BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ………………******……………… Nguyễn Thị Huyền Thương CON NGƯỜI NHÂN VĂN TRONG TIẾN TRÌNH VĂN HỌC TRUNG ĐẠI QUA THƠ NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN BỈNH KHIÊM VÀ NGUYỄN DU

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Đoàn Thị Thu Vân

Thành phố Hồ Chí Minh 08 / 2010.

Lời tri ân!

Xin chân thành tri ân Phòng KHCN & SĐH cùng tập thể các thầy cô giáo trong và

ngoài khoa Ngữ Văn, trường ĐHSP TP. HCM trực tiếp tham gia giảng dạy lớp Văn học Việt

Nam K.18 đã cung cấp những kiến thức, tạo tiền đề cho tôi hoàn thành bản luận văn này.

Xin chân thành tri ân BGH và tập thể đồng nghiệp nơi tôi công tác – Trường THPT

Ngô Quyền, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đã tạo luôn điều kiện tốt cho tôi trong toàn khóa học.

Đặc biệt, xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất đến cô giáo, PGS. TS Đoàn Thị Thu Vân,

người thầy lớn đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu.

Nguyễn Thị Huyền Thương

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Thời gian đã trôi qua rất lâu kể từ ngày đặt dấu chấm kết thúc cho một giai đoạn phát

triển của lịch sử văn học nước nhà, thời kì văn học Trung đại. Khoảng thời gian đó đủ để

những gì thuộc về nó bước lên ngai vàng của giá trị cổ điển. Những tưởng mọi cái như thế là

đã xong xuôi, con cháu mai hậu chỉ còn biết đứng từ bên kia bờ của “khoảng cách sử thi” để

ngưỡng vọng về thế giới tinh thần của ông cha trong quá khứ. Thế nhưng, chính lúc ý nghĩ

đó khởi phát cũng là lúc chúng ta nhận ra giá trị của văn học cổ điển như suối nguồn dạt dào

khơi mãi cũng không bao giờ vơi cạn.

Văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Tính đặc thù đó thể hiện ra

trước tiên ở đặc trưng của đối tượng miêu tả. Cụ thể, văn học lấy con người làm đối tượng

miêu tả chủ yếu. Nhân vật trung tâm của văn học nghệ thuật bao giờ cũng là con người. Đây

được xem như là một đặc tính không có ngoại lệ xuyên suốt trong văn học từ cổ chí kim. Vì

thế thiết nghĩ nghiên cứu văn học quan trọng nhất vẫn là tìm hiểu hình tượng nghệ thuật về

con người được văn học phản ánh. Mà đã đi vào phương diện con người là đi vào mê hồn

trận, bởi mỗi con người đã là một thế giới vô cùng bí ẩn và thâm sâu. Đặc biệt với người thơ

điều đó càng bội phần phong phú.

Như một tặng phẩm mà quá khứ dành tặng cho hậu thế, đội ngũ nhà thơ trên thi đàn

văn học trung đại phần lớn đều là những bậc chân nho với nhân cách trong sáng tuyệt vời.

Họ đến với thơ là để tỏ chí, giãi lòng. Đến lượt mình, thơ cũng là tấm gương trắng trong và

về với suối nguồn văn học trung đại, dừng lại thật lâu ở khía cạnh con người nhân văn,

chúng ta sẽ được tắm trong vẻ đẹp sáng trong của nhân cách, trí tuệ và tâm hồn cha ông, qua

đó để được thanh lọc tâm hồn mình. Thế nhưng, vấn đề con người nhân văn trên thi đàn văn

học trung đại hầu như chưa có công trình nào trực tiếp đề cập ngoài “Con người nhân văn

trong thơ ca sơ kì trung đại” của Đoàn Thị Thu Vân (NXB Giáo dục, 2007). Trong các

chuyên luận, bài báo, hay các công trình nghiên cứu một giai đoạn văn học, một vấn đề văn

học hoặc một tác giả, tác phẩm cụ thể thuộc thời kì văn học trung đại, thi thoảng chỉ đề cập

đến tính nhân văn, chất nhân văn, hay cảm hứng nhân văn. Đây là lí do chủ yếu mà khi

hướng đến văn học trung đại chúng tôi nghĩ đến đề tài này.

trung thành nhất lưu giữ những vẻ đẹp thấm đẫm chất nhân văn của người thơ. Bởi thế tìm

Tìm hiểu vấn đề con người nhân văn trong văn học trung đại, chúng tôi không nhìn nó

trong thế đứng yên mà xem xét nó trong thế vận động. Cơ sở lí luận mà chúng tôi viện đến là

quan điểm của triết học Mác – Lê Nin về con người. Mác nói: “ Xét trong tính hiện thực của

nó, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Cho nên, sự hình thành và phát triển

nhân cách của con người chắc chắn sẽ chịu sự chi phối của môi trường xã hội và hoàn cảnh

lịch sử cụ thể. Đương nhiên, con người trong văn học là hình tượng nghệ thuật về con người,

nó khác với con người theo quan niệm của triết học. Thế nhưng xét trong tính tổng thể,

chúng đều là những hình thái ý thức xã hội nên không thể không có những nguồn gốc tương

đồng.

Vì vậy, cùng với sự vận hành theo lẽ thịnh suy đắp đổi của xã hội phong kiến Việt

Nam, con người nhân văn trong thơ trung đại cũng không đứng yên. Song để xác định được

những thời điểm biểu hiện rõ nét sự chuyển giao của vấn đề thường chỉ mang tính tương đối.

Nhưng có thể khẳng định một cách không chủ quan rằng ở những cái mốc quan trọng bao

giờ cũng giúp đưa cái tương đối tiệm cận dần với cái tuyệt đối. Vì thế, tìm hiểu vấn đề con

người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại chúng tôi chỉ tập trung khảo sát qua sáng

tác của ba nhà thơ lớn của dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du. Bởi lẽ,

đây là ba đỉnh cao, ba cây đại thụ, ba nhịp cầu vững chãi làm nên cây cầu văn học trung đại,

nơi hội tụ và thăng hoa những giá trị đẹp đẽ của tâm hồn dân tộc.

Lại nữa, có một thực tế là khi đề cập đến sáng tác của Nguyễn Trãi, người ta nghĩ

ngay đến áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”. Nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm người ta

thường nghĩ đến những câu sấm truyền, biểu hiện của một trí tuệ tinh thông, siêu việt đi kèm

với chức danh trạng Trình trước khi nghĩ đến ông với tư cách là một nhà thơ. Và khi nhớ đến

gì là lạ, bởi theo lẽ thường, bông hoa rực rỡ nhất, thơm ngát nhất trong vườn hoa bao giờ

cũng gây sự chú ý đầu tiên đối với người thưởng ngoạn, thậm chí nó còn làm mờ đi những

bông hoa khác quanh mình. Song đâu ai biết rằng đó chỉ là phần nổi của tảng băng trôi, mà

phần chìm, nơi thể hiện tập trung, trực tiếp và chân thành nhất thế giới tâm hồn của họ lại

chính là phần thơ.

Cuối cùng, bởi vì những lí do trên, trong khuôn khổ luận văn này, với đề tài tìm hiểu

về “Con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn

Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du”, chúng tôi chỉ đi sâu khảo sát phần thơ của ba thi hào bao gồm

cả thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán. Với việc làm này, trước hết chúng tôi muốn dựa trên nền

Nguyễn Du thì nhất định là gắn liền với kiệt tác “Truyện Kiều”. Thói quen đó cũng không có

tảng đã có bước đầu nâng vấn đề lên thành một đề tài được tập trung nghiên cứu riêng và sâu

hơn, sau nữa là để bày tỏ lòng tôn kính và mến yêu dành cho ba nhà thơ vĩ đại của nền văn

học cổ điển, qua đó góp thêm một lời ngợi ca, khẳng định về văn hoá dân tộc.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Vì độ lùi thời gian và bởi tầm vĩ đại của ba tài năng lớn nên sự nghiệp sáng tác đồ sộ

của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du luôn là đề tài hấp dẫn đối với các nhà

nghiên cứu suốt hàng trăm năm qua, theo thời gian số lượng các công trình nghiên cứu cứ

đầy mãi thêm lên. Giá trị nghệ thuật ẩn chứa trong tác phẩm của họ vì thế cũng ngày càng

được khám phá dưới nhiều góc độ. Vẻ đẹp của những viên ngọc quý cứ thế không thôi phát

quang lấp lánh.

Điều này, vừa tạo cơ hội cho người đi sau có một nền tảng kiến thức vững chắc để kế

thừa. Song cũng đặt ra thách thức là phải làm sao để không dẫm lên lối mòn khoa học của

người đi trước.

Vì thế chúng tôi chọn vấn đề con người nhân văn làm đề tài nghiên cứu cũng xuất phát

từ mong muốn làm được điều gì đó có ích. Bởi theo khảo sát chủ quan của chúng tôi thì đây

là khía cạnh gần như chưa có một công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập, đặc biệt là tìm

hiểu nó trong sự kết nối thi phẩm của ba nhà thơ lớn Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và

Nguyễn Du. Đó là chưa kể, phần thơ, như đã nói, chưa được giới nghiên cứu quan tâm nhiều

bằng các sáng tác khác của họ. Chẳng hạn, những công trình nghiên cứu về truyện Kiều thì

quá đồ sộ trong khi tài liệu tìm hiểu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du thì lại chưa nhiều.

Song nói như thế không có nghĩa là đề tài nghiên cứu mà chúng tôi chọn là hoàn toàn

người đi trước. Cụ thể liên quan đến vấn đề này có thể kể đến một số công trình nghiên cứu

sau, đương nhiên phần lớn chỉ là những công trình đề cập đến từng tác giả riêng lẻ trong số

ba tác giả mà đề tài của chúng tôi trực tiếp đề cập.

2.1 Những công trình liên quan đến vấn đề giới thuyết của đề tài

2.1.1 “Thi pháp văn học trung đại” – Trần Đình Sử.

Trong phần “Sự vận động và phát triển của con người trong thơ Việt Nam trung đại”,

ông cho rằng, qua các giai đoạn văn học, dưới ảnh hưởng của tư tưởng chính thống và hoàn

cảnh lịch sử xã hội mà con người cá nhân trong thơ trung đại cũng có sự thay đổi. Từ con

người sử thi trong thơ Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung…với tình cảm yêu

nước có lức lay động mãnh liệt đến con người khí tiết biết giữ mình trong sạch, biết ứng xử

mới; ngược lại để tiếp cận vấn đề, chúng tôi cũng phải dựa trên những gợi mở quý giá của

trước thời thế dưới sự chỉ dạy của Nho giáo trong giai đoạn văn học từ thế kỉ X – XIV. Bước

sang giai đoạn từ thế kỉ XV – XVII cùng với sự ra đời của thơ chữ Nôm, con người trong thơ

cũng mở rộng về giá trị riêng tư, trần tục, ít quan phương hơn so với giai đoạn trước. Song

vào giữa giai đoạn này, cùng với sự lên ngôi của tư tưởng Nho giáo, con người ngày càng

duy lí với những trăn trở đầy day dứt giữa xuất và xử. Trong khi đó, theo bước đi của lịch sử

cùng với sự suy thoái của xã hội phong kiến, là sự trỗi dậy của ý thức cá nhân nên con người

trong thơ giai đoạn từ thế kỉ XVIII – XIX lại nghiêng về những khát khao trần tục, nhục

cảm.

Đồng thời trong công trình này, tác giả cũng đưa ra những nhận xét về một số tác giả

lớn với tư cách là con người trong thơ. Cụ thể, theo Trần Đình Sử: Là con người trong thơ,

Nguyễn Trãi hiện diện như một day dứt, một con người thao thức khôn nguôi của thời đại.

ông hiện diện không nhằm khẳng định Nho hay Đạo mà là khẳng định một con người muốn

hiến dâng tài năng cho cuộc sống một cách trọn vẹn.

Nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm trong mối tương quan với Nguyễn Trãi và Lê Thánh

Tông, Trần Đình Sử cho rằng Tuyết Giang Phu Tử nghiêng về đạo học, vì là con người lý trí,

ông thể hiện mình trong thơ như một con người lịch lãm, khôn ngoan…, cho nên theo nhận

xét của tác giả, đứng ở một góc độ nào đó chất nhân văn tươi tắn có mờ nhạt và ít phong phú

hơn về mặt cảm tính so với hai tác giả trên, song về mặt trí tuệ thì vô cùng đa dạng.

2.1.2 “Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam” của nhóm nghiên cứu Nguyễn

Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu

Vân.

Qua chương “Sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện cái tôi tác giả”, các nhà nghiên

thiên nhiên, xem thiên nhiên như thước đo nhân cách của nhà nho. Đồng thời trong công

trình này nhóm nghiên cứu cũng đề cập một cách khái quát về con người cá nhân trong thơ

Nguyễn Trãi, qua bi kịch nội tâm biểu hiện những vẻ đẹp về nhân cách. Con người cá nhân

trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có ý thức tự khẳng định mình, bằng cách đối lập mình với

xung quanh, sống khép kín, cô độc một cách thanh sạch, cao quý. Đến thời Nguyễn Du, do

sự suy vi của xã hội phong kiến, sự nứt vỡ của đạo đức thánh hiền, nên ý thức cá nhân thể

hiện trong thơ là ý thức thương thân, xót thân, và vì thế con người tìm đến điểm tựa là cái tài

và cái tâm.

2.2 Những công trình có liên quan đến từng nhà thơ cụ thể

cứu đã phân tích một cách cụ thể những vẻ đẹp của tâm hồn tác giả trong mối tương liên với

2.2.1 Nhà thơ Nguyễn Trãi

2.2.1.1 “Con người nhân văn trong thơ ca sơ kì trung đại” – Đoàn Thị Thu Vân.

Đây là công trình trực tiếp đề cập đến vấn đề con người nhân văn trong thơ Nguyễn

Trãi. Để không lặp lại những điều mà các nhà nghiên cứu đã nhận định về con người siêu

việt ấy, tác giả chỉ xoáy sâu vào khía cạnh Nguyễn Trãi là một con người biết tìm niềm vui

sống, thể hiện trong cách sống giản dị mà tự do phóng khoáng, gần gũi với thiên nhiên vạn

vật và con người lao động.

2.2.1.2 “Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi” – Trần Đình Sử.

Trong công trình này, tác giả nhận xét: Với thơ Nôm Nguyễn Trãi ta gặp một con

người có ý thức cao về tài đức, lý tưởng đại dụng, khôn khéo sâu sắc, tự tin, dũng cảm, tự

khẳng định, chọi lại thói phàm tục của người đời, không trùng khít với khuôn mẫu nào hết.

Đó là một nhân cách lớn hết sức phong phú.

2.2.1.3 “ Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi” – Nguyễn Huệ Chi.

Qua bài viết, tác giả ngợi ca nhân cách Nguyễn Trãi thể hiện nơi niềm lạc quan và tin

yêu cuộc sống . Ông cho rằng: Con người thi nhân trong thơ Nguyễn Trãi luôn nặng một

niềm thao thức khôn nguôi. Tuy nhiên vượt lên trên hoàn cảnh, con người ấy vẫn biết hướng

về cái cao cả, tốt lành. Trong muôn nghìn khó khăn chồng chất lên mình, con người ấy vẫn

biết chờ đợi và tin vào cái tốt lành sẽ xảy đến, con người ấy quả là một tâm hồn Việt Nam

trọn vẹn.

2.2.1.4 “Chất Đại Việt trong Ức Trai thi tập” – Lê Trí Viễn.

Tác giả thể hiện sự ngưỡng mộ đối với tấm lòng thơm không gì vẽ ra được của

Nguyễn Trãi. Ông nhận xét tâm hồn Ức Trai đẹp trong sự rộng mở bốn phương nhưng quy

đó là chỗ vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi.

2.2.1.5 “Thái độ của Nguyễn Trãi trong cuộc sống” – Nguyễn Thiên Thụ.

Tác giả cho rằng thái độ sống của Ức Trai là an phận thủ thường, coi thường cuộc đời,

yên vui cảnh nhàn, cảnh nghèo, vui thú với trang sách, yêu thiên nhiên. Từ đó, ông đi đến

khẳng định, với những thái độ sống cao quý đẹp đẽ đó, Nguyễn Trãi biểu hiện là một con

người có nhân cách tuyệt vời, tâm hồn cao thượng.

2.2.1.6 “ Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” – Xuân Diệu.

về hướng dân chủ, yêu nước thương dân, hướng về Việt Nam truyền thống, và ông cho rằng

Tác giả nhìn nhận vẻ đẹp nhân cách Nguyễn Trãi thể hiện nơi bản lĩnh sống, đồng thời

tỏ lòng kính yêu vô hạn đối với tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, qua đó ông

hoàng thơ tình yêu cho rằng thiên nhiên là thước đo tâm hồn của Ức Trai tiên sinh.

2.2.1.7 “Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm” – Hoài Thanh.

Tác giả đánh giá nét tiêu biểu nhất của con người Nguyễn Trãi qua thơ là ý thức trách

nhiệm với dân với nước

Ngoài ra, trong rất nhiều công trình khác của các nhà nghiên cứu dành nhiều tâm

huyết cho Nguyễn Trãi như Mai Quốc Liên, Bùi văn Nguyên, Bùi Duy Tân, Đinh Gia

Khánh…, khi tìm hiểu về sự nghiệp sáng tác của nhà thơ trên nhiều phương diện đều có ít

nhiều đề cập đến vấn đề con người Ức Trai qua thơ. Tựu trung là cố gắng làm nổi bật Ức

Trai như một nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự tài ba, nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân

văn hóa thế giới và nét đẹp nổi bật trong nhân cách là tấm lòng “tiên ưu – đêm ngày cuồn

cuộn nước triều đông” cùng lối sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên, ruộng đồng.

2.2.2 Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

2.2.2.1 “ Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm” - Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh

tuyển chọn và giới thiệu.

Công trình quy tụ 67 bài viết tập trung nghiên cứu theo từng phương diện: Nguyễn

Bỉnh Khiêm giữa thế kỉ XVI đầy biến động; triết nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm – tư tưởng và

nhân cách; Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ; Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức thế nhân

xưa nay. Trong đó bên cạnh những bài viết ở phần thứ hai cố gắng xây dựng một triết nhân

Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông lí học, có tài tiên tri, có trí tuệ siêu việt, là những bài viết ở

phần ba tập trung miêu tả chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm một nhà thơ, và trong phần này

Khánh…về vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ họ Nguyễn thể hiện qua “Tấm lòng tiên ưu đến già chưa

thôi”.

2.2.2.2 “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc” – Viện Khoa học

xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm.

Công trình này đóng góp 28 bài viết đi sâu khai thác về Nguyễn Bỉnh Khiêm trên các

phương diện: Thân thế và hoàn cảnh lịch sử; Tư tưởng và thơ văn; Một số vấn đề khác.

Trong đó đáng chú ý là những bài viết trong phần thứ hai, ở đây các nhà nghiên cứu cũng đã

cố gắng đi sâu khai thác để miêu tả được những vẻ đẹp đầy tài hoa cũng như nhân cách trong

sáng tuyệt vời của Bạch Vân cư sĩ.

thật cảm động là những cảm nhận của Nguyễn Huệ Chi, Bùi Văn Nguyên, Đinh Gia

2.2.2.3 “ Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập” – Nguyễn Khuê.

Là công trình khá công phu gồm nhiều phần trong đó ở phần thứ hai tác giả đi vào

khai thác thế giới tình cảm và tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ.

2.2.2.4 “Tập kỉ yếu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm”.

Công trình được thực hiện nhân lễ kỉ niệm 500 năm ngày sinh của ông. Bao gồm 52

bài tham luận xoay quanh những vấn đề không bao giờ hết tính thời sự được đặt ra trong sự

nghiệp sáng tác và cuộc đời của TrạngTtrình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các bài viết được sắp xếp

theo một hệ thống chủ đề gồm 4 phần, trong đó chúng tôi chú ý đến phần thứ hai là những

cảm nhận sâu sắc của các tác giả về con người và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Ngoài ra còn rất nhiều những công trình nghiên cứu khác viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm

của Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, Mai Cao Chương, Mai Quốc Liên, Vũ Tiến Quỳnh, Vũ

Tiến Phúc, Hà Như Chi… tìm hiểu con người và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm

từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng chung quy lại ở khía cạnh con người tác giả qua thơ đều

nhấn mạnh Nguyễn Bỉnh khiêm, một bậc trí thức với “tấm lòng tiên ưu đến già chưa nguôi”

và Nguyễn Bỉnh Khiêm với lối sống thanh nhàn, đẹp một cách cao khiết.

Mai Quốc Liên khẳng định: “…Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem như Giang, Hán trong

các sông, như ánh mặt trời thu, cây đại thụ của đạo đức, văn chương thế kỉ XVII”.(Nguyễn

Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc).

Trần Thị Băng Thanh – Vũ Thanh khi cho rằng “Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có

bản lĩnh, một trí giả. Tìm đến với sự nhàn dật chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm đa tìm về với cái

vụng, cái chuyết mà theo quan niệm của Nho gia, đã được điều chỉnh bởi quan niệm của đạo

Lão, mới là bản chất tự nhiên của sự vật. Chính quan niệm nhàn dật đạt tới ý vị triết học đó

quan, khỏe khoắn, rất hiếm thấy trong làng thơ nhàn thời trung đại” (Sức sống của thơ ca và

tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Còn Nguyễn Khuê nhận định: “ Thơ ông là tiếng nói rất chân thực, rất nhân bản của

một nhà hiền triết trước cảnh ngộ, nhân sinh, thiên nhiên vũ trụ; là một nỗ lực hướng tới

chân, thiện, mỹ. Vì thế, tiếng nói ấy mãi mãi vang vọng tâm hồn dân tộc” (Nguyễn Bỉnh

Khiêm qua Bạch Vân am thi tập)

2.2.3 Nhà Thơ Nguyễn Du

đã tạo nên một Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bạch Vân cư sĩ tự do, tự tại, giản phác, hồn nhiên, lạc

Khác với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, với Nguyễn Du do tầm vĩ đại và ảnh hưởng của

kiệt tác “Truyện Kiều” quá lớn, cho nên lịch sử trên hai trăm năm nghiên cứu tác phẩm này

thu hút phần lớn sự quan tâm của các học giả. Trong khi đó thơ chữ Hán lại ít được chú ý

hơn, vì thế các công trình nghiên cứu về nó không nhiều.

2.2.3.1 “Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm” – Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh

tuyển chọn và giới thiệu.

Đây là công trình độ sộ tập hợp nhiều bài nghiên cứu có chiều sâu về Nguyễn Du được

công bố từ trước tới nay, tuy vậy chủ yếu là về Truyện Kiều. Còn tìm hiểu về thơ chữ Hán

chỉ được giới thiệu một số bài viết sau:

 “Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán” – Hoài Thanh.

Qua bài viết, bằng việc phân tích khái quát những hình tượng con người trong thơ chữ

Hán Nguyễn Du, tác giả “Thi nhân Việt Nam” đã cảm thông với tình cảm thương xót của đại

thi hào dành cho con người đặc biệt là những người nghèo khổ dưới đáy xã hội.

“Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán” – Xuân Diệu.

Qua đây, Xuân Diệu khẳng định trong thơ chữ Hán Nguyễn Du đã để dấu ấn con

người mình một cách rõ nét. Đó là con người giàu lòng yêu thương, thể hiện trong tình cảm

bao la ông dành cho nhiều loại người. Ông viết “Nguyễn Du không phải là con người hành

động mà là con người tư tưởng. Con người ấy tiếp nhận tất cả mọi cay đắng trong đời với

một thái độ lặng lẽ chịu đựng. Nhưng bên trong con người đó, một cuộc đấu tranh ngấm

ngầm chống lại mọi nguy cơ sa ngã vẫn diễn ra dai dẳng không ngừng. và so với người khác,

những nỗi cực nhọc mà con người ấy chịu còn phải nhân lên gấp mấy lần, vì nó dồn nén, súc

tích lại thành những nỗi đau vò xé tâm can chứ không được giải phóng ra thành hành động”.

rồi quẩn quanh trong triết lí đến nỗi không nhìn thấy nguyên nhân mọi nỗi khổ hiện thực của

mình”.

“ Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán” – Nguyễn Huệ Chi.

Bài viết cũng đưa ra những nhận xét rất chân thực thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với

Nguyễn Du. Ông nhìn thấy trong thơ chữ Hán “ hình tượng một con người đi trong bóng

đêm dày đặc, hãi hùng, bị gió lạnh dồn cả vào mình, và cứ mong cho chóng sáng mà không

thấy sáng, thật đã phản ánh đúng cái cảm nghĩ tuyệt vọng của Nguyễn Du về sự mất phương

hướng. Đây không chỉ là hình ảnh tự họa chính xác nhất của nhà thơ mà còn là hình ảnh có

một ý nghĩa rất rộng lớn: Tấn bi kịch lịch sử ở giai đoạn cực kì thối nát, tan rữa. Ý nghĩa

Và ở một chỗ khác Xuân Diệu viết “ Con người ấy chỉ biết nâng đau khổ lên thành triết lí, và

nhận thức đồng thời cũng là ý nghĩa nhân đạo trong phần lớn những bài thơ chữ Hán nói về

mình của Nguyễn Du, chính là như vậy”.

 “ Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán” – Đào Xuân Quý.

Tác giả thể hiện sự cảm thông với nỗi niềm u uẩn của Nguyễn Du, đồng thời cũng đề

cao tình cảm của Nguyễn Du dành cho những bậc tài hoa như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ…

 “ Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán” – Trương Chính.

Bài viết chủ yếu tập trung đi sâu vào nội dung của cả tập thơ, qua đó ngợi ca tình yêu

thương con người của Nguyễn Du.

2.2.3.2 “ Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du” – Lê Thu Yến.

Đây là công trình đi sâu khám phá thế giới nghệ thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.

Vì thế con người ở đây được khảo sát dưới góc độ nghệ thuật. Những biểu hiện của hình

tượng nghệ thuật về con người được tác giả công trình nghiên cứu này phát hiện là hình

tượng con người âu lo, con người lãng mạn, con người đau khổ. Đó cũng chính là những nét

lớn trong tâm hồn đại thi hào Nguyễn Du.

Ngoài ra còn có những bài viết khi đi vào tìm hiểu từng tác phẩm thơ chữ Hán cụ thể

cũng ít nhiều đưa ra những cảm nhận về tấm lòng, tâm sự của Nguyễn Du mà trong phần này

không có điều kiện nêu ra hết.

Như vậy, xâu chuỗi những công trình nghiên cứu trên cho thấy, các tác giả dù đã đi

vào tìm hiểu về con người tác giả trong thơ, nhưng hầu hết đều nhìn nhận vấn đề trên cấp độ

chung, nghĩa là tìm hiểu biểu hiện của cái tôi tác giả trong thơ về tư tưởng và tình cảm. Tập

trung miêu tả những mặt tích cực là chủ đạo song các công trình cũng không bỏ qua những

khuất lấp trong thế giới tâm hồn của các nhà thơ. Riêng vấn đề con người nhân văn được

giả - chủ thể trữ tình của tác phẩm thể hiện trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm

và Nguyễn Du, đồng thời qua đó đưa ra những nhận xét bước đầu về sự vận động của con

người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại thì vẫn chưa có một công trình nào đi sâu

nghiên cứu. Chỗ bỏ ngõ này cũng chính là điều mà chúng tôi muốn thực hiện.

Tuy vậy, những ý kiến trên thật sự là những định hướng đúng đắn và gợi mở quý báu

cho người viết trong quá trình thực hiện đề tài này.

3. Đối tương và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng khảo sát

hiểu là con người mang vẻ đẹp người (trí tuệ, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh…) của chính tác

Những tư liệu về thơ Nguyễn Trãi (bao gồm cả Ức trai thi tập và Quốc âm thi tập) mà

chúng tôi sử dụng để nghiên cứu là cuốn Nguyễn Trãi toàn tập tân biên của Trung tâm

nghiên cứu Quốc học do Mai Quốc Liên chủ biên; Tư liệu về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm

chúng tôi sử dụng đồng thời cuốn Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của Đinh Gia Khánh biên

soạn và cuốn Tổng tập văn học Việt Nam – tập 6, phần về Nguyễn Bỉnh Khiêm, do Bùi Duy

Tân chủ biên; Tư liệu về thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng tôi sử dụng cuốn Nguyễn Du toàn

tập của Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến phiên âm, dịch

nghĩa và chú thích.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề con người nhân văn được hiểu là con người

mang vẻ đẹp người (trí tuệ, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh…) của chính tác giả - chủ thể trữ

tình của tác phẩm thể hiện trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du.

Đồng thời qua đó đưa ra những nhận xét bước đầu về sự vận động của con người nhân văn

trong tiến trình văn học trung đại.

Hướng nghiên cứu của đề tài là đi từ xa đến gần, từ việc tìm hiểu thời đại, bối cảnh

lịch sử xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm của các nhà thơ đến những biểu

hiện cụ thể của tố chất người mang vẻ đẹp nhân văn được các nhà thơ ý thức và phô diễn

trong thi phẩm của mình.

Cuối cùng, vì khả năng có hạn, chúng tôi chỉ gói ghém đề tài của mình trong khuôn

khổ phần thơ chứ chưa có điều kiện đi vào các phần còn lại trong sự nghiệp sáng tác của ba

nhà thơ trên.

Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp khoa học

khác nhau, trong đó cơ bản nhất vẫn là bốn phương pháp sau:

4.1 Phương pháp Lịch sử - xã hội

Xuất phát từ quan điểm của triết học Mac – Lênin về mối quan hệ giữa văn học và xã

hội cũng như quan điểm về con người, con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì thế

tìm hiểu về con người nhân văn thể hiện trong thơ của ba nhà thơ lớn đại diện cho ba cái

mốc quan trọng trong cả lịch sử phát triển của văn học lẫn lịch sử phát triển của xã hội.

Chúng tôi không thể không nhìn nhận vấn đề trong mối tương quan với bối cảnh lịch sử, xã

hội, tư tưởng của dân tộc.

4.2 Phương pháp hệ thống

4.Phương pháp nghiên cứu

Là phương pháp giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn tổng quan về vấn đề đang

nghiên cứu. Ở đây, vấn đề con người nhân văn thể hiện trong thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn

Bỉnh Khiêm Và Nguyễn Du được đặt vào trong mối tương quan với hoàn cảnh lịch sử xã

hội, tiến trình vận động của văn học trung đại. Đồng thời phương pháp này cũng giúp người

viết hệ thống hóa được, thứ nhất những tài liệu có liên quan, thứ hai những biểu hiện về vẻ

đẹp nhân văn của chủ thể trữ tình trong thơ, sắp xếp lại thành những tiểu mục cụ thể.

4.3 Phương pháp so sánh – đối chiếu

Với đề tài này, có thể nói đây là phương pháp quan trọng nhất giúp người viết nhìn

nhận vấn đề trong sự đối sánh giữa ba nhà thơ, từ đó rút ra được những điểm gặp gỡ, kế thừa

và cả những nét riêng không lặp lại lẫn những cái mới của con người nhân văn trong thơ của

họ. Từ đó đi đến những nhận xét bước đầu về sự vận động của con người nhân văn trong tiến

trình văn học trung đại.

4.4 Phương pháp phân tích – tổng hợp

Là phương pháp giúp chúng tôi vừa khai thác vấn đề ở những khía cạnh chi tiết để

nắm được bản chất vấn đề, vừa tổng hợp lại nhằm có những kết luận khái quát về vấn đề.

5. Đóng góp của đề tài

5.1 Ý nghĩa khoa học

Với việc đi sâu tìm hiểu con người nhân văn với những biểu hiện cụ thể trong thơ của

Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du, đề tài hy vọng góp thêm một cách hiểu

trọn vẹn về thế giới tâm hồn của ba nhà thơ trên. Qua đó cũng giúp người đọc có được hình

dung về quá trình vận động, phát triển của con người nhân văn qua các chặng đường của văn

5.2 Ý nghĩa thực tiễn

Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du cũng như

bản thân con người của họ có một tầm ảnh hưởng vô cùng lớn lao không chỉ đối với thời đại

các nhà thơ sống mà còn vang vọng đến tận hôm nay và mai sau. Vì thế, việc tìm hiểu về con

người thi nhân qua thơ với những vẻ đẹp đầy nhân văn của trí tuệ, tâm hồn, tình cảm… là hết

sức quan trọng. Đặc biệt là đối với môi trường giáo dục trong nhà trường. Bởi lẽ, xét ở cấp

độ “tiên học lễ” – đây chính là điểm tựa về văn hóa, về tinh thần để giáo dục học sinh biết tự

hào, trân quý, giữ gìn và học tập theo tấm gương nhân cách của ông cha. Xét ở cấp độ “hậu

học văn” – đây sẽ là những định hướng quý báu cho việc giảng dạy thơ văn của Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du trong chương tình phổ thông.

học trung đại.

6. Cấu trúc luận văn

Luận văn được triển khai theo ba phần:

Phần I: Mở đầu

Phần II: Nội Dung

Chương I: Những vấn đề khái quát

Chương II: Con người nhân văn đẹp trong ý thức trách nhiệm của người trí thức đối

với cuộc đời

Chương III. Con người nhân văn đẹp trong tình yêu thiên nhiên và lối sống hài hòa

cùng vạn vật

Chương IV. Con người nhân văn đẹp trong cách hành xử trước thời thế để giữ tròn khí

tiết kẻ sĩ

Phần III: Kết luận

NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT

1. Khái niệm “nhân văn”

Trong văn học, khi tìm hiểu về khái niệm “nhân văn”, cần thiết phải quan tâm đến

những khái niệm gần gủi khác như: “nhân bản”, “nhân đạo”.

“Nhân bản” là lấy con người làm gốc. Chủ nghĩa nhân bản vì thế coi trọng con người

với thực thể hiện hữu của nó, theo đó, chủ nghĩa nhân bản thiên về khía cạnh bản thể của con

người.

“Nhân đạo” là đường đi của con người. Con đường đó nhắc nhở con người đi đúng

đạo lý làm người. Nghĩa là phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của con người bao gồm

quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Chủ nghĩa nhân đạo” kêu gọi sự yêu

thương, lòng trân quý và bảo vệ con người. Là xu hướng tư tưởng thể hiện sự tôn trọng phẩm

giá, quyền tự do và sự phát triển toàn diện của nhân cách cá nhân, bảo vệ tính người trong

quan hệ xã hội. Do vậy thuật ngữ này thiên về khía cạnh đạo đức.

Riêng về “Nhân văn”, hiểu theo nghĩa chiết tự, “nhân” là người, “văn” là vẻ đẹp.

“Nhân văn” có thể hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người. Một tác phẩm văn học có tính

nhân văn là tác phẩm thể hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị

tinh thần như trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách… tác phẩm đó nhất định phải hướng đến

khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người.

thế giới quan và cấp độ lịch sử.

Ở cấp độ thế giới quan, “chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm,

tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ

đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao hàm

cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng, bản chất…)

trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại” [15, tr 88].

Thế giới được sáng tạo ra trong văn học nghệ thuật và bằng văn học nghệ thuật từ xưa

đến nay là một thế giới mà trong đó con người luôn luôn đấu tranh chống lại mọi thế lực thù

“Chủ nghĩa nhân văn”, theo Từ điển thuật ngữ văn học, được hiểu ở hai cấp độ, cấp độ

địch xuất hiện dưới mọi hình thức, để khẳng định mình, khẳng định quyền năng và sức mạnh

của mình, đồng thời thể hiện khát vọng làm người mãnh liệt và cao đẹp của mình. Lòng yêu

thương, ưu ái đối với con người và thân phận của nó từ trước đến nay vẫn là sự quan tâm

hàng đầu của các nhà văn, nhà nghệ sĩ trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.

Khi nói rằng: “Văn học là một nghệ thuật nhân văn hơn cả, người ta có thể nói những

nhà văn đều là những nhà nhân văn do nghề nghiệp của mình, những người sản sinh ra chủ

nghĩa nhân văn”. Chính M.Gorki đã sử dụng khái niệm chủ nghĩa nhân văn trên cấp độ này.

Ở cấp độ lịch sử, “chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu văn hóa – tư tưởng nảy sinh ở Ý

và một số nước khác ở châu Âu thời Phục hưng (thế kỉ XIV – XVI ). Những người khởi

xướng trào lưu này chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung

khỏi sự bảo trợ của nhà thờ cơ đốc giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ quan niệm

không phải thần linh mà là con người tự định đoạt lấy số phận của mình. Con người có khả

năng vô tận để hoàn thiện môi trường của mình (…) Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự

sáng tạo và ca ngợi vẻ đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và

niềm tin và sức mạnh toàn năng của con người” [15, tr 89]. Con người có khả năng vô tận để

hoàn thiện môi trường của mình. Trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, họ chủ trương đi sâu

nghiên cứu những thành tựu rực rỡ giàu sức sống và vẻ đẹp hồn nhiên của văn hóa cổ đại Hy

Lạp - La Mã đã bị quên lãng trong suốt thời Trung cổ, nhằm khôi phục những giá trị tư

tưởng - nhân văn của chúng. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng tạo và ca ngợi cái

đẹp trần thế, lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh

toàn năng của con người.

Có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng là một bước ngoặt quan

trọng trong quá trình giải phóng tinh thần và tự ý thức của nhân loại. Từ thời Phục hưng về

mới: từng bước gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng con người về các phương diện chính

trị - xã hội và các phương diện khác thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống. Nó trở

thành lí tưởng thẩm mĩ có sức định hướng cho những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật, và quy

định bản chất của mỗi nền văn học nghệ thuật. Trong sáng tác văn học nghệ thuật, hình thái

và mức độ biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn hết sức phong phú, đa dạng, độc đáo. Vì thế,

khi tiếp nhận tác phẩm văn học không nên lược quy giá trị nhân văn của nó vào những mệnh

đề chung trừu tượng mà phải tìm ra những sắc thái biểu hiện tinh tế, độc đáo, cụ thể trong

thái độ và cảm xúc thẩm mĩ của tác giả đối với con người và cuộc sống.

sau, trong văn học nghệ thuật, chủ nghĩa nhân văn đã bước sang một giai đoạn phát triển

Như vậy, có thể thấy, từ một thuật ngữ nước ngoài có gốc la tinh là humanism, khi

dịch sang tiếng Việt, tùy vào từng trường hợp và mục đích sử dụng mà có thể có những cách

dịch khác nhau. “Chủ nghĩa nhân bản” thiên về phạm trù triết học bản thể, “chủ nghĩa nhân

đạo” thiên về phạm trù đạo đức, còn “chủ nghĩa nhân văn” thiên về phạm trù văn hóa.

2. Khái niệm “con người nhân văn”

Khái niệm “con người” được dùng khác với quan niệm về con người trong các ngành

nghiên cứu ngoài văn học. Con người ở đây là hình tượng nghệ thuật về con người được thể

hiện trong sáng tác văn chương.

Từ đó, “con người nhân văn được hiểu là hình tượng nghệ thuật về con người mang

tính nhân văn, tức là con người mang vẻ đẹp người (trí tuệ, tâm hồn, nhân cách, bản

lĩnh…)được biểu hiện trong tác phẩm của văn học” [57, tr7]. Đối tượng trung tâm của văn

học là con người, kể cả khi tác phẩm đó thuần tả cảnh đi chăng nữa thì đằng sau bức tranh

thiên nhiên đó chính là tác giả. Bởi sự thật là mây, gió, trăng, hoa…tự nó không thể đi vào

thơ nếu không có một hồn thơ vẫy gọi. Trong thơ trữ tình, con người đó chính là tác giả -

chủ thể trữ tình của tác phẩm. Thông qua sự biểu hiện thế giới nội tâm phức điệu với những

tâm trạng, cảm xúc, suy tư…nhân vật trữ tình trong tác phẩm trữ tình đã bộc lộ những tố chất

con người của mình, để lại dấu ấn đậm nét về cá nhân tác giả, và cả dấu ấn cho cả một thời

đại thơ ca. Bởi “ nhà thơ nào cũng là con người cụ thể của một thời đại, có mối quan hệ mật

thiết với những vấn đề xã hội, tư tưởng, văn hóa của thời đại đó” [57, tr7]. Tìm hiểu “con

nhà thơ đã phô diễn trong thi phẩm của mình. Đồng thời nhìn nhận xem với cách biểu hiện

những vẻ đẹp đó, họ đã có những đóng góp gì cho thơ ca thời đại đó nói riêng, văn học và

văn hóa của dân tộc nói chung.

Tìm hiểu “con người nhân văn” trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và

Nguyễn Du chính là tìm hiểu con người tác giả trong thơ với những vẻ đẹp riêng về nhân

cách. Những nét đẹp đó qua sự thẩm định của thời gian và sự đánh giá của con người đã

không dừng lại ở phẩm chất của một cá nhân nữa mà trở thành tài sản chung vô giá của dân

tộc.

3. Vấn đề “con người nhân văn” trong tiến trình văn học trung đại

người nhân văn” trong thơ ca của một thời đại là để khám phá vẻ đẹp đầy chất người mà các

Khái niệm “tiến trình văn học” được hiểu là một chuỗi nối tiếp nhau giữa các sự kiện

văn học, tạo nên một thời kì văn học có bắt đầu và kết thúc. Đồng thời trong tiến trình đó các

sự kiện không thôi vận động và tương tác lẫn nhau.

Tiến trình văn học trung đại Việt Nam đã được xác định là bắt đầu từ thế kỉ X và kết

thúc đến hết thế kỉ XIX, muộn màng hơn rất nhiều so với tất cả các thời kì văn học trung đại

trên thế giới. Dẫu được hình thành và phát triển dưới chế độ xã hội phong kiến lúc thịnh lúc

suy, song thời trung đại Việt Nam không phải là đêm trường trung cổ như ở châu Âu khi

đem so sánh với thời Phục hưng nơi đất nước của họ, mà là thời đại phát triển rực rỡ của dân

tộc. “Đây là thời kì mà hầu hết các truyền thống quý báu của dân tộc đều hình thành. Văn

học và ngôn ngữ đều đã phát triển và đạt tới đỉnh cao. Tâm hồn Việt Nam, nhân cách Việt

Nam được khẳng định và được biểu hiện thành văn. Không thể hiểu được văn hóa, văn học

và con người Việt Nam hiện đại mà không nghiên cứu kĩ lưỡng thời kì văn học này” [42,

tr73]. Suốt mười thế kỉ văn học đó, các thế hệ nhà thơ, nhà văn của chúng ta đã không

ngừng nổ lực thoát khỏi cái bóng của nền văn học Hán để xây dựng một tòa lâu đài văn học

cổ kính đậm chất Đại Việt.

Vậy, vấn đề đặt ra là tại sao giữa muôn vàn những quốc hồn, quốc túy được phản ánh

trong văn học trung đại, bài viết lại nhấn vào vấn đề “con người nhân văn”?

Trước hết là vì, trong các vấn đề văn học cần được nghiên cứu của thời kì trung đại,

vấn đề con người trong văn học có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Con người là phạm trù

cơ bản của văn hóa, là nội dung cơ bản của văn học và trình độ ý thức về con người đánh dấu

trình độ phát triển của văn học. Thế nhưng, theo nhiều nhà nghiên cứu, vấn đề này xưa nay

vẫn còn ít được các công trình nghiên cứu về văn học trung đại đề cập. Khi đi vào tìm hiểu

đại cần được tri nhận thấu đáo. Bởi lẽ, thứ nhất, như đã hơn một lần khẳng định, con người

luôn là nhân vật trung tâm của văn học, đối với thơ trữ tình con người đó chính là tác giả -

chủ thể trữ tình của tác phẩm. Thứ hai, thi đàn văn học trung đại là nơi hội tụ những bậc

chân nho làm thơ với nhân cách trong sáng tuyệt vời. Các cụ sống trong “bầu sinh quyển văn

hóa” của cương thường đạo lí, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc học thuyết của tam giáo. Và họ tìm

đến với thơ như một thú chơi tao nhã để tỏ chí, giãi lòng. Cho nên thơ là tấm gương phản

chiếu chân thực nhất thế giới tâm hồn của họ. Những phẩm cách, những ưu tư, trăn trở…

được biểu hiện ra trong các mối quan hệ với con người, tự nhiên và xã hội thật sự đã tỏa sáng

những nét đẹp cao quý. Những nét đẹp đó được kết tinh và thăng hoa thành giá trị văn hóa

vấn đề con người, khía cạnh “con người nhân văn” là một giá trị đặc sắc của văn học trung

của dân tộc. Nó trở thành truyền thống quý báu của đất nước, nên càng không thể để nó lãng

quên theo thời gian mà cần phải không ngừng được khơi dậy, để nó chảy mãi, chảy mãi,

thấm vào hồn những thế hệ đi sau.

4. Thời đại, vị trí, vai trò của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du trong

tiến trình văn học trung đại.

4.1. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và thời đại của họ

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) sinh ra trong buổi suy tàn của nhà Trần, trong “ám ảnh

vãn chiều” của hào khí Đông A, nơi mà dẫu sao ông cũng được dự phần vào dòng dõi “ danh

gia vọng tộc”. Bởi Nguyễn Trãi là cháu ngoại và được nuôi dưỡng suốt tuổi ấu thơ trong

dinh của đại tư đồ Trần Nguyên Đán – cháu bốn đời của thượng tướng Trần Quang Khải,

thuộc dòng trực hệ hoàng tộc. Đây chính là môi trường để cho những giá trị rực rỡ nhất về

văn hóa, tư tưởng của triều đại nhà Trần – một triều đại được xem là trang sử vẻ vang nhất

của lịch sử phong kiến Việt Nam – qua ông ngoại và cha truyền vào tâm hồn Nguyễn Trãi.

Chính vì thế, theo Trần Đình Sử “Nguyễn Trãi là con người của nhà Trần trước khi là con

người của nhà Lê”.

Về văn hóa, Nguyễn Trãi sống trong một thời kì quá độ, thời kì bản lề của hai chặng

đường lịch sử văn hóa Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi là một nền văn hóa Đại Việt được cấu

trúc theo mô hình Phật giáo; sau Nguyễn Trãi là một nền văn hóa Đại Việt được cấu trúc

theo mô hình Nho giáo. Đứng ở vị trí giao thoa này, Nguyễn Trãi có được một quan niệm

thông thoáng và không câu nệ trong quan hệ với các triều đại. Vì thế, là con cháu của nhà

Trần, Nguyễn Trãi vẫn quyết định ra làm quan dưới tân triều Hồ với mong muốn góp phần

vào việc chấn quốc an dân. Song, hình như vận nước chưa trao về tay người quân tử, chính

những xâu xé lẫn nhau giữa con cháu dòng dõi tôn thất nhà Trần và cha con Hồ Quý Ly còn

chưa giải quyết xong thì ngoài bờ cõi giặc Minh đã lăm le xâm chiếm nước ta. Dân tộc đứng

trước nguy cơ mất nước về tay đế chế Đại Minh (Trung Quốc) hung ác. Vận nước càng trở

nên nghiêng ngả đảo điên.

Tháng 2 – 1406, nhà Minh huy động 80 vạn quân chính thức xâm lược nước ta. Lực

lượng kháng chiến của triều đình và quân đội nhà Hồ khi đó vì quá non yếu so với quân địch

đã nhanh chóng bị tan rã. Tháng 6 – 1407 giặc Minh chiếm đóng toàn bộ nước ta, đổi tên

thành Thăng Long thành Đông Quan và biến mảnh đất ngàn năm văn vật này trở thành trung

tâm sào huyệt của chúng. Cha con Hồ Quý Ly cùng hầu hết tướng lĩnh, quan lại của triều Hồ

trị dưới triều Hồ mới thành lập đã gặp phải rối ren vì không được lòng dân ủng hộ. Trong khi

đều rơi vào tay giặc, bị giặc bắt làm tù binh và giải về Kim Lăng – Trung Quốc. Trong số đó,

có thân phụ Nguyễn Trãi – nhà yêu nước Nguyễn Phi Khanh – lúc bấy giờ giữ chức Tư

nghiệp quốc tử giám của triều Hồ. Cũng từ đây, Nguyễn Trãi bị cuốn vào một thời kì đầy

bão táp của bạo lực bành trướng và đô hộ Trung Hoa, đồng thời cũng chứng kiến sức mạnh

của quần chúng và của toàn thể dân tộc được tổ chức, vùng dậy đấu tranh chống lại thế lực

nói trên để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Suốt hai mươi năm giặc Minh đô hộ nước ta

với những chính sách cai trị vô cùng dã man, trong đó có chính sách đồng hóa người Việt

thành người Minh, Nguyễn Trãi đã đứng vào trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa xu hướng

Trung Hoa hóa với xu hướng giải Trung Hoa hóa diễn ra trong nội bộ các thế lực cầm quyền

và giới trí thức.

Nguyễn Trãi đã dấn thân hết mình vào cuộc đấu tranh chính trị, văn hóa, xã hội này

của dân tộc. Và mười năm nếm mật nằm gai cùng Lê Lợi nơi núi Lam Sơn, mười năm được

hòa mình vào cuộc chiến đấu đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc có lẽ là khoảng thời gian

đầy đam mê và vẻ vang nhất trong cuộc đời Ức Trai.

Năm 1427, quân viễn chinh phương Bắc hoàn toàn đại bại và buộc phải rút về nước

trước tình hòa hiếu đầy cao thượng của quân và dân ta. Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết Đại cáo

bình Ngô, bá cáo cho thiên hạ về thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp chống giặc Minh cứu

nước, đồng thời khẳng định nền hòa bình vững bền của dân tộc. Rồi ông hăm hở bắt tay vào

xây dựng lại đất nước với một niềm lạc quan tin tưởng vô cùng. Thế nhưng, dư ba của chiến

thắng không tồn tại được lâu, triều đình bắt đầu xuất hiện những bất ổn, xu hướng chuyên

chế “kiểu châu Á” đã hình thành trong bộ máy chính quyền khiến cho Nguyễn Trãi – đường

đường là một khai quốc công thần cũng có lúc trở thành nạn nhân của chế độ. Đó là những

quan về ở ẩn tại Côn Sơn. Và có lẽ đây cũng chính là những mầm mống âm ỉ đầu tiên chuẩn

bị cho một vụ án oan thảm khốc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam – vụ án Lệ Chi

Viên, cắt ngang cuộc đời của một nhân vật toàn tài hiếm có của dân tộc – Nguyễn Trãi.

Có thể nói, Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời vô cùng phong phú, gắn bó máu thịt

với thời đại của mình, chứng kiến tất cả những sự kiện vui buồn của lịch sử. Song điều làm

chúng ta hết sức khâm phục là ông đã thẩm thấu hết những tinh hoa của thời đại, tạo nên một

bản lĩnh sống cứng cỏi để vượt lên tất cả những biến động, những đảo điên, đen bạc của cuộc

đời.

năm tháng ông phải sống trong bi kịch xuất xử và nỗi khổ tâm vô hạn ngay cả khi đã cáo

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), sống gần trọn thế kỉ XVI đầy biến động, ngay từ

thuở ấu thơ đã được hít thở không khí thái bình thịnh trị của triều Hậu Lê dưới đời vua Lê

Thánh Tông. Song, hạnh phúc đó không tồn tại được lâu, Khi vua Lê Túc Tông qua đời chỉ

sau sáu tháng ở ngôi cũng là lúc thời kì hoàng kim của nhà Lê chấm dứt. Bắt đầu có ý thức,

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phải chứng kiến quá trình giãy chết của nhà Lê với những tên “vua

quỷ” (Lê Uy Mục), “vua lợn” (Lê Tương Dực) nổi tiếng bạo ngược, hoang dâm vô độ và ăn

chơi xa xỉ, khiến chính sự vô cùng rối ren, giặc giã nổi lên chia bè kết phái khắp nơi, cảnh

huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt diễn ra khốc liệt hơn bao giờ hết, để rồi cuối cùng cũng

bị nhà Mạc cướp ngôi vào năm 1527.

Triều đình nhà Mạc, mở đầu với đời vua Mạc Đăng Dung vốn xuất thân từ nghề đánh

cá, hơn nữa lại mang tiếng tiếm ngôi, vì thế ngay từ đầu đã không nhận được sự ủng hộ của

nhiều người, đặc biệt là các thần tử trung tín với nhà Lê. Cho đến nay, đánh giá về vị trí, vai

trò của Nhà Mạc đối với lịch sử vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến nghịch chiều, và điều này đã

ảnh hưởng phần nào đến cách nhìn nhận của các nhà nghiên cứu về thái độ của Nguyễn Bỉnh

Khiêm khi ông quyết định ra làm quan dưới triều nhà Mạc.

Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu tiến bộ, thì cần phải có thái độ khách quan hơn

khi đánh giá nhà Mạc cũng như mối quan hệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm với triều đại này. Bởi

trên thực tế, so với triều Lê đổ nát của một loạt các ông vua tối tăm, tàn bạo, đắm say sắc dục

đầu thế kỉ XVI thì rõ ràng triều Mạc là một vương triều mới có nhiều tiến bộ hơn, nhất là

giai đoạn đầu.

Nhưng rồi trước yêu cầu của lịch sử, triều Mạc cũng bộc lộ những bất lực, hạn chế.

Triều Mạc thay thế triều Lê nhưng không giữ vững được chính quyền trung ương và quốc

xây dựng lực lượng và thành lập chính quyền riêng ở Thanh Hóa. Đất nước từ đó lâm vào

thảm họa phân liệt và nội chiến dai dẳng, triền miên đẩy nhân dân vào cảnh núi xương sông

máu mà kết cục là sự thất bại của chính nhà Mạc. Vì vậy, sau 8 năm phò tá triều Mạc,

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ đàn hặc và xin chém 18 tên lộng thần. Nhưng vua Mạc

không nghe nên ông bỏ quan về sống ở quê nhà.

Cùng với bối cảnh lịch sử trong nước nói trên, thế kỉ XV – XVI còn được coi là một

giai đoạn chuyển biến có ý nghĩa bản lề trong mối quan hệ phương Đông và phương Tây, có

ảnh hưởng đến vận mạng của các dân tộc phương Đông.

gia thống nhất, để cho từ năm 1533, các thế lực phong kiến thù địch dưới danh nghĩa phù Lê,

Ở phương Tây, mầm mống của chủ nghĩa tư bản đã manh nha ở một số nước phát

triển từ thế kỉ XIV – XV. Từ đầu thế kỉ XVI chủ nghĩa tư bản đã ra đời ở những nước tiên

tiến của Tây Âu và trong các thế kỉ tiếp theo xuất hiện lần lượt ở các nước khác, đã đưa

phương Tây từ thời đại phong kiến tiến lên thời đại phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong

khi đó thì hầu hết các nước phương Đông trong đó có Đại Việt vẫn đang duy trì chế độ

phong kiến với kết cấu kinh tế - xã hội, thiết chế chính trị và hệ tư tưởng Nho giáo. Thực tế

này đã đẩy các nước phương Đông rơi vào tình trạng trì trệ và bất cập với xu thế của thời

đại, đồng thời cũng tự biến mình thành đối tượng cho sự bành trướng và xâm lược của chủ

nghĩa tư bản phương Tây.

Từ thế kỉ XVI Đại Việt cũng đã bắt đầu tiếp xúc với thuyền buôn của Bồ Đào Nha rồi

Hà Lan dẫn đến sự hình thành kinh tế hàng hóa và quan hệ tiền tệ. Đây là quy luật tất yếu

của sự phát triển và dĩ nhiên, mặt trái của nó sẽ là phá vỡ thành trì cương thường đạo lý của

hệ tư tưởng Nho giáo đã phần nào bộc lộ sự lỗi thời. Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc bấy giờ chưa

thể có được thông tin để hiểu biết những chuyển biến của thế giới, nhất là phương Tây. Nhận

thức của ông vẫn chưa thể thoát ra khỏi hệ tư tưởng phong kiến mà chủ yếu là tư tưởng Nho

giáo, nhưng hệ tư tưởng này thì đã không còn giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như các trí

thức đương thời giải đáp và giải quyết những vấn đề của đất nước và thời đại. Trong khi đó

một hệ tư tưởng mới thì lại chưa xuất hiện. Tình cảnh này lý giải vì sao Nguyễn Bỉnh Khiêm

lại chua xót và lên án gay gắt tất cả những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến, cảnh đảo

điên của nhân tình thế thái, sự sụp đổ của cương thường đạo lý…và ra sức ngăn chặn nó để

mong lập lại trật tự phong kiến mà chưa phân biệt được trong đó đâu là những sản phẩm xấu

xa của chế độ phong kiến, đâu là hệ quả không tránh khỏi của kinh tế hàng hóa và quan hệ

tiền đề đưa đất nước tiến lên.

Bối cảnh lịch sử của thời đại cả trong và ngoài phạm vi dân tộc nói trên đã tác động

trực tiếp đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, nó chi phối đến quyết định xuất xử và thái độ của ông đối

với nhà Mạc cũng những trăn trở của ông trước cuộc đời.

Nguyễn Du (1765 – 1820) sinh trưởng trong một gia đình quý tộc lâu đời, cha và anh

đều từng giữ chức tể tướng của triều đình, anh em họ hàng có nhiều người đỗ đạt và làm

quan to, nhưng chưa hẳn đó là điều may mắn vì thời đại của ông đã bước vào buổi hoàng hôn

của chế độ phong kiến Việt Nam. Đây có thể nói là một thời kỳ giằng co quyết liệt giữa

nhiều xu thế chính trị khác nhau. Trong đời sống tư tưởng của xã hội từng mảng nhỏ của hệ

tiền tệ mà chính sự phát triển của nó lúc bấy giờ lại tiêu biểu cho sự tiến bộ của xã hội và là

thống giáo lí phong kiến như bị bung ra, bị lật xáo đến tận gốc, tạo nên không ít những cuộc

khủng hoảng tinh thần.

Vừa mới lớn lên Nguyễn Du đã phải chứng kiến cái hồi kết đầy chua xót và nhục nhã

của tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh, mà màn bi hài nhất có lẽ là cảnh kiêu binh nổi loạn,

trong đó chính bản thân gia đình ông cũng là người trong cuộc. Cùng với tình cảnh “tan đàn

xẻ nghé” của tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh, thế kỉ XVIII còn là thế kỉ đánh dấu sự thắng

lợi của phong trào khởi nghĩa nông dân, trong đó nổi bật nhất là chiến công lẫy lừng của

Nguyễn Huệ phá tan hai mươi vạn quân Thanh dẫn đến sự thay đổi sơn hà. Và rồi cũng

chính giữa lúc nhà thơ chưa kịp làm quen với sự có mặt của những con người “cờ đào áo

vải” trong cương vị chủ nhân của đất nước, thì ông lại sửng sốt nhìn thấy tấn bi kịch đổ vỡ

của triều đại Tây Sơn mà thấp thoáng phía sau là cái mưu đồ “phục quốc” của Gia Long –

Nguyễn Ánh.

Có thể nói, những cơn bão táp chính trị mà gió luôn đổi chiều trong lịch sử Việt Nam

cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX đã thổi dồn dập vào Nguyễn Du, làm cho ông như

sống trong một trạng thái choáng váng về tư tưởng, và không phải đã dễ dàng tìm ngay được

một lẽ sống, một chỗ đứng nào vững vàng ổn định.

Đồng thời, tình hình chính trị bất ổn như trên đã đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn

cùng, trăm họ không chỉ đói cơm, rách áo mà còn bị chà đạp về tinh thần. Chế độ phong kiến

liên tục thay ngôi đổi chủ, khiến cho giai cấp thống trị ra sức củng cố quyền lực bằng đủ mọi

thủ đoạn phi nhân văn khi ngai vàng thuộc về tay mình dẫn đến những người tài đều không

có đất dung thân.

Song con người của thế kỉ XVIII – XIX, đặc biệt là giới trí thức đã không còn là

tiếp xúc ngày càng mở rộng với văn hóa phương Tây một mặt làm nứt vỡ đạo đức thánh

hiền, khiến cuộc sống xã hội bị đảo lộn, nhưng mặt khác cũng tạo ra một sự khởi động về

mặt ý thức. Đã đến lúc người ta nhìn đời, nhìn người, nhìn lại số phận mình không còn như

cũ. Họ biết thẩm định lại những giá trị vật chất và tinh thần, rằng giá trị nào đem lại hạnh

phúc cho con người, những gì gây đau khổ chết chóc. Điều đáng nói là họ nhận ra nhưng lại

chưa thể tìm được một con đường nào để giải thoát cho bản thân và cộng đồng, sự bế tắc đó

chính là bi kịch của Nguyễn Du nói riêng và giới trí thức thời đại ông nói chung. Và thực

trạng này giúp chúng ta giải thích được những mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Du,

những con người chỉ biết cúi đầu một cách đầy cam chịu trước sự áp bức của chế độ nữa. Sự

đồng thời hiểu được vì sao trong thơ Tố Như lại đau đời, thương người và day dứt trước thân

phận con người đến thế.

4.2. Vị trí, vai trò của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du trong tiến trình

văn học trung đại

Văn học trung đại Việt Nam được thống nhất là kéo dài từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.

Trong suốt mười thế kỉ đó, văn học cũng có lịch sử phát triển của nó, và chịu ảnh hưởng sâu

sắc của lịch sử dân tộc. Lẽ dĩ nhiên, trong tiến trình đi lên của một thời kì văn học dài đằng

đẳng như thế không thể nào đồng nhất diện mạo của nó bằng một cái nhìn phi biện chứng. Vì

thế, căn cứ vào những bước ngoặt mà ở đó văn học thể hiện rõ nét nhất sự chuyển biến sâu

sắc cả về nội dung lẫn phương thức biểu đạt, đương nhiên là có sự đối sánh với lịch sử đất

nước, các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân chia thời kì văn học này ra nhiều giai đoạn nhỏ

để tiện bề khám phá và thẩm định nó.

Tuy nhiên, về việc phân kì văn học trung đại, xưa nay vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác

nhau. Trong số đó, để phù hợp với đề tài nghiên cứu chúng tôi chọn cách phân chia theo

cuốn “Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại” của tác giả Đoàn Thị Thu

Vân – chia văn học trung đại ra làm ba giai đoạn:

1. Sơ kì trung đại: Từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XV

2. Trung kì trung đại: Từ giữa thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVIII

3. Mạt kì trung đại: Từ giữa thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX

Với cách phân chia này, Nguyễn Trãi trở thành cây đại thụ của giai đoạn văn học Việt

Nam sơ kì trung đại. Là hiện thân của những gì tinh túy nhất của thời đại và dân tộc, ở ông,

bên cạnh một nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng tiến bộ, nhà chính trị tài ba, nhà quân sự lỗi lạc

quốc thêm vẻ vang, rạng rỡ.

Về văn học, ông là người mở đầu, nhưng ngay khi mở đầu đã là một đỉnh cao của nền

thơ Nôm Việt Nam đương thời, mở ra nhiều phương hướng mới mẻ, don đường cho văn học

tiếng Việt phát triển mạnh mẽ ở những thế kỉ tiếp theo. Tác phẩm của ông là bản anh hùng ca

đẹp nhất về tình thần yêu nước thương dân, yêu thiên nhiên tạo vật; về tư tưởng nhân văn,

nhân đạo và đạo lý truyền thống; về nhân cách trong sáng vô ngần của chính bản thân ông và

của thời đại ông.

Có thể nói, Nguyễn Trãi là nhân vật toàn tài hiếm có, trong mọi phương diện ông đều

tỏa sáng như ngôi sao Khuê trên bầu trời. Tài năng và nhân cách Nguyễn Trãi là tài sản vô

còn là một nhà văn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc. Con người đó sinh ra là để tô điểm cho Tổ

giá không chỉ của dân tộc mà còn mang tầm nhân loại, chính vì thế mà ông trở nên vĩ đại, trở

thành danh nhân văn hóa thế giới.

Giai đoạn văn học Việt Nam trung kì trung đại nổi lên với cây đại thụ Nguyễn Bỉnh

Khiêm, ông là sản phẩm văn hóa điển hình của thế kỉ XVI – một thế kỉ nặng về chinh chiến

và nhiều biến động nên phải lựa chọn một phương thức ửng xử khả dĩ có thể đáp ứng được

nhu cầu đời sống tinh thần vốn muôn phần phức tạp. Là hiện thân của mỹ học phong kiến, ở

ông toát lên vẻ đẹp của một trí tuệ siêu việt và một nhân cách cao khiết tuyệt vời. Trong con

người ông có sự kết tinh giữa vốn kiến thức cao siêu của một nhà nho uyên thâm và cái nhìn

nhân ái, giản phác của một minh triết dân gian.

Tất cả những điều trên đã in dấu vào trong tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đưa

ông đứng vào vị trí của một cây đại thụ văn hóa lẫn văn học tỏa bóng xuống cả thế kỉ. Là

người dành nhiều thời gian trong cuộc đời để làm thơ tiếng Việt, thế nên, thơ quốc âm từ

cuối Trần rồi Lê sơ phải qua Nguyễn Bỉnh Khiêm như một nhịp cầu vững chắc, mới đến

được Nguyễn Du, đỉnh cao chói lọi của thơ tiếng Việt.

Vì vậy, “Trên nhiều phương diện, không ai nói được như ông, càng không thể thay thế

được tiếng nói kiểu như ông, vì thế mà ông trở thành vĩ đại, tỏa sáng, thành danh nhân văn

hóa lớn của dân tộc” [6, tr230].

Trên thực tế, trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử văn học, những giá trị đẹp đẽ

nhất bao giờ cũng kết tinh dưới ngòi bút của một tác giả hoặc một nhóm tác giả nào đó đảm

nhiệm vai trò là đỉnh cao của giai đoạn. Với giai đoạn văn học Việt Nam mạt kì trung đại,

người xứng đáng đứng vào vị trí này chính là đại thi hào Nguyễn Du – tác gia đã mang lại

cho văn học trung đại nói riêng, văn học dân tộc nói chung cái quyền được nhìn ra văn học

một danh nhân văn hóa thể giới, cái phần thưởng cao quí mà vô cùng hiếm hoi trong lịch sử

nước nhà. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, chất chứa nhiều giá trị sâu sắc, Nguyễn Du thật sự

là con người khổng lồ của văn học trung đại Việt Nam.

Có thể nói, những tinh hoa của văn học trung đại bao gồm cả nội dung tư tưởng lẫn

hình thức nghệ thuật khởi phát từ Nguyễn Trãi, đi qua bệ phóng Nguyễn Bỉnh Khiêm, đều đã

được phát triển đến đỉnh cao rực rỡ trong sáng tác của Nguyễn Du.

Khám phá khía cạnh “con người nhân văn” trong tiến trình văn học trung đại, người

viết chọn ba tác giả, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du làm đối tượng khai

thác. Không chỉ bởi đây là ba đỉnh cao văn học hội tụ đầy đủ tinh hoa của thời đại, mà còn vì

thế giới mà không phải hổ thẹn, đồng thời cũng đem về cho xứ sở niềm tự hào vì có thêm

giữa ba chân dung vĩ đại ấy dường như có một mối tương liên nào đó. Đúng như liên tưởng

của Phong Lê: “Nói đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, không quên Nguyễn Trãi, người của hai thế kỉ

trước đó, người kết hợp trong mình vừa là anh hùng vừa là danh nhân. Nói đến Nguyễn Bỉnh

Khiêm, lại nhớ Nguyễn Du, người của hai thế kỉ sau, người sáng chói trên đàn văn ở tư cách

nhà thơ – người nghệ sĩ” [25, tr18]

CHƯƠNG II: CON NGƯỜI NHÂN VĂN ĐẸP TRONG Ý THỨC TRÁCH

NHIỆM CỦA NGƯỜI TRÍ THỨC

ĐỐI VỚI CUỘC ĐỜI.

1. Nguyễn Trãi với tấm lòng ưu ái “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”

Với Nguyễn Trãi, ý thức trách nhiệm về “Trí quân trạch dân” luôn nung nấu trong

lòng. Ý thức đó có lẽ đã được hun đúc từ thuở ấu thơ, được thấu truyền từ cha và ông ngoại.

Hẳn không ai quên được lịch sử dân tộc nửa sau thế kỉ XIV, khi nhà Trần rơi vào tình trạng

suy vi, nội loạn, ngoại xâm đều xảy ra, dân chúng đã lầm than như thế nào. Thơ Trần

Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh đều cất lên đầy thương cảm nhưng đành bất lực:

“Hạn rồi lại lụt mấy năm liền,

Lúa má đều hư, khổ khổ thêm.

Ba vạn sách kia vô dụng hết,

Bạc đầu đành phụ với dân đen.”

(Bài thơ làm tháng sáu năm Nhâm Dần –

Trần Nguyên Đán)

“Muôn dân rên xiết vì cơm áo,

Vàng ngọc nhà ai chất thành gò.”

(Họa vần Kiểm chính Hồng Châu –

Nguyễn Phi Khanh)

Thân phụ Nguyễn Trãi từng ao ước :

“Ví làm ống bể lo rèn được,

(Mùa xuân lạnh – Nguyễn Phi Khanh)

Truyền thống quý báu đó đã sớm chảy vào tâm não Ức Trai. Để rồi, trọn đời mình ông

luôn gánh nặng hai vai bởi lòng “ưu ái”:

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.”

(Thuật hứng, bài 5)

“Ưu” tức là ưu quốc, “ái” tức là ái dân – lo nước thương dân trở thành một bổn phận

hiển nhiên mà Nguyễn Trãi tự giao phó cho mình. Chính nỗi “tiên ưu” – lo trước cái lo của

Thổi ấm lòng người khắp chín châu.”

thiên hạ – mãi canh cánh bên lòng khiến ông bao đêm thức trắng để rồi những vần thơ không

ngủ lại có dịp ra đời:

“Bình sinh độc bão tiên ưu chí,

Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.”

(Suốt đời riêng ôm cái chí lo trước thiên hạ)

Ngồi ôm gối lạnh , suốt đêm không ngủ)

(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm )

Thao thức trở thành một ám ảnh trong thơ Nguyễn Trãi, vì thế Xuân Diệu đã có những

cẩm thông thật sâu sắc: “Các bạn ơi! Hơn năm thế kỉ rồi thơ Nguyễn Trãi không bao giờ

ngủ…trong thơ Việt Nam, vời vợi cái lo âu điển hình của Nguyễn Trãi….Tóc bạc trên đầu,

hòa lẫn với đêm khuya không ngủ, thơ Nguyễn Trãi thao thức một nỗi niềm gì….Người thi

sĩ trước năm trăm năm đốt tâm hồn cháy vòi vọi ở giữa đất trời….Khắc khoải như con cuốc

suốt đời, cho dẫu chết rồi, lòng ưu ái của ông vẫn cứ còn cháy ran trên trang thơ, trong lịch

sử”[39, tr708]

Đúng vậy, chưa bao giờ Nguyễn Trãi trằn trọc vì bản thân. Đọc thơ Ức Trai – ta cảm

nhận một sự quên mình đến cao cả, cái còn lại chỉ là lo cho nước cho dân:

“Còn có một lòng âu việc nước,

Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung.”

(Thuật hứng, bài 23)

“Bui có một niềm trung hiếu cũ,

Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh.”

Đọc những vần thơ trên người đọc không khỏi nhớ đến những câu thơ của Hồ Chí Minh,

người lãnh tụ “chỉ biết quên mình cho hết thảy” – cũng đã từng thức trắng bao đêm giữa núi

rừng Việt Bắc như thế:

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”

( Cảnh khuya )

Bác Hồ thật gần với Nguyễn Trãi, đó là sự gặp gỡ giữa những tâm hồn lớn hay chính truyền

thống dân tộc hơn 500 năm trước luôn như nước vẫn chảy về đông? Nhiều đêm không ngủ vì

(Báo kinh cảnh giới, bài 31)

một nỗi âu lo không bao giờ dứt, “biên xanh” dường như cũng nhanh chóng nhuốm “màu

sương khói”. Hình ảnh “mái đầu bạc” vì thế mà xuất hiện khá nhiều trong thơ Ức Trai, như

một hệ quả đi liền với niềm thao thức:

“Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái.”

(Tự thuật, bài 1 )

“Nhớ chúa lòng còn son một tấc,

Âu thì tóc đã bạc mười phân.”

(Bảo kính cảnh giới, bài 38)

Đường đường là một bậc khai quốc công thần, đã góp phần không nhỏ đưa đến quyết

định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, người một đời quên mình, luôn mang trên vai

gánh nặng lo nước thương dân; thế nhưng, lo bao nhiêu ông vẫn thấy chưa đủ, cống hiến bao

nhiêu vẫn thấy như mình có lỗi vì bất tài vô dụng, chưa đạt được kết quả gì đáng kể cho

nước cho dân:

“Quốc phú binh cường chăng có chước,

Bằng tôi nào thuở ích chưng dân.”

(Trần Tình, bài 1)

Đó thật sự là nỗi thẹn của một nhân cách lớn, của một người đã lấy trách nhiệm với

cuộc đời làm lẽ sống cho bản thân. Vì thế, gánh nặng mặc cảm vì chưa báo được ơn vua nợ

nước cứ đeo đẳng mãi và luôn thôi thúc ông hành động để đáp đền:

“Quân thân chưa báo lòng canh cánh,

Tình phụ cơm trời áo cha”

“Bui có một niềm chăng nỡ trễ,

Đạo làm con lẫn đạo làm tôi”

(Ngôn chí, bài 1)

“Âu còn nợ chúa cùng cha”

(Thuật hứng, bài 9)

“Bui một quân thân ơn cực nặng,

Tơ hào chưa báo hãy còn âu”

(Mạn thuật, bài 8)

(Ngôn chí, bài 7)

Nguyễn Trãi vốn dĩ không thích chốn “mận đào”, đặc biệt là khi hoàn cảnh ngày càng

trở nên bất như ý, thì giấc mơ về một mái nhà dựng bên bờ suối, dưới gốc mai để ngày ngày

uống trà, thưởng nguyệt, ngâm thơ lại hiện về day dứt. Nhưng rồi, vì nước vì dân ông không

nỡ chỉ tìm yên cho riêng mình. Ông luôn tự vấn rất nghiêm khắc với bản thân về vấn đề xuất

xử. Và bao giờ lợi ích của dân của nước cũng được đặt lên hàng đầu dẫu riêng mình có chịu

thiệt thòi. Thế cho nên, ngay cả khi lòng tự nhủ lòng:

“Non lạ nước thanh làm dấu,

Đất phàm cõi tục cách xa.”

(Thuật hứng, bài 9)

Và không phải đã có lúc ông cảm thấy đường công danh thật vô nghĩa, tự trách mình sao cú

nấn ná chưa chịu quay về:

“Cảnh thanh đường ấy chăng về nghỉ,

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.”

(Mạn thuật, bài 13)

Để rồi lại tự ông trả lời :

“Nợ quân thân chưa báo được,

Hài hoa còn bợn dặm thanh vân.”

(Ngôn chí, bài 11)

Quan niệm về cuộc đời của Nguyễn Trãi như thế là đã rõ, người có tài thì phải đưa cái

tài ra giúp nước giúp dân, nếu quay về để sống an bần lạc đạo thì lẽ sống của ông lại bị đánh

mất, bởi với ông tinh thần đại dụng chính là lẽ sống, ông chỉ muốn được cống hiến hết mình

cho đất nước và nhân dân. Bởi vậy, sau này khi quyết định lui về Côn Sơn ở ẩn do hoàn

có thanh thản hơn, song thật sự chưa bao giờ ông có được niềm vui trọn vẹn, tiếng gọi của

dân – nước vẫn vọng về nhức nhối khiến ông phải trăn trở day dứt. Thế nên, ngay cả khi

lòng dặn lòng hãy quên hết mọi việc, trở thành “người vô sự”, thì ý thức về ơn vua nợ nước

vẫn mãi trong huyết quản, thấm tận mỗi tế bào:

“Chữ học ngày xưa quên hết dạng,

Chẳng quên có một chữ cương thường”

(Tự thán, bài 12)

“Nhân gian mọi sự đều quên hết,

Một sự quân thân chẳng khứng nguôi”

cảnh, và ở đó được sống giữa thiên nhiên vạn vật theo đúng sở nguyện của mình, lòng ông

(Tự thán, bài 36)

Có thể nói tấm chân tình của Nguyễn Trãi với đất nước với muôn dân cứ mãi sắt son,

thắm tươi như máu, bền chặt với thời gian, dẫu thói tục có đảo điên, lòng người có thay đổi

thì “tấm lòng son” đó vẫn lấp lánh dưới ánh sáng của nhật nguyệt – “Dãi lòng son nhật

nguyệt thâu” (Trần tình, bài 4) – và mãi vẹn nguyên trong mỗi trang thơ:

“Nhất phiến đan tâm chân hống hỏa,

Thập niên thanh chức ngọc hồ băng”

(Mạn hứng, bài 2)

(Một tấm lòng son như ngọn lửa luyện đơn bằng thủy ngân,

Mười năm chức quan thanh đạm như băng giá đựng trong bình ngọc)

Thật không có hình ảnh nào đẹp hơn, xứng đáng hơn để diễn tả tấc lòng Nguyễn Trãi

bằng những hình ảnh trên, cái rừng rực của ngọn lửa luyện đơn bằng thủy ngân, sự sạch

trong của băng giá đựng trong bình ngọc, hai hình ảnh tuyệt vời dã xây nên bức tượng đài

pha lê cho tâm hồn của Ức Trai tiên sinh.

Tấm lòng son sắt đó, vẫn vững như thành đồng, viên mãn như trăng rằm dẫu cho sự

thế có đổi thay, lòng người có hao khuyết:

“Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”

(Thuật hứng, bài 23)

“Trung hiếu cương thường lòng đỏ”

(Bảo kính cảnh giới, bài 60)

Để rồi, khi hoàn cảnh đổi thay, lòng trung nghĩa trở thành tâm sự cô trung, vẫn cứ ứ

có tiếng kêu khắc khoải của con chim quốc nhớ nước đêm hè. Có cái tình son sắt, bền chặt

như đá của người vợ đợi chồng hóa núi vọng phu. Có nhịp đập thổn thức của trái tim cháy

bỏng tình yêu và nhiệt huyết của chàng Trương Chi dẫu chết đi rồi vẫn như khối ngọc tinh

kết không tan ra được.

Nỗi niềm ưu quốc ái dân trong tâm hồn Nguyễn Trãi đã hình thành nơi ông một tình

cảm đặc biệt với nhân dân. Với ông, thương dân không dừng lại ở tình thương của kẻ bề trên

chiếu xuống “dân đen”, “con đỏ” – mà vượt lên một bậc – thương dân là “thân dân”, “trọng

dân”, “dân” luôn là một vế không tách rời của quan hệ dân – nước.

tràn trong tim Nguyễn Trãi không bao giờ vơi cạn. Có phải vì thế mà trong thơ ông nghe như

Suốt tuổi ấu thơ, sống gần bà con, lớn lên, những năm chạy loạn lại được chở che bởi

lòng quần chúng; lại là người đã từng kinh qua cuộc chiến tranh dân tộc, hơn ai hết Nguyễn

Trãi hiểu được sức mạnh của nhân dân lớn lao đến chừng nào. Ông quan niệm:

“Phúc chu thủy tín dân do thủy.”

(Quan hải)

Nghĩa là : lật thuyền mới tin là dân có sức mạnh như nước. Quan niệm vua là thuyền – dân là

nước cũng được ông nhắc lại trong một bài chiếu răn các quan: “Mến người có nhân là dân

mà chở thuyền, lật thuyền cũng là dân”. Đó chính là nền tảng mà cũng là đích đến của tư

tưởng nhân nghĩa Nguyễn Trãi. Từ tư tưởng trọng dân, thân dân, hơn thế nữa còn tri ân dân,

nên ông tự xem việc lo cho dân được ấm no và hạnh phúc là bổn phận và trách nhiệm hiển

nhiên của mình, là một vị quan to của triều đình nhưng ông luôn tự nhủ:

“Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày.”

(Bảo kính cảnh giới, bài 19)

Lo lắng cho dân, tâm nguyện một đời của ông là nhìn thấy đất nước được thanh bình,

bốn phương, nhà nhà đều no đủ yên vui. “Khắp thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn

giận oán sầu”:

“Vua Nghiêu Thuấn dân Nghiêu Thuấn,

Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”

(Tự thán, bài 4)

Cũng xuất phát từ tình yêu thương vô bờ bến dành cho dân, từ khao khát cháy bỏng

được thấy dân vui sướng, mà ông luôn ước nguyện một điều duy nhất:

“Mọi sự đã chăng còn ước nữa,

(Tự thán, bài 36)

“Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa,

Cần một ngồi coi đời thái bình”

(Tự thán, bài 10)

Đó là khát vọng vô cùng đẹp đẽ của một người nghệ sĩ chân chính, không bao giờ mất

niềm tin vào con người và cuộc đời; luôn tin tưởng chờ mong một xã hội tốt đẹp có vua sáng

tôi hiền, lương dân được ấm no và hạnh phúc ở phía trước, lý tưởng đó là sự khúc xạ của một

tâm hồn giàu lòng nhân ái và thấm đẫm tính nhân văn. Và mong muốn thống thiết đó có khi

được đẩy đi thật xa, đến những ước mơ hết sức bay bổng và cũng vô cùng cảm động. Đó là

Nguyện xin một thuở thấy thăng bình”

khi ông ao ước có cây đàn đời Ngu Thuấn, để gảy lên khúc Nam phong cho nơi nơi đều giàu

đủ, ấm no:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

(Bảo kính cảnh giới, bài 43)

Hay khi ông nghĩ đến một thứ nước hoa lan có thể phân phát rộng rãi cho hết thảy muôn

dân, giúp con người gột sạch những khổ đau, phiền muộn trong lòng:

“Nguyện bả lan thang phân tứ hải,

Tùng kim tảo tuyết cựu ô dân.”

(Muốn đun nồi nước hoa lan

Gội cho khắp cả trần gian sạch làu)

(Đoan ngọ nhật)

Đó mãi là tâm nguyện trước sau như một của Nguyễn Trãi. Với ông, trong mọi suy

nghĩ, mọi tình huống, mọi lựa chọn, ông đều đặt lí tưởng cống hiến cho nước cho dân lên

hàng đầu. Thế nên, đã về lại Côn Sơn, bằng lòng với thú thanh nhàn, mà trái tim vẫn luôn

lắng nghe tiếng gọi của nhân dân để rồi khi được vị vua trẻ Lê Thái Tông vời ra giúp nước

lần nữa, ông lại hăm hở đáp lại tiếng gọi thiêng liêng đó, và ra đi nhẹ nhàng đến nỗi như

chưa hề có điều gì xảy ra. Chúng ta – những người đứng phía sau lịch sử – biết ông đang đi

đến đâu, càng quặn thắt lòng và thêm yêu kính, khâm phục Nguyễn Trãi bội phần.

Tấm lòng Nguyễn Trãi dành cho dân cho nước vẫn mãi son sắt, nỗi tiên ưu khiến đôi

mắt vẫn luôn mở to trong đêm dài. “Suốt đời không ngủ vì lo trước thiên hạ, tâm sự của

Nguyễn Trãi thể hiện qua từng lời thơ. Nỗi niềm thao thức vì nước vì dân vì cuộc đời con

già vẫn không mệt mỏi, tấm lòng ưu ái, đến chết vẫn thắm như son của Nguyễn Trãi mãi mãi

là sự khẳng định nhân phẩm, và thuộc về di sản quý báu của dân tộc” [24, tr253]

2. Nguyễn Bỉnh Khiêm với nỗi ưu tư về sự tha hoá của nhân cách con người.

Là người trí thức đầy trách nhiệm và tâm huyết trước vận mệnh của nước của dân,

cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn khắc khoải với niềm “ Tiên ưu hậu lạc” –

lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Vì hoàn cảnh chi phối, Nguyễn Bỉnh

Khiêm không có cơ hội nhập thế hay nói đúng hơn là ông không cho phép mình nhập thế

nhiều như Nguyễn Trãi, ông đã sống gần như trọn cuộc đời 94 năm (ngoài trừ 8 năm ra làm

người ấy sâu hơn năm trăm năm đến với chúng ta như một lời gởi gắm. Chí khí bền bỉ, đến

quan dưới triều nhà Mạc) nơi làng quê, trong thú thanh nhàn. Thế nhưng, Nguyễn Bỉnh

Khiêm vẫn không phải là một nhà nho, nhà thơ ẩn dật, lánh đời như một số người vẫn nghĩ.

Ngược lại, ông đã sống trọn cuộc đời dài đằng đẳng của mình trong ái ưu. Những vần thơ

chất chứa tâm sự của ông đã nói lên điều đó:

“Lão lai vị ngãi tiên ưu chí,

Đắc táng cùng thông khởi ngã ưu.”

(Tấm lòng lo trước thiên hạ đến già chưa thôi

Cùng thông đắc táng ta có lo chi cho riêng mình)

(Tự thuật, bài 2)

Dẫu lui về ở ẩn song tâm trí ông chưa một lần rời khỏi chuyện nước chuyện dân. Chọn

cuộc sống lánh xa chốn quan trường, cũng là để lánh xa vòng danh lợi, Nguyễn Bỉnh Khiêm

tự dặn lòng là phải quên đi tất cả, thế nhưng nỗi tiên ưu thì vẫn canh cánh bên mình. Một con

người trọn đời lo nước thương dân đến bạc tóc: “Ưu quốc hưu ngôn lưỡng mấn ti” (lo nước

đừng nói hai mái tóc đã bạc như tơ); một con người mà khao khát duy nhất là đất nước được

thái bình, muôn dân được ấm no hạnh phúc:

“Nếu có ai han thì sẽ bảo,

Thái bình thiên tử thái bình dân”

(Thơ nôm, bài 86)

Và nếu cách đó hơn một trăm năm, Nguyễn Trãi từng nói đến đời Nghiêu Thuấn như

một chân trời ước vọng và mục đích hành động của mình, thì nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng

khao khát được thấy đời Nghiêu Thuấn và coi đó như tâm nguyện một đời của ông:

“Hà nhật tái phùng Nghiêu Thuấn thế,

(Ngày nào lại gặp được đời Nghiêu Thuấn

Vua đời thái bình dân đời thái bình)

(Ất Sửu tân xuân hí tác)

Một người như thế sao có thể chỉ chọn niềm vui cho riêng mình? Thế nên, rất đồng cảm với

Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vũ Khâm Lân trong “Đại Việt sử loại” khi nhận định về thơ văn của

ông đã nhận xét: “Tuy ở nhà 44 năm mà lòng không ngày nào quên đời, ưu thời mẫn tục đều

lộ trong thơ”. Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” cũng có cảm nhận

tương tự: “Lòng Trạng không một lúc nào quên đời. Lo đời thương tục đều phát lộ ra thơ”.

Thái bình thiên tử thái bình dân”

Thật vậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra giữa thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc. Một nhà

nho đầy trách nhiệm và luôn nặng lòng với đạo, với đời như ông lại phải chứng kiến sự suy

đồi của chế độ, đương nhiên sẽ vô cùng khổ tâm. Song không vì thực tế đó mà nhiệt thành trị

quốc an dân nơi ông nguội lạnh; ngược lại, dẫu mai danh ẩn tích cho đến 44 tuổi mới ra ứng

thí, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn luôn theo dõi sát sao từng bước đi của dân tộc. Đúng thời điểm,

ông vùng dậy bước vào cuộc đời với mong muốn có thể góp hết tài năng và trí lực của mình

để chấn chỉnh lại trật tự xã hội, củng cố lại cương thường đạo lí nhằm đạt đến mục đích cuối

cùng là mang đến ấm no hạnh phúc cho dân. Thế nhưng, dường như trời chưa chiều lòng

người, khoảnh khắc yên bình mà ông chọn không tồn tại được lâu, triều đình nhà Mạc sau

cái chết của vua Mạc Đăng Doanh nhanh chóng rơi vào khủng hoảng vì không đáp ứng được

yêu cầu của lịch sử. Giữa thời buổi đảo điên, vận nước nghiêng ngả ông vẫn mong muốn có

thể làm một cái gì đó để “phò nghiêng đỡ lệch”. Rất nhiều lần trong thơ ta thấy có khi ông

ước mình có thể làm một con ngao lớn để chống đỡ đất nước trong buổi ngả nghiêng, lại có

khi ông ước làm một cây đa già, dẫu không thể làm rường cột cho triều đình nhưng chí ít

cũng có thể toả bóng mát che chở cho muôn dân:

“Vạn lí Đông minh quy bả ác,

Ức niên Nam cực điện long bình”

(Vạn dặm biển đông quy vào tay nắm

Ức năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình)

(Cự ngao đới sơn)

“Sơ phát đống lương phù đại hạ,

Hảo tương ấm tí cập tư dân”

Hãy đem bóng mát che chở cho dân này)

(Trung Tân quán nhị lão dung thụ)

Tình yêu nước thương dân được bộc lộ thật thấm thía trong khát vọng được làm người

có ích cho thời cuộc. Nhưng hình như khi ước vọng lên đến đỉnh cao cũng là lúc ông đau

đớn nhận ra mình bất lực trước lịch sử:

“Trí trạch vị thu ngô túc chí

Khu khu hâm quý lão phi tài”

(Giúp nước lo dân chưa thoả lòng ta hồi trước

Băn khoăn rất thẹn già không có tài)

(Vốn không có tài rường cột chống đỡ ngôi nhà lớn

(Trung Tân quán ngụ hứng)

Lại một lần nữa, trong thơ, chúng ta bắt gặp vẻ đẹp của nhà nho, không phải trong tư

thế khẳng định tài năng uyên bác mà là trong cái cúi đầu nhận lỗi vì chưa làm tròn bổn phận

với nước với dân. Có thể nói, cái thẹn cũng là một đức tính cao đẹp làm nên nhân cách tuyệt

vời của giới trí thức phong kiến trong đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Vậy là giấc mơ làm một điểm tựa vững chắc cho vận nước trong buổi ngã nghiêng

không thành, ông lại càng đau buồn hơn khi nhận ra cùng với sự suy thoái của chế độ là sự

băng hoại đạo đức gia phong. Đồng tiền ngày càng vươn lên vị trí thống lĩnh, nó len lỏi vào

trong các mối quan hệ xã hội, thậm chí có mặt trong cả những mối quan hệ gia đình, làm cho

tất cả trở nên méo mó, xô lệch. Đó là thực tế mà một nhà nho cao khiết và trọng đạo lí như

Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể nào chấp nhận được. Gánh âu lo của ông vốn đã nặng, vì thế,

lại càng trĩu nặng thêm lên. Thế nên, dễ hiểu vì sao trong muôn vàn nỗi niềm việc nước, nỗi

đau đớn trước nhân tình thế thái lại nổi cộm lên hàng đầu.

Trong thơ Tuyết Giang phu tử bộc lộ một sự phản ứng gay gắt trước sức mạnh của

đồng tiền. Chưa bao giờ đồng tiền lại có một sức hút đầy ma lực đến thế. Nó khiến người ta

sẵn sàng bán rẻ cả danh dự lẫn nhân cách để chạy theo. Trước tình cảnh đó hẳn Nguyễn Bỉnh

Khiêm phải đau lòng lắm nên mới cất lên những vần thơ đầy mỉa mai, chua xót đến thế :

“Ang thịt mỡ bùi ruồi đến đỗ,

Bát bồ hòn đắng kiến đâu bò”

(Thơ nôm, bài 43)

“Thớt có tanh tao ruồi dạm miệng,

Ang không mật mỡ kiến đem thân”

“Nhị kết hoa thơm ong đến đỗ,

Mỡ bùi mật ngọt kiến nào đi”

(Thơ nôm, bài 82)

Đồng tiền trở thành thước đo của mọi mối quan hệ và là cha đẻ của tất cả những thói

hư tật xấu trong xã hội ; thói xu nịnh, uốn gối khom lưng, thói cầu lợi cầu danh trở nên phổ

biến... Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề che dấu những điều này :

“Thế gian biến cải vũng nên doi,

Mặn lạt chua cay lẫn ngọt bùi.

Còn bạc còn tiền còn đệ tử,

(Thơ nôm, bài 65)

Hết cơm hết rượu hết ông tôi.

Xưa nay đều trọng người chân thật,

Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.

Ở thế mới hay người bạc ác,

Giàu thì tìm đến khó tìm lui”

(Thơ Nôm, bài 64)

Mãi miết chạy theo đồng tiền, ngụp lặn trong thói hư vinh con người trở thành nô lệ

của nó lúc nào không hay biết, đánh mất chính mình, trở nên xấu xa bỉ ổi, tráo trở đến mức

“bất cố liêm sỉ ’’, họ coi của nặng hơn người, coi tiền nặng hơn nghĩa khiến cho đời sống xã

hội nghèo nàn đến mức chỉ còn lại mỗi tiền, nhân nghĩa trở thành một bảo vật xa xỉ khó

kiếm:

“Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,

Có của thì hơn hết mọi lời.

Trước đến tay không nào thốt hỏi,

Sau vào gánh nặng lại vui cười.

Anh anh chú chú mừng hơ hải,

Rượu rượu chè chè thết tả tơi.

Người của lấy cân ta thử nhắc,

Mới hay rằng của nặng hơn người”

(Thơ nôm, bài 74)

Như vậy là trong mắt Nguyễn Bỉnh Khiêm xã hội và những rường mối của đạo đức

đang bị vỡ nát ra trước sức công phá ghê gớm của quả bom đồng tiền. Hẳn nhiên một nhà

nó. Ông từng tỏ thái độ khinh bỉ đối với mùi hôi tanh của hơi đồng, với ông đồng tiền cũng

trở thành một tội ác:

“Đồng xú nhật lưu tinh”

(Hơi đồng ngày càng lan mùi tanh)

(Cảm hứng)

“Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bướm,

Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”

(Thơ nôm, bài 6)

nho nêu cao lối sống thanh đạm, coi “nghĩa” là bản cốt đạo đức sẽ dị ứng rất mãnh liệt trước

Sự chi phối của đồng tiền là nguyên nhân khiến cho mọi cương thường đạo lí đều bị

lũng đoạn, đất nước trì trệ, thói đời đổi thay. Trước thực trạng này lương tâm của một kẻ sĩ

chân chính không khỏi xót xa:

“Cương thường ngày một suy sụp lỏng lẽo

Lễ nghĩa than ôi ngang trái

Mũ lọng theo đó đảo ngược

Thờ vua tôi chẳng ra tôi

Thờ cha con chẳng ra con

Bắn vào bả vai là việc nỡ làm

Chia một chén canh nói chẳng hổ thẹn”

(Cảm hứng 300 câu)

Có thể nói, thơ cảm thán về thời cuộc, về nhân tình thế thái không phải đến Nguyễn

Bỉnh Khiêm mới có. Tuy chưa nhiều và chưa nặng nề nhưng ta vẫn thấy trong thơ Nguyễn

Trãi những câu nhận xét kiểu như: “Bui một lòng người cực hiểm thay”. Thế nhưng, phải

đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, một phần cũng do hoàn cảnh xã hội chi phối, những thói hư tật xấu

mới được phơi bày một cách không cần che đậy. Dẫu không để lộ thái độ, tâm trạng trực tiếp

như Nguyễn Trãi, song sự thẳng thắn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng cho thấy nhiệt thành với

đất nước cũng như nhân cách trong sạch tuyệt vời của ông.

Đương nhiên, thói đời đen bạc, lối sống thực dụng xu nịnh, cầu lợi cầu vinh đến vô sỉ

như trên xuất hiện chủ yếu trong giai tầng của quan lại phong kiến lúc bấy giờ và hạn chế

của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là chưa khoanh vùng được giới hạn nơi mà điều xấu thường

lưu hành. Điều này cũng dễ hiểu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đồng nhất vận mệnh của Tổ quốc

giai cấp phong kiến như là những thói xấu của xã hội nói chung.

Với một triều đình như thế, đã không còn chỗ đứng cho một người trong sạch như ông

nữa. Vậy là, không có điều kiện để lập công, ông lui về vườn để lập ngôn và lập đức.

Không thể “phò nghiêng đỡ lệch”, Nguyễn Bỉnh Khiêm ra sức chống lại cái xấu, cái

ác, quyết tìm mọi cách để phục hồi đạo lí, đưa con người về lại với chân tâm nguyên thuỷ, từ

bỏ những ham muốn xấu xa hèn mọn. Lý tưởng này thật cao quý biết bao.

Ông muốn vực lại đạo đức đang suy đốn và hy vọng rằng qua đó, có thể chấn chỉnh lại

kỉ cương, xây dựng lại chế độ. Bắt đầu bằng việc lập Am Bạch Vân, mở trường dạy học bên

bờ sông Hàn. Cũng trên bờ sông ấy, ông cho xây dựng “Trung Tân quán” mà mục đích của

với vận mệnh của nhà nước phong kiến thì ông cũng dễ đi đến chỗ coi những thói xấu của

việc làm này đã được ông đặt trọn trong cái tên “Trung Tân”. Ông giải thích:“Ta đề ở trên là:

quán Trung Tân. Có người hỏi tên quán như thế nghĩa là gì? Ta bảo rằng: Trung nghĩa là ở

chính giữa, không chênh lệch. Giữ trọn được tính thiện là trung, không giữ được tính thiện

thì không phải là trung vậy. Tân có nghĩa là cái bến. Biết chỗ đáng đậu là đúng bến, không

biết chỗ đáng đậu là lầm bến. Nghĩa của cái tên quán là như thế. Như trung với vua, hiếu với

cha mẹ, thuận giữa anh em, hoà giữa vợ chồng, tín giữa bạn bè thì là trung vậy. Thấy của phi

nghĩa mà không tham, thấy lợi mà không tranh, vui điều nghĩa mà rộng lượng với con người,

đem lòng thành mà đối đãi với vật, đó là trung vậy. Trung ở chỗ nào thì chí thiện ở chổ ấy.

Nếu quả có thể lấy trung làm chuẩn đích mà biết nên theo về đâu, thì mọi sự mọi vật ra tay

mà làm, có gì là không tận thiện, cái điều thiện của công đức hà lại có thể lường được

ru!”[46, tr624]

Và cũng ở quán đó, những vần thơ răn đời dạy đạo ra đời. Ông hết lời khuyên can con

người hãy giữ lấy đạo cương thường, giữ lấy những luân thường đạo lí với mong muốn đánh

thức lương tri và nhân tâm của mọi người. Ông giải thích nguyên nhân của sự sa sút đạo đức,

sự băng hoại gia phong mỹ tục là do đạo cương thường bị lỏng lẻo, bị xem nhẹ. Vì thế ông

tha thiết kêu gọi:

“Giữ mối giường, hãy giữ mối giường,

Làm người hãy giữ đạo thường thường.

Khế kia chua quá sau nên ủng,

Lan nọ thơm dai mới có hương.”

( Thơ nôm, bài 76 )

Nhưng không dừng lại một cách chung chung, ông cụ thể hoá bài học về đạo cương

đạo trong tất cả các mối quan hệ. Đó là tôi phải trung với vua, con cái phải thờ kính cha mẹ,

anh em phải hoà thuận không được tranh giành, bạn bè phải đối xử với nhau bằng lòng trung

thực, vợ chồng phải lấy nghĩa làm trọng, họ hàng làng xóm phải đùm bọc lẫn nhau... Đó

chính là giữ nếp nhà phép nước. Trong bài cương thường tổng quát ông viết :

“Trời phú tính ở mình ta,

Đạo cả cương thường năm mấy ba.

Tôi hết ngay chầu chức chúa,

Con hằng thảo kính thờ cha.

Anh em mựa nỡ điều hơn thiệt,

thường bằng cách triển khai rất cụ thể hàng loạt tác phẩm để khuyên con người hành xử phải

Bầu bạn cho hay nết thực thà.

Nghĩa vợ chồng xem rất trọng,

Ở đầu phong hoá phép chưng nhà.”

Rồi ông làm thơ về giới tham để răn con người chớ tham lam vì nếu tham hơn thì phải

thiệt ; làm thơ giới sắc để răn con người đừng ham mê sắc mê vì trong trăm điều ác dâm là

đầu ; làm thơ giới dĩ phú lăng bần để khuyên người giàu đừng bắt ép kẻ khó vì giàu mà nhân

nghĩa, biết thương kẻ khó mới giàu được lâu ; làm thơ giới sùng Phật vô ích vì Phật ấy là ta,

sống cho có tâm có đức để đạt đến tâm phật chứ không nên điêu toa dối trá.

Trong cái xã hội mà đồng tiền vươn lên vị trí thống lĩnh, người người lăn xả vào nó

đến quên cả bản thân, họ mãi miết kiếm tìm vinh hoa phú quý đến giẫm đạp lên cả nhân

nghĩa đạo lí, ông đã viện đến mệnh trời mà khuyên nhủ họ:

“Chữ rằng phú quý giai do mệnh,

Gặp được bao nhiêu hay bấy nhiêu.”

(Thơ nôm, bài 98)

Để khuyên con người phải sống thật thà, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, đối xử với

nhau bằng tình người, không vì lợi ích của bản thân mà bất chấp cả thủ đoạn hại người khác,

ông viện đến cả thế giới tâm linh để dạy bảo:

“Chớ có hại người mà ích kỉ,

Giấu người khôn giấu được linh thần.”

(Thơ nôm, bài 82)

Là một bậc hiền triết, rất am hiểu về con người lại càng không cố chấp và cứng nhắc

trong cách nhìn nhận, đánh giá con người, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ nhìn thấy sự băng

được cả cái phần chưa hoàn thiện, cái phần khiếm khuyết có thể có trong con người. Qua

những vần thơ đạo lí của ông, ta nhận ra mặc dầu ông rất bất bình với phần xấu trong con

người, nhưng ông không hề tỏ ra căm ghét một cách gay gắt và lên án một cách nặng nề kiểu

thường nhân, mà luôn thể hiện là một bậc cao nhân, biết thông cảm với những thói xấu, từ đó

mới khuyên răn từng bước.

Vì vậy tiếp nhận những vần thơ chở nặng đạo lí của Tuyết Giang phu tử, người đọc có

cảm giác như đang được nghe lời chỉ dạy ân cần từ một người cha, người thầy của mình, nhẹ

nhàng, khoan hòa, hồn hậu nhưng không kém phần thâm thuý, sâu sắc. Đặt trong bối cảnh xã

hoại về đạo đức, sự sa sút trong các mối quan hệ giữa con người với con người mà còn thấy

hội lúc đó, những vần thơ giáo lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm giống như luồng gió mát lành làm

dịu bớt những ngọn lửa dục vọng đang bùng cháy trong lòng nhân thế.

Với quan niệm : “Tính người vốn thiện, chỉ vì bị khí chất buộc ràng, bị vật dục che

lấp, do đó tính thiện bản nhiên không được trọn vẹn như lúc trước, gian tà bỉ lậu, không một

cái gì là không làm ... ” Cho nên cấp thiết cần phải cảm hoá được cái xấu, đưa con người trở

về với bản thiện ban đầu thì xã hội mới được bình yên. Và ông kiên trì răn dạy, mà khi còn

răn dạy cũng chính là ông còn đặt rất nhiều niềm tin vào nhân cách của con người, và rất hy

vọng cái ác, cái xấu có thể cảm hoá được. Chính niềm tin thánh thiện đó cũng làm toát lên vẻ

đẹp rạng ngời trong tâm hồn của thi nhân.

Ông cho rằng đầu mối của mọi tranh chấp, của thói hư vinh, đạo đức bị suy thoái

chính là con người luôn muốn hơn thua, muốn chứng tỏ mình. Vì thế ông kêu gọi con người

sống biết nhẫn nhịn, đề cao chữ “hoà”, chủ trương lối ứng xử “dĩ hoà vi quý” để mọi chuyện

được êm ấm:

“Ai hỏi : làm gì vui nữa?

Thưa rằng một chữ làm lành”

(Thơ nôm, bài 15)

“Chửa dễ ai là bậc Thích Ca,

Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua”

(Thơ nôm, bài 31)

Ông khuyên con người sống vô sự, an phận bằng những bài học dựa trên triết lí nhân

sinh về lẽ hưng biến nhân quả:

“Nên chăng mặc thế người lành dữ,

Ở thế có khôn thì có khó,

Chữ rằng vô sự tiểu thần tiên”

(Thơ nôm, bài 64)

Tranh giành hơn thua, không ai chịu nhường ai sẽ dẫn đến rối ren mọi chuyện, trong

xã hội nếu ai cũng biết nhường nhịn thì sẽ tránh được mọi tai vạ, vì thế ông khuyên:

“Ở thế đừng tranh đấng trượng phu,

Làm chi cho có sự đôi co.

Đây cậy đây khôn đây chẳng chịu,

Tráo trở thây ai thói bạc đen.

Đấy rằng đấy phải đấy không thua.

Duật nọ mựa còn đua với bạn,

Lươn kia hầu dễ kém chi cò.

Chữ rằng nhân dĩ hoà vi quý,

Vô sự thì hơn kẻo phải lo”

(Thơ nôm, bài 72)

Cũng với mong muốn đó, ông đề xuất quan niệm sống “khôn” và “dại” và khuyên con

người đừng tranh khôn, hãy tự nhận cái dại dẫu có chấp nhận thiệt thòi về mình, để cầu lấy

sự yên ổn:

“Kẻ khó nhờ ơn có kẻ giàu,

Làm chi đua cãi mất lòng nhau.

Người hơn ta thiệt thì dầu vậy,

Đấy thẳng đây chùng chẳng đứt đâu.

Dại nọ chưa đo âu đã đắn,

Khôn kia thốt trước lại lo sau.

Thế gian hễ sự lành càng dữ,

Hễ thấy ai han hãy lắc đầu.”

(Thơ nôm, bài 59)

Và chính ông, đôi khi cũng tự lấy bản thân mình ra làm bài học để mong có thể ảnh

hưởng đến mọi người xung quanh. Ông luôn tự nhận mình là “dại”, là “vụng”:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn người đến chốn lao xao”

“vụng ” và “xảo”, bởi theo cách nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể nhận ra, “vụng” ở đây

không chỉ là vụng dại mà là một đức tốt (chuyết giả đức), vì đó chính là sự ngay thẳng thật

thà. Còn “xảo” là giặc (xảo giả tặc) vì đó là sự gian dối; điều này được ông giải thích rất rõ

trong thơ:

“Nhân xảo ngả độc chuyết,

Thuỳ tri chuyết thị đức.

Ngã chuyết nhân giai xảo,

Thuỳ tri xảo thị tặc”

(Người khéo riêng ta vụng

Đương nhiên cần phải hiểu một cách thông thoáng khái niệm “dại” và “khôn” hay

Ai hay vụng là đức

Ta vụng người đều khéo

Ai hay khéo là giặc)

(Trung Tân ngụ hứng)

Mặc dù việc đề xuất cách ứng xử an phận, “dĩ hòa vi quí ” như trên không phải khi

nào cũng có ý nghĩa tích cực, thế nhưng, đặt trong bối cảnh xã hội đầy biến động như thế kỉ

XVI, thì đây là cách lựa chọn tốt nhất khả dĩ có thể đáp ứng được nhu cầu đời sống tinh thần

vốn muôn phần phức tạp và giúp con người tránh được những tổn thất đau lòng. Hơn nữa,

những bài học đạo lý này cũng xuất phát từ những giá trị lâu đời của dân tộc, những giá trị

tuy bị giai cấp phong kiến đương thời vứt bỏ nhưng vẫn tiềm tàng trong đời sống nhân dân,

vì thế mà dễ đi vào lòng người. Ở điểm này Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự đã bước từ tháp ngà

nho giáo để trở thành một minh triết của dân gian.

Cũng với mong muốn xây dựng một xã hội ổn định, thái hòa, để nhân dân được sống

trong cảnh yên bình, no ấm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết tiếp truyền thống nhân nghĩa của

Nguyễn Trãi bằng việc đề cao tinh thần chí thiện và đạo trung dung. Với ông đó là điểm tựa

để cho đạo đức con người đứng vững, dẫn theo xã hội được thái bình, lương dân được yên

ấm:

“Quân tử cầu sở chỉ,

Chí thiện tư vi cực”

(Quân tử tìm chỗ đứng lại

Chí thiện ấy là chỗ cùng tột )

(Trung Tân ngụ hứng)

đúng bến, cứ lao theo danh vọng, quyền lực nên mới dẫn đến vấn nạn chiến tranh, đẩy nhân

dân vào thảm cảnh núi xương sông máu, đi ngược lại với truyền thống đạo lí xưa nay. Có thể

nói thảm họa chiến tranh đã tác động sâu sắc đến tình cảm của Tuyết Giang Phu tử. Là

chứng nhân của một giai đoạn lịch sử đầy biến động với bao cảnh tranh chấp quyền vị trong

triều đình giữa các đại thần, cảnh tàn hại lẫn nhau giữa các tập đoàn phong kiến dẫn đến nạn

cát cứ và nội chiến diễn ra triền miên bồi thêm những đau thương cho cảnh đại hạn, lũ lụt,

đói kém thường xuyên xảy ra trong nước, nhà thơ đã lên tiếng phê phán mạnh mẽ chiến

tranh, ông đứng về phía nhân dân cho dù đã từng là tôi trung của nhà Mạc và nhiều lần tòng

Thế nhưng, do thế sự đảo điên, đức nhân bị xói mòn, con người không biết dừng lại

chinh hiến kế “vì nước bảo toàn đứa trẻ mồ côi nêu rõ nghĩa lớn ” (Thơ cảm hứng, bài 5),

lên tiếng tố cáo tội ác của loài “giặc quỷ thích tàn sát ” (Thương loạn):

“Nhà ở đem bẻ làm củi,

Trâu cày đem mổ làm thịt ăn.

Cướp đoạt tài sản không phải là của mình,

Hiếp dỗ người không phải là vợ mình.

Mắt thấy nơi nơi đều lầm than,

Đi qua khắp chốn đều là sinh gai góc.

Tiều tuỵ đến như thế là quá lắm,

Thương xót van kêu đâu có được”

(Thương cảnh loạn li)

Khi cuộc chiến giữa tập đoàn phong kiến Lê Trịnh – Mạc diễn ra ác liệt và lan rộng

khắp nơi, tuy Nguyễn Bỉnh Khiêm đang ẩn nhẫn tại am mây nhưng ông không hề bàng quan

với thời cuộc mà thật sự rất lo lắng và đau lòng trước cảnh loạn li. Lòng thi nhân không chỉ

xót xa khi dân mọn mắc nạn đói kém (Thơ cảm hứng, bài 6) mà còn đau đớn trước những

hậu quả do chiến tranh để lại. Trái tim ông thổn thức khi thấy “gươm giáo đầy mắt khổ nỗi

chưa ngớt ”(Thuật ý mình, bài 5) :

“Liền năm chinh phạt quân nhà vua mỏi mệt,

Bao đời sưu thuế vận chuyển của nước kiệt quệ”

(Thơ cảm hứng, bài 6)

Chiến tranh đã thật sự gieo rắc bao tai họa cho con người, gây nên cảnh chết chóc lưu

li đói rét. Đau thương tang tóc phủ lên từng số phận, len vào trong cuộc sống của người dân.

thương cảm vô cùng:

“Thương dân ta bị hãm trong đất giặc chiếm đã từ lâu,

Ai có thể cứu vớt thể hiện tấm lòng chí nhân?

Hại cả đến trâu trong chuồng hình ngục bừa bãi,

Hoạ tới tận ngọc núi Côn lửa thiêu cháy trụi.

Đời không có viên tướng cầm quân dẹp loạn,

Dân vẫn đang mong ngóng người đến cứu sống cho mình

Năm nay lại gặp phải cái ách đói cơm đói rau,

Khốn đốn trôi dạt biết đến nơi nào để dung thân”

Chiến tranh đi qua nhưng vết thương để lại thì vẫn còn âm ĩ mãi; thảm cảnh đó khiến ông

(Thơ cảm hứng, bài 6)

Chiến tranh nối tiếp chiến tranh đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng, ông như người cha

người mẹ nhìn cảnh con dân mình tan tác như chim vỡ tổ, dáo dác tìm chỗ trú ngụ giữa cảnh

giáo gươm tua tủa nhưng đành bất lực mà đớn đau nghẹn ngào:

“Giáo và mộc tua tủa bày đầy ra trước mắt,

Nhân dân trốn chạy muốn tìm nơi an toàn.

Khốn đốn dắt dìu nhau, thở than không có đất,

Thương xót che chở cho, chắc rằng vốn còn trời”

(Thơ cảm hứng, bài 4 )

Cũng vì chiến tranh mà đâu đâu cũng chỉ là cảnh ruộng khô nhà cháy, con người đói

rét khổ sở tưởng chừng như không còn sức chịu đựng thêm nữa:

“Một vùng từ đông tới nam,

Ruộng lúa không cấy hái.

Chiến tranh tiếp liền nhau,

Hoả hoạn đến như thế này là cùng cực”

(Thương cảnh loạn li)

Những vần thơ đầy xót xa trước cảnh thống khổ đó cho thấy, mục đích sáng tác của

nhà thơ không “chỉ vì đối với thơ đã trót nghiện ngập” mà quan trọng hơn là hướng vào nhân

nghĩa. Nhân nghĩa trong việc yêu dân, luôn đấu tranh vì cuộc sống của dân. Yêu thương dân,

ông không dừng lại ở việc phơi bày tội ác và phản ánh nỗi thống khổ của họ trên cái nhìn

tổng quát mà còn đi sâu vào từng mảnh đời, từng số phận cụ thể, chạm đến những chỗ tế vi

của tình cảm con người. Vì thế, trong tình yêu thương bao la dành cho muôn dân trong thảm

những người vợ lính. Thầy Tuyết Giang đâu chỉ làm thơ dạy đạo lí mà còn rung cảm trước

nỗi niềm u uất, thương nhớ khôn nguôi của người chinh phụ khi rơi vào cảnh biệt ly. Bầu

trời thì xa vời vợi, không gian thì lạnh vắng chỉ có âm thanh tí tách của giọt mưa rơi, tình

người thì sâu thăm thẳm, mấy ai hiểu thấu nỗi lòng của khách má hồng. Trong những đêm

thu buồn lạnh lẽo, người thiếu phụ trông chồng lặng ngắm ánh trăng. Lắng nghe từng giọt

nước điểm canh lạnh lùng, cảm nhận một mùa đông băng giá sắp tới thông qua âm thanh của

tiếng thổ phát ra từ ống ngọc luật, và cũng là cảm nhận rõ hơn nỗi cô đơn trống vắng của

mình. Tình cảnh lẻ loi, sầu muộn của người chinh phụ vừa thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu

sắc của tác giả vừa là tiếng nói tố cáo cuộc chiến liên miên vô nghĩa:

cảnh loạn lạc, đáng cảm động là tình cảm và sự thấu hiểu sâu sắc của thi nhân dành cho

“Đêm thu tiêu điều , giọt nước nhỏ điểm canh lạnh lùng

Ống ngọc luật đồng vọng , âm thầm mà phát ra thành tiếng

Chỉ nghe thấy trong cây tiếng kêu sột soạt

Bỗng giựt mình dưới trăng tiếng vang lanh canh

Mới nghe, người vợ lính thú buồn rầu không ngủ

Như xui con dế gợi nỗi bất bình

Toan làm bài phú như Âu tử đất Vĩnh Xuyên

E rằng lại chỉ làm việc bắt chước bị người đời khinh bỉ”

(Tiếng thu)

“Tiếng ngâm buông xuống theo gió tây thổi từng trận

Ở chốn thâm khuê khi người thiếu phụ ngủ một mình

Bỗng nghe hơi lạnh thầm vào rèm màn

Mới biết tình người có nỗi biệt ly

Mơ mộng ra đi, chẳng nề nơi quan ải sa trường diệu vợi

U uất trong lòng dấy lên tiếng trống ở ngoài trận

Bỗng đâu tí tách giọt mưa ở trước thềm

Như có người mang niềm u uất thủ thỉ trong đêm dài”

(Nỗi lòng ở chốn phòng khuê)

Có thể nói với hai bài thơ trên, chất trữ tình đã đạt đến trình độ tinh tế, sâu sắc, chạm

đến những chỗ tế vi của tâm hồn và tình cảm con người, cụ thể là người phụ nữ.

Với hàng loạt những bài thơ viết về chiến tranh, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đi xa hơn các

nhà thơ khác trong phản ánh hiện thực, đưa cảm hứng hiện thực trong văn học tiến lên một

Tuy nhiên với mong muốn chỉnh đốn xã hội bằng con đường phục hồi đạo lí, lập lại

cương thường, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ đơn thuần phản ánh chiến tranh mà còn chỉ ra

nguyên nhân khiến con người lao vào những cuộc chiến vô nghĩa và kêu gọi con người hành

xử bằng đức nhân, rũ lòng yêu thương đến muôn dân, từ bỏ mộng xưng bá tranh hùng, lao

theo thói tham danh trọng lợi; ông chỉ ra chiến tranh không phải là cách hành xử của những

người đại nhân, bởi:

“Từ xưa đến nay người có nhân không ai địch nổi

Việc gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh ? ”

(Thơ cảm hứng, bài 3)

bước mới chuẩn bị cho sự nở rộ ở thế kỉ XVIII với đại diện là Nguyễn Du.

Đây là một tư tưởng thể hiện tinh thần nhân văn cao cả, bắt nguồn từ thời Nguyễn Trãi

và sẽ còn được tiếp nối, kết tinh trong thơ Nguyễn Du:

“Tạc giả đại khuy sinh vật đức,

Nhi lai bất quý sát nhân công”

(Trước kia đã thương tổn rất nhiều đến cái đức hiếu sinh

của tạo hoá

Từ nay không quý cái công giết người nữa)

(Pháo đài)

Một xã hội đối đãi với nhau bằng lòng nhân, bằng tình người, chẳng phải đó là cái

đích cuối cùng mà chủ nghĩa nhân văn hướng đến hay sao? Với Nguyễn Bỉnh Khiêm đã là

những người hưởng lộc của nhân dân càng phải thể hiện lòng chí thiện”, vì thế, nhìn nhân

dân khổ cực, điêu linh, ông tha thiết kêu gọi:

“Vô cô dân cửu ly đồ độc,

Bất sát thuỳ năng uý hổ tô”

(Nhân dân vô tội gặp phải cảnh cay cực độc ác từ lâu

Hỏi ai là kẻ nhân từ không ham giết người, thoả được lòng dân chờ

mong cứu sống )

(Cảm hứng thi, bài 4)

Ông nhấn vào lương tri giai cấp thống trị, đánh thức chút nhân tâm còn sót lại của

những người vốn tự xưng là cha mẹ của muôn dân bằng những vần thơ tha thiết vô cùng :

“Người có nhân nếu biết suy lòng bất nhẫn

Thương xót mà nới rộng cho dân một đôi phần”

Vì thế, với những kẻ gây ra chiến tranh, ông thẳng thắn gọi chúng là bất nhân, chỉ

những người biết dùng đức nhân mà hóa giải chiến tranh, cứu nhân dân thoát khỏi cảnh khốn

cùng, đau đớn mới đạt đến đạo trời và đáng được ca ngợi :

“Chỉ có ông trời là không thiên lệch riêng ai

Giúp đỡ dân và yêu thương kẻ có đức

Lấy lòng dân mà đánh kẻ bất nhân

Quân nhà vua biết là tất thắng

Cứu cho dân điêu đứng bệnh hoạn này

Thì là bước lên cõi nhân cõi thọ”

(Thơ cảm hứng, bài 5)

(Thương cảnh loạn ly)

Có thể nói, trọn một đời ưu quốc ái dân, mọi cố gắng, mọi đấu tranh không mệt mỏi

của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều không nằm ngoài một ước mơ duy nhất : “Ngày nào lại gặp

được đời Nghiêu Thuấn, vua đời thái bình dân đời thái bình”. Là một nhà hiền triết, tinh

thông lý số, nắm chắc được thời thế như Nguyễn Bỉnh Khiêm mà sao vẫn chờ mong cái điều

không đến? Rõ ràng trí tuệ của ông có thể lớn, nhưng cái tâm của ông còn lớn hơn. Cái tâm,

cái tài của ông trước hết không phải cho ông, vì ông, mà là vì nhân dân trăm họ, vì xã tắc

mọi nhà.

Với tư cách là một nhà yêu nước và nhà nghệ sĩ, cũng như bao nghệ sĩ chân chính

khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm bao giờ cũng đấu tranh cho cái chân – thiện – mỹ dẫu còn bị thế

giới quan giai cấp hạn chế. Và cũng như Nguyễn Trãi trước đó, người thầy bên sông Tuyết

vẫn luôn tin tưởng một cách thánh thiện khả năng cảm hóa con người và khả năng cải tạo xã

hội của văn học.

Có thể những yêu cầu và khát vọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm có phần không tưởng,

nhưng lý tưởng đẹp đẽ đó vẫn thật sự đáng được trân trọng và vì thế đáng được lưu truyền

như một bài học cao quý về đạo làm người.

Đặc biệt, trong xã hội hiện đại hôm nay, khi con người bị cuốn vào dòng đời với bao

bộn bề, lo toan, những xô bồ, hối hả dễ khiến người ta trở nên lạnh lùng, vô cảm và tàn nhẫn,

thì những vần thơ chở nặng đạo lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là tấm gương sáng cho

con người soi vào để thanh lọc tâm hồn mình.

3. Nguyễn Du với niềm thổn thức trước thân phận con người

Trong lời mở đầu giới thiệu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Mai Quốc Liên đã viết :

về lẽ đời, về cái gì là chủ yếu trong cuộc đời... con người ấy như đang sống giữa chúng ta

đây. . khác thời đại thương nhau chỉ rớt nước mắt ( Dị đại tương liên không sái lệ ). Nguyễn

Du từng làm thế ; ta há lại không thể đáp lại Nguyễn Du cũng bằng tình cảm ấy. [ 26 , tr7].

Thật vậy, đến với Nguyễn Du, bằng tấm lòng, qua thơ chữ Hán, để nhận ra xuyên suốt

ba tập thơ, đặc biệt là 132 bài thơ trong tập Bắc hành tạp lục là tiếng kêu xé lòng trước bao

nỗi đắng cay và thống khổ của mọi kiếp người.

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa cử, thuộc tầng lớp danh gia vọng tộc,

Nguyễn Du cũng sớm được làm quen với cửa Khổng sân Trình, dẫu thời đại của ông , nho

học đã không còn giữ được vị trí độc tôn nữa. Vì thế, chàng trai Nguyễn Du trong buổi bình

Tôi muốn đến cùng Nguyễn Du như đến với một con người suốt đời khắc khoải về con người,

minh của cuộc đời cũng rất xông xáo dấn thân, cũng muốn lập chí giúp đời, để lại công danh

sự nghiệp bằng con đường hoạn lộ. Và ông cũng đã hăm hở đặt bước chân đầu tiên vào

“dặm thanh vân” với chức quan võ nhỏ tập ấm của người bố nuôi họ Hà. Nhưng chưa ngồi

ấm chỗ trên cái ghế quan trường thì gặp phải sự kiện Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc, đánh

Trịnh phò Lê, đuổi quân Thanh về nước chính thức lập nên triều đại mới, bước đường công

danh của Nguyễn Du trở nên dang dở. Cũng từ đó ông rơi vào cảnh ăn nhờ ở đậu, “mười

năm gió bụi” với bao tủi nhục, ê chề, cả hùng tâm và sinh kế đều mờ mịt. Giấc mộng công

danh nguội lạnh theo thời gian, nhưng nỗi đau tình đời, tình người thì nhức nhối thêm theo

năm tháng.

Thế nên, ở Nguyễn Du, nhìn từ giác độ ý thức trách nhiệm của kẻ sĩ với cuộc đời, dẫu

không có được cái nhiệt huyết ái ưu trọn vẹn “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” của

Nguyễn Trãi, hay mối tiên “ưu vằng vặc trăng in nước” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, song nơi

tâm trí con người thấu suốt sáu cõi này lại luôn trĩu nặng bởi tấm lòng “thiên tuế trường ưu”

- lo suốt nghìn đời trước thân phận con người. So với các bậc tiền bối, Nguyễn Du đau đời

hơn, và cũng than thở về thân phận mình nhiều hơn, nhưng điều đó liệu có nghĩa lí gì, một

khi trong tận cùng nỗi đau của riêng mình, ông đã để nó tan chảy và thăng hoa thành tình yêu

thương con người vô bờ bến, để rồi qua kênh giao tiếp đó, trái tim rỉ máu của ông đã hòa

điệu được với trái tim của bao kiếp người cũng đang rên xiết trước cuộc sống.

Có thể nói, con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán, vượt lên trên tất cả những bi

quan, phẫn uất, những nghi ngờ, chán nản, vẫn là ngọn lửa nồng ấm tình yêu thương sâu sắc,

xuất phát từ tận đáy lòng của Nguyễn Du đối với những mảnh đời tả tơi, rách nát, những

kiếp người vất vả khổ đau trong xã hội đương thời.

nước mắt, nước mắt ông đã đổ xuống trước bao nhiêu số kiếp bẽ bàng bất hạnh. Trong đó,

đáng thương nhất và được ông ưu ái hơn cả vẫn là những người phụ nữ tài hoa mà truân

chuyên. Có lẽ vì họ rất mong manh nhưng lại không hề được bảo vệ, thậm chí còn bị chà đạp

dưới chế độ xã hội phong kiến.

Hai lần trong sáng tác của mình, tiếng kêu thương của Nguyễn Du đã vút lên vì những

kẻ xấu số nhất trong những người đàn bà xấu số - những Đạm Tiên bị đẩy xuống bùn nhơ

của cảnh bán thân nuôi miệng :

“Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Thơ Nguyễn Du không phải là loại thơ làm để mà chơi, thơ Nguyễn Du là máu và

(Truyện Kiều)

“Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”

(Văn chiêu hồn)

Từ những kiếp người riêng lẻ, lòng trắc ẩn của Nguyễn Du mở rộng ra cho số phận

đàn bà nói chung. Và cũng từ tình cảm chung này, Nguyễn Du càng xót thương hơn cho

những con người mà ông đã gặp. Hồi còn lưu lạc, Nguyễn Du đã có bài thơ khóc thương

trước cái chết của một người ca kĩ. Kiếp ca nhi xưa nay luôn phải gánh chịu sự chỉ trích của

người đời, vậy mà riêng Nguyễn Du lại tự nhận mình là tri kỉ của họ, ông thật sự xót xa cho

một kiếp người mà cả khi chết đi rồi, cái tiếng gió trăng vẫn không gột rửa được :

“Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh,

Trủng trung ưng tự hối phù sinh.

Yên hoa bất tẩy sinh tiền chướng,

Phong nguyệt không lưu tử hậu danh”

(Thiên hạ ai thương người bạc mệnh

Dưới mồ chắc cũng tự mình hối hận cho kiếp phù sinh

Lúc sống đã không rửa được nghiệp chướng phấn son

Sau khi chết chỉ để lại cái tiếng trăng gió)

(Điếu La Thanh ca giả)

Lời ai điếu nghe nặng một niềm chua xót, thương cảm cho một con người bất hạnh,

Sống trong tủi nhục và chết trong bẻ bàng cũng là đi qua một kiếp người hay sao? Nếu

không có một tấm lòng bao dung, một mối cảm thông không giới hạn sao có thể cất lên

Những tưởng mối đồng cảm sâu xa trên chỉ có được đối với những người cùng cảnh

ngộ. Nhưng sau này, trên đường đi sứ, dẫu không ở trong thế cùng một lứa bên trời lận đận

nữa, nước mắt Nguyễn Du vẫn hai lần đổ xuống trước số phận của hai người đào nương mà

ông vô tình gặp lại. Số phận trầm thăng của họ khiến nhà thơ day dứt. Một người từng là con

hát trong nhà Nguyễn Nễ - em trai Nguyễn Du (Ngộ gia đệ cựu ca cơ), giờ sau hai mươi năm

gặp lại đã có chồng và ba con, vậy mà chiếc áo con hát ngày xưa vẫn chưa thoát ra được, chỉ

có điều là sóng gió cuộc đời đã làm cho nó rách tả tơi. Còn người kia từng là cô gái tài hoa

bậc nhất thành Thăng Long. Người con gái ấy lần đầu gặp Nguyễn Du, hãy còn là một cô gái

những lời thơ nghẹn ngào đến thế.

hai mốt tuổi xuân mơn mởn, áo hồng ánh lên khuôn mặt hoa đào với ngón đàn Nguyễn tuyệt

diệu học được trong cung vua Lê :

“Kỳ thời tam thất chính phương niên

Hồng trang yểm ái đào hoa diện

Đà nhan ám thái tối nghi nhân

Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến

Hoãn như sơ phong độ tùng lâm

Thanh như song hạc minh tự ám

Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch

Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm

Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện

Tiện thị Trung Hòa đại nội âm

Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo”

(Lúc ấy nàng còn trẻ tuổi chừng hai mốt

Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào

Má hồng men rượu dáng ngây thơ rất đáng yêu

Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu

Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông

Tiếng trong như chim hạc kêu lúc đêm khuya

Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc

Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau

Người nghe mê mẩn không biết mệt mỏi

Các quan Tây Sơn trong tiệc thảy đều nghiêng ngả.)

(Long Thành cầm giả ca)

Ngọn bút Nguyễn Du vẫn luôn thăng hoa mỗi khi miêu tả tiếng đàn, đó cũng chính là

chỗ nhạy cảm, tinh tế, sâu sắc của một tâm hồn nghệ sĩ lớn mà không phải ai cũng có được.

Bốn lần Kiều chơi đàn trong kiệt tác Truyện Kiều có thể xem là bốn tiểu kiệt tác trong việc

làm sống dậy cả một thế giới hình tượng từ những thanh âm vô hình. Và với Long Thành

cầm giả ca, thêm lần nữa tác giả lại đưa người đọc chìm vào bản đàn đa thanh với những giai

điệu mê hồn. Để rồi dẫu hai mươi năm đã trôi qua với bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống,

mà dư âm của tiếng đàn vẫn còn ngân vang mãi trong long nhà thơ cùng hình ảnh của “người

Đó là khúc nhạc trong đại điện Trung Hòa

đẹp Long Thành”. Năm cung như vẫn còn réo rắt, tiết tấu biến hóa linh hoạt nhẹ nhàng, lúc

khoan lúc nhặt; khi như gió thoảng qua rừng thông; khi cao vút, trong trẻo như tiếng hạc kêu

lúc đêm về; khi lại buồn thao thiết như tiếng rên của Trang Tích, vua nước Việt làm quan

nước Sở, lúc ốm nặng sắp qua đời vẫn bồi hồi nhớ cố hương.

Chỉ với năm câu thơ ngắn gọn, và vẫn không đi ra ngoài bút pháp ước lệ tượng trưng,

điển tích điển cố của thi pháp trung đại, nhưng nhờ lối nói, lối tả giàu hình tượng, gợi cảm đã

gợi ra cả một trường liên tưởng thú vị, không những thế còn xây dựng thật thuyết phục chân

dung của một bậc tài hoa. Giữa Nguyễn Du và người chơi đàn phải có cái tình tri âm kiểu

như Chung Tử Kỳ - Bá Nha thì mới có thể có được sự đồng cảm sâu sắc đến thế.

Quá khứ thật đẹp, giá con người có thể ngủ quên được trong nó, nhưng tiếng đàn một

thời làm Nguyễn Du say mê đã kéo ông trở về thực tại. Duyên kỳ ngộ đã xui khiến ông gặp

lại người xưa, cô gái có tài đàn Nguyễn bậc nhất xứ kinh kì ngày ấy giờ đang đứng bên kia

dốc của cuộc đời, đang phải gánh chịu sự tàn phai ghê gớm:

“Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu

Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa

Nhan sấu thần khô hình lược tiểu

Lang tạ tàn mi bất sức trang

Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu

Cựu khúc tân thanh ám lệ thùy

Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi”

(Trong tiệc các cô đào hát thảy đều trẻ

Riêng ở cuối chiếu có một người tóc đã hoa râm

Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm

Ai biết rằng đó là bậc tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa

Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi

Tôi lắng nghe lòng đau xót)

(Long Thành cầm giả ca)

Không còn nữa cái thần thái và tinh anh thuở trước. Trên gương mặt hoa đào át cả

màu áo hồng thắm đang mặc của lần gặp đầu, giờ đây in đậm dấu ấn thời gian. Thế nên, hai

mười năm đâu chỉ đơn thuần là chiếc cầu nối giữa những mảnh ghép của cuộc sống, mà còn

là những trải nghiệm đầy xót xa trước sự mất còn của con người. Trải nghiệm để nhận ra quy

Nét mặt võ vàng, thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ

luật nghiệt ngã của cuộc đời. Thì ra đời người chỉ là chớp mắt, là bóng câu qua cửa sổ. Và

thời gian không chỉ trôi chảy rất nhanh mà còn có tính năng hủy diệt và loại trừ rất lớn.

Với Nguyễn Du, người ca kĩ ấy là dấu tích tang thương của hai chục năm biến thiên

dâu bể, là cái gạch nối chông chênh của cuộc đời sóng gió nổi chìm của ông. Không những

thế, nó còn là minh chứng cho một sự tàn phai, sự vận động đi xuống của quy luật cõi người.

Cuộc đời thật ngắn ngủi, phận người thật mong manh, và hình như với kẻ tài hoa điều đó lại

càng nghiệt ngã hơn nữa. Số phận bất hạnh của Tiểu Thanh, người con gái xinh đẹp và có tài

khác thường, lại phải làm lẽ, bị vợ cả ghen ghét, hãm hại đến nỗi uất mà chết khi mới mười

tám tuổi cũng nằm trong hệ thống chủ đề trên.

Nguyễn Du đã sống trong một thế kỉ đầy biến động, ở đó cùng với sự sụp đổ của một

hệ tư tưởng đã quá lỗi thời là sự trỗi dậy của ý thức cá nhân. Con người bắt đầu có nhu cầu

nhận thức chính mình và cộng đồng. Để rồi trên hành trình đó, con người đau đớn nhận ra sự

nhỏ bé của thân phận, sự phù du, bèo bọt của kiếp người. Nghệ sĩ lại là người nhạy cảm hơn

cả. Thế nên, dễ hiểu vì sao trong thơ Nguyễn Du, cảm thức thời gian lại nhức nhối đến thế.

Và hình ảnh “bạch phát” cứ đi về dưới ngòi bút Tố Như phải chăng là hệ luận của suy nghĩ

này. Có thể kể ra đây hàng loạt những câu thơ nói về hình ảnh mái đầu bạc:

- “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên”

- “Nại hà đầu dĩ bạch như ngôn”

- “Bạch phát thu phong không tự ta”

- “Vạn lí lợi danh thu bạch phát”

- “Bạch đầu khứ thử tương an quy”

- “Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long”...

mươi tuổi. Vì “ tấm lòng lo suốt ngàn đời”, hay còn vì thương cuộc đời vô thường, thương

cho kiếp phù sinh?

Tuy vậy, những con người tài hoa sống trong chế độ xã hội phong kiến Việt Nam thế

kỉ XVIII đâu chỉ có mỗi gánh nặng là sự nghiệt ngã của tạo hóa mà còn bị vùi dập bởi chế độ

đố kị với sắc tài. Trong xã hội đó, tài hoa trở thành tai họa. Song do giới hạn của ý thức hệ

giai cấp, Nguyễn Du đã có lúc tỏ ra mâu thuẫn trong việc nhận chân tội ác. Thế nên dẫu ông

trăn trở và day dứt thật nhiều về một câu hỏi lớn, và đã có lúc tưởng như đạt đến chân lý,

nhưng chân lí chưa kịp lóe sáng thì bóng tối của chế độ đã quá dày đặc để nhà thơ vẫn cứ

mãi loay hoay trong bài toán số mệnh.

Và điều đáng nói là, dấu ấn thời gian in lên mái tóc Nguyễn Du khi ông mới ngoài ba

Bản thân Nguyễn Du cũng ý thức rất rõ về cái tài của mình – tài văn chương “Văn

chương tôi bình sinh như chim phượng phải nằm trong lòng nát” (Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam

quy). Phải chăng đó là nguyên nhân khiến đời ông phải nổi chìm qua bao cay đắng? Dẫu tìm

về với thuyết thiên mệnh song kì thực ông lại không cam lòng, thế nên trong thơ vẫn cứ day

dứt mãi một câu hỏi khó:

“Bản vô văn tự năng tăng mệnh,

Hà sự kiền khôn thác đố nhân?”

(Vốn chẳng có văn chương có thể ghét số mệnh

Thì sao trời đất lại ghét người làm văn chương)

“Ám tụng vấn văn chương (Tự thán, bài 2)

(Thầm tự hỏi văn chương sao lại lụy đến mình

Thiên cao hà xứ vấn?”

Muốn hỏi trời nhưng trời cao làm sao mà hỏi)

(Bất mị)

Ý thức thị tài lớn mạnh cùng với ý thức về sự bất công đối với người tài tình. Cái “mối

hận cổ kim” từ ngàn xưa đã thế và bây giờ vẫn thế “khó mà hỏi trời được”. Không phải ngẫu

nhiên mà Nguyễn Du rơi vào mớ bòng bong của tư tưởng “Tài mệnh tương đố”, mà đó là hệ

luận tất yếu của không biết bao nhiêu số kiếp tài hoa với bi kịch cuộc đời của họ đã và đang

sống xung quanh ông.

Tuy nhiên có một thực tế là ngay khi ông viết:

“Phàm sinh phụ kì khí,

Thiên địa phi sở dung”

Thì trời đất không có chỗ dung)

(Điệu khuyển)

Và cả khi ông cảm thấy vấn đề này như một định mệnh nghiệt ngã ám ảnh lấy số phận

con người và muốn viện đến thần linh, nhang đèn để nguyện cầu cho cái nghiệp chướng do

tài năng gây ra có thể theo khói hương mà bay đi: “Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp”

(Vọng Quan âm miếu), thì không có nghĩa là ông đang đổ lỗi hoàn toàn cho trời đất. Đằng

sau lớp vỏ bàng bạc, huyền bí của số mệnh, một hiện thực đau lòng được phản chiếu rõ nét

qua từng dấu tích tang thương oan trái từ quá khứ vẫn lộ ra. Và chính điều này mới khiến

Nguyễn Du luôn phẫn uất, đau buồn.

(Phàm sinh ra mang khí phách khác thường

Song thật cao cả là con người đáng quý ấy không chỉ biết thu mình trong nỗi buồn của

bản thân. Từ cõi lòng ngổn ngang những thất vọng, khổ đau của riêng mình, ông đi đến với

bao khắc khoải của nhân sinh và cõi người. Trong đó, bên cạnh sự buồn thương cho thân

phận của những người phụ nữ tài hoa như đã nói còn có nỗi tiếc hận về số kiếp của những

người tài hoa, trung nghĩa từ muôn đời trước. Đó là những bậc hiền thần Trung Hoa mà ông

đã được làm quen từ lâu qua sách vở thánh hiền, những con người đã để lại dấu son lịch sử

cho dân tộc, cho cuộc đời. Họ là những Hoàng Sào, Cù Các Bộ, Liễu Tông Nguyên, Khuất

Nguyên, Đỗ Phủ, Hàn Tín, Văn Thiên Tường, Âu Dương Tu, Tỉ Can, Lạn Tương Như, Liêm

Pha, Dự Nhượng, Kinh Kha, Liễu Hạ Huệ, Chu Lang, hai ông họ Sơ…

Những nhân cách vĩ dại này luôn chiếm giữ một vị trí trang trọng trong sự tưởng nhớ

và thương kính của Nguyễn Du. Thế nên, khi lần đầu đặt chân lên đất nước Trung Hoa, trong

suốt sứ trình của mình, trái tim Nguyễn Du đã bao lần rung lên khi chạm phải lịch sử, gặp lại

những dấu tích của người xưa còn lại giữa cuộc đời. Đến Quảng Tây, Nguyễn Du nghiêng

mình kính cẩn tước tấm lòng cô trung của ông Cù Các Bộ, thà tuẫn tiết để giữ thành mà cũng

là giữ mình trong sạch, nghìn năm nằm dưới đất tóc ông vẫn dài chứ nhất định không chịu

hàng phục người Mãn Châu. (Quế Lâm Cù Các Bộ). Ông cảm thông với sự ê chề của Liều

Tông Nguyên, một trong bát đại danh gia, mà số kiếp phải trải qua bao đọa đày khổ ải, thấu

hiểu vì sao cỏ cây khe suối nơi ông ở đều có tên là Ngu. (Vĩnh Châu Liều Tử Hậu cố trạch).

Qua sông Hoài, nhớ Hoài Âm Hầu là nhớ đến nghĩa cử cao đẹp mà Hàn Tín đã làm với

Phiếu Mẫu, với vua…Theo Nguyễn Du, đó là nghĩa trọng tình thâm thật sự đáng khâm phục.

Cũng trên dòng sông này, phong cảnh sông núi vẫn y nguyên như cũ dù bao nhiêu thời gian

đã qua đi, thủy chung son sắt như tấm lòng trung trinh của thừa tướng được lưu truyền muôn

ca” một thời lẫy lừng danh tiếng. (Độ Hoài hữu cảm Văn Thiên Tường). Tấm lòng thơm

thẳng ngay, cương trực của Âu Dương Tu, người được mệnh danh là Hàn Phi đời Tống,

cũng được Nguyễn Du hết lòng ca ngợi. (Âu Dương Văn Trung Công mộ). Trên bước đường

ông qua, đâu đâu cũng khiến Nguyễn Du phải thổn thức, ngậm ngùi trước cảnh còn, người

đã thành thiên cổ mà nỗi uất nghẹn dường như vẫn còn đâu đó không tan ra được. Đó là một

Tỉ Can với trái tim rỉ máu, một Nhạc Phi ôm mối hận xuống tuyền đài cùng cái án “Tam tự

ngục”, một Hàn Tín chết oan uổng vì thủ đoạn “cất cung giết chó” của vua quan phong

kiến…Và còn bao nhiêu bậc trung nghĩa mà cái chết của họ đã để lại sự nuối tiếc khôn nguôi

cho người đời lẫn cỏ cây, sông núi.

đời. Nguyễn Du không chỉ phục tài thơ mà còn rất cảm kích chí khí của tác giả “Chính khí

Với những con người đáng kính này Nguyễn Du luôn bày tỏ một thái độ “biệt nhỡn

liên tài” – chữ dùng của Nguyễn Tuân – đối với họ. Song không chỉ dừng lại ở sự cảm kích

khách quan thông thường, Nguyễn Du còn bày tỏ lòng cảm thông sâu sắc của một tri âm

trong hậu thế đối với cuộc đời bất hạnh mà họ đã trải qua. Trở về với người xưa, điều khiến

ông ám ảnh và day dứt nhất chính là kết thúc đầy bi phẫn của các bậc hiền thần. Ở đây, một

lần nữa tư tưởng “Tài mệnh tương đó” lại hiện hình. Phải chăng trong cuộc đời, cái ác và sự

bất hạnh bao giờ cũng nhanh chân hơn khi đến với những người có khí phách khác thường?

Ai dũng khí bằng Kinh Kha, Nhiếp Chính? Ai bất khuất hơn Tỉ Can, Dự Nhượng? Ai

có tấm lòng nghìn đời hơn Văn Thiên Tường và Nhạc Phi...Vậy mà sao cuộc đời của họ lại

bị dập vùi trong phong ba, bão táp, và cuối cùng chết trong tủi nhục?

Trước thực tại xã hội đầy biến động ấy, thành trì tam cương ngũ thường như đang vỡ

nát ra trong lòng Nguyễn Du. Ông chỉ còn biết khóc thương và chia sẻ. Chia sẻ bằng chính

nỗi đau của người trong cuộc. Bởi lịch sử đang lăp lại và bản thân ông cũng là nạn nhân của

cái xã hội đó. Ông là người có tài, đáng quý hơn còn rất có tâm, nhưng cái tài đó đã mang lại

cho ông được gì ngoài một cuộc đời nổi chìm trong gió bụi, phải nếm trải biết bao cay đắng

tủi hờn, để rồi càng sống càng thấm thía cái gọi là “ Chữ tài liền với chữ tai một vần”, và đã

có lúc phải kêu lên đầy dằn dỗi “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Thế nên, hơn ai hết

Nguyễn Du thấu hiểu sâu sắc nỗi đắng cay bẽ bàng của người tiết nghĩa, trung trinh, sống

một đời thanh cao cuối cùng lại phải thất cơ lỡ vận trước phường bất nhân, ích kỉ. Phải chăng

vì vậy mà trong số những bậc hiền thần Trung Hoa, Nguyễn Du dành nhiều tình cảm nhất

cho Khuất Nguyên và Đỗ phủ.

Với Khuất Nguyên, Nguyễn Du đã có đến năm bài thơ dạt dào cảm xúc để khóc

tâm hồn thanh cao trong sạch như hoa lan, cỏ chi ông luôn đeo bên mình mà còn là một

gương điển hình về số phận tài hoa mà bất hạnh. Lời thơ dành cho Khuất Nguyên nghe cứ ứ

trào một nỗi niềm uất nghẹn, thương cho con người “tỉnh một mình” để rồi phải chuốc lấy

tủi nhục. Cái giây phút nhà ái quốc nước Sở ôm tấm lòng cô trung trầm mình xuống dòng

sông thăm thẳm như hãy còn đọng lại đến muôn đời, và Nguyễn Du đã thu nhận được những

dư âm đồng vọng đó mà cất lên thành thơ, lời thơ sao xót thương, da diết:

“Ngư long giang thượng vô tần cốt,

Đỗ nhược châu biên hữu chủng phương.”

(Trên sông đầy cá rồng, nắm xương tàn không còn nữa

thương ông, trong tình cảm của Nguyễn Du, Khuất Nguyên không chỉ là một bậc vĩ nhân với

Bên bãi sông chòm đỗ nhược có thêm những giống hoa thơm)

(Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu, bài 1)

Tương Đàm hay là tương âm, khi mà Nguyễn Du cũng đang đau nỗi đau mà Khuất

Nguyên phải gánh chịu, con người đó đáng cảm phục biết bao nhiêu khi là tác giả của “Sở

từ” bất hủ, đáng kính trọng biết bao nhiêu bởi sự tuẫn quốc thấm đẫm tấm lòng cô trung vời

vợi, và cũng đáng xót thương biết bao nhiêu khi phải chết một cách oan uổng thế kia.

Nỗi đau mà lịch sử gây ra cho Khuất Nguyên sẽ chẳng bao giờ xoa dịu được, dẫu nước

sông Mịch La vẫn mãi miết chảy về đông. Thế nên trong suy nghĩ của Nguyễn Du mọi cố

gắng của người đời sau đều trở nên vô nghĩa nếu không thật sự hiểu được điều đó.

Hàng năm nhân dân Trung Hoa vẫn tổ chức đua thuyền, thả bánh trái để cầu nguyện

cho cá rồng đừng rỉa xác Khuất Nguyên, nhìn thấy cảnh đó càng khiến cho lòng Tố Như

thêm buồn chán. Sự sống của con người mới là quan trọng, còn một khi chết đi rồi, thời gian

trôi qua, giữa mênh mông sóng nước, nắm xương tàn cũng mất hút, hỏi còn hồn được nữa

không mà tìm. Hãy đến với Khuất Nguyên bằng tấm lòng chân thành, thương nhớ cứ để

trong lòng thì nỗi nhớ mới sâu. Nguyễn Du cũng bác lại ý kiến của Giả Nghị khi có ý chê

trách Khuất Nguyên sao không tìm đến một vua khác để thờ mà lại phải chọn cái chết. Hiểu

Khuất Nguyên hơn cả Giả Nghị, Nguyễn Du biết tác giả Sở từ sống làm người nước Sở, chết

làm ma nước Sở thì làm sao có thể tìm một nước khác mà đi. Thương Khuất Nguyên,

Nguyễn Du không chỉ thương cho con người cao quý chỉ vì “tỉnh một mình” nên lạc loài , bơ

vơ khi sống –“Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh; Tứ phương hà xứ thác cô trung”, mà còn

xót xa cho một linh hồn cô đơn, phiêu bạt khi chết – “Hồn nhược quy lai dã vô thác; Long

xà quỉ quắc biến nhân gian”. Song cũng chính vì thế mà Nguyễn Du phản đối mạnh mẽ việc

vào đâu khi mà xã hội giờ đây đâu đâu cũng là sông Mịch La, người người đều là Thượng

Quan, hiểm nguy luôn rình rập:

“Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan,

Đại địa xứ xứ giai Mịch La.

Ngư long bất thực, sài hổ thực,

Hồn hề! hồn hề! Nại hồn hà?”

(Đời sau người đều là Thượng Quan

Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch La

Cá rồng không nuốt, hùm sói cũng ăn

Tống Ngọc làm thơ gọi hồn Khuất Nguyên trở về. Hồn về để làm gì, về thì biết nương tựa

Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn về làm gì?)

(Phản chiêu hồn)

Có thể nói, những câu thơ trên không chỉ khóc thương cho Khuất Nguyên mà còn mặn

chát bởi chính tâm sự của ông. Vì thế, ngoài tình cảm đối với nhân vật lịch sử, những vần

thơ ai điếu còn có khả năng khái quát hiện thực xã hội đương thời. Trong cái xã hội đó nổi

lên hàng đầu vẫn là chế độ khắc bạc đối với người tài, nên dễ hiểu vì sao, lẫn trong những lời

thơ yêu thương bao giờ cũng hàm chứa một nỗi căm phẫn khiến người đọc không thể dửng

dưng khi đọc.

Và điều đó lại một lần nữa được thể hiện thấm thía khi Nguyễn Du viết về Đỗ Phủ,

bậc thầy thơ của muôn đời. Với Đỗ Phủ, Nguyễn Du không chỉ cảm phục một tài thơ bậc

thầy đã ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của mình: “Tôi ban đêm hồn mộng đi vào thơ

Thiếu Lăng” (“Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi” – Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ, bài 1),

mà còn có một sự đồng cảm sâu sắc của tình tri âm tri kỉ giữa những kẻ cùng hội cùng

thuyền. Vì thế, thương nhau không thể nói nên lời, chỉ biết rớt nước mắt:

“Thiên cổ văn chương thiên cổ sư,

Bình sinh bội phục vị thường ly.

Dị đại tương liên không sái lệ,

Nhất cùng chí thử khởi công thi?”

(Văn chương ông lưu truyền muôn đời

Tôi bình sinh khâm phục ông không lúc nào rời

Ông với tôi ở hai thời đại khác nhau thương nhau chỉ biết rớt nước mắt

Cùng quẫn đến thế có phải vì giỏi làm thơ)

Dường như giữa Đỗ Phủ và Nguyễn Du, khoảng cách một thời đại đã không còn ý

nghĩa nữa. Tác giả Truyện Kiều bất hủ đã tìm thấy chính mình trong cuộc đời của Thánh thi

Trung Hoa. Và điều đó khiến ông cảm thấy vô cùng gần gũi và thân thiết với người đã khuất.

Họ là hai kẻ đồng cảnh, đồng bệnh, cả hai đều nghèo khổ, tha hương, cuộc đời gặp nhiều

long đong, lận đận, lại ốm yếu, bệnh tật nhưng rất giỏi làm thơ. Nếu như Đỗ Phủ đã trải qua

một cuộc đời bấp bênh, đói rét, lang thang nơi đất khách quê người, ốm đau không có thuốc,

cho đến lúc qua đời cũng chẳng có chỗ yên thân phải nằm lại trên con thuyền rách nát, trôi

nổi trên dòng sông Tương. Thì cõi trăm năm của Nguyễn Du cũng có hơn gì. Nối tiếp tuổi ấu

thơ sớm mồ côi cha mẹ là “mười năm gió bụi”, “hết ăn nhờ ở miền sông lại đến miền biển”,

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, bài 1)

“đói rét không ngờ phải để cho người thương”, “mới đầu mùa rét mà đã thấy khổ vì không

có áo”… Kể cả những năm đầu ra làm quan, cái nghèo vẫn bám riết lấy ông, vẫn là cảnh “ba

tháng xuân ốm liên miên nghèo không có thuốc”, “tấm thân bệnh tật chỉ biết gối lên chồng

sách”. Gia phả cũng chép “Tuy ra làm quan mà ông vẫn sống như một nho sinh nghèo”.

Chính sự gần gũi giữa hai cảnh đời đã làm cho hai người ở hai thế hệ khác nhau xích lại gần

nhau. Trong nỗi thương người có sự xót xa cho mình, tình cảm đó rất thực, rất chân thành,

thế nên cứ mối lần ngâm câu “mũ áo nhà nho thường làm lụy thân mình” lại thêm một lần

rơi lệ khóc thương Đỗ Phủ:

“Mỗi độc nho quan đa ngộ thân,

Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng Nhân.”

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, bài 2)

Đỗ Phủ là bậc thầy thơ muôn đời, điều đó đã là chân lý, nhân thế tôn vinh ông cũng vì

khao khát cái tài đó của ông, chỉ riêng Nguyễn Du là thương cho tấm thân Đỗ Phủ phải gửi

nơi nấm mồ xa xứ:

“Cộng tiễn thi danh sư bách thế,

Độc bi dị vực kí cô phần”

(Ai cũng khen tài thơ đáng bậc thầy muôn thuở

Riêng ta buồn thương cho ông phải gửi nấm mồ cô đơn nơi đất khách)

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, bài 2)

Đúng là chỉ có người rét mới hiểu được người lạnh, người ốm mới hiểu được người

đau, người đói mới hiểu được người đang run lên cồn cào vì bụng trống rỗng. Thật kì diệu và

sâu sắc là trái tim Nguyễn Du, chắc phải thổn thức trước thân phận con người nhiều lắm mới

Dường như Nguyễn Du sinh ra là để yêu thương, để chia sẻ với bao nỗi đời cay cực.

Phải chăng vì cuộc đời nhà thơ cũng từng có những năm tháng gian nan. Mười năm gió bụi

đẩy ông vào kiếp sống ăn nhờ ở đậu, lang thang nay đầu sông mai cuối bể, nhưng mặt khác,

chính khoảng thời gian đó cũng đã đưa ông về với nhân dân để hiểu hơn cuộc sống vất vả

khổ đau của họ, hiểu để thương hơn, xót xa hơn cho những con người phải sống kiếp con

sâu, cái kiến.

Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là những nhà thơ có tình cảm đặc biệt với

nhân dân và sớm đưa hình ảnh nhân dân vào trong thi phẩm của mình. Song khách quan mà

xét, đó vẫn còn là thứ tình cảm của một ông quan, một kẻ sĩ đầy trách nhiệm dành cho con

có được những vần thơ thống thiết đến thế.

dân của mình. Vì thế hình ảnh người dân xuất hiện trong tác phẩm của họ cới tư cách là nhân

vật còn mang tính khái niệm, chung chung. Đương nhiên, từ Nguyễn Trãi sang Nguyễn Bỉnh

Khiêm đã có sự thay đổi. Cũng dễ hiểu, vì từ buổi bình minh của một truyền thống, nó sẽ

được phát triển theo thời gian. Đến Nguyễn Du vẫn là một vị quan làm thơ, nhưng tình cảm

mà ông dành cho nhân dân lại là thứ tình cảm của người trong cuộc, thương nhau vì vất vả

như nhau. Theo đó nhân dân bước vào thơ ông đã trở thành một hình tượng nghệ thuật đầy

đủ, trọn vẹn.

Trên tình thần đó, hình ảnh dân đen, con đỏ trong tình thương cảm của Nguyễn Du, đổ

bóng vào trong thơ với từng số phận, từng mảnh đời cụ thể. Có lần trên lộ trình đi sứ của

mình, ông thoáng bắt gặp người phu xe xa lạ, nhìn cái dáng vất vả của anh khiến nhà thơ

thương đến thắt lòng :

“Hà xứ thôi xa hán?

Tương khan lục lục đồng”

(Anh đẩy xe kia ở đâu ta nhỉ ?

Nhìn nhau thấy vất vả như nhau)

(Hà Nam đạo trung khốc thử)

Điều đáng quý ở tấm lòng Nguyễn Du là chỗ đó. Ông đã đến với nỗi thống khổ của

nhân dân, cảm thông với từng cảnh đời cay cực bằng chính sự trải nghiệm cuộc đời mình.

Một vị quan đang ngồi trên ngựa xe sang trọng dẫn đầu doàn đi sứ, lại tìm thấy mình trong

hình ảnh anh phu xe. Quá khứ vẫn vẹn nguyên trong kí ức hay cuộc sống hiện tại cũng chẳng

có gì sung sướng dẫu được bọc trong áo mũ nhà quan? Song có lẽ quan trọng hơn cả là ngọn

lửa tình người vẫn luôn ấm nóng trong tim thi sĩ. Thế nên ngay cả khi ông có ý thức được

than vẫn cảm thương sâu sắc:

“Dã túc phùng tiều giả,

Tương liên bất tại đồng”

(Đêm trọ giữa đồng gặp bác hái củi

Thương nhau không cứ ở chỗ giống nhau)

(Phượng hoàng lộ thượng tảo hành)

Chung cảnh ngộ, biết cảm thông cho nhau đã là đáng quý; hoàn cảnh khác nhau mà

vẫn thương nhau lại càng quý vô ngần. Những lúc như thế, không còn thấy trong Nguyễn

việc mình đang đứng ở một vị trí khác mọi người đi chăng nữa, trước những kiếp đời lầm

Du, hình ảnh một vị quan nữa mà chỉ còn lại một nghệ sĩ lớn, gắn bó máu thịt với nhân dân

của mình.

Chất nhân văn thấm đẫm và tỏa sáng nơi con người Nguyễn Du là khi tình yêu thương

mênh mông vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ, dân tộc để vươn tới tầm quốc tế. Có thể nói,

lòng trắc ẩn mà Nguyễn Du dành cho nhân dân Trung Hoa trong tập thơ đi sứ là một nghĩa

cử cao đẹp của một nhân cách lớn. Và truyền thống cao đẹp này sẽ lại cháy sáng lên trong

tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh trong văn học nước nhà đầu thế kỉ XX.

Xưa nay, thơ văn thù tạc vẫn luôn là món quà ngoại giao của các sứ giả nước ta mỗi

khi sang Bắc quốc. Nhưng Nguyễn Du đã đi ngược lại truyền thống đó, tình cảm và ngòi bút

của ông nghiêng về phía những người cùng đinh trong xã hội đương thời, những người đang

oằn mình bởi gánh nặng mưu sinh. Trên những nẻo đường ông qua, “những điều trông thấy”

luôn khiến thi nhân phải thổn thức. Thêm lần nữa, trong thơ, Nguyễn Du lại quên mình để

mở lòng đón nhận những nỗi đau của cuộc đời dội vào, theo đó thơ ông cũng chuyển từ thiên

hướng diễn biến nội tâm sang khắc họa cuộc sống tỉ mỉ và sắc nét. Thái Bình mại ca giả và

Sở kiến hành là hai bài thơ tiêu biểu thể hiện sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật nói trên.

Thái Bình mại ca giả viết về một ông già mù hát rong ở châu Thái Bình. Đó thật sự là

một cảnh đời khiến nhà thơ xót xa, thương cảm. Ông già trong thân hình tiều tụy với bàn tay

run run, sờ soạng bước xuống thuyền, rồi cũng bàn tay ấy đã giơ lên rất nhiều lần trong lúc

hát để tỏ ý cảm ơn, cho đến cả dáng điệu thiểu não của ông trong suốt một trống canh mua

vui cho người khác đều được tác giả tái hiện thật xúc động. Tiếng đàn, tiếng hát của ông có

một sức chinh phục lạ lùng khiến cho người nghe mê đắm đến quên cả thực tại:

“Quan giả thập sổ tịnh vô ngữ,

(Hơn chục người xem đều lặng phắc

Chỉ thấy gió sông hiu hiu trăng sông vằng vặc)

Nhưng tất cả cái không khí thưởng thức nghệ thuật thành kính, trầm mặc kia nhanh chóng đổ

sập xuống khi nhà thơ viết đến đoạn cuối: màn biểu diễn kết thúc, một sự thực ngao ngán

bày ra:

“Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,

Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục”

(Gắng hết tâm sức gần một trống canh

Mà chỉ được năm sáu đồng tiền)

Đản kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh.”

(Thái Bình mại ca giả)

Có thể nói, bằng tình yêu thương con người bao la, ngòi bút chân thành và nồng thắm

của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở việc phản ánh hiện thực mà còn khơi sâu vào được các

mặt mâu thuẫn trong đời sống và biết làm cho những mâu thuẫn ấy hiện lên nhức nhối. Cái

cảnh tượng ông già mù dồn hết tâm lực hát trong suốt một trống canh cho đến sùi cả bọt mép

để chỉ nhận được có năm sáu đồng tiền, ấy vậy mà lúc chia tay, đã lên khỏi thuyền, sắp khuất

vào bóng đêm vẫn còn quay lai giơ tay tỏ ý chúc tụng những người đã nghe mình hát thêm

lần nữa đã đủ làm người đọc vô cùng xót xa. Nhưng chưa hết, toàn bộ cái hình ảnh trên sẽ

càng ám ảnh lòng người hơn nữa khi tác giả nhẹ nhàng đặt vào bên cạnh nó một cảnh tượng

tương phản đến trớ trêu – cảnh sống xa hoa của đoàn thuyền sứ:

“Hành nhân bão thực tiện khí dư,

Tàn hào lãnh phạn trầm giang để”

(Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vứt

Cơm nguội thức ăn thừa đổ xuống đáy sông)

Tình cảnh đó khiến thi nhân không thể cầm lòng được – “ngã sạ kiến chi bi thả tân”

(ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót). Không những thế, bài thơ còn hàm chưa một

dụng ý tố cáo tinh tế mà cũng thật sâu sắc: trong xã hội đó cái tài đã bị rẻ rúng biết nhường

nào.

Đặc biệt với bài Sở kiến hành, kiếp sống của “dân đen, con đỏ” lại càng hiện lên tê tái.

Đó là cảnh một người mẹ dắt ba con lê lết tha hương cầu thực. Đói rách, tiều tụy, buồn đau

in hằn lên dáng hình của họ:

“Nhật án bất đắc thực,

Kiến nhân bất ngưỡng thị,

Lệ lưu khâm lang lang.”

(Quá trưa rồi vẫn chưa được ăn

Áo quần sao mà rách rưới quá

Thấy người không dám ngước nhìn lên

Nước mắt chảy ròng ròng trên vạt áo)

Những đứa trẻ vẫn ngây thơ, hồn nhiên cười như không hay biết gì về hoàn cảnh của

mình, càng làm cho nỗi đau buồn dồn nặng thêm về phía người mẹ. Hơn ai hết Nguyễn Du

hiểu được người mẹ đang ruột nát tim tan vì điều gì. Đói kém, mất mùa, hạn hán đã đẩy

Y quần hà khuông nhương.

những người dân nghèo túng rơi vào bần cùng, và giờ đây trong hiện tại thê thảm họ như

nhìn thấy được cả cái tương lai xám xịt đầy ghê rợn đang đến rất gần:

“Duyên nhai nhật khất thực,

Thử kế an khả trường.

Nhãn hạ ủy câu hác,

Huyết nhục tự sài lang.

Mẫu tử bất túc tuất,

Phủ nhi tăng đoạn trường.

Kỳ thống tại tâm đầu (…)

(Ngày ngày dọc đường phố ăn xin

Kế ấy làm sao mà lâu dài được?

Nhìn thấy cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh

Máu thịt nuôi sài lang

Mẹ chết không đáng tiếc

Vỗ về con mà thêm đứt ruột

Trong lòng đau xót lạ lung (…))

Cảnh tượng trên thật gần gũi, gần gũi đến mức ta cảm giác như mấy mẹ con người ăn

xin kia không còn là câu chuyện xảy ra ở bên Trung Hoa nữa mà là hình ảnh của hàng ngàn

hàng vạn người nông dân Việt Nam nghèo khổ dưới chế độ phong kiến, những con người

hầu như lúc nào cũng đứng trước nguy cơ phải rơi xuống thân phận những kẻ hành khất nơi

đầu đường xó chợ. Nguyễn Du đã xắn ra được một mảnh sống vẹn nguyên phổ biến trong xã

hội phong kiến đương thời để nâng lên thành một bức tranh điển hình.

sâu sắc của nhà thơ đối với những người cùng khổ. Chắc hẳn trước khi nhìn thấy cảnh đó, ở

quê nhà ông cũng đã từng chứng kiến rất nhiều những cảnh đời tương tự. Hơn nữa trong tấm

lòng đau đời, thương người và khả năng cảm thông kì lạ đó còn có cả sự trải nghiệm của

chính bản thân nhà thơ. Bởi trên thực tế cuộc đời ông cũng rất nghèo. Đói rét và bệnh tật đều

không phải là điều xa lạ. Trong thơ đã hơn một lần Nguyễn Du thổn thức trước gia cảnh của

mình, nó cũng không khác gì với hoàn cảnh của mấy mẹ con người hành khất kia:

“Cố hương cang hạn cửu phương nông,

Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng”

(Quê hương nắng hạn lâu ngày hại đến việc nông

Bức tranh đó thật sự rất xúc động, thể hiện tình yêu thương vô bờ bến, sự đồng cảm

Mười miệng trẻ đói mặt cùng xanh như rau)

(Ngẫu hứng, bài 4)

“Thập khẩu đề cơ Hoành lĩnh bắc,

Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông”

(Mười miệng kêu đói ở phía bắc Hoành Sơn

Một thân nằm bệnh ở phía đông Hoàng thành)

(Ngẫu đề)

Thế nên, dễ hiểu vì sao Nguyễn Du lại có được sự cảm thông kì lạ và tình yêu thương

chân thành đến vậy. Song lòng nhân ái của ông không chỉ dừng lại ở sự cảm thương và chia

sẻ. Trước mỗi cảnh đời bất hạnh trái tim ông còn run lên đầy giận giữ khi nhận ra sự đối lập

đến phi lý giữa xã hội thượng lưu thừa mứa và tầng lớp nhân dân lao động đói khổ.

Với Sở kiến hành, lại một lần nữa bút pháp tương phản quen thuộc phát huy tối đa tác

dụng phơi bày những hiện thực phũ phàng trong xã hội. Bên cạnh bức tranh mấy mẹ con

người hành khất đang lã ra vì đói là cảnh tượng xa hoa phung phí của quan lại triều đình:

“Tạc tiêu Tây Hà dịch,

Cung cụ hà trương hoàng.

Lộc cân tạp ngư xí,

Mãn trác trấn trư dương.

Trưởng quan bất hạ trợ,

Tiểu môn chỉ lược thường.

Bút khí vô cố tích,

Lân cẩu yểm cao lương.

Hứu thử cùng nhi nương.”

(Đêm qua ở trạm Tây Hà

Tiệc tùng cung đốn sao mà linh đình thế

Gân hươu cùng vây cá

Đầy bàn thịt lợn, thịt dê

Quan lớn chẳng đụng đũa

Tùy tùng chỉ nếm qua loa

Bỏ mứa không đoái tiếc

Chó hàng xóm cũng chán cao lương

Bất tri quan đạo thượng,

Không biết trên đường cái quan

Có mẹ con nhà này khốn cùng đến thế)

(Sở kiến hành)

Xã hội đầy rẫy những bất công, dù không chỉ ra trực tiếp, nhưng ẩn chứa sau những

bức tranh tương phản đặt cạnh nhau một cách có dụng ý, ta vẫn nhận ra điều Nguyễn Du

muốn nói: trong cái xã hội đó, sự thừa mứa của tầng lớp này chính là nguyên nhân gây ra sự

cùng quẫn cho tầng lớp kia. Phải làm sao để giải quyết vấn đề này là một câu hỏi chắc chắn

không phải chỉ thoáng qua vài lần trong trái tim con người giàu lòng yêu thương ấy. Nung

nấu rất nhiều nhưng rồi vẫn bế tắc vì chính ông cũng tự hỏi “ai vẽ bức tranh này để dâng lên

nhà vua?”. Khi viết những câu thơ đó chắc Nguyễn Du cũng không nghĩ chính bản thân nó

đã là một bức tranh sống động nhất, khiến người đọc có lương tâm phải xót xa. Đúng như

nhà thơ Xuân Diệu từng nhận định: “Không yêu thương con người đến cháy ruột cháy gan,

thì không thể có hơi văn bênh vực sự sống như mẹ bảo vệ đứa con rứt ruột” [14, tr55] như

thế.

Đứng ở góc độ một vị quan, Nguyễn Du cũng thể hiện rất rõ quan niệm của mình về

trách nhiệm của người trí thức trước quần chúng. Bởi vậy, ông dành rất nhiều trang thơ để

viết về những bậc hiền thần Trung Hoa, đâu phải chỉ để cảm thương cho số phận nhiều oan

trái của họ mà còn tỏ lòng cảm phục trước tinh thần yêu nước thương dân của người xưa.

Ông kính trọng và cảm thấy gần gũi vô cùng với Đỗ Phủ không chỉ vì sự tương đồng cảnh

ngộ mà còn là sự gặp gỡ nhau ở lòng nhân ái. Hẳn Nguyễn Du đã rất cảm động trước tấm

lòng của nhà thơ tài hoa phương Bắc khi giữa mùa thu lạnh giá, ngôi nhà tranh bị gió thu

thổi tóc mái, phải dầm mình trong mưa qua đêm, vậy mà trong hoàn cảnh đó vẫn chỉ có một

Với Nguyễn Du cũng vậy, yêu thương nhân dân là đem lại hạnh phúc và ấm no cho

họ, đồng thời luôn nhận trách nhiệm về mình trước mọi tình huống. Khi đi sứ sang Trung

Hoa, trên đường gặp phải loạn lạc, bản thân ông cũng phải nhịn đói năm ngày liền, thế

nhưng ông vẫn có cái nhìn cảm thông đối với những người dân khởi loạn. “Bần cùng sinh

đạo tặc” là lẽ đương nhiên, cái lỗi đó thuộc về những kẻ chăn dân một phần. Thái độ của ông

về vấn đề này thật thẳng thắn:

“Hoàng trì lộng giáp bất túc đạo,

Sảo gia tồn tuất đương tự bình.

“Dân tử tại tuế bất tại ngã”

ước mơ duy nhất, ước có ngôi nhà ngàn vạn gian để che ấm cho muôn dân qua cơn giá buốt.

Vật đắc khi tâm tế thánh minh.”

(Chơi đùa đồ binh trong vũng ao chẳng đáng nói

Khéo tỏ lòng thương một chút là yên ngay

“Dân đói vì năm hạn đâu phải tại ta”

Chớ nên dối lòng mà che mắt vua thánh )

(Trở binh hành)

Là những người ăn lộc của nhân dân, vua quan cần phải chịu trách nhiệm trước nỗi

thống khổ của họ, phải “giữ gìn cho dân như cha anh”. Cũng trên đường đi sứ, dừng chân nơi

quê cũ của Dương Phi, người xưa nay vẫn bị các triều đại phong kiến Trung Hoa chỉ trích vì

tội làm khuynh thành, Nguyễn Du cảm thông sâu sắc và đứng về phía nàng mà lên tiếng

bênh vực:

“Tự thị cử triều không lập trượng,

Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.”

(Từ đấy cả triều đều là người đứng như phỗng

Mà nghìn năm còn đổ tội oan cho người đẹp khuynh thành)

(Dương Phi cố lý)

Cùng với việc mang lại hạnh phúc, ấm no, là kẻ làm quan còn phải bảo vệ quyền sống

cho con dân của mình. Vậy mà xã hội thời ông sống lại không ít phen rơi vào nạn binh đao,

đẩy trăm họ vào cảnh khốn cùng, loạn lạc. Đối với chiến tranh, cũng như Nguyễn Trãi,

Nguyễn Bỉnh Khiêm trước đó, Nguyễn Du luôn có thái độ rõ ràng, ông quan niệm:

“Tạc giả đại khuy sinh vật đức,

Nhi lai bất quý sát nhân công.”

Từ nay không quý cái công giết người nữa)

(Ngẫu đắc)

Đây thật sự là một tư tưởng tiến bộ, ngời sáng tinh thần nhân văn cao đẹp của một

nhân cách tuyệt vời. Có thể nói, ở Nguyễn Du tinh thần trách nhiệm, thương dân như con của

một vị quan đã kết hợp nhuần nhuyễn với tầm hồn mẫn cảm trước nỗi thống khổ của con

người của một nghệ sĩ chân chính tạo thành tình yêu thương chân thành và sâu sắc. Chính

tình yêu thương bao la mà thuần khiết đó đã soi sáng cho ông dẫu còn đứng trong ý thức hệ

phong kiến vẫn nhìn thấy được sự bất công để lên tiếng bênh vực cho những người bị chà

đạp.

(Trước kia đã thương tổn rất nhiều đến cái đức hiếu sinh của tạo hóa

Dường như Nguyễn Du sinh ra là để yêu thương, để làm chiếc băng gạc cho bao trái

tim tan vỡ. Ông tự nhận là tri kỉ của những kiếp hồng nhan mà đa truân; cùng ngồi lên con

thuyền chòng chành số phận với những người tài hoa, trung nghĩa mà mắc nỗi oan lạ lùng;

đồng thời ông cũng bước xuống hòa vào lòng nhân dân để cảm thông với nỗi nhọc nhằn vất

vả của họ. Trái tim ông mênh mông một tình yêu thương thuần khiết dành cho con người.

Mà những gì xuất phát từ trái tim thì sẽ dễ đến được với trái tim. Người đọc bao thế hệ yêu

mến Nguyễn Du cũng vì lẽ đó. Đúng như Nguyễn Khánh Toàn trong bài diễn văn đọc ở buổi

lễ kỉ niệm 200 năm năm sinh của Nguyễn Du ở Hà Nội đã viết: “Chúng ta kỉ niệm một nhân

vật mà tâm hồn và những ý nghĩ đã chan hòa với tâm hồn và những ý nghĩ của biết bao con

người trên trái đất từ khi xã hội loài người có áp bức và bóc lột. Nhân vật ấy đã mượn lời thơ

để nói lên lòng đau xót của mình đối với số phận con người bị chà đạp”.

Có thể thấy từ Nguyễn Trãi sang Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Nguyễn Du, vẻ đẹp của con

người nhân văn bộc lộ ở tinh thần trách nhiệm của người trí thức trước cuộc đời đã có những

thay đổi trong biểu hiện.

Nguyễn Trãi nhập thế khi đạo Nho bắt đầu được lập làm hệ tư tưởng chính thống, dẫu

vậy không khí của cái học Thiền, Lão vẫn còn vương vấn. Vì thế, con người Nguyễn Trãi

xuất hiện trong thơ vừa là mô hình của nhân cách nhà nho lại vừa là khuôn mẫu của hình

tượng người yêu nước đậm chất sử thi ở giai đoạn trước còn vang vọng lại. Sự hôi tụ của hai

tố chất này đã làm thăng hoa trong Nguyễn Trãi một lý tưởng cống hiến trọn vẹn cho nước

cho dân. Ở ông ý thức công dân, ý thức bổn phận được phát huy một cách triệt để đến quên

mình. Bài học của Nho giáo về cách ứng xử trước thời thế, biết hành và tàng đúng lúc để giữ

khổ, nhất là những khi hoàn cảnh không như ý, và không phải không có lúc ông đã chọn

cách quay về, nhưng đó nhất định không phải là lẽ sống của ông. Là người ý thức rất rõ về

cái tài của mình, Nguyễn Trãi quan niệm có tài thì phải dùng vào việc lớn, phải có ích cho

dân, cho con người (Tùng). Thế nên, dẫu chán ghét thói nhà quan lạnh nhạt, thì cuối cùng

con đường mà ông chọn vẫn là dấn thân, nhập thế, để cho cái tài lương đống không bị uổng

phí. Như vậy, lí tưởng sống của ông chính là tinh thần đại dụng.

May mắn thay, Nguyễn Trãi lại được sống trong thời đại mà vương triều phong kiến

phát triển đến mức hưng thịnh nhất. Trong hoàn cảnh đó, khái niệm tổ quốc, dân tộc không

tách rời với khái niệm nhà nước phong kiến. Thế nên, thực thi tinh thần đại dụng chính là

gìn khí tiết được trong sạch đã đẩy nhà thơ vào những tình thế lựa chọn đầy day dứt và đau

đem hết tài năng và trí tuệ của mình để giúp vua chấn quốc an dân, xây dựng một mô hình

nhà nước phong kiến kiểu mẫu có vua sáng tôi hiền, một xã hội hoàn hảo như thời Nghiêu

Thuấn để mang lại thái bình, no ấm và hạnh phúc cho muôn dân. Vì vậy, ở Nguyễn Trãi

ngời sáng vẻ đẹp của con người hành động, dấn thân và nhập thế một cách trọn vẹn. Đồng

thời, theo đó, ý thức trách nhiệm trước cuộc đời cũng mang tầm vĩ mô, vô cùng lớn lao và

cao cả.

Sang Nguyễn Bỉnh Khiêm, do độ lùi thời gian so với thời Nguyễn Trãi chưa lâu nên

cũng có rất nhiều gần gũi. Khao khát một đời của người thầy bên sông Tuyết cũng không

ngoài việc xây dựng một nhà nước phong kiến với “Thái bình thiên tử thái bình dân”. Nhưng

không thuận lợi như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại sống trong một thế kỉ đầy biến

động với nội chiến diễn ra liên miên đẩy trăm họ vào cảnh khốn cùng, cương thường đạo lý

cũng bắt đầu có những nứt vỡ khiến cho mong muốn nhập thế giúp đời cứ lần lữa mãi. Cuối

cùng ông cũng tìm được thời cơ để nhập cuộc, không hăm hở và tràn đầy niềm tin như Ức

Trai, nhưng ông vẫn hy vọng tài năng của mình có thể “phò nghiêng đỡ lệch” cho vận nước

lúc ngả nghiêng. Song hiện thực không đi cùng với mơ ước, đứng trước sự lựa chọn đầy mâu

thuẫn, ông tỏ ra dứt khoát hơn Nguyễn Trãi rất nhiều, quyết định quy ẩn được đưa ra ngay

sau khi dâng sớ chém mười tám lộng thần không được nhà vua chấp thuận.

Trở về với ruộng vườn để giữ khí tiết được trong sạch nhưng không có nghĩa là quay

lưng lại với cuộc đời. Tấm lòng “ tiên ưu hậu lạc” làm sao Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể dứt ra

được, ông đành chọn một cách thực hiện mới cho phù hợp với hoàn cảnh, nghĩa là không lập

công thì quay về lập ngôn. Ông xây am Bạch Vân, dựng quán Trung Tân, làm thơ giáo lý, tất

cả đều với một mong muốn duy nhất: chấn chỉnh lại trật tự xã hội bằng con đường phục hồi

nhiều hơn, nên việc thực hành đạo cũng mang tính hiện thực hơn. Thế nên, ở nhân vật trữ

tình hiện lên trong thơ, cái phần con người hành động mờ dần, thay vào đó là sự hình thành

con người suy tư, trăn trở, thậm chí có cả những day dứt, muộn phiền về nhân tình thế thái.

Đến Nguyễn Du, hoàn cảnh xã hội đã hoàn toàn thay đổi, chế độ phong kiến không

còn có thể vận hành theo lẽ thịnh suy đắp đổi nữa mà đang rơi dần xuống vực thẳm để rồi lụi

tắt. Mọi cương thường đạo lí đều đứt vỡ tan tành không phương cứu vãn, đạo Nho tuy trở

thành công cụ đắc lực của chế độ phong kiến nhưng lại mất hẳn chỗ đứng trong lòng các nhà

nho tiến bộ. Vì thế, cái giấc mơ về một nhà nước phong kiến có vua sáng tôi hiền như thời

đạo lý. Cũng nhờ sự trở về này, Bạch Vân Cư Sĩ càng có điều kiện gần gũi với nhân dân

Nghiêu Thuấn đã quá xa vời và không còn đủ sức ru vỗ những con người quá tỉnh táo trước

hiện thực như Nguyễn Du được nữa.

Cùng với sự sụp đổ của một thể chế chính trị là sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, đã đến

lúc con người biết vùng dậy, tách khỏi cái ta cộng đồng để nhận thức chính mình và những

người xung quanh. Tất cả những điều này khiến cho thơ Tố Như thấm đẫm vị đời. Ở đó, hiện

lên một con người đầy ưu tư, đau đời và thương người tha thiết.

Bi kịch của ông không phải là sự lựa chọn đầy day dứt giữa xuất và xử như Nguyễn

Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm nữa mà là cái tài không còn chỗ dung thân, thậm chí còn đi liền

với tai họa, đau đời nhưng không cứu được đời, không cứu được đời nhưng ông không hề lẩn

trốn, vẫn trằn mình cùng với nỗi thống khổ của con người.

Đến Nguyễn Du con người hành động đã nhường chỗ cho con người suy tưởng. “Con

người ấy tiếp nhận tất cả mọi cay đắng trong đời với một thái độ lặng lẽ chịu đựng. Nhưng

bên trong con người đó, một cuộc đấu tranh ngấm ngầm chống lại mọi nguy cơ sa ngã diễn

ra dai dẳng không ngừng. Và so với người khác, những nỗi cực nhọc mà con người ấy chịu

còn phải nhân lên gấp mấy lần, vì nó dồn nén súc tích lại thành những nỗi đau vò xé tâm can,

chứ không được giải phóng ra bằng hành động”[14, tr63].

Tóm lại, tùy thuộc vào hoàn cảnh, mỗi nhà thơ đều có những cách bày tỏ sự quan tâm

của mình với thời cuộc. Ở những nhân cách lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và

Nguyễn Du, dù cách thể hiện không hoàn toàn giống nhau nhưng chung quy lại nó đều bắt

nguồn từ tình thần yêu nước thương dân, trái tim luôn nặng lòng với cuộc đời, gắn bó sâu sắc

với thời đại. Đồng thời sự vận động trong cách thể hiện thái độ, tình cảm của họ đối với cuộc

đời in dấu vào trong thơ cũng làm cho văn học thời kì này có những biến chuyển sâu sắc. Về

định lại trật tự phong kiến. Về mặt nghệ thuật, cùng với việc phát huy tính dân tộc trong

truyền thống văn học, thì tính hiện thực và tính nhân dân ngày càng phát triển đậm nét trong

sáng tác từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du.

mặt tư tưởng, đó là quá trình đi từ sự khẳng định trật tự phong kiến sang nghi ngờ và phủ

CHƯƠNG III. CON NGƯỜI NHÂN VĂN ĐẸP TRONG TÌNH YÊU

THIÊN NHIÊN VÀ LỐI SỐNG HÀI HÒA

CÙNG VẠN VẬT

1. Nguyễn Trãi với niềm vui sống giữa thiên nhiên

Suốt một đời lo nước thương dân, lý tưởng cống hiến và tình thần đại dụng luôn nung

nấu trong lòng; dù ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ơn vua nợ nước vẫn không

hề khuây khỏa… Đó là những chiều kích làm nên con người vĩ nhân nơi Nguyễn Trãi. Song

bên trong con người lớn lao cao cả đó còn có một con người rất đỗi bình thường, và chính

con người bình thường này đã làm cho con người vĩ nhân được trọn vẹn hơn. Đó là khi

người anh hùng dân tộc hòa mình vào thiên nhiên bằng một sự trải lòng vô cùng chân thành

của người nghệ sĩ. Có thể nói tình yêu tạo vật cũng là một chiều kích khác nữa để đo tâm

hồn Ức Trai.

Thiên nhiên vốn là nguồn cảm hứng chung của thi ca kim cổ, và là đề tài quen thuộc

trong thơ của nhà Nho – “cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ”, điều này cũng có nguyên nhân mỹ

học của nó. Thứ nhất, Nho giáo quan niệm, nhân cách nhà Nho là do tiên thiên – có nguồn

gốc thiên nhiên, vì thế nhân cách ấy bao giờ cũng hướng về thiên nhiên như hướng về môi

trường trong sạch để di dưỡng tinh thần. Thứ hai, cũng theo quan niệm của Nho giáo, cái

mẫu mực thuộc về quá khứ, còn cái trong sạch lại chủ yếu ở trong thiên nhiên. Thứ ba, với

nhà Nho, điều đáng phô bày, đáng tự hào nhất ở con người mình là việc biết thụ cảm, biết

chiêm ngưỡng cái đẹp của thiên nhiên vĩ đại, không những thế thiên nhiên cũng là người bạn

chân chính để nhà Nho thổ lộ tâm sự của mình.

giá đựng trong bình ngọc”, nên Nguyễn Trãi cũng có lúc không tránh khỏi thụ cảm thiên

nhiên theo phương thức chủ quan hóa nó – nghĩa là dùng thiên nhiên như những biểu tượng

thay thế cho một phẩm chất nào đó của người quân tử. Vì vậy, những mẫu hình thiên nhiên

mang tính quy phạm đều có mặt đầy đủ trong thơ Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi cây tùng – “một

mình lạt thuở ba đông” – vì cây tùng là hình ảnh của người đại trượng phu; yêu quý cây trúc

– “ưa mày vì bởi tiết mày thanh” – vì cây trúc là hình ảnh của người quân tử. Trong thơ ông,

cúc, mai xuất hiện rất nhiều vì đó là những loài hoa biểu trưng cho sự trắng trong, tinh khiết;

thơ ông cũng nói đến ngư, tiều, canh, mục vì đó đều là những nghề nghiệp sạch trong; tuyết,

nguyệt, phong, hoa không thể thiếu vì đó đều là những thú chơi tao nhã.

Nguyễn Trãi cũng là một nhà Nho, một nhà Nho với nhân cách sạch trong như “băng

Là một nhà Nho nhập thế trọn vẹn với một tấm lòng yêu nước thương dân luôn nung

nấu như “lửa lò luyện đan” – Nguyễn Trãi cũng rất có cảm hứng trước thiên nhiên hùng vĩ

của đất nước. Thần Phù hải khấu, Bạch Đằng hải khẩu, Long Đại nham, Vân Đồn…đều là

những bức tranh hoành tráng của giang sơn gấm vóc.

Với mảng thiên nhiên này, cảm hứng của Nguyễn Trãi luôn là cảm hứng của người

nhìn từ trên cao xuống cảnh vật mình miêu tả. Vì thế, dưới cặp mắt nhà thơ, biển Thần Phù

hiện lên với “sóng rồng như kình phun”, “núi liền như giáo dựng”; cửa biển Bạch Đằng với

“núi từng khúc như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ / Bờ lớp lớp như cây qua chìm, cây kích

gãy”; và ngọn núi Đầu Rồng bên bờ Nam cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) trong bài “Long Đại

nham” thì lại hiện lên như một câu chuyện thần thoại: “Ngao đội núi lên núi có động / Kình

bơi lấp biển biển thành ao”… Cảm hứng vũ trụ hòa trong cảm hứng anh hùng đã tấu thành

khúc tráng ca về thiên nhiên kì vĩ trong thơ Nguyễn Trãi.

Có thể nói, bằng con đường kéo thiên nhiên về với mình, Nguyễn Trãi đã phô diễn

những phẩm chất cao quí của một nhà Nho, đó là cốt cách thanh cao, bản lĩnh cứng cỏi và

tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước.

Là nhà thơ của thiên nhiên, cảnh vật trong thơ Ức Trai không chỉ có thế mà vô cùng

phong phú, phong phú như chính bản thân vũ trụ vậy. Thế nên, bên cạnh “giang sơn như tạc

anh hùng thệ” còn có “con lều be bé đẹp sao”. Xen giữa tùng, trúc, cúc, mai là vô vàn những

“sản hằng” của quê ta giàu có. Mảng thơ thiên nhiên này chủ yếu gắn liền với quê nhà Côn

Sơn, đến với thi nhân khi ông về ở ẩn tại nơi này. Và đây mới thật sự là lúc Nguyễn Trãi hòa

mình vào thiên nhiên, mở lòng đón nhận mọi rung động của muôn loài vang âm bằng chính

tâm hồn của một nghệ sĩ thuần túy. Chính vì thế, thiên nhiên bước vào thơ ông mang một nét

Với Nguyễn Trãi, thiên nhiên là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho con người.

Vì thế, những gì thuộc về thiên nhiên đều được ông nâng niu, yêu mến. Tùng, trúc, cúc, mai

là những loài cao quí vì nó tượng trưng cho những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử,

song bè rau muống, lãnh mồng tơi, vị núc nác …cũng có giá trị thiết thực vì nó mang lại no

ấm cho lương dân. Hồn thơ rộng mở của Nguyễn Trãi đã phá vỡ rào cản của tính quy phạm

để mở cánh cửa cho những cảnh vật rất đỗi bình dị của thôn quê bước vào. Vườn thơ

Nguyễn Trãi càng sinh động hơn khi có mặt những cỏ cây hoa lá gần gũi, dân dã:

“Tả lòng thanh vị núc nác

Vun đất ải luống mồng tơi”

độc đáo rất riêng, không nhầm lẫn được.

(Ngôn chí, bài 9)

“Ai có của thông phòng thết khách

Một ao niềng niễng mấy đòng đòng”

(Thuật hứng, bài 11) “Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen”

(Thuật hứng, bài 24)

Đó đều là những công việc quen thuộc của nhà nông, những sản vật quen thuộc của

ruộng đồng mà chỉ những ai thật sự am hiểu và gắn bó mới có thể đưa vào thơ một cách tự

nhiên đến thế.

Được sống trong thiên nhiên là một lạc thú lớn đối với Nguyễn Trãi. Ông vốn không

thích chốn quan trường, rất nhiều lần trong thơ Nguyễn Trãi bộc bạch “tường đào ngõ mận

ngại thung thăng”, ngược lại luôn tự nhận mình có duyên cùng non nước. Sở dĩ “hài hoa còn

bợn dặm thanh vân” cũng chỉ vì “nợ quân thân chưa báo được”. Để rồi, suốt những năm

tháng làm quan, bên cạnh lý tưởng cống hiến cho dân cho nước thì thiên nhiên luôn như là

một tiếng gọi huyền bí, một mối dây ràng buộc thiêng liêng với tâm hồn nhà thơ, thường

xuyên thúc giục ông quay về.

Thế nên, khi có điều kiện trở về với thiên nhiên, dù trong hoàn cảnh bất đắc dĩ, song

Nguyễn Trãi cũng có được cảm giác thanh thản khi thỏa được giấc mơ ngày nào:

“Hà thời kết ốc vân phong hạ

Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên”

(Bao giờ làm được nhà dưới núi mây

Múc nước suối nấu chè, gối đầu lên đá mà ngủ)

Và cũng chính nơi đây, ông đã tìm được niềm vui dù chưa trọn vẹn sau những thất

vọng chốn quan trường. Trên hành trình về với thiên nhiên Nguyễn Trãi đã cố gắng bỏ lại

những phiền toái hư ngụy của cuộc đời để tìm cho mình một thú vui riêng:

“Dù bụt dù tiên ai kẻ hỏi

Ông này đã có thú ông này”

(Mạn thuật, bài 6)

Với một người yêu thiên nhiên như Nguyễn Trãi, thì cái thú ấy là gì nếu không phải là

thú thanh nhàn, thú nhà quê, được giao cảm với muôn loài và trải nghiệm cuộc sống lao động

của những người chân bùn tay lấm. Ở đó không còn nữa hình ảnh của một vị quan đầu triều,

(Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác)

chỉ còn lại ông già Nguyễn Trãi cũng xắn áo, lột hài bước xuống ruộng vườn như một lão

nông:

“Một cày một cuốc thú nhà quê

Áng cúc lan xen vãi đậu kê”

(Thuật hứng, bài 3)

Còn nữa:

“Đạp áng mây ôm bó củi

Ngồi bên suối gác cần câu”

(Thuật hứng, bài 5)

Cuộc sống cứ thế trôi qua, bình yên, vô sự mà không hề đơn điệu khi con người vượt

xa những mong cầu vinh hoa phú quý tầm thường, vượt lên trên những khen chê của thói tục

để thụ hưởng cái đẹp thuần hậu nhất của thiên nhiên. Và một khi cuộc sống vật chất đã

không còn được coi trọng thì đời sống tinh thần chắc chắn sẽ thăng hoa:

“Am trúc hiên mai ngày tháng qua

Thị phi nào đến cõi yên hà

Bữa ăn dầu có dưa muối

Áo mặc nài chi gấm là

Nước dưỡng cho thanh đìa thưởng nguyệt

Đất cày ngõ ải luống ương hoa

Trong khi hứng đọng vừa đêm tuyết

Ngâm được câu thần dắng dắng ca”

(Ngôn chí, bài 3)

như khói, phong thái đó chỉ có thể có được khi con người được sống trong một bầu không

khí sạch trong, tinh khiết mà rất đỗi hiền hòa của cảnh vật.

Đôi khi chỉ cần một vài nét chấm phá là Ức Trai đã có một bức tranh thiên nhiên giản

dị nhưng vô cùng trong sáng, gợi cảm giác bình yên nhẹ nhàng khiến người đọc soi vào như

thấy tâm hồn mình trong trẻo hơn :

“Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc

Ngày vắng chim kêu cuối khóm hoa”

(Ngôn chí, bài 17)

Con người hiện lên giữa thiên nhiên với một phong thái thanh cao, nhẹ tênh như mây

Có một điều lạ là thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi thường thiếu vắng sinh hoạt nhân

sự. Con người duy nhất chính là thi nhân, hiện lên thông qua cảnh, vậy mà cảnh chưa bao

giờ rơi vào cô liêu, ngược lại vẫn tươi vui một cách yên ả, thanh bình. Phải chăng vì Ức Trai

đã thổi hồn vào trong cảnh nên cảnh cũng như người, cũng biết sẻ chia và thấu hiểu? Câu hỏi

đó thiết nghĩ cũng chẳng khó trả lời. Bởi trên thực tế, Nguyễn Trãi đã tìm thấy tình tri âm nơi

cảnh vật. Đặc biệt là sau khi trở về từ chốn tường đào ngõ mận với thói nhà quan lạnh nhạt,

miệng lưỡi người như gươm mác, lòng người thì quanh co như ruột ốc, lại càng nhận ra “còn

một non xanh là cố nhân”. Dù năm tháng trôi qua, cỏ cây sông núi vẫn thủy chung đợi chờ,

vẫn luôn chân thành, nồng thắm, được sống bên những tri âm tri kỉ như thế thì làm sao còn

cảm giác cô đơn:

“Rượu đối cầm đâm thơ một thủ

Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người”

(Tự Thán, bài 6)

Tìm về với hương đồng gió nội, Nguyễn Trãi đâu còn giữ mình ở vị trí của chủ thể

thưởng ngoạn khách thể, mà bước vào thế giới đó với tư cách là một thành viên, “nhà thơ và

cảnh vật tự nguyện hòa lẩn với nhau như bầu bạn, như anh em, tình trong cảnh ấy, cảnh

trong tình này. Cho nên, đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy rất thoải mái ; thơ đầy cá tính, cá tính

rất mạnh mẽ, sâu sắc nhưng lại thanh đạm như nước, hòa hảo như gió, bao dung như dòng

sông rộng. Không vào giữa thiên nhiên để làm vương làm tướng, làm ông chủ, mà vào giữa

đất trời, cỏ cây như vào trong cái nhà lớn mà tâm hồn mình vẫn ở. Thật là ung dung, hoằng

đại, sảng khoái, phóng khoáng” [52. tr231]

Ủ ấp cùng ta làm cái con”

(Ngôn chí, bài 20)

“Núi láng giềng, chim bậu bạn

Mây khách khứa, nguyệt anh tam”

(Thuật hứng, bài 19)

Vậy là, dẫu trở về với núi rừng, song Nguyễn Trãi không hề bị cô lập. Ở đó ông vẫn

thiết lập một xã hội mới, với những mối quan hệ đặc biệt, bạn bè là trăng gió, chim muông ,

nô bộc là quýt cam, cái con là cò hạc, khách khứa là núi mây... Quan hệ với những nhân vật

này, Nguyễn Trãi có được sự thanh thản và dễ chịu vì chúng thật vô tư, hồn nhiên và thú vị :

“Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn

“Nô bộc ắt còn hai rặng quýt

Thất gia chẳng quản một con lều”

(Mạn thuật, bài 2)

Và :

“Láng giềng một áng mây bạc

Khách khứa ngàn núi xanh”

(Bảo kính cảnh giới, bài 42)

Mở lòng cùng thiên nhiên, tự xem mình như một thành viên trong tổng hòa trời đất

xung quanh, Nguyễn Trãi cảm nhận được trong những cảnh vật nhỏ bé như cũng có linh hồn,

sống hòa hợp và cảm thông được với con người, biết đáp lại tình yêu thương của con người

bằng sự vuốt ve, mơn trớn:

“Hái cúc, ương lan, hương bén áo

Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn”

(Thuật hứng, bài 15)

Và để cho thiên nhiên gần gũi và yêu mến mình hơn, thi nhân thay đổi cả cách ăn mặc,

sử dụng chất liệu từ cỏ cây làm trang phục cho mình, vị quan ngày xưa giờ trở về với núi

rừng, bình dị mà thanh thoát như một bậc cao sĩ:

“Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh

Ao bô quen cật vận xênh xang”

(Tức sự, bài 4)

Cuộc sống giữa thôn quê của Nguyễn Trãi có thể nghèo vật chất song lại vô cùng giàu

có về tinh thần. Bởi nơi đây nhà thơ được đón nhận tình yêu thương hiền hòa của tạo vật, cái

hoa lá, bắt nhịp được với thế giới tâm hồn vốn rất vi diệu của thiên nhiên:

“Khách đến chim mừng, hoa xảy động

Chè tiên nước kín, nguyệt đeo về”

(Thuật hứng, bài 3)

Không biết ra đời trước hay sau câu thơ trên của Nguyễn Trãi, nhưng trong kho tàng

ca dao Việt Nam cũng có một hình ảnh tương tự đã làm say lòng bao thế hệ người Việt: “Hỡi

cô tát nước bên đàng, Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” – Người nghệ sĩ bình dân bỗng

thăng hoa cảm xúc trước một bức tranh lao động tuyệt mỹ, hình ảnh cô gái quê tát nước đêm

trăng, từng gàu nước múc lên lóng lánh ánh vàng như đang tát cả ánh trăng đổ vào ruộng lúa,

tình đậm đà của muôn loài đủ làm nguôi đi bao phiền muộn, ưu tư để có thể vui với cỏ cây

và cứ thế trăng tan rồi tụ, tát mãi không bao giờ vơi. Có lẽ, với nhân loại nơi hạ giới này,

trăng không chỉ là nữ hoàng của sắc đẹp mà còn là nguồn thi hứng dạt dào của thi nhân, và

với Nguyễn Trãi, điều đó cũng không ngoại lệ. Trăng trong thơ Nguyễn Trãi là nguyệt, là

người bạn tri âm tri kỷ - “ Ta cùng bóng với nguyệt ba người”. Thơ ông viết về trăng rất

nhiều, sáu mươi hai lần mà lần nào trăng hiện lên cũng đẹp, cũng trong sáng và gần gũi,

trăng đến với nhà thơ khi ông gánh nước, khi uống rượu, lúc ngâm thơ…, khi vui cũng như

khi buồn trăng đều nồng nàn tha thiết.

“Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén

Ngày vắng xem hoa bợ cây”

(Ngôn chí, bài 10)

Sự tương giao với thiên nhiên không chỉ giúp Nguyễn Trãi chạm đến được nhịp thở

nằm sâu trong lớp vỏ bề ngoài tưởng chừng như vô tri vô giác của cảnh vật mà còn gọi dậy

năng lực cảm thụ đặc biệt nơi tâm hồn vốn đã vô cùng tinh tế và nhạy cảm của thi nhân. Đó

là khi Ức Trai nhận ra sự diệu kì của âm nhạc có thể tương giao được với vũ trụ:

“Ngư ca tam xướng yên hồ khoát

Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao”

(Tiếng hát của ông chài ba lần cất lên làm cho

mặt hồ phủ khói như mở rộng ra.

Trẻ mục đồng thổi một tiếng sáo

làm cho trăng trên trời như cao hơn)

(Chu trung ngẫu thành)

Hai câu thơ tuyệt vời này dễ làm người đọc liên tưởng đến những bài thơ Haikư độc

“Từ bốn phương trời xa

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi – wa”

“Vắng lặng u trầm

thấm sâu vào đá

tiếng ve ngâm”

Hai nhà thơ ở hai đất nước khác nhau đã gặp nhau trong một triết lý về thiên nhiên vô

cùng sâu sắc.

đáo của nhà thơ Basho:

Trước thiên nhiên, một nhà thơ bình thường thì chụp ảnh lại nó, chỉ những thi sĩ tài

hoa và thật sự rung động mới nắm bắt được cái thần thái của cảnh vật. Nguyễn Trãi chính là

nhà thơ như thế, với ông, một tiếng chim kêu, một làn gió thoảng, một thoáng hương bay,

mấy hạt mưa thu rơi nhẹ… tất cả đều có thể chạm đến tơ lòng thi nhân khiến trái tim ông cứ

run lên thổn thức trước những biểu hiện âm thầm và vi diệu nhất của tạo vật:

“Am rợp chim kêu hoa xảy động

Song im hương tịn khói sơ tàn

Mưa thu rưới ba đường cúc

Gió xuân đưa một lảnh lan”

(Ngôn chí, bài 16)

Cái thần thái của bức tranh nằm ở sự chuyển động hài hòa của mọi bộ phận, tất cả hiện

lên đều trong sáng, tinh khôi, tịnh không vướng bụi trần. Đó chính là vẻ đẹp ban sơ của thiên

nhiên đủ sức thanh lọc tâm hồn con người.

Yêu thiên nhiên, Ức Trai nâng niu và trân trọng từng khoảnh khắc bình yên của

chúng. Nhà thơ không dám có bất kì một hành động sơ suất nào khiến chúng bị ảnh hưởng:

“Đìa tham nguyệt hiện chăng buông cá

Rừng tiếc chim về ngại phát cây”

(Mạn thuật, bài 6)

“Chẳng cài cửa tiếc non che khuất

Sá để thuyền cho nguyệt chở nhờ”

(Tự thán, bài 38)

Trái tim đa cảm của thi nhân còn biết rung lên thương xót cả xác hoa rơi

Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo”

(Mạn thuật, bài 10)

Những tình cảm nồng nàn và sâu sắc như thế không phải ai cũng có được, chỉ khi con

người thật sự yêu thiên nhiên, hòa điệu cùng thiên nhiên bằng nhịp đập con tim và hơi thở

của mình mới cảm nhận được hoa lá cỏ cây cũng biết đau, cũng cần được yêu thương, bảo

vệ.

Có thể nói thiên nhiên đối với Nguyễn Trãi có một mối tương thông đặc biệt, lực hút

của thiên nhiên đối với tâm hồn thi nhân thật lạ kì. Giải thích về vấn đề này, Hoàng Phủ

Ngọc Tường cho rằng: “Ở Nguyễn Trãi, thiên nhiên là nơi con người tiếp giáp với vũ trụ, và

“Viện có hoa tàn chăng quét đất

ở đó không có một đường chân trời nào cả. Và với Nguyễn Trãi, Côn Sơn không phải là một

cảnh đẹp kêu gọi mà chính là môi trường tiếp giáp của tâm hồn ông với cái vô cùng” [65.

tr59]. Tác giả này cũng cho rằng hình ảnh non xanh đeo đẳng mãi chính là hoài niệm về căn

nhà vũ trụ kín ẩn giữa tâm hồn Nguyễn Trãi. Nhìn nhận vấn đề từ góc độ tâm linh, có thể

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có lý chăng? Chỉ biết rằng, với Nguyễn Trãi về với núi rừng Côn

Sơn là trở về với ngôi nhà mà tâm hồn mình vẫn ở. Về đó, ông đã hòa nhập vào lòng núi

non, trăng gió như một thành viên không thể thiếu:

“Côn Sơn hữu tuyền

Kỳ thanh linh linh nhiên

Ngô dĩ vi cầm huyền

Côn Sơn hữu thạch

Vũ tẩy đài phô bích

Ngô dĩ vi đạm tịch

Nham trung hữu tùng

Vạn cái thúy đồng đồng

Ngô ư thị hồ yển tức kì trung

Lâm trung hữu trúc

Thiên mẫu ấn hàn lục

Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kì trắc”

(Côn Sơn có suối

Tiếng nước chảy róc rách

Côn Sơn có đá

Ta lấy làm đệm chiếu

Trong núi có thông

Muôn chiếc lộng biếc um tùm

Ta nằm nghỉ ngơi ở trong đó

Trong rừng có trúc

Nghìn mẫu in màu xanh mát lạnh

Ta ngâm nga ở bên cạnh…)

(Côn Sơn ca)

Mưa rửa rêu phô biếc

Côn Sơn hiền hòa bao dung như lòng mẹ, đón nhà thơ như đón đứa con xa trở về. Nơi

đó cũng chính là hình ảnh quê hương trọn vẹn trong nỗi nhớ của Nguyễn Trãi suốt những

năm tháng đi xa.

Gắn bó với thiên nhiên cũng là một biểu hiện của tình yêu quê hương tha thiết. Tình

yêu ấy kết hợp với con mắt quan sát tinh tế, nhạy bén và óc liên tưởng phong phú, độc đáo

đã xây dựng nên những bức tranh quê đặc biệt sinh động, thi vị:

“Tằm ươm lúc nhúc, thuyền đầu bãi

Hàu chất so le, khóm cuối làng”

(Ngôn chí, bài 8)

Hình ảnh quê hương giản dị là thế mà khiến người xa quê cứ nhớ nhung đến nao lòng.

Đặc biệt là mùa xuân nơi quê nhà bao giờ cũng gợi lên một vẻ đẹp yên ả, sâu lắng khiến lòng

người không khỏi bâng khuâng:

“Độ đầu xuân thảo lục như yên

Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên

Dã kính hoang lương hành khách thiểu

Cô chu trấn nhật các sa miên”

(Cỏ xuân ở bến đò đầu trại xanh như khói

Lại thêm có mưa xuân, nước vỗ vào nền trời

Đường đồng nội vắng tanh ít người đi lại

Con thuyền đơn chiếc gác đầu lên bãi cát ngủ suốt ngày)

(Trại đầu xuân độ)

Và trong cảnh quê hương thanh bình, lòng người cũng lắng lại. Có những ngày ngồi

cảm nhận rõ hơn bước đi âm thầm của mùa xuân, thấu được từng chuyển động tế vi của đất

trời và vạn vật:

“Nhàn trung tận nhật bế thư trai

Môn ngoại toàn vô tục khách lai

Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão

Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai”

(Trong lúc nhàn nhã suốt ngày khép cửa phòng văn

Ngoài cửa không có một khách tục nào tới

Trong tiếng cuốc kêu, xuân sắp tàn

trong thư phòng đóng chặt cửa, một mình chìm vào cái tĩnh lặng của thiên nhiên, lại càng

Dầy sân mưa phùn nhẹ rơi khi hoa xoan đang nở)

(Mộ xuân tức sự)

Hai tuyệt phẩm trên không chỉ là những bức tranh quê mà còn là những mảnh hồn quê

mà chỉ những ai gắn bó máu thịt với quê hương bằng một tình yêu tha thiết mới có thể cảm

nhận được những nét đẹp thuần hậu đó.

Dạo qua một vòng trong vườn thơ Nguyễn Trãi viết về thiên nhiên, đến đâu cũng bắt

gặp những cảnh vật hiện lên thật đẹp, thật sống động, và cảnh nào cũng in bóng dáng của thi

nhân, cảnh và người giao hòa thẩm thấu vào nhau trong niềm say mê bất tận. Và cũng chính

niềm say mê đó đã chắp cánh cho ngọn bút tài hoa của hồn thơ Ức Trai, giúp ông khám phá

ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của thiên nhiên một cách đầy bất ngờ.

Cây chuối là loài cây bình dị và rất đỗi quen thuộc với mỗi chúng ta, nhưng khi hiện

lên trong Nguyễn Trãi thì mang một vẻ đẹp rất khác lạ. Cây chuối vào mùa xuân, bén hơi

xuân nên tốt tươi hơn trước, cái nõn chuối được thể vươn lên nhưng vẫn cuộn tròn trông

giống như một bức thư tình còn phong kín, và vì còn phong kín nên lại càng khiêu khích trí

tò mò của thi nhân. Ông xui gió hãy đến “gượng mở xem” trong thư viết gì. Một liên tưởng

thật độc đáo mà cũng rất Nguyễn Trãi – tài tình và phong tình.

Có thể nói, thiên nhiên tươi đẹp đã đánh thức tài hoa nơi hồn thơ Ức Trai, để rồi đến

lượt mình, thơ ông lại tô vẽ cho thiên nhiên thêm phần quyến rũ và hữu tình.Cặp mắt

Nguyễn Trãi không phải là mắt thường nên nhìn vào đâu cũng có những phát hiện kì lạ. Đến

thăm núi Dục Thúy, một thắng cảnh thuộc tỉnh Ninh Bình, nhìn bóng tháp in trên mặt nước

tác giả liên tưởng nó như đang cài cây trâm ngọc lên dòng sông xanh, còn ngọn núi cứ như

búi tóc xanh soi mình bên chiếc gương sông để làm duyên làm dáng :

Ba quang kính thúy hoàn”

(Bóng tháp cài cái trâm màu xanh

Ánh sáng của làn sóng nước soi gương búi tóc xanh biếc)

(Dục Thúy sơn)

Trong bài Vân Đồn tác giả cũng có liên tưởng tương tự :

“Nhất bàn lam bích trừng minh kính

Vạn hộc nha thanh đọa thúy hoàn”

(Mặt nước như một mâm lam biếc lắng tấm gương trong

Muôn hộc núi đen xanh tựa những búi

“Tháp ảnh trâm thanh ngọc

tóc màu thúy rũ xuống)

(Vân Đồn)

So sánh bóng núi soi lên mặt nước như búi tóc của người đàn bà ngắm mình trong

gương thật sự là tư duy rất tân kì, sao lại là hình ảnh búi tóc mà không phải là bất kì một hình

ảnh nào khác? Có lẽ hình ảnh đó đến với ông bằng trực giác mẫn cảm của người nghệ sĩ,

nhưng để có được cái trực giác tuyệt vời đó lại phải dựa trên một tâm hồn vô cùng tinh tế và

rất đỗi tài hoa. Dưới ngọn bút của Ức Trai, cảnh vật bao giờ cũng trở nên diễm lệ và có hồn

hơn.

Thiên nhiên đã giúp Nguyễn Trãi tìm lại được sự cân bằng trong cuộc sống, khôi phục

lại những cảm xúc ban sơ để lại thấy tin yêu hơn cuộc đời. Với Nguyễn Trãi thiên nhiên là

môi trường di dưỡng tinh thần đánh thức con người và thanh lọc tâm hồn khỏi những vinh

nhục ở đời – “trong hiên nhìn mây núi thì không có vinh nhục nữa”. Con người trở nên an

nhiên tự tại, song cần thấy là Ức trai tìm về với sự trong sạch của thiên nhiên không phải để

luyện thành một cái tâm rỗng không vô vi, mà là để đạt đạo của một con người hành động.

Giữa cuộc đời đầy bụi bặm, trở về với thiên nhiên để được thanh lọc tâm hồn là một

lối sống thanh cao, trong sáng, thấm đẫm chất nhân văn của Nguyễn Trãi. Chỉ tiếc rằng trong

ông, tình quân thân còn rất nặng, nên dẫu “cốt lạnh hồn thanh” vẫn không muốn hóa:

“Cốt lạnh hồn thanh chăng khứng hóa

Âu còn nợ chúa cùng cha”

(Thuật hứng, bài 9)

Và thế là Nguyễn Trãi đã quay trở lại.

Như vậy, khi tự soi vào mình, Nguyễn Trãi cần đến người bạn lớn – thiên nhiên, đó

con người Ức Trai, con người trong trắng, cao cả, con người có những tư tưởng hùng vĩ,

rộng lớn, vô biên.

2. Nguyễn Bỉnh Khiêm với những suy nghiệm quy luật cuộc đời từ thiên nhiên

Trong bài tựa tập thơ “Am Bạch Vân” – Nguyễn Bỉnh Khiêm tự bạch: “Tôi lúc nhỏ

chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào giới sĩ phu, lúc về già chí thích nhàn dật, lấy

cảnh núi non song nước làm vui…Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là

chính là tấm gương trong sáng soi tỏ tâm hồn nhà thơ, giúp ta nhìn rõ nguyên vẹn, đầy đủ

ca ngợi cảnh đẹp đẽ của sơn thủy hặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà

ngộ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thay thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí…”[49, tr 36,37].

Như vậy, thơ nói về chí lại là thơ tức cảnh, tức sự, phô bày cái đẹp của thiên nhiên; cái

gây cảm hứng cho nhà thơ lại là cái đẹp của tạo vật. Khám phá thế giới thơ Nguyễn Bỉnh

Khiêm, lại càng nhận ra những lời bộc bạch trên thật chân thành, bởi trong vườn thơ của

mình, ông đã dành một mảng không nhỏ cho thiên nhiên.

Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, đúng như lời ông tâm sự, ít hoa mỹ mà

chủ yếu là những phong cảnh dung dị thân quen của quê hương, mảnh đất mà ông đã gắn bó

gần như trọn cuộc đời mình. Sau tám năm ra làm quan dưới triều nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh

Khiêm nhận ra đây không phải là con đường khả dĩ có thể thỏa cái chí nguyện muốn cứu

nước giúp dân, ông quyết định lui về trí sĩ tại quê nhà, chọn được miếng đất vừa ý cạnh bờ

sông, dựng quán Trung Tân, xây am Bạch Vân, để ngày ngày vui với tính tự nhiên của mình,

chan hòa cùng cảnh vật, niềm vui tuy bình thường, giản dị mà thanh cao thư thái vô cùng.

“Mịch đắc thôn khê địa nhất triền

Nhàn lai ngô diệc lạc ngô thiên

Hiểu lâm thái phố vân niêm lý

Dạ phiếm ngư cơ nguyệt mãn thuyền”

(Tìm được miếng đất ở cạnh con ngòi trong làng

Khi thanh nhàn ta cùng vui với tính tự nhiên của ta

Buổi sáng đến vườn rau, sương dính vào dép

Ban đêm chơi ở ghềnh xóm chài, trăng rọi đầy thuyền)

(Ngụ hứng, bài 4)

Khiêm rất giống với Nguyễn Trãi trước đó. Niềm vui của người tự xưng là cư sĩ bây giờ là

được làm một ông chủ giàu có của thiên nhiên, đêm đêm thức đợi trăng lên dát vàng trên

rừng trúc; ngày ngày chờ gió thổi, lắng nghe hương thơm để biết là hoa đã nở ngoài vườn.

Thiên nhiên đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của ông:

“Cày mây cuốc nguyệt gánh yên hà

Nào phải nào chăng phải của ta

Đêm đợi trăng cài bóng trúc

Ngày chờ gió thổi tin hoa”

(Thơ Nôm, bài 17)

Thiên nhiên và con người quấn bện, giao hòa vào nhau, về điểm này Nguyễn Bỉnh

Thì ra sắm cho mình đủ bộ đồ nghề của nhà nông với “một mai một cuốc một cần

câu” nhưng “lão nông” Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa hẳn đã dùng vào việc cày ruộng cuốc

vườn, mà là để “cày mây cuốc nguyệt”, câu thơ thật đẹp, thật hình tượng mà cũng vô cùng

táo bạo, thể hiện khát vọng lớn lao như muốn ôm cả vũ trụ tươi đẹp vào lòng của thi nhân.

Yêu thiên nhiên bằng cả tâm hồn mình, có khi nhà thơ thấp thỏm lo sợ vẻ đẹp mong

manh của một bóng hoa, một làn hương mà ông đã “nương song” đợi chờ dễ tan, dễ vỡ, hay

hồi hộp lo âu bóng trăng sẽ biến mất vào đêm. Trái tim đa cảm của nhà thơ luôn trân quý và

nâng niu từng khoảnh khắc vi diệu của thiên nhiên như thế:

“Nước tuyết hâm trà dưới bếp

Bút hoa điểm sách trên yên

Nương song ngày tiếc mùi hương lọt

Nối chén đêm âu bóng quế tan”

(Thơ Nôm, bài 23)

Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, cảnh sông núi, giang sơn bao giờ cũng tươi đẹp và hấp dẫn lạ kì:

“Giang sơn tám bức là tranh vẽ

Phong cảnh tư mùa ấy gấm thêu”

(Thơ Nôm, bài 3)

Bằng niềm đam mê và tấm lòng rộng mở của mình, nhà thơ đã kéo thiên nhiên về lại

bên nhau trong một mối quyện hòa đầm ấm. Trăng, gió, tuyết, mây xuống ủ ấp cùng thuyền,

am, hoa, trúc...Tất cả trở nên gần gũi, thân tình như anh em một nhà:

“Ba cuốn đồ thư thu nặng túi

Một thuyền phong nguyệt chở đầy then”

“Hoa nở luống hay tin gió

Đầm thanh còn thấy dáng trăng”

(Thơ Nôm, bài 16)

“Bến nguyệt thuyền kề hai bãi mía

Am mây cửa khép một cần pheo”

(Thơ Nôm, bài 15)

“Bạch Vân am vắng chim kêu muộn

Kim Tuyết dòng thanh cá mát tươi”

(Thơ Nôm, bài 19)

(Thơ Nôm, bài 11)

Có thể nói, thiên nhiên đã giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm khôi phục lại trạng thái nguyên

sơ hồn hậu của cảm xúc và cái thiên nhiên thứ hai do tác giả sáng tạo nên giúp người đọc

cảm nhận được không chỉ hương vị tinh khiết của hoa của cỏ mà chủ yếu là của chính tâm

hồn thi nhân phả ra. Một thiên nhiên không làm cho người đọc lãng quên cuộc sống trước

mắt mà lại có tác dụng nâng tâm hồn người đọc lên, khiến người đọc trong phút chốc như

được thanh tao hơn, nhẹ nhàng hơn. Đó chính là khả năng cảm hóa diệu kì của thiên nhiên

trong sáng.

Cũng như Nguyễn Trãi, lui về ở ẩn là người cư sĩ am Bạch Vân đã chấp nhận một

cuộc sống tuy nghèo về vật chất nhưng lại giàu có về tinh thần. Ở đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm

không còn bị lợi danh vây bọc. Ông được tự do với trăng, gió, núi, mây, chim muông, cây

cỏ…, những cảnh đẹp đó chẳng của riêng ai thì cứ mượn tạm làm của mình để được vẫy

vùng cho thỏa chí tiêu dao:

“Thuyền phong nguyệt gánh yên hà

Mượn lấy dành làm của cải ta

Cây tĩnh chim về xanh loáng khói

Ao thanh cá lội nước tuôn là”

(Thơ Nôm, bài 117)

Một bức tranh hiền hòa, như một biểu tượng của sự bình yên, cái bình yên được khúc xạ từ

một cái tâm tĩnh trước sự đời hằng biến.

Thiên nhiên vốn trong sáng, lành hiền, nó như tấm gương trong mà chỉ những ai có

tâm hồn thanh cao soi vào mới thấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người như thế, ông đã nhấn

được vào những chỗ tế vi nhất để gọi dậy sức sống tiềm tàng trong lòng thiên nhiên, để rồi

cũng được nương theo chất ngất. Người và cảnh trong thơ ông thường có những phút giây

giao hòa tuyệt diệu như thế:

“Hương đầy tiệc khách hoa khi rụng

Hứng đẫy vườn xuân chim thuở kêu”

(Thơ Nôm, bài 37)

“Phương thảo cung ngâm xuân ý túc

Vân song hoán khách điểu thanh trì”

(Cỏ thơm cung cấp ý xuân đầy đủ để ngâm vịnh

Bên cửa sổ mây che, tiếng chim gọi khách khoan thai)

đến lượt mình thiên nhiên như bung tỏa hương sắc say nồng khiến cho tâm hồn thi nhân

(Ngụ hứng, bài 5)

Đúng là có đắm mình vào thiên nhiên mới biết được những gì nó mang lại cho con

người thật là diệu kì, thiên nhiên có thể kích hoạt tất cả những cảm xúc tinh tế, sâu sắc nhất

trong tâm hồn thi nhân. Chính vì thế mà cảnh vật trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên với

dáng vẻ rất sống động và có hồn. Trên thuyền xuôi dòng Thao giang, thi nhân không khỏi

ngỡ ngàng trước một bức tranh tuyệt mỹ:

“Sơn quan đới bích thanh thê thụ

Thủy sắc ngưng hoàng lục nhiễu hang”

(Ánh nắng mang màu biếc, sắc xanh ngưng đọng trên cây

Sắc nước đọng màu vàng, vẻ lục diễn quanh thuyền)

(Phụng căn tòng quá Thao giang)

Nắng chiếu lên cây, cây làm cho nắng chuyển sắc xanh; nước đón lấy nắng, nắng làm cho

nước nhuộm vàng; cây in bóng nước, nước xanh màu lá ôm lấy thuyền khách. Thiên nhiên

giao quyện trong một chỉnh thể hài hòa, đẹp như thơ, như họa. Cảnh đẹp bởi bản thân cảnh

đẹp, và cảnh trở nên lộng lẫy nhờ ngọn bút tài hoa của thi nhân.

Có thể thấy, nếu như thiên nhiên trong thơ chữ Nôm thường giản dị, đẹp ở sự thuần

hậu, mộc mạc thì ngược lại thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại đẹp

một cách trang nhã, có những bức tranh thật sự đã đạt đến độ mẫu mực, mang đến cho người

đọc những xúc cảm thẩm mỹ tuyệt vời, ví dụ trên mới chỉ là một trong số đó:

“Sơn tống thanh lai bài cổ diệp

Thủy tương bạch nhiễu đới hồng hà

(Núi đưa vẻ xanh đến, trãi khắp trên những nữ tường cũ kĩ

dòng sông to lớn làm đai)”

(Quá Nhu Ma cựu thành)

Tự thân những hình ảnh trong bức tranh đã gợi lên tất cả, người đọc chỉ cần cảm nhận mà

không cần phải bàn thêm gì nữa.

Và đây là cảnh bơi thuyền trên sông trăng:

“Trạo bãi thủy văn đôi bạch tuyết

Phàm di nguyệt ảnh lộng hàn ba”

(Mái chèo khua gợn nước, chập chồng những đống tuyết trắng

Cánh buồm theo bóng trăng đùa giỡn trong làn sóng lạnh)

Nước mang sắc trắng vẫn quanh như lấy cả

(Thủy hành phó doanh cảm tác)

Nếu người thơ không thật sự thả hồn vào cảnh vật sẽ không thể nào có được những phát hiện

và liên tưởng độc đáo đến thế.

Thì ra, bên trong một người thầy vĩ đại với những vần thơ răn đời dạy đạo đầy tâm

huyết còn có một người nghệ sĩ vô cùng nhạy cảm trước cái đẹp, biết rung động dạt dào

trước thiên nhiên. Thơ viết về thiên nhiên của ông, có nhiều bài đã bộc lộ tố chất tài hoa của

một nhà thơ lớn, tái hiện được những bức tranh thơ mộng, quyến rũ như đã phân tích ở trên,

song đó không phải là tất cả.

Nhìn toàn cảnh mảng thơ thiên nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm, người đọc cũng sẽ

đồng tình với ý kiến nhận xét này: “Nguyễn Bỉnh Khiêm giao cảm với thiên nhiên. Nhưng

thiên nhiên không chỉ là nơi tiếp giáp giữa hồn cảnh vật với hồn người mà còn là nơi tiếp

giáp giữa cái lý sự vật với trí tuệ con người. Là một triết gia Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn thấy ở

thiên nhiên “ngôi nhà của tâm hồn ”. Ở đó con người có điều kiện di dưỡng tinh thần, rũ bỏ

những bụi bặm trên đường đời để sống thanh cao thoát tục.[51. tr453]

Vì thế, mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm với thiên nhiên không phải lúc nào

cũng là sự tương nhập tuyệt đối trong tình yêu thuần túy như trong thơ Nguyễn Trãi. Ngược

lại, rất nhiều lần trong thơ, người đọc bắt gặp khách thể tự tách mình ra khỏi đối tượng, giữ

một khoảng cách để mượn cảnh gửi những tâm sự ái ưu của mình :

“Ai ưu vằng vặc trăng in nước

Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa”

(Thơ Nôm, bài 1)

Và cũng như bao nhà nho ưu thời mẫn thế khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn xem thiên nhiên

“Trăng thanh gió mát là tương thức

Nước biếc non xanh ấy cố tri”

(Thơ Nôm, bài 84)

Mong ước một đời của ông là có thể làm một con ngao lớn chống đỡ vận nước trong

buổi ngả nghiêng, nhưng thời thế không tạo cơ hội, ông lui về quê ở ẩn, song không có nghĩa

là quay lưng lại với xã hội. Tấm lòng tiên ưu của ông dành cho nước cho dân vẫn vẹn

nguyên không bao giờ vơi cạn. Nhưng liệu điều này có ai thấu được:

“Có ai hiểu được lòng tri kỉ

Vòi vọi non cao nguyệt một vầng”

là người bạn, là tri âm, tri kỉ sở dĩ có thể thấu hiểu được tâm sự của ông:

(Thơ Nôm, bài 6)

Sống giữa một thời kì đầy biến động của lịch sử, người trí thức Nguyễn Bỉnh Khiêm

cảm thấy chọn lựa cách ứng xử nào cũng chưa thỏa mãn, thế thái nhân tình thì vàng thau lẫn

lộn, tâm huyết rất nhiều mà lực thì không vươn tới để có thể lập lại trật tự cho một xã hội

trong buổi đảo điên. Con người với tấm lòng “vòi vọi non cao” đó có lúc cũng cảm thấy cô

đơn, chỉ biết tìm đến với trăng để kí thác tâm sự của mình:

“Còn một tấm lòng phó chốn trăng

Họa là thanh tỏ chút nào chăng”

(Thơ Nôm, bài 78)

Như vậy, thiên nhiên không chỉ đơn thuần là đối tượng để chiêm ngưỡng mà còn là

đối tượng để bày tỏ, gửi gắm nỗi lòng của thi nhân. Một tấm lòng tiên ưu, dẫu đã lui về vẫn

không thôi day dứt trước vận mệnh của dân của nước, xã hội đang lộn ngược, nhân tâm bị

xói mòn, liệu rồi con thuyền lịch sử sẽ đi đến đâu? Bao nhiêu câu hỏi cứ xoáy trong đầu,

Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hết vào trong thiên nhiên mong tìm lời giải đáp. Những triết lí tự

nhiên đã được bật ra trong hoàn cảnh như thế.

Là nhà thơ rất có hứng thú với dịch lý, am tường “Thái ất thần kinh”, nên dẫu ban đầu

Nguyễn Bỉnh Khiêm có chủ trương làm thơ là để phô bày cái đẹp của thiên nhiên thì trên

thực tế, tư duy dịch lý vẫn chi phối ít nhiều. Thế nên, “Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy có những bài

tả cảnh thật hay, thật trau chuốt, thật trữ tình và thật vui nhưng ít khi trọn bài. Trong thơ ông,

cảnh vật thiên nhiên thường được mượn để gửi gắm tâm tư, để hình tượng hóa một triết lý,

một quy luật về sự biến chuyển tuần hoàn của vũ trụ, của xã hội”[51. tr355]

Mỗi đề tài, mỗi bài thơ là một sự nhận thức về thế giới của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cốt

phối của luật thừa trừ, đắp đổi, cái thừa sẽ bù vào cái thiếu, cái thái quá sẽ san sẻ cho cái bất

cập để tạo nên một thế cân bằng cần thiết:

“Cơ ngẫu toàn lai doanh cánh hư

Âm dương tiêu trưởng nghiệm thừa trừ”

(Lẽ rồi chẵn, đầy rồi vơi

Khí âm, khí dương lúc tiêu lúc trưởng

đủ chứng nghiệm lẽ thừa trừ)

(Độc “Chu dịch” hữu cảm)

lõi của vấn đề nằm ở nhận thức về vũ trụ trong sự vận động gồm hai mặt đối lập, dưới sự chi

Đây là tư tưởng triết học được Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng kết từ nhiều học thuyết cổ

đại của Trung Hoa; luật biến dịch có từ “Kinh dịch”, lẽ âm dương tiêu trưởng có từ trong học

thuyết của Âm dương gia, sự phát triển tự thân có sơ sở trong lý thuyết về Đạo của Đạo gia

trên tinh thần tư tưởng đậm chất dân tộc của Việt Nam.

Quan niệm về vũ trụ, vạn vật luôn luôn biến đổi của kinh Dịch được nhà thơ đem ra

chiêm nghiệm bằng thực tại, kiểm chứng bằng những hiện tượng tự nhiên, để từ đó suy ra

những quy luật nhân sinh và xã hội. Quan sát sự vận động của ao, hồ, sông, núi ông lại liên

tưởng đến đời người trầm thăng:

“Vũng nọ ghê khi làm bãi cát

Doi kia có thuở lút hòn thai

Khôn ngoan mới biết thăng thì giáng

Dại dột nào hay tiểu có đài

Đã khuất bao nhiêu thì lại duỗi

Cơ trời lồng lộng chẳng hề sai”

(Thơ Nôm, bài 23)

Sống lâu trong cuộc đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận ra sự biến cải tang thương dâu bể

không phải là điều xa lạ, vạn vật vẫn luôn vận động trong cái vòng tuần hoàn của nó, âm qua

thì dương lại, ra đi sẽ trở về, kết thúc lại bắt đầu, sinh ra rồi mất đi, hết vòng tất quay trở lại,

vũ trụ và xã hội cứ thế đi trong một chu kì quẩn quanh, khép kín. Triết lý này được nhà thơ

khái quát lại trong một hiện tượng thiên nhiên quen thuộc:

“Sen mùa trước đổi, mùa sau mọc

Triều cửa này ròng cửa khác cường”

Nhìn thiên nhiên bằng tư duy triết lý, mong muốn tìm ra bản chất vận động bên trong

bản thân sự vật, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã ít nhiều chạm đến nguyên tắc phủ định của

phủ định, song mới chỉ ở dạng đơn giản, sơ phác. Ông ghi nhận cái “vận tuần hoàn” thông

qua các cặp đối lập như “thăng – giáng”, “thịnh – suy”, “bỉ – thái”, “tiểu – đại”… Thiên

nhiên có biến thí có hóa, hoa nở sẽ có lúc tàn, nước chứa khi đầy ắt có khi vơi cũng như nơi

phồn hoa đô hội có lúc ồn ào náo nhiệt rồi đến lúc sẽ lạt phai. Đó là quy luật:

“Thoi nhật nguyệt đưa thấm thoắt

Áng phồn hoa khá lạt phai

Hoa càng khoe nở hoa thêm rữa

(Thơ Nôm, bài 98)

Nước chứa cho đầy nước ắt vơi”

(Thơ Nôm, bài 52)

Cái nhanh đến thì sẽ nhanh đi, mau đạt đến đỉnh điểm thì sẽ chóng phải trượt dốc, có

lẽ xuất phát từ chiêm nghiệm này, ông đề xuất lối sống ôn hòa, yên phận, kiêng mãn doanh,

tránh phô tài, phô sắc để có được niềm vui lâu dài:

“Khế kia chua quá sau nên ủng

Lan nọ thơm dai mới có hương”

(Thơ Nôm, bài 76)

Cứ quan sát vũ trụ thì biết, trời hết mưa rồi nắng, phong ba bão tố rồi cũng có lúc bình

yên cũng như cuộc đời có thịnh tất có suy, đắc đi liền với thất. Con người cần phải nắm được

quy luật đó để ứng xử sao cho phù hợp với trường hợp mà mình đang trải qua để “được ắt

chẳng mừng, mất chẳng âu”:

“Phiêu phong bạo vũ nan chung nhật

Sơ trúc khô chi dị khiếp sương

Tự tín đắc giai chung hữu thất

Thùy tri nhu thả chế ư cương”

(Gió to mưa lớn khôn đầy buổi

Cây yếu cành khô dễ ngại sương

Vẫn biết đắc rồi liền với thất

Hay đâu nhu lại chả hơn cương)

(Khiển hứng)

Rõ ràng, Nguyễn Bỉnh Khiêm bắt đầu từ thiên nhiên, nhưng cái đích cuối cùng mà ông

Quan sát các hiện tượng thiên nhiên để nắm bắt quy luật vận động và tương tác giữa

chúng, từ đó rút ra những kinh nghiệm trong lao động và cuộc sống vốn là kiểu nhận thức

mà cha ông ta vẫn làm khi khoa học chưa phát triển. Nguyễn Bỉnh Khiêm sống lâu trong dân

chúng hẳn có thừa kế ít nhiều, song ở ông dưới sự soi sáng của Kinh dịch, những kinh

nghiệm của dân gian đã được nâng lên thành triết lý, đồng thời nó cũng mài sắc tư duy về vũ

trụ của ông đạt đến độ tinh nhạy, mẫn cảm. Tư duy đó chỉ cần nghe tiếng đỗ quyên kêu cũng

có thể chiêm ngiệm ra lẽ thịnh suy ở đời:

“Bát quái tượng suy thiên vãng phục

Sổ thanh quyên nghiệm thế hưng suy”

muốn gửi gắm vẫn là giáo dục thái độ sống.

(Tượng của tám quẻ suy biết sự ra đi

và sự trở lại của trời,

Vài tiếng đỗ quyên kêu đủ chiêm nghiệm

về lẽ thịnh suy ở đời)

(Trung Tân quán ngụ hứng)

Nguyễn Bỉnh Khiêm quả không hổ danh là nhà thơ triết lý như người đời vẫn tôn

phục, ông mang cả bầu kiến thức uyên thâm của mình đi chinh phục thiên nhiên, để rồi trên

hành trình mải mê đi tìm cái lý của sự vật đã có lúc thi nhân chạm đến được khoảnh khắc

thuần nhất, chân thực của tự nhiên. Đó là khi ánh trăng soi vằng vặc xuống dòng Hàn Giang

vào một đêm thu, vũ trụ giao hòa trong một vẻ đẹp thuần khiết, tất cả đều thanh tịnh đến

không ngờ:

“Dục nhận nhất chân thiên định xứ

Hàn giang thu thủy nguyệt minh thì

(Muốn nhận thức chỗ “nhất chân” do trời định sẵn

Thì vào lúc trăng sáng dọi nước thu ở sông Hàn)

(Ngụ hứng, bài 6)

Ở đây, một nhận thức siêu thực, siêu tưởng lại được cảm nhận cụ thể bằng một hiện thực vô

cùng sinh động. Và khi thi nhân phát hiện ra cái “nhất chân” của vũ trụ cũng chính là lúc ông

đạt đến chỗ “nhất chân” của tâm hồn.

Thường trong tư duy thơ trung đại thời gian là vô cùng vô tận, nhận thức này bắt

nguồn từ quan niệm con người là một phần không tách rời của vũ trụ vì thế người xưa đã

đồng nhất thời gian vũ trụ với thời gian của đời người. Nhưng với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì

ra đời người cũng ngắn như đời hoa, con người sinh ra là đã trói vào mình quy luật “ sinh,

trụ, dị, diệt” không thể nào gỡ ra được:

“Vô cùng lặn mọc kìa vầng nguyệt

Mấy độ tươi khô nọ khóm hoa

(Đọc Phật kinh hữu cảm)

Phú quý công danh là mộng cả

Xưa nay cảnh đẹp chóng tàn phai”

(Ngụ hứng)

khác, nhìn con tạo mặc sức xoay vần khiến cho hoa bao phen tươi rồi héo lại thảng thốt nhận

Có khi trầm ngâm nhìn những hiện tượng thiên nhiên không ngừng thay đổi, một mình

trên lối vắng, nhặt cánh hoa rơi, nhà thơ chợt ngộ ra con người xuất hiện trên cõi đời chỉ là kí

thác, thời gian trôi kéo theo tuổi tác của con người ra đi không bao giờ quay trở lại, quy luật

nghiệt ngã đó khiến ông không giấu được tiếng thở dài:

“Gió im một giải song lờ lửng

Mưa tạnh đôi nơi núi thắm tươi

Ghế tựa song trưa nghe tiếng hót

Gậy cầm lối vắng nhặt hoa rơi

Xưa qua nay lại sinh là kí

Thôi mặc thời gian giục tuổi đời”

(Mộ xuân cảm tác)

Đúng là trước cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có lúc sinh lòng cảm khái như thế,

song ông không để cho cảm giác đó tồn tại lâu. Là người am hiểu quy luật vận động của tự

nhiên, ông tự chiếu nó vào cuộc đời để tìm lại cho mình trạng thái bằng an. Thế nên, đừng lạ

khi trong thơ ông, khi này nói “một phen xuân đến một phen già ”, nhưng lúc khác lại “xuân

ấy đi thì xuân khác còn ”. Đó tuyệt đối không phải là sự mâu thuẫn mà là hai điểm mút của

một hành trình đi tìm cho mình một thái độ sống an nhiên tự tại, vượt lên trên mọi thói tục

tầm thường trong cuộc đời của nhà thơ.

Sống giữa thiên nhiên, có dịp chứng kiến và suy nghiệm mọi sự biến dịch của ngoại

cảnh, nhà thơ nhận thấy cuộc đời cũng như thế, luôn biến đổi vô thường. Nhìn khói tỏa trong

thôn và nước chảy bên khe khi đậm khi nhạt, nắng chiếu trên sóng và mây phủ đầu núi lúc có

lúc không, theo ông đó là hình ảnh sát đúng của tình người tráo trở, đường đời cùng thông.

“Khói thôn nước suối tươi rồi nhạt

Mây núi trăng sông sắc ấy không

Thế sự nhân tình như vậy đó

Đường đời đừng lạ có cùng thông”

(Ngụ hứng)

Có thể nói, tìm về với thiên nhiên, với Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ để lánh xa thói

đời đen bạc mà còn là tìm cho mình một lời giải đáp khả dĩ có thể cứu vớt được bản thân và

con người ra khỏi bài toán khó về vận mệnh của dân tộc. Đó cũng là đường đi của các nhà

nho và các bậc hiền triết xưa nay. Đối với họ, khi bất mãn với xã hội thì trở về với thiên

Và đó là những biểu hiện tất yếu của cuộc đời mà con người cần phải chấp nhận:

nhiên để di dưỡng tinh thần. Trong sách Luận ngữ, Khổng tử có nói “Trí giả nhạo thủy, nhân

giả nhạo sơn” (người có trí óc vui với nước, người có lòng nhân vui với non). Xuất phát từ

điều này, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đề xuất lối sống “Sơn thủy diệc tòng nhân trí nhạo ”

(Cũng phải theo cách vui sống với nước non của các bậc có nhân có trí).

Đó cũng chính là ý nghĩa của việc xuất thế, nghĩa là phải giữ vững tâm thế trong sáng

của mình dẫu đã trải qua những tháng ngày đảo điên của cuộc sống. Đây là thái độ “lạc

thiên tri mệnh”- xuất phát từ tư tưởng “lạc thiên tri mệnh bất cố ưu ” của Kinh Dịch (vui theo

lẽ trời để biết cái mệnh mà xử sự, cho nên chẳng lo buồn gì hết). Câu nói ấy hiểu rộng ra có

nghĩa là sống trong cuộc đời phải biết thuận theo lẽ trời thì vui với trời, biết được đầu đuôi

sự vật thì biết rõ được nguyên lý của sự vật, và như vậy, biết được nguyên lý của tạo vật thì

chẳng có gì phải lo buồn cả. Trời và lẽ trời ở đây cần được hiểu chính là tự nhiên và quy luật

tự nhiên.

Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thừa hưởng tư tưởng trên, ông luôn cố gắng khám phá tự

nhiên, nghiền ngẫm tự nhiên để từ đó chiếu vào quy luật nhân sinh với mong muốn nhận

thức bản chân của cuộc đời. Biết không phải để bi quan yếm thế, thở ngắn than dài hoặc

buông lung trong dục vọng mà là để bình thản chấp nhận sự biến chuyển vô thường theo quy

luật tự nhiên, không tham luyến và bám víu vào những gì có tính chất nhất thời và mộng

huyễn, đồng thời biết tìm ra một thái độ sống thích hợp với ý nghĩa đích thực của cuộc đời

khả dĩ bồi dưỡng nhân cách cao thượng của mình và thực hiện trọn vẹn đạo làm người trong

trời đất và trong nhân quần xã hội.

Sống thuận theo lẽ tự nhiên, biết được vạn vật sinh ra và mất đi đều có cái lẽ vãng

phục tuần hoàn của nó không chỉ là cái lý cho Nguyễn Bỉnh Khiêm có thái độ sống bằng an

nhau xuất hiện, xã hội cũng thế cứ vận hành theo lẽ thịnh suy đắp đổi, hết cùng ắt đến thông,

hết bĩ ắt đến thái cũng như trong mùa đông giá chỉ cần nhìn thấy hoa mai nở là biết một mùa

xuân lại đang về :

“Sinh sinh dục thức thiên cơ diệu

Nhận thủ hàn mai nghiệm nhất dương”

(Muốn biết cơ trời thần diệu, muôn sự

muôn vật cứ kế tiếp nhau sinh sản ra mãi

Hãy xem hoa mai đang nở trong tháng rét kia sẽ

thấy rằng một khí dương lại sinh ra,

mà còn là cái lý cho ông niềm hy vọng. Xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa vẫn quay vòng thay

mùa xuân sắp trở lại vậy)

(Trung Tân quán ngụ hứng)

Với Nguyễn Bỉnh Khiêm mùa xuân cũng chính là mùa của hy vọng, hy vọng vào

những gì tốt đẹp rồi sẽ đến, ông tin tưởng vào sự chuyển biến tích cực của xã hội : “ Mai kia

chưa dễ thu nên muộn ; Xuân nọ tin hoa cũng mấy phen ”. Cũng nhờ niềm tin này mà dẫu

đang sống trong cảnh loạn lạc, nhân dân khốn khổ điêu linh ông vẫn hy vọng chiến tranh mãi

rồi sẽ có lúc hòa bình. Điều này thể hiện rất rõ trong bài Tức sự 2, ở đầu bài thơ là lòng cảm

thán về việc binh biến, giáo mác làm cho cảnh vật xác xơ, con người thê thảm, nhưng đến

hai câu kết vẫn ngời lên một niềm tin:

“Thùy tri túc sái thu đông hậu

Hữu thị dương xuân nhất thái hòa”

(Ai biết sau thu đông nghiêm khốc khô héo

Lại có một vầng khí thái hòa của mùa xuân âm áp)

(Tức sự, bài 2)

Ông hy vọng xã hội hiện tại chỉ như vũ trụ trong cơn bão tố vần vũ, khi mây tan, mưa

tạnh, đất trời sẽ lại tươi sáng và đầy đặn như xưa. Mầm bình yên sẽ được nảy nở và sinh sôi

ngay trong giông bão:

“Gió bấc vù vù quét bụi bay

Núi xa mưa chợt kéo về đây

Mây theo khí lạnh từng cơn đổ

Tuyết thổi hơi băng mấy đống xây

Trên núi đêm tàn mây sẵn biết

Đất trời sáng sủa mây mưa tạnh

Vũ trụ tươi đầy chẳng đổi thay”

(Đông vũ thi)

Trong suy nghĩ của ông, xã hội là một bộ phận của vũ trụ nên tất yếu nó sẽ tiến theo

quy luật vận động của đạo lớn này. Cái tha hóa của xã hội và của con người chỉ là do đi

ngược lại quy luật tự nhiên. Nhưng đó chỉ là sự trật khớp trong chốc lát, nó sẽ trở lại trong sự

tự vận động của nó. Và đó là cơ sở để ông luôn hy vọng vào một xã hội tốt đẹp có vua sáng

tôi hiền, nhân dân được ấm no hạnh phúc trong tương lai

Trước sân mầm nảy cỏ riêng hay

Nhận thức thế giới luôn vận động tuần hoàn trong vòng tròn khép kín, chưa có tiến

hóa, một mặt phản ánh sự hạn chế về thế giới quan trong nhận thức, song mặt khác cũng thể

hiện được niềm băn khoăn, trăn trở của cả một thời đại về vận mệnh của đất nước, về hướng

phát triển của thời cuộc, về một lối thoát cho xã hội, cho con người đang bị kìm hãm trong

cái vòng luẩn quẩn của chế độ xã hội phong kiến mục nát. Trong rất nhiều bài thơ viết về

thiên nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm toát lên niềm khát vọng của con người muốn tìm hiểu

tự nhiên, xã hội. Niềm băn khoăn và khát vọng ấy chưa thể giải quyết được trong những điều

kiện lịch sử còn hạn chế, song không phải là không có ý khơi mở cho những vấn đề triết học

về sau.

Cái quan trọng là bằng việc “ dựa vào sự hiểu biết về triết học tự nhiên, kết hợp với sự

thể nghiệm những tư tưởng triết học ấy trong đời sống xã hội đương thời, Nguyễn Bỉnh

Khiêm đã tìm cách chứng minh cho một số quan niệm về nhân sinh, giải thích sự biến động

xã hội và rút ra được những bài học đạo đức về lẽ sống cho mình và cho đời ” [20. tr 427]

Hãy trở về với thiên nhiên bằng tấm lòng chân thành nhất, con người sẽ không chỉ

được thanh lọc tâm hồn mà còn được kích hoạt tư duy minh triết để có thể bình thản an nhiên

trước mọi được mất cùng thông của cuộc đời. Thông điệp được gửi từ thơ thiên nhiên này

của người thầy Tuyết Giang thật sự là điểm tựa cứu vớt tinh thần cho không chỉ bản thân ông

mà cả thời đại ông. Và đó chính là biểu hiện đẹp đẽ nhất của tư tưởng nhân văn sâu sắc trong

con người vĩ đại này.

3. Nguyễn Du với những gửi gắm tâm sự vào thiên nhiên

Thiên nhiên từ ngàn xưa đã là đề tài không thể thiếu trong thơ. Với Nguyễn Du, điều

đó cũng không ngoại lệ. Song cái cách mà Nguyễn Du tìm đến với thiên nhiên không giống

nhiên trước hết và chủ yếu là tìm đến với một đối tượng để chiêm ngưỡng thì Nguyễn Du lại

mượn thiên nhiên làm đối tượng để gửi gắm tâm sự của mình. Bút pháp tả cảnh ngụ tình

được sử dụng tối đa chính là điểm khác biệt khi miêu tả thiên nhiên giữa họ. Không phải

Nguyễn Du không yêu cảnh vật, mà có lẽ đến thời của ông, cuộc đời đã quá đau khổ, không

chỉ là nỗi cay đắng của bản thân mà còn là những điều trông thấy xung quanh cũng luôn như

dao cứ cắt cứa vào trái tim vốn vô cùng đa cảm của thi nhân. Vì thế thật khó cho Nguyễn Du

để có được những phút thảnh thơi dù rất hiếm hoi như Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm

để có thể ngắm một cảnh đẹp của thiên nhiên cho đúng nghĩa với thú vui tao nhã này.

với Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm trước đó. Nếu như hai vị tiền bối tìm đến với thiên

Nói như Xuân Diệu, Nguyễn Du có bao giờ tả cảnh chỉ để mà tả đâu, cảnh trong thơ

ông chính là tâm cảnh, đúng như công thức ông đề ra “ cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu ; Người

buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”(Truyện Kiều). Thiên nhiên xuất hiện trong thơ chữ Hán bao

giờ cũng là hồi quang của chính tâm sự nhà thơ. Mà tâm sự của Nguyễn Du thì hẳn ai cũng

đã rõ, chất chứa sầu thương và tủi nhục của cuộc đời. Xuất thân trong một đại gia đình quý

tộc, nhưng cuộc sống trong nhung lụa không kéo dài, 10 tuổi mất cha, 13 tuổi mất mẹ, phải

sống nhờ nhà anh thì 15 tuổi anh suýt bị hại, 19 tuổi vừa đỗ tú tài thì nhà anh bị kiêu binh

phá sạch và anh phải bỏ trốn. Dự một chức quan võ cấp thấp chưa đầy hai năm thì Lê –

Trịnh sụp đổ phải bỏ quan lưu lạc khắp nơi, bấy giờ mới 21 tuổi, tiếp theo là mười năm gió

bụi, nay đầu sông mai cuối bể, ốm đau không có thuốc, nhà nghèo đến nỗi ngày xuân chuột

bò cả lên giường gặm sách... Sau này ra làm quan, suốt mười mấy năm trời cái nghèo vẫn

còn, lại đeo thêm bao nỗi bận tâm khác ở chốn quan trường đầy cạm bẫy. Cuộc đời trải qua

bao trầm thăng cùng với trái tim luôn mở ra đón lấy mọi nỗi đau của cuộc đời dội vào đã

khiến tâm hồn Tố Như luôn bị trói buộc bởi nỗi sầu không phút giây nào có thể gỡ ra được.

Với một cuộc đời và một tâm hồn như thế, khi chiếu vào cảnh vật hỏi sao cảnh lại chẳng đeo

sầu?

Đi suốt ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, gần như có rất ít bài vắng bóng thiên

nhiên, vậy mà để tìm ra một bức tranh mà ở đó ngoại cảnh và con người đồng điệu với nhau

trong một niềm vui nào đó thật khó. Cảnh bao giờ cũng chất chứa tâm sự, bao giờ cũng làm

nền cho một tâm sự nào đó của tác giả xuất hiện.

Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du thường gắn liền với mùa, mùa qua kéo theo tuổi già

tóc bạc, khiến con người không khỏi cảm khái trước thời gian. Hai mùa xuất hiện nhiều nhất

vào thơ ông như càng buồn thêm và trở nên tiêu điều xơ xác :

“ Liêm thùy tiểu các tây phong động

Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai”

(Gió tây lay động bức rèm trên gác nhỏ

Tuyết rơi mịt mù nơi thôn xóm hẻo lánh,

tiếng tù và buổi sáng bi thương)

(Thu chí)

Thu sang mang theo hơi lạnh phủ lên vạn vật, len lỏi vào trong gác nhỏ của thi nhân,

tuyết không còn xâm khăn giao quyện với con người như trong thơ Nguyễn Trãi mà chỉ

trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du là mùa thu và mùa xuân. Mùa thu vốn đẹp nhưng buồn, đi

khiến cho xóm núi vốn đã hẻo lánh càng trở nên xa mờ. Trong mù mịt tuyết rơi, vọng lại

tiếng tù và buổi sáng không đủ xé tan không gian ảm đạm, ngược lại chỉ làm cho cảnh

nhuốm màu bi thương. Cảnh thu thật não nề như tâm trạng u buồn khôn xiết của nhà thơ:

“ Nhất sinh u tứ vị tằng khai ” (Suốt đời ôm mối u sầu chưa từng gỡ ra được). Cảnh khiến

người buồn hay người buồn thổi u sầu vào cảnh khó mà bóc tách được, chỉ biết tâm và cảnh

đã hòa vào nhau trong một điệu nhạc thê lương.

Mùa thu đã buồn, đêm thu càng buồn khôn tả, khiến con người cứ nhức buốt một nỗi

cảm thương :

“Phồn tinh lịch lịch lộ như ngần

Đông bích hàn trùng bi cánh tân

Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp

Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân”

(Sao nhiều rõ mồn một, móc trắng như bạc

Vách phía đông tiếng côn trùng mùa lạnh nghe buồn bã xót xa

Muôn dặm tiếng thu giục lá rụng

Một trời màu lạnh quét sạch đám mây nổi)

(Thu dạ, bài 1)

Một đêm thu giá lạnh, nỗi buồn đến từ nhiều phía, sương móc rơi, tiếng côn trùng rỉ

rả, lá rụng tơi bời, màu thu hơi thu nhuốm đầy vũ trụ. Không gian không chỉ đìu hiu buồn bã

mà còn gợi lên bao nỗi niềm day dứt nơi con người. Với Nguyễn Du mùa thu đó gắn với tuổi

già tóc bạc “ Lão lai bạch phát khả liên nhữ ” (Già đến tóc bạc người thật đáng thương), cảnh

và người hòa trong một nỗi buồn thê thiết:

Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm”

(Móc trắng thành sương hơi thu lạnh giá

Cây cỏ quanh thành bên sông thảy đều tiêu điều)

(Thu dạ, bài 2)

Mùa thu đã bao lần ra đi rồi trở về, mà cứ mỗi độ thu sang lòng người vẫn chỉ nhức

nhối những nỗi niềm không thể dứt : tuổi già, tóc bạc mà thân phận như ngọn cỏ bồng từ dạo

đứt gốc vẫn phiêu bạt mãi chưa tìm được lối về. Giá rét cắt cứa vào lòng người, khói sương

mịt mờ nhuộm trắng tóc người càng thương cảm hơn cho “ mái đầu bạc vẫn lặn lội trong gió

thu ngàn dặm ” (Trên đường Nhiếp Khẩu) :

“Bạch lộ vi sương thu khí thâm

“Tây phong tái đáo bất quy nhân

Đốn giác hàn uy dĩ thập phần

Cố quốc hà sơn khan lạc nhật

Tha hương thân thế thác phù vân

Hốt kinh lão cảnh kiêu triêu thị

Hà xứ thu thanh tạc dạ văn

Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập

Mãn đình hoàn diệp lạc phân phân”

(Gió tây mới vừa thổi đến người chưa được trở về nhà

Chợt cảm thấy trời đã rất lạnh

Sông núi quê nhà nhìn trong cảnh mặt trời lặn

Thân thế nơi đất khách gởi nơi đám mây nổi

Sáng nay chợt kinh sợ cho tuổi già

Đêm qua nghe tiếng thu ở chốn nào

Tự cười đầu bạc vụng thu xếp

Đầy sân lá vàng rụng tơi bời)

(Thu nhật kí hứng)

Mang nỗi buồn cố hữu trước thu, nên mới chớm thu nhà thơ đã thấy tóc như bạc thêm,

lòng càng đau khôn xiết, mùa thu một lần về là một lần nữa vót nhọn nỗi buồn để càng nhạy

cảm với thu, thấu được cả trong tiếng ve kêu bi thiết có lẫn “điệu thanh thương” – một âm

điệu buồn nhất trong ngũ âm của nhạc cổ, không phải là người có nỗi buồn làm sao mà biết

được:

Hàn thiền chung nhật táo cao chi

Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu

Bất thị sầu nhân bất hứa tri”

(Gió tây thổi trên song, lá cây thưa thớt

Ve sầu bi lạnh suốt ngày kêu trên cành cao

Trong tiếng ve kêu có điệu thanh thương

Không phải là người có nỗi buồn thì không biết được)

(Sơ thu cảm hứng, bài 2)

“Giang thượng tây phong mộc diệp hy,

Cảnh và người đã tìm thấy nhau trong một tâm trạng sầu thương da diết. Nhưng mùa

thu của đất trời có thật sự buồn và thê lương đến thế? Chưa cần so sánh đâu xa, trong Truyện

Kiều, Nguyễn Du đã từng phóng bút họa nên bức tranh thu làm mê đắm lòng người:

“Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”

(Truyện Kiều)

Vậy là mùa thu đâu chỉ toàn ảm đạm, ảm đạm hay không cốt ở lòng người. Truyện

Kiều không phải là tâm sự trực tiếp của Nguyễn Du, ở đó vẫn là tả cảnh ngụ tình, song cái

tình phải gắn với tâm trạng của nhân vật, nên vẫn cặp mắt quan sát đó nhưng tâm trạng khác

nhau, cảnh hiện lên sẽ khác nhau. Có người bảo thơ chữ Hán là bức chân dung tự họa về tâm

hồn của Nguyễn Du là vì thế.

Nỗi buồn từ lòng người tỏa ra cảnh vật, cảnh buồn lại khiến người buồn thêm, dù sao

thì trong cảm thức của thi nhân xưa nay, mùa thu vẫn thường buồn. Xuân sang, đất trời đổi

thay, vạn vật sinh sôi nảy nở, con người nhờ đó cũng được dự phần chút sắc hồng của xuân

chăng? Bởi mùa xuân tự cổ bao giờ cũng mang lại cho người thơ cảm hứng dạt dào, niềm

vui bất tận. Cũng chính vì thế, thơ xuân chiếm một vị trí không nhỏ trên thi đàn văn học

trung đại.

Nhưng hình như nơi tâm hồn Nguyễn Du, nắng xuân cũng ít viếng thăm. Trong số 294

bài thơ chữ Hán, thơ xuân thật ít, chỉ có bốn bài trực tiếp đề cập đến xuân (Mộ xuân ngẫu

hứng, Xuân dạ, Xuân nhật ngẫu hứng, Xuân tiêu lữ thứ), các bài khác có nói ít nhiều, song

tổng cộng lại chỉ là một con số khiêm tốn.

Mùa xuân đúng là là bao giờ cũng căng tràn sức sống, nẩy nở, bung tỏa, rạo rực, xuân

phúc nhưng lại đào sâu thêm nỗi buồn cho người đang sầu tủi, bởi xuân chỉ khiến họ ý thức

rõ hơn hoàn cảnh hiện tại của mình.

Nguyễn Du không ở vào trường hợp người đang hạnh phúc, nhưng cũng có lúc dành

cho xuân cái nhìn thật công bằng:

“Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,

Y y bất cải cựu thiền quyên”

(Đêm rằm tháng giêng sân vắng trăng đầy trời

Trăng như cô gái đẹp vẫn như xưa

không thay đổi dáng vẻ xinh tươi)

gắn liền với tuổi trẻ và tình yêu. Cũng vì thế, xuân thắp thêm niềm vui cho người đang hạnh

(Quỳnh Hải nguyên tiêu)

Nguyên tiêu là thời khắc trăng đẹp nhất trong năm, trăng hiện lên tròn vành vạnh, viên mãn

như cô gái đẹp vẫn như xưa không thay đổi. Vẻ đẹp của trăng, một hiện tượng thiên nhiên,

lại được so sánh với vẻ đẹp của con người – cô gái đẹp. Đúng là chất phong tình, cái tài hoa

nghệ sĩ đã ngấm vào máu thì dẫu trong hoàn cảnh nào nếu được chạm vào lại phát tiết ra,

không thể che giấu được. Trăng xuân thật đẹp, chỉ tiếc rằng “ nhất thiên xuân hứng thùy gia

lạc” (một trời xuân hứng rơi vào nhà ai) còn nơi lều nhỏ của Nguyễn Du điều đó không đến.

Vậy là cũng muốn vui mà vui không nổi với xuân.

Nếu như mùa thu thường đi liền với tuổi già, thì mùa xuân lại đi liền với nỗi buồn lưu

lạc và bệnh tật. Có lẽ vì mùa xuân là mùa của sum họp, mùa của người đi xa trở về đoàn tụ

bên gia đình, thăm nom mồ mả tổ tiên, để bù lại một năm dài xa cách. Vậy mà với Nguyễn

Du, chốn non Hồng giờ đây cửa nhà tan tác, anh em li tán mỗi người một nơi, tấm thân như

ngọn cỏ bồng lìa gốc cứ tơi bời cuốn theo chiều gió, nỗi buồn li hương càng đau đáu khôn

nguôi. Không vui được cùng xuân nhưng cũng không nỡ bắt xuân phải buồn theo mình, nên

riêng mảng thơ xuân ít ỏi, cảnh và người đôi khi cứ lệch pha nhau là vì thế. Người thì

thương tâm mà xuân thì sinh ý :

“Nam phố thương tâm khan lục thảo

Đông hoang sinh ý lậu hàn mai”

(Đau lòng nhìn cỏ xanh ở bến Nam

Cái sinh ý của chúa xuân đã để lộ trên hoa mai lạnh)

(Xuân nhật ngẫu hứng)

Cái xuân của đất trời có khi đối lập với lòng người một cách thách thức :

(Người cứ tiêu điều xuân cứ đẹp)

(Xuân tiêu lữ thứ)

Hay :

“Nhân tự bi thê thảo tự thanh”

(Người cứ buồn thương cỏ cứ xanh)

(Thanh minh ngẫu hứng)

Thật hiếm khi trong thơ Nguyễn Du, thiên nhiên và con người lại trở nên lạc điệu như

thế. Sự tương phản giữa ngoại cảnh và tâm trạng khiến người đọc càng cảm nhận sâu hơn

tâm sự chát chua, cay đắng mà thi nhân đang phải gánh chịu. Cảnh tươi vui là thế mà người

“Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo”

thì vẫn cứ héo hắt, thì nỗi niềm đó phải trĩu nặng lắm mới không thể cất đi được. Điều đó

cũng dễ hiểu, cuộc đời Nguyễn Du cứ triền miên trong gió bụi, lay lắt qua ngày với kiếp

sống ăn nhờ ở đậu, mùa xuân đến lại khắc thêm một năm bệnh tật không có thuốc, mới 30

tuổi tóc đã bạc trắng cùng thời gian, “ ngày xuân nhưng thân mình không còn trẻ nữa ”, xuân

năm nào rồi cỏ cũng cứ xanh, mai vẫn nở, hoa cứ tươi non như cũ nhưng tuổi đời thì đã đuổi

xuân đi, một tâm hồn đa cảm như Nguyễn Du không xót xa sao được.

Xưa, Nguyễn Trãi, người sống vào cái thời mà quan niệm “ thiên nhân hợp nhất ” hãy

còn là một điểm tựa mang lại cho con người cảm giác bình thản trước sự chuyển vần của vũ

trụ, vậy mà cũng không dấu được niềm nhức nhối khi ngắm xuân đó thôi. Ức Trai có cả một

chùm thơ hơn mười bài về đề tài “tích cảnh”, để bày tỏ lòng cảm khái của mình :

“Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm

Những lệ xuân qua tuổi tác thêm

Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rũ

Một phen liễu rũ một phen mềm”

(Tích cảnh, bài 7)

Có điều, ý thức ngày xuân chóng tàn, tuổi trẻ nhanh qua, Nguyễn Trãi có được tâm thế an

nhiên để sống hết mình với mùa xuân. Còn Nguyễn Du thì không, có tiếc nuối, có thổn thức

và nhiều khi cũng giật mình nhận ra nếu cứ phung phí mùa xuân thì thật đáng tiếc :

“Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật

Phao trịch xuân quang thù khả liên”

(Mỗi năm xuân sắc có chín mươi ngày

Phao phí nắng xuân quả là đáng tiếc)

Nhưng rốt cuộc vẫn cứ buồn, vẫn không thể gượng vui với xuân, vẫn bỏ mặc cho mùa xuân

hờ hững trôi ngang cửa mà cửa thì vẫn im ỉm đóng “ Bế môn bất kí xuân thâm thiển” (Đóng

cửa chẳng phường xuân sớm muộn).

Tuy nhiên, không phải lúc nào cảnh cũng xinh tươi thách thức ngạo nghễ với lòng

người như thế, tâm trạng buồn thì nhạy cảm với những thời khắc buồn hơn. Viết về xuân

nhưng là xuân muộn, xuân đêm, xuân lữ thứ... nên cảnh xuân lắm khi cũng u uất như lòng

người.

Mùa xuân cũng thiếu nắng, chỉ có lạnh lùng và âm u phủ quanh vườn nhà, cái lạnh của

đất trời hòa vào cái lạnh của lòng người tha hương càng tái tê như hóa đá :

(Mộ xuân mạn hứng)

“Sài môn trú tĩnh sơn vân bế

Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ

Nhất phiến hương tâm thiếm ảnh hạ

Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ”

(Ngày vắng, mây núi như đóng kín cửa sài

Xuân lạnh, trúc trong thung nơi vườn thuốc thưa thớt

Dưới bóng trăng một mảnh lòng nhớ quê

Tiếng nhạn đầu mùa khơi lại dòng lệ biệt ly từ bao năm)

(Sơn cư mạn hứng)

Càng đi sâu vào mùa xuân trong thơ Nguyễn Du, dù không nhiều nhặn gì vẫn cảm

giác mênh mông, rợn ngợp một nỗi buồn. Nhìn đâu cũng thấy man mác, cũng thấy ẩn chứa

tâm trạng. Xưa, xuân sang trong thơ Nguyễn Trãi, khi nhà thơ một mình, khép phòng văn

không muốn cho khách tục bén mảng đến, xuân chỉ có mưa bụi bay như rây và hoa xoan nở

tím ngăn ngắt, vậy mà người đọc vẫn chẳng thấy buồn. Xuân đến với Nguyễn Du có cả một

trời hoa đào – linh hồn của xuân, lại cứ tiêu điều, thê lương đến thế:

“Đào hoa đào diệp lạc phân phân

Môn yểm tà phi nhất viện bần”

(Hoa đào lá đào rụng bời bời

Cửa che xiêu vẹo một gian nhà nghèo)

(U cư, bài 1)

Thiên nhiên đúng là đã khúc xạ qua tâm hồn của thi nhân, nên bao bài thơ xuân vẫn

chỉ quẩn quanh một nỗi niềm không thể dứt : xa nhà, xa quê, anh em li tán, thân nghèo lại

danh phú quý chỉ còn là gió thoảng mây bay, rốt cuộc chỉ triền miên một mối lo, một nỗi sầu,

một mong ước cháy lòng là được đoàn tụ gia đình, quê hương mà chẳng thể toại nguyện.

Tâm sự trĩu nặng đó, Nguyễn Du chỉ biết chia sẻ cùng thiên nhiên. Vì thế, đêm xuân, không

có ánh sáng, hiển nhiên rồi, vậy mà điều đó lại khiến thi nhân chạnh lòng nghĩ đến thân phận

hiện tại của mình, cũng như người đi trong đêm mãi chẳng tìm được lối ra:

“Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm

Tiểu song khai xứ liễu âm âm”

(Đêm tối đen, tìm đâu ánh sáng mùa xuân

Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u)

lắm bệnh, tóc bạc ngày càng thêm, cả hùng tâm và tráng chí thời trai trẻ cứ tiêu ma dần, công

(Xuân dạ)

Cảnh đó và tình này thật đồng điệu với nhau:

“Ky lữ đa niên đăng hạ lệ

Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm”

(Lâu năm làm khách xa nhà lệ rơi dưới đèn

Nghìn dặm nhớ quê lòng gửi theo vầng trăng)

(Xuân dạ)

Trong đêm đen u tối, may còn có vầng trăng cho kẻ tha hương gửi nhờ tâm sự, tuy

vậy, không phải khi nào người cũng đến được với trăng. Cùng với mùa thu và mùa xuân,

trăng cũng xuất hiện khá nhiều trong thơ Nguyễn Du, nhưng hình như vì trăng trên đất khách

nên vẫn cảm thấy xa lạ. Không còn nữa những hình ảnh hòa hợp một cách thân mật, gần gũi

giữa người và trăng như trong thơ Nguyễn Trãi “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”, hay

trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm “Một thuyền phong nguyệt chở đầy then”, trăng trong thơ

Nguyễn Du cũng đẹp nhưng luôn ở trên cao trong khi con người lại cứ lặn ngụp trong những

nỗi đau trần trụi. Trăng soi vằng vặc chỉ khiến cho không gian thêm lạnh lùng, quạnh hiu:

“Mãn mục giai thu sắc

Mãn giang giai nguyệt minh

Tịch liêu kim dạ vọng

Thiên trích cổ nhân tình”

(Đầy mắt toàn sắc thu

Khắp sông nơi nào cũng sáng trăng

Đêm nay vời trông khung cảnh hiu quạnh

(Tương âm dạ)

Có khi trước một mảnh trăng non treo lơ lửng đầy quyến rũ, Nguyễn Du cũng rung động dạt

dào, đẩy thi hứng đến với những phát hiện thật độc đáo:

“Hấp đắc dương quang tài thướng thiên

Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên

Thường nga trang kính vi khai hạp

Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền”

(Hút được ánh sáng mặt trời vừa mọc trên nền trời

Mồng ba mồng bốn trăng chưa tròn

Chạnh nhớ người xưa bị giáng chức đi đày)

Như hộp gương trang điểm của hằng nga vừa mới hé mở

Như cái cung cong của tráng sĩ giương lên

mà không mắc dây)

(Sơ nguyệt)

Một bức tranh đẹp trang nhã, đậm chất cổ điển, trên nền trời bao la chỉ cài nhẹ một lát

trăng non, cái phần còn lại dù chưa lộ ra nhưng đã tiềm tàng sức sống chờ được xuất hiện.

Nhờ cách so sánh mới lạ, nhà thơ đã khoác lên trăng vẻ đẹp vừa mềm mại vừa mạnh mẽ, thật

có hồn. Trăng đưa nhà thơ trôi về miền kí ức đêm nào ở non Hồng ngày còn gắn bó, để rồi

tỉnh mộng, nhận ra mình đang ở bên sông La Phù, lòng lại hụt hẫng trong nỗi nhớ chơi vơi:

“Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ

Khước tại La Phù giang thủy biên”

(Chính lúc bồi hồi nhớ đêm nao ở non Hồng

Thì mình lại đang ở bên sông La Phù)

(Sơ nguyệt)

Vậy là, trăng nơi sông La Phù hay trăng trên sông Hương thì cũng đều là trăng nơi đất khách,

không thể làm thi nhân vơi nhớ mà chỉ khơi sâu thêm nỗi sầu:

“Hương Giang nhất phiến nguyệt

Kim cổ hứa đa sầu”

(Một mảnh trăng trên sông Hương

Xưa nay gợi bao nhiêu nỗi sầu)

(Thu chí)

Đã có lúc trong cô đơn và bệnh tật, nhà thơ mong muốn nương theo ánh trăng để xua

không thể nào với tới được:

“Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt

Lục âm trùng điệp bất di quang”

(Gượng dậy đẩy song cửa ngắm trăng sáng

Bóng cây xanh trùng điệp làm ánh trăng

không lọt qua được)

(Ngẫu hứng, kì 2)

Một hình ảnh giàu ý nghĩa, tự bản thân nó đã nói lên được nhiều điều. Thật khó mà

tìm thấy một cảnh vui trong thơ Nguyễn Du, bao quanh ông chỉ một màu thê lương, héo hắt,

tan bóng tối đang vây quanh, nhưng trăng cứ ngăn cách với người giữa bao nhiêu vật cản

thiên nhiên như đang úa tàn cùng với sự suy kiệt của cuộc đời. Phải chăng đó còn là hồi

quang của bức tranh xã hội ta ngày ấy?

Nếu như trong hai tập thơ Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm, thiên nhiên

hiện lên chủ yếu là những khung cảnh nhỏ hẹp, u tối, buồn thê lương như chính tâm sự của

Nguyễn Du, thì sang Bắc hành tạp lục, không gian được mở rộng ra, thiên nhiên là những

địa danh trên đất nước Trung Hoa, đến với hồn thơ Nguyễn Du suốt lộ trình đi sứ của tác giả.

Hoàn cảnh tuy khác trước, chia tay với “ mười năm gió bụi ”, Nguyễn Du giờ đã là quan to

của triều đình, nhưng không vì thế mà cuộc sống của ông hết phiền ưu. Gánh nặng áo cơm

có vơi bớt đôi phần nhưng những hệ lụy của chốn quan trường thì tăng lên gấp bội. Thêm

vào đó, đến Bắc hành tạp lục đã có một bước ngoặt lớn diễn ra trong tư tưởng thơ Tố Như –

từ hồn thơ chủ yếu hướng nội đã mở ra đón nhận những vang dội của cuộc đời, hướng ra

cuộc sống của con người mà cuộc đời bấy giờ với “ những điều trông thấy” thì chỉ khiến thi

nhân phải rơi lệ. Hai nỗi đau trong một tâm trạng, Nguyễn Du mang tâm trạng đó gửi vào

thiên nhiên nên thiên nhiên vẫn chất chứa nỗi niềm.

Trên đường vạn lý, tác giả có dịp thu vào tầm mắt những cảnh thiên nhiên kì vĩ nơi xứ

người, núi cao nhiều hiểm trở, sông sâu lắm thác ghềnh, đường dài đầy bụi đỏ...là những

hình ảnh phổ biến xuyên suốt tập thơ đi sứ. Nhưng hình như cái vẫy gọi chúng không phải là

một hồn thơ rộng mở, khát khao hòa nhập vào vũ trụ mà là một tâm trạng đa sầu đa cảm tìm

đến với thiên nhiên để gửi gắm tâm sự của mình.

Đi xa và lên cao để tìm cảm hứng bất tận trong thiên nhiên vốn là thú vui quen thuộc

của các nhà nho xưa. Trên đường kinh lý của mình, Nguyễn Du cũng có nhiều dịp “đăng

cao”, có lần “đăng cao” cũng tìm được cảm giác sảng khoái, con người trong thơ muốn được

“Thu trung khả hữu phù sa quá

Ngã dục thừa chi tái thượng thiên”

(Thu này nếu có bè đi qua

Ta sẽ cưỡi lên trời như người đời trước)

(Hoàng Hà)

Nhưng đó chỉ là tư thế ban đầu, bởi ngay khi con người vừa nhón gót bước lên, giơ tay

muốn được giao hòa cùng vũ trụ cũng là khi những u uất, trầm mặc của cõi lòng, những bức

bối, ngột ngạt của cõi đời đè nặng xuống, níu giữ lại không thể nào cất lên được.

cưỡi lên trời, được hòa tan vào mây như người đời trước:

Một nỗi niềm dễ đến nhất với Nguyễn Du khi trèo lên đỉnh núi là nỗi cô đơn. Chính vì

thế, ngay khi hành động đăng cao vừa mới bắt đầu, con người đã lại hồi đầu, hồi thủ, đắm

chìm trong nỗi nhớ nhà, nhớ quê đến quay quắt.

“Cố hương không nhất nhai

Tây phong ỷ cô hạm

Hồng nhạn hữu dư ai”

(Quê hương một gốc trời trống không

Trước ngọn gió tây một mình đứng tựa lan can

Vẳng tiếng chim hồng, chim nhạn bay qua thêm buồn)

(Đăng Nhạc Dương lâu)

“Thương tâm thiên lý nhất hồi thủ

Mãn mục Sở sơn vô hạn thanh”

(Đau lòng ngoảnh lại phía nghìn dặm

Ngợp mắt núi nước Sở xanh vô cùng)

(Vũ Thắng quan)

“Vạn lý hương tâm hồi thủ xứ

Bạch vân nam hạ bất thăng đa”

(Lòng nhớ quê nhà cách xa vạn dặm, quay đầu nhìn lại

Phía nam mây trắng nhiều không kể xiết)

(Ngẫu hứng)

Khi còn ở trong nước, nơi làm việc cách xa quê nhà có mấy ngày đường mà đã bốn

năm không một lần được về thăm, để rồi chiều chiều vời trông về phía núi Hồng mịt mờ

nhớ càng da diết khôn khuây.

Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua vẫn chỉ một nỗi niềm tê đi tái lại, hình ảnh quê cũ

non xưa cứ đeo đẳng mãi, mỗi ngày qua nỗi nhớ thêm chất chồng, núi Hồng trong hồi ức của

Nguyễn Du cũng giống như Côn Sơn trong hồi ức của Nguyễn Trãi vậy, luôn hiện về day

dứt. Thơ viết về núi rất nhiều mà bài nào cũng như một lời tâm sự:

“Túc hữu ái sơn tích

Biệt hậu tứ hà như

Lai đáo Tiềm Sơn lộ

Uyển như Hồng Lĩnh cư”

trong khói, lòng lại đau như cắt. Giờ đi sang xứ người, quê nhà càng cách xa vạn dặm, nỗi

(Ta vốn có tính yêu núi

Sau ngày xa quê nhớ biết chừng nào

Hôm nay đi trên đường Tiềm Sơn

Tưởng như đang ở trong dãy Hồng Lĩnh)

(Tiềm Sơn đạo trung)

Núi không chỉ gợi nhớ quê, núi còn khoét sâu vào nỗi nhớ em trai, em gái và đàn con

cháu, những người thân yêu luôn ở trong tim nhà thơ nhưng đã lâu không được gặp mặt:

“Biệt hậu quan sơn tư đệ muội

Vọng trung nham tự kiến nhi tôn”

(Sau khi chia tay trên bước đường

quan san nhớ đến em trai em gái,

Nhìn giữa đá núi, tưởng như trông thấy đàn con cháu)

(Minh Giang chu phát)

Núi tiếp núi, sông liền sông trập trùng, hiểm trở không chỉ che khuất quê nhà đã cách

xa vạn dặm mà còn là những hình ảnh xuất hiện trong thơ như một phép ẩn dụ biểu đạt sát

đúng con đường hoạn lộ gập ghềnh, lòng người nham hiểm, quanh co. Bài thơ “Ninh Minh

giang chu hành” là một trong những tác phẩm miêu tả thiên nhiên với mục đích đó:

“Cao sơn giáp ngạn như tường viên

Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên

Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã, la kì tiền

Đại giả như ốc, tiểu như quyền

Cao giả như lập, đê như miên

Thiên hình vạn trạng nan tận nghiên (ngôn)

Giao ly xuất một thành trùng uyên

Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên

Hạ lạo sơ trướng phí như tiên”

(Núi cao giáp bờ như bức tường

Giữa có những hòn đá kỳ lạ chen chúc nhau

Có những hòn hình rồng, rắn, cọp, beo,

trâu, ngựa bày la liệt trước mặt

Lớn như nhà, nhỏ bằng nắm tay

Trực giả như tẩu, khúc như tuyền

Hòn cao như đứng, hòn thấp như nằm ngủ

Hòn thẳng như chạy, hòn cong như xoay vòng

Nghìn hình vạn vẻ không nói hết

Thuồng luồng li long ra vào thành vực sâu

Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ầm

Nước lụt mùa hè vừa dâng, nước sôi sục)”

(Ninh Minh giang chu hành)

Nghệ thuật tả chân tỉ mỉ ít gặp trong thi pháp thơ cổ được thể hiện thật đặc sắc, ngôn

ngữ giàu hình tượng đã tạc nên bức tranh vô cùng kì vĩ, hoành tráng. Đó chắc chắn phải là

cảnh sông núi thực hai bên bờ dòng Ninh Minh hiện ra trước mắt thi nhân khi thuyền ông

qua đây. Một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, nhưng sao vẫn có cái gì đó bất an, những câu

thơ tiếp theo là một gợi ý:

“Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền

Tâm huyền đa sở úy”

(Một mạch ba ngày lòng chơi vơi

Lòng chơi vơi vì sợ nhiều)

Thì ra cái bất an không ở nơi cảnh vật mà ở trong lòng người.Trước thiên nhiên cao

lớn, hiểm trở con người sợ an nguy đến tính mạng thì ít mà sợ vì giật mình nhận ra thiên

nhiên cũng “sâu hiểm quanh co giống lòng người” thì nhiều. Ra làm quan, Nguyễn Du ý

thức được con đường hoạn lộ thật lắm chông gai và phiền lụy, sống trong đó con người mất

hết tự do, phải khép nép, giữ kẻ, không đau bệnh mà lưng cứ cúi lom khom, ơn trên như mưa

móc mà sao cứ thấy ớn lạnh. Đó là một xã hội mà người “xé thịt người ăn ngọt xớt”, tài

cảm giác như đang sống cùng loài quỷ quắc, sống trông xã hội đó “sợ” đã trở thành một bản

năng để tự vệ, để giữ mình. Với một tâm trạng như thế, trước cảnh non cao, vực sâu, Nguyễn

Du hay suy tưởng cũng là điều dễ hiểu.

Suy tư chi phối cách nhìn, cách nhìn chi phối ngoại cảnh, cái đường dẫn tất yếu đó là

nguyên nhân khiến cho thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du luôn mang tính ẩn dụ. Đọc thơ ông

viết về thiên nhiên, đặc biệt là tập Bắc hành tạp lục, bên cạnh những bức tranh về sông núi

còn có hình ảnh con đường dài đầy bụi, xuất hiện không phải chỉ một lần. Phải chăng đó

cũng chính là đường đời hun hút, buồn tẻ mà con người đang ngày ngày phải lặn lội trong đó

để duy trì một sự sống mỏi mòn?

không thể cứu được mệnh, giữ lòng trung tín rốt cuộc vẫn chẳng đủ để cậy nhờ, khi nào cũng

“Phong thụ lâm trung diệp loạn phi

Kinh sa tác vũ thướng chính y

Tiêu tiêu khô thảo lộ nhất tuyến

Tịch tịch tà dương sơn tứ vi”

(Trong rừng phong lá bay loạn xạ

Cát tung lên như mưa trên áo khách đi đường

Suốt dọc đường cỏ héo xác xơ

Bóng tà quạnh quẽ, bốn bề toàn núi)

(Tổ sơn đạo trung)

Trên con đường hoang vu, quạnh vắng đó, con người hiện lên thật nhỏ bé và cô đơn,

cô đơn đến cô độc:

“Ba ba bạch phát hồng trần lộ

Nhật mộ đăng cao bi mạc bi”

(Mái tóc bạc phơ trên đường bụi đỏ

Trèo lên đỉnh núi cao không gì buồn bằng)

(Tổ Sơn đạo trung)

Như vậy, lên cao không giúp con người trở thành một “tiểu vũ trụ” hòa vào đại vũ trụ

bao la mà chỉ khiến con người cảm thấy chống chếnh, mất phương hướng và ý thức rõ hơn

về “chiếc thân” mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc đời. Theo dòng suy tư đó, hàng loạt những

hình ảnh như: thanh vân (mây xanh), bích vân (mây biếc), thanh san (núi xanh), vạn trùng

san (muôn trùng núi non), đông phong (gió đông), thu phong (gió thu), tây phong (gió tây),

phù vân (mây nổi), nhật mộ vân (áng mây chiều), hồng trần (bụi hồng), diệt quy hồng (bóng

dương (bóng chiều tà), nhất phiến trần (bụi mịt mù)… cứ đi về dưới ngòi bút Nguyễn Du

như thể đó là hiện thân của cuộc đời nổi trôi, vô định của ông vậy.

Cảm hứng về nương dâu bãi bể và tâm trạng hoài cổ cũng chi phối không ít đến cách

cảm nhận thiên nhiên trong thơ Tố Như, nhất là mảng thiên nhiên gắn liền với di tích và

nhân vật lịch sử Trung Hoa mà ông yêu mến.

Qua sông Hoài, chạnh lòng nhớ Hàn Tín, thấy cảnh vật cũng trở nên hiu hắt, võ vàng:

“Trù trướng giang đầu tư vãng sự

Đoạn vân suy thảo mãn Hoài âm”

(Qua bến sông ngậm ngùi nhớ lại việc cũ

chim hồng), không mộ vân (đám mây chiều lơ lửng), mộ yên trung (trong khói chiều), tịch

Mây rời rạc, cỏ tàn úa bao trùm đât Hoài Âm)”

(Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm Hầu)

Đến nơi quê cũ của Kinh Kha, bậc tiết liệt ra đi vì nghĩa lớn đã nghìn năm mà sông

núi, cỏ cây vẫn mãi nuối tiếc người không trở về:

“Bạch hồng quán nhân thiên man man

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn”

(Mống nắng xuyên ngang mặt trời, bầu trời mênh mông

Gió thổi hiu hắt, nước sông Dịch lạnh)

(Kinh Kha cố lý)

Nơi ở của nàng Tiểu Thanh – “Tây Hồ cảnh đẹp nay đã hóa thành gò hoang”, thiên

nhiên biến cải chẳng khác nào cuộc đời vô thường, thoái suy khiến con người không khỏi

thương tâm cho kiếp phù sinh ngắn ngủi.

Cuộc đời là chớp mắt, thời gian trôi đi đã làm tiêu xóa những dấu tích liên quan đến

con ngươi. Đài Đồng Tước, nơi một thời nguy nga tráng lệ, gắn liền với sự nghiệp bá vương

lẫy lừng của Tào Tháo, giờ đã trở nên đổ nát, hoang tàn, dấu xưa mất hút, chỉ còn lại cái nền

trống trơ và gió lạnh thổi vào cỏ thu tàn úa:

“Đãn kiến giang biên Đồng Tước đài

Đài cơ tuy tại dĩ khuynh dĩ

Âm phong nộ hào thu thảo mỹ

Ngọc Long Kim Phụng tận mang mang”

(Chỉ thấy đài Đồng Tước ở bên sông

Nền đài tuy còn nhưng đã nghiêng lở

Hai lầu Ngọc Long, Kim Phụng đều đã mịt mờ dấu vết)

Trước cảnh đó, thi nhân không khỏi chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình:

“Ngã tư cổ nhân thương ngã tình

Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh

Như thử anh hung thả như thử

Huống hồ thốn công dữ bạc danh”

(Ta nghĩ đến người xưa xót nỗi mình

Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống thương kiếp phù sinh

Anh hùng đến như thế mà như thế

Gió lạnh réo gào giận dữ, cỏ thu tàn úa

Huống nữa là những kẻ chỉ có chút công nhỏ mọn

và cái danh mỏng manh)

(Đồng Tước đài)

Thời gian thật tàn nhẫn, phận người càng mong manh, vậy mà con người cứ dùng mọi

thủ đoạn để tranh hùng, xưng bá, chạy theo danh vọng, tiền tài đâu biết một ngày rồi cũng

nát với cỏ cây. Kiếp người chỉ là một cái chấm nhỏ trong thời gian vô hạn và không gian vô

cùng. Đó là lí do khiến Nguyễn Du rất nhạy cảm trước sự tồn tại nhiều khi gần như thách

thức, ngạo nghễ của thiên nhiên bên cạnh sự ngắn ngủi của đời người:

“Thành ngoại thanh sơn tự cựu thì

Gian hùng soán thiết nhân hà tại? ”

(Ngoài thành núi vẫn xanh như thời xưa

Lũ gian hùng cướp ngôi có kẻ nào còn đâu)

(Cựu Hứa Đô)

“Tôn sách Lưu phan hà xứ tại

Thương nhiên nhất vọng tẫn bình vu”

(Đâu là đất họ Tôn đòi, họ Lưu chiếm giữ?

Buồn trông chỉ thấy xanh um một vùng cỏ hoang)

(Sở vọng)

“Bá Vương trần tích thuộc du du

Hán thủy thao thao trú dạ lưu”

(Dấu cũ của Bá Vương đã đi vào cõi mông lung rồi

Sông Hán ngày đêm cuồn cuộn chảy)

Thông qua những bức tranh thiên nhiên đối lập với con người, Nguyễn Du gửi vào đó

một triết lý đơn giản mà vô cùng thâm sâu: tự nhiên là bất diệt, chỉ con người là có giới hạn,

một giới hạn thật ngắn ngủi, mong manh. Cách duy nhất để con người trường tồn với thời

gian chính là để lại những giá trị nhân văn và giá trị văn chương cao đẹp. Muốn nhận chân

điều này hãy nhìn vào nước trong đầm Đào Hoa, nơi thi tiên Lý Bạch thường lui tới độc ẩm

và ngâm vịnh, ngàn đời sau vẫn cứ trong suốt, tùng bách giữa mùa đông vẫn xanh tươi, con

cá con chim đều thành tiên cả, chỉ vì nơi đó đã mãi mãi đi vào trong những vần thơ bất hủ

của thi nhân:

“Thiên niên thắng tích dĩ nhân truyền

(Hán Dương vãn diễu)

Bất tại du du nhất đàm thủy

Đàm thủy chí kim thanh thả liên

Nhất ngư nhất điểu giai thành tiên”

(Cảnh đẹp nghìn đời mà danh để nghìn năm

Chứ đâu phải vì nước đầm mà mênh mông bát ngát

Nước đầm đến nay vẫn trong veo và gợn sóng

Con cá con chim đều thành tiên)

(Đào Hoa đầm Lý Thanh Liên cựu tích)

Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “Đọc thơ chữ Hán của

Nguyễn Du cho ta cảm giác triền miên một buổi chiều thu” [12. tr208, 209], một buổi chiều

thu rất buồn, buồn từ hồn người buồn ra cảnh vật. Song cũng từ tín hiệu buồn đó mà người

đọc nhận ra giữa ngổn ngang những đau khổ của cuộc đời Nguyễn Du vẫn không gục ngã

chính là vì ông đã biết tìm đến với thiên nhiên như tìm đến với một người bạn biết lắng nghe

để trút bầu tâm sự của mình. Nguyễn Du thật sự đã hòa tâm hồn mình với thiên nhiên, một

tâm hồn không chỉ có buồn đau mà còn chứa đựng những tố chất đẹp đẽ của một nhân cách

lớn. Thế nên, trong nỗi buồn mênh mang mà thi nhân gửi vào cảnh vật ngời lên tình yêu tha

thiết dành cho quê hương, xứ sở; trong những suy tư chất chứa tình đời mà thi nhân gửi vào

cảnh vật lấp lánh niềm tin bất diệt vào sự trường tồn của giá trị nhân văn và giá trị văn

chương. Cái thông điệp ý nghĩa đó chính là hạt ngọc được chắt ra từ trong bao nhiêu nước

mắt mà Nguyễn Du đã thổn thức cùng thiên nhiên vậy.

Như vậy, được thể hiện mình trong môi trường thiên nhiên là một nhu cầu của các nhà

riêng. Điều này một phần bắt nguồn từ sự tự ý thức mang tính tôn giáo triết học của nhà nho

thời trung đại, họ quan niệm rằng nhân cách của con người có nguồn gốc tiên thiên, được

trời đất cấp cho, vì thế luôn hướng về tự nhiên để được di dưỡng tinh thần. Đồng thời họ

cũng cho rằng thiên nhiên chứa đựng những gì trong sạch nhất, vì thế chỉ có thiên nhiên mới

xứng đáng là người bạn để họ bộc lộ thế giới nội tâm bao gồm những tâm tư, tình cảm, suy

nghĩ sâu kín nhất của mình. Bên canh đó, quan niệm “thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân

tương cảm” và tình yêu cái đẹp thuần khiết của cảnh vật vốn là tính sẵn có của tâm hồn nghệ

sĩ trong mỗi thi nhân cũng góp phần đưa nhà thơ trung đại về với thiên nhiên một cách trọn

nho thời trung đại nói chung, của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du nói

vẹn hơn. Thế nên, tìm hiểu cuộc đối thoại giữa nhà thơ và thiên nhiên bao giờ cũng cho phép

người đọc nhận chân thế giới tâm hồn thâm viễn của họ.

Thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du viết về thiên nhiên đã bộc lộ một

tình yêu chân thành, niềm say mê tha thiết và sự đồng cảm sâu sắc dành cho thế giới vạn vật

bao quanh mình, đồng thời qua đó cũng thể hiện năng lực cảm nhận vô cùng tinh tế, nhạy

bén của những hồn thơ rất mực tài hoa. Tình cảm đặc biệt đó là biểu hiện của một thế giới

nội tâm phong phú, thuần hậu, dạt dào yêu thương, luôn hướng đến chân – thiện – mỹ của ba

đỉnh cao văn học trung đại và đó cũng chính là phẩm chất nhân văn trong sáng của con người

trong thơ.

Tuy cả ba nhà thơ đều dành tình cảm cho thiên nhiên nhưng cái cách mà họ đến với

thiên nhiên không hoàn toàn giống nhau mà trên thực tế từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du đã

có sự tiếp biến nhất định.

Nếu như trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thiên nhiên thường được quan

niệm là môi trường để di dưỡng tinh thần, nên thiên nhiên hiện lên thật hiền hòa, thuần khiết,

phóng khoáng… thì trong thơ Nguyễn Du, thiên nhiên lại là môi trường để suy tư, vì thế

thiên nhiên hiện lên thường buồn bã, chật hẹp, tịch mịch, u tối…

Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm gần như không xem vũ trụ là khách thể, họ đến với

cảnh vật chủ yếu bằng cách hòa mình vào trong cảnh, ở trong thiên nhiên họ đã thiết lập một

mối quan hệ vô cùng thân thiết và cởi mở với chúng, ngược lại trong thơ Nguyễn Du, chủ thể

phần lớn là tự tách mình ra khỏi thiên nhiên và biến thiên nhiên trở thành một phượng tiện để

bộc lộ tâm trạng.

Cũng vì thế, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm thường mang

động trong quan niệm về thiên nhiên đã dẫn đến những biến đổi trong nghệ thuật tả cảnh của

văn học trung đại, từ bút pháp tả cảnh để tỏ chí một cách gián tiếp – chí nhàn dật, ưa sống

hòa vào thiên nhiên đến bút pháp tả cảnh ngụ tình trực tiếp – tình đời, tình người trong hoàn

cảnh xã hội đầy đau khổ. Và bút pháp tả cảnh ngụ tình trong thơ Nguyễn Du có thể được

xem là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vốn đã trở thành một nét thi pháp phổ biến

và độc đáo trong văn học cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.

Thiên nhiên trong thơ là tấm gương phản chiếu thế giới tâm hồn của chủ thể sáng tạo.

Sự vận động trong cảm thức về thiên nhiên cho thấy sự vận động trong quan niệm về con

người nhân văn, từ con người mang vẻ đẹp tâm hồn phóng khoáng, cởi mở mang tầm vũ trụ

vẻ đẹp khách quan, còn thiên nhiên trong thơ Nguyễn Du lại nhuốm đầy tâm trạng; sự vận

đến con người mang vẻ đẹp của những trăn trở, suy tư về thân phận cá nhân trong cuộc sống

đời thường.

CHƯƠNG IV: CON NGƯỜI NHÂN VĂN ĐẸP TRONG CÁCH HÀNH XỬ

TRƯỚC THỜI THẾ ĐỂ BẢO TOÀN

KHÍ TIẾT KẺ SĨ

1. Nguyễn Trãi với lý tưởng cống hiến và tinh thần đại ẩn

Một trong những bản chất phi nhân văn nhất của xã hội phong kiến chính là chế độ

khắc bạc đối với hiền tài, những người có tài năng siêu phàm thường chỉ được sử dụng vào

mục đích củng cố ngai vàng mà ít khi được trọng dụng lâu dài. Thói “cất cung giết chó” là

một thủ đoạn phổ biến của vua quan phong kiến đối xử với những bậc khai quốc công thần.

Chính vì thế, những bậc trượng phu, những người đại trí, một mặt muốn hy sinh, cúc cung

tận tụy, một mặt vẫn không thể đem cho hết tất cả tâm hồn mình, mà phải giữ nó lại. Họ phải

thủ thế với vua chúa, triều đình. Xưa nay, trong lịch sử phong kiến của cả Trung Hoa lẫn

Việt Nam đã có không ít bậc tiên nho lựa chọn cách xử thế “công thành thân thoái” như một

con đường để bảo toàn danh tiết. Lịch sử vẫn còn ghi lại gương Phạm Lãi sau khi giúp Câu

Tiễn giành lại đất nước thì lánh mình cùng người đẹp Tây Thi đi ngao du sơn thủy; Trương

Lương bao năm phò tá Lưu Bang, nhưng khi Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, ngự trị toàn thiên

hạ, thì ông đem ngay tấm thân ốm yếu của mình lên núi kiếm thuốc luyện đan, không màng

đến việc nhận quan chức; Nghiêm Tử Lăng là bạn nối khố của Lưu Tú, nhưng sau khi giúp

Lưu Tú trở thành vua Hán Quang Vũ, liền đổi ngay họ tên lên núi Phú Xuân câu cá, cày

ruộng cho đến cuối đời…Ở Việt Nam, vẫn còn đó gương Chu Văn An sau khi dâng sớ xin

chém 7 lộng thần có hại cho đất nước không được chấp thuận, ngay lập tức treo ấn từ quan

trở về núi sống ẩn dật đến già…

để bảo toàn khí tiết của mình sau khi đã lập được công danh hay khi bất mãn với chế độ.

Nguyễn Trãi cũng là nhà nho, những phép xử thế ở đời như trên ông đều được biết.

Trong thơ, ông từng tỏ lòng “ngưỡng mộ phong thái thanh cao của người đời Hán ở đất Phú

Xuân”, đồng thời cũng nói rất nhiều đến cái hứng trở về. Vậy trên thực tế, đi theo bước chân

người xưa liệu có phải là lẽ sống mà ông hằng ấp ủ?

Đúng là trong thơ, Nguyễn Trãi luôn ca ngợi cuộc sống ẩn dật, bày tỏ khát khao được

sống giữa thiên nhiên để hưởng cái thú “cày nhàn, câu vắng”. Suốt những năm tháng ở triều,

tiếng gọi trở về vẫn không ngừng thôi thúc Ức Trai. Trong cùng một tâm hồn luôn hiện bóng

hai chân trời, lòng thì như “hạc nội bay giữa bầu trời” mà chí lại quyết làm “con chim bằng

Như vậy, chọn lối sống ẩn dật là cách ứng xử mà các nhà nho xưa vẫn thường áp dụng

biển Bắc, cưỡi gió lên cao chín vạn dặm”. Niềm mong muốn “Bao giờ được làm nhà dưới

núi mây che; Múc nước suối pha trà gối đầu lên tảng đá mà ngủ”(Loạn hậu đáo Côn Sơn

cảm tác) đâu chỉ dấy lên một lần rồi thôi, mà đã trở thành một giấc mộng dài:

“Bồng Lai Nhược thủy yểu vô nha

Tục cảnh đê hồi phát bán hoa

Vân ngoại cố cư không huệ trướng

Nguyệt trung thanh mộng nhiễu sơn gia

Tâm như dã hạc phi thiên tế

Tích tự chinh hồng đạp tuyết sa

Nham huyệt thê thân hà nhật thị ?

Thiên môn hồi thủ ngũ vân xa”

(Non Bồng nước Nhược mịt mờ không bờ bến

Cảnh tục quẩn quanh, tóc đã hoa râm một nửa

Nơi ở cũ ngoài mây bỏ không trướng huệ

Giấc mộng thanh đêm trăng dạo quanh nhà trên núi

Lòng như hạc nội bay giữa bầu trời

Dấu tựa chim hồng dẫm trên bãi tuyết

Ngày nào mới được về nương thân nơi hang đá?

Quay đầu nhìn cửa trời năm thức mây đã xa)

(Họa hữu nhân yên hà ngụ hứng)

Theo thời gian, khi soi mình vào gương, thấy tóc bạc trắng, biết là tuổi đã già, thảng

thốt nhận ra “Cuộc đời giống như sau giấc mộng kê vàng; Tỉnh dậy muôn việc đều thành hư

“Kính trung bạch phát giai nhân lão

Thân ngoại phù danh mạn nhĩ lao

Miễn tưởng cố viên tam kính cúc

Mộng hồn dạ dạ thướng quy đao”

(Tóc bạc trong gương cùng người già đi

Danh hão ngoài thân, mặc các người nhọc công theo đuổi

Triền miên tưởng nhớ ba luống cúc nơi vườn cũ

Hồn mộng đêm đêm nơi chiếc thuyền trở về)

(Thu nhật ngẫu thành)

không” (Ngẫu thành) thì giấc mơ trở về càng triền miên day dứt:

Và hình ảnh trong giấc mơ về một cuộc sống ẩn nhàn ngày càng hiện lên rõ mồn một:

“Giai khách tương phùng nhật bão cầm

Cố sơn qui khứ hứng hà thâm

Hương phù ngõa đỉnh phong sinh thụ

Nguyệt chiếu đài ki, trúc mãn lâm

Tẩy tận trần tâm hoa ngoại mính

Hoán hồi ngọ mộng chẩm biên cầm

Nhật trường ẩn kỉ vong ngôn xứ

Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm”

(Khách quý gặp nhau ngày ngày ôm đàn gãy

Cái hứng trở về núi cũ sao mà sâu sắc thế

Mùi hương bốc ở đỉnh sành gió thối trên ngọn cây

Ánh trăng soi xuống tảng đá phủ rêu, trúc đầy rừng

Rửa sach lòng trần có ấm chè ngoài hoa

Gọi tỉnh giấc mộng trưa, sẵn tiếng chim bên gối

Ngày dài ngồi tựa ghế quên cả nói năng

Người với mây núi ai mới là hữu tâm)

(Đề Trình xử sỉ Vân Oa đồ)

Nếu lòng không thật sự hướng đến cõi yên lặng, sẽ không thể nào có được những phút giây

đạt đạo, mà ở đó con người chìm vào những khoảnh khắc “vô ngôn” thấm đẫm ý vị thiền.

Lòng đã hẹn thề với suối với rừng, vậy mà cứ lần lữa mãi khiến nhà thơ “luống hổ với

suối thẹn với rừng vì đã trái với lời nguyền xưa” (Đề Đông Sơn tự), bao nhiêu lần ông tự hối

“Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào”

(Mạn thuật, bài 13)

Người dẫu có lỗi hẹn nhưng “Viên hạc chăng hờn lại những thương”, “tùng trúc hãy còn” thì

về đâu đã muộn, niềm day dứt đó có lúc cất lên thành nỗi chua xót đắng cay:

“Ta dư cửu bị nho quan ngộ

Bản thị canh nhàn điếu tịch nhân”

(Thương ta bấy lâu bị cái mũ nhà nho làm cho lầm lỡ

Vốn ta là kẻ cày trong cảnh nhàn, câu ở nơi thanh vắng)

thúc mình:

(Đề Từ Trọng Phủ canh ẩn đường)

Rõ ràng, được sống trong cảnh nhàn là một mơ ước thường trực của Nguyễn Trãi. Vậy

tại sao ông không thể dứt áo ra về, tại sao vẫn nấn ná mãi nơi “tường đào ngõ mận” dẫu

lòng ông không muốn? Tự trong thơ ông đã có câu trả lời:

“Nợ quân thân chưa báo được

Hài hoa còn bợn dặm thanh vân”

(Ngôn chí, bài 11)

Như vậy, được sống trong cảnh nhàn hẳn là một mơ ước lớn, nhưng chưa phải là niềm

tha thiết lớn nhất của Ức Trai. Lý tưởng sống của ông không gửi chỗ ẩn dật mà để nơi tinh

thần nhập thế trọn vẹn. Quay về sống giữa thiên nhiên là một nhu cầu tinh thần, làm quan

giúp đời là nhu cầu của ý chí, đó là hai mặt thống nhất trong tâm hồn Nguyễn Trãi – vừa yêu

nước thương dân, vừa biết tìm vui trong cảnh vật thanh đạm, cao khiết để di dưỡng tinh thần.

Dù trong thơ ông có thể hiện như thế nào thì ở Nguyễn Trãi, lý tưởng cống hiến và

tinh thần đại dụng vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Đó cũng chính là lý do mà ngay cả khi

quay về sống giữa thiên nhiên, tâm hồn ông dẫu có được những phút giây thanh thản, nhưng

lòng thì vẫn không nguôi quên việc đời, vẫn lắng nghe những tiếng động từ dưới chân núi:

“Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân

Lẳng thẳng chia lìa lưới trần”

(Mạn thuật, bài 11) Thế nên chỉ cần nghe tiếng gọi của cuộc đời thực, dẫu như “con ngựa già” vẫn rong ruổi

ra đi, đâu phải để cầu công danh phú quý bởi với ông “phú quý treo sương ngọn cỏ, Công

danh gửi kiến cành hòe”(Tự thán, bài 3), cuộc sống lấy nghèo làm vui “bữa ăn dầu có dưa

muối, Áo mặc nài chi gấm thêu”, ăn vận lấy từ cỏ cây, dẫu “áo bô” vẫn “quen cật vận xênh

quay trở lại chỉ vì nghĩ rằng mình lại có cơ hội được cống hiến cho nước cho dân, “tấm lòng

son sắt như lửa lò luyện đan” lại có dịp được đốt cháy hết mình cho lý tưởng.

Như vậy, ở Nguyễn Trãi, được sống trong cảnh nhàn, giữa thiên nhiên thuần hậu là

một nhu cầu tha thiết của tinh thần, nhưng xuất thế giúp đời lại là nhu cầu mãnh liệt của ý

chí, hai vấn đề xuất xử này vẫn tồn tại thống nhất trong một con người. Nên nhà thơ từng

nói: “Mấy năm nay xuất và xử đại khái giống nhau” (Họa vần ông người làng); giống mà

khác, khác nhưng giống. Đây chính là tinh thần thông thoáng, rộng mở từ thời đại Lý – Trần

thổi sang mà Nguyễn Trãi có lẽ là nhà nho cuối cùng còn đón nhận được một cách trọn vẹn.

Dưới thời Lý – Trần, khi tam giáo hội ngộ nhau dưới một mái nhà – đó là tinh thần dân tộc

xang”, “hài cỏ” vẫn “đẹp chân đi đủng đỉnh” thì còn cần gì vật chất nữa đâu. Ông hăm hở

Việt Nam, thì vấn đề xuất – xử đã được dung hòa và trở nên mềm mại hơn. Cái hành, cái

tàng của Nho giáo có phần bị động và cứng nhắc thì có nhập mà xuất, xuất mà nhập của nhà

Phật, nhà tiên bồi bổ thêm, và khi sự hội nhập phát triển lên một bước thì trong hành có tàng,

trong tàng có hành, xuất thế nhưng vẫn nhập thế, nhập thế nhưng vẫn xuất thế. Giữ thăng

bằng cho sự tình có vẻ trái ngược ấy là bản lĩnh của người Việt, bản lĩnh vững chắc mà thanh

cao, yêu nước thương dân là trên hết, rồi ở bên cạnh làm phật làm tiên cũng hay. Làm phật

làm tiên cũng tốt, nhưng trước hết phải yêu thương dân đã. Chính quan niệm “hòa quang

đồng trần”, “cư trần lạc đạo” đó của vua quan và cả thiền sư thời Lý – Trần đã thổi vào

Nguyễn Trãi và được nâng lên thành tinh thần “đại ẩn” mang tầm cao chót vót của tư tưởng

nhân văn Việt Nam.

Đúng là trên thực tế đã có lúc bất đắc dĩ, Nguyễn Trãi phải chọn con đường qui ẩn,

song bản lĩnh của ông trong việc giữ tròn khí tiết kẻ sĩ đâu chỉ thể hiện ở chỗ quay về, mà

còn ở tinh thần đại ẩn – ẩn cả, tức ẩn ngay giữa thị triều, ở giữa triều đình và chợ búa, thể

hiện qua cách sống của ông ngay chốn quan trường. Người xưa có nói: “Tiểu ẩn ẩn lăng tẩu,

Đại ẩn ẩn triều thị” – (Kẻ ở ẩn nhỏ thì ẩn nơi gò đền, Kẻ ở ẩn lớn thì ẩn ngay giữa triều đình

thành thị). Nguyễn Trãi chính là “kẻ ở ẩn lớn” đó, ông cũng quan niệm:

“Ta nẻo ở đâu vui thú đấy

Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền”

(Tự thán, bài 33)

“Ẩn cả lo chi thành thị nữa

Nào đâu là chẳng đất nhà quan”

(Ngôn chí, bài 16)

hồn. Một khi tâm hồn sáng trong như tuyết, vững vàng như đá, chính trực như trúc, cốt cách

như mai thì vấn đề sống ở đâu chẳng còn quan trọng nữa. Chẳng phải vì thế mà Nguyễn

Mộng Tuân, một người bạn cùng thời với Nguyễn Trãi đã phát hiện ra Ức Trai tiên sinh ngồi

làm việc có dáng thanh cao như một ông tiên trong lầu ngọc:

“Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên

Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền”

(Trông ông ngồi trong gác vàng, phong cách

thanh cao như một vị tiên trong lầu ngọc

Có tài sửa sang việc thiên hạ và làm vẻ vang

Sự ở hay về, xuất hay xử đâu phải thể hiện nơi chỗ ở mà nằm ngay chính trong tâm

cho nước nhà, từ xưa chưa có ai được như thế)

(Nguyễn Mộng Tuân tặng Gián Nghị đại phu Nguyễn Công)

Nhưng “Nguyễn Trãi không phải là một ông tiên, Nguyễn Trãi là người chân đạp đất

Việt Nam, đầu đội trời Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại...” (Phạm Văn Đồng). Vì thế

trong thơ, đôi khi đâu đó ta bắt gặp ý vị phảng phất đạo gia trong một vài câu thơ kiểu như:

“Thị xứ chân kham dung ngã ẩn

Sơn trung hoàn hữu cựu sa phù”

(Chốn ấy thực đáng cho ta ẩn

Trong núi có còn đơn sa cũ (để luyện đơn) chăng)

(Đề đền Bảo Phúc)

Lại có khi ta thấy thi nhân tâm sự với người bạn nhà sư thật tâm đầu ý hợp, không

những thế còn bàn hẹn nhau về việc trút bỏ sự đời để được cùng nhau thả lòng nghe suối

chảy ở Côn Sơn:

“Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã

Lâm kì ngã diệc thượng thừa thiền”

(Già rồi nói cuồng đừng lạ ta

Từ biệt nhau rồi thì ta cũng sẽ tu đạo thượng thừa) ”

(Tống tăng Đạo Khiêm quy sơn)

Đó chẳng qua cũng là một cách nói, vì trên thực tế đâu phải lên núi mới thành tiên, lên

chùa mới thành phật, Nguyễn Trãi không tu thành tiên, thành phật, ông chỉ muốn ở lại giữa

cuộc đời, chí để ở sự cống hiến, tâm hồn để ở thiên nhiên. Bởi bản thân tâm hồn ông đã sáng

tựa tiên phật, khi thân không còn vướng vào cái lụy công danh thì trở nên nhẹ bẫng như mây

“Thân đà hết lụy thân nên nhẹ

Bụt ấy là lòng bụt há cầu”

(Mạn thuật, bài 8)

“Lo chi tiên bụt nhọc tầm phương

Được thú an nhàn ngày tháng trường

Song có hoa mai đìa có nguyệt

Án còn phiến sách triện còn hương”

(Tự thán, bài 12)

khói, lòng đạt đến bụt, khỏi phải nhọc công kiếm tìm:

Và đó phải chăng là “cái thú này ” mà ông luôn khẳng định nhiều lần trong thơ, thú

vui riêng để dưỡng thân, không trùng lặp, không khuôn mẫu, tự mình ông biết, tự mình ông

khen mặc cho người đời có khen chê, thắc mắc:

“Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi

Ông này đã có thú ông này”

(Mạn thuật, bài 6)

“Ai hay ai chẳng hai thì chớ

Bui một ta khen ta hữu tình”

(Tự thán, bài 14)

Cái thú đó dù không phải bụt cũng chẳng phải tiên nhưng vẫn rất thanh cao, chẳng vướng bụi

trần như lời Ức Trai miêu tả “ chẳng bụt chẳng tiên ắt chẳng phàm ”.

Với một bản lĩnh sống cứng cỏi, một quan niệm sống thanh thoát, cao vòi vọi đó,

Nguyễn Trãi đã đứng lên trên những thói tục tầm thường:

“Phú quý chẳng tham thanh tựa nước

Lòng nào vạy vọ hơi hơi”

(Ngôn chí, bài 21)

Đó cũng chính là bản lĩnh của một loài hoa, biểu tượng cho tâm hồn thanh cao của

người Việt, dẫu phải sống giữa đầm lầy vẫn vươn lên tỏa ngát hương thơm:

“Thế sự dầu ai buộc bện

Sen nào có lấm trong bùn”

(Thuật hứng, bài 25)

Thế sự thời Nguyễn Trãi cũng không ít nhiễu nhương, oan trái, lòng người thâm hiểm,

lòng người cực hiểm thay” (Mạn thuật, bài 4), và bản thân ông cũng đã từng là nạn nhân của

“lòng người cực hiểm” đó. Song hoàn cảnh sống đó vẫn không thể làm hoen ố được tâm hồn

sạch như băng của Nguyễn Trãi. Từ trong suy nghĩ, ông luôn dặn lòng “Lưng khôn uốn lộc

nên từ”, “Lời chẳng phải vưỡn không nghe”, nhân cách của nhà nho Nguyễn Trãi cứ thẳng

đứng mà hướng lên bầu trời như tre, như trúc không có bụi trần nào có thể lọt qua được.

Quan niệm dưỡng thân của Ức Trai trước sau như một – “Phú quý lòng hơn phú quý

danh”, thế nên chỗ ở của quan lại giống nhà chùa chỉ vì tấm lòng muốn trong veo sự thế:

“Quan thanh bằng nước nhà bằng khánh

Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy”

quanh co đến nỗi có lúc ông phải thốt lên “ngoài chưng mọi việc đều thông hết; Bui một

(Thuật hứng, bài 6)

Cụ thể hơn, nơi ngoại vi thành Thăng Long, “dinh thự” của quan đầu triều chỉ là một

căn lều, “tọa lạc” trong một khuôn viên nhỏ bé đến nỗi “ao bởi hẹp hòi khôn thả cá”, nhưng

có hề gì khi tâm hồn thi nhân được tự tại, an nhiên và được sống theo cách mình mong

muốn:

“Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải

Góc thành Nam lều một gian”

(Thủ vĩ ngâm)

Dường như triều quan và chỗ ở chẳng dính dáng gì đến nhau, sống giữa phồn hoa với

bao cám dỗ, tâm hồn ông vẫn cứ sạch trong như tuyết trên đỉnh núi, điểm tựa cho bản lĩnh đó

chính là phẩm chất liêm khiết, không mảy may tơ hào đến phú quý vinh hoa.

Lý tưởng cống hiến và tâm hồn vui thú đạt đạo vẫn cứ sống hòa thuận trong con người

Ức Trai. Sau buổi chầu, bước vào nhà là cõi tục đã bỏ lại phía ngoài khu vườn có trúc và đá,

lòng lại được thanh lọc và ngời sáng lạ lùng:

“Bạng thạch di tài trúc kỷ can

Linh lung sắc ánh bích lang can

Yên sao lộ trích y thường lãnh

Địa cốt vân sinh chẩm điệm hàn

U trí dĩ ưng trần ngoại tưởng

Thanh tiêu hoàn ái tuyết trung khan

Song tiền nguyệt bạch cung giai thưởng

(Dời mấy cây trúc đến trồng bên đá

Sắc long lanh ánh lên như ngọc lang can biếc

Giọt móc nhỏ từ trên ngọn cây vương khói làm lạnh xiêm áo

Mây sinh ở khối đá làm lạnh gối đệm

Cảnh thanh u tưởng đã thoát ra ngoài trần tục

Tính tao nhã còn thích ngắm trong tuyết

Trăng sáng trước cửa sổ cho ta thưởng thức vẻ đẹp

Sau lúc đi chầu về hãy gửi niềm vui tạm vào đó)”

(Đề thạch trúc oa)

Thoái thực liêu tương ngụ tạm hoan”

Trong khuôn viên nhà quan, chỉ có trúc và đá, trúc thanh thoát, đá bền gan, nắng chiều

dọi vào đá cứ long lanh như ngọc biếc, cảnh rất thanh u nên mới chiều xuống móc đã thấm

lạnh áo xiêm, mồ hôi của đá làm ẩm gối nệm. Giường ngủ kê gần bên đá nên giữa đá và

chốn riêng tư mà dường như không còn ngăn cách, tuyết bay vào thư phòng, trăng kề bên

cửa sổ, thiên nhiên và con người giao hòa vào nhau. Thiên nhiên nâng hồn người như được

bay ra ngoài cõi tục, người nhẹ bẫng sự đời nên cảnh cũng được sáng trong lây. Khuôn viên

đó, tự nó đã phản chiếu được tâm thái trong veo, cao khiết của chủ nhân.

Với Nguyễn Trãi, điều quan trọng trong việc giữ mình không phải là ở đất nhà quan

hay lên núi, mà quan trọng là giữ cho tâm hồn được an nhiên tự tại, đứng cao hơn những thói

tục tầm thường. Và khi đó nhà quan và nơi ẩn dật cũng đều như nhau, ẩn hay không ở tại

lòng người:

“Tiểu tiểu hiên song ải ải lư

Quan cư đốn giác loại u cư

Thương ba giang thượng nhàn thùy điếu

Lục thụ âm trung tĩnh khán thư

Vũ quá tình lam khuy hộ dũ,

Phong lai tuyết lãng vũ đình trừ

Ngọ song tiêu sái vô trần lụy,

Nhất phiến nhàn tâm niếp thái hư”

(Hàng hiên và cửa sổ nho nhỏ, mái tranh thấp thấp;

Chỗ ở của quan mà bỗng thấy như chỗ ở ẩn dật

Trên sông sóng biếc, thảnh thơi buông câu

Qua cơn mưa hơi núi quang tạnh dòm vào cửa sổ

Gió đến, làn sóng trắng như tuyết múa dưới thềm

Bên cửa sổ buổi trưa, lâng lâng không vướng bụi trần;

Mở tấm lòng thanh thản bay bổng lên chốn thái hư)

(Tức sự)

Đúng là không có một điều gì nơi cõi tục có thể trói buộc được tâm hồn Ức Trai, cái

an nhiên tự tại, bay bổng nằm ở con người, chính cái tâm thanh tịnh, trắng trong đó nâng

bước cho cảnh có được phong vị của cõi tiên. Trong khung cảnh thanh thoát đó, Nguyễn Trãi

khi thảnh thơi buông câu trên sông, lúc lại thư thái ngồi đọc sách dưới cây mà lòng thì nhẹ

Trong bóng cây xanh, lặng lẽ xem sách

tênh như đang bay về miền thái hư vậy. Đó là những phút giây thoát tục ngay giữa cõi tục

của tiên nho Nguyễn Trãi, và điều vĩ đại hơn ở ông chính là dẫu thoát khỏi vòng danh lợi đua

tranh nhưng vẫn nặng lòng với nỗi niềm nhân thế. “Tâm hồn Nguyễn Trãi là sự hài hòa giữa

những nét lý tưởng vươn đến gần tự nhiên thanh cao, và cả những nét bình thường của cuộc

đời thực. Ông có nhiều hình bóng của một tiên nhân, ẩn sĩ, nhưng ngay trong cái tiên cốt,

vẫn có cái phần chan chứa tình đời” [Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi, 39. tr463]

Trong lịch sử xã hội phong kiến, chúng ta đã chứng kiến có nhiều thế hệ nhà nho, để

bảo vệ văn hóa của tầng lớp mình, để bảo toàn khí tiết kẻ sĩ thậm chí có khi phải chấp nhận

cả cái chết. Đó là những Bá Di, Thúc Tề, Khuất Nguyên…. Đến Đào Uyên Minh, ông đã tìm

ra một lối thoát khác, trở về với thiên nhiên, sống ẩn dật.

Ở Việt Nam, Chu Văn An cũng bước tiếp con đường đó, và Nguyễn Trãi cũng đã có

thời gian đi theo người đời xưa. Song nhân cách Nguyễn Trãi lại tỏa sáng ở một cách hành

xử khác, đó là tinh thần đại ẩn – một cách ứng xử đầy bản lĩnh trong một phong thái ung

dung tự tại như tùng bách, giữa mùa đông vẫn đứng sừng sững không hề nao núng; chính

trực như trúc dẫu phải mọc giữa dây leo chằng chịt vẫn thẳng tắp mà vươn lên; cốt cách như

hoa mai giữa giá rét vẫn giữ thắm sắc màu; tâm tịnh thanh như gương trong giữa bụi trần vẫn

luôn tinh khiết… Tinh thần “đại ẩn” của Ức Trai sẽ mãi sáng vằng vặc tựa sao Khuê, để

những thế hệ đi sau mỗi khi ngước lên nhìn lại được thấy lòng mình trong sáng hơn.

2. Nguyễn Bỉnh Khiêm với triết lý nhàn

Trong mô hình nhân cách trọn vẹn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh niềm “tiên ưu

đến già chưa thôi”, người ta còn nhắc nhiều đến triết lý nhàn dật của ông. Hai quan niệm, hai

cách sống tưởng như đối lập nhau đó trên thực tế đã dung hợp một cách nhất quán trong

Cũng như bao nhà nho đầy tâm huyết với đất nước, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ khao khát

được nhập thế giúp đời, có lần trong thơ ông đã nói: “Nhân nhân vọng thuộc đầu can nhật;

Nguyên thánh công cao thích lỗi thì” (Danh vọng người có lòng nhân thuộc về ngày ném cần

câu; Công của bậc thánh cao vòi vọi đó là lúc buông cày) (Kí hữu nhân). Sở dĩ ở nhà đến 44

năm mới ra ứng thí chỉ vì ông không muốn đem cái tài của mình ra phục vụ bọn “vua quỷ”,

“vua lợn”. Khi Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê, lên ngôi và tiến hành những chính sách cải tổ

tiến bộ, Nguyễn Bỉnh Khiêm khấp khởi vui mừng vì nghĩ rằng cơ hội đã đến, rồi ông hăm hở

lăn vào cuộc đời với mong muốn đem tài lương đống để “phò nghiêng đỡ lệch”, “kéo lại

giang san” về cảnh thái hòa. Chỉ tiếc thời thế chưa tạo cơ hội cho người quân tử, sau 8 năm

nhân cách của bậc nho sĩ – ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

làm quan, ông hoàn toàn thất vọng khi nhận ra mình đã sai lầm. Tình hình ổn định của triều

mới chỉ là trạng thái nhất thời, còn trên cơ bản vẫn là một chế độ đang nhanh chóng rơi vào

khủng hoảng vì không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Trong xã hội xuất hiện những rạn

nứt về đạo đức gia phong; luân lý, cương thường bị bong tróc, lỏng lẻo; con người vì chạy

theo tiền tài và danh vọng đã đánh mất tính bản thiện; nạn chia bè kết phái trong nội bộ giai

cấp phong kiến đã làm cho tình hình chính trị ngày càng rối ren và đó cũng là mầm mống

của loạn lạc…

Trong hoàn cảnh đầy biến động và đảo điên như thế của thời cuộc, con người không

có cách lựa chọn tốt nhất mà chỉ có cách lựa chọn ít ảnh hưởng xấu nhất không chỉ cho bản

thân mà còn cho xã hội, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động từ quan lui về vui thú với ruộng vườn

cũng chỉ là chỉ là một giải pháp tình thế mà thôi. Bởi ông không muốn đứng chung hàng với

một bè lũ tham lậu, ô trọc, bất nhân đang tồn tại nhan nhản trong triều đình buổi ấy.

Như vậy, triết lý nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm bắt đầu từ việc từ bỏ chốn quan

trường, trước hết là một thái độ ứng xử chính trị trước thời cuộc. Thái độ này hẳn có nguồn

gốc từ tôn chỉ của ông tổ đạo Nho dạy học trò mình: “Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”

(nghĩa là: Nếu người ta dùng đạo mình thì ra mà thi hành, bằng chẳng dùng đạo mình thì ở

ẩn). Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn nhà Mạc để ra làm quan hay cáo quan trở về sau khi dâng sớ

xin chém 18 tên lộng thần sâu mọt của triều đình không được vua Mạc chấp thuận đều là

đang thực hành theo đúng phép hành tàng của nhà nho trong lẽ xuất xử trước thời cuộc.

Đây cũng là ý kiến tìm được sự đồng thuận nhiều nhất giữa các nhà nghiên cứu khi

bàn về tư tưởng nhàn dật của chủ nhân am Bạch Vân. Ngay từ rất lâu về trước, Vũ Khâm

Lân, Phan Huy Chú trong cách nhìn nhận của mình đã cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm hành

Lê Trọng Khánh – Lê Anh Trà trong bài viết “Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ triết lý”

cũng có nhận định như sau: “Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có những khía cạnh

giống như cái nhàn của các bậc tiền bối (như yêu thiên nhiên, khinh thường công danh phú

quý…), nhưng ở đây tư tưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cả một triết lý nhân sinh, dựa

trên một vũ trụ quan có hệ thống, trở thành một cái đạo sống, phù hợp với hoàn cảnh và tâm

lý sĩ phu trong hoàn cảnh mà chế độ phong kiến đã trên con đường suy biến”[5. tr 235].

Văn Tâm một lần nữa khẳng định và làm rõ quan điểm trên khi nói về giá trị thơ văn

trạng Trình: “Chữ nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thời đại của ông là một thái độ khôn khéo

hay tàng đều có thể xem là được sự hướng dẫn bởi quy tắc tư tưởng nho giáo nói trên.

của một người biết tránh xa các cuộc phân tranh giữa các tập đoàn phong kiến Mạc, Trịnh,

Nguyễn.

Trong cuộc phân tranh này, lẽ phải không ở về một bên nào, bởi vì bên nào cũng chỉ là

kẻ thoán đoạt mà thôi. Bởi thế đi hẳn với bên nào cũng là không lợi. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã

ở vào cái tình thế khó khăn đó suốt nửa thế kỉ. Do chỗ ông khôn khéo xử sự với họ Mạc cũng

như với họ Trịnh và họ Nguyễn, cho nên suốt nửa thế kỉ, ông đã sống yên với chữ nhàn. Thái

độ của ông chỉ có tác dụng nhất định vào một thời đại nhất định mà thôi” [ 51. tr256]

Rõ ràng, ít ai phủ nhận sự lựa chọn lui về của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một thái độ ứng

xử khả dĩ phù hợp với nhu cầu tinh thần trong hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, thái độ ửng xử chính

trị của Nguyễn Bỉnh Khiêm so với thời Nguyễn Trãi đã có những chuyển biến mới phù hợp

hơn với hoàn cảnh, Trạng Trình về trí sĩ nhưng không có nghĩa là thôi hành động, ông vẫn

thực hành việc nghĩa dưới một hình thức khác. Đó là lý do Nguyễn Bỉnh Khiêm dứt khoát

hơn trong sự lựa chọn và sống thanh thản hơn với sự lựa chọn đó.

Vì thế, từ một thái độ ứng xử chính trị của một trí thức trước thời cuộc, Nguyễn Bỉnh

Khiêm đã nâng cuộc sống nhàn lên thành một quan niệm nhân sinh, một phong cách sống

mang tầm triết lý. Điều này sẽ càng được làm rõ hơn nếu chúng ta đi vào tìm hiểu những

biểu hiện cụ thể trong triết lý nhàn của cư sĩ am Bạch Vân.

Trước hết “nhàn” với Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là vô sự, tự tại, an phận, không bon

chen danh lợi với người đời. Liên quan đến vấn đề này Bùi Duy Tân có nhận xét: “Cùng với

chữ “nhàn”, thơ ông còn có các chữ “vô sự”, “lâng lâng”, “tự tại”… là nội dung quan trọng

trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm (…) Ước vọng “nhàn, tiên, vô sự” trong thơ Nguyễn Bỉnh

Khiêm không phải là ước vọng của một người vô trách nhiệm, “nhàn” không có nghĩa là lười

ở trạng thái yên tĩnh, trong trẻo, hài hòa. Là “tiên” không có nghĩa là thoát ly, ích kỉ, hưởng

lạc. “Vô sự” không có nghĩa là không có việc, không quan tâm đến nhân tâm, thế sự. “Tiên”,

“vô sự” có nghĩa là an nhiên, tự tại, không theo đuổi những việc đua chen danh lợi. “Nhàn”,

“tiên”, “vô sự” xét đến cùng là giữ tròn danh giá của mình trong thời loạn, là “lạc đạo vong

bần” giữa những phần tử gian xảo đua chen danh lợi – “nhàn, tiên, vô sự” là không để dục

vọng xấu xa làm mờ ám lương tâm, làm vẩn đục tâm hồn, là không tham dự vào những hành

động tội lỗi của kẻ đương quyền, là “khép cửa ải danh lợi ồn ào, phiền não lại”, “không chịu

dấn thân vào nguy cơ của giàu sang” vì “từ xưa lợi danh rút cuộc là mang lụy vào thân”, vì “

nhác, “đắp tai cài trốc”, ăn không ngồi rồi. “Nhàn” có nghĩa là giữ cho tâm hồn lúc nào cũng

Nẻo có công danh thì có lụy, Cho hay dầu có chẳng bằng chăng”,… cho nên “nhàn” mà tấm

lòng ưu quốc ái dân không bao giờ nguội lạnh” [20. tr428,429].

Trên cơ sở những khái niệm về “nhàn”, “tiên”, “vô sự” mà GS. Bùi Duy Tân đã nêu ở

trên, một lần nữa đi vào thi phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm người đọc càng có thể nhận diện

rõ hơn bản chất triết lý nhàn của ông. Đó là thái độ sống lánh đục tìm trong, tránh xa vòng

danh lợi, vui thú với ruộng vườn:

“Thị phi chẳng quản mặc chê khen

Ngu dại trần trần tính đã quen

Cảnh cũ điền viên tìm chốn cũ

Khách nhàn sơn thủy dưỡng thân nhàn

Nhà thông đường trúc lòng hằng mến

Cửa mận tường đào bước ngại chen

Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi

Từng xem thua được một hai phen”

(Thơ Nôm, bài 41)

Trong cảnh nhàn của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn một lối sống phủ nhận công

danh, phú quý, bổng lộc để khỏi mệt tâm, mệt trí vì toan tính, bon chen; cũng là lựa chọn của

một con người đã thấm kinh nhuần đạo, hiểu rõ mọi lẽ biến dịch ở đời. Hay theo cách nói

của tác giả Phạm Luận thì đó là “lối sống của bậc trí giả” và cao hơn nữa còn là “lối sống

của một bậc hiền nhân”.

Và khi đã thấu đạt được cái lý của vấn đề, khi tấm lòng lâng lâng không bợn chút trần

ai, vượt lên trên những tham dục tầm thường, đứng cao hơn thói thị phi nhỏ nhen, ích kỷ để

chông gai” để bước trên con đường nhàn dật thênh thang với một cái tâm “vô sự”. “Vô sự”

trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn không phải là thoát ly thế sự, là rảnh

việc hay quay lưng lại với cuộc đời mà “vô sự” là đứng lên trên thế sự tầm thường để lòng

đạt đến lòng tiên. Trong thơ ông có nhiều câu thể hiện điều này một cách rất rõ ràng và cũng

vô cùng ý vị:

-

“Rồi nhàn thì ấy tiên vô sự”

-

“Lòng vô sự trăng in nước”

-

“Chữ rằng vô sự tiểu thần tiên”

-

“Vô sự thì hơn kẻo phải lo”

tạo dựng một bản lĩnh sống, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhẹ nhàng từ bỏ “đường danh lợi lắm

- “Vô sự thì tiên lọ phải tìm”

- “Vô sự thì hơn nữa ngọc vàng”

(Bạch Vân quốc ngữ thi)

Lẽ dĩ nhiên “vô sự” cũng không phải là vô ưu – tấm lòng dành cho nước cho dân nơi

Nguyễn Bỉnh Khiêm thì vẫn luôn đong đầy; khát khao lớn nhất của ông là có thể làm một

con ngao lớn chống đỡ giang sơn lúc ngả nghiêng, kéo lại càn khôn về buổi thái hòa. Khát

vọng đó thật cao cả, xứng tầm vũ trụ, song thời thế không cho phép ông thực hiện; ông quay

về, nhưng không bó gối trầm ngâm thức nhẵn đêm này qua đêm khác mà tìm một cách khác

phù hợp hơn với hoàn cảnh để thực hành việc nghĩa; từ chỗ mong làm một con ngao lớn, ông

ước mơ làm một cây đa già dẫu không có tài chống đỡ đất nước nhưng ít nhất cũng tỏa bóng

mát che chở cho muôn dân. Ước mơ đó hiện hình bằng những việc làm cụ thể, ông lập quán

Trung Tân, xây am Bạch Vân để dạy dỗ học trò, làm những vần thơ chở nặng đạo lý để

khuyên răn người đời. Quán Trung Tân nằm ở vị trí gần sông, gần chợ và tiện đường đi lại

chứ không phải ở nơi núi thẳm non cao, điều đó cũng cho thấy ông nhàn chỉ tuyệt giao với

khách tục còn những người dân hiền lành như thằng chài, bác tiều, bạn thơ thì vẫn vui vầy

sớm tối; thế nên, bà con trong xóm “từ cụ già đến trẻ nhỏ đều biết tên ta”. Ý nghĩa tích cực

trong lối sống “vô sự” của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là chỗ đó.

Và khi lòng “vô sự”, tác giả cầu được yên phận cho cuộc sống của mình. Cũng như

“vô sự”, “yên phận” không có nghĩa là thủ phận mà là biểu hiện của sự “tri túc”, “tri chỉ” –

biết đủ, biết dừng, để yên lòng mà sống. Là người có kiến thức Dịch lý uyên thâm, ông hiểu

vạn vật và xã hội đều vận hành theo quy luật tuần hoàn đắp đổi, đầy ắt vơi, thịnh có suy, mãn

thì khuyết… Nếu không nắm được điều này mà cứ cuốn vào vòng xoáy đua tranh, con người

hoa phú quý, chức tước, tiền tài dẫu là phù du để đổi lấy cái “yên phận” cho mình. Đó chính

là bi kịch muôn đời mà loài người u mê tự chuốc lấy. Đặt trong hoàn cảnh đó, cái “yên phận”

của Trình Tuyền Hầu mang ý nghĩa sâu sắc biết bao:

-

“Yên phận thì hơn hết mọi điều”

-

“Yên phận là tiên lọ phải cầu”

-

“Hay yên thửa phận mới nên vui”

-

“Yên phận thì lành ở một mình”

-

“Yên đòi phận dầu tự tại”

-

“Giàu khó đành hay chỉn phận mình”

tất phải nếm trải mùi cay đắng. Thế nhưng, sống trong cuộc đời mấy ai chịu đánh đổi vinh

“Giàu lẫn khó yên đòi phận” -

“Ấm cật no lòng hay phận đủ” -

(Bạch Vân quốc ngữ thi)

“Yên phận” còn có nghĩa là bằng lòng với những gì mình có, không tham luyến những

gì vượt khỏi tầm của mình, những gì không phải là của mình, để có được cảm giác thoái mái,

thảnh thơi, và khi đó Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể an nhiên tự tại trước mọi xô đẩy của cuộc

đời. “Tự tại” vốn là một thuật ngữ của Phật giáo, được cải biến theo tinh thần Lão Trang và

sau cùng gia nhập vào làng Nho. Nó cũng tương tự như tự do, nhưng không phải là cái tự do

tuyệt đối của bậc ẩn sĩ khi đem mình đối lập hoàn toàn với cuộc sống nhân sự mà lại cái tự

do của người vẫn sống trong xã hội đó nhưng lại đứng ra ngoài thói lợi danh, đứng lên trên

những khen chê của người đời và được mất của cuộc đời:

“Dầu ta tự tại mặc dầu ta” -

“Yên đòi phận, dầu tự tại” -

“Tự tại nào âu lụy đến mình” -

“Tự tại ngày qua mấy kẻ bằng” -

“Dầu ta tự tại có ai han” -

“Ngoài năm mươi tuổi thân tự tại” -

(Bạch Vân quốc ngữ thi)

Ông nhàn hiện lên trong cuộc sống của mình mang tư thế ung dung, tự tại của một

triết nhân, một bậc thầy thông hiểu mọi lẽ đời nên không nhọc sức đua tranh, không sầu khổ

trước được mất. Người tự tại là người đã nhiếp tâm, không còn buông lung vọng động chạy

theo sắc tướng, đồng thời cũng bằng an trươc mọi lẽ biến dịch cùng thông của cuộc đời, thản

Tự do tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là trả con người về với cái bản tính tự

nhiên, không bị vật dục che lấp, con người có thể vui với tính tự nhiên của mình mà không

cần phải giữ kẻ, không còn lo ngại ở vị trí của mình có được phép làm điều đó hay không.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có được cái vui hồn nhiên thoải mái như thế:

“Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích

Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao”

(Thơ Nôm, bài 83)

Cái thú ấy đâu phải ai muốn cũng được, chỉ những ai biết yên phận với những gì mình

có, vui với những gì mình thích, đứng lên trên mọi thế tục tầm thường, bỏ ngoài tai mọi khen

nhiên trước cả quy luật “ sinh trụ dị diệt ” khắc nghiệt của tạo hóa.

chê của dư luận mới biết thưởng thức. Để làm được như thế, con người cần phải có một bản

lĩnh sống cứng cỏi được xây trên nền một đạo đức và trí tuệ hơn người. Và khi con người đạt

đến đỉnh cao nhân cách cũng chính là khi con người trở về với bản thiện nguyên thủy sơ

phác, hồn nhiên của mình. Thế nên, dễ hiểu vì sao người đứng đầu trong số những ông tiên

trên mặt đất lại có những thú vui bình dị như thế này:

“Giàu mặc phận khó đâu bì

Đọ thanh nhàn khá nhất nhì

Vếu váo câu thơ cũ rích

Khề khà chén rượu hăng xì”

(Thơ Nôm, bài 84)

“Dưỡng được tính tự nhiên”, Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự thảnh thơi với cuộc sống

của mình mà không hề bị một xao động nào của cõi tục làm lung lạc. Đó là thái độ của con

người đã tìm được “đúng bến” nên tự tin đứng vào chữ “trung”, cũng có nghĩa là đã đạt đến

cuộc sống của một ông tiên trên mặt đất:

“Thanh nhàn dưỡng được tính tự nhiên

Non nước cùng ta đã có duyên

Dắng dỏi bên tai cầm suối

Dập dìu trước mặt tán sen

Xuân về hoa nở mùi thơm nức

Khách đến chim mừng dáng mặt quen

Chỗ ấy thanh nhàn được thú

Lọ là bồng đảo mới là tiên”

Trở về với cuộc sống nhàn, ông tiên không cầu sự giải thoát mà chỉ cầu sự thích chí,

mong cho “Nội đắc tâm thân lạc; Ngoại vô hình dịch lụy” (Bên trong được cái vui của tâm,

của thân ; Bên ngoài khỏi có cái lụy hình dịch) (Cảm hứng). Tránh cái lụy “hình dịch” tức là

tránh khỏi sự chăm lo phục vụ cho hình xác, không để cho sự ham muốn tầm thường làm cho

vất vả quay cuồng, Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn một cách sống vô cùng giản dị, nghĩa là chấp

nhận một cuộc sống nghèo về vật chất nhưng lại rất giàu có về tinh thần. Tuy trước đây, nhà

thơ từng là “khách nơi ngựa vàng nhà ngọc”, từng có lúc hưởng vinh hoa phú quý nơi cửa

quyền , nhưng cuộc sống đó không theo nhà thơ về nơi quán Trung Tân, ngược lại ông sống

giản dị, đạm bạc mà thanh cao, miễn là được vui với cái thú đã tâm đắc từ thuở nào:

(Thơ Nôm, bài 118)

“Tính thơ dại cũ hãy còn đeo

Nẻo được nhàn thì kẻo có nghèo

Bến nguyệt thuyền kề hai bãi mía

Am mây cửa khép một cần pheo

Cá tôm tối chác bên kia bến

Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo

Khách đến hỏi: nào song viết

Nữa rằng: còn một túi thơ treo”.

(Thơ Nôm, bài 35)

Nhu cầu vật chất được xem nhẹ:

“Cơm ăn chẳng quản mùi xoa bạc

Áo mặc nề chi tấm rách lành”

(Thơ Nôm, bài 85)

Ông nhàn sống yên vui qua ngày với những thức ăn thanh đạm sẵn có trong tự nhiên,

măng trúc đắng thay cho cao lương mỹ vị, áo vải thô thay cho chăn ngự hàn, tôm cá, hươu

nai làm bạn tiêu khiển, lao xao xe ngựa cửa quyền không với tới được:

“Xôi măng trúc đắng thèm thay thịt

Đắp áo sô to lạnh kẻo chăn

Bạn có cá tôm dầu được thú

Cửa chăng xe ngựa bởi khôn quyền”

(Thơ Nôm, bài 19)

Cái ăn, cái mặc không còn là một nhu cầu vật chất mà đã trở thành một nét đẹp văn hóa khi:

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”

(Thơ Nôm, bài 73)

Tâm hồn tiêu sái, thích thảng, nhẹ tênh khi con người đã diệt được vật dục và cảm

thấy mãn nguyện với cuộc sống bình dị của mình:

“Giàu cơm thịt khó cơm rau

Yên phận là tiên lọ phải cầu

Sớm uống chè mai hơi ngọt ngọt

Hôm kề hiên nguyệt tỏ làu làu

Vun thông tưới cúc ba thằng mọn

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Chở lửa hâm trà một mụ hầu”

(Thơ Nôm, bài 4)

Từ chối công danh là từ chối vinh hoa phú quý, đồng thời cũng cắt bỏ được những

phiền não do cái danh gây ra. Trở về với cuộc sống nhàn, an phận với tháng ngày bình lặng

để lòng được yên, trí được tĩnh, càng có điều kiện hơn để đến với những thú vui tao nhã của

mình. Vì thế sống giản dị nhưng không tẻ nhạt, giản đơn mà rất phong phú những thú vui để

di dưỡng tinh thần.

Khi rỗi rãi thì:

“Ngày diễn giải phiền cờ một cuộc

Đêm thanh làm bạn sách hai bên”

(Thơ Nôm, bài 7)

Hứng dậy thì ngâm nga:

“Trong khi hứng đọng vừa đêm tuyết

Ngâm được câu thần dắng dắng ca”

(Ngôn chí, bài 3)

Thậm chí cũng có lúc tham gia lao đông như một lão nông chăm chỉ:

“Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

(Thơ Nôm, bài 73)

Vui trong cảnh nhàn còn là tìm về với vẻ đẹp của thiên nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm

quay lưng lại với chốn quan trường đầy cạm bẫy, lắm bụi bặm để mở lòng cùng vạn vật tươi

sáng, hiền hòa, xem trăng, núi, tuyết, sông… là bạn tâm giao. “Sống cởi mở, hồ hởi với tạo

đẹp chân chất của sự sống, cái đẹp hồn nhiên của chuyển vần, thay đổi luôn luôn diễn ra

xung quanh mình” và “nhàn theo phương thức này cũng là một phương pháp khai phóng nội

tâm, vì khi đem cái “tôi” đối diện với thiên nhiên cũng có nghĩa là tìm một con đường thoát

ra khỏi tình trạng phóng bế của cái “tôi” trong cuộc đối thoại trường kì với xã hội, hằn lên

trên mọi mối quan hệ xã hội” [Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhìn từ một nhân cách lịch sử đến dòng

thơ tư duy thế sự, 51. tr391]

Như vậy, tìm về với thiên nhiên hiền hòa, trong sáng vừa giúp tác giả thanh lọc được

những lớp bụi trần gian lại vừa phục hồi những cảm xúc nguyên sơ, hồn hậu ban đầu, vì thế

vật, biết gắn mình với thiên nhiên, sống thuận theo lẽ tự nhiên, hiểu được đến cội nguồn cái

thiên nhiên hiện lên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều khi không đơn thuần chỉ là cảnh

mà còn có chức năng nâng đỡ tâm hồn, khiến con người trở nên thanh cao hơn:

“Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao

Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

(Thơ Nôm, bài 73)

“Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng là không phải ai cũng vươn tới được, cái thú

mà tác giả tìm thấy thật đáng giá – “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách; Được thú ta đà có thú

ta”, “Ẩn dật ta hay thú có màu ”. Trong mắt người đạt đạo đó, dầu chỉ vui với thiên nhiên

bình dị nơi ruộng đồng vẫn có cảm giác như đang dạo chơi chốn thanh cao, thoát tục vậy:

“Vân am am cận tiểu khê tuyền

Mãi đoạn sơ vô phí nhất tiền

Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ

An nhàn ngã thị địa trung tiên

Vãn hương tam kính Đào Bành Trạch

Phá ốc sổ gian Lư Ngọc Xuyên

Biệt hữu giá ban chân lạc xứ

(Gần cái am Bạch Vân, bắt nguồn từ cái khe nhỏ

Mua đứt được cảnh ấy mà không tốn kém một đồng tiền nào

Cao khiết ai là kẻ sĩ trong thiên hạ

An nhàn ta là bậc tiên trên đời

Có ba luống cúc thơm muộn như Đào Bành Trạch

Có vài gian nhà tranh như Lư Ngọc Xuyên

Cũng riêng chiếm một cảnh thú vui chân thật này

Bên cảnh trăng trong gió mát, say rượu và ngâm thơ)

(Ngụ hứng, bài 10)

Thanh phong minh nguyệt túy ngâm biên”

Có thể thấy, cái nhàn của Bạch Vân cư sĩ là cái nhàn trong sáng, tiêu sái, thanh thoát,

không chút vương vấn bởi nhu cầu trút bỏ những bực dọc của thân xác, của cuộc đời phù

hoa, phiền toái, xô bồ. Với cái thú của mình, ông thật sự đã tìm thấy được niềm vui, đặc biệt

đó lại là niềm vui của một người đã đánh đổi cả cuộc đời lo trước thiên hạ nên càng quý giá:

“Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ

Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu”

(Rút cục ai muốn tìm cái chỗ vui của ta

Thì cần biết rằng ta được vui sau thiên hạ

vì biết lo trước thiên hạ)

(Ngụ hứng, bài 3)

Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm vì thế đã trở thành kiểu mẫu cho các nhà nho thế kỉ

XVI – một thế kỉ đầy biến động khiến người trí thức cần phải cân nhắc để tìm một lối ứng xử

khả dĩ đáp ứng được nhu cầu tinh thần. Triết lý nhàn của ông có sự pha trộn giữa Nho, Phật,

Lão Trang nhưng dựa trên tinh thần nội lực của tư tưởng dân tộc, thế nên “Điều thú vị là

Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ cửa Khổng, ông đi ngang qua sân nhà Lão Tử rồi đứng lại

trước cửa Thiền, suy ngẫm về giáo lý và đạo lý; cuối cùng ông trở về với ruộng đồng và lũy

tre xanh của làng quê Việt Nam, hay nói khác đi, ông đã trở về với dân tộc. Suốt đời ông,

ông đã sống như mình cần sống và đã hành động như một bậc đại hiền” [1. tr34].

Và quan trọng là “nhàn” nhưng không quay lưng lại với đời, vẫn làm mọi việc mà

cuộc đời cần miễn là không lao vào vòng danh lợi làm hoen ố tấm lòng trung trinh của một

người chí sĩ. Quan niệm “tiên ưu, hậu lạc”và cả niềm “ái ưu vằng vặc”, lòng “ưu thời mẫn

thế” vẫn không hề mâu thuẫn với lối sống ẩn dật.

thái độ ứng xử chính trị mà cao hơn còn là một quan niệm nhân sinh, một triết lý sống, một

phong cách sống bắt nguồn từ một nhân cách trong sáng, thanh cao. “Ngày nay chúng ta

không hiểu chữ nhàn theo kiểu ấy nữa và chúng ta cũng không tu dưỡng theo lối tu dưỡng

của Nguyễn Bỉnh Khiêm nữa. Nhưng cần thấy rằng quan niệm về chữ nhàn của ông gắn với

quan niệm về một phẩm chất cao khiết trong xã hội mà ông cho là đục lầm, về một thái độ tự

chủ trong một cõi đời mà ông cho là hỗn loạn, về một chỗ đứng vững vàng trong một thời

thế mà ông cho là đảo điên. Đó chính là đạo lý của người trí thức có tâm huyết ngày xưa

muốn tự giữ mình, muốn tự trọng khi đã chấp nhận sự bất lực trong việc cải tạo hoàn cảnh,

khi đã phải than rằng:

Đến đây, có thể nhận ra, chọn lối sống nhàn với Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một

Giúp nước thương dân chưa thỏa lòng ta thuở trước,

Băn khoăn rất thẹn già không có tài”

[51. tr 279]

Như vậy, đi ở ẩn để lại một phong cách sống, một bản lĩnh sống đầy khí tiết nhà nho

thì đó là một việc làm cho đạo nghĩa muôn đời. Ý nghĩa tích cực và nhân văn của bậc ẩn sĩ

chính là chỗ đó.

3. Nguyễn Du với cốt cách của hoa sen giữa đầm lầy

Nguyễn Huệ Chi khi bàn về tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán có dẫn ra hai câu

thơ mà ông cho là thể hiện một cách khá trọn vẹn tâm trạng của nhà thơ:

“Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân

Hắc dạ hà kỳ mê thất hiểu”

(Trên lối cũ, gió lạnh dồn cả vào một người

Đêm tối mờ mịt không biết bây giờ là

bao giờ mãi chẳng thấy sáng)

(Dạ hành)

Và từ đó đi đến nhận định: “Hình tượng một con người đi trong bóng đêm dày đặc hãi

hùng, bị gió lạnh dồn cả vào mình, và cứ mong cho chóng sáng mà không thấy sáng, thật đã

phản ánh đúng cái cảm nghĩ tuyệt vọng của Nguyễn Du về sự mất phương hướng. Đấy

không chỉ là hình ảnh tự họa chính xác nhất của nhà thơ mà còn là hình ảnh có một ý nghĩa

xã hội rộng lớn: tấn bi kịch lịch sử của chế độ phong kiến ở giai đoạn cực kì thối nát tan rữa”

[Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán,14. tr 65]

Thời đại Nguyễn Du sống là một thời đại đầy biến động với những cuộc giằng co

Các phe phái bị cuốn vào những cơn bão táp chính trị, khiến cho trời Nam như tối sầm lại

trong mây đen vần vũ. Những thăng trầm của lịch sử không còn được tính bằng thế kỉ như

trước mà được tính bằng tháng, bằng ngày. Được đó rồi mất đó, hiện hữu và hư vô chỉ trong

chớp mắt, cái bể dâu của cuộc đời chưa bao giờ lại nhức nhối đến thế. “Cái thời đại của

Nguyễn Du đúng là tê đi và tái lại, tái đến nỗi cắt không ra máu đỏ của niềm vui” [14 . tr 44]

Có thể nói, “mọi biến cố đầy kịch tính của lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XVIII – nửa

đầu thế kỉ XIX đã ập vào Nguyễn Du một cách dồn dập, làm cho ông như sống trong một

trạng thái choáng váng tư tưởng, và không phải đã dễ dàng tìm được ngay một lẽ sống, một

quyết liệt giữa nhiều xu thế chính trị khác nhau. Mọi giá trị lâu đời đều bị bong tróc, gãy vỡ.

chỗ đứng nào vững vàng ổn định” [Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ

Hán,14. tr 58].

Đồng thời sống giữa cuộc đời là một trường bể dâu đáng sợ như vậy, con người muốn

tìm lấy một lối ra, nhưng các nẻo đường người khác đã đi hình như chưa thỏa mãn bước

chân còn nhiều vương vấn.

Trong hoàn cảnh đó, Nguyễn Du chưa có được quyết định lui về dẫu không mấy dễ

dàng của Nguyễn Trãi, càng chưa có được hành động dứt khoát từ quan quy ẩn của Nguyễn

Bỉnh Khiêm. Đơn giản, bởi trong xã hội hiện tại cái lẽ hành tàng thật khó áp dụng cho đúng

và điều đó lại càng khó khăn hơn đối với một con người không thể gò mình vào những điều

đúc khuôn, định sẵn như Nguyễn Du. Mặc dầu vậy, ông đã sống và suy nghĩ như một nhà

nho, một nhà nghệ sĩ chân chính, hết lòng yêu thương nhân dân, đồng thời thái độ và tình

cảm của ông đối với chế độ cũng rất rõ ràng.

Trong suốt ba tập thơ chữ Hán, nơi vẫn được xem là bức chân dung tự họa về thế giới

tâm hồn của Nguyễn Du, ông đã không ngần ngại bày tỏ thái độ chán ghét cảnh quan trường.

Là người con của chính xã hội đó, Nguyễn Du vốn xuất thân trong một gia đình danh gia

vọng tộc, thuộc dòng họ có truyền thống nhiều đời làm quan, nhưng ông lại sớm nhận ra sự

lủng đoạn của giai cấp mình. Ông luôn cho rằng, ra làm quan, đứng vào hàng ngũ của giai

cấp phong kiến là đã làm mất đi phẩm chất tốt đẹp của mình, khiến cho mình không còn là

mình nữa, một chút quan có thể làm cho con người trở nên tha hóa, hèn hạ:

“Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan

(Người lần lữa bên trời vì một chút quan)”

(Ngẫu nhiên đề trên vách nhà công)

Du cho rằng như thế là tự mình nhốt mình vào lồng cũi:

“Thái phác bất toàn chân diện mục”

(Viên ngọc trong đá không giữ vẹn

được bộ mặt thực nữa)

(Ký hữu)

“Thử thân dĩ tác phàn lung vật

Hà xứ trùng tầm mãn hạn du”

(Thân này đã là vật trong lồng cũi

Còn tìm đâu được một đời phóng khoáng tự do nữa)

Bước chân vào chốn quan trường cũng đồng nghĩa với việc đánh mất tự do, Nguyễn

(Tân thu ngẫu hứng)

Và trong cái lồng cũi chật hẹp đó, Nguyễn Du thậm chí phải che dấu cả cảm xúc thật

của mình: “Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần” (Trên trường danh lợi, cái cười hay cái chau

mày cũng không được tự do) (Xuân tiêu lữ thứ). Điều này đâu phải chỉ có Nguyễn Du thấm

thía, Cao Bá Quát sau này cũng đã thốt ra trong một câu thơ tương tự: “Duyệt thế phương tri

kiệm tiếu tần” (Trải đời mới biết dè xẻn cái cười và cái nhăn mày). Không khí ngột ngạt đó

khiến thi nhân chua chát tự ví mình như con ngựa bị gọt móng, xén bờm cho hợp với hoàn

cảnh:

“Khắc lạc thiên chân thất mã đề”

(Xuyên tạc thiên chân làm mất bản chất của mã đề)

(Ngẫu hứng) Như vậy, chuyện làm quan không hề mang lại cho Nguyễn Du sự hứng thú, dễ hiểu vì

sao một con người với nền tư văn trong sáng, ngạo nghễ lại cứ vâng vâng dạ dạ trước mặt

vua Gia Long, mà đâu phải bởi ông bất tài. Chán ghét công danh, ông cũng xem thường vinh

hoa phú quý. Với ông, những cái đó đều phù du không đáng bận tâm:

“Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn

Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi”

(Vinh hoa như mặc áo gấm đi đêm, chỉ là ảo mộng ngoài thân,

Danh lợi như mây buổi sớm đổi khác ngay trước mặt)

(Đại tác cửu thú tư quy, bài 1)

Sau này, trên đường đi sứ sang Trung Quốc, dừng chân bên đình Tô Tần, nhớ lại câu

chuyện về nhân vật này, ông không khỏi khinh bỉ: “Trước sao khinh rẻ, sau sao cung kính ,

lời nói thật hèn hạ” (Tô Tần đình, bài 2). Chuyện Tô Tần sẽ mãi là bài học đạo đức cho mọi

đám bụi trần để làm hại đời mình:

“Nhân sinh quyền lợi thành vô vị

Kim cổ thùy năng phá thử mê”

(Đời người quyền lợi thật vô vị

Xưa nay, ai có thể phá được cái mê muội ấy)

(Tô Tần đình, bài 1)

“Thế nhân đa độc Tô Tần truyện

Do vi vị thế phú quý thương kỳ sinh”

(Người đời lắm kẻ đọc truyện Tô Tần

người suy ngẫm, vậy mà thật tiếc cho những ai đã đọc truyện Tô Tần rồi vẫn cứ u mê trong

Thế mà còn để cho địa vị giàu sang làm hại đời mình)

(Tô Tần đình, bài 2)

Cùng với việc phê phán Tô Tần, Nguyễn Du tỏ lòng cảm kích trước thái độ cáo quan

về nhà, đem bổng lộc vua ban chia hết cho bạn bè chứ không để lại cho con cháu của hai ông

họ Sơ dưới thời Hán Tuyên Đế. Công danh phú quý vốn có sức cám dỗ lạ kì, vậy mà có thể

từ bỏ nó một cách thanh thản, quả thật là bậc cao nhân:

“Phù thế thao thao tử tuẫn danh

Hồi đầu thùy khẳng niệm ngô sinh

Quan tòng nhất trí thân năng bảo

Sự cách thiên niên thạch vị khuynh

Xuân xã không lưu thân cố hội

Bạc điền vô phục tử tôn canh

Khả liên thùy lão Tiêu hiền phó

Đồ đắc nhân gian thán bất bình”

(Cuộc đời trôi nổi, thói đời suy kém bao người chết vì danh

Mấy ai chịu quay đầu nhìn lại mà lo cho cuộc sống của mình

Cùng nhất trí cáo quan, giữ thân được an toàn

Chuyện cách nghìn năm mà bia đá vẫn chưa nghiêng đổ

Ngày hội xuân luống còn người thân cũ họp mặt

Ruộng được ban không để lại cho con cháu cày cấy

Thương thay Tiêu phó đến già (mà vẫn làm quan)

Để chỉ được người đời than thở cho nỗi bất bình)

Với bản thân mình, nhiều lần nếm trải những cay đắng và cả nhục nhã trên con đường

hoạn lộ, Nguyễn Du luôn sống trong sự dằn vặt, tự trách mình đã không chịu quay về lại cứ

tỉnh táo mà nhìn đời để phải chuốc lấy khổ đau:

“Vạn lý quan đạo đa phong ai

Hà dĩ thanh tinh khan thế sự

Phù bình nhiễu nhiễu cánh khiêm ai”

(Đường quan muôn dặm nhiều gió bụi

Sao ta lại đem trong sạch tỉnh táo để nhìn đời

(Nhị Sơ cố lý)

Để phải như cánh bèo mặt nước thật đáng thương)

(Lưu Linh mộ)

Chắc phải tuyệt vọng lắm, Nguyễn Du mới phải thốt lên như thế, bởi với trái tim luôn

đau đời, thương đời sẵn có, trước “những điều trông thấy” ông đâu nỡ lòng chọn cách

ngoảnh đi.

Nhiều khi, ông xót xa thương cho thân mình cứ như người mãi chạy theo công danh

tầm thường, để rồi lặn lội trong đám bụi trần mà không hay biết:

“Lục lục công danh nhất phiến trần”

(Theo đuổi công danh tầm thường trong đám bụi trần)

(An Huy đạo trung)

“Trướng vọng hồng trần diểu vô tế

Bất tri nhật nhật thử trung hành”

(Buồn trông áng bụi hồng mù mịt không bờ bến

Đâu biết rằng ngày ngày mình vẫn đi lại trong đó)

(Từ Châu đê thượng vọng)

Sự phản tỉnh đầy day dứt đó đã làm ngời sáng lên nhân cách Nguyễn Du. Đúng là

“nẻo có công danh thì có lụy” (Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm), từ ngàn xưa các vị tiền nhân

đã nhận ra điều đó. Trên con đường đầy hệ lụy ấy con người để tồn tại buộc phải khom lưng

dù chẳng bệnh tật gì, bằng không thì dù “Lưng khôn uốn, lộc nên từ”, “Lời chẳng phải vưỡn

không nghe” như Nguyễn Trãi nếu không “ba lần bị truất” cũng phải chuốc lấy kết cục thảm

thương. Sự thực nhãn tiền, cả trong lịch sử phong kiến Trung Hoa lẫn Việt Nam đều nhiều,

và đó mới chính là điều làm ông đau buồn nhất. Thế nên, khi Nguyễn Du ca ngợi và khóc

để vạch sâu hơn vào bộ mặt khắc bạc đối với người tài của chế độ đó, đồng thời một lần nữa

thấm thía hơn chân lý đắng cay mà người xưa từng nếm trải:

“Sự nhân trực đạo ninh tam truất

(Lấy đạo ngay thờ người cam chịu ba lần bị truất)

(Liễu Hạ Huệ)

Ở trong xã hội phong kiến khó mà giữ được lòng ngay thẳng và nếu ngay thẳng như

Liễu Hạ Huệ thì bất cứ ở đâu, phụng sự triều đại nào cũng ba lần bị truất mà thôi.

Như vậy, trước thời thế nhiễu nhương, dẫu Nguyễn Du chưa có được hành động dứt

khoát, song thái độ của ông đối với xã hội phong kiến thì rất rõ ràng, thể hiện trong cách

thương cho những bậc hiền thần Trung Hoa nào phải là cổ xúy cho chế độ phong kiến mà là

nghĩ, cách sống và đặc biệt là trong tình cảm yêu ghét dành cho những bậc hiền thần Trung

Hoa. Chính biểu hiện này giúp chúng ta nhận chân ra một nhân cách trong sạch giữa cuộc

đời ô trọc.

Chán ghét công danh, xem thường vinh hoa phú quý, Nguyễn Du đã từng tìm đến với

tư tưởng Lão Trang như một sự nguôi quên.

Nhiều lần trong thơ, ông thể hiện ước mơ vươn đến một cuộc sống thanh thoát, vượt

lên trên cõi trần đầy bụi bặm để được hòa mình vào thiên nhiên trong lành:

“Hà năng lạc phát quy lâm khứ

Ngọa thính tùng phong lưởng bán vân”

(Ước sao có thể xuống tóc vào rừng

Nằm nghe tiếng thông reo lưng chừng mây)

(Tự thán, bài 2)

“Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại

Trường tùng thụ hạ tối nghi nhân”

(Ước gì nhảy thoát ra khỏi vòng trần tục

Dưới bóng cây tùng già thích biết bao nhiêu)

(Sơn thôn)

Rồi ông thèm được như Đào Tiềm, từ quan về ở ẩn, xa lánh hồng trần để cho tâm được thanh

tịnh, thân được thoải mái, tự do:

“Tiển sát bắc song cao ngọa giả

Bình cư vô sự đáo hư linh”

(Thèm chết đi được như người nằm khểnh

Thường ngày không có việc gì bận đến

tâm tình trong sáng)

(Kí hữu)

Trước khi ra làm quan, Nguyễn Du cũng đã có thời gian sống gần như ẩn dật dưới

chân núi Hồng Lĩnh quê nhà, lấy đi săn làm thú tiêu khiển. Ở đó, dẫu cuộc sống còn nhiều

khó khăn song ít nhất ông cũng có được những tháng ngày quên hẳn giấc mộng công danh,

phú quý:

“Y quan đạt giả chí thanh vân

Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần

bên song cửa sổ phía bắc

Giải thích nhàn tình an tại hoạch”

(Những người áo mũ hiển đạt để chí mình ở đường mây

Còn ta cũng vui với bầy hươu nai của ta

Cốt để khuây khỏa lúc nhàn rỗi chớ đâu phải thu hoạch)

(Liệp)

Niềm vui tưởng giản dị là thế mà trở thành mong ước cháy lòng suốt thời gian làm

quan ở kinh thành Phú Xuân. Và nếu như Côn Sơn từng là hoài niệm không dứt trong cuộc

sống hàng ngày và trong cả giấc mơ của Nguyễn Trãi thì núi Hồng cũng là nỗi nhớ nhung

tha thiết đối với Nguyễn Du trong những ngày tháng xa nhà. Nhiều khi ông mặc cảm vì mình

là người đi trong chốn hồng trần khiến áo xanh lấm bụi, biết rồi khi quay lại những người

bạn cũ có còn nhận ra:

“Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ

Viên hạc hà tòng nhận cựu lân”

(Chiếc áo xanh đi khắp đường bụi hồng

Con vượn con hạc làm sao mà

nhận ra người láng giềng cũ)

(Đồng Lư đạo thượng dao kiến Sài sơn)

Có khi trong mơ thấy hiện ra rừng tùng, khóm cúc lại nhớ quay quắt giấc mộng trở về,

rồi ông tự giận mình còn lần lữa phải chăng vì cái tình với mùi rau thuần cá vược chưa đủ

thiết tha, càng nghĩ lại càng cảm thấy thẹn thùng khi lỗi hẹn với non nước:

“Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh”

(Rất thẹn cùng trúc và đá vì lỗi phụ lời thề với ngươi)

Ở quê, “ Trăng núi gió sông dường như vẫn có ý đợi chờ ” khiến ước muốn từ quan

càng thôi thúc mãnh liệt:

“Ngã dục quải quan tòng thử thệ

Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn”

(Ta cũng muốn từ đây treo mũ áo từ quan mà ra đi

Cùng ông hưởng thọ vui với đàn và rượu)

(Tặng nhân)

Rõ ràng, những suy nghĩ bàng bạc tư tưởng Lão Trang như trên đã nói lên một điều

rằng: dẫu phải sống trong một xã hội tăm tối nhưng tâm hồn Nguyễn Du vẫn luôn hướng về

(Tống nhân)

cõi thanh cao, vẫn ước mơ có một môi trường trong sạch để di dưỡng cái thiên lương đẹp đẽ

của mình, niềm khát khao ánh sáng, khát khao đạo đức đó nơi nhà thơ quả là một nhân cách

sống cao khiết tuyệt vời.

Chỉ có điều, Nguyễn Du chán ghét cảnh quan trường và mong muốn cuộc sống ẩn dật

đến thế, vậy tại sao ông vẫn không thể có được một hành động dứt khoát hơn? Trả lời cho

vấn đề này quả thật không đơn giản.

Lý do mà Nguyễn Du ra làm quan với Gia Long, nhiều người đồng tình với ý kiến của

Hoài Thanh: “Nguyễn Du thật thà đi theo nhà Nguyễn. Ông làm quan đến chức tham tri và

hai lần được làm chánh sứ. Không phải vô cớ mà nhà Nguyễn tin dùng ông đến thế” [Tâm

tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán,14. tr 34]. Chưa hết, cuộc sống quan trường bị

chèn ép đến nỗi “khi gặp việc bọn đầy tớ lính hầu đều lên mặt với ta” (Ngẫu đắc), thế nhưng

vẫn phải nhẫn nhịn chẳng qua vì đó là cần câu cơm “Đầu bạc chỉ mãi lo chuyện cơm áo” (Dạ

tọa). Đó có thể cũng là một lý do, thời đại Nguyễn Du, cùng với sự trỗi dậy của ý thức cá

nhân, nhu cầu bản thân cũng được chú ý. Đã đến lúc người ta không thể thản nhiên mà tự

trào về cái nghèo của mình như thời Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm được nữa. Nguyễn

Du ngoài nuôi sống bản thân còn có trách nhiệm với một gia đình mười miệng ăn ở quê mà

vào những năm mất mùa đứa con nào cũng “mặt đói xanh như rau”, nếu Nguyễn Du không

san sẻ liệu hình tượng của ông còn đẹp? Vả lại có tấm lòng biết yêu thương người thân mình

mới cảm thông và chia sẻ được với cái nghèo cái đói của nhân dân.

Hơn nữa, sống giữa một thời đại quay cuồng trong bão táp chính trị như xã hội Việt

Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, hầu hết tầng lớp trí thức đều rơi vào bế tắc trong cách

chọn đường. Thế nên, ra làm quan để phải sống trong dằn vặt như Nguyễn Du cũng chính là

Song có lẽ, cái lý do cơ bản nhất níu giữ Nguyễn Du ở lại với cuộc đời chính là vì tấm

lòng nặng tình đời của ông. Nỗi thương người, đau đời của Tố Như cũng như cái cuống sen

“dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng” không thể nào dứt ra được. Vì thế, dẫu có mơ ước đến

một cuộc sống ngoài cõi tục thì cũng chỉ là mơ ước thôi, Nguyễn Du không thể đi ở ẩn theo

kiểu đạo sĩ. Ông không có một trí óc say sưa với khói mây của tư tưởng siêu hình. Ở điểm

này, bài thơ xóm nhỏ trên núi Hoàng Mai có một ý rất thú vị. Cả bài thơ, Nguyễn Du say

sưa ca ngợi cảnh sống yên vui, giản dị của cư dân trong xóm núi và không giấu lòng thèm

muốn một cuộc sống như vậy. Thế nhưng khi kết thúc tác giả lại viết: “Nếu hoa tùng, hạt

bách mà có thể ăn được; Khi đầu bạc không về đây thì về đâu?”. Trước đây, những tư tưởng

biểu hiện của sự bế tắc đó.

siêu thoát cũng thường được Nguyễn Du gửi vào hai câu kết như thế, nhưng ở tác phẩm này

dường như ngược lại. Tại sao đã đi ở ẩn còn nghĩ đến chuyện áo cơm? Vậy là dù trong ý

nghĩ, Nguyễn Du cũng rất hiện thực và không quên hẳn được mặt cơ bản của vấn đề. Phải

chăng vì cuộc đời thi nhân đã từng trải qua đói rét và ngoài cuộc đời kia, người người cũng

lại đang rên xiết vì rách áo, thiếu cơm, nên cái ăn, cái mặc đã trở thành một nỗi ám ảnh trong

ông?

Phải cảm ơn lắm cái gió bụi mười năm kia trong cái buổi đất trời xáo trộn bấy giờ đã

làm cho Nguyễn Du trở thành nghệ sĩ và giữ nhà nghệ sĩ ở lại với cuộc đời. “Bởi vì nếu

những phức tạp bộn bề của hiện thực xã hội ấy chỉ được ghi lại giản đơn như một cây kim

phong vũ kế với một nét vạch là cuộc đời tang thương, cuộc đời như giấc mộng, đáng chán,

đáng trốn, thì bao nhiêu thơ văn của Nguyễn Du nhiều lắm cũng có được chút giá trị làm

chứng cho một căn bệnh thời đại chứ làm gì có được Nguyễn Du vĩ đại như đã có. Sự lớn lao

là ở chỗ người trí thức của thời đại ấy đã thể hiện một cái nhìn hiện thực vô cùng sâu sắc về

cuộc đời, về “những điều trông thấy”, đã đứng về phía những con người bất hạnh bị cuộc đời

bể dâu vùi dập, những người lao động khổ nhục đói rét, những con người tài hoa trung nghĩa

bị đọa đày, giết chóc, những người anh hùng thất bại, những người phụ nữ khốn khổ vì thân

phận phụ nữ... để mà thương, mà khổ, mà đay nghiến, phẫn uất, mà vạch tội, mà kêu to lên

cho tới tận nghìn xưa, tới tận mai sau. Trong tâm trạng Nguyễn Du, cái “đau đớn lòng , cái

đau thương vô vàn đó mới là nét cơ bản nhất” [57. tr 488]. Lý do Nguyễn Du không thể lánh

đời mà cứ trằn mình ra chịu chung nỗi đau với cuộc đời cũng là vì thế.

Ở lại giữa cuộc đời, trong đêm “trường dạ” đầy hắc ám, tuy Nguyễn Du chưa thể làm

một trái tim Đanko có thể tỏa sáng để dẫn dắt đoàn người đói khổ vượt qua rừng rậm đầy

kiến buổi suy tàn đã bít hết mọi lối ra, song điều đáng quý là dẫu phải sống trong trường bể

dâu đầy rẫy tội ác và thói xấu, Nguyễn Du vẫn tin vào bản tâm trong sáng của mình, vẫn cố

gắng bước đi đàng hoàng trong bóng đêm lịch sử mà không để cho nó xâm nhập vào mình.

Trước đó, Nguyễn Du có nói đến chuyện vì làm quan mà con người đánh mất khuôn

mặt thật của mình, nhưng dẫu có phải thay đổi để tránh phiền lụy cho bản thân, thì viên ngọc

vẫn cứ là viên ngọc, cái thiên tính tốt đẹp đó chỉ buộc phải che giấu chứ không hề bị mất đi.

“Nhiều lần ông nói đến cái chân hạc: Tính mình đã trót như cặp chân hạc cao lêu khêu,

chẳng lẽ lại chặt đi để cho nó ngắn như chân vịt hợp với khẩu vị mọi người ? Mình sinh ra

không có thói ruồi nhặng làm sao mà sống cùng tổ với mối ? Ông lo lắng nhiều nhất là làm

chết chóc đến bờ biển lúc bình minh lên, điều đó cũng dễ hiểu, giới hạn của ý thức hệ phong

sao giữ được tấm lòng không gợn đó. “Ở ẩn” quê nhà thì mở cửa ra là núi xanh trước mặt,

trăng sáng như tâm hồn mình, đầm trong như tâm hồn mình, vô luận cảnh ngộ nào cũng

không để cho bụi bặm làm mờ tính thiêng trời sinh” [59. tr487].

Và phải chăng do luôn chú ý giữ “tâm” nên Nguyễn Du đôi khi cũng đã chạm vào đất

Phật. Trong bài “Đạo ý ”, ông tự ví mình như vầng trăng nơi đáy giếng, có xao động thoáng

qua rồi cũng sẽ trở lại bình thường:

“Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh

Tỉnh thủy vô ba đào

Bất bị nhân khiên xỉ (xả)

Thử tâm chung bất dao

Túng bị nhân khiên xỉ (xả)

Nhất dao hoàn phục chỉ

Trạm trạm nhất phiến tâm

Minh nguyệt cổ tỉnh thủy”

(Trăng sáng soi giếng xưa

Nước giếng không nổi sóng

Không bị người khuấy động

Lòng này rốt cuộc chẳng lung lay

Nếu bị người khuấy động

Lay rồi lại lặng yên

Một tấm lòng thanh trong

Như trăng sáng chiếu giếng xưa)

Giếng khơi thi nước rất sâu, khó ai có thể làm nó bị khuấy động, cứ luôn yên ả, lặng

tờ. Nếu giả như người múc nước có khiến nước bị xao động thì chỉ trong giây lát thôi, vì

giếng vốn tròn nên rồi sẽ trở lại như xưa, lặng yên mới là trạng thái cố hữu của nó. Cũng như

tấm lòng trong sáng của thi nhân, dẫu sống trong hoàn cảnh nào vẫn giữ vẹn thiên lương

không thể để cho ai làm vẩn đục. Tấm lòng đó bao giờ cũng vằng vặc như mặt trăng soi đáy

giếng xưa, nghìn năm vẫn thế dẫu cuộc đời có thăng trầm, thay đổi.

Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn trước mắt, Nguyễn Du không quay lưng lại với nó, vẫn mở

lòng đón nhận tất cả nhưng tâm hồn thì như gương trong sàng lọc mọi biến động để đạt đến

chân như:

(Đạo ý)

“Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự

Tứ thời tâm kính tự như như”

(Hoa nở lá rơi đầy trước mắt

Bốn mùa tâm kính vẫn như như)

(Tạp thi, bài 2)

Bốn mùa nằm trong hoa nở lá rơi, đó là điệu luân vũ của thời gian, hiển hiện trước tấm

gương trong trẻo của tâm hồn thi nhân. Tâm hồn đó vừa chứa muôn cái xao động vừa vượt

lên mọi thứ xao động để đạt đến chân như. Bản lĩnh và khí tiết kẻ sĩ trong việc tu thân,

dưỡng tâm chính là chỗ đó.

Trên “đường quan muôn dặm nhiều gió bụi”, Nguyễn Du không lo vì cuộc sống gian

khổ mà chỉ lo giữ sao cho tâm hồn trong sạch:

“Bất sầu cửu lộ triêu y duệ

Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần”

(Không buồn sương đêm thấm ướt vạt áo

Hãy mừng là mày râu không nhuốm bụi)

(Dạ hành)

Thế nên dẫu đi trọn cuộc đời trong “dặm hồng bụi cuốn”, chân tâm vẹn nguyên vẫn có

thể ngẩng cao đầu đối diện với cõi thanh cao:

“Thăng hữu nhàn tâm vô quái ngại

Bất phương chung nhật đối phù âu”

(Chỉ còn một tấm lòng nhàn không trở ngại

Không ngại suốt ngày đối mặt với chim âu)

Cuộc đời quá nhiều những biến cố, con đường hoạn lộ lắm chông gai, trường đời là

một “ trường gió bụi nhơ bẩn ” và Nguyễn Du là người đi trong đám hồng trần đó giữa một

bên là cả triều đình suy đồi, thối nát và một bên là nhân dân nghèo khổ nhưng lương thiện,

ông đã dũng cảm vạch mặt tội ác của giai cấp mình, đứng về phía nhân dân, học theo tiếng

hát của người trồng dâu trồng đay để giữ cho bản tâm mãi trong sạch. Điểm tựa cho nhân

cách sống cao khiết đó chính là tấm lòng say mê đạo đức bắt nguồn từ truyền thống “chết

trong còn hơn sống đục” của dân gian:

“Văn đạo dĩ ưng cam nhất tử

Dâm thư do thắng vị hoa mang”

(Hoàng Hà trở lạo)

(Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam

Ham mê sách còn hơn mải miết vì hoa)

(Điệp tử thư trung)

Tấm lòng “tử vì đạo” của con bướm là hình tượng đắt giá nói hộ niềm khát khao đạo

đức, khát khao sự trong trắng và lương thiện của Nguyễn Du. Và cũng chính điều đó đã xây

nên bức thành trì vững chắc trong tâm hồn thi nhân để chống trả lại những thói đời xấu xa,

nhơ đục trong xã hội hiện tại.

Lối sống vươn lên bất chấp hoàn cảnh để giữ mãi chân tâm trong sáng của Nguyễn Du

có thể ví với bông sen mọc giữa đầm lầy, dẫu môi trường sống của nó có hôi tanh như thế

nào thì hoa sen vẫn cứ đẹp trắng trong và tỏa hương thơm ngát. Bản lĩnh sống cao đẹp đó tự

nó đã là một tuyệt tác giàu chất nhân văn nhất trong tổng thể về con người, cuộc đời và sự

nghiệp của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Có thể nói, thái độ ứng xử trước thời thế để bảo toàn khí tiết kẻ sĩ là một chiều kích

quan trọng để đo nhân cách của nhà nho. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du

đều là những mẫu hình nhà nho chân chính, trước hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thời đại mình,

họ đều có những cách ửng xử phù hợp nhất khả dĩ đáp ứng được nhu cầu tinh thần.

Đương nhiên, khác thời đại nên cách ứng xử của họ không hoàn toàn giống nhau, điều

này ít nhiều có liên quan đến quá trình chuyển biến về ứng xử chính trị của trí thức Việt Nam

suốt chiều dài lịch sử phong kiến.

Thời của Nguyễn Trãi, trước nhu cầu cấp thiết là phải bảo vệ dân tộc trước sự xâm

lược của ngoại bang đã đặt giới trí thức vào cái thế gắn mình vào với chính quyền, coi triều

thống nhất đất nước đã làm nảy sinh quan niệm chỉ chấp nhận một vương triều chính thống

duy nhất, một quan niệm có ít nhiều hạn chế trong giới trí thức. Nói chung đây là thời đại mà

mọi suy nghĩ, hành động chính trị của giới trí thức đều bị hút về tâm – vua và đất nước, họ

hầu như chưa có sự độc lập trong tư tưởng chính trị.

Thực tế ý thức trên đã chi phối cách ứng xử của Nguyễn Trãi, đó là dù trong hoàn

cảnh nào, được trọng dụng hay không thì Nguyễn Trãi vẫn một lòng một dạ phục vụ vương

triều; dẫu có lúc bất đắc dĩ ông phải cáo quan về ở ẩn thì đó cũng không phải là lẽ sống của

ông mà vẫn luôn chờ cơ hội để lại ra cống hiến, bằng chứng là khi vua Lê Thái Tông vời ra

giúp nước ông đã vô cùng hăm hở và còn làm biểu tạ ơn. Sống ở triều đình không phải

đình là biểu trưng lý tưởng của độc lập dân tộc. Vì thế, tư tưởng thống nhất vương triều là để

Nguyễn Trãi không nhận ra những bất cập bắt đầu xuất hiện trong nội bộ giai cấp, và lẽ dĩ

nhiên nhân cách của ông không chấp nhận điều đó, thế nên vấn đề lựa chọn “hành” hay

“tàng” bắt đầu trở thành một niềm day dứt, nhưng cuối cùng “hành” vẫn chiến thắng vì “nợ

quân thân” trong ông là một thành trì không thể lung lay dẫu thời cuộc có thay đổi. Song

quan trọng là Ức Trai nhập thế để thực hành lý tưởng, nhưng tâm hồn thì vẫn hướng về cõi

thanh cao, ông đã sống theo tinh thần “đại ẩn” một cách đầy bản lĩnh để giữ khí tiết của

mình. Cũng chính vì thế, bị đẩy tới thảm họa Lệ Chi Viên là bi kịch đau đớn nhất của cuộc

đời Nguyễn Trãi mà cũng là bi kịch đau đớn nhất của lịch sử. Nhưng từ tấn bi kịch đau

thương này lại ngời sáng lên nhân cách của một người trí thức tận tụy, kiên trung và quá

trong sáng giữa một xã hội đang manh nha bước vào con đường tăm tối.

Sang Nguyễn Bỉnh Khiêm, do tình hình chính trị đầy biến động, “những xáo trộn

trong đất nước sau vụ đảo chính của Mạc Đăng Dung đã kéo tầng lớp nho sĩ ra khỏi giấc mơ

bình an ý thức hệ, khi cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đặt ra

trước họ nhiều vấn đề mới về tương lai đất nước và vận mệnh dân tộc, những vấn đề thách

thức tài năng của họ đồng thời đặt toàn bộ tri thức cũng như đạo đức chính trị của họ vào

một khảo nghiệm lịch sử có thêm những tiêu chuẩn mới của một chủ nghĩa nhân văn. Sự

chuyển biến trong ứng xử chính trị của trí thức thời Nguyễn Bỉnh Khiêm vì vậy cần được

nhìn nhận trong hoàn cảnh và theo chiều hướng ấy” [1; tr185]. Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm

quan với nhà Mạc, nhưng triều đình không thể là phương tiện để thực hành việc nghĩa, ông

quay về mà không mấy day dứt như Nguyễn Trãi vì ông vẫn tìm thấy một cách khác để làm

việc đó phù hợp với hoàn cảnh hơn. Trở về quê, Bạch Vân cư sĩ sống cuộc sống nhàn dật

mang đậm màu sắc “minh triết bảo thân” mà vẫn không quay lưng lại với cuộc đời; ứng xử

không làm ảnh hưởng đến nhân cách kẻ sĩ. Có thể nói, lối ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm

thể hiện sự độc lập nhất định trong tư tưởng chính trị mà thời Nguyễn Trãi chưa xuất hiện,

hoặc giả có xuất hiện nhưng đã bị thực tế lịch sử làm cho khuất lấp. Đó cũng là cách ứng xử

của con người đang thoát dần khỏi tư duy trực cảm sang tư duy duy lý trước cuộc đời, đồng

thời làm toát lên phẩm chất thanh cao và trí tuệ nhạy bén của người thầy Tuyết Giang.

Đến Nguyễn Du, chế độ phong kiến đứng trước một thực trạng đen tối đến mức giới

trí thức đều bị rơi vào thế hoàn toàn bế tắc, Nguyễn Du cũng không ngoại lệ. Mô hình xã hội

Nghiêu Thuấn đã hoàn toàn biến mất trong ý nghĩ của nhà nho, cách ứng xử đầy nhân văn

bây giờ không phải là “hành” hay “tàng” nữa mà là có đứng về phía nhân dân lao động hay

khôn khéo với cả ba tập đoàn phong kiến cùng tồn tại trong xã hội thời bấy giờ mà vẫn

không vì việc đứng về phía nhân dân cũng đồng nghĩa với việc không mang bản chất xấu xa

của giai cấp phong kiến. Giữa trí thức và triều đình bây giờ đang xuất hiện một lực li tâm

ngày càng lớn, đồng loạt các nhà nho có tâm huyết đều lên tiếng bênh vực những con người

bị chà đạp trong xã hội tàn bạo trong đó dành ưu ái rất nhiều cho người phụ nữ, tuy nhiên để

làm nên một cuộc cách mạng thì giới trí thức vẫn chưa đủ lực vì họ còn đang bị bao vây

trong đám mây đen của ý thức hệ phong kiến chưa chịu chết hẳn.

Trong hoàn cảnh đó không thể trách Nguyễn Du chưa có một hành động dứt khoát

hơn, ông vẫn đứng trong hàng ngũ giai cấp phong kiến, nhưng thái độ của ông lại nghiêng

xuống nhân dân lao động đói khổ, ông can đảm làm một “nghịch tử” của giai cấp mình để

trở thành người cùng hội cùng thuyền với bao kiếp người bị chà đạp.

Chưa chọn được một con đường nào tươi sáng hơn, Nguyễn Du đau khổ sống chung

với bóng tối nhưng ông vẫn không để cho thói xấu làm vẩn đục đến thiên lương trong sáng

của mình, đó chính là cách ứng xử nhân văn nhất mà một người ở trong hoàn cảnh của ông

có thể làm.

Nói tóm lại, cách ứng xử trước thời thế để bảo vệ nhân cách kẻ sĩ của những nhà nho

chân chính thời trung đại đã là một truyền thống, truyền thống đó cũng có những tiếp biến để

phù hợp với tiến trình lịch sử của dân tộc, song dù có biến chuyển như thế nào thì cách ứng

xử của họ bao giờ cũng rất nhân văn.

KẾT LUẬN

Không thể gọi là thừa nếu tại đây, thêm một lần nữa khẳng định rằng: Nguyễn Trãi,

Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du là ba đỉnh cao vời vợi, ba cây đại thụ tỏa bóng mát suốt

cả chiều dài lịch sử văn học trung đại Việt Nam.

Vì khoảng cách thời gian và sự khắc nghiệt của quy luật tạo hóa, con cháu đời sau đã

không còn được tiếp kiến với tiền nhân. May mắn sao khoảng trống ấy vẫn có thể lấp đầy

bằng những vần thơ chứa chan tình cảm mà họ gửi lại cho đời. Nhà thơ Hàn Mặc Tử từng

nói “ Người thơ phong vận như thơ ấy”. Thật vậy, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và

Nguyễn Du cũng đã để lại dấu ấn cá nhân mình rất rõ nét qua thơ, trong đó có vẻ đẹp của con

người nhân văn. Thế nên đọc thơ họ, chúng ta như được thấy cả một thế giới tâm hồn các

nhà thơ đang hiển hiện. Được ngưỡng vọng trước những nhân cách đẹp đẽ như hoa mai, sáng

trong như tuyết trên đỉnh núi. Được nghiêng mình trước những con người một đời vì nước vì

dân, trân quý và nâng niu đến cả loài hoa cỏ, tha thiết yêu thương con người như tình mẹ

thương con.

Vẻ đẹp của con người nhân văn được phô diễn ra trong các mối quan hệ với xã hội,

thiên nhiên và chính bản thân mình. Xét trong mối quan hệ với xã hội cả ba nhà thơ lớn –

Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du đều thể hiện tinh thần tự nguyện gánh vác

trách nhiệm cao cả trước cuộc đời, đó là tấm lòng tận tụy, một đời lo nước thương dân, cống

hiến hết mình trong mọi hoàn cảnh để mong trở thành người có ích cho đất nước trong thơ

Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm hay tấm lòng đau đời thương đời trong thơ Nguyễn Du.

Trong mối quan hệ với thiên nhiên, cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn

thiên nhiên hiện lên bao giờ cũng chan chứa tình cảm, sống động và rất có hồn, bộc lộ không

chỉ tình yêu đơn thuần dành cho cảnh mà còn là sự nâng niu, trân trọng và cả hàm ơn đối với

người bạn đã luôn lắng nghe tâm sự của mình. Có thể nói, thiên nhiên là tấm gương trong

phản chiếu chân thực nhất thế giới tâm hồn của họ, một tâm hồn phong phú luôn đầy ắp

những niềm vui giản dị và những đau đớn tột cùng, những suy tư trĩu nặng và những lo lắng

khôn nguôi trước vận mệnh của nước của dân.

Trong mối quan hệ với chính mình, trước những hoàn cảnh lịch sử cụ thể cả ba đại

diện lớn của giới trí thức và giới nghệ sĩ thời trung đại đều có những thái độ ứng xử phù hợp

nhất và cũng cao đẹp nhất để bảo toàn danh tiết kẻ sĩ và nhân cách nghệ sĩ của mình.

Du đều xem đó là môi trường để di dưỡng tinh thần, để bộc lộ tâm trạng. Vì thế, trong thơ,

Có thể nói, với tư cách là những con người “đứng trong trời đất” họ đã sống và hành

động một cách đầy trách nhiệm và ý nghĩa đối với bản thân và cuộc đời. Cả ba nhà thơ lớn

được khảo sát đều là những mẫu hình nhân cách nhà nho – nghệ sĩ tỏa sáng chất nhân văn.

Họ đẹp cả trong niềm vui đắc chí lẫn trong nỗi đau thất chí, bởi tất cả những biểu hiện đó

đều không mảy may vì bản thân họ mà là vì con người và cuộc đời.

Phật giáo quan niệm cuộc đời là vô thường kể cả cái tâm của con người. Vì thế theo

thời gian cùng với những biến suy của lịch sử, con người nhân văn biểu hiện trong thơ của

Nguyễn Trãi qua Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Nguyễn Du cũng có những đổi thay. Đó là sự vận

động và phát triển từ vẻ đẹp của con người hành động sang con người tư tưởng, từ con người

trách nhiệm sang con người đời thường, từ con người cộng đồng sang con người tự ý thức về

thân phận cá nhân mình và những người xung quanh.

Tuy nhiên, dù vẻ đẹp của con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại có

những thay đổi qua từng giai đoạn, song trên cái nhìn tổng quan, đó chỉ là những biểu hiện

khác nhau của một nhân cách cố định – nhân cách con người Việt Nam.

Bản chất nhân văn của con người Việt Nam là bất biến, chỉ biểu hiện của nó là thường

biến, vì thế trong xã hội hiện đại của chúng ta bản chất nhân văn vẫn cứ còn, song có lẽ vì

hoàn cảnh xã hội thay đổi, con người phải đối mặt với vô vàn những lo toan vật chất và vô số

những áp lực trước cuộc sống nên đã làm cho biểu hiện của chất nhân văn trong con người

có ít nhiều thay đổi so với truyền thống chăng?

Nếu quả như thế thì việc khơi lại những giá trị nhân văn đẹp đẽ trong đời sống văn hóa

của các thế hệ cha ông với những đại diện như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và

Nguyễn Du thật sự có một ý nghĩa giáo dục vô cùng to lớn. Nó mang đến cho con người

lại mình và cũng là giữ cho mình không bị trượt dài trên cái dốc từ “sống” xuống “tồn tại”.

Tìm hiểu con người nhân văn trong tiến trình văn học trung đại qua ba nhà thơ lớn

Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du thật sự là một vấn đề không hề đơn giản,

bởi họ không chỉ là ba cây đại thụ của văn học trung đại mà còn là ba danh nhân văn hóa của

dân tộc và nhân loại. Nhân cách của ba nhà thơ đã trở thành những giá trị văn hóa mẫu mực

mà hậu thế khó có thể luận bàn một cách thật đầy đủ và thấu đáo. Dẫu ý thức được điều này,

song người viết vì tấm lòng yêu mến, ngưỡng vọng dành cho các nhà thơ và nhà văn hóa của

dân tộc cũng đã mạo muội thể hiện những suy nghĩ bước đầu về vấn đề nói trên, chắc chắn

những hạn chế về kiến thức dẫn đến sự bất cập là điều không tránh khỏi. Người viết mong

những phút giây tĩnh lặng trong cuộc chạy đua trường kì mệt mỏi với cuộc mưu sinh để soi

nhận được sự góp ý chỉ giáo của các bậc cao minh và hy vọng sẽ có điều kiện tiếp tục nghiên

cứu sâu hơn về vấn đề giàu ý nghĩa này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Sách:

1. Viện Khoa học xã hôi – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (2000), Nguyễn Bỉnh Khiêm

trong lịch sử phát triển dân tộc, Nxb Đà Nẵng.

2. Viện Văn học (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học 1960 – 1999, Tập 2, Văn

học cổ – cận đại Việt Nam, Nxb TP. HCM.

3. Viện Văn học, Ủy ban khoa học nhà nước (1963), Mấy vấn đề về sự nghiệp thơ văn

Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất, Nxb Khoa học xã hội.

4. Viện Văn học, Hội đồng lịch sử Hải Phòng (1991), Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Kỉ yếu hội nghị khoa học nhân 400 năm mất, Nxb Hội đồng lịch sử Hải Phòng.

5. Viện Văn học (1967), kỉ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1965) , Nxb

Khoa học xã hội.

6. Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Văn học (2005), Văn học trung đại Việt Nam

quan niệm con người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội.

7. Viện Văn học – Trần Thị Băng Thanh (1999), Những nghĩ suy từ văn học trung đại,

Nxb Khoa học xã hội.

8. Bộ sách phê bình và bình luận văn học (2006), Tác giả trong nhà trường – Nguyễn

Trãi, Nxb Văn học.

9. Sở Văn hóa thông tin Hà Nội (1980), Nguyễn Trãi – Thăng Long – Hà Nội, Nxb Hội

văn nghệ - Sở VHTT Hà Nội.

10. Nguyễn Huệ Chi (1983), Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam (Thời kì cổ cận đại), Nxb Tác

11. Hà Như Chi (2000), Việt Nam thi văn giảng luận, Nxb Văn hóa thông tin.

12. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào Dân tộc – Nguyễn Trãi – Nguyễn Du – Hồ Xuân

Hương, Nxb Thanh niên.

13. Phạm Văn Đồng, Giang Nam, Lê Trí Viễn (1980), 600 năm Nguyễn Trãi – Thơ, văn,

Nxb Tác phẩm mới.

14. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu, 1998), Nguyễn

Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục.

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội.

phẩm mới – Hội nhà văn Việt Nam.

16. Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong (1997), Lê Thánh Tông – Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn

nghệ TP. HCM.

17. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb ĐHQG Hà Nội.

18. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và Văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo

Dục.

19. Đinh Gia Khánh(Chủ biên)(1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, Hà

Nội.

20. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1998), Văn học Việt Nam thế (kỉ X

– nửa đầu thế kỉ XVIII). Nxb Giáo Dục.

21. Đỗ Nguyên Khoa (1980), Nguyễn Trãi một tiêu biểu rất đẹp của thiên tài Việt Nam:

Kỉ niệm lần thứ 600 năm sinh Nguyễn Trãi, Nxb Ty văn hóa và thông tin Hà Sơn

Bình.

22. Nguyễn Đức Khuông (Tuyển chọn và giới thiệu, 2005), Tác gia, tác phẩm văn học

Việt Nam trong con mắt người nước ngoài, NXB ĐHSP.

23. Nguyễn Khuê (1997), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập, Nxb TP. HCM.

24. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam ( Nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX), Nxb

Giáo Dục.

25. Phong Lê (1994), Văn học trong hành trình tinh thần của con người, Nxb Lao động.

26. Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến (1996), Nguyễn

Du toàn tập, Nxb Văn học – Trung tâm nghiên cứu Quốc học.

27. Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khuê, Kiều Thu Hoạch(?), Nguyễn

Trãi toàn tập tân biên, Tập 1,2,3, Nxb Văn học – Trung tâm nghiên cứu Quốc học.

29. Trường Lưu (1999), Văn học trong hành trình văn hóa, Viện văn hóa và Nxb Văn hóa

thông tin.

30. Lê Nguyễn Lưu (1999), Nguồn suối nho học và thơ ca Bạch Vân cư sĩ, Nxb Thuận

Hóa.

31. Phượng Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm Văn học, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

32. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo

Dục.

33. Bùi Văn Nguyên (1980), Nguyễn Trãi, Nxb Văn hóa Hà Nội.

28. Trần Huy Liệu (2000), Nguyễn Trãi cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn hóa thông tin.

34. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du – Người tình và Nguyễn Du – Tình người, Nxb

Mũi Cà Mau.

35. Huỳnh Như Phương (Sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu,2006), Lê Đình Kị tuyển tập,

Nxb Giáo Dục.

36. Phạm Đan Quế (1992), Giai thoại và sấm kí Trạng Trình, Nxb Văn nghệ TP. HCM.

37. Vũ Tiến Quỳnh (biên soạn, 1995), Phê bình bình luận văn học – Nguyễn Trãi, Nxb

Văn nghệ TP. HCM.

38. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển Chọn, 1991), Phê bình bình luận văn học – Nguyễn Bỉnh

Khiêm, Chu Mạnh Trinh, Phan Bội Châu, Nxb Tổng hợp Khánh Hòa.

39. Nguyễn Hữu Sơn (Tuyển chọn và giới thiệu, 1999), Nguyễn Trãi về tác gia và tác

phẩm, Nxb Giáo Dục.

40. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý thế sự, Nxb Trẻ - Hội

nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.

41. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du – Từ thơ chữ Hán đến kiệt tác Truyện

Kiều, Nxb Trẻ - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.

42. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn,

Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb

Giáo Dục.

43. Trần Đình sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

44. Trần Đình Sử (1997), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo Dục.

45. Trần Đình Sử, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn

học bộ mới, Nxb Thế giới.

Nam – tập 1, Nxb Giáo Dục.

47. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số tác gia và tác phẩm văn học trung đại Việt

Nam – tập 2, Nxb ĐHQG Hà Nội.

48. Bùi Duy Tân (chủ biên, 1997), Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 6, Nxb Khoa học xã

hội.

49. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên, 1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới – Hội nhà

văn Việt Nam.

50. Nguyễn Đăng Tiệp (Tuyển chon, 2005), Trần Đình Sử tuyển tập, tập 2, Nxb Giáo

Dục.

46. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia và tác phẩm văn học trung đại Việt

51. Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu 2001), Nguyễn Bỉnh

Khiêm về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục.

52. Chương Thâu (tuyển chọn, 1980), Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn

Trãi, Nxb Văn học Hà Nội

53. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới gốc nhìn văn hóa, Nxb Giáo

Dục.

54. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm đường luật, Nxb Giáo Dục.

55. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn (2007), 10 thế kỉ bàn

luận về văn chương (Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XX), Nxb Giáo Dục.

56. Hoàng Trinh, Trần Khánh Thành (giới thiệu và tuyển chọn, 2004), Hà Minh Đức

tuyển tập, tập 1, Nxb Giáo Dục.

57. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung

đại, Nxb Giáo Dục.

58. Đoàn Thị Thu Vân (2001), Văn học trong nhà trường – Tiếp cận thơ văn Nguyễn Trãi,

Nxb Trẻ - Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM.

59. Lê Trí Viễn (2006), Một đời dạy văn, viết văn toàn tập, tập 2, Nxb Giáo Dục.

60. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

61. Lê Trí Viễn, Đoàn Thị Thu Vân (1994), Học tập thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Giáo Dục.

62. Trần Ngọc Vượng (1995), Loại hình học tác gia văn học nhà nho tài tử và văn học

Việt Nam, Nxb Giáo Dục.

63. Trần Ngọc Vượng (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb

64. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh niên.

65. Lê Thu Yến, Đoàn Thị Thu Vân, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu (2000), Văn học trung

đại Việt Nam những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo Dục.

II. Tạp chí

1. Đỗ Đức Dục, Tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du, Tạp chí văn học số 2, 1984.

2. Vũ Đình Liên, Nguyễn Du một tâm hồn lạc loài trong xã hội (tìm hiểu Nguyễn Du qua

thơ chữ Hán), Tạp chí văn học số 2, 1971.

ĐHQG Hà Nội.

3. Vũ Đức Phúc, Tìm hiểu tâm sự bão táp của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông, Tạp chí văn

học số 5, 1980.

4. Trần Thị Băng Thanh, Thử phân định hai mạch cảm hứng trong dòng văn học Việt

Nam mang đậm dấu ấn Phật giáo thời trung đại, Tạp chí văn học, số 4,1992.

5. Trần Nho Thìn, Bi kịch tinh thần của nhà nho Việt Nam với tính cách là một nhân vật

văn hóa (Khảo sát qua trường hợp Nguyễn Trãi), Tạp chí văn học số 7, 2001.

6. Lã Nhâm Thìn, Đặc trưng quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Trãi, Tạp

chí văn học số 5, 1980.

7. O. W. Wolters, Khách tha hương trên chính quê hương mình, thơ Nguyễn Trãi viết

trong thời kì Minh thuộc, Tạp chí văn học số 10, 2002.