

hiểu nổi chị, không bao giờ dành cho chị sự cảm thông, chia sẻ. Với cuộc sống như thế, không

ít lần, Sinh phải thốt lên nghẹn ngào: “Trời ơi … sao cái thân tôi nhục nhã thế này”. Sống lâu

với cái xấu cái ác, chắc hẳn người đọc sẽ chẳng bất ngờ nếu Sinh cũng trở nên tha hóa như họ,

hoặc chí ít chị cũng cảm thấy chán ghét cuộc sống ấy, những con người ấy. Nhưng Nguyễn

Huy Thiệp lại đem đến cho người đọc một tình huống bất ngờ. Trong bữa tiệc đón mừng Sinh

và đứa con mới chào đời của chị, Khiêm hỏi: “Chị Sinh ơi, về làm dâu trong họ Sĩ nhà này chị

có khổ không?”. Câu hỏi đường đột nhưng lại là sự quan tâm thật lòng, nó đã đánh thẳng vào

những nỗi niềm dồn nén, tích tụ bây lâu nay, cộng thêm câu hỏi “vuốt đuôi” của Cấn: “Thế

ngày thường thì thấy khổ à?”, khiến cho Sinh đủ can đảm bộc bạch những nỗi niềm gan ruột:

“Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm”. Câu nói đúc kết nhiều

trạng thái xúc cảm: có khổ, nhục, có đau đớn, chua xót … nhưng trên tất cả vẫn là tình thương –

một tình thương vô bờ bến, mạnh mẽ, mãnh liệt. Tình thương ấy chính là nguồn nội lực lớn lao

giúp Sinh vượt qua mọi cay đắng và “miễn dịch” với cuộc sống thực dụng đến ghê người của

những kẻ tha hóa xung quanh mình. Trong không khí hiện tại, câu nói của Sinh còn như những

tia nắng mặt trời ấm áp, xua tan đi không khí lạnh lẽo trong gia đình, khiến cho người đọc

không khỏi xúc động, cảm phục.

Trong chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát cũng có rất nhiều chuyện nhỏ chứa đựng

những tình huống bất ngờ, chuyện Nàng Bua là một ví dụ. Mặc dù là một phụ nữ “duyên dáng

…lúc nào cũng tươi cười, tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng người” nhưng nàng Bua vẫn bị

những người phụ nữ trong bản căm ghét, tránh xa và rủa là “quỷ dữ”. Sở dĩ như vậy là vì vẻ

đẹp của nàng thu hút hầu hết những người đàn ông trong bản, và nàng lại là mẹ của chín đứa trẻ

mà chính nàng cũng không biết ai là bố của chúng. Cuộc đời của nàng những tưởng cứ lặng lẽ

trôi đi nhưng thật bất ngờ, “thoắt một cái, người đàn bà nghèo khó và bị khinh rẻ trở thành

giàu có nhất bản, nhất mường” từ khi nàng và đàn con đào được một hũ đầy vàng bạc. Giàu có

tạo cho con người sức mạnh, lúc này nàng Bua thừa sức trả thù những người đàn ông đã bỏ rơi

nàng và những người phụ nữ đã miệt thị, khinh bỉ nàng. Song, khá nhiều điều bất ngờ đã liên

tiếp xảy ra ở cuối truyện. Khi những người phụ nữ giục giã chồng mình đến gặp nàng để nhận

con về, nàng đã hào phóng tặng cho mỗi người trong số họ một món quà, đủ để họ “làm vui

lòng các bà vợ nề nếp của mình”. Bất ngờ thứ hai là: nàng Bua đã chọn “một người thợ săn

hiền lành, góa vợ và không con cái” để lấy làm chồng. Sự lựa chọn này chính là biểu hiện của

vẻ đẹp tâm hồn nàng. Không phải năm mươi người đàn ông kia không hấp dẫn, không đáng là

chồng nàng. Song, việc không lựa chọn bất cứ ai trong số họ chính là cách mà nàng đã làm để

giữ gìn hạnh phúc cũng như hòa khí êm ấm cho tất cả mọi gia đình trong bản. Song hành với

ứng xử đẹp ấy, nàng đã bất ngờ có được một món quà của số phận: chính người đàn ông này đã

đem đến cho nàng tình yêu, đã làm cho nàng “rơi những giọt nước mắt trong đêm hợp cẩn”.

Được yêu, lại giàu có, tưởng rằng nàng Bua sẽ sung sướng đến cuối đời. Song, lại một bất ngờ

nữa trong tình huống truyện được tác giả đưa ra một cách hết sức tự nhiên, để kết thúc số phận

của nhân vật. Đó là sự kiện nàng Bua đã “chết khi trở dạ đẻ giữa đống mền chăn ấm áp”.

3.3.2. Bất ngờ của tình huống truyện được tạo ra khi con người được thiên nhiên dạy

cho những bài học làm người

Muối của rừng là câu truyện được xây dựng bởi một tình huống khá độc đáo. Với khẩu

súng săn hai nòng mà thằng con du học ở nước ngoài gửi về, cộng với tiết trời vào xuân ấm áp,

ông Diểu nảy ra ý định đi săn khỉ. Sau một hồi tiếp cận thận trọng với đàn khỉ ông đã bắn bị

thương một con khỉ đực, nó nặng “dễ đến hơn yến” thịt. Đây là con khỉ bố trong một gia đình

khỉ gồm ba thành viên: Hai vợ chồng khỉ và một con khỉ con. Mục đích của chuyến đi săn đã

thành hiện thực, ông Diểu chỉ còn mỗi việc nhặt lấy thành quả lao động và trở về nhà. Song

chính trong lúc đó, một điều mà ông hoàn toàn không ngờ tới đã xảy ra. Sau khoảnh khắc

hoảng loạn bỏ chạy, con khỉ cái đã quay trở lại – bất chấp mọi hiểm nguy để giải thoát cho con

khỉ đực, nó “lén nhìn ông vừa lao đến chỗ con khỉ đực. Nó ghì lấy con khỉ đực rất nhanh và

khéo, cả hai cùng lăn tròn trên đất”, và “hai con khỉ vừa chạy vừa dìu lấy nhau”. Con khỉ con

xuất hiện rất kịp thời, nó thu hút sự chú ý của ông Diểu để bố mẹ nó có cơ hội trốn thoát bằng

cách “túm lấy dây súng của ông kéo lê trên đất”. Việc làm ấy đã đem đến cho nó một kết cục

bi thảm, nó bị lăn xuống vực. Tiếng rú thê thảm của con khỉ nhỏ đã làm ông Diểu kinh hoàng

bỏ chạy “như ma đuổi”. Bình tâm trở lại, ông tiếp tục đuổi theo con khỉ đực lúc này đã kiệt sức

vì vết thương nặng ở bả vai. Song, trước tất cả những gì ông vừa trải qua, vừa chứng kiến, lại

soi mình vào trong ánh mắt “đờ dại”, “cầu khẩn” tuyệt vọng của nó ông Diểu bỗng thấy “đau

lòng”. Như một hành động vô thức, “ông Diểu vơ lấy một nắm cỏ Lào vò nát. Ông cho vào

miệng nhai kỹ. Ông đắp nắm là vào miệng vết thương con khỉ. Nắm lá sẽ có tác dụng cầm máu

cho nó”. Khi tránh nhìn vào đôi mắt “ươn ướt” như biết ơn của con khỉ chính là lúc ông đang

đối diện với chính mình, hẳn một nỗi ân hận lớn lao đang choán ngợp hồn ông. Đó không chỉ là

sự “mủi lòng” của tuổi già mà chính là cảm giác hối hận trào dâng sau khi ông vừa phạm phải

một tội ác. Hành động cởi chiếc quần lót để băng vết thương cho con khỉ và quyết định cuối

cùng: thả con khỉ đực về rừng với lời tuyên bố: “Thôi tao phóng sinh cho mày” chính là một sự

chuộc lỗi của ông Diểu. Từ một kẻ tàn phá thiên nhiên, ông Diểu đã được chính thiên nhiên dạy

cho bài học làm người. Trở về sau chuyến đi săn, khẩu súng đã mất, trang phục chẳng còn, ông

cứ mình trần thân trụi mà đi giữa thiên nhiên, giữa trời đất. Song, điều quan trọng là ông đã

được giải phóng ra khỏi những xấu xa, tội lỗi, và thật ngạc nhiên ông đã gặp hoa tử huyền –

“loài hoa cứ ba chục năm mới nở một lần …là điềm báo đất nước thanh bình, mùa màng phong

túc”. Từ tình huống truyện này, tác giả Nguyễn Huy Thiệp đã gửi gắm cho người đọc một

thông điệp: Con người không nên vì những ý thích nhất thời của bản thân mà hủy hoại thiên

nhiên.

Tình huống bất ngờ trong truyện Nguyễn Huy Thiệp khá phong phú, đa dạng. Truyện Sói

trả thù cũng có một tình huống rất đáng chú ý, ở đó con người phải trả một giá quá đắt khi

nhận được một bài học lớn từ thiên nhiên. Vốn là một thợ săn tài giỏi, lại “không biết sợ là gì”,

ông Nhân đã thẳng tay với tất cả muông thú. Chính tay ông đã bắn chết một con sói mẹ khi nó

đang tìm mọi cách bảo vệ đàn con nhỏ. Thằng San đã đem con sói con “đẹp nhất trong đàn” về

nhà nuôi. Ngày ông Nhân làm lễ cúng ma cho thằng San tròn mười ba tuổi – một tình huống bi

thảm đã xảy ra. Do vô ý, thằng San bị ngã đập miệng vào cái dây sắt buộc cổ con chó sói, và

thật không may “vết máu đỏ từ miệng thằng San thức tỉnh từ trong tiềm thức mơ hồ của con dã

thú một điều gì đấy. Nó chồm lên, nhe hàm răng nhọn và trắng nhởn tớp vào giữa cổ thằng

San”. Nhìn thằng con trai duy nhất nằm chết trên vũng máu, ông San đau đớn đến tột cùng.

“Nước mắt ròng ròng” ông Nhân cầm rìu tiến về phía con sói. Mọi người mong chờ ông trút

nỗi căm hờn bằng hàng trăm hàng ngàn nhát rìu bổ xuống đầu con vật – song, thật bất ngờ:

“ông Nhân vung rìu lên và cứ liên hồi chém vào sợi dây xích sắt. Lưỡi rìu quằn lại, các sợi xích

đứt tung. Con sói tru lên một tiếng rồi phóng chạy về phía rừng”. Hành động của ông Nhân

khiến mọi người đứng quanh ông “sững sờ”, có lẽ họ không hiểu nổi vì sao ông Nhân lại tha

chết cho con sói đáng chết như vậy. Có thể mọi người không hiểu nhưng ông Nhân thì rất hiểu.

Cái chết tức tưởi và đau đớn của thằng con trai “đẹp như tiên đồng” đã thức tỉnh trong ông

những điều rất sâu xa. Trong quá khứ, ông đã từng tàn phá, hủy hoại thiên nhiên, giờ đây thiên

nhiên trừng phạt lại ông như một sự báo ứng. Không muốn nhúng tay thêm vào tội ác, ông

Nhân đã trả con sói trở về với rừng. Bài học đích đáng mà thiên nhiên dành cho ông Nhân cũng

là bài học dành cho tất cả mọi người, những ai vẫn còn đang rắp tâm hủy hoại và tàn phá thiên

nhiên.

Qua một số truyện ngắn tiêu biểu trên chúng ta có thể khẳng định rằng: Nguyễn Huy

Thiệp luôn tạo ra trong tác phẩm của mình những tình huống hết sức độc đáo. Đây cũng là một

trong những phương diện tạo nên sức hấp dẫn cho những thiên truyện của ông.

3.4. Yếu tố kì ảo và những giấc mơ

3.4.1. Yếu tố kì ảo

Yếu tố kì ảo rất cần được xem xét, nhìn nhận trên nhiều phương diện, bởi nó là sự thể

hiện một quan niệm mới của nhà văn về thế giới, là sự chiếm lĩnh hiện thực hết sức sinh động.

Nó bao gồm nhiều hình thức nghệ thuật cụ thể như: đối thoại tâm linh, cổ tích hoá, huyền thoại

hoá …Sau đổi mới, nền văn học của chúng ta có nhiều thay đổi. Bên cạnh việc đổi mới nội

dung, các tác giả văn học còn chú ý đổi mới cả trên bình diện nghệ thuật. Trong đó, yếu tố kì ảo

được đưa vào sáng tác khá phổ biến, trở thành một dòng riêng với khá nhiều tên tuổi như: Lưu

Minh Sơn, Võ Thị Hảo, Hoà Vang, Phạm Hải Vân và đặc biệt là Nguyễn Huy Thiệp. Lí giải về

điều này có nhiều cách, song có thể hiểu rằng: Kể từ sau khi cuộc chiến tranh vệ quốc kết thúc,

những vấn đề rộng lớn, những tình cảm lớn thuộc về một thời đã dần nhường chỗ cho những

vấn đề về số phận cá nhân. Đề tài của văn học không chỉ dừng lại ở hiện thực khách quan mà đã

chuyển dần sang địa hạt tâm linh, những trăn trở uẩn khúc đang diễn ra quyết liệt trong tâm hồn

con người. Những diễn biến tâm linh rất khó nắm bắt, những hiện tượng con người không tự lý

giải được bằng hình thức suy lý một thời là những nhân tố quyết định hướng các nhà văn đến

với địa hạt của yếu tố kỳ ảo. Yếu tố kỳ ảo là một hình thức đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám

phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm bắt của con người, để từ đó “thấu triệt” con

người ở phần nhân tính, mơ hồ và huyền diệu. Yếu tố kỳ ảo có thể thể hiện ở một số phương

diện như: thế giới đa chiều và con người tâm linh; những giấc mơ bí ẩn của con người …

Thế giới đa chiều là thế giới ở đó tồn tại song song những yếu tố khả giải - bất khả giải,

duy lý - phi lý, tất nhiên - ngẫu nhiên. Thế giới ấy không được nhìn nhận một cách an nhiên

như trước mà đã đầy nỗi niềm khắc khoải âu lo. Nếu như ở giai đoạn trước, thế giới được nhìn

nhận với con mắt lạc quan đầy tin tưởng, con người luôn tin vào ý chí, sức mạnh và những quy

luật đã chiếm lĩnh được, thì giờ đây, con người nhận ra rằng thế giới vẫn mang trong mình nó

nhiều điều bí ẩn, những điều con người chưa thể biết trước và đầy bất trắc. Những điều đó

thuộc về cái ngẫu nhiên. Nó là một khả năng có thể đem lại cho con người niềm vui, hạnh phúc

nhưng cũng có khi lại là nỗi đau, niềm bất hạnh và những tấn bi kịch. Nàng Bua trở thành

“người giàu nhất bản, nhất Mường” từ sau khi ngẫu nhiên đào được một chum đầy vàng bạc.

Nàng trở thành người đàn bà hạnh phúc “khi lấy một người thợ săn hiền lành, góa bụa và

không con cái”. Nhưng sự giàu có ấy đã không mang lại cho nàng hạnh phúc trọn vẹn. Nàng đã

chết khi trở dạ giữa “đống chăn mềm ấm áp”. Truyện ngắn Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt

kể về một thi sĩ không rõ lai lịch hỏi đường tìm về bến đò Vân để thực hiện một lời hẹn ước

trong quá khứ với cô gái tên Xoan. Khi biết tin cô gái ấy đã chết được bốn năm, chàng thi sĩ

đau đớn bỏ đi và chỉ trong chớp mắt đã biến thành cánh hạc bay lên trời “vừa bay vừa kêu

thảng thốt”. Chàng thi sĩ, người đại diện cho cái đẹp và luôn khát khao tìm kiếm cái đẹp đã

không chấp nhận cuộc đời phàm tục nên hoá thành cánh hạc tìm đến với một thế giới khác

ngoài cõi nhân gian.

Bên cạnh thế giới đa chiều còn là thế giới bí ẩn của tâm linh. Thế giới tâm linh trước đây

ít được đề cập hoặc gán cho nó cái mác duy tâm thì nay đang được nhìn nhận một cách nghiêm

túc, chín chắn hơn. Con người hiện đại đã phải thừa nhận nó như một phần không thể tách rời

của cuộc sống con người. Thế giới tâm linh được biểu hiện trước hết qua niềm tin vào sự tồn tại

thế giới siêu nhiên bên trên con người: “Tôi tin chắc ở lực lượng siêu việt ở bên trên tôi kia,

đang chuyển vần rầm rộ kia, thấu hiểu tất cả, phân minh lắm, rạch ròi, chắc chắn bảo dưỡng

tính thiện trong tâm linh con người, có khả năng an ủi, âu yếm đến từng số phận” (Thương

nhớ đồng quê). Mặt khác, thế giới tâm linh còn được thể hiện qua những biến động tinh tế diễn

ra trong tâm hồn người. Thế giới ấy tồn tại cả chiều không gian thứ tư: không gian tâm trạng.

Trong không gian tâm trạng đó xuất hiện con người tâm linh với những dằn vặt, đổ vỡ. Đó là sự

dằn vặt tâm hồn vì sự xa rời chuẩn mực đạo đức, ăn năn vì những lỗi lầm trong quá khứ. Trong

Nạn dịch là sự hối hận muộn màng của người chồng vì trót bỏ mặc người vợ chèo chống một

mình trong nạn dịch nguy hiểm: “ Kí ức sống dậy khiến ông đau đớn. Ông thấy thương vợ vô

cùng. Ông nhận ra mình bạc bẽo, vô tình, thấy vợ cao thượng, chịu đựng. Càng nghĩ ông càng

ân hận, thương cảm”. Trong Muối của rừng là cảm giác hối hận của một kẻ đã toan làm điều

ác nhưng đã kịp dừng tay: “Ông Diểu thấy buồn tê tái đến tận đáy lòng. Ông nhìn cả hai con

khỉ và thấy cay cay nơi sống mũi. Hóa ra ở đời, trách nhiệm đè lên lưng mỗi sinh vật quả thật

nặng nề. – “Thôi tao phóng sinh cho mày” – Ông Diểu ngồi yên một lát rồi bỗng đứng dậy nhổ

bãi nước bọt xuống dưới chân mình”. Con người tâm linh cũng được bộc lộ qua sự linh cảm

những mối quan hệ linh ứng không thể giải thích được. Linh cảm sợ hãi của người mẹ trong

Thương nhớ đồng quê chính là một phần biểu hiện của con người tâm linh. “… Khoảng gần

trưa, thấy ở đường Năm có đám đông kêu la khóc lóc đang chạy. Mẹ tôi tự dưng ngã chúi

xuống ruộng, thất thanh gọi tôi…Tôi và chị Ngữ sợ hãi, tưởng mẹ tôi trúng gió. Mẹ tôi mặt tái

đi, tay giơ tới trước mặt như sờ nắn ai. Mẹ tôi gọi: “Nhâm ơi Nhâm! Sao em Minh con máu me

đầy người thế này?”. Chị Ngữ lay mẹ tôi: “U ơi u, sao u nói gở thế?”. Có mấy người từ đám

đông trên đường Năm bỗng chạy tách ra băng qua đồng. Có ai đó gào to thảm thiết … Anh

Ngọc … chạy ở phía trước. Anh nói không ra hơi, tôi nghe loáng thoáng, chỉ biết rằng cái Minh

em tôi và cái Mị, con dì Lưu đèo nhau đi học về qua ngã ba thì bị ô tô chở cột điện cán chết…”.

Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vừa mang những nét chung của cái

kỳ ảo Phương Đông vừa mang nét riêng phản ánh bầu không khí thời đại. Yếu tố kỳ ảo giai

đoạn này đã có sự phát triển một bậc so với hình thức kỳ ảo truyền thống. Nó không đơn thuần

là hình thức chuyển tải các vấn đề đạo đức theo kiểu “thưởng thiện, phạt ác” của ông Bụt, bà

Tiên trong cổ tích, nó còn là sự sợ hãi, trăn trở của con người nhân tính, khát vọng, tự do, dân

chủ thấm đẫm tinh thần thời đại.

3.4.2. Những giấc mơ

Giấc mơ vốn là một hoạt động tâm thần không phụ thuộc vào lí trí, diễn ra trong giấc

ngủ. Freud và các nhà nghiên cứu phân tâm học khác cho rằng giấc mơ vừa là “người gác giấc

ngủ” vừa “thực hiện một ham muốn” thường bị kìm nén bởi một cá nhân có ý thức. Trong

truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, giấc mơ thường phản ánh những khát vọng, những ham muốn

mà con người không hoặc chưa đạt được trong cuộc đời thực. Cậu bé Đăng (Tâm hồn mẹ), vì

mất mẹ nên nỗi thiếu vắng ấy trở thành nỗi ám ảnh triền miên, dai dẳng. Lúc nào cậu bé cũng

khao khát tình mẹ, kiếm tìm những biểu hiện của tâm hồn mẹ. Chính vì vậy, những hành động,

cử chỉ và tình cảm trong sáng của Thu đã làm Đăng ấm lòng. Đăng đã mơ thấy “Thu với nó

đứng ở trên cao… gió lồng lộng, Thu cười nắc nẻ, hàm răng trắng bóng. Thu bảo: “Này Đăng,

tao sẽ đi trên khoảng không bằng đôi chân này…”. Nói xong, Thu đi thật. Nó bước vào khoảng

trống không, hai tay bơi rẽ không khí. Đăng áp người vào hàng lan can, cảm giác cô đơn côi

cút làm nó ớn lạnh. Nó gọi Thu: “Đợi với! Đợi tao đi với! Hãy bảo tao đi như thế với. Hãy bảo

tao như thế với!...”. Hạnh (Huyền thoại phố phường) là một kẻ thực dụng, y đang muốn có

thật nhiều tiền để phất lên, để được hoà mình vào giới thượng lưu chốn thị thành. Nỗi ám ảnh

đó theo y cả trong giấc ngủ, y đã mơ thấy pho tượng đồng đen cao lớn “đứng lên đi lại, bật

cười ha hả. Pho tượng đặt thanh kiếm dài xuống ghế, bàn tay có những móng dài xoè trước mặt

y những xấp tiền mới. Hạnh nghe rõ âm thanh loạt xoạt của những tờ giấy bạc”. Giấc mơ ấy

chính là một cách phản ánh khát vọng và những mưu đồ xấu xa trong lòng y. Ngọc (Những

người thợ xẻ) mang khát vọng tìm kiếm một cuộc sống thanh cao trong những xô bồ, bon chen

của cuộc sống đời thường đã mơ thấy “những thiên sứ chạy ra đón chúng tôi, áo xanh, áo đỏ

tung bay phấp phới.”. Đau đáu với mối tình cũ không thành và khát khao có được một người tri

âm tri kỉ trong tình yêu khiến đêm đêm những giấc mơ lại ùa về an ủi: “Những người thân thiết

của tôi đứng hai bên đường. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy nàng, cô gái tôi đã từng yêu trước kia,.

Nàng chạy về phía tôi, hai tay giang ra chào đón. Gục đầu vào ngực tôi, nàng khóc…”. Giấc

mơ khi ngủ có khi lại là sự in dấu của những suy nghĩ và toan tính và thực trạng đời sống của

con người lúc thức. Khảm (Không có vua) mơ thấy mình “đi giết lợn, giết mãi không chết, con

lợn cứ nhăn răng ra cười, thế là bị đuổi đi dọn một bể cứt. Bể cứt xây xi măng, kích thước 10 x

6 x 1,5mét, dung tích 90 khối. Mưa bão đến, bể cứt trôi phăng phăng, em ngập trong ấy, cứt

vào mồm, cả lỗ tai…”. Sự uế tạp trong giấc mơ quái đản mà Khảm ngập mình vào đó phải

chăng đã phản ảnh đời sống của Khảm trong hiện tại, khi mà anh ta đang ngập ngụa trong một

môi trường sống mà hầu như mọi nền tảng đạo lí, mọi giá trị đích thực của cuộc sống đều đã bị

huỷ hoại?. Giấc mơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có khi còn là điềm dự báo cho những

việc sắp xảy ra trong tương lai. Trong Giọt máu, Thiều Hoa mơ thấy “Lão Tân Dân về gọi

thằng Hạnh. Lúc ấy nửa đêm, thấy lão Tân Dân đưa cho thằng Hạnh một thùng sắt tây qua

phía hàng rào”. Một ngày sau đó lão Tân Dân về thật, cùng với thằng Hạnh đổ xăng thiêu trụi

căn nhà. Đêm trước, Phong mơ thấy “mình lạc vào địa ngục. Một cái vạc lửa to cháy bùng

bùng, những con quỷ dạ xoa, mặt đen, tóc dài đang chụm củi đun. Trong vạc, những người bị

xiềng xích đang rên la thảm thiết…”. Thì đêm sau nhà Phong bị đốt cháy, khiến “Phong bị

phỏng sau lưng, phải nằm chữa bệnh rất khổ sở”.

Việc sử dụng yếu tố kì ảo và những giấc mơ đã giúp nhà văn thâm nhập được vào những

vùng bí ẩn của đời sống nội tâm con người. Sự có mặt của những yếu tố này làm cho tác phẩm

của Nguyễn Huy Thiệp càng thêm độc đáo, hấp dẫn.

3.5. Yếu tố thơ

Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi thấy yếu tố thơ xuất hiện khá đa

dạng. Có khi là những bài thơ, đoạn thơ, khổ thơ hoặc những dòng thơ lẻ. Có khi tác giả trích

dẫn thơ của các nhà thơ khác, cũng có khi là những bài ca dao song cũng có khi tác giả đưa vào

tác phẩm những câu thơ của chính mình. Nhận xét về sự xuất hiện của yếu tố thơ trong truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Đức Hiểu viết: “Giá có ai tập hợp tất cả các câu thơ trong truyện

ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta sẽ có một “tập” thơ Nguyễn Huy Thiệp. Những câu thơ

không vần ấy vừa gợi mở vừa đóng kín, nó bí ẩn và tiên tri, người đọc nghĩ đến những chân

trời khác” [42, tr. 486]. Như vậy, có thể nói: thơ trở thành một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc

trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Trong số hơn bốn mươi truyện ngắn là đối tượng nghiên

cứu của đề tài luận văn thì chỉ có bốn truyện: Cún, Muối của rừng, Tâm hồn mẹ, Chuyện ông

Móng và chùm truyện Những ngọn gió Hua Tát là không có sự hiện diện của các yếu tố thơ.

Đưa thơ vào văn xuôi chính là thủ pháp đan xen các yếu tố thể loại trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp. Thơ là thứ ngôn ngữ cô đúc, giàu sức biểu cảm, do đó nó tạo nên sự biến

ảo, đa nghĩa cho tác phẩm nghệ thuật cũng như góp phần thể hiện rõ nét dòng tâm tư của nhân

vật cũng như ý tưởng của nhà văn. Nó khiến cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp vừa mang tính

tự sự lại vừa mang tính trữ tình, dạt dào chất thơ và phát huy cao độ chất triết lí.

3.5.1. Những lời đề tựa tác phẩm bằng thơ

Thơ được sử dụng để làm đề tựa cho các tác phẩm thơ hoặc văn xuôi không phải là điều

mới mẻ. Trước Nguyễn Huy Thiệp, nhiều tác giả đã sử dụng khá thành công thủ pháp này như

Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân … Những lời đề tựa thường phản ánh nội dung và chủ đề

của tác phẩm một cách cô đúc nhất. Nguyễn Huy Thiệp sử dụng lời thơ làm đề tựa trong khá

nhiều truyện ngắn của mình như: Con gái thủy thần (Truyện thứ nhất và thứ ba), Những người

thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Giọt máu, Chút thoáng

Xuân Hương, Mưa, Nguyễn Thị Lộ, Trương Chi, Những người muôn năm cũ, Cánh buồm

nâu thuở ấy…

Lời đề từ trong Con gái thủy thần (Truyện thứ nhất) được mượn lời tư một câu hát cổ:

“ Cái tình chi

Mượn màu son phấn ra đi”

Tuy xưa cũ nhưng câu hát vẫn đủ sức gieo vào lòng độc giả những băn khoăn, thắc mắc

về nhân vật chính. Là một chàng trai trẻ nhiều khát vọng, Chương tự nguyện dấn thân vào

những cuộc hành trình tìm kiếm một huyền thoại của riêng mình. Trong lòng anh luôn ăm ắp

một “cái tình” vừa xa vời huyền hoặc, vừa thiêng liêng đầy sức cám dỗ với người con gái thủy

thần. Để từ đó, anh vứt bỏ tất cả: gia đình, quê hương để “mượn màu son phấn ra đi”. Trải qua

bao vất vả, khổ ải, không nản lòng, Chương vẫn rong ruổi đi tìm. Trong hành trình đi tìm khát

vọng cuối cùng Chương chỉ có một mình. Bỏ lại những “đắng khói” sau lưng với cuộc đời tẻ

ngắt, nhàm chán ở quê mình, điều chờ đợi Chương ở phía trước vẫn chỉ là “cay men” quê

người. Lời đề từ mượn từ thơ Nguyễn Bính trong truyện thứ ba như một sự đúc rút của một

người đã nếm trải nhiều “đắng”, “cay” trong cuộc đời:

“Giang hồ sót lại mình tôi

Quê hương đắng khói, quê người cay men”

( Nguyễn Bính)

Mượn câu thơ quen thuộc trong Truyện Kiều (Nguyễn Du): “Lời rằng bạc mệnh cũng là

lời chung” làm lời đề tựa cho truyện Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp muốn hé lộ cho người đọc

về số phận của nhân vật Đặng Phú Lân cũng như số kiếp của những kẻ tài hoa trong một giai

đoạn lịch sử xa xưa. Với Nguyễn Phúc Ánh, tài trí đặc biệt của Lân vừa đáng dùng vừa rất đáng

sợ. Vừa coi Lân là tay chân tin cẩn, tâm phúc của mình nhưng Ánh lại sợ Lân có thể trở thành

mối hiểm họa, đe dọa sự an nguy cho ngôi vị đế vương. Khi thất cơ lỡ vận, Ánh cần có Lân bên

mình, nhưng khi đã yên vị trên ngai vàng thì sự tồn tại của Lân liệu có còn cần thiết? Vì vậy,

việc Lân không hoàn thành sứ mệnh chiêu mộ danh sĩ Bắc Hà chẳng qua chỉ là cái cớ để Ánh

tiêu diệt Lân tránh hậu họa mà thôi. Cuối cùng, con người tài trí ấy đã bị chuốc lấy một cái chết

thảm khốc.

Trong truyện Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Huy Thiệp lại mượn ý thơ của một nhà văn nước

ngoài làm lời đề từ:

“V ấp phải đời phàm tục

Chiếc thuyền tình vỡ tan”

(Maiacôpxki).

Với việc làm này, rõ ràng, nhà văn không nhìn hai nhân vật lịch sử bằng cái nhìn lịch sử.

Ngược lại, bằng cái nhìn hiện đại, ông đã để cho nhân vật của mình bộc lộ tận cùng nỗi cô đơn

không gì khỏa lấp được, kể cả khi họ được sống trong tình yêu đôi lứa.

3.5.2. Thơ là những bài hát của các nhân vật trong truyện

Bên cạnh những câu thơ được dùng làm đề tựa cho truyện, Nguyễn Huy Thiệp còn đưa

thơ vào truyện dưới hình thức là những bài hát. Ở nhiều truyện, nhà văn để cho nhân vật trực

tiếp hát lên những bài ca ấy như: Không có vua, Tướng về hưu, Trương Chi, Chuyện tình kể

trong đêm mưa…

Trong Không có vua, nghĩ đến Tốn, người đọc nghĩ ngay đến một kẻ dị dạng về thể xác,

bất bình thường về trí tuệ, chỉ có lòng tốt và sự tận tụy là vô bờ bến. Sự xuất hiện của nhân vật

Tốn có vẻ như không can thiệp sâu sắc đến sự hình thành của cốt truyện, vậy nhưng – trong khi

tất cả sáu nhân vật khác của truyện chỉ nói chuyện, miệt thị, mỉa mai, tán tỉnh, chửi bới, mắng

nhiếc hoặc phàn nàn về nhau, với nhau, thì Tốn vẫn lặng yên không nói. Nó chỉ “ti tỉ hát”. Ta

hãy nghe bài hát của Tốn:

“A ha … không có vua

Sớm đến chiều say sưa

Tháng với ngày thoi đưa

Tớ với mình dây dưa

Tính với tình hay chưa?”

Bài hát này, nếu ngẫm nghĩ sâu xa không hẳn là những ngôn từ vô nghĩa, nhắng nhít của

một kẻ dở người. Ngược lại, nó như một sự kìm giữ, một sự thức tỉnh. Phải chăng, mong muốn

của nhà văn là dựa vào kẻ sáng trong nhất vể tâm hồn để đánh thức, cảnh tỉnh những kẻ tăm tối,

mê muội về tâm hồn, đồng thời khái quát lên thực trạng thối nát của một gia đình mà ở đó mọi

phép tắc cũng như giá trị đạo đức bị chà đạp, dày xéo.

Trong truyện ngắn Tướng về hưu cũng có một bài hát của nhân vật không tên – hắn vốn

là một đứa bạn cùng trong hợp tác xã xe bò của chú rể:

“ Ừ ê cái con gà quay

Ta đi lang thang khắp miền giang hồ

Tìm nơi nào có tiền

Tiền ơi mau vào túi ta

Ừ … ê cái con gà rù”.

Tuy ngắn ngủi, chỉ với hơn ba mươi âm tiết nhưng bài hát mừng đám cưới ấy lại là một

thứ ngôn từ hổ lốn sặc mùi tiền bạc. Không chỉ vậy, nó còn chuyển tải rất rõ nội dung tư tưởng

của truyện, phản ánh rõ mục đích sống của nhiều con người trong cuộc sống hiện tại khi mà sức

mạnh của đồng tiền lấn át mọi thứ tình cảm cũng như mọi giá trị đạo đức.

Khác với những truyện ngắn trên, Chuyện tình kể trong mưa đầy ắp những khúc hát về

tình yêu, khúc hát của những kẻ yêu nhau hướng về nhau, nồng nàn, da diết. Bạc Sinh Kì hát:

“Pò m ệ ơi! Bố mẹ ơi…

Pò mệ sinh con từ hang núi

Nơi ấy có nhiều gió lạnh lắm

Tiếng hổ gầm, tiếng chó sói hú

Những con rắn, con trăn tìm mồi

Bọn cáo chồn hôi hám rình mò…

Con sờ soạng trong bóng đêm

Và nhặt được một vật mềm ướt át

Con sợ hãi, không biết vật gì

Nó phập phồng trong tay con

Ôi đau quá, đau nhói ở đây

Cái vật mềm ướt át ấy

Là trái tim con rơi trên đất

Mặt đất nhiều gió, lạnh lắm…

Con ngửa mặt lên trời và hỏi:

“Đâu tình yêu? Đâu tự do? Đâu quê hương?

Pò mệ ơi…”

Một bài hát đặc biệt, người hát cũng rất đặc biệt: “không lấy hơi, không rán sức, khi

nhấn lời hoặc ngân nga thì dịu dàng không sao kể xiết, ngậm ngùi, tê tái mà không mủi lòng,

tâm trạng cô đơn, lạnh buốt lẫn lộn với những khát khao nồng nàn…”. Bài hát có sức lay động

bất cứ ai vì nó là lời thổ lộ chân thành của người hát về cuộc sống hiện tại cũng như những dự

cảm đầy bất trắc của tương lai. Còn nữa, bài hát của Muôn – người phụ nữ đang yêu cũng thật

nồng nàn, tha thiết:

“ Nếu em xây nhà

Thì đó là ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng

Trong nhà có bếp lửa hồng

Trên bàn có cắm những bông hoa đỏ và những bông hoa trắng

Chăn đệm mới thơm tho

Bên cạnh em có anh

Em muốn anh ở bên cạnh em

Anh yêu ơi về đây với em

Ta xây ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng

Anh yêu ơi, bây giờ đi đâu rồi?

Người thương ơi bây giờ đi đâu rồi?

Bài hát là những mơ ước, khao khát rất đời thường, giản dị của một tâm hồn phụ nữ.

Nhưng thật xót xa, những điều giản dị ấy cũng không thể trở thành hiện thực. Người đàn ông có

thể chung tay xây dựng hạnh phúc với cô giờ đây không biết đang phiêu dạt nơi chân trời nào

xa tít tắp? Lời nhắn gọi thiết tha nhưng dường như cũng là lời dã biệt cho một tình yêu không

thành.

Còn rất nhiều bài hát nữa xuất hiện rải rác trong một số truyện ngắn khác của Nguyễn

Huy Thiệp. Đó là những khúc ca đầy dự cảm và tiên tri của Ngô Thị Vinh Hoa trong Kiếm sắc,

Phẩm tiết, là những khúc ca hướng về một tình yêu tuyệt đối của chàng Trương Chi trong

truyện ngắn cùng tên, là tiếng hát của người mẹ bị ruồng bỏ trong nỗi mặc cảm về thân phận

trong Đời thế mà vui. Một số bài ca là tiếng nói bên trong tâm hồn của một chàng trai mới lớn

trước những ngổn ngang suy tư về con người, cuộc đời trong Thương nhớ đồng quê, của Đề

Thám trong Mưa Nhã Nam...

Thơ xuất hiện dưới hình thức những bài hát xen kẽ trong những trang văn xuôi của

Nguyễn Huy Thiệp, dù được đặt vào bất cứ nhân vật nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào thì nó

cũng đều chuyển tải những ý nghĩa nhất định. Nó là tấm gương phản ánh thế giới nội tâm nhân

vật hoặc là nơi kí thác tâm tư, tình cảm của tác giả.

KẾT LUẬN

Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn đầu

của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Có thể nói, hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp là sản

phẩm tất yếu của sự gặp gỡ giữa tài năng nghệ thuật thiên bẩm với khát vọng dân chủ và đổi

mới của văn nghệ sĩ mà sự vận động của ý thức xã hội cũng như ý thức văn học sau 1975 (đặc

biệt là sau 1986) mang lại. Thời gian trôi qua, kể từ khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện trên văn

đàn đến nay thấm thoắt đã hơn hai mươi năm. Trong khoảng thời gian gần một phần ba đời

người ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã từng bao phen trăn trở, vật vã trên cánh đồng chữ nghĩa đầy

nhọc nhằn để mang đến cho đời sống văn học nước nhà một mùa bội thu. Cũng ở đó, nhà văn

gặt hái cho mình cả những vinh quang, ngọt ngào xen lẫn những đắng cay.

Truyện ngắn là một thành tựu nổi bật nhất trong văn nghiệp của ông. Không chỉ vậy, nó

còn là một thể loại đã tạo nên sức ám ảnh ghê gớm, làm trĩu nặng tâm tư mọi độc giả. Là một

nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo dựng cho mình một phong cách

nghệ thuật riêng không thể nhầm lẫn.

Trước hết, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chuyển tải thành công các quan niệm nghệ

thuật và thông điệp văn chương của nhà văn. Đó là những quan niệm mới mẻ, táo bạo và độc

đáo. Thứ hai, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đa dạng về đề tài và cảm hứng, đặc biệt giữa hai

phương diện này có một mối quan hệ tương ứng, rất hài hoà. Dù viết về miền núi, nông thôn,

đô thị, hay về lịch sử- văn hoá; dù ngợi ca, phê phán hay tự vấn, Nguyễn Huy Thiệp luôn chọn

một chỗ đứng (và nhiều chỗ đứng) mang tính hiện đại và nhân văn. Cuộc sống trong truyện

ngắn của ông hiện lên với tất cả vẻ bề bộn, phức tạp của cõi nhân sinh vốn đầy ắp nhọc nhằn.

Với quan niệm văn chương phải “bất chấp hết”, phải “ngập trong bùn”, phải “sục tung lên”,

ông đã lách sâu ngòi bút sắc lạnh của mình vào những hiện thực trần trụi của cuộc đời, bắt

chúng phải hiện lên với cả những phần khuất tối – đôi khi sự thẳng thắn ấy khiến nhiều người

đọc phải e ngại. Trên sơ sở ấy, nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã thoát khỏi cái

nhìn nguyên phiến, một chiều của một giai đoạn văn học trước đó để trở nên sống động, chân

thực, đa diện, đa chiều … giống như những con người ta vẫn thường gặp trong cuộc sống

thường nhật. Với quan niệm: dùng văn chương để phản ánh chân thực hiện trạng xã hội,

Nguyễn Huy Thiệp thường khắc hoạ nhân vật từ góc độ con người xã hội. Cũng chính vì thế,

nhân vật của ông ít khi là một tính cách toàn vẹn, mà chủ yếu hiện thân cho một trạng thái quan

hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại xã hội. Bằng các tác phẩm của mình, thông qua

thế giới nhân vật, Nguyễn Huy Thiệp thể hiện một sự đổi mới trong tư nhận thức và tư duy sáng

tạo.

Để đi sâu, mở rộng quan niệm nghệ thuật về con người, cấu trúc tác phẩm của Nguyễn

Huy Thiệp còn có những nét đặc trưng khó nhầm lẫn như: người kể chuyện, yếu tố thơ, yếu tố

triết lí, thế giới của những giấc mơ, yếu tố kì ảo … Những yếu tố này xuất hiện với mật độ khá

dày đặc trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp để từ đó giúp ông có thêm những “kênh” mới để

khám phá và tìm hiểu đời sống cũng như bản chất con người theo những cách thức của riêng

mình.

Đặc biệt, trong nghệ thuật kết thúc tác phẩm, Nguyễn Huy Thiệp không tuỳ tiện giải

quyết các vấn đề bộn bề phức tạp của cuộc sống theo ý tưởng chủ quan của mình, ngược lại ông

để cho người đọc tự do hình dung, phán đoán, suy luận. Kết thúc để ngỏ trong khá nhiều truyện

ngắn thực sự là cách thức mà Nguyễn Huy Thiệp tạo ra để vẫy gọi người đọc cùng tham gia vào

quá trình đồng sáng tạo nghệ thuật với mình. Và cũng chính khi đó, người đọc có dịp chiêm

nghiệm cũng như thấm thía hơn về ý nghĩa của cuộc sống cũng như ý nghĩa của sự sống, sự tồn

tại của chính bản thân mình.

Có thể nói, với những tìm tòi, sáng tạo trong tác phẩm của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã

dấn thân vào một cuộc thử nghiệm đầy sóng gió. Từ đó, ông đã thực sự mang đến cho người

đọc những day dứt, trăn trở khôn nguôi trước những vấn đề thực tế của cuộc sống. Và với

những đóng góp lớn lao về cả phương diện nội dung lẫn nghệ thuật - truyện ngắn Nguyễn Huy

Thiệp xứng đáng trở thành một món ăn tinh thần đầy hữu ích cho độc giả nhiều thế hệ cả ở

trong nước lẫn ngoài nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Thị Vàng Anh (1993), Khi người ta trẻ, Nxb Hội nhà văn Hà Nội.

2. Tạ Duy Anh, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí - www.evan.com.vn.

3. Đào Tuấn Ảnh (2005), Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại, Tạp

chí Nghiên cứu văn học số 8.

4. M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới

thiệu, Nxb Bộ văn hoá thông tin và thể thao + Trường viết văn Nguyễn Du.

5. Thụy Bình, Thiên lương trong “ Muối của rừng” www.evan.com.vn

6. Khuê Các, Nhân đọc “Vàng Lửa” của Nguyễn Huy Thiệp, www.talawas.org.

7. Nam Cao (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học.

8. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học.

10. Nhật Chiêu, Giấc mơ bướm của Trang tử và Borges, www.evan.com.vn

11. Nhật Chiêu, Thiền và hậu hiện đại, www.evan.com.vn.

12. Nhật Chiêu, Tiên, Động Từ Thức, Mây, Bạch Dương, Người ăn gió, Chùm truyện ngắn,

www.tienve.org.

13. Nguyễn Đình Đăng, Nhà văn Việt Nam của tôi, www.evan.com.vn

14. Phong Điệp, Đánh giá thành tựu Văn học Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới,

www.vietnamnet.com.vn.

15. Trần Đạo, Nguyễn Huy Thiệp - Thời điểm của câu hỏi, thời điểm của con người

www.vietnamnet.com.vn.

16. Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại – Bình giảng và phân tích tác phẩm, Nxb

Thanh niên.

17. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn

xuôi Việt nam sau cách mạng tháng Tám – Chương trình KHCN cấp nhà nước KX –

07.

18. Võ Thị Hảo (1995), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Thanh niên Hà Nội.

19. Phan Trọng Hậu, Văn hóa hậu hiện đại nhìn từ nhiều phía, báo văn nghệ số 33, ra ngày

19.08.2006.

20. La Khắc Hòa, Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua

sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, www.vienvanhoc.org.vn.

21. Nguyễn Hoà, 20 năm lí luận phê bình, ngày rất gần và chuyện xa xưa,

www.vienvanhoc.org.vn.

22. Phạm Thị Hoài (1999), Mê lộ, Nxb Tổng hợp Phú Khánh.

23. Tạ Thị Hường (2001), “Chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Luận văn Thạc sĩ -

Trường đại học Sư Phạm Hà Nội.

24. Châu Minh Hùng, Hình thức đa thanh mới qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,

www.evan.com.vn.

25. Châu Minh Hùng, Tiếng nói của cái tục trong văn Nguyễn Huy Thiệp www.evan.com.vn.

26. Nguyễn Văn Kha, Con người cá nhân trong truyện ngắn 1975 – 1990.

27. Nguyễn Khải (2002), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn.

28. Ma Văn Kháng (2003), Tuyển tập truyện ngắn (4 tập), Nxb Công an Nhân dân.

29. Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Huy Thiệp - Những chuyện huyền kì: núi sông và nước

www.evan.com.vn.

30. Lê Minh Khuê (1995), Truyện ngắn Lê Minh Khuê, Nxb Văn học Hà Nội.

31. Phùng Ngọc Kiếm (1995), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 (Bộ phận

văn học cách mạng), Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.

32. Cao Kim Lan, Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hậu hình thi

pháp hậu hiện đại, www.vienvanhoc.org.vn.

33. Lí Lan (2000), Người đàn bà kể chuyện, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

34. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - Những chân dung tiêu biểu, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

35. Nguyễn Văn Long (2006), Nguyễn Văn Thìn (đồng chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975,

những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.

36. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

37. Trần Nhất Lý, Tìm hiểu Nguyễn Huy Thiệp từ “ Phẩm Tiết”, Theo Thể thao văn hoá.

38. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn – tư tưởng – phong cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội.

39. E.M. Meletinsky (2004), Thi pháp của Huyền thoại, Trần Nho Thìn và Song Mộc dịch,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

40. Nguyên Ngọc, Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề

đang đặt ra và triển vọng www.vietnamnet.com.vn.

41. Lã Nguyên, Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói www.vietnamnet.com.vn

42. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn

hoá thông tin.

43. Vương Trí Nhàn (2006), Giăng lưới bắt…lí luận, báo Thể thao và văn hoá, ra ngày 10

tháng 3.

44. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh.

45. Trần Thị Mai Nhân, Tìm hiểu phương thức “Huyền thoại hoá” trong một số tiểu thuyết Việt

Nam thời kì đổi mới, www.vienvanhoc.org.vn.

46. Nhiều tác giả (1995), Ánh trăng, Nxb Hội nhà văn, tuần báo Văn nghệ.

47. Nhiều tác giả (1994), Bến trần gian, Nxb Quân đội nhân dân.

48. Nhiều tác giả (1994), Hồi ức binh nhì, Nxb Quân đội nhân dân.

49. Nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên Hà Nội.

50. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp, Tác Phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương +

Nxb Trẻ.

51. Nhiều tác giả (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

52. Nhiều tác giả (1983), Từ điển văn học, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.

53. Nhiều tác giả (2004), Từ điển Văn học bộ mới, Nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội.

54. Nhiều tác giả (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới - những vấn đế lí thuyết, Nxb Hội nhà

văn, trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông tây.

55. Nhiều tác giả (1995), 21 truyện ngắn trên báo Văn nghệ, Nxb Hội nhà văn.

56. Nguyễn Văn Phụng , Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp từ hiệu quả nghệ thuật đến thủ pháp

nghệ thuật, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,

niên khoá 1989 – 1993.

57. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại (tập1), Nxb Văn học.

58. Vũ Trọng Phụng (2005), Tuyển tập truyện ngắn (tập 1), Nxb Văn học.

59. Huỳnh Như Phương (1991), Văn xuôi Việt Nam những năm 80 và những vấn đề dân chủ

mới của nền văn học, Tạp chí văn học số 4.

60. G.N Pospelov (1993), Dẫn luận nghiên cứu văn học (2 tập), Nxb Giáo dục.

61. Nguyễn Minh Quân, Liên văn bản - sự triển hạn đến vô cùng của tác phẩm văn học,

www.tienve.org.

62. Đặng Văn Sinh, Đọc lại “ Tướng về hưu” www.vietnamnet.com.vn.

63. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học, Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học

sư phạm Hà Nội.

64. Trần Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn học, Nhà xuất bản giáo

dục, trang 365.

65. Hồ Anh Thái (Tuyển) (2005), Văn mới năm năm đầu thế kỷ, Nxb Hội nhà văn.

66. Hồ Anh Thái (Tuyển) (2006), Văn mới 2006, Nxb Hội nhà văn.

67. Vương Anh Tuấn (2005), “Vị trí và vai trò tích cực của người đọc trong đời sống văn học”,

Tạp chí Văn học số 3/1982.

68. Nguyễn Thị Minh Thái (2006), Nguyễn Huy Thiệp - Tôi sống trong ảo mộng, Vietnamnet –

20 tháng 7 năm 2007.

69. Bùi Việt Thắng (1992), Bình luận truuyện ngắn, Nxb Văn học Hà Nội.

70. Bùi Việt Thắng (2000), Một bước đi của truyện ngắn, Tạp chí Nhà văn, tháng 1.

71. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

72. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Giăng lưới bắt chim (Tạp văn, tiểu luận, phê bình, giới thiệu),

Nxb Hội nhà văn.

73. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tiểu Long nữ, Nxb Công An nhân dân.

74. Nguyễn Huy Thiệp, Tuổi Hai mươi yêu dấu, www.NguyenHuyThiep.vn.

75. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn và giới

thiệu, Nxb Văn hoá Sài Gòn.

76. Hà Ngọc Trảng (1986-1990), “Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, Luận văn tốt

nghiệp, Trường Đại học khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

77. Lê Ngọc Trà, Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới www.vienvanhoc.org.vn.

78. Nguyễn Mạnh Trinh, Văn học trong nước, hé nhìn www.Vietnamnet.

79. Nguyễn Thanh Xuân, Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn

80. Trần Ngọc Vượng, Tục hoá quay về để tiến tới, www.vienvanhoc.org.vn.