
Mối quan hệ giữa thơ ca và hội
hoạ từ Trung Quốc đến Việt Nam

QUAN NIỆM VỀ SỰ TƯƠNG ĐỒNG, DỊ BIỆT GIỮA THƠ VÀ HOẠ
Người ta thường nói bài thơ này “giống như một bức tranh”, hoặc cũng có khi nói
bức tranh nọ “giống như một bài thơ”. Quan niệm “thi hoạ đồng chất” có từ rất
sớm ở phương Tây, ví dụ Simonides (556 – 468, thời La Mã cổ đại) đã nói: “hoạ
là thơ không lời, thơ là hoạ có lời” và Horace (65 – 8, nhà thơ La Mã cổ đại) cũng
từng nói: “thơ như hoạ”. Người ta hoặc quy cả hai về hoạ (đồng hình): thơ là “vô
hình hoạ”, hoạ là “hữu hình thi”; hoặc quy cả hai về thi (đồng thanh): thơ là “hữu
thanh hoạ”, hoạ là “vô thanh thi”. Như vậy từ thời xa xưa con người đã phát hiện
ra tính họa trong thơ, tính thơ trong họa và xem thơ ca – hội họa là hai loại hình
nghệ thuật gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau như chị em. Không ít nhà thơ đã
lấy cảm hứng sáng tác từ những tác phẩm hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc… Ví dụ
Victor Hugo, Gautier từng có nhiều tác phẩm lấy chủ đề từ các bức tranh. Ngược
lại, văn học cũng ảnh hưởng đến khuynh hướng thời gian của hội hoạ, như chủ
nghĩa vị lai, phái ấn tượng.
Thời nguyên thuỷ, các loại hình nghệ thuật như thơ ca, âm nhạc, hội hoạ và vũ đạo
có quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng thực ra, ở các phương Tây cũng như Trung
Quốc ban đầu địa vị của thơ ca được đánh giá cao hơn địa vị của hội hoạ. Song
dần dần hội hoạ cũng thể hiện được vai trò to lớn của mình trong đời sống của con
người và trở thành một loại hình nghệ thuật bằng đẳng với thơ ca. Ở phương Tây,
hội hoạ chính thức xác lập được vị trí của mình ở Ý vào thời Phục hưng. Cũng từ
thời kỳ này người ta bắt đầu chú ý tới mối quan hệ tương đồng và khác biệt giữa
thơ ca (văn học) và các loại hình nghệ thuật khác như hội hoạ, âm nhạc, sân
khấu…
Tại Trung Quốc, địa vị của hội hoạ cũng từng bước được khẳng định. Ban đầu, các
hoạ sĩ chỉ được xem như một kiểu nghệ nhân, thợ vẽ tranh phục vụ cho giới quý
tộc, sĩ nhân tiêu khiển. Nhưng đến thời Tống, hội hoạ đã trở thành một môn trong
khoa cử mà các sĩ tử phải vẽ một bức tranh dựa vào một bài thơ nào đó. Tuy lúc

này hội hoạ ở Trung Quốc vẫn bị xếp sau thơ ca, nhưng nó đã được đề cao, trở
thành một tiêu chuẩn để tuyển chọn nhân tài.
Quan niệm “thi hoạ đồng chất” ở Trung Quốc được xác lập từ thời Tống. Tuy
nhiên trước đó, ý tưởng so sánh giữa thi và hoạ cũng đã xuất hiện, Lục Cơ (261 -
303) thời Tấn từng nói: “truyền bá sự vật không gì bằng lời, lưu giữ hình ảnh
không gì bằng tranh” (tuyên vật mạc đại ư ngôn, tồn hình mạc thiện ư hoạ). Quan
niệm này đã cho thấy có sự phân biệt giữa thi (lời) và hoạ. Trong quyển Lịch sử
mỹ học Trung Quốc, hai học giả hiện đại là Lý Trạch Hậu và Lưu Cương Kỷ nói
thêm: “quan niệm cho rằng lưu giữ hình ảnh là đặc trưng của nghệ thuật hội hoạ,
lời là chất liệu đặc trưng của văn học, là quan niệm phân biệt thơ ca và hội hoạ
sớm nhất”. Lưu Hiệp (tk. V – VI, thời Lương) cũng từng viết trong Văn tâm điêu
long rằng: “hội sự đồ sắc, văn từ tận tình” (hội hoạ phải chú ý tới màu sắc, văn
chương phải chú ý tìm lời để diễn đạt cho hết điều muốn nói). Như vậy, về cơ bản
người Trung Quốc đã xem hội hoạ là nghệ thuật miêu tả và tái hiện hình ảnh của
sự vật, còn văn học là loại nghệ thuật biểu hiện cái “chí”, cái “tình” tức là thế giới
tinh thần, thế giới nội tâm của con người.
Quan niệm “thơ là hoạ vô hình, hoạ là thơ hữu hình” hay “thơ là hoạ hữu thanh,
hoạ là thơ vô thanh” được nhiều nhà thơ, nhà phê bình văn học Trung Quốc nhấn
mạnh. Chẳng hạn, Trương Thuấn Dân thời Bắc Tống nói: “Thi thị vô hình hoạ,
hoạ thị hữu hình thi” (Thơ là hoạ vô hình, hoạ là thơ hữu hình), Tôn Vũ Trọng thời
Tống cho rằng: “Văn giả vô hình chi hoạ, hoạ giả hữu hình chi văn, nhị giả dị tích
nhi đồng thú” (Văn là hoạ vô hình, hoạ là văn hữu hình, hai loại này tuy khác nhau
về hình thức nhưng chung lý thú), Phùng Ứng Lựu thời Thanh nói: “Thiếu Lăng
hàn mặc vô hình hoạ, Hàn Cán đan thanh bất ngữ thi” (Thơ của Đỗ Phủ là hoạ vô
hình, tranh của Hàn Cán là thơ không lời)… Bởi vậy người ta còn dùng khái niệm
“vô thanh thi” để chỉ hội hoạ (ví dụ Hoàng Đình Kiên viết “Lý hầu hữu cú bất
khẳng thổ, tiềm mặc tả tác vô thanh thi”: Lý hầu có ý không thể nói, lặng lẽ sáng

tác thơ không lời) và dùng khái niệm “hữu thanh hoạ” để chỉ thơ ca (ví dụ Chu
Phù viết “Đông Pha hí tác hữu thanh hoạ, thán tức hà nhân vị thưởng âm”: Đông
Pha sáng tác tranh có lời, khiến người nào thưởng thức cũng phải thở than). Thậm
chí Thư Nhạc Tường thời Nam Tống còn nói: “Hảo thi thậm tự vô hình hoạ” (thơ
hay thật giống bức tranh vô hình), hoạ gia nổi tiếng cuối thời Tống là Dương Công
Viễn còn đặt tên cho tập thơ của mình là “Dã thú hữu thanh hoạ”…
Sang thời hiện đại, còn có nhiều ý kiến khác nhau khi bàn về sự tương đồng và
khác biệt giữa thơ và hoạ. Trong bài Thơ Trung Quốc và hoạ Trung Quốc, học giả
hiện đại Tiền Chung Thư viết: “thơ và hoạ cùng là nghệ thuật nên cũng có tính
tương đồng; nhưng vì chúng là hai loại hình nghệ thuật khác nhau, cho nên mỗi
cái có tính đặc thù riêng. Sự tương đồng và dị biệt về tính năng và lĩnh vực của
chúng là một vấn đề lý luận quan trọng của mỹ học”. Ông cũng cho biết: trong phê
bình văn nghệ truyền thống của Trung Quốc, hội hoạ xưa được chia làm phái Nam
tông và Bắc tông, trong sáng tạo Nam tông trọng cái “hư”, còn Bắc tông trọng cái
“thực”; riêng trong thơ ca, phái tả thực được coi là chính tông, được đề cao hơn
phái thần vận (chú ý tới việc truyền thần hơn là tả cho giống thật). Hay nói cách
khác, trong văn phê bình văn nghệ truyền thống của Trung Quốc, loại thơ có
phong cách giống phong cách của hội hoạ Nam tông không được đánh giá cao,
không phải là “chính tông”. Nhưng hội hoạ có phong cách giống phong cách của
thơ ca của phái Thần vận lại được đánh giá cao, được xem là “chính tông”.
Nghệ thuật hội hoạ của bất kỳ một dân tộc nào, ban đầu cũng đi từ sự mô phỏng tự
nhiên, tả thực, rồi dần dần mới phát triển nâng cao, cách điệu lên. Ở Trung Quốc
ngay từ thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều, các hoạ sĩ đã bắt đầu thấy rằng không thể
chỉ dừng lại ở việc tả thực (hình tự), mà cần phải đổi mới, cần chú ý đến miêu tả
cái thần thái bên trong của sự vật (truyền thần). Cố Khải Chi là một họa gia lừng
danh thời này đã đề xuất chủ trương nghệ thuật “dĩ hình tả thần”. Từ đó hội hoạ
Trung Quốc đi vào một thời kỳ mới, hình tượng mà các hoạ sĩ thể hiện trong tranh

lúc này là hình tượng nghệ thuật chứ không phải là hình tượng vật lý như trước
đây. Mặc dù hình tượng nghệ thuật này vẫn dựa trên cơ sở hiện thực, nhưng có sự
tham gia tích cực của trí tưởng tượng từ người sáng tạo. Chính điều này đã đặt nền
tảng cho phương pháp sáng tác kết hợp giữa hiện thực chủ nghĩa và lãng mạn chủ
nghĩa trong hội hoạ truyền thống Trung Quốc. Đặc trưng của phương pháp sáng
tác kết hợp giữa hiện thực chủ nghĩa và lãng mạn chủ nghĩa trong hội hoạ Trung
Quốc là “tả ý”. Mà ý là thứ trừu tượng mơ hồ, chỉ có thể hiểu, chỉ có thể cảm, chứ
khó có thể nói hết bằng lời. Từ thời Đường về sau, các hoạ sĩ quan tâm nhiều đến
việc lập ý, tả ý, điều này có quan hệ mật thiết với thơ ca. Thơ Vương Duy được
xem là sự kết hợp điển hình cho mối quan hệ giữa thơ và hoạ, giữa cảnh và ý, giữa
hình và thần, cho nên Tô Đông Pha mới bình rằng “thi trung hữu hoạ, hoạ trung
hữu thi” (trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ). Ví dụ bài Điểu minh giản sau:
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh tại giản trung.
(Người nhàn hoa quế rụng/ Đêm xuân núi vắng không/ Trăng lên chim núi sợ/
Tiếng vang vọng khe thung)
SỰ KẾT HỢP, GIAO DUNG GIỮA THƠ VÀ HOẠ
Trong quá trình phát triển, thi và hoạ tiếp xúc, dung hợp với nhau trên một số
phương diện. Thơ ca cũng có tác dụng miêu tả, tái hiện như hội hoạ, mà hội hoạ
cũng có tác dụng biểu hiện như thơ ca. Mỗi loại hình nghệ thuật đều có những ưu
và khuyết điểm khác nhau, thơ mạnh về biểu hiện thế giới nội tâm, hoạ mạnh về
tính hình ảnh. Từ xa xưa, người Trung Quốc đã biết kết hợp giữa thơ và hoạ, sáng

